Đức Thánh Cha dâng hoa kính Đức Mẹ trong Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm

Đức Thánh Cha dâng hoa kính Đức Mẹ trong Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm

Chiều hôm qua, lúc 3 giờ rưỡi, ĐTC đã đến Đền Thờ Đức Bà Cả, dâng hoa kính Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma, trước khi đến Tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Quảng trường Tây Ban Nha, trước trụ sở Bộ truyền giáo được Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 9 khánh thành ngày 8-9 năm 1857, tức là 3 năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cột cao 11,81 mét trên đó có tượng Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

 ** Tại Quảng trường Tây Ban Nha, ĐTC đã được Đức TGM De Donatis, Giám quản Roma và Bà thị trưởng Virginia Raggi đón tiếp.

 Tại đây có sự hiện diện của hàng chục anh chị em bệnh nhân ngồi trên xe lăn, do tổ chức từ thiện Unitalsi giúp đưa tới đây, cùng với hàng ngàn tín hữu.

 Trước đài Đức Mẹ, ĐTC đã đặt vòng hoa tôn kính Mẹ Thiên Chúa và đọc lời nguyện dâng lên Đức Mẹ, cầu cho dân thành Roma và các nơi trên thế giới.

LỜI CẦU NGUYỆN VỚI MẸ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Lạy Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội,
trong ngày lễ hết sức thân thiết với đoàn dân Kitô,
Giữa lòng Roma con đến dâng lên Mẹ lòng thành kính.
Nơi tấm lòng mình, con mang theo đoàn tín hữu của Giáo Hội
và tất cả mọi người sống trong thành phố này, đặc biệt những người ố đau ốm
và những ai đang khó nhọc tiến bước trong những hoàn cảnh khác nhau.

Trước hết, chúng con cảm tạ Mẹ
vì sự đồng hành ân cần mẫu tử của Mẹ trên mỗi bước đường chúng con đi:
Bao lần chúng con được nghe kể trong nước mắt
từ nhiều người đã nghiệm thấy lời Mẹ chuyển cầu và
những hồng ân mà Mẹ đã xin cho chúng con với Chúa Giêsu Con Mẹ!
Con cũng nghĩ về một ơn thường hằng Mẹ đã làm cho những con dân Roma:
đó là đối diện với những điều khó chịu trong cuộc sống thường nhật bằng sự kiên nhẫn.

Vì đó, chúng con cầu xin Mẹ sức mạnh để không lùi bước,
nhưng dấn thân mỗi ngày để làm cho mọi sự tốt hơn trong khả năng của mình,
để Roma trở nên đẹp hơn và đáng sống cho tất cả mọi người
nhờ sự dấn thân từng ngày của mỗi người;
để đảm bảo quyền lợi của mọi người
nhờ việc chu toàn bổn phận của mỗi người.
Khi nghĩ về ích chung của thành phố này,
chúng con cầu xin Mẹ cho những ai đang gánh vác những trách nhiệm lớn lao:
có được ơn khôn ngoan, ơn lo liệu, tinh thần phục vụ và cộng tác.

Lạy Thánh Mẫu Đồng Trinh,
Cách đặc biệt, con dâng lên Mẹ các linh mục của giáo phận này:
cho những cha sở, cha phó, những linh mục già yếu
tiếp tục công việc phục vụ dân Chúa với con tim mục tử.
Con cũng cầu nguyện cho nhiều học viên linh mục
đến từ khắp thế giới hiện đang cộng tác tại các giáo xứ.
Con cầu nguyện cho họ có được niềm vui ngọt ngào trong việc loan báo Tin Mừng
và hồng ân là những người cha đầy lòng thương xót, biết gần gũi với dân chúng.

Lạy Đức Mẹ của những người nữ được thánh hiến cho Thiên Chúa,
con dâng lên Mẹ những nữ tu trong các hội dòng và các tu hội đời,
tạ ơn Thiên Chúa vì họ hiện diện tại Roma nhiều hơn bất kỳ thành phố nào trên thế giới,
để làm nên một bức tranh tuyệt đẹp về các dân tộc và văn hoá.
Con cầu nguyện cho họ có được niềm vui là những hiền thê và hiền mẫu như mẹ,
để sinh nhiều hoa trái trong cầu nguyện, trong đức ái và cảm thông.

Lạy Mẹ Chúa Giêsu
Điều cuối cùng con cầu xin Mẹ trong thời gian Mùa Vọng này,
khi nghĩ về những ngày mà Mẹ và thánh Giuse phải âu lo
về ngày sinh của con trẻ đang gần kề,
âu lo vì việc kiểm tra dân số và các ngài đã phải rời bỏ quê hương Nagiarét để đến Bêlem…
Mẹ hiểu thế nào là mang trong mình mầm sống
mà lại cảm thấy bị những người xung quanh từ chối, dửng dưng và coi thường.
Vì thế, con cầu xin Mẹ gần gũi những gia đình
ở Roma, ở Ý và mọi nơi trên thế giới
mà ngày nay đang sống trong những hoàn cảnh tương tự
để họ không bị bỏ rơi đơn độc, nhưng được bảo vệ trong các quyền của họ,
và quyền con người luôn có trước mọi cơ sơ pháp lý.

Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm,
là tia hy vọng của toàn thể nhân loại,
xin trông giữ thành phố này
trong các ngôi nhà, trong trường học, nơi làm việc, ngoài cửa hàng,
trong các nhà máy, các bệnh viện, các nhà tù
để không nơi nào thiếu điều quý giá nhất
mà Roma có và giữ cho toàn thế giới,
là điều Chúa Giêsu trăn trối:
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (x. Ga 13,34).

Amen.

Trên đường từ Quảng trường Tây Ban Nha về Vatican, ĐTC đã dừng lại tại trụ sở của nhật báo Il Messaggero, Người Sứ Giả, tại đường Tritone, để chào tham ban giám đốc và các ký giả và nhân viên của báo này. Năm nay, báo Il Messaggero kỷ niệm 140 năm thành lập. Báo có số ấn hành gần 90 ngàn tờ trên giấy và gần 11 ngàn ở dạng kỹ thuật số

(SD 8-12-2018)

Văn Yên, SJ – Vatican

Các đan sĩ – những chứng nhân của Chúa Kitô cho thế giới hôm nay

Các đan sĩ – những chứng nhân của Chúa Kitô cho thế giới hôm nay

Thử thách giúp xác tín hơn khi nói về Tin mừng

Trước hết, Đức cha Carballo xác định rằng đời sống đan tu, cũng như mọi hình thức “đi theo Chúa Kitô”, đều đối diện với nhiều thử thách, nhưng các đan sĩ không xem các thử thách như những vấn đề mà ngược lại, là những cơ hội để đời sống của họ có ý nghĩa hơn khi nói về Tin mừng và nuôi dưỡng một đức tin sáng tạo…

Không trốn đời, nhưng bày tỏ gương mặt của Thiên Chúa

Tiếp đến, các đan sĩ không trốn tránh cuộc đời vì cho rằng nó hư hoại, tội lỗi, không thể sống được; nhưng họ chọn sống trong thế giới theo cách thế của Tin mừng để cho người ta nhìn thấy Thiên Chúa. Đắm mình trong sự sâu thẳm của sự hiện hữu con người, các đan sĩ hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa và làm chứng về một cuộc sống, không bị tê liệt bởi những an toàn được tinh thần hóa hoặc mê hoặc, nhưng năng động, hòa nhịp với tất cả các chiều kích của cuộc sống. Khi sống theo Tin mừng, các đan sĩ làm cho Thiên Chúa tình yêu trở nên cụ thể đối với  những người nam nữ trong thời đại chúng ta…”

Chứng tá về cuộc sống hiệp nhất, gặp gỡ, đối thoại

Đức cha Carballo nói rằng vì thời đại của chúng ta bị chi phối bởi sự đề cao tư duy cá nhân, năng lực cá nhân và nhu cầu tự làm, do đó nó cần sự đối thoại, lắng nghe, thinh lặng đích thực, giúp đưa đến sự suy tư, các suy tưởng và hình thành nền văn hóa gặp gỡ. Các đan sĩ được mời gọi hiệp nhất với nhau để làm chứng trong cuộc sống hàng ngày về các tâm tình của Chúa Kitô, để suy nghĩ theo Tin mừng và hành động như Chúa Giêsu. Các đan viện được mời gọi xét lại những điều này và các yếu tố khác để bảo đảm sự hiện diện gặp gỡ của mình bên cạnh những người nam nữ trong thời đại chúng ta.

Làm chứng về vẻ đẹp của thân xác

Trong thời đại này, khi con người thường bị chà đạp và thân xác bị biến thành thứ đồ vật bị thao túng và để sử dụng, thì những người thánh hiến, cũng như những đan sĩ chiêm niệm, được kêu gọi làm chứng tá rằng thân xác không phải là một nơi của tội lỗi. Họ được mời gọi nói về vẻ đẹp của sự hiện hữu được ban nhưng không qua kiệt tác thân thể.

Qua sự hiện hữu của mình, những người thánh hiến và đặc biệt là các đan sĩ trình bày rằng thân xác và những đặc tính của thân xác là đền thờ của Thiên Chúa. Họ dấn thân làm chứng rằng Kitô giáo không chống lại thân xác và các phẩm chất của nó, nhưng làm chứng rằng đó là nơi và không gian Thiên Chúa tỏ hiện chính mình, trong cuộc sống độc đáo của mỗi người. Họ được kêu gọi làm chứng về ​​vẻ đẹp của con người được nhìn thấy nơi thân xác của những người sống hội nhập, có khả năng liên hệ. Họ được mời gọi để bảo vệ con người trong tất cả các khía cạnh của nó.

Làm chứng về sự ổn định, sống chung và tôn trọng nhau

Trong một thế giới bị xé rách bởi các mảnh vỡ, chiều kích chiêm niệm cho thấy khả năng có thể tái dệt lại tấm vải nhân loại cách cá nhân và cộng đồng, nhiều lần bị xé toạc bởi vì sự trống rỗng. Trong xã hội không có quy tắc, nơi cái tôi trở thành thước đo của mọi thứ, cộng đoàn chiêm niệm được kêu gọi làm chứng về ​​vẻ đẹp của sự tự do được thể hiện qua sự tôn trọng đối với mọi người và với thụ tạo khi xây dựng các lợi ích chung…

Đối với việc sử dụng và phung phí thời gian, cộng đoàn chiêm niệm đề xuất sự ổn định của một cộng đồng sống chung với ý nghĩa của cuộc sống được lựa chọn và người ta gắn bó với nó với niềm đam mê, tôn trọng từng người và nhìn nhận những vai trò khác nhau. Cuộc gặp gỡ với Chúa qua lời cầu nguyện cho phép những người chiêm niệm lắng nghe những gì Thánh Linh nói trong đời sống cá nhân và cộng đồng, để có được một cái nhìn chiêm niệm về các sự kiện, về sự trung gian, về lịch sử của con người.

Các cách sống nghèo của các cộng đoàn đan tu

Thứ nhất, các cộng đoàn ít người, đang già đi hay đau yếu, thật sự cảm thấy mình nghèo khó, có thể trưởng thành trong chọn lựa kết hợp với các cộng đoàn khác để trở thành sự hiện diện có ý nghĩa trong Giáo hội, qua lối sống phù hợp với căn tính của người thánh hiến được thực hiện trong việc chuyên chăm cử hành phụng vụ và các mối liên hệ huynh đệ.

Tiếo đến, người nghèo đối với Thiên Chúa là người tín thác nơi Chúa và tự do khỏi tất cả những điều ngăn cản họ sống như Chúa Giêsu. Bằng cách tích lũy vật chất của cải, các cộng đoàn đang ngày càng rời xa nguồn gốc của sự sống, Chúa Kitô và Tin mừng, và mất đi ý thức rằng mình đang ở trong một đan viện. Chỉ sở hữu những gì là cần thiết, bằng cách chia sẻ điều này với người nghèo, đó là tin tưởng vào Thiên Chúa, làm chứng về sự chăm sóc của Đấng Quan phòng, Đấng không bao giờ bỏ rơi nhân loại: làm cho sự gần gũi của Thiên Chúa trong lịch sử con người trở nên hữu hình, Đấng trở nên nghèo nàn như người nghèo.

Từ bỏ và tự do về tinh thần

Các đan sĩ làm thế nào diễn tả sự nghèo khó Tin mừng? Những hình thức nghèo đói và bé nhỏ nào họ được mời gọi khám phá hoặc "phục hồi", để lời khấn khó nghèo thực sự là một chứng tá hữu hình và đáng tin cậy, có ý nghĩa? Đâu là nền tảng sự nghèo khó thực sự của họ? Các đan sĩ tin rằng “là người lữ hành”, được hiểu trên hết là sự từ bỏ và tự do tinh thần, là một đặc tính của ơn gọi chiêm niệm trong thời gian này, khi mà nhiều cộng đoàn phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.

Đời đan tu thể hiện mối quan hệ trung thành giữa Thiên Chúa và con người

Trong một thế giới đang mất đi chiều sâu của sự giao tiếp, các đan sĩ được kêu gọi, qua sự hiện diện của mình, làm cho mối quan hệ trung thành của Thiên Chúa với nhân loại trở nên hữu hình. Trong thời đại mà các tiếng nói chồng chéo lên nhau, các đan sĩ có sứ mệnh lớn lao là làm chứng nhân về chiều sâu của cuộc sống, mang lại tiếng nói cho thinh lặng, làm cho thấy chúng ta có thể sống trong sự thanh tĩnh; chính trong thời đại mà, để sống, chúng ta chìm đắm trong sự ồn ào, và để lấp đầy những khoảng trống của sự hiện hữu hoặc tình cảm, không được xác định, người ta điên cuồng chạy từ góc này đến góc kia của trái đất mà không cảm nhận được sự sâu sắc và ổn định của các mối quan hệ. Các đan viện được kêu gọi để trở thành nơi loan báo trước, nơi mà thụ tạo trở thành lời ca ngợi Chúa và phương châm bác ái cụ thể trở thành lý tưởng sống chung của con người và nơi con người tìm kiếm Thiên Chúa mà không bị rào cản hoặc ngăn cản, khi trở thành điểm quy chiếu cho mọi người, và khi mang họ vào trong tim mình và giúp họ tìm kiếm Thiên Chúa.

Hồng Thủy, Vatican

Thánh lễ bế mạc Thượng HĐGM thứ 15 về giới trẻ

Thánh lễ bế mạc Thượng HĐGM thứ 15 về giới trẻ

Đồng tế với ĐTC có các nghị phụ, trong đó có 50 Hồng Y, 6 vị Thượng Phụ, phần lớn còn lại là các GM đại biểu của các HĐGM cùng với một số LM, trong đó có 10 vị do Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nam bầu lên và 10 vị do ĐTC bổ nhiệm. Hơn 40 dự thính viên ngồi tại những hàng ghế gần bàn thờ.

 Bài đọc thứ I bằng tiếng Anh trích từ sách Ngôn Sứ Giêrêmia (31,7-9) do anh Cao Hữu Minh Trí, dự thính viên thuộc giáo phận Sàigòn, tuyên đọc.

 Bài giảng của ĐTC

 Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào trình thuật Tin Mừng theo thánh Marco về việc Chúa Giêsu chữa lành anh Bartimeo bị mù bẩm sinh, ĐTC đã rút ra 3 bài học từ thái độ của Chúa Giêsu, đó là lắng nghe, trở nên gần gũi và làm chứng, để áp dụng vào hành trình Thượng HĐGM vừa chấm dứt và hành trình tiếp sau đó.

 Lắng nghe

 Trước hết Chúa Giêsu đã lắng nghe tiếng kêu của anh mù Bartimeo nằm một mình bên vệ đường, không được yêu thương, bị bỏ rơi. Anh ta mù và không có ai nghe anh. Chúa Giêsu lắng nghe tiếng kêu của anh. Và khi gặp anh, Ngài để anh ta nói và anh đã xin cho mình được thấy. ĐTC nói:

 Đó bước đầu tiên để giúp hành trình đức tin là lắng nghe. Đó là tông đồ bằng tai: lắng nghe trước khi nói.

 Trái lại, nhiều người ở với Chúa Giêsu đã khiển tránh anh Bartimeo để anh im đi (Xc v.48). Đối với các môn đệ này, kẻ túng quẫn là người gây xáo trộn trên đường, một sự bất ngờ xảy trong chương trình định trước. Họ thích thời kỳ của họ hơn là thời kỳ của Thầy, thích lời nói của họ hơn là nghe người khác.. Trái lại, đối với Chúa Giêsu, tiếng kêu của người cầu cứu không phải là điều làm phiền, cản trở bước đường, nhưng là một yêu cầu sinh tử. Đối với chúng ta, thật là quan trọng dường nào khi lắng nghe cuộc sống! Các con của Cha trên trời lắng nghe anh em mình: không nghe những chuyện tầm phào vô ích, nhưng nghe những nhu cầu của tha nhân…

 Trong chiều hướng trên đây, ĐTC đã nhân danh tất cả những người lớn xin lỗi những người trẻ vì – ngài nói – nhiều khi ”chúng tôi đã không lắng nghe các bạn.. Trong tư cách là Giáo Hội của Chúa Giêsu, chúng tôi muốn lắng nghe các bạn với tình yêu thương, xác tín chắc chắn về hai điều: thứ I, cuộc sống của các bạn là quí giá đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa trẻ trung và yêu thương người trẻ; thứ hai cuộc sống của các bạn là quí giá đối với chúng tôi, cần thiết để tiến bước”.

 Đồng hành trong đức tin

 Sau khi lắng nghe, bước thứ hai là để đồng hành trong đức tin là trở nên gần gũi. Chúa Giêsu hỏi anh mù: Anh muốn gì? Anh muốn tôi làm gì cho anh? Làm chứ không phải chỉ nói mà thôi. Chúa đặt mình trong tư thế của Bartimeo, không xa cách những mong đợi của anh. Đó là cách thức hành động của Thiên Chúa; đích thân can dự trong tình yêu thương đặc biệt đối với mỗi người. Trong cách hành động của Ngài, Ngài thông truyền sứ điệp, và nhờ đó đức tin nảy mầm trong cuộc sống… đức tin là sự sống. Chúng ta không thể là những người duy đạo lý hoặc duy hành động; chúng ta được kêu gọi thi hành công việc của Chúa cho thế giới của Thiên Chúa, trong sự gần gũi, gắn bó với Chúa, hiệp thông giữa chúng ta, gần gũi các anh chị em..

 Làm chứng

  ”Bước thứ ba là làm chứng. Chúng ta hãy nhìn các môn đệ gọi anh mù Bartimeo: họ không đến gặp anh đang ăn xin, với một đồng tiền nhỏ hoặc ban cho anh những lời khuyên; họ đến nhân danh Chúa Giêsu, nói với anh ba lời của Chúa: ”Can đảm lên, hãy đứng lên, Người gọi anh kìa!” (v.49).

 ĐTC giải thích: ”Chờ đợi những người anh em đang tìm kiếm đến gõ cửa của chúng ta, đó không phải là điều hợp với tinh thần Kitô; chúng ta phải đi đến gặp họ, không mang bản thân chúng ta, nhưng mang Chúa Giêsu. Chúa sai chúng ta, như những môn đệ ấy, nhân danh Chúa khích lệ và nâng đỡ dậy. Chúa sai chúng ta nói với mỗi người: ”Thiên Chúa yêu cầu bạn hãy để cho Ngài yêu thương bạn”. Bao nhiêu lần thay vì mang sứ điệp giải thoát ấy, chúng ta đã mang chính mình, mang những công thức, những nhãn hiệu trong Giáo Hội! Bao nhiêu lần thay vì đón nhận lời Chúa, chúng ta coi những ý tưởng của chúng ta là Lời Chúa! Bao nhiêu lần dân chúng cảm thấy gánh nặng của các cơ cấu tổ chức của chúng ta hơn là sự hiện diện thân hữu của Chúa Giêsu! Thế là chúng ta trở thành một tổ chức phi chính phủ, không phải là cộng đoàn những người được cứu độ sống niềm vui của Chúa”.

 Lời cám ơn của ĐTC

 Trong phần kết của bài giảng, ĐTC cám ơn tất cả những người đã tham dự vào cuộc đồng hành với nhau, cám ơn vì chứng tá của mọi người. Ngài nói: ”Chúng ta đã làm việc trong tình hiệp thông và thẳng thắn, với ước muốn phụng sự Thiên Chúa và dân của Ngài. Xin Chúa chúc lành cho những bước đường của chúng ta để chúng ta có thể lắng nghe những người trẻ, trở nên gần gũi và làm chứng cho họ niềm vui cuộc sống của chúng ta là Chúa Giêsu. (Rei 28-10-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Huấn Thị Bộ Giáo Lý đức tin về an táng và giữ tro hỏa táng

Huấn Thị Bộ Giáo Lý đức tin về an táng và giữ tro hỏa táng

huan-thi-cua-bo-giao-ly-duc-tin-ve-an-tang-va-giu-tro-hoa-tang

VATICAN. Bộ Giáo Lý đức tin tái khẳng định lập trường của Giáo Hội cổ võ an táng người chết thay vì hỏa táng. Và trong trường hợp hỏa táng, phải giữ tro cốt người chết tại nghĩa trang hoặc tại nhà thờ và không được rải tro trong thiên nhiên.

Trên đây là nội dung Huấn Thị ”Ad resurgendum cum Christo” (Để sống lại với Chúa Kitô), do Bộ giáo lý đức tin công bố sáng ngày 25-10-2016. Huấn thị gồm 8 đoạn, được ĐTC Phanxicô phê chuẩn ngày 18-3-2016 và truyền công bố. Huấn thị mang chữ ký ngày 15-8-2016 của ĐHY Tổng trưởng Gerhard Mueller và vị Tổng thư ký là Đức TGM Luis Ladaria S.I. Chính ĐHY cùng với 2 chuyên gia đã giới thiệu văn kiện này trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh.

Nội dung

Sau khi nhắc lại những lý do đạo lý khiến truyền thống của Giáo Hội cổ võ việc an táng người chết, nhưng không cấm hỏa táng trừ khi người ta thi hành việc này vì chống đối đạo lý của Hội Thánh, trong đoạn số 4, Bộ giáo lý đức tin khẳng định rằng: ”Nơi nào vì lý do vệ sinh, kinh tế hoặc xã hội khiến người ta chọn hỏa táng, – sự chọn lựa này không được trái với ý muốn rõ ràng hoặc giả thiết một cách hữu lý là không trái ý người quá cố, – Giáo Hội không đưa ra những lý do đạo lý để cấm hỏa táng, vì việc hỏa táng không chạm tới linh hồn và không cản trở sự toàn năng của Chúa làm cho xác được sống lại, vì thế nó không phủ nhận khách quan đạo lý Kitô về sự bất tử của linh hồn và sự sống lại của thân xác. Giáo Hội tiếp tục ưa chuộng việc chôn cất thi hài vì qua đó Giáo Hội bày tỏ sự quí trọng hơn đối với người quá cố; tuy nhiên, việc hỏa táng không bị cấm, ”trừ khi hành động này được chọn vì những lý do trái với đạo lý Kitô” (4).

Trong đoạn 5, Huấn thị khẳng định rằng ”tro người chết theo luật phải được giữ ở một nơi thánh, nghĩa là tại nghĩa trang, hoặc trong một thánh đường hay một khu vực được thiết định với mục đích ấy, theo qui định của nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội”.

”Việc giữ tro tại một nơi thánh có thể góp phần giảm bớt nguy cơ lén lút đưa người chết ra khỏi kinh nguyện và ký ức của thân nhân và cộng đoàn Kitô. Ngoài ra, người ta cũng tránh được tình trạng người chết có thể bị quên lãng hoặc thiếu tôn trọng, điều này có thể xảy ra nhất là khi thế hệ thứ I qua đi, và do những đường lối thực hành không thích hợp hoặc mê tín”.

Đoạn 6 của Huấn thị khẳng định rằng: ”Vì những lý do nói trên, việc giữ tro người chết tại tư gia là điều không được phép. Chỉ trong những trườnghợp hệ trọng và đặc biệt, do những hoàn cảnh văn hóa của địa phương, vị Bản Quyền (Đức Giám mục giáo phận hoặc vị Tổng Đại diện), thỏa thuận với HĐGM hoặc với Hội đồng của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, có thể cho phép giữ tro ở nhà tư. Nhưng tro hỏa táng không được chia sẻ giữa những người thân trong gia đình với nhau và luôn luôn phải đảm bảo sự tôn trọng và những điều kiện thích hợp để bảo tồn tro”.

Trong đoạn 7, Huấn thị dạy rằng ”để tránh mọi thứ mơ hồ phiếm thần, duy thiên nhiên hay duy hư vô, không được phép tung tro trong không khí, trên mặt đất hoặc trong nước, hoặc theo một cách thức khác, hay giữ tro trong các đồ kỷ niệm, trong một nữ trang hoặc các vật dụng khác, cũng để ý rằng không thể chấp nhận các phương thức tiến hành như thế dựa vào những lý do vệ sinh, xã hội hoặc kinh tế có thể khiến người ta chọn lựa hỏa táng”.

– Sau cùng, trong trường hợp người quá cố đã công khai yêu cầu hỏa táng mình và tung tro của mình trong thiên nhiên, vì những lý do trái ngược với đức tin Kitô, thì không thể cử hành lễ an táng đương sự, chiếu theo luật (n.8).

Họp báo

– Trong cuộc họp báo, ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Mueller, bày tỏ hy vọng ”Huấn Thị mới này có thể góp phần để các tín hữu Kitô ý thức hơn nữa về phẩm giá của họ là con cái Thiên Chúa (Rm 8,16). Chúng ta đang đứng trước một thách đố mới đối với công cuộc loan báo Tin Mừng về sự chết. Chấp nhận con người là thụ tạo của Thiên Chúa không trở thành hư vô, đòi phải nhìn nhận Thiên Chúa là nguyên ủy và là vận mạng của cuộc sống con người: chúng ta xuất thân từ đất chúng ta và sẽ trở về đất, trong khi chờ đợi sống lại. Vì thế cần loan báo theo tinh thần Tin Mừng về ý nghĩa sự chết dươi ánh sáng niềm tin nơi Chúa Kitô Phục Sinh, là lò tình yêu nồng cháy, thanh tẩy và tái tạo, trong khi chờ đợi người chết sống lại và sự sống trong thế giới mai hậu (Xc n.2). Như Tertulliano đã viết: ”Sự sống lại của người chết chính là niềm tin của các Kitô hữu: khi tin nơi sự sống lại chúng ta là Kitô hữu” (De resurrectione carnis, 1,1).

Đức ông Angel Rodriguéz Luno, Cố vấn Bộ giáo lý đức tin, cho biết sở dĩ Huấn thị cấm ”tung tro trong thiên nhiên”, là để tránh mọi sự lẫn lộn về đạo lý.. ”Thực vậy, sự chọn lựa tung tro thường xuất phát từ ý tưởng với cái chết toàn con người bị hủy diệt, đi tới độ hòa với thiên nhiên, như thể đó là định mệnh chung cục của con người. Đôi khi nó cũng xuất phát từ một sự hời hợt, từ ý muốn che dấu hoặc riêng tư hóa khi nói về cái chết, hoặc từ sự phổ biến sở thích không đúng”.

Về vấn nạn: việc giữ tro hỏa táng của một người thân (cha, mẹ, vợ chồng, con cái) ở trong tư gia có thể là do ước muốn gần gũi và thảo hiếu, giúp dễ tưởng nhớ và cầu nguyện. Đó không phải là động lực thường xuyên, nhưng trong một số trường hợp có lý do ấy. Nhưng có nguy cơ việc giữ tro ở tư gia như thế có thể tạo nên sự quên lãng và thiếu tôn trọng, nhất là khi thế hệ thứ I qua đi (Xc. n.5), hoặc có thể dẫn đến những thứ tang chế không lành mạnh. Nhưng nhất là phải để ý rằng các tín hữu qua đời là thành phần của Giáo Hội, là đối tượng kinh nguyện và tưởng nhớ của người sống, nên điều tốt đẹp là di tích của họ được Giáo Hội đón nhận và gìn giữ với lòng kinh trọng, qua dòng thời gian, tại những nơi mà Giáo Hội đã làm phép với mục đích ấy, không đưa họ ra khỏi ký ức và kinh nguyện của người thân và cộng đoàn” (SD 25-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

scattering-urns

Chủ đề Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa 15 về giới trẻ

Chủ đề Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa 15 về giới trẻ

Chủ đề Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa 15 về giới trẻ

VATICAN. ĐTC đã quyết định chọn chủ đề cho Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 15 vào tháng 10 năm 2018 là: ”Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”.

 Thông cáo công bố hôm 6-10-2016, của Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM cho biết ĐTC đi tới quyết định trên đây sau khi tham khảo ý kiến các HĐGM, các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương tự quản, Liên Hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nam, các nghị phụ Thượng HĐGM khóa 14 và Hội đồng của Thượng HĐGM của khóa này.

 ”Đề tài trên đây biểu lộ sự quan tâm mục vụ của Giáo Hội đối với giới trẻ, nối tiếp những điều được nói đến trong các Thượng HĐGM về gia đình và với nội dung Tông huấn Hậu Thượng HĐGM ”Amoris laetitia” (Niềm Vui Yêu thương). Chủ đề này nhắm đồng hành với người trẻ trong hành trình thiết yêu của họ tiến đến sự trưởng thành, để qua một tiến trình phân định, họ có thể khám phá dự phóng của cuộc sống và thực hiện dự án ấy trong vui tươi, cởi mở đối với cuộc gặp gỡ Thiên Chúa và với con người và tích cực tham gia vào việc xây dựng Giáo Hội và xã hội” (SD 6-10-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Sau 8 thế kỷ, lần đầu Thánh giá thánh Damiano được mang về lại nhà thờ thánh Damiano

Sau 8 thế kỷ, lần đầu Thánh giá thánh Damiano được mang về lại nhà thờ thánh Damiano

Thánh giá thánh Damiano

Assisi – Sau gần 8 thế kỷ, Thánh giá thánh Damiano sẽ được mang về lại nơi nguyên thủy, nhà thờ thánh Damiano, là chính nơi mà Thánh giá đã “nói chuyện” với Thánh Phanxicô thành Assisi, hay còn gọi là Phanxicô khó khăn.

Thánh giá thánh Damiano là Thánh giá theo kiểu Byzantin có biểu tượng nổi tiếng, đã lan rộng trên khắp thế giới, được làm tại Umbria nước Italia vào thế kỷ thứ 12. Đây là Thánh giá đã “nói chuyện” với Thánh Phanxicô thành Assisi và thay đổi cuộc đời của thánh nhân và cuộc sống của Giáo hội. Thánh giá đã yêu cầu thánh Phanxicô: “Đi và sửa chữa lại nhà của ta” (tức là Giáo hội), thánh nhân đã vâng lời. Thánh giá được giữ tại đền thờ Thánh Clara ở Assisi từ khi các nữ tu dòng thánh Clara di chuyển về đây sau khi thánh nữ Clara qua đời.

Trong một thông báo của các tu sĩ Phanxicô viết: cộng đoàn thánh Damiano, được sự đồng ý của các nữ tu dòng thánh Clara tại đan viện đầu tiên của dòng ở Assisi và Ủy ban giám sát thành phố Perugia, thông báo một sự kiện ngoại thường, đã được cộng đoàn nghĩ đến trong dịp Năm Thánh Lòng Thương xót, đó là từ ngày 15-19 tháng 6 năm 2016, Thánh giá thánh Damiano sẽ được đưa về nhà thờ thánh Damiano. Đây là một cuộc di chuyển lịch sử vì là lần đầu tiên Thánh giá được đưa về lại nhà thờ thánh Damiano sau 8 thế kỷ. Nghi thức khai mạc sẽ được vị bề trên tỉnh dòng Phanxicô tỉnh Umbria chủ sự vào lức 12 giờ trưa.

Nhà thờ thánh Damiano sẽ mở cửa từ 6.30 đến 23 giờ trong các ngày 15-19 tháng 6 cho các tín hữu vào kính viếng Thánh giá. (ACI 15/6/2016)

Hồng Thủy OP

 

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Một cái nhìn thoáng qua về các nữ tu “Áo đỏ” ở Thái lan

Red Nuns - redemptoristine-nuns

Một nhóm các nữ tu dòng kín Hoa kỳ đã lập một đan viện mới ở Bangkok để mang tinh thần chiêm niệm của họ đến vùng đông bắc Thái lan. Nữ tu Joan Claver, đã khấn dòng 63 năm, bề trên và sáng lập của đan viện mới, nói với báo Catholic News Agency rằng: “ Đóng góp của chúng tôi cho nhu cầu của thế giới là sự cầu nguyện.” Chị giải thích là các nữ tu cũng rất yêu mến các công việc tông đồ như giảng dạy, chăm sóc y tế hay cuộc sống gia đình, nhưng các nữ tu dòng Chúa Cứu Thế được gọi sống ơn gọi đặc biệt trong cuộc sống cầu nguyện chiêm niệm. Tất cả cùng đóng góp để xây dựng một xã hội và thế giới tốt đẹp hơn. Hiện giờ cộng đoàn của họ có 5 thành viên: 4 nữ tu và 1 thỉnh sinh.

Trước đó, vào năm 2011, một vài nữ tu của dòng Chúa Cứu Thế ở St. Louis, Missouri đã đến Thái lan để tìm hiểu xem có thể gieo mầm cho đan viện sống tinh thần chiêm niệm trong vùng này không.

Các nữ tu Chúa Cứu Thế được biết cách thân thiên như các sơ “Áo đỏ” bởi vì tu phục truyền thống của các chị màu đỏ đậm. Các chị cũng mang khăn choàng vai và áo choàng màu xanh biển với một huy hiệu màu có hình Chúa Cứu Thế. Thắt lưng của các chị có tràng hạt 150 với ảnh tượng in nổi các biểu tượng của cuộc thương khó của Chúa Giê su. Những yếu tố chính trong tinh thần chiêm niệm của các sơ “Áo đỏ” là: Thánh vịnh, cầu nguyện, chầu Thánh Thể và thinh lặng. Các sơ dùng mọi giây phút hoạt động trong cuộc sống của mình để cầu nguyện từ sáng đến tối. Ngay cả công việc nhà của họ cũng nối kết với cầu nguyện.

Nữ tu Maria Suphavadi Kamsamran, người Thái, cho biết: “Chúng tôi sống cầu nguyện mọi giây phút từ khi thức giấc cho đến khi nghỉ đêm. Các cuộc suy niệm của chúng tôi trải dài từ thời thơ ấu của Chúa Giêsu đến cuộc thương khó trên Thánh giá, và Thánh thể là nguồn sống thiêng liêng của chúng tôi.” Chị cám ơn Chúa và giáo phận Nakhon Ratchasima đã trợ giúp các chị trong sứ vụ cầu nguyện. Đan viện mới có một nhà nguyện riêng, các phòng cho các sơ và nhà cơm; nhiều phần của tòa nhà vẫn chưa được trang bị hoàn tất.

Giáo phận Nakhon Ratchasima giúp cho các nữ tu khu đất rộng hơn 3 mẫu tây ở trung tâm của thành phố Korat, cách Bangkok khoảng 136 dặm. Giáo phận và các nhà tài trợ khác đã giúp thành lập nữ đan viện chiêm niệm trong giáo phận. Đức cha Joseph Chusak Sirisut đã chủ sự Thánh lễ tạ ơn cho đan viện vào ngày 31/10/2015. Ngài làm phép đan viện với sự hiên diên của các nữ tu Chúa Cứu Thế người Hoa kỳ, các Linh mục dòng Chúa Cứu Thế Thái lan, các tu sĩ và giáo dân. Đức cha Chusak nói với báo Catholic News Agency rằng: “Tôi muốn giáo phận cũng trở thành trung tâm của cầu nguyện”. Đức cha giải thích là mỗi giáo phận cần có ít nhất một dòng chiêm niệm, và các nữ tu áo đỏ đã điền vào điều còn thiếu này của giáo phận. Ngài nói các sơ sẽ là “ngọn hải đăng cầu nguyện” mang lại sinh lực cho khu vực, làm chứng cho niềm hi vọng, và khuyến khích đời sống cầu nguyện cho vùng này.

Đức cha Chusak cũng là người đứng đầu cho những nỗ lực đối thoại liên tôn của các Giám mục Công giáo Thái lan. Đức cha cho biết phần lớn dân chúng người Phật giáo của Thái lan dành sự ngưỡng mộ và kính trọng cho các hoạt đông mục vụ và tông đồ của Công giáo trong các lãnh vực giáo dục, phục vụ xã hội và bác ái. Những nỗ lực này được thực hiện bởi các dòng truyền giáo khác nhau. Đức cha nói thêm:”Các tín hữu Phật giáo và tôn giáo khác ở đây thường thấy các nữ tu hoạt động, nhưng họ cũng sẽ thấy những nữ tu cầu nguyện không ngừng; mọi người sẽ được biết đời sống thinh lặng chiêm niệm đan tu của chúng ta.”

Dòng các nữ tu Chúa Cứu Thế được thành lập bởi đấng đáng kính Maria Celeste Crostarosa vào năm 1731 với sự trợ giúp của thánh Alphonso Liguri, đấng sáng lập dòng Chúa Cứu Thế. Quy luật của dòng được Đức Thánh Cha Biển Đức XIV phê chuẩn vào năm 1771. Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc phong chân phước cho Mẹ Maria Celeste Crostarosa, và việc phong chân phước được dự kiến vào ngày 18/06/2016. (CAN 18/03/2016)

Hồng Thủy OP

 

Cộng tác viên không phải bù nhìn

Cộng tác viên không phải bù nhìn

Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy có một chiếc ca-nô tiến đến.

Người tài công nói với bà:

– “Bà leo lên đây và cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”

Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất hiện. Người lái tầu bảo,

– “Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”

Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà,

– “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình.”

– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.

Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên đến thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ tôi.”

Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, “Tôi không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc trực thăng.”

Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn.

Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín thác của họ và của bà.

Hãy xem đó là gì.

– Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.

– Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.

Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban để có được sự chữa lành họ cần.

Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường. Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta.

Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.

Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.

Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.

Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.

Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau: “Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa.”

Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: “Thiên Chúa giúp những ai tự giúp mình.”

Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề cho bài hát. Câu ấy như sau: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”

Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.

Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn. Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta.

Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp. Khi chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người.

Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan Livingston Seagull: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”

Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt của Ngài.

LM Mark Link

NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG

NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG

Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.

Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.

Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an… Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.

Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.

Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.

Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.

Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.

Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt,

Cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine

Cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine

Một số nhận định của nữ ca sĩ Noa người Israel

Một tháng chiến tranh trong vùng Gaza giữa quân đội Israel và lực lượng Kamas đã khiến cho hơn 2,100 người thiệt mạng, đa số là thường dân Palestine, hàng chục ngàn người bị thương, 20,000 người không còn nhà cửa và hơn 200,000 người phải tản cư lánh nạn. Cảnh hoang tàn đổ nát xảy ra khắp nơi đặc biệt là tại mạn bắc dải Gaza, nơi đã bị quân đội Israel liên tục bỏ bom, oanh kích và bắn trọng pháo nhằm phá hủy các đường hầm của lực lượng Hamas. Cuộc ngưng bắn 72 giờ đồng hồ xem ra đã được hai bên tôn trọng. Nhưng các cuộc hóa đàm do Ai Cập làm trung gian vẫn bế tắc, không có tiến triển cụ thể nào, và đã thất bại, vì không bên nào tin tưởng và nhượng bộ bên nào.

Trong các ngày qua nữ ca sĩ Noa, người Israel, đang trình diễn bên Italia đã đưa ra một số nhận định liên quan tới cuộc xung đột vũ trang nói trên.

Bà Noa tên thật là Akhinoam Nini, sinh tại Tel Aviv trong một gia đình do thái Yemen, bị bó buộc phải chạy trốn vì sự thù nghịch sau biến cố thành lập nước Israel. Noa cùng gia đình sang sống bên New York, nơi thân phụ là giáo sư đại học đã tìm được việc làm. Năm 17 tuổi Noa bị khủng hoảng căn tính trầm trọng, vì nàng thấy mình ”không phải là người da trắng cũng không phải là người da đen”. Cô về Israel, đi quân dịch 2 năm, và sống rất cô đơn giữa các thiếu nữ khác nói tiếng Do thái mà cô không hiểu. Noa gặp bắc sĩ nhi khoa Asher Barak, rồi lập gia đình với ông và có ba người con.

Năm 1991 Noa bất đầu bước vào nghề ca sĩ và mau chóng gặt hái nhiều thành công, vì giọng hát rất truyền cảm và nội dung các bài ca diễn tả các ước mơ, các khổ đau, chiến tranh, nạn khủng bố và các niềm hy vọng của các dân tộc vùng Trung Đông. Nhiều Album nhạc của bà theo nhau chào đời. Bà được mời đi trình diễn tại nhiều nơi trên thế giới, và được các cha dòng Phanxicô mời hát trong các ”đại nhạc hội hòa bình” tại Assisi, cùng với nữ ca sĩ người Palestine có quốc tịch Israel là Mira Awad. Năm 2001 bà đươc giải thưởng ”Nghệ sĩ của hòa bình”. Năm 2006 bà được ba giải thưởng. Tiếp đến có thêm ba giải thưởng khác vào năm 2007, 2009 và 2012. Năm nay bà Noa vừa cho ra CD mới tựa đề ”Tình yêu là thuốc chữa”. Bà là ca sĩ Do thái không chỉ nổi tiếng hát hay và là nghệ sĩ dấn thân thăng tiến hòa bình xã hội, đặc biệt là sự chung sống giữa mọi dân tộc và mọi tôn giáo, nhưng bà còn nổi tiếng là một nghệ sĩ ”cứng rắn”, dám can đảm thẳng thắn nói lên những cảm nghĩ của mình liên quan tới các vấn đề chính trị, luân lý, xã hội, mà không xu thời và không sợ dư luận.

Theo bà Noa ”cả hai dân tộc Israel và Palestine đều đã bị các người lãnh đạo phản bội. Và cả hai dân tộc đang phải trả giá mắc mỏ cho sự ngạo mạn, ngu đần và tham lam của họ. Tại khắp nơi người Israel và người Palestine đã đánh mất đi mục tiêu đích thật, sự tiếp cận với lý do bầu họ lên hàng lãnh đạo”.

Hỏi: Thưa bà Noa, tựa đề CD mới ”Tình yêu là thuốc chữa” có phải là một sáo ngữ hay không, hay là một sự thật?

Đáp: Vâng, xem ra nó là môt sáo ngữ, nhưng trên thực tế nó lại là sự thật. Tôi nghĩ tới tất cả những người đã sống tình yêu thương và biết tới mãnh lực lớn lao của nó. Nhưng họ cũng biết cuộc sống khó khăn chừng nào, nếu người ta đánh mất tình yêu thương. Như thế tình yêu thương đi theo cả hai chiều: nó có thể là suối nguồn của khổ đau to lớn, nhưng cũng là suối nguồn của sức mạnh, sự ủi an và chữa lành vĩ đại. Chồng tôi là một bác sĩ nhi khoa mà tôi đã lập gia đình với anh ấy từ 22 năm nay, vì thế tôi hiểu biết thế giới y khoa từ gần. Chúng tôi nói rằng chúng tôi làm việc trong cùng lãnh vực: một người chữa lành thân xác, một người chữa lành linh hồn, và tôi thực sự tin rằng âm nhạc có năng lực chữa lành tâm hồn, nếu nhà nghệ sĩ có ý đó.

Hỏi: Bà đã kể cho chúng tôi nghe dấn thân không mỏi mệt và can đảm tranh đấu cho hòa bình, đặc biệt là tại Israel, dấn thân mà trong các tuần qua cũng đã khiến cho bà gặp không ít khó khăn. Bà cảm thấy thế nào, khi kiểu diễn tả nghệ thuật cũng phải trả giá cho một cuộc chiến không kiểm soát được nữa?

Đáp: Tôi tìm hy vọng hai điều. Trước hết tôi là một người, một công dân của thế giới. Tôi có các trách nhiệm chiến đấu cho những gì tôi tin tưởng, nói chúng lên một cách rõ ràng, bởi vì tôi có một tiếng nói và tôi sống trong một nước dân chủ. Tôi có một tiếng nói mà tôi có thể gióng lên, và tôi luôn luôn làm đối với những gì tôi tin tưởng. Thế rồi, tôi cũng cho rằng các nghệ sĩ, nói chung, phải là các người lãnh đạo xã hội. Có một sự khác biệt giữa nghệ sĩ và người giúp vui. Những người giúp vui có nhiệm vụ làm cho người ta lo ra, nghĩa là làm dịu sự việc, còn nghệ sĩ là một người khác. Nghệ sĩ phải là người đi sâu vào trong linh hồn và tâm trí con người, và phải phục vụ Thiên Chúa qua âm nhạc, chứ không phải phục vụ ông chúa tiền bạc hay danh vọng. Nghệ sĩ phải là một người lãnh đạo, nhất là khi liên quan tới các quyền con người, và phải đào tạo một dư luận rõ ràng và cởi mở. Tôi tin rằng nghệ thuật có sức mạnh nối kết con người với nhau trên một bình diện cao hơn, đôi khi tôi nghĩ tới đường bay của một con chim. Khi một con chim bay cao, thì không trông thấy các ranh giới giữa các nước và không trông thấy sự khác biệt của mầu da, hay sự khác biệt của các tôn giáo, nhưng chỉ trông thấy tấm thảm vô cùng xinh đẹp của các điều này chung với nhau, và tạo thành một sự hài hòa điều mà chúng ta gọi là trái đất của chúng ta.

Và xét rằng chúng ta tất cả đều là thành phần của trái đất này, chúng ta phải thử làm trên một bình diện cao hơn như con chim, thử tạo ra sự hài hòa ấy. Các nghệ sĩ có khả thể thực hiện viễn tượng này, và trách nhiệm của họ là kéo con người lên cao, nâng nó dậy, chứ không hạ nó xuống thấp. Đôi khi có một giá phải trả cho điều này, và tôi không chỉ nghĩ tới các phạm trù thành công thương mại thôi. Nếu họ nói tôi phải câm miệng để được thành công, thì tôi sẽ khước từ thành công, chứ tôi sẽ không thể nào thinh lặng được.

Hỏi: Bà không sợ trở thành người không được dân chúng ưa thích ngưỡng mộ hay sao?

Đáp: Tôi đã nhận được rất nhiều câu trả lời tiêu cực từ một vài người, bên Israel và ngoài nước Israel, nhưng tôi cũng đã nhận được rất nhiều tình yêu thương và nâng đỡ đến độ không tin nổi. Và tôi biết rằng đối với vài người thì tôi là ma qủy, và đối với những người khác thì tôi là một nữ anh hùng. Tôi nghĩ rằng thật là quan trọng điều những người khác nghĩ về tôi và về công danh của tôi, nhưng điều thật sự quan trọng là tính nhân bản của chúng ta. Tôi cho rằng mọi người phải góp phần vào một loại làn sóng đẩy đưa xã hội của chúng ta tới một bến bờ tốt đẹp hơn. Tôi tin rằng một trong những điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra cho con người đó là trở thành vô cảm, như bị đánh thuốc mê… khi họ nói: ”có qúa nhiều quyền lực lớn hơn tôi, không thể làm gì được…” Tôi không nhớ triết gia nào đó đã nói rằng: ”… để xảy ra một tai ương lớn, không cần các người gian ác làm một cái gì đó, mà chỉ cần các người tốt không làm gì cả”.

Hỏi: Xin bà minh xác thêm vai trò của nhà nghệ sĩ.

Đáp: Đó là tạo dựng một tác phẩm nghệ thuật rất đẹp, và lôi kéo con người tới nghệ thuật. Ngoài ra, tôi còn luôn nói rằng có vài người trong số các nghệ sĩ lớn nhất trong lịch sử chết nghèo, trong các điều kiện đáng thương. Đã không có ai nhận ra họ, nếu không phải là nhiều năm sau khi họ qua đời. Tôi không tin rằng nhà nghệ sĩ phải thức dậy ban sáng với các lời nịnh hót và các thừa nhận. Điều duy nhất mà họ phải làm, trái lại, là đòi hỏi nơi chính mình một mức độ diễn tả cao hơn.

Hỏi: Bà nghĩ sao về cuộc xung đột gia tăng giữa người Israel và người Palestine?

Đáp: Chúng tôi đang phải trả giá cho sự ngạo mạn, ngu đần và sự tham lam của các người lãnh đạo chúng tôi, ở khắp mọi nơi. Tôi nghĩ rằng ở khắp mọi nơi người Israel cũng như người Palestin và các người khác đã đánh mất đi mục tiêu đích thật, hay sự tiếp cận với lý do của việc lựa chọn họ. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm của các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, và có lẽ của các vị lãnh đạo tôn giáo nhiều hơn, đó là tạo ra các hoàn cảnh, trong đó sự sống, chứ không phải cái chết, được coi là thánh thiêng, bất khả xâm phạm. Và đây không phải là sự thành công. Như vậy riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy bị phản bội bởi các người lãnh đạo của tôi, và tôi hoàn toàn xác tín rắng các người Palestine cũng cảm thấy bị phản bội như vậy. Tôi tin rằng trong giai đoạn lịch sử này phải có một loại nổi loạn của xã hội dân sự. Thật thế, nếu nó tùy thuộc nơi tôi, thì sẽ có hàng triệu người xuống đường biểu tình, như đã xảy ra với ông Gandhi, và nói rằng: ”Đủ rồi. Chúng tôi đã qúa chán ngấy với cảnh cãi lộn giữa các đảng phái, với các lời cáo buộc nhau liên tục. Đủ rồi với thái độ tự phụ”. Một trong những vấn đề chính trong vùng của chúng tôi là người ta nói tới sự thật tuyệt đối, công lý tuyệt đối… Tôi thì tôi không tin vào các sự thật tuyệt đối… Chúng ta phải ngặn chặn loại hùng biện này lại.

Hỏi: Trên liên mạng người ta có thể tìm thấy đầy các bài viết, các video chứng minh tất cả và chống lại tất cả. Bà có thể chọn một quan điểm và minh chứng cho nó. Và như thế thì đâu là ý nghĩa của sự thật?

Đáp: Trái lại, chúng tôi phải nghĩ một cách đơn sơ rằng chúng tôi liên lụy tới các người khác. Chúng tôi phải thôi nhìn về đàng sau, nó không giúp gì cả. Trong lúc này đây phải hiểu rằng chỉ có đối thoại với các người chúng tôi không ưa sẽ giúp chúng tôi giải quyết các vấn đề của chúng tôi, người Isrel cũng như người Palestine phải ý thức được điều này. Chúng tôi phải làm điều này bắng cách mỗi bên thừa nhận các quyền lợi của người khác. Còn hơn thế nữa chúng tôi phải nghĩ tới các bổn phận của chúng tôi. Người ta cứ luôn kêu lên: quyền của chúng tôi, quyền của chúng tôi! Chúng quan trọng, chắc chắn rồi. Nhưng đâu là các bổn phận của bạn? Như là người các bổn phận của bạn là phải lo lắng cho tha nhân, không chỉ luôn luôn nghĩ tới chính mình. Bạn hãy lo lắng cho người khác, và người khác sẽ lo lắng cho bạn. Cả hai dân tộc Israel và Palestine đều ước muốn vun trồng sự lớn lên về trí thức. Tôi tin rằng yếu tố này là một trong các điều đẹp nhất, mà chúng tôi chia sẻ với nhau, và tôi tuyệt đối xác tín rằng chúng tôi có thể chung sống bên cạnh nhau.

Cách đây 20 năm kinh nghiệm trình diễn trước Đức Gioan Phaolô II đã thay đổi đời tôi, và nó đã gợi hứng cho tôi mờ lăng kính ra cho thế giới, như xảy ra với một bức hình. Nó đã cho phép tôi đi từ chiều kích chiếc vi âm bé nhỏ các bài ca của tôi tới chiều kích to lớn cho phép vòng tay của bạn ôm được nhiều người hơn, nhiều ngôn ngữ, nhiều nền văn hóa hơn trong một thế giới sâu thẳm. Tôi đầy tràn lòng biết ơn đối với Đức Gioan Phaolô II vì đã mời tôi. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên một phụ nữ do thái hát trước mặt ngài. Gương mặt của ngài vẫn in sâu trong tôi. Tôi đã rất hài lòng và nghĩ ngay rằng ngài là típ người lãnh đạo mà chúng ta cầu mong có được trên thế giới này. Chính vì vậy mà trong cuốn ”Album Tình yêu là thuốc chữa” có bốn bài ca dành cho cuộc đời của Đức Karol Wojitila, là người đã cứu sống vài người do thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, trong đó có bài ”Ngội sao nhỏ”, là cố gắng đầu tiên của tôi viết về cuộc diệt chủng Do thái.

Hỏi: Thế bà coi Đức Thánh Cha Phanxicô như thế nào?

Đáp: Tôi trân qúy nhất là sự khiêm tốn và đơn sơ của ngài. Các con người của Thiên Chúa có thể tìm ra một thứ ngôn ngữ chung, nếu họ muốn. Đây là một thách đố lớn và tôi hy vọng là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ hướng dẫn Giáo Hội công giáo trong chiều hướng này. Thiên Chúa phải là dụng cụ của tình yêu thương, tình bạn, tình liên đới và sự ủi an, chứ không phải của thù hận và chiến tranh. Các giới lãnh đạo tôn giáo càng tin vào điều này bao nhiêu, thì họ càng nói lên điều đó một cách công khai bấy nhiêu, và chúng ta lại càng có nhiều hy vọng hơn cho hòa bình bấy nhiêu. Đây là một trách nhiệm rất lớn lao!

Thế rồi còn có việc hòa giải gia đình với công ăn việc làm, các giá trị gia đình rất mạnh mẽ giúp cộng đoàn nhỏ này hiệp nhất và tình yêu luôn luôn trợ giúp. Tuy nhiên, tôi cũng có vài khuyết điểm là không kiên nhẫn và bốc đồng.

Hỏi: Thưa bà Noa, có điều gì làm bà tức giận không?

Đáp: Đó là khi người ta đánh gía các sự vật hoặc là đen hoặc là trắng. Nó không chỉ khiến tôi tức giận, mà còn làm cho tôi buồn nữa. Khi tôi coi các sự vật một cách mù quáng, một cách triệt để như vây, thì tôi trở thành hoàn toàn mù trước tha nhân. Và như thế là tôi bắt đầu vô nhân hóa người khác. Từ đó bước đi dẫn tới bạo lực kinh hoàng sẽ rất là ngắn. Cần phải coi chừng, hết sức coi chừng!

(6-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio