Trung thành với tình yêu Chúa sẽ làm cuộc sống của chúng ta được tràn đầy

Trung thành với tình yêu Chúa sẽ làm cuộc sống của chúng ta được tràn đầy

Gibuti – Maria Josè Alexander là một thiếu nữ công giáo người Mêhicô, luôn quan tâm đến những người và các dân tộc nghèo khổ và dễ tổn thương nhất. Sau khi đã tham gia cộng tác trong các hoạt động nhân đạo khác nhau, giữa Mêhicô, Colombia và Libano, hiện tại cô là giám đốc Caritas Somalia.  Alexander chia sẻ vỡi hãng tin Fides: “Tình yêu Chúa đã đưa tôi đến những miền bị mất mát và nguy hiểm nhất trên thế giới, trong khi củng cố ước mơ của tôi bằng việc cộng tác trong Giáo hội.”

Alexander sinh tại Guadalajara; cô theo học về các cộng đoàn thiểu số ở Mêhicô và tham gia vào một số tổ chức phi chính phủ và một số dự án nghiên cứu độc lập. Sau khi học về phát triển quốc tế, cô đến Colombia làm việc giữa các nhóm dân thiểu số Misak. Sau đó cô sang Libano và tham gia hoạt động trong trại tị nạn Shatila, trong bối cảnh hoàn toàn Hồi giáo, đầu tiên như một tình nguyện viên và giáo viên dạy tiếng Anh cho các phụ nữ di cư và sau đó cho chương trình thăng tiến phụ nữ.

Alexander đến Somalia vào tháng 8/2017 để tham dự một cuộc phỏng vấn hợp tác ở Somaliland, nhưng cuối cùng cô kết thúc ở Djibouti, nơi cô chịu trách nhiệm điều phối các dự án mà Caritas mang đến cho Somalia. Các dự án này chủ yếu lo đến vấn đề giáo dục và trợ giúp nhân đạo khẩn cấp. Ở Somalia chúng tôi đang có dự án về tài trợ giáo dục cho 40 trẻ em sống trong các trại dành cho người di tản nội địa. Chúng tôi tìm cách giúp các em tiếp tục việc học  và những thứ các em cần để sống đúng phẩm giá. Ở miền nam, ở Baidoa, chúng tôi đã xây một ngôi trường trong một trại tị nạn, nơi 50 trẻ em nữ và 50 trẻ em nam được học hành và nuôi nấng.”

Alexander cũng chia sẻ: “Djibouti  là một nơi rất khó khăn để sống: nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc trở về nhà, nhưng rồi tôi tín thác vào Chúa. Thiên Chúa trung thành và như thế tôi tin chắc rằng vững lòng trung thành với tình yêu của Người sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta được tràn đầy. Như thế, trong những giờ phút tuyệt vọng và lo lắng hay khi có cám dỗ chọn con đường dễ dàng hơn, cần nhớ Thiên Chúa trung thành như thế nào và tình yêu của Người lớn lao dường bao. Tôi cảm thấy được Chúa chúc phúc mỗi ngày. (Agenzia Fides 16/3/2018)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Đức Thánh Cha gửi lời Chúc Tết đến các gia đình

Vatican. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa nhật 11.02.2018, Đức Thánh Cha Phanxico đã gửi lời Chúc Tết đến các gia đình thuộc thuộc miền Viễn Đông và tại nhiều nơi trên thế giới đang chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Ngày 15 tháng hai sắp tới, tại vùng Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu triệu người sẽ ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tôi xin gửi lời chào trân trọng tới tất cả các gia đình. Tôi cầu chúc mọi người luôn sống đoàn kết, giàu tình huynh đệ và đầy những ước mơ tốt đẹp, để góp phần xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người được đón nhận, được bảo vệ, được thăng tiến và được hội nhập. Tôi xin gửi tới mọi người lời cầu nguyện cho hòa bình, vì hòa bình là món quà, là kho tàng quý giá cần luôn được theo đuổi với lòng từ bi, khôn ngoan và can đảm. Tôi đồng hành với quý vị và cầu chúc phúc lành cho quý vị.

Tứ Quyết, SJ

Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!

Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!

 

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 11.02.2018, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về việc Chúa Giê-su chạnh lòng thương và chữa lành người bị bệnh phong. Sau khi đọc kinh, Đức Thánh Cha đã gửi lời Chúc Tết Nguyên Đán đến các gia đình. 

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Bài Tin Mừng Chúa nhật theo thánh Mác-cô kể cho chúng ta việc Chúa Giê-su chữa lành người bệnh phong. Hôm nay cũng là ngày Quốc tế các bệnh nhân 11-02 và kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Vì thế, chúng ta cùng nhìn về hang đá nơi Đức Mẹ đã hiện ra, cùng chiêm ngắm Chúa Giê-su, Đấng là thầy thuốc đích thực, chữa lành cả thân thể và linh hồn, Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến thế gian để chữa lành cho nhân loại, để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và khỏi những hậu quả của tội.

Bài Tin Mừng (Mc 1,40-45) kể về việc Chúa chữa lành một người bị bệnh phong. Bệnh phong cùi là loại bệnh được Cựu Ước xem là một sự ô uế nặng nề, và người bệnh cần phải tách khỏi cộng đồng. Như thế, người mắc bệnh phong phải sống một mình. Tình trạng của người bị bệnh phong thực sự đau khổ cùng cực, vì não trạng thời ấy cho rằng, người mắc bệnh phong không chỉ là hạng ô uế trước mặt người đời, mà họ còn bị coi là kẻ ô uế trước mặt Thiên Chúa nữa. Do đó, người mắc bệnh phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã nài xin Chúa Giê-su với những lời như sau: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch!”.

Nghe lời ấy, Chúa chạnh lòng thương. Thật là quan trọng để chú tâm đến những chuyển động nội tâm của Chúa Giê-su, điều mà chúng ta đã cảm đã thấy trong Năm thánh Lòng thương xót. Sẽ không thể hiểu được hành động của Chúa, sẽ không thể hiểu được chính Chúa, nếu chúng ta không đi vào những chuyển động nội tâm của cái chạnh lòng thương, của lòng thương xót Chúa. Con tim chạnh lòng thương đã thúc đẩy Chúa đến gần người bệnh, chạm vào anh và nói với anh: “Ta muốn, anh hãy được sạch!”. Điều đáng lo ngại nhất ở đây là Chúa chạm đến người phong hủi, vì điều này bị Luật Mô-sê cấm. Bởi lẽ, theo Lề Luật, chạm vào người bệnh phong là bị lây nhiễm sự ô uế, ngay cả bị ô uế trong tinh thần. Thế nhưng, trong trường hợp hôm nay, không phải là người bệnh đến với Chúa để rồi Chúa bị lây nhiễm sự ô uế, nhưng là Chúa đến với người bệnh để anh được lành sạch. Trong lần chữa bệnh này, chúng ta ngưỡng mộ Chúa, không chỉ vì lòng từ bi thương xót của Ngài, mà còn vì sự can đảm của Ngài nữa. Chúa không quan tâm đến chuyện nhiễm uế, Chúa chỉ quan tâm đến chuyện giải phóng người bệnh khỏi cách ách nặng nề.

Anh chị em thân mến, không có bệnh tật nào là nguyên nhân của sự ô uế. Chắc chắn bệnh tật có liên quan đến toàn bộ con người, nhưng không hề ảnh hưởng đến mối tương quan của người ấy với Thiên Chúa. Thật vậy, một người bệnh vẫn có thể có tương quan thân thiết với Thiên Chúa. Chỉ có tội lỗi mới làm cho con người ra ô uế. Những thứ tội lỗi như ích kỷ, ngạo mạn, tham ô tham nhũng, những thứ bệnh của tâm hồn như thế cần được thanh tẩy. Cần thân thưa với Chúa Giê-su như người bệnh phong hôm nay đã van nài: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch!”.

Giờ đây, tất cả chúng ta, từng người chúng ta hãy dành chút thời gian thinh lặng, để có thể suy xét về con tim mình, để có thể nhìn vào chính cõi lòng mình, để có thể nhìn thấy những gì là ô uế, những gì là tội lỗi trong tâm hồn mình. Từng người chúng ta, trong thinh lặng, thân thưa với Chúa với tất cả tấm lòng rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”. Chúng ta hãy làm điều ấy trong thinh lặng.

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”
“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho con được sạch!”

Và mỗi khi chúng ta đón nhận Bí tích Hòa giải với lòng thống hối, chính Chúa cũng lặp lại với chúng ta rằng: “Ta muốn, con hãy lành sạch!”. Thật là mừng vui biết bao! Thế đó, khi ấy thứ bệnh phong của tội lỗi sẽ biến mất, để chúng ta có thể trở về sống trong niềm vui con thảo với Thiên Chúa, và niềm vui được sống giữa mọi người trong cộng đồng.

Nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Vô Nhiễm của chúng ta, chúng ta nài xin Chúa chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta bằng lòng thương xót vô biên của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta niềm hy vọng và bình an tràn ngập tâm hồn.

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là ngày mà mọi người có thể bắt đầu đăng ký tham dự Ngày Quốc tế Giới trẻ diễn ra tại Panama tháng giêng năm 2019. Cha cũng ghi danh như một người hành hương tham gia dịp này. Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng cho ngày đó! Cha mời tất cả các bạn trẻ trên thế giới hãy sống đức tin và lòng nhiệt thành trong sự kiện đầy ân sủng và tình huynh đệ này. 

Ngày 15 tháng hai, tại vùng Viễn Đông và nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu triệu người ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tôi xin gửi lời chào trân trọng tới tất cả các gia đình. Tôi cầu chúc mọi người luôn sống đoàn kết, giàu tình huynh đệ và đầy những ước mơ tốt đẹp, để góp phần xây dựng một xã hội mà trong đó tất cả mọi người được đón nhận, được bảo vệ, được thăng tiến và được hội nhập. Tôi xin gửi tới mọi người lời cầu nguyện cho hòa bình, vì đây là món quà là kho tàng quý giá cần luôn được theo đuổi với lòng từ bi, khôn ngoan và can đảm. Tôi đồng hành với quý vị và cầu chúc phúc lành cho quý vị.

Cha chào thăm các gia đình, các giáo xứ, các hiệp hội và tất cả mọi người đến từ Italia và khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những người hành hương đến từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cha chào thăm cộng đoàn người Congo tại Roma và Cha sẽ tham gia cầu nguyện cho hòa bình trong ngày đặc biệt 23 tháng hai, ngày mà Cha đã kêu gọi ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Congo.

Cha đặc biệt nghĩ về những người đau bệnh trên thế giới, những người đang bị thiếu những chăm sóc cần thiết và thường bị cô lập và phải sống trong cảnh cô đơn. Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria an ủi nâng đỡ các bệnh nhân cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước mong người bệnh có được sự chăm sóc cần thiết và có được tình bác ái huynh đệ nâng đỡ.

Chúc mọi người một ngày tốt lành, và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

 

Bà mẹ trẻ Corbella từ chối chữa trị ung thư để con được chào đời lành mạnh

Bà mẹ trẻ Corbella từ chối chữa trị ung thư để con được chào đời lành mạnh

Cách đây 5 năm, ngày 13 tháng 6 năm 2012, bà mẹ trẻ Chiara Corbella đã qua đời ở tuổi 28 vì bệnh ung thư, sau khi quyết định trì hoãn việc điều trị ung thư để đứa con ra đời được mạnh khỏe. 5 năm sau ngày Chiara qua đời, cô vẫn sống trong sự cảm mến của nhiều người và họ cầu khấn với cô như với một thánh “Gianna Beretta Molla mới” – một thánh nữ người Ý đã từ chối phá thai và giải phẫu, muốn cứu sống con của mình dù phải hy sinh mạng sống. Chiara Corbella được xem như một gương mẫu của “sự thánh thiện trong đời sống thường ngày” trong thời đại chúng ta.

Cuộc đời của Chiara cũng giống như cuộc đời của nhiều cô gái khác, tìm định hướng cho cuộc đời của mình. Cô là một thiếu nữ tràn đầy sức sống, vui tưởi cởi mở và đạo đức. Từ bà Maria Anselma mẹ của mình, một thành viên của phong trào “Canh tân trong Thánh linh”, Chiara học biết “ngợi khen Thiên Chúa trong mọi sự”. Cô gái Chiara đã khám phá ra các giá trị của tinh thần Phanxicô như yếu tính của nền tu đức này, niềm vui, tình yêu vô điều kiện đối với mọi người. Chiara thực hiện năm tình nguyện phục vụ dân sự trong Hiệp hội Acli di Roma, một hiệp hội công nhân Kitô giáo của Ý.

Một cuộc gặp gỡ đã thay đổi cuộc đời của Chiara. Cô kể: “Năm tôi 18 tuổi, trong một chuyến hành hương, tôi đã gặp Enrico. Trong thời gian quen biết, hứa hôn kéo dài 6 năm, Chúa đã thử thách đức tin của tôi thật nhiều. Sau 4 năm, tôi và Enrico đã chia tay. Đó là những giây phút đau khổ và nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Trong một khóa học về ơn gọi ở Assisi, tôi đã tìm lại được sức mạnh để tin vào Chúa: tôi đã cố gặp lại Enricô và chúng tôi cùng nhau theo sự hướng dẫn của một cha linh hướng.

Mối quan hệ của Chiara và Enrico đã tiến triển tốt đẹp và năm 2008, họ đã kết hôn với nhau tại Assisi. Hành trình đức tin của họ tiếp tục được nuôi dưỡng tại giáo xứ thánh Francesca Romana ở Adreatino, thuộc thủ đô Roma, có buồn có vui, có mệt nhọc than van, nhưng tất cả được chuyển thành những điệu nhảy múa. Năm 2009, một năm sau đám cưới, họ nhận được tin vui: họ sắp có con đầu lòng. Tuy nhiên, siêu âm cho thấy thai nhi bị dị tật nghiêm trọng ở đầu. Chiara quyết định vẫn tiếp tục mang thai. Một bé gái được sinh ra, mà theo các bác sĩ, em  không thích hợp với cuộc sống. 30 phút sau khi chào đời, đủ để em được nhận lãnh bí tích rửa tội, bé Letizia nhẹ nhàng từ giã trần gian đi về trời cao. Vài tháng sau đó, Chiara mang thai lần thứ hai, nhưng rồi thai nhi lại có vấn đề, không có chi dưới. Hai vợ chồng Enrico và Chiara sẵn sàng đón nhận đứa con khuyết tật David. Nhưng rồi cậu bé này cũng nhanh chóng theo bé chị về trời chỉ sau nửa giờ chào đời. Dù đau đớn vô cùng trước cái chết của hai đứa con bé nhỏ, hai vợ chồng vẫn cảm thấy bình an.

Rồi niềm vui lại đến khi Chiara mang thai lần thứ ba; cả gia đình vui mừng. Thai nhi khỏe mạnh nhưng người mẹ lại phát bệnh. Một vết lạ xuất hiện trên lưỡi của Chiara. Sau đó không lâu, cô biết đó là ung thư biểu mô. Chiara không muốn được trị liệu ngay, nhưng đợi sau khi sinh bé Francesco mới bắt đầu các liệu pháp hóa trị và xạ trị để chống lại chứng ung thư quái ác. Cô chiến đấu cách mạnh mẽ trong đau đớn và hy vọng. Cô muốn được sống với tất cả sức lực của mình. Nhưng chứng ung thư đã di căn, lây lan sang não, mắt, lưỡi, ngực, thận, phổi và gan. Bác sĩ cho biết Chiara chỉ còn sống vài tháng. Gia đình đã tổ chức một chuyến hành hương đến Mễ du để xin Đức Mẹ chữa lành cho Chiara, nhưng cũng là để mẹ giúp cho tất cả đón nhận ơn Chúa đã ban cho họ.

Chiara đang bệnh nặng ở giai đoạn cuối nhưng luôn mỉm cười. Một khách hành hương trong nhóm nhớ lại: “Nơi Chiara, bạn nhìn thấy sự chắc chắn của vĩnh cửu. Chiara không sợ hãi: đôi mắt cô tràn đầy ánh sáng, tràn đầy niềm vui, tràn đầy lòng biết ơn đối với Chúa. Cô ta đã sống lại. Cô sống từng giây phút hiện tại, lúc này đây và ở đây, không gì khác hơn nữa.” Trong thời gian cuối, Chiara đã xin chồng của mình đừng nói cho mình biết là sẽ còn sống bao lâu nữa. Ở Mễ du, Chiara nói với các bạn: “Tôi luôn xem việc được biết trước giờ chết là một đặc ân, bởi vì tôi có thể nói với tất cả rằng “tôi yêu thích bạn”. Chiara đã nói với mẹ của mình: “Nếu Thiên Chúa đã chọn điều này cho con, có nghĩa là như thế thì tốt hơn cho con và cho những người ở quanh con. Bởi vậy con cảm thấy hạnh phúc.” (Famiglia Cristiana 13/06/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở mọi người: Để lắng nghe tiếng Chúa, cần phải trở nên bé nhỏ.

Thiên Chúa đã chọn chúng ta; Người đã hòa nhập với chúng ta trong hành trình của cuộc sống

Dựa vào bài đọc thứ nhất trích từ sách Đệ nhị luật, trong đó Môsê nói rằng Thiên Chúa đã chọn chúng ta là dân riêng của Người trong số các dân trên mặt đất, Đức Thánh Cha giải thích rằng người ta có thể ngợi khen Chúa bởi vì “trong trái tim Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn cử hành với niềm vui mừng các mầu nhiệm cứu độ lớn lao, các mầu nhiệm của tình yêu Người dành cho chúng ta, nghĩa là cử hành đức tin của chúng ta.”

Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến 2 từ trong đoạn sách Đệ nhị luật: chọn và sự bé nhỏ.

“Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng chính Người đã làm cho mình trở thành tù nhân của chúng ta.”

Thiên Chúa đã gắn kết với cuộc đời chúng ta, không thể tách rời. Người đã hành động mạnh mẽ! Và Người trung thành trong thái độ chọn lựa này. Chúng ta được chọn vì tình yêu và đây là căn tính của chúng ta.

Chúng ta thường nói ‘tôi chọn tôn giáo này, tôi đã chọn…’.  Đức Thánh Cha nói: “Không! Không phải bạn đã chọn. Chính Người đã chọn bạn, đã kêu gọi bạn và gắn chặt với bạn. Đây là đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta không tin điều này, chúng ta không hiểu sứ điệp của Chúa Kitô là gì, chúng ta không hiểu được Tin mừng.”

Về từ ngữ thứ hai, sự bé nhỏ, Đức Thánh Cha nhắc lại, như Môsê đã nói rõ rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israel bởi vì họ là “dân nhỏ nhất trong các dân tộc”.

“Thiên Chúa đã phải lòng sự bé nhỏ của chúng ta và vì thế Người đã chọn chúng ta. Người chọn những người bé nhỏ, không phải là những người cao trọng, nhưng là những người bé nhỏ. Người đã mạc khải chính mình cho những kẻ bé mọn: ‘Chúa đã dấu những điều này với những người khôn ngoan và hiểu biết, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn’. Người cho những người bé nhỏ biết: nếu con muốn hiểu về mầu nhiệm của Chúa Giêsu, hãy tự hạ mình xuống thành người bé nhỏ. Hãy biết trở nên ‘số không’. Người không chỉ chọn và mạc khải cho những người bé nhỏ mà còn kêu gọi họ: ‘hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai mệt nhọc và bị áp bức: ta sẽ cho các người được nghỉ sức’. Các con là những kẻ bé nhỏ nhất – vì các đau khổ, vì mệt nhọc …”

Chúa có kêu gọi những người cao trọng không? Đức Thánh Cha trả lời có. Ngài giải thích: “Trái tim Chúa mở rộng, nhưng những người cao trọng thông thái không thể nghe tiếng của Người vì lòng họ chỉ quan tâm đến mình. Để nghe được tiếng của Chúa cần phải trở nên người bé nhỏ.”

Từ điều này, Đức Thánh Cha nói về Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngài nhắc rằng Thánh Tâm, không phải như vài người nói,  là một tấm ảnh nhỏ dành cho những người sùng kính Thánh Tâm. Trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô là “trái tim mạc khải, trái tim của đức tin chúng ta bởi vì Người đã trở nên bé nhỏ, Người đã chọn con đường này.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Con đường tự hạ và tự hủy cho đến chết trên Thánh giá là một chọn lựa hướng đến sự bé nhỏ để cho vinh quang của Thiên Chúa có thể được tỏ bày.” Đức Thánh Cha hồi tưởng lại: Từ trái tim của Chúa Giêsu bị đâm thâu bởi lưỡi đòng của tên lính “nước và máu chảy ra”, và “đây là mầu nhiệm của Chúa Kitô”. Thánh lễ hôm nay cử hành “một trái tim yêu thương, chọn lựa, trung thành” và “gắn kết với chúng ta, mạc khải cho những người bé mọn, kêu gọi những người bé nhỏ, trở nên bé nhỏ”.

Đức Thánh Cha tiếp tục chia sẻ với câu hỏi: Chúng ta tin vào Thiên Chúa? Có. Tin vào Chúa Giêsu nữa? Có. Tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa?. Có. Nhưng mầu nhiệm là điều này. Đây là sự tỏ bày, là vinh quang của Thiên Chúa. Trung thành trong chọn lựa, trong việc gắn kết với chúng ta, trong việc  trở nên bé nhỏ: trở nên bé nhỏ, tự hủy. Vấn đề của đức tin là hạt nhân của cuộc sống chúng ta: chúng ta có thể rất nhân đức nhưng lại có ít đức tin; chúng ta phải bắt đầu từ đây, từ mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã cứu độ chúng ta với sự trung thành.

Cuối cùng Đức Thánh Cha cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để cử hành trong Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô “các cử chỉ lớn lao, các công trình cứu độ vĩ đại.” (REI 23/06/2017)

Hồng Thủy

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Đạo luật gây sốc của Nebraska ngăn cản một nữ tu được dạy học

Sister Madeleine Miller

Lincoln, Nebraska – Những nỗ lực để dạy học tại một trường công lập ở Nebraska của nữ tu Madeleine Miller đã gặp khó khăn vì một đạo luật có từ cả thế kỷ. Điều này cũng nhắc các cơ quan lập pháp quốc gia có một cái nhìn khác về quá khứ đen tối của pháp luật.

Nữ tu Miller 37 tuổi, thuộc dòng các nữ tu Thừa sai Biển đức ở Norfolk, một dòng yêu cầu các nữ tu luôn mang tu phục ở chốn công cộng. Chị Miller có bằng dạy học của Nebraska, bằng cử nhân của học viện Wayne State của Nebraska và bằng cao học của đại học Chicago. Chị đã nộp đơn vào dạy tại các trường công lập Norfolk vì thiếu các trường Công giáo. Chị được thông báo rằng nếu được nhận vào dạy học, chị không được mặc tu phục. Chị cho biết là chị bị sốc. Chị nói: “Đó là vào năm 2015. Làm sao mà điều này có thể hợp pháp?” Chị cũng cho biết là chị đã có thể bị bắt, bị bỏ tù, bị phạt hay bị tước bằng nếu chị cố dạy học.

Đạo luật 1919 được Ku Klux Klan và các nhóm chống Công giáo ủng hộ. Các vi pham điều luật này là tội hình sự. Các giáo viên vi phạm lần đầu đối mặt với án tù treo một năm, và vi phạm lần hai sẽ bị tước quyền giảng dạy vĩnh viễn. Điều luật cũng cấm khăn choàng của đạo Chính thống và Hồi giáo. Đã có 36 tiểu bang có luật tương tự nhưng hiện nay chỉ Nebraska và Pennsylvania là còn cấm trang phục tôn giáo đối với các giáo viên tại các trường công lập. Oregon là bang mới nhất bãi bỏ luật này vào năm 2010.

Jim Scheer, phát ngôn viên của cơ quan lập pháp đề nghị một dự luật để chấm dứt đạo luật này, vì theo ông, nó vi phạm quyền tự do ngôn luận của các giáo viên và tạo nên tình trạng thiếu hụt giáo viên trong 18 lãnh vực ở Nebraska. Nhiều nhóm ủng hộ việc bãi bỏ luật này.

Vì không tìm được công việc ở đông Nebraska, nữ tu Miller đã chuyển về tu viện của dòng ở Winnebago, Nebraska để daỵ tại một trường Công giáo ở Sioux City, bang Iowa. Chị cho biết mục đích dạy học của mình là giúp học sinh hoc chứ không để cải đạo. Chị nói: “Tôi nghĩ mọi người có quyền làm việc trong khả năng chuyên nghiệp của họ bất kể niềm tin tôn giáo của họ. Bạn làm những gì bạn được thuê làm và bạn đi về nhà. Và mọi người có quyền đó.” (CNA 18/01/2017)

Hồng Thủy

Ý cầu nguyện tháng 12 của Đức Thánh Cha

Ý cầu nguyện tháng 12 của Đức Thánh Cha

y-cau-nguyen-thang-12-cua-duc-thanh-cha

 

VATICAN. Trong tháng 12, Đức Thánh Cha đặc biệt cầu nguyện cho những trẻ em, các em là nạn nhân bị bắt đi quân dịch. Đức Thánh Cha chia sẻ trong đoạn Video rằng:

Ngày nay trong một thế giới phát triển những công nghệ tinh vi nhất, vũ khí được mua bán và cuối cùng lại nằm trên tay của những người lính là trẻ em. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể, để nhân phẩm của trẻ em được tôn trọng, và để chấm dứt hình thức nô lệ này. 

Dù bạn là ai chăng nữa, nếu bạn cảm thấy được thôi thúc như tôi cảm thấy, thì hãy hiệp lòng với tôi trong ý chỉ cầu nguyện này: Để vấn nạn về các trẻ em bị bắt đi quân dịch, có thể được loại bỏ trên toàn thế giới.

 

18 máy khử rung tim được lắp đặt trong bảo tàng Vatican

18 máy khử rung tim được lắp đặt trong bảo tàng Vatican

AED defibrillators - BUS-PKG-PLUS-2

Vatican – Viện bảo tàng Vatican đã dặt 18 máy khử rung tim tự động (defibrillators – AEDs) tại các điểm quan trọng, từ phòng tranh Raphael cho đến nhà nguyện Sistine và huấn luyện 300 nhân viên cách sử dụng máy. Đây là viện bảo tàng đầu tiên ở Ý có dịch vụ này để bảo vệ tốt hơn sức khỏe cho 6 triệu du khách thăm viếng viện bảo tàng này hàng năm.

Máy khử rung tim tự động (AED) là một thiết bị y khoa vi tính hóa, có thể kiểm tra nhịp tim của một người, và nhận biết nếu nhịp tim của người đó cần một cú sốc điện để ổn định. AED sử dụng tiếng nói nhắc nhở, đèn và tin nhắn văn bản để hỗ trợ người cứu hộ trong việc xác định các bước cần thực hiện.

Các AED trong Viện Bảo Tàng Vatican sẽ cho phép nhân viên can thiệp nhanh chóng nếu có ai đó bị đau tim, vì thêm mỗi phút không có sự can thiệp giúp đỡ, khả năng sống còn của người bệnh bị giảm 6-10%. Điều này sẽ giảm thiểu nguy cơ tử vong của một người trong khi chờ đợi xe cứu thương để đưa họ đến bệnh viện. Dù dụng cụ này ngày càng được sử dụng rộng rãi tại các cơ sở công cộng ở Hoa kỳ, nhưng vẫn ít thấy ở Ý.  

Chương trình này được thực hiện cùng với sự cộng tác của bệnh viện nhi Bambino Gesù (Chúa Giêsu Hài đồng) và Bộ Y tế và phúc lợi của phủ Thống đốc thành Vatican và Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ giám sát việc huấn luyện đào tạo.

Bác sĩ Mariella Enoc, Giám đốc bệnh viện nhi Bambino Gesù nói: “Đối với chúng tôi, nó là một vinh dự và bổn phận của chúng tôi cống hiến cho viện bảo tàng Vatican những năm kinh nghiệm của chúng tôi để bảo vệ sự sống của hàng ngàn người mỗi ngày chiêm ngưỡng các kiệt tác được gìn giữ ở nơi này.”

Ông Antonio Paolucci, giám đốc bảo tàng Vatican chia sẻ: “Nhiệm vụ của chúng tôi là cung cấp những tiêu chuẩn an toàn tốt nhất trong viện bảo tàng. Những người đến xem các sưu tập của Đức Giáo hoàng nên biết đây là nơi được giám sát và an toàn, nơi mà ngay cả một cơn đau tim cũng được săn sóc sớm và với các thiết bị kỹ thuật tốt nhất hiện có. (RV 07/10/2016)

Hồng Thủy

Phụ nữ Công giáo Bangladesh có 6 con đi tu được giải thưởng “người mẹ gương mẫu”

Phụ nữ Công giáo Bangladesh có 6 con đi tu được giải thưởng “người mẹ gương mẫu”

Josephine Corraya family

Dhaka, Bangladesh – Josephine Corraya, 82 tuổi, bà mẹ Công giáo của 10 người con, đã được phát ngôn viên của quốc hội Bangladesh trao giải thưởng “người mẹ gương mẫu”.

Là một phụ nữ gương mẫu, yêu thương và ân cần, đã nuôi dạy các con và bảo đảm cho các con một nền giáo dục tốt.  Bà Josephine đến từ giáo xứ Rangamitia thuộc giáo phận Dhaka; chồng của bà Josephine đã qua đời khi các con còn rất nhỏ và bà đã nuôi các con trong sự nghèo khổ.  6 trong 10 người con của bà đã dâng mình cho Chúa: 3 người con cha trở thành Linh mục và 3 người con gái là những nữ tu.

Abul Kalam Azad, một người Hồi giáo, là chủ tịch của tổ chức tài trợ cho giải thưởng đã khẳng định: “chúng tôi trao giải thưởng này cho bà Josephine vì bà đã hoàn thành một công việc tuyệt vời trong việc nuôi dạy 10 người con của mình. Bà đã hy sinh lơn lao để bảo đảm cho các con có một sự giáo dục để chúng có thể phục vụ xã hội của chúng ta”.

Joel Rebeiro, con thứ 9 của bà, đang làm việc cho tổ chức Caritas, thuật lại: “Mẹ của chúng tôi đã giáo dục chúng tôi cách đặc biệt.Mẹ đưa chúng tôi đi dự lễ mọi buổi sáng, rồi chúng tôi làm việc nhà, học hành và đến trường. Mẹ dạy chúng tôi đạo đức và lòng kính trọng người cao tuổi.”

Người con thứ 10 của bà, cha Bulbul kể: “ngay cả nếu chúng tôi gặp khó khăn về tiền bạc, mẹ chúng tôi đã lao động và trả được tiền học cho chúng tôi”. Cha cho biết mẹ mình là một phụ nữ đơn sơ và luôn luôn tích cực trong các điều liên quan đến Giáo hội. Cha không thể nhớ được có lần nào mà mẹ mình nói xấu về các Linh mục hay nữ tu. Bà đã khuyến khích các con vào chủng viện”.

Bà Josephine rất cảm kích về giaỉ thưởng, bà nói: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa toàn năng đã chúc phúc cho gia đình đông đúc của tôi. Tôi luôn là một tín hữu đơn sơ và tôi đã nuôi dạy các con theo giáo huấn của Chúa Giê-su. Trong những ngày cuối của đời tôi, tôi cảm tạ Thiên Chúa bởi vì tôi là một phụ nữ hạnh phúc”. (Asia News 01/06/1016)

Hồng Thủy OP

 

Linh Mục Nguyễn văn Lý ra tù

Linh Mục Nguyễn văn Lý ra tù

Linh mục Nguyễn Văn Lý (trái) và Linh mục Phan Văn Lợi chụp trong ngày đến thăm Cha Lý vừa ra khỏi nhà tù.Linh mục Nguyễn Văn Lý (trái) và Linh mục Phan Văn Lợi chụp trong ngày đến thăm Cha Lý vừa ra khỏi nhà tù.

Linh mục Nguyễn Văn Lý, tù nhân lương tâm được nhiều người trong và ngoài nước biết tiếng, vừa ra khỏi tù trong ngày 20 tháng 5.

Linh mục Phan Văn Lợi, một thân hữu cùng trong nhóm Nguyễn Kim Điền với người vừa được trả tự do, cho biết sau khi ông đến Tòa Giám mục thăm linh mục Nguyễn Văn Lý về:

“Sáng hôm nay vào lúc 11 giờ tôi đã đến tại Nhà Chung, thuộc Tòa Tổng Giám mục Huế để thăm linh mục Lý và tôi được nói chuyện với linh mục Lý trong vòng nửa giờ đồng hồ.Theo tôi nhận thấy tình trạng sức khỏe của ngài thật sa sút, người ốm o lại, mất đi cái gọi là ‘nét đẹp’ ngày xưa. Ngài cao 1,8 mét nhưng ốm lắm và không thể đứng thẳng người được, đi phải lom khom. Đó là sự tàn phá về mặt thể xác qua 8 năm ở trong nhà tù.

Nhưng về mặt tinh thần, cha Lý vẫn minh mẫn, sáng suốt, vẫn kiên trì. Tôi biết sở dĩ hôm nay ngài được về Nhà Chung là do sự đấu tranh cuối cùng của ngài. Ban đầu Nhà nước quyết định đưa cha Lý về lại giáo xứ Bến Củi, một giáo xứ nhỏ cách thành phố Huế 30 cây số về phía bắc. Đó là nơi họ quản thúc cha Lý hơn 1 tháng trời vào năm 2007, sau đó đưa ngài ra tòa và xử án 8 năm tù. Nhưng cha Lý nói nếu các ông đưa tôi về Bến Củi thì tôi xin được tiếp tục ở lại trong nhà tù này.

Họ cũng nói với cha Lý rằng đây là đặc xá của chủ tịch nước, nhưng cha Lý nói không có đặc xá gì cả mà đây là món quà mà các ông muốn cho Hoa Kỳ trước khi tổng thống Mỹ đến Việt Nam mà thôi. Hơn nữa tôi không có tội gì để các ông gọi là đặc xá. Họ nói ông có tội là tội tuyên truyền. Cha Lý nói có tuyên truyền nhưng không phải tội. Đó là cha Lý tuyên truyền ba điều mà ông cho là quan trọng mà phía cơ quan chức năng không dám đối chất: thứ nhất là những bí mật về ông Hồ Chí Minh, thứ hai là cái chết của đức tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, chính các ông đã đầu độc vào năm 1988; thứ ba là chính nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam làm mất Hoàng Sa và Trường Sa.

Sáng hôm nay khi gặp phường để làm thủ tục giấy tờ, cha Lý nói không được cho công an, an ninh canh gác trước Nhà Chung để dò xét, ngăn cản những người đến thăm linh mục Lý. Ngài nói nếu làm thế là đưa ra lời mời ngài tiếp tục tranh đấu.”

Xin được nhắc lại linh mục Nguyễn Văn Lý vào ngày 15 tháng năm vừa qua ông tròn 70 tuổi.

Ông được nhiều người biết đến với câu nói ‘tự do tôn giáo hay là chết’ cũng như bức ảnh ông bị miệng tại phiên xử ở Huế vào năm 2007 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tòa năm ấy tuyên án ông 8 năm tù giam và 5 năm quản chế.

Đó không phải là lần đầu ông bị bắt và bị tuyên án tù. Lần đầu tiên ông bị bắt vào năm 1977 và bị tuyên án 20 năm tù. Lần thứ hai vào năm 1983, ông bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với cáo buộc ‘gây rối trật tự’. Vào năm 2001, ông bị kết án 15 năm tù giam với cáo buộc ‘phá hoại chính sách đoàn kết’ và không chấp hành quyết định quản chế hành chính.

Ông là một trong những thành viên sáng lập ra Khối 8406 và Đảng Thăng Tiến Việt Nam.

RFA Radio

 

Giám mục Mai Thanh Lương về hưu và thánh lễ Tạ Ơn

Giám mục Mai Thanh Lương về hưu và thánh lễ Tạ Ơn

GM Mai Thanh Lương

GARDEN GROVE, Calif. (NV) – Thánh Lễ Tạ Ơn Giám mục Mai Thanh Lương, vị giám mục gốc Việt duy nhất tại Hoa Kỳ, được tổ chức long trọng tại nhà thờ Saint Columban vào chiều Thứ Hai, 18 Tháng Giêng, 2016 với sự tham dự của đông đảo các giám mục, linh mục trong và ngoài vùng Orange County cùng giáo dân thuộc nhiều sắc tộc quanh vùng.

Trong phần nói chuyện của mình, Giám Mục Mai Thanh Lương đã nhắc lại những kỷ niệm buồn vui kể từ khi ông chịu chức linh mục năm 1966 tại Buffalo, New York, rồi khi được gọi điện thoại báo trước về việc được thụ phong chức Giám Mục vào năm 2003. Vị Giám mục cũng nhắc lại những năm tháng làm việc giúp người Việt tị nạn được định cư tại Hoa Kỳ, xem đó như những dấu ấn đậm nét nhất trong quá trình 50 năm làm nhiệm vụ của “người mục tử chăn dắt đàn chiên.”

“Sách Giảng Viên trong Cựu Ước viết rằng, mọi sự đều có thời hạn của nó. Với tôi, thời điểm về hưu cuối cùng đã đến,” Giám Mục Mai Thanh Lương nói.

Trong Thánh Lễ Tạ Ơn này, Giám mục Mai Thanh Lương gửi lời “tri ân Thánh Giáo Hoàng John Paul II đã đặc cử tôi làm Giám Mục, phục vụ giáo Phận Orange.”

Thánh lễ tạ ơn GM Mai Thanh Lương

Giám mục Mai Thanh Lương cũng “cám ơn Đức Cha Tod Brown, Đức Cha Kevin Vann và toàn thể anh em linh mục thuộc giáo phận Orange đã đón tiếp, coi tôi như anh em trong nhà và cho tôi được hân hạnh cùng đồng hành trong công tác mục vụ suốt 12 năm qua, như những thợ gặt trong vườn nho của Chúa.”

Ông cũng dành lời bày tỏ lòng biết ơn về “những sự nâng đỡ, lòng tốt và những lời cầu nguyện mà anh chị em tín hữu đã dành cho tôi, nhất là trong những năm gần đây khi tôi phải trải qua những cuộc phẫu thuật tim.”

Không chỉ giáo dân mà nhiều vị linh mục khác cũng đã vây quanh Giám mục Mai Thanh Lương ngay sau khi Thánh lễ Tạ ơn kết thúc để được nói những lời chúc phúc, những lời thăm hỏi cũng như được chụp hình trong ngày đặc biệt này.

 

Nhớ nhất 28 năm làm việc với người di cư”

 

Trò chuyện với Nhật báo Người Việt khi dòng người mến mộ Ngài vẫn còn đang đứng chờ, vị giám mục gốc Việt duy nhất cho biết, “Tôi cảm thấy mọi việc rất tốt lành, tôi sẽ có nhiều thời giờ hơn, chắc chắn sẽ làm được nhiều việc hơn.”

Về những việc sẽ làm trong thời gian nghỉ hưu, Đức Cha Lương nói, “Tôi đang viết mấy cuốn sách bằng song ngữ về Thánh Kinh nhưng chưa xong. Tôi sẽ cố gắng làm xong điều đó.”

Trả lời cho câu hỏi “Ngay lúc này Đức Cha có thể nói kỷ niệm đáng nhớ nhất trong suốt cuộc đời làm linh mục của mình là gì?”, Đức Cha Lương trả lời ngay, “Làm việc với người di cư, 28 năm.”

“Tôi giúp định cư không biết bao nhiêu ngàn người, từ Lousiana, Mississippi, Florida, Houston,… Rất nhiều người di cư. Mình xuất hiện vào lúc họ cần mình nhất vì lúc bấy giờ đâu có ai nói được tiếng Anh, tôi là người duy nhất. Rồi sau đó tôi đi làm việc với các linh mục, đưa vào những cộng đoàn không có linh mục, không có các cha để có thánh lễ Việt Nam. Những điều đó là kỷ niệm tốt nhất,” ông nói tiếp.

Với vị Giám mục gốc Việt duy nhất tại Hoa Kỳ, điểm nhấn mà ông cho rằng sẽ “nhớ đời đời” chính là việc “thành lập một văn phòng để lo cho vấn đề mục vụ cho di dân cùng với Đức Tổng Giám Mục ở Geneve là Đức Cha Silvano Tomasi. Ngài mới viết cho tôi lá thư để chúc mừng tôi về hưu. Tôi cũng có nhiều dịp được gặp ngài bên Roma nữa.”

Giám Mục Lương khẳng định “chắc chắn có nhiều các linh mục trẻ cũng rất thông minh đạo đức, giỏi giang gốc Việt sẽ được bổ nhiệm vào vai trò giám mục tại Hoa Kỳ."

“Vấn đề rất quan trọng” mà Giám mục Mai Thanh Lương muốn gửi đến mọi người là, “Người Việt hải ngoại chúng ta cần đoàn kết với nhau, cố gắng để chúng ta sống hòa hoãn với nhau, nhất là trên thềm năm mới này, chúng ta cố gắng duy trì được sự hiệp nhất. Đấy là vấn đề rất quan trọng.”

 

Đức Cha là một người thánh thiện, vui tính, giản dị”


Vừa đứng nhìn Giám Mục Mai Thanh Lương mặc trang phục dành cho Thánh lễ, tay cầm gậy, ông Lê Thanh Xuân ở Garden Grove, một giáo dân của nhà thờ La Vang nói, “Tôi biết về Giám mục Mai Thanh Lương từ lâu lắm rồi. Có sự tích là ngày trước những người vượt biên qua ông giúp đỡ nhiều lắm.”

“Hôm nay tôi đến đây để tiễn ông về hưu, tôi rất là vui mừng khi thấy có tất cả các cha, các giám mục đến dự Thánh Lễ Tạ Ơn Ngài,” ông nói một cách ngưỡng mộ.

Là giáo dân thuộc Cộng đoàn Tam Biên, nhà thờ Chánh Tòa, ông Nguyễn Chí Long, nêu cảm nghĩ, “Nghe Đức Cha nghỉ hưu tôi cảm thấy cũng hơi buồn vì người Việt Nam mình có rất ít Đức Cha, thấy Đức Cha đâu đến nỗi bệnh lắm đâu. Tôi đến đây để gặp ngài lần cuối vì mai mốt ngài đi đâu mình đâu biết. Tôi đến với lòng ngưỡng mộ đối với một Đức Cha Việt Nam. Ngài sang đây rất lâu mà tiếng Việt của Ngài còn rất rành, trong khi có nhiều cha sang đây thì tiếng Việt quên mất tiêu.”

Theo ông Long, “Đức Cha là người rất vui tính, kể chuyện tiếu lâm như giáo dân bình thường vậy đó, nên đó cũng là niềm vui của chúng tôi. Đức Cha không tỏ vẻ của bề trên, khi sinh hoạt chung với mình thì rất là hòa đồng. Đó là điều tôi thấy quý mến ngài.”

“Điều đặc biệt ở Đức Giám Mục là ngài rất giản dị, Ngài vẫn tự nấu cơm, đi chợ. Khi chị thấy Đức Giám mục đi chợ mặc đồ thường thì chị không thể nào nhận ra được đó là Đức Giám mục đâu” là điều mà chị Hà Thị Gấm, giáo dân Cộng đoàn Saint Columban, nói về Giám mục Mai Thanh Lương.

“Ngài rất thánh thiện, vui vẻ tiếp đón hết mọi người, không phân biệt người giàu nghèo, không phân biệt người Công giáo hay không Công giáo, ngài vui vẻ với hết mọi người” cũng là những nhận xét của chị Gấm về vị Giám Mục gốc Việt vừa nghỉ hưu này.

Linh Mục Niên Trưởng Mai Khải Hoàn, quản nhiệm giáo xứ St. Nicolas, Laguna Woods, chia sẻ, “Đức Cha Mai Thanh Lương với tôi cùng một địa phận gốc bên Việt Nam, tức địa phận gốc Bùi Chu ở miền Bắc. Sau đó ngài vào miền Trung nhập địa phận Đà Nẵng, thì tôi cũng nhập địa phận Đà Nẵng luôn. Đó là hai điểm đặc biệt. Thứ ba, ngài và tôi cùng họ Mai. Những kỷ niệm mà tôi làm việc cùng với ngài qua những sinh hoạt của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ giúp tôi có nhiều dịp gần gũi với Ngài. Khi ngài về đây thì lại cùng làm việc sát cánh với nhau rất tốt đẹp.”

“Đức Giám mục Mai Thanh Lương về làm giám mục phụ tá của giáo phận Orange cũng mười mấy năm. Thực sự thời gian của ngài lúc này đúng là thời gian ngài cần về hưu vì không được khỏe nữa… Tuổi về hưu là 75 nên ngài về hưu lúc này rất là đúng lúc.” Cha Mai Khải Hoàn nói thêm.

 

***

Giám mục Mai Thanh Lương sinh ngày 20 Tháng 12, năm 1940 tại Ninh Cường, Bùi Chu. Năm 1956, khi được 16 tuổi, ông được Đức Cha Phạm Ngọc Chi, Giám Mục Đà Nẵng gửi sang Mỹ du học và thụ phong Linh mục năm 1966 tại Buffalo cho giáo phận Đà Nẵng. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh, ông không thể về phục vụ tại Việt Nam nên tiếp tục làm việc tại Buffalo,New York.

Năm 1976, Linh mục nhập Tổng giáo phận New Orleans, tiểu bang Louisiana.

Năm 2003, Linh mục Mai Thanh Lương được Thánh Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá giáo phận Orange, tiểu bang California là giáo phận có đông tín hữu Công Giáo Việt Nam nhất tại Mỹ. Ông cũng là Giám mục gốc Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ.

Ngày 20 Tháng 12, 2015, Tòa Thánh Vatican chính thức chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Giám mục Mai Thanh Lương.

Ngọc Lan – Người Việt

(Nguồn: Báo Người Việt)

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Logo ngày giới trẻ 2016

VATICAN. Trong sứ điệp công bố sáng ngày 28-9-2015 nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 sẽ được cử hành cấp hoàn vũ vào cuối tháng 7 năm tới tại Cracovia, Ba Lan, TC Phanxicô mời gọi các bạn trẻ mang ngọn lửa từ bi thương xót của Chúa Kitô vào đời sống thường nhật và thực thi mỗi tháng một công việc bác ái.

Sau đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7)

 Các bạn trẻ rất thân mến,

 Chúng ta đã tới giai đoạn chót trong cuộc lữ hành tiến về Cracovia, nơi chúng ta sẽ cùng nhau cử hành Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 vào tháng 7 năm tới (2016). Hành trình dài và đòi nhiều cố gắng này được lời Chúa Giêsu hướng dẫn, rút từ ”Bài giảng trên núi”. Chúng ta đã khởi sự hành trình này hồi năm 2014, cùng nhau suy niệm về Mối Phúc thứ I: ”Phúc cho những người có tinh thần thanh bần vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Đề tài cho năm 2015 là ”Phúc cho ai có tâm hồn thanh khiết, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Trong năm đang ở trước mặt, chúng ta muốn để cho mình được Lời này soi sáng: ”Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7).

 1. Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Với chủ đề này, Ngày Quốc Tế giới trẻ Cracovia năm 2016 được tháp nhập vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, trở thành một Năm Thánh thực sự và riêng cho người trẻ trên bình diện thế giới. Đây không phải là lần đầu tiên Đại hội giới trẻ quốc tế trùng vào một Năm Thánh. Thực vậy, chính trong Năm Thánh Cứu Độ 1983/1984, thánh Gioan Phaolô 2 đã triệu tập lần đầu tiên các bạn trẻ toàn thế giới vào Chúa Nhật Lễ Lá. Rồi trong Đại Năm Thánh 2000, hơn 2 triệu người trẻ từ 165 quóc gia đã họp mặt tại Roma để cử hành Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 15. Như đã xảy ra trong 2 trường hợp trước đây, tôi chắc chắn rằng Năm Thánh giới trẻ ở Cracovia sẽ là một trong thời điểm nổi bật của Năm Thánh này!

 Có sẽ vài người trong các bạn tự hỏi: ”Năm Thánh này được cử hành trong Giáo Hội là gì? Sách Lêvi đoạn thứ 25 giúp hiểu ”Năm Vui Mừng đối với dân Israel có nghĩa là gì? Cứ 50 năm, người Do Thái thổi kèn hân hoan (jobel) triệu tập họ (jobil) cử hành một năm thánh, như một thời kỳ hòa giải (jobal) đối với tất cả mọi người. Trong thời kỳ này, người ta phải phục hồi quan hệ tốt với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên, dựa trên tinh thần nhưng không. Vì thế, trong số các vấn đề, người ta cổ võ sự tha thứ nợ nần, đặc biệt trợ giúp những ai lâm vào tình trạng lầm than, cải tiến các quan hệ giữa con người với nhau và giải phóng những người nô lệ. Chúa Giêsu Kitô đã đến để loan báo và thực hiện thời đại vĩnh cửu của ơn Chúa, mang đến cho người nghèo tin vui, sự giải thoát cho các tù nhân, cho người mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được tự do (Xc Lc 4,18-19). Nơi Ngài, nhất là trong Mầu Nhiệm Vượt qua, ý nghĩa thâm sâu nhất của Năm Thánh được viên mãn. Khi Giáo Hội nhân danh Chúa Kitô tuyên bố Năm Thánh, tất cả chúng ta đều được mời gọi cống hiến dồi dào các dấu chỉ sự hiện diện và sự gần gũi của Thiên Chúa, thức tỉnh nơi các tâm hồn khả năng nhìn điều thiết yếu. Đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ”là thời kỳ để Giáo Hội tìm lại ý nghĩa sứ mạng mà Chúa đã ủy thác trong Ngày Phục Sinh: đó là trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa Cha” (Bài giảng Kinh Chiều I Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, 11-4-2015)

 2. Thương Xót như Chúa Cha

 Khẩu hiệu Năm Thánh đặc biệt này là ”Thương xót như Chúa Cha” (Xc Misericordiae Vultus, 13), và chủ đề Ngày Quốc Tế giới trẻ lần tới cũng tương ứng với chủ đề của Năm Thánh. Vì thế chúng ta tìm cách hiểu rõ hơn ý nghĩa lòng thương xót của Chúa. Để nói về lòng thương xót, Cựu Ước dùng nhiều từ ngữ khác nhau, trong đó những từ ý nghĩa nhất là hesed và rahamim. Từ thứ nhất được áp dụng cho Thiên Chúa, diễn tả lòng trung tín không ngừng của Ngài đối với giao ước cùng dân Ngài, Dân mà Ngài yêu thương và tha thứ mãi mãi. Từ thứ hai, rahamim, có thể được dịch là ”lòng”, đặc biệt nhắc nhớ cung lòng người mẹ và làm cho chúng ta hiểu tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài như tình thương của một người mẹ đối với con mình. Ngôn sứ Isaia diễn tả điều ấy với chúng ta: ”Một phụ nữ lại quên con mình đến độ không cảm động vì người con từ lòng mình sao? Cho dù họ có quên đi nữa, Ta sẽ không bao giờ quên con” (Is 49,15). Một tình yêu thuộc loại này bao hàm việc dành chỗ cho tha nhân ở trong lòng mình, cảm thấy, chịu đau khổ và vui mừng với tha thân. Trong ý niệm Kinh Thánh về lòng thương xót cũng bao hàm một tình yêu cụ thể, trung thành, nhưng không và biết tha thứ. Trong đoạn này của ngôn sứ Osean, chúng ta có một thí dụ rất đẹp về tình yêu Thiên Chúa, được so sánh với tình thương của một người cha đối với con mình: ”Khi Israel còn là một trẻ nhỏ, Ta đã thương yêu nó và đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập, nhưng hễ Ta càng gọi thì chúng càng xa Ta; […] Ta đã tập cho Efraim bước đi, Ta cầm tay nó, nhưng chúng không hiểu rằng Ta đã chăm sóc chúng. Ta đã lôi kéo chúng bằng những mối liên hệ nhân nghĩa, bằng những liên hệ ân tình, đối với chúng Ta như người nâng một đứa bé áp vào má, Ta cúi mình trên nó để đút nó ăn” (Hs 11,1-4). Mặc dù thái độ sai lầm của đứa con, đáng bị trừng phạt, nhưng tình yêu của người cha trung tín và luôn tha thứ cho người con thống hối. Như chúng ta thấy, trong lòng thương xót luôn kèm theo sự tha thứ; lòng thương xót không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một thực tại cụ thể qua đó Chúa bày tỏ tình thương của Ngài như tình thương của một người cha và một người mẹ cảm động đến tận thâm tâm vì người con mình. […] Lòng thương xót đến từ thẳm sâu tâm hồn như một tình cảm sâu đậm, tự nhiên, đầy dịu dàng và cảm thương, nhân nhượng và tha thứ” (Misericordiae Vultus, 61).

 Tân Ước nói với chúng ta về lòng thương xót của Chúa (eleos) như tổng hợp ”công trình mà Chúa Giêsu đã đến để thực hiện trong trần thế nhân danh Chúa Cha” (Xc Mt 9,13). Lòng thương xót của Chúa chúng ta được biểu lộ trên hết khi Ngài cúi mình trên sự lầm than của con người và chứng tỏ sự cảm thương của Ngài đối với người cần được cảm thông, chữa lành và tha thứ. Trong Chúa Giêsu tất cả đều nói về lòng thương xót. Đúng hơn, chính Chúa là lòng thương xót. Trong chương 15 của Tin Mừng Luca, chúng ta có thể thấy 3 dụ ngôn về lòng thương xót: dụ ngôn con chiên lạc, dụ ngôn đồng tiền bị mất, và dụ ngôn được biết đến như ”dụ ngôn người con trai hoang đàng”. Trong 3 dụ ngôn ấy, điều gây ấn tượng mạnh cho chúng ta là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui mà Ngài cảm thấy khi tìm lại một người tội lỗi và tha thứ cho họ. Đúng vậy, niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ! Ở đây có tổng hợp toàn thể Tin Mừng. ”Mỗi người chúng ta là con chiên lạc, là đồng tiền bị mất; mỗi người chúng ta là người con trai hoang đàng đã làm hư mất tự do của mình ”khi theo những thần tượng giả dối, những ảo ảnh hạnh phúc, và đã mất tất cả. Nhưng Thiên Chúa không quên chúng ta, Chúa Cha không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài là người cha kiên nhẫn, luôn chờ đợi chúng ta! Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, nhưng luôn trung tín. Và khi chúng ta trở về cùng Ngài, Ngài đón nhận chúng ta như những người con, trong nhà Ngài, vì không bao giờ Ngài ngừng chờ đợi chúng ta với tình yêu thương, dù là một lúc. Và con tim của Ngài vui mừng vì mỗi người con trở về. Con tim Ngài mừng rỡ vì Ngài hân hoan. Thiên Chúa có niềm vui ấy, khi một trong chúng ta là những kẻ tội lỗi đến cùng Ngài và xin lỗi” (Angelus 15-9-2013).

 Lòng thương xót của Thiên Chúa rất cụ thể và tất cả chúng ta được kêu gọi đích thân cảm nghiệm. Khi tôi 17 tuổi, một hôm phải đi với các bạn, tôi đã quyết định ghé vào một nhà thờ trước. Tại đó tôi đã thấy một linh mục mở tâm hồn tôi trong tòa giải tội. Cuộc gặp gỡ ấy đã thay đổi đời tôi! Tôi đã khám phá thấy rằng khi chúng ta cởi mở tâm hồn với lòng khiêm tốn và minh bạch, chúng ta có thể chiêm ngắm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi đã xác tín rằng nơi con người của vị linh mục ấy, Thiên Chúa đang chờ đợi tôi, trước khi tôi đi bước đầu để đến nhà thờ. Chúng ta tìm Chúa, nhưng chính Chúa luôn đi trước chúng ta, Ngài luôn tìm kiếm chúng ta, và thấy chúng ta trước. Có lẽ có người trong chúng ta có một gánh nặng trong tâm hồn và nghĩ: tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều kia. Các bạn đừng sợ! Chúa đang chờ đợi các bạn! Chúa là Cha, Ngài luôn chờ đợi chúng ta! Thật là đẹp dường nào khi gặp trong bí tích hòa giải vòng tay thương xót của Chúa Cha, khám phá tòa giải tội như nơi chốn của lòng Thương Xót, để cho mình được tình thương từ bi của Chúa đánh động, Đấng luôn tha thứ cho chúng ta!

 Còn bạn, hỡi người bạn trẻ, nam và nữ, bạn chẳng bao giờ thấy cái nhìn yêu thương vô biên đặt trên bạn sao, cái nhìn yêu thương vượt lên trên mọi tội lỗi, giới hạn, thất bại của bạn, và tiếp tục tín nhiệm bạn và nhìn cuộc sống của bạn với niềm hy vọng sao? Bạn có ý thức về giá trị của bạn trước mặt một Thiên Chúa, vì yêu thương, đã ban cho bạn tất cả sao? Như thánh Phaolô đã dạy chúng ta, ”Thiên Chúa chúng tỏ tình thương của Ngài đối với chúng ta qua sự kiện, khi chúng ta còn là ngừơi tội lỗi, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,8). Nhưng chúng ta có thực sự hiểu sức mạnh của những lời ấy không? Tôi biết thánh giá Giới Trẻ thật là quí giá đối với các bạn, thánh giá này là món qua của thánh Gioan Phaolô 2 và ngay từ năm 1984 đã tháp tùng tất cả cuộc gặp gỡ thế giới của các bạn. Bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu cuộc hoán cải chân thành và đích thực đã nảy sinh trong cuộc sống của bao nhiêu bạn trẻ từ cuộc gặp gỡ với thánh giá trơ trụi ấy! Đây là câu trả lời: thánh giá là dấu chỉ hùng hồn nhất về lòng thương xót của Thiên Chúa! Thánh gia làm chứng cho chúng ta về mức độ tình thương của Thiên Chúa đối với ”nhân loại là yêu thương vô biên! Trong thánh giá, chúng ta có thể động chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa và để cho mình được chính lòng thương xót động chạm đến! Ở đây tôi muốn nhắc đến giai thoại 2 kẻ bất lương bị đóng đanh cạnh Chúa Giêsu: một người ngạo mạn, không nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, chế nhạo Chúa. Trái lại người khác nhìn nhận mình đã lầm lỗi, ngỏ lời với Chúa và nói: ”Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến con khi Ngài vào trong Nước của Ngài. Chúa Giêsu nhìn ông ta với lòng thương xót vô biên và trả lời ông: ”Ngày hôm nay, anh sẽ được ở cùng tôi trên thiên đàng” (Xc Lc 23,32.39-43). Chúng ta đồng hóa mình với ai trong hai người ấy? Với kẻ ngạo mạn và không nhìn nhận lỗi lầm của mình ư? Hay là với người kia, nhìn nhận mình cần lòng thương xót của Chúa và khẩn cầu với tất cả tâm hồn? Nơi Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì chúng ta trên thánh giá, chúng ta luôn tìm được tình yêu vô điều kiện, nhìn nhận cuộc sống chúng ta như một thiện ích và luôn ban cho chúng ta cơ hội bắt đầu lại.

 3. Niềm vui đặc biệt được là dụng cụ lòng thương xót của Chúa

 Lời Chúa dạy chúng ta rằng ”Cho đi thì phúc hơn là nhận lãnh” (Cv 20,35). Chính vì lý do đó, Mối Phúc thứ 5 tuyên bố: phúc cho những người có lòng thương xót. Chúng ta biết rằng Chúa yêu thương chúng ta trước. Nhưng chúng ta chỉ thực sự có phúc, hạnh phúc, nếu chúng ta đi vào lý luận của Thiên Chúa về việc trao tặng, theo tiêu chuẩn tình yêu nhưng không, nếu chúng ta khám phá rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô biên để làm cho chúng ta có thể yêu mến như Ngài, vô giới hạn. Như thánh Gioan đã nói: ”Hỡi các con rất quí mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu là bởi Thiên Chúa: ai yêu thương, thì được sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. [..] Tình yêu hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Ngài như hy tế đền tội cho chúng ta. Hỡi các con rất quí mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, cả chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,7-11).

 Sau khi đã giải thích một cách rất tóm tắt cách thức Thiên Chúa thực thi lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta, tôi muốn đề nghị với các bạn cách thức cụ thể để chúng ta có thể trở thành dụng cụ của lòng thương xót của Chúa đối với tha nhân.

 Tôi nghĩ đến gương của chân phước Piergiorgio Frassati. Người đã nói: ”Chúa Giêsu viếng thăm tôi mỗi buổi sáng trong khi rước lễ, tôi viếng thăm đáp lễ Ngài một cách nghèo nàn mà tôi có thể, khi viếng thăm những người nghèo”. Piergiorgio là một người trẻ đã hiểu thế nào là có một con tim từ bi, nhạy cảm đối với những người túng thiếu nhất. Người trao tặng họ hơn cả những điều vật chất; Người tặng họ chính bản thân mình, dành cho họ thời giờ, lời nói, khả năng lắng nghe. Piergiorgio phục vụ người nghèo một cách rất kín đáo, không bao giờ tỏ cho người khác thấy. Người sống thực lời dạy của Phúc Âm: ”Trong khi con làm phúc, tay trái đừng biết việc tay phải của con làm, để việc làm phúc của con ở trong vòng kín đáo” (Mt 6,3-4). Các bạn hãy nghĩ rằng một ngày trước khi qua đời, vì bị bệnh nặng, Piergiorgio còn căn dặn về cách thức giúp đỡ những người bạn nghèo túng của mình. Trong lễ an táng, thân nhân và các bạn hữu kinh ngạc vì thấy sự hiện diện của bao nhiêu người nghèo mà họ không biết, những người nghèo ấy đã được thanh niên Piergiorgio quan tâm và giúp đỡ.

 Tôi luôn thích liên kết các Mối Phúc của Tin Mừng với chương thứ 25 của Phúc Âm theo thánh Mathêu, khi Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta những công việc từ bi và nói rằng chúng ta sẽ bị phán xét dựa trên các công việc ấy. Vì thế tôi mời gọi các bạn hãy tái khám phá những công việc bác ái về thể lý: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần trụi y phục, đón tiếp những người ngoại kiều, giúp đỡ các bệnh nhân, viếng thăm những người bị cầm tù, chôn kẻ chết. Và chúng ta đừng quên những công việc bác ái tinh thần: khuyên bảo kẻ ngờ vực, giảng dạy kẻ dốt nát, cảnh giác kẻ có tội, an ủi kẻ sầu muộn, tha thứ những xúc phạm, kiên nhẫn chịu đựng những người làm phiền ta, cầu xin Chúa cho kẻ sống và kẻ chết. Như các bạn thấy, lòng từ bi thương xót không phải là thái độ xề xòa cái gì cũng tốt, và cũng chẳng phải là tình cảm ủy mị. Ở đây có một sự kiểm chứng xem chúng ta có phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không, chúng ta có đáng tín nhiệm trong tư cách là Kitô hữu trong thế giới ngày nay hay không?

 Với các bạn trẻ là những người rất cụ thể, tôi đề nghị trong 7 tháng đầu của năm 2016, mỗi tháng các bạn hãy chọn một công việc từ bi bác ái thể lý và tinh thần để thực thi. Hãy để cho kinh nguyện của thánh nữ Faustina soi sáng, thánh nữ là tông đồ lòng thương xót của Chúa trong thời đại chúng ta ngày nay:

 ”Lạy Chúa, xin giúp con làm cho đôi mắt con trở nên từ bi, làm sao để con không bao giờ nuôi dưỡng ngờ vực và không xét đoán theo những vẻ bề ngoài, nhưng biết nhận ra điều đẹp đẽ trong tâm hồn tha nhân và trợ giúp họ (..).

 Xin làm cho thính giác của con từ bi, để con cúi mình trên những nhu cầu của tha nhân, cho đôi tai con không dửng dưng đối với những đau khổ và tiếng rên xiết của tha nhân (..)

 Xin làm cho lưỡi con được từ bi và không bao giờ nói xấu người khác, nhưng có một lời an ủi và tha thứ đối với mỗi người (…).

 Xin làm cho đôi tay con từ bi và đầy những hành động tốt (..) cho đôi chân con từ bi, để con luôn chạy đến giúp đỡ tha nhân, chiến thắng sự lười biếng và mệt mỏi của con (…)

 Xin làm cho tâm hồn con từ bi, để con tham phần vào mọi đau khổ của tha nhân (Nhật ký 163).

 Vì thế sứ điệp Lòng thương xót của Chúa trở thành một chương trình sống rất cụ thể và yêu sách, vì bao hàm những công việc. Và một trong những công việc từ bi hiển nhiên nhất, nhưng có lẽ thuộc vào số những việc khó thực hành nhất, đó là tha thứ cho người đã xúc phạm tới chúng ta, người ta gây điều ác cho chúng ta, những người mà chúng ta coi là kẻ thù. ”Bao nhiêu lần tha thứ dường như là điều khó khăn dường nào! Nhưng tha thứ chính là dụng cụ được đặt trong bàn tay yếu đuối của chúng ta để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn. Từ bỏ sự oán hận, giận dữ, bạo lực và trả thù, chính là những điều kiện cần thiết để sống hạnh phúc” Dung mạo thương xót, 9).

 Tôi gặp bao nhiêu người trẻ nói mình mệt mỏi vì thế giới đang chia rẽ dường nào, trong đó các phe đụng độ nhau, bao nhiêu là chiến tranh, và có cả những kẻ dùng tôn giáo của mình để biện minh cho bạo lực. Chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta được từ bi thương xót với những kẻ làm điều ác cho chúng ta. Như Chúa Giêsu trên thánh giá đã cầu nguyện cho những kẻ đã đóng đinh Ngài: ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Con đường duy nhất để chiến thắng sự ác chính là lòng từ bi thương xót. Công lý là cần thiết, nhưng tự nó không đủ. Công lý và từ bi phải đi song đôi với nhau. Tôi mong ước dường nào cho tất cả chúng ta được hiệp nhất trong một kinh nguyện chung, từ thâm tâm chúng ta, khẩn cầu xin Chúa thương xót chúng ta và toàn thế giới!

 4. Cracovia đang chờ đợi chúng ta!

 Chỉ còn vài tháng nữa là đến cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Ba Lan. Cracovia, thành phố của thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina Kowalska, đang chờ đợi chúng ta với vòng tay và con tim rộng mở. Tôi tin rằng Chúa Quan Phòng đã hướng dẫn chúng ta cử hành Năm Thánh giới trẻ tại đó, nơi hai vị đại tông đồ lòng thương xót của Chúa thời nay đã sống. Đức Gioan Phaolô 2 đã trực giác thấy rằng đây là thời đại của lòng thương xót. Vào đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài, ngài đã viết thông điệp ”Thiên Chúa giàu lòng xót thương”. Trong Năm Thánh 2000, ngài đã phong thánh cho nữ tu Faustina, và thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa, vào chúa nhật thứ hai Phục Sinh. Và năm 2002, ngài đã đích thân khánh thành tại Cracovia Đền thánh Chúa Giêsu Thương xót, phó thác thế giới cho lòng Thương Xót của Chúa và cầu mong sứ điệp này đi tới tất cả mọi người trên trái đất và được tràn đầy niềm hy vọng trong tâm hồn. Cần thông truyền cho thế giới ngọn lửa thương xót ấy. Trong lòng thương xót của Chúa, thế giới sẽ tìm được an bình, và con người tìm được hạnh phúc!” (Bài giảng lễ cung hiến Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa ở Cracovia, 17-8-2002).

 Các bạn trẻ rất thân mến, Chúa Giêsu thương xót, được họa trong bức ảnh mà dân Chúa tôn kính ở Đền thánh Cracovia dâng kính Ngài, đang chờ đợi các bạn. Chúa tín nhiệm và chờ đợi các bạn! Chúa có bao nhiêu là điều quan trọng để nói với mỗi người các bạn.. Đừng sợ ngắm nhìn đôi mắt đầy tình thương vô biên của Ngài đối với các bạn và hãy để cho cái nhìn thương xót của Chúa đi tới các bạn, Người sẵn sàng tha thứ tội lỗi của các bạn, một cái nhìn có khả năng thay đổi cuộc đời của các bạn và chữa lành những vết thương trong tâm hồn các bạn, một cái nhìn thỏa mãn khát vọng sâu xa trong tâm hồn trẻ trung của các bạn:

 ”Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!”. Các bạn hãy để cho lòng thương xót vô biên của Chúa đánh động để trở thành những tông đồ của lòng thương xót qua các công việc, lời nói và kinh nguyện, trong thế giới chúng ta bị thương vì lòng ích kỷ, oán thù và bao nhiêu điều tuyệt vọng. Hãy mang ngọn lửa tình thương xót của Chúa Kitô mà thánh Gioan Phaolô 2 đã nói, vào trong các môi trường đời sống thường nhật của các bạn và cho đến tận bờ cõi trái đất. Trong sứ mạng này, tôi tháp tùng các bạn bằng những lời cầu chúc và kinh nguyện, tôi phó thác tất cả các bạn cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Từ Bi thương xót, trong giai đoạn chót của hành trình chuẩn bị tinh thần cho Ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới tại Cracovia. Tôi thành tâm chúc lành cho tất cả các bạn.

 Vatican ngày 15 tháng 8 năm 2015

 Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời

 Phanxicô

 G. Trần Đức Anh OP, dịch từ nguyên bản tiếng Ý

Lời khuyên thiết thực

Lời khuyên thiết thực

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.

Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.

Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.

1. Thinh lặng là một cõi riêng tư

Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.

Giữa những ồn ào của đám đông

giữa những sôi nổi của thành công

và ê chề của thất bại

xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa những đam mê quay cuồng

giữa những khát khao thèm muốn

và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,

xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước

giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,

chẳng có ai để cậy dựa,

xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,

để một mình ở đó

trầm lắng và bình an.

Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.

Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.

Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.

Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.

Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.

Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.

2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng

Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.

3. Thinh lặng để sống nội tâm

Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.

Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay  Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức tin cứu sống

Đức tin cứu sống

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:

Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:

– Hắn vẫn còn sống ư?

Người y tế trả lời:

– Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.

Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:

– Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác

Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.

Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.

Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.

Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.

Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.

Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.

Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.

Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.

Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.

Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

Mầu nhiệm tình yêu

Mầu nhiệm tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”. Đó là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Armêni vào tháng 12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩa táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.

Câu truyện trên giúp chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá và Ngài lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta.

Chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi thức bữa tiệc Vượt Qua (x.Xh 12,26-27). Nhưng lời mời gọi: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy”, Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ Vượt Qua cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán trên chén rượu cũng vậy: “Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Lời này đã gợi lại Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò, mà là máu của chính Con Một Thiên Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ. 2)

Hơn nữa, nếu trong lễ Vượt Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên chịu sát tế, thì cử chỉ Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị xâu xé, hiến cho người khác, và lời nói: “Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người…” lại càng làm nổi bật ý nghĩa hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là Bàn Tiệc Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể hiện trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn và Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái chết thành hy lễ cứu độ đem là sự sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên cho tất cả những ai tin vào Ngài. Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc này, đã được dự phần vào Giao Ước mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố chết và sống lại, được cùng với Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn và hiện tại hoá cuộc hiến tế của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội lại hướng về tương lai, hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời, bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay.

Theo lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24b), mỗi ngày và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh Thể để nhắc con cái mình nhớ đến tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân loại, Đấng ấy vẫn đang hiện diện để trao ban cho nhân loại bánh sự sống là chính Mình Máu Ngài. Vì thế, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán giả xem một vở kịch, cũng không phải chỉ nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ không liên hệ gì đến cuộc sống thực tế, nhưng là hiệp thông sự sống với Chúa Kitô, là chia sẻ hy tế thập giá của Ngài và cùng với Ngài tôi hiến dâng thân mình làm lễ tế sống động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Do đó, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không lập đi lập lại những cử chỉ, những động tác theo thói quen, nhưng tôi hiến dâng cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những lo âu và hy vọng, những tâm tư thao thức của tôi. Nói chung là tất cả những gì đan dệt nên cuộc sông đời thường đều có thể trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa, những hy lễ như dấu chỉ tình yêu của tôi nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương đến nỗi hiến ban chính Con Một yêu dấu cho tôi.

Mặt khác, Thánh Thể không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa Chúa và cá nhân tôi, nhưng còn mờ rộng, bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).

Ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung nhưng buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiẹm yêu thương ngay trong cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng tai bịt mắt trước nhưng anh em đói khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất, nhất là đói khát công lý và tình thương.

Giờ đây, chúng ta sắp cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta, một khi đã hiệp thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp với anh em bằng cuộc sống yêu thương phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đây chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông chia cùng một sự sống với Ngài. Nơi đây, chúng ta nối kết với mọi người anh em, để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn Tiệc hạnh phúc vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.

Nơi Chúa hẹn gặp ta

Nơi Chúa hẹn gặp ta

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Là con người sống trong không gian và thời gian, chúng ta thường suy nghĩ và tưởng tượng theo chiều kích của không gian và thời gian. Vì thế, khi Kinh Thánh nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” hoặc như “người bay” tự động cất bổng mình lên trời, để rồi không biết dừng lại ở hành tinh nào khi ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì sau khi sống lại 40 ngày, Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Các phi hành gia đầu tiên vào vũ trụ cho biết họ chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy Thiên Chúa!

Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.

Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công vụ Tông đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh: ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu đã được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ này nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.

Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin Mừng hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng “Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Kitô giáo sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bầu cho chúng ta trên trời (Dt 7,25) và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại (Ga 12, 32).

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Có một con người mang tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chẳng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không chỉ là phần thưởng cho con người, là sự “bù lỗ” cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.

Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).

Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ lên trời, không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời… Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời” (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.

Vui sướng biết bao: “Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta khi gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48). Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9). Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Huyền thoại tình yêu “Họa mi và bông hồng đỏ” kể rằng.

Một sớm mùa hè, con họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ :”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi“. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Hoạ mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?

– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình

– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Hoạ mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò. (Wiliam Oscar Wilde).

Họa mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp : có chứ.

Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mục Tử Nhân Lành

Mục Tử Nhân Lành

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Anh em là chứng nhân

Anh em là chứng nhân

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.

Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.

Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.

Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến. Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.

Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế. Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.

Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.

Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.

Chuyện Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi…)?

Làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều cần?

Cầu Nguyện

Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,

Xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."

Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.

NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG

NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG

Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.

Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.

Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an… Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.

Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.

Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.

Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.

Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.

Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt,