Đức tổng GM Liverpool: tiếp tục loan báo Tin mừng giữa những khủng hoảng lạm dụng tính dục

Đức tổng GM Liverpool: tiếp tục loan báo Tin mừng giữa những khủng hoảng lạm dụng tính dục

Trong bài giảng Thánh lễ bế mạc đại hội Thánh Thể Anh quốc tại nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Vua ở Liverpool hôm Chúa nhật 09/09, Đức cha Malcolm McMahon, tổng GM của Liverpool, nhìn nhận thiệt hại do các linh mục sai trái đã gây ra cho Giáo hội Công giáo trên toàn thế giới, nhưng Đức cha McMahon nói với các tín hữu rằng họ phải cố gắng rao giảng Tin mừng bằng cả lời nói và hành động.

Tiếp tục loan báo Tin mừng để người khác nhận ra Chúa Giêsu nơi chúng ta

Đức cha nói. “Như là một cộng đoàn Kitô, chúng ta có thể nói, vì những xì-căng-đan và các vấn đề mới đây trong Giáo hội, chúng ta không còn ngẩng cao đầu. Hãy cúi đầu ăn năn nhưng chúng ta nên đứng thẳng. Có lẽ lời nói và việc làm của chúng ta sẽ không có cùng quyền lực như trước đây và rao giảng Tin mừng sẽ thật khó khăn, nhưng Tin mừng vẫn phải được loan báo và không có ai làm điều này trừ chúng ta, những người tội lỗi khốn khổ.”

Đức cha McMahon khuyến khích các tín hữu tiếp tục loan báo Tin mừng bằng hành động cũng như lời nói để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu trong chúng ta – một Chúa Giêsu đang đau khổ, đang hấp hối và Chúa Giêsu phục sinh. Đức cha cũng nhấn mạnh điều cần thiết là các Kitô hữu tỏ cho người khác thấy “tình yêu và quyền năng chữa lành của Chúa qua Chúa Giêsu Kitô.

Khiêm nhường, thống hối về những sai trái trong Giáo hội

Trước đó, trong giờ chầu Thánh thể tối thứ bảy 08/09, ĐHY Vincent Nichols, Tổng GM Westminster và chủ tịch Hội đồng Giám mục Anh và xứ Wales, đã xin các tín hữu tha thứ về sự sai sót của hàng Giám mục.

ĐHY cũng nói rằng, bởi vì các xì-căng-đan, trong cuộc rước kiệu Thánh Thể vào trưa Chúa nhật, sẽ không có một tí sự chiến thắng hay hãnh diện nào trong các bước chân của các Giám mục. Cuộc rước kiệu Thánh Thể cách nào đó là cuộc rước đền tạ vì chúng ta quy hướng về Chúa Giêsu, Đấng chúng ta đã đóng đinh. Tuy thế, chúng ta bước đi với niềm vui khiêm nhường vì Chúa mang lấy thất bại, sự tàn bạo và lừa dối của chúng ta và chiến thắng tất cả những điều này bằng tình yêu và lòng thương xót của Người.

Làm chứng hùng hồn và trung thành cho Chúa Kitô

Hôm 08/09, ĐTC Phanxicô cũng gửi một sứ điệp cho các tín hữu tham dự đại hội Thánh Thể. Ngài khuyến khích các tín hữu tiếp bước các thánh tử đạo tiền nhân của Anh quốc, những người đã đổ máu đào làm chứng hùng hồn và trung thành cho Chúa Kitô được tôn kính trong Thánh Thể. ĐTC nói rằng đau khổ của các vị tử đạo Anh quốc và xứ Wales không nói quá nhiều về sự tàn bạo của con người, nhưng về sự thanh thản và sức mạnh nhờ ơn Chúa khi các ngài chịu xử án. ĐTC nhắc rằng trung thành với gia sản đức tin không chỉ là tưởng nhớ nhưng phải tiếp tục làm chứng cho cùng Chúa Kitô và cho cùng món quá quý giá là Thánh Thể ngày nay vì vinh quang quá khứ luôn luôn là một bắt đầu chứ không phải là một kết thúc.

Thánh lễ kết thúc đại hội Thánh Thể Anh quốc được cử hành trong nhà thờ chính tòa đông đầy người và sau đó, có thêm hàng ngàn người tham dự cuộc rước kiệu Thánh Thể kéo dài nửa giờ trên đường phố Liverpool, dù trời mưa lớn. Đây là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên tại Anh sau 110 năm.

Hồng Thủy

Lời Chúa đi vào đôi tai, qua trái tim và ra đôi tay

Lời Chúa đi vào đôi tai, qua trái tim và ra đôi tay

Sáng thứ tư 32-1 ĐTC đã tiếp kiến hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô. Hai nhóm đông nhất là 2.000 học sinh Trường Đức Bà Phù Hộ Roma, và 1.300 học sinh Học viện Giêsu Maria Roma. Bên cạnh đó là các nhóm quốc tế như nhóm 31 vị Giám đốc quốc gia các Hiệp hội giáo hoàng truyền giáo và 30 nữ tu dòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria, nhóm 148 linh mục tham dự đại hội quốc tế về đề tài “Đức tin và việc phân định ơn gọi”, nhóm 15 đại biểu cuộc gặp gỡ 2019 tại Giêrusalem. Ngoài ra có nhiều nhóm đến từ các nước Âu châu như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo. Từ Hoa Kỳ có 5 nhóm trong đó có nhóm 225 sinh viên các đại học Loyola, Chicago Illinois và Rome campus, và nhóm 160 sinh viên của đại học thánh Gioan New York.  Đến từ xa nhất là nhóm 40 sinh viên đại học công giáo Australia, và hai nhóm tín hữu Argentina.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Thánh Lễ và giải thích phần Phụng vụ Lời Chúa. Ngài nói: chúng ta tụ họp nhau tham dự Thánh Lễ trước hết để lắng nghe điều Thiên Chúa đã làm và còn muốn làm cho chúng ta. Đây là một kinh nghiệm trực tiếp chứ không phải là nghe nói đến, bởi vì khi trong Giáo Hội Thánh Kinh được đọc lên, thì chính Thiên Chúa nói vói dân Ngài và Chúa Kitô hiện diện trong lời Ngài loan báo Tin Mừng” (Thứ tự tổng quát của sách Lễ Roma, 29; Hiến chế SC 7; 33).

Có biết bao lần khi Lời Chúa được đọc thì người ta bình luận: “Này hãy nhìn ông này, hãy nhìn bà nọ, hãy nhìn cái mũ bà kia đội: tức cười thật”. Và người ta bắt đầu bình luận. Có đúng vậy hay không? Có đúng không? Phải bình luận trong khi nghe đọc Lời Chúa à? Tôi xin hỏi anh chị em: có phải làm vậy hay không? Không – mọi người trả lời – ĐTC nói tiếp: Bởi vì nếu bạn nói chuyện bép xép với người khác thì bạn không nghe Lời Chúa. Khi đọc Lời Chúa trong Thánh Kinh – Bài đọc nhất, bài đọc hai, Thánh vịnh đáp ca và Tin Mừng – chúng ta phải lắng nghe, phải mở con tim ra để cho chính Chúa nói với chúng ta và không nghĩ tới các điều khác hay nói về các điều khác. Đã hiểu chưa? Tôi không tin là đã hiểu nhiều. Tôi sẽ giải thích cho anh chị em biết điều gì xảy ra trong Phụng Vụ Lời Chúa.

ĐTC giải thích như sau:

** Các trang Thánh Kinh thôi là một bản viết để trở thành lời nói sống động, được chính Thiên Chúa công bố. Chính Thiên Chúa qua điều được đọc nói với chúng ta, mời gọi chúng ta lắng nghe với lòng tin.  Thần Khí Đấng đã nói qua các ngôn sứ” (Kinh Tin Kính) và đã linh hứng các tác giả thánh, làm cho “lời của Thiên Chúa hoạt động thực sự trong trái tim điều đã vang lên trong tai” (Sách Bài Đọc, dẫn nhập, s.9). Nhưng để lắng nghe Lời Chúa cũng cần có con tim rộng mở để tiếp nhận các lời trong tim. Thiên Chúa nói và chúng ta lắng nghe, để rồi thực hành điều chúng ta đã nghe.

Lắng nghe rất là quan trọng. Đôi lần có lẽ chúng ta không hiểu tại sao lại có vài bài đọc hơi khó hiểu… Nhưng Thiên Chúa cũng nói với chúng ta trong một cách thế khác : trong thinh lặng và lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đừng quên điều này. Trong Thánh Lễ khi chúng ta bắt đầu các bài đọc,  chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa.

Chúng ta cần lắng nghe Thiên Chúa! Đây thật là một vấn đề của sự sống, như kiểu diễn tả sắc nhọn sau đây “Con người sẽ không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng mọi lời phát ra từ miệng Thiên Chúa nữa” (Mt 4,4). Sự sống trao ban cho chúng ta Lời Chúa. Trong nghĩa này chúng ta nói tới Phụng Vụ Lời Chúa như là “bàn tiệc” Chúa dọn để dưỡng nuôi cuộc sống thiêng liêng của chúng ta. Bàn tiệc phụng vụ là một bàn tiệc dồi dào, kín múc một cách rộng rãi từ các kho tàng của Thánh Kinh (x. SC, 51) Cựu Ước cũng như Tân Ước, bởi vì trong đó Giáo Hội loan báo cùng mầu nhiệm duy nhất của Chúa Kitô (x. Sách Bài Đọc, Dẫn nhập 5). Chúng ta hãy nghĩ tới sự phong phú của các bài đọc Sách Thánh được cống hiến bởi ba chu kỳ Chúa Nhật, mà dưới ánh sáng của các Phúc Âm Nhất Lãm, chúng đồng hành với chúng ta dọc dài năm phụng vụ, một sự phong phú lớn. Ở đây tôi cũng muốn nhắc lại tầm quan trọng của Thánh Vịnh đáp ca, có nhiệm vụ tạo thuận tiện cho việc suy gẫm những gì đã nghe trong bài đọc trước đó. Thật tốt là Thánh vịnh được đánh giá cao với việc hát lên ít nhất là điệp khúc (Sách Bài Đọc, Dẫn nhập, 19-22). Cả các bài đọc ngày thường cũng rộng ban của ăn cho cuộc sống kitô trong chu kỳ hai năm.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói việc công bố phụng vụ của các bài đọc với các bài ca lấy ra từ Thánh Kinh, diễn tả và tạo thuận tiện cho tình hiệp thông giáo hội đồng hành với lộ trình sống của tất cả và của từng tín hữu. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Vì thế chúng ta hiểu tại sao vài việc lựa chọn chủ quan, như bỏ các bài đọc hay thay thế chúng bằng các văn bản không kinh thánh, bị cấm. Tôi đã nghe nói có người dọc báo vì có tin tức trong ngày- Không!

Lời Chúa là Lời Chúa! Nhật báo chúng ta có thể dọc sau. Nhưng trong Thánh Lễ chúng ta đọc Lời Chúa. Chính Chúa nói với chúng ta. Thay thế Lời Chúa bằng các điều khác làm nghèo nàn đi và gây nguy hiểm cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong việc cầu nguyện. Trái lại, phẩm giá của giá sách và việc dùng Sách Bài Đọc, việc sắp xếp các người đọc tốt và các người hát thánh vịnh quan trọng.  Hãy tìm những người đọc tốt, những người biết đọc chứ không phải những người đọc mà ngưòi ta không hiểu gì hết. Như thế này ĐTC đọc lâm râm một câu làm thí dụ. Chọn các người đọc tốt. Cần phải đọc thử trước Thánh Lễ để  đọc tốt. Điều này tạo ra một bầu khí thinh lặng đón nhận.

Chúng ta biết rằng lời Chúa là một trợ giúp cần thiết để chúng ta không lạc lối, như tác giả thánh vịnh xưng thú hhi hướng tới Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi “ (Tv 119,105). Làm sao chúng ta có thể đương đầu với cuộc lữ hành trần thế với các mệt nhọc và thử thách của nó, mà không được thường xuyên nuôi dưỡng và soi sáng bởi Lời Chúa vang lên trong phụng vụ?

Chỉ nghe bằng tai không thôi mà không tiếp nhận trong con tim hạt giống Lời Chúa  và cho phép nó sinh hoa trái, thì chắc chắn là không đủ. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn người gieo giống và các kết quả khác nhau theo các loại đất khác nhau (x. Mt 4,14-20). Hoạt động của Thánh Thần khiến cho câu trả lời hữu hiệu, cần tới các con tim để cho Ngài làm việc và vun trồng, làm sao để những gì đã nghe trong Thánh Lễ bước sang cuộc sống thường ngày, như tông đồ Giacôbê cảnh cáo: “Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa chứ không chỉ là những người nghe suông và lừa dối chính mình” (Gc 1,22).  Lời Chúa bước đi trong chúng ta. Chúng ta lắng nghe

Lời Chúa với đôi tai, nói qua trái tim, chứ không ở lại trong đôi tai, Lời Chúa phải đi vào trái tim và từ trái tim đi ra đôi tay, đi ra các công việc làm tốt lành. Đó là lộ trình mà Lời Chúa làm: từ đôi tai sang trái tim và ra đôi tay. Chúng ta hãy học các điều này.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện. Với các nhóm nói tiếng Pháp ngài khích lệ mọi người hiểu biết tầm quan trọng của Lời Chúa giúp đương đầu với cuộc lữ hành trần gian và cần phải thực thi lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Chào các nhóm nói tiếng Anh ngài xin Chúa ban cho họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình. Chào các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Brasil, ngài khích lệ mọi người tiếp nhận Lời Chúa trong con tim,  lấy thánh ý Chúa làm trung tâm điểm cuộc sống như Mẹ Maria và để cho Lời Chúa sinh nhiều hoa trái.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC khích lệ họ để cho Lời Chúa nhào nặn cuộc sống gia đình đặc biệt là trong việc giáo dục trẻ em và giới trẻ, không sợ hãi loan báo Thiên Chúa và nói về đức tin và Giáo Hội.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các nữ tu Salesien và cầu chúc các nữ tu tiếp tục cống hiến nền giáo dục có nhiều giá trị cho các thế hệ trẻ.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua lễ nhớ thánh Don Bosco là cha và thầy dậy giới trẻ. Ngài nhắn nhủ người trẻ nhìn lên thánh nhân như nhà giáo dục gương mẫu; người đau yếu biết noi gương thánh nhân tín thác mọi sự cho Chúa Kitô chịu đóng đinh, và các cặp vợ chồng mới cưới xin thánh nhân bầu cử cho họ biết quảng đại dấn thân sống sứ mệnh đời hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Thiên Chúa không báo thù nhưng xót thương

Thiên Chúa không báo thù nhưng xót thương

VATICAN. Trưa Chúa nhật 08.10.2017 trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật nói về lòng trung tín và xót thương của Thiên Chúa, cho dù con người tội lỗi và phản bội. Đức Thánh Cha nói:

Con người phản bội

Anh chị em thân mến! Phụng vụ Chúa nhật hôm nay kể cho chúng ta nghe dụ ngôn về những người làm thuê vườn nho cho ông chủ (Mt 21,33-43). Để kiểm chứng lòng trung thành của các tá điền, ông chủ đã trao cho họ vườn nho, để họ chăm sóc, bảo vệ và làm sinh lợi hoa màu. Khi vụ mùa đến, ông chủ sai các đầy tớ đến thu hoạch. Nhưng các tá điền muốn chiếm lấy vườn nho và hoa màu. Họ đánh người này, giết người nọ. Ông chủ tỏ ra kiên nhẫn và tiếp tục sai các người khác đến với những kẻ thuê vườn nho, và kết cục vẫn tệ hại như thế. Cuối cùng, ông chủ quyết định sai chính con trai của mình đến, nhưng bọn tá điền đã giết đứa con thừa tự ấy để mong chiếm lấy gia tài.

Thiên Chúa không báo thù

Dụ ngôn này trách cứ cách đối xử mà dân đã làm với các ngôn sứ trong lịch sử của Israel. Đây cũng là câu chuyện của chúng ta trong giao ước Thiên Chúa muốn thiết lập với loài người. Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta tham gia giao ước ấy. Dụ ngôn này cũng là câu chuyện tình yêu, có khoảnh khắc tích cực diễn tả cách phản ứng khi đứng trước sự phản bội. Để hiểu cách hành xử của Thiên Chúa Cha trước những kẻ từ chối tình yêu của Ngài, chúng ta hãy nghe câu hỏi được đặt ra: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì với bọn tá điền?” (c.40). Câu hỏi này nhấn mạnh rằng, dù Thiên Chúa thất vọng trước tội ác của con người, nhưng đó vẫn chưa phải là câu trả lời cuối cùng. Đây là sự vĩ đại của Thiên Chúa: cho dù con người phản bội, cho dù con người sai lầm, cho dù con người tội lỗi, nhưng Thiên Chúa vẫn một lòng giữ giao ước, Thiên Chúa không tìm cách báo thù!

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không trả thù! Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài không trả thù, nhưng chờ đợi chúng ta để tha thứ, để cứu vớt chúng ta. Nhờ tảng đá bị loại bỏ, nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa cứu chúng ta, cho dù chúng ta yếu đuối và tội lỗi. Thiên Chúa tiếp tục sản xuất ra rượu mới từ vườn nho của Ngài. Rượu mới ấy là lòng thương xót. Rượu mới của Thiên Chúa là lòng từ bi xót thương. Đứng trước sức mạnh và lòng từ nhân của Chúa, chỉ có một điều ngăn trở chúng ta, đó là lòng ngạo mạn và hay xét đoán, ngay cả đôi khi biến thành bạo lực! Khi đối diện với sự cứng lòng của những kẻ đang nghe, Chúa Giêsu đã nói cách mạnh mẽ rằng: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (c. 43).

Ra đi sinh nhiều hoa trái

Trước lời mời gọi của Chúa, mời gọi chúng ta trở thành vườn nho của Chúa, chúng ta cần đáp lại bằng đời sống sinh nhiều hoa trái. Tính khẩn thiết của hành vi đáp lại ấy giúp chúng ta hiểu được đức tin Kitô cách mới mẻ và tinh tuyền. Đức tin ấy không phải là một bộ những quy luật luân lý, nhưng trên hết, đó là tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Giêsu, diễn tả nơi những gì Chúa đã làm và tiếp tục làm cho con người. Đó là lời mời gọi đi vào câu chuyện tình yêu, trở thành trái nho tươi đẹp tốt lành cởi mở, sinh ích lợi và hy vọng cho mọi người. Một trái nho khép kín có thể bị biến thành trái nho hoang dại và cũng có thể nảy sinh những trái nho dại khác. Chúng ta cũng được mời gọi ra khỏi vườn nho của mình, để đặt mình vào việc phục vụ những anh chị em không giống chúng ta, để chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích nhau trở thành vườn nho của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cho dù có những hoàn cảnh xa xôi và khó khăn nhất.

Anh chị em thân mến! Xin Đức Maria rất thánh cầu thay nguyện giúp chúng ta, xin Mẹ nâng đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt tại các vùng ngoại biên của xã hội, tại những vườn nho mà Chúa đã trồng, để sinh ích lợi cho mọi người, và để mang lại “rượu mới” là lòng Chúa xót thương.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Đức Thánh Cha dâng lễ tại nhà nguyện thánh Marta

Cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở mọi người: Để lắng nghe tiếng Chúa, cần phải trở nên bé nhỏ.

Thiên Chúa đã chọn chúng ta; Người đã hòa nhập với chúng ta trong hành trình của cuộc sống

Dựa vào bài đọc thứ nhất trích từ sách Đệ nhị luật, trong đó Môsê nói rằng Thiên Chúa đã chọn chúng ta là dân riêng của Người trong số các dân trên mặt đất, Đức Thánh Cha giải thích rằng người ta có thể ngợi khen Chúa bởi vì “trong trái tim Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn cử hành với niềm vui mừng các mầu nhiệm cứu độ lớn lao, các mầu nhiệm của tình yêu Người dành cho chúng ta, nghĩa là cử hành đức tin của chúng ta.”

Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến 2 từ trong đoạn sách Đệ nhị luật: chọn và sự bé nhỏ.

“Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng chính Người đã làm cho mình trở thành tù nhân của chúng ta.”

Thiên Chúa đã gắn kết với cuộc đời chúng ta, không thể tách rời. Người đã hành động mạnh mẽ! Và Người trung thành trong thái độ chọn lựa này. Chúng ta được chọn vì tình yêu và đây là căn tính của chúng ta.

Chúng ta thường nói ‘tôi chọn tôn giáo này, tôi đã chọn…’.  Đức Thánh Cha nói: “Không! Không phải bạn đã chọn. Chính Người đã chọn bạn, đã kêu gọi bạn và gắn chặt với bạn. Đây là đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta không tin điều này, chúng ta không hiểu sứ điệp của Chúa Kitô là gì, chúng ta không hiểu được Tin mừng.”

Về từ ngữ thứ hai, sự bé nhỏ, Đức Thánh Cha nhắc lại, như Môsê đã nói rõ rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israel bởi vì họ là “dân nhỏ nhất trong các dân tộc”.

“Thiên Chúa đã phải lòng sự bé nhỏ của chúng ta và vì thế Người đã chọn chúng ta. Người chọn những người bé nhỏ, không phải là những người cao trọng, nhưng là những người bé nhỏ. Người đã mạc khải chính mình cho những kẻ bé mọn: ‘Chúa đã dấu những điều này với những người khôn ngoan và hiểu biết, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn’. Người cho những người bé nhỏ biết: nếu con muốn hiểu về mầu nhiệm của Chúa Giêsu, hãy tự hạ mình xuống thành người bé nhỏ. Hãy biết trở nên ‘số không’. Người không chỉ chọn và mạc khải cho những người bé nhỏ mà còn kêu gọi họ: ‘hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai mệt nhọc và bị áp bức: ta sẽ cho các người được nghỉ sức’. Các con là những kẻ bé nhỏ nhất – vì các đau khổ, vì mệt nhọc …”

Chúa có kêu gọi những người cao trọng không? Đức Thánh Cha trả lời có. Ngài giải thích: “Trái tim Chúa mở rộng, nhưng những người cao trọng thông thái không thể nghe tiếng của Người vì lòng họ chỉ quan tâm đến mình. Để nghe được tiếng của Chúa cần phải trở nên người bé nhỏ.”

Từ điều này, Đức Thánh Cha nói về Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngài nhắc rằng Thánh Tâm, không phải như vài người nói,  là một tấm ảnh nhỏ dành cho những người sùng kính Thánh Tâm. Trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô là “trái tim mạc khải, trái tim của đức tin chúng ta bởi vì Người đã trở nên bé nhỏ, Người đã chọn con đường này.” Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Con đường tự hạ và tự hủy cho đến chết trên Thánh giá là một chọn lựa hướng đến sự bé nhỏ để cho vinh quang của Thiên Chúa có thể được tỏ bày.” Đức Thánh Cha hồi tưởng lại: Từ trái tim của Chúa Giêsu bị đâm thâu bởi lưỡi đòng của tên lính “nước và máu chảy ra”, và “đây là mầu nhiệm của Chúa Kitô”. Thánh lễ hôm nay cử hành “một trái tim yêu thương, chọn lựa, trung thành” và “gắn kết với chúng ta, mạc khải cho những người bé mọn, kêu gọi những người bé nhỏ, trở nên bé nhỏ”.

Đức Thánh Cha tiếp tục chia sẻ với câu hỏi: Chúng ta tin vào Thiên Chúa? Có. Tin vào Chúa Giêsu nữa? Có. Tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa?. Có. Nhưng mầu nhiệm là điều này. Đây là sự tỏ bày, là vinh quang của Thiên Chúa. Trung thành trong chọn lựa, trong việc gắn kết với chúng ta, trong việc  trở nên bé nhỏ: trở nên bé nhỏ, tự hủy. Vấn đề của đức tin là hạt nhân của cuộc sống chúng ta: chúng ta có thể rất nhân đức nhưng lại có ít đức tin; chúng ta phải bắt đầu từ đây, từ mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã cứu độ chúng ta với sự trung thành.

Cuối cùng Đức Thánh Cha cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để cử hành trong Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô “các cử chỉ lớn lao, các công trình cứu độ vĩ đại.” (REI 23/06/2017)

Hồng Thủy

Đức tin sinh hoa trái qua các công việc lành

Đức tin sinh hoa trái qua các công việc lành

ĐTC Phanxicô chào tín hữu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 10-7-2016

Chính qua các công việc tốt lành chúng ta làm cho tha nhân với tình yêu thương và niềm vui, đức tin của chúng ta nảy mầm và đem lại hoa trái.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô dưới trời nắng 35 độ C của mùa hè Roma.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa dụ ngôn “Người Samaritano nhân hậu” như kể trong chương 10 Phúc Âm thành Luca. Ngài nói:

Trong trình thuật đơn sơ và kích thích của nó dụ ngôn chỉ cho thấy một  kiểu sống, mà trọng tâm không phải là chính chúng ta mà là các người khác, với các khó khăn của họ, mà chúng ta gặp gỡ trên đường đời và họ gọi hỏi chúng ta. Những người khác gọi hỏi chúng ta; và khi họ không gọi hỏi chúng ta, thì có cái gì đó không ổn; có cái gì đó không là kitô trong con tim ấy. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này trong cuộc đối thoại với một tiến sĩ luật, liên quan tới giới răn hai chiều cho phép bước vào cuộc sống đời đời: yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu mến tha nhân như chính mình (cc.25-28). “Đúng, ông tiến sĩ luật trả lời, nhưng xin cho tôi biết ai là người thân cận của tôi? (c. 29). Cả chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi: ai là người thân cận của tôi? Ai là người tôi phải yêu mến như chính tôi? Cha mẹ tôi? Bạn bè tôi? Các người đồng hương với tôi? Các người có cùng tôn giáo với tôi? Ai là người thân cận của tôi?

Và Chúa Giêsu trả lời với dụ ngôn này. Có một người kia, từ Giêrusalem xuống Giêricô, đã bị cướp tấn công, hành hung và bỏ rơi. Trên con đường đó trước hết có một tư tế đi qua, rồi một lêvi, là những người tuy trông thấy người bị thương, nhưng không dừng lại và đi thẳng (cc.31.32). Rồi có một người Samaritano đi ngang qua, nghĩa là một dân thành Samaria, và như là người Samaritano họ bị người do thái khinh bỉ, bởi vì họ không tuân giữ tôn giáo thật; nhưng trái lại, chính ông ta là người “cảm thương”, khi trông thấy kẻ bị nạn tội nghiệp ấy. Ông tới gần, băng bó các vết thương… đem tới một quán trọ và lo lắng cho người ấy” (cc. 33-34); và ngày hôm sau ông ta phó thác người ấy cho chủ quán trọ săn sóc, trả tiền cho chủ quán và nói rằng ông cũng sẽ trả mọi sự còn lại (c. 35).

Tới đây Chúa Giêsu quay qua hỏi vị tiến sĩ luật: “Ai trong ba người – vị tư tế, thầy lêvi, người samaritano – đối với ông là ngưòi thân cận của kẻ đã bị rơi vào tay bọn cướp?” Và dĩ nhiên là người thông minh ông ấy trả lời: “Đó là người đã cảm thương anh ta?” (cc. 36-37), Trong cách thế đó Chúa Giêsu đã lật ngược hoàn toàn viễn tượng ban đầu của vị tiến sĩ luật – và cũng là của chúng ta ! -: tôi không được lên danh sách các người khác để quyết định ai là người thân cận của tôi – tuỳ thuộc tôi có là, hay không là người thân cận của người tôi gặp và cần được giúp đỡ, cả khi có là người xa lạ hay thù nghịch. Và Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Thật là bài học đẹp! Và Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta: “Con hãy đi và cũng hãy làm như vậy”. Làm các việc lành, chứ không chỉ nói các lời bay trong gió mà thôi. Tôi nghĩ tới một bài hát: “Lời nói, lời nói, lời nói”. Không, hãy làm, hãy làm. Và ĐTC khẳng định:

Chính qua các việc lành chúng ta làm cho người thân cận với tình yêu thương và niềm vui mà đức của chúng ta nẩy mầm và sinh hoa trái. Chúng ta hãy tự hỏi – mỗi người hãy tự trả lời trong tim – chúng ta hãy tự hỏi: đức tin của chúng ta có phong phú không? Đức tin của chúng ta có sản xuất các việc tốt lành không? Hay nó cằn cỗi và vì thế chết hơn là sống? Tôi có tới gần không hay chỉ đi qua bên cạnh? Tôi có thuộc số những người tuyển lựa người ta theo sở thích riêng không? Thật là tốt đặt ra các câu hỏi này cho chính chúng ta, và đặt ra thường xuyên, bởi vì sau cùng chúng ta sẽ bị phán xử dựa trên các công việc của lòng thương xót. Chúa sẽ có thể nói với chúng ta: “Còn con, con có nhớ lần ấy trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô không? Người dở sống dở chết đó đã là Cha? Con có nhớ không? Đứa trẻ đói khát đó đã là Cha. Con có nhớ không? Người di cư, mà biết bao người muốn đuổi đi đó, đã là Cha. Các ông bà nôji ngoại  cô đơn, bị bỏ rơi trong các nhà hữu dưỡng đó đã là Cha. Người đau yếu cô đơn trong nhà thương không có ai đến thăm đó đã là Cha.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta bước đi trên con đường của tình yêu thương, tình yêu thương quảng đại đối với nhũng người khác, con đường của người samaritano nhân lành. Xin Mẹ giúp chúng ta sống giới răn chính yếy mà Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta. Và đây là con đường để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà thánh cho mọi người.

Sau phép lành ĐTC đã nhắc tới “Ngày Chúa Nhật của Biển” nhằm ủng hộ việc săn sóc mục vụ cho người sống trên biển, Ngài nói: Tôi khích lệ các thuỷ thủ và các ngư phủ trong công việc làm của họ thường cam go và nguy hiểm, cũng như các linh muc tuyên uý và các thiện nguyện viên trong công việc phục vụ quý báu của họ. Xin Mẹ Maria là Sao Biển canh chừng trên anh chị em.

Ngài cũng đã chào nhiều đoàn hành hương, đặc biệt nhóm tín hữu Porto Rico, nhóm tín hữu Ba Lan hành hương đi bộ từ Cracovia sang Roma. ĐTC khen họ thật là giỏi! Ngài cũng gửi lời chào đoàn tín hữu do Radio Maria tổ chức hành hương đền thánh Đức Bà Czéstochowa lần thứ 25 bên Ba Lan. ĐTC cũng chào một nhóm tín hữu Argentina hiện diện ồn áo náo nhiệt; các gia đình giáo phận Adria Rovigo, Limbiate và cộng đoàn thừa sai Gioan Phaolo II. Ngài chúc mọi người một ngày Chúa Nhật nóng, và xin tất cả đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

Cây nho và nhánh

Cây nho và nhánh

(Trích trong Phúc Âm hằng ngày)

Mở đầu cho vở kịch mang tên: "Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột chặt người vào chiếc cột buồm.

Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giờ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc sẽ cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn".

Anh chị em thân mến!

Được gần và giống Chúa, được hiệp nhất với Chúa, không đơn thuần chỉ là những ước mơ trong cuộc sống của người Kitô hữu, mà chúng là những điều kiện căn bản cho sự sống Kitô hữu như lời Ngài dạy cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

Anh chị em thân mến!

"Vườn nho" hay "cây nho" là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh Cựu Ước. Vườn nho được ví là nhà Israel. Các tiên tri lớn như Isaia, Giêrêmia, Ézekiel đều nhìn mối liên lạc giữa người trồng nho và cây nho để nói lên sự quan tâm của Giavê Thiên Chúa đối với dân Ngài, cũng như để khiển trách dân tộc Israel vì vườn nho đã trở nên hoang tàn, dây nho biến thành dây nho dại không còn sinh hoa kết trái.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lấy hình ảnh "cây nho" để ví Ngài như là cây nho: "Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho". Vườn nho của Thiên Chúa phát xuất từ một gốc duy nhất là Chúa Giêsu. Ngoài Ngài không có sự sống: "Thầy là cây nho, các con là ngành". Ngành không thể sống, nếu tách lìa xa thân cây.

"Ở trong Thầy và Thầy ở trong các con", đó là điều mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc đi nhắc lại. Cần thông hiệp với Ngài để có sự sống. Tuy nhiên, một khi đã có sự sống từ thân chuyển sang thì ngành cần phải sinh hoa trái. Sinh hoa trái sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, và đây cũng là điều kiện cho ngành tồn tại. Ngành nào không sinh trái sẽ bị chặt đi ném vào lò lửa. Muốn được sinh hoa trái, ngành nho phải được cắt tỉa. Chẳng có sự cắt bỏ nào mà không gây đau đớn, dù cho phần cắt tỉa chỉ là phần thừa thãi tác hại đến cơ thể. Thế nhưng, chẳng thấy được hoa trái nếu không chấp nhận sự đau đớn của việc cắt tỉa. Chắc hẳn người trồng nho sẽ đau lòng khi cắt tỉa, sẽ xót xa vì phải bỏ đi những phần không sinh lợi, nhưng vì lợi ích của cây nho nên chẳng thế nào làm khác đi được.

Khi thông hiệp vào Đức Kitô, đời sống của người môn đệ sẽ được cắt tỉa nhờ lời của Ngài. Lời của Ngài sẽ đặt các môn đệ trước những quyết định chọn lựa. Chọn lựa con đường hẹp nhọc nhằn, chọn lựa Thập Giá khổ đau. Những hy sinh đau đớn ở đời này sẽ mang lại phần thưởng mai sau. Và những hy sinh ấy tạo cho họ có cơ hội để được trở nên giống Thầy: "Họ ở trong Thầy và Thầy ở trong họ".

Thật thế, mọi đau khổ sẽ trở nên phí phạm, nếu không hướng về Thập Giá Đức Kitô, nguồn ơn cứu độ. Cắt tỉa chỉ là cắt bỏ, nếu không nhằm mục đích sinh hoa trái. Mọi hy sinh của người tín hữu cũng sẽ không mang lại hoa trái, nếu từ đầu không vì Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài là cây nho đích thực. Xin cho chúng con luôn gắn chặt và hiệp thông với Chúa, để được hưởng nguồn sức sống dồi dào từ Ngài. Chúng con vẫn biết rằng, một khi gắn chặt với Chúa, chúng con sẽ phải đón nhận sự cắt tỉa, phải chấp nhận hy sinh. Xin cho chúng con xác tín rằng: cần phải có hy sinh để mang lại hoa trái. Đó là điều làm vinh hiển cho Cha, Đấng ngự trên trời. Amen.

Veritas Radio

Kết hợp và sinh trái

Kết hợp và sinh trái

Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Mục tử chăm sóc đoàn chiên.

Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói đến sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Cành nho phải gắn vào thân nho để sống và sinh hoa trái.

Ý nghĩa của lối so sánh là kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, mới đem lại hoa quả thiêng liêng cho chính mình và cho người khác.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Mỗi người phải “ở lại trong” Thầy, bởi vì: “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 14,5).

Nếu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Chúa Giêsu ở trong Thiên Chúa nên khi kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi.

Cành nho gắn với thân nho và liên kết với những cành khác. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống sẽ cằn cỗi, khô héo. Nhựa sống trong thân cây lưu chuyển, cho mọi cành để cùng nhau sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường nên thánh.

Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Bài đọc 1, kể chuyện thánh Phaolô trở lại trên đường Đamat. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Phaolô đã đúc kết mối liên kết cuộc đời mình với Chúa Kitô trong một câu bất hủ: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 3, 20).

“Đức Kitô sống trong tôi”nên tôi mới sinh hoa trái yêu thương như lời Thánh Gioan trong bài đọc 2 : “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. “Sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem niềm vui và hạnh phúc cho người khác.

Lúc ban đầu, khi các môn đệ mới theo Chúa, Thánh Gioan viết: “Các môn đệ đã đến xem chỗ Ngài ở và lưu lại với Ngài” (Ga 1,39). Sau những năm sống với Chúa, Thánh Gioan đổi cách dùng ngôn ngữ: “Các con hãy ở lại trong Thầy cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 15, 17). Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. Khi Phêrô ở với Chúa là ở bên cạnh thôi nên vẫn còn hai bước chân khác nhau, hai ý nghĩ không chung đường và Phêrô đã có những bước chân sai đi lạc lối. Còn ở trong là nên một trong nhau. Chính nhờ ở trong Chúa mà Phêrô đã trở nên con người mới, hoàn toàn thuộc về Chúa.

“Ở lại trong” và “gắn liền với” Chúa là điều kiện cần thiết để “sinh nhiều hoa trái”. Chúa Giêsu đã sống chân lý đó trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, và Ngài đã cầu nguyện cho chúng ta được nên một với Ngài trong sự sống đó (Ga 17,21-22).Chúng ta kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, Thánh Lễ và các Bí Tích. Chúng ta còn kết hợp với Chúa qua việc biểu lộ lòng trung tín như lời Thánh Phêrô: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).

“Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, chúng ta sẽ có một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy nội lực, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa. Mối liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Từ đó, trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để vánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, và là miệng để nói những lời bác ái ủi an (ĐHY 341).

Dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ ân sủng của Chúa, đời sống chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành. Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, như lời dạy của Chúa Giêsu: “Đây là điều làm cho Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế, các con trở nên môn đệ của Thầy”.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Sinh nhiều hoa trái

Sinh nhiều hoa trái

Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm công phu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mất điều chính, đó là thất bại. Đức Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:

Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.

Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.

Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống của ta được sánh ví như đời sống của cây nho.

Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.

Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.

Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm ra. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa nhưng gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mãi dũa ta bằng những nghi kỵ hiểu lầm của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.

Chính Đức Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.

Lạy Đức Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hiệp với Chúa?

2- Trong bạn còn những gì phải cắt tỉa?

3- Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không

4- Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ý nghĩa các vết sẹo

Ý nghĩa các vết sẹo

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

1.  Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

2.  Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.

Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.

Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…

Chàng trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.

Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:

– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…

Ông lão nói tiếp:

– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.

Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.

Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…

3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.

Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!

Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".

Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.

Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".

Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."

Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.

LM GIUSE Nguyễn Hữu An

Một thoáng Hàn Quốc và Giáo hội Công giáo Hàn Quốc

Một thoáng Hàn Quốc và Giáo hội Công giáo Hàn Quốc

Korea Logo

Đức giáo hoàng Phanxicô sẽ đến thăm Hàn Quốc từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 8 nhân dịp Đại hội Giới trẻ Á châu lần thứ sáu. Theo tường thuật của thông tín viên Simone Orendain của đài VOA, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên trong vòng gần 20 năm của một nhà lãnh đạo Tòa Thánh Vatican tới một nước Châu Á. Các giới chức Nam Triều Tiên mô tả chuyến viếng thăm của Ðức giáo hoàng đến nước họ lần đầu tiên trong vòng 25 năm là “có ý nghĩa rất lớn”. Hàn Quốc rộng 99,268 km vuông với dân số 50,220,000 người,trong đó có 5,393,000 người Công Giáo, chiếm 10,7% dân số. Trong suốt 50 năm qua, có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Chúng tôi có dịp hành hương đến đất nước này, nay nhân sự kiện Đại hội Giới trẻ Á châu, xin được điểm lại vài nét về xứ sở nhân sâm và kim chi.

1. Đôi nét lịch sử cận đại

Năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đại Hàn kết thúc ách đô hộ của Nhật kéo dài 35 năm (1910- 1945).

Click xem hình

Lúc ấy, các lực lượng Đồng Minh quyết định chia cắt Đại Hàn ra làm hai: miền Nam với sự giúp đỡ của Mỹ và miền Bắc với sự giúp đỡ của Liên Xô. Năm 1948, quân đội Liên Xô rút khỏi miền Bắc và năm sau, 1949, quân đội Mỹ cũng rút khỏi miền Nam.

Năm 1950, được sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, Bắc Hàn, dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành, phát động chiến tranh, tung quân qua biên giới Nam Hàn, gọi là để thống nhất đất nước. Sau khi Liên Hiệp Quốc thất bại trong nỗ lực hòa giải và ngăn chận chiến tranh, Tổng thống Truman quyết định đưa quân Mỹ và một số nước đồng minh sang giúp Nam Hàn trong cuộc chiến đối đầu với miền Bắc. Lúc ấy, Trung Quốc cũng quyết định can thiệp (với sự trợ giúp khí giới của Liên Xô).

Cuộc nội chiến Nam Bắc Hàn trở thành cuộc đối đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc, trong đó có lúc (ví dụ riêng đợt phản công mùa xuân năm 1951), quân Trung Quốc nhảy vọt lên đến khoảng 700,000 người.

Đến giữa năm 1953, hai bên tuyên bố đình chiến. Cuộc chiến tranh kéo dài ba năm để lại thảm kịch nặng nhất là có ít nhất trên hai triệu thường dân, từ cả hai miền, bị giết chết, kể cả bị giết tập thể.

Sau chiến tranh, Đại Hàn lại bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 38 làm biên giới. Phía Nam được biết dưới tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc (thường được gọi tắt là Hàn Quốc); phía Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (thường được gọi tắt là Triều Tiên).

Ban đầu, cả Bắc và Nam Hàn đều gánh chịu một di sản giống nhau. Đó là ách đô hộ kéo dài 35 năm của đế quốc Nhật Bản, cuộc nội chiến kéo dài 3 năm và số thương vong được xếp vào loại lớn nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh trong nội bộ một quốc gia ở thế kỷ 20, sự nghi kỵ và thù hận không phải giữa hai miền Nam Bắc. Những di sản ấy thể hiện rõ trong tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của cả hai miền ngay sau chiến tranh như nghèo khổ, lạc hậu và độc tài.

Nhưng 50 năm sau, khoảng cách giữa hai miền, Hàn Quốc và Triều Tiên, khác nhau vời vợi. Vào giữa thập niên 1950, cũng giống như Triều Tiên, Hàn Quốc nằm trong danh sách những quốc gia nghèo, tương tự vô số các quốc gia nghèo khác ở châu Á và châu Phi. Nhưng từ giữa thập niên 1960 thì họ nhảy vọt. Suốt cả mấy thập niên sau đó, họ được xem là một trong vài quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Giới nghiên cứu thường nêu lên một ví dụ về sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc: năm 1957, thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc thấp hơn hẳn Ghana, một quốc gia thuộc Tây Phi; bốn mươi năm sau, vào năm 2008, thu nhập của họ cao gấp 17 lần Ghana! Hiện nay, Hàn Quốc nằm trong nhóm 20 quốc gia giàu mạnh nhất thế giới (G-20). Một số thương hiệu của Hàn Quốc trở nên quen thuộc trên phạm vi toàn cầu, hầu như đi đâu cũng gặp: Hyundai, Samsung, Daewoo và LG.(x. Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

2. Giáo Hội Hàn Quốc

Triều Tiên có lịch sử lâu dài với hơn 5 ngàn năm, chịu ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo và Khổng Giáo. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592. Lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

Mãi đến đầu thế kỷ 18, Triều Tiên mới đón nhận ánh sáng Đức tin Công Giáo và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 19. Các triều đại phong kiến đã có những cuộc bách hại Kitô Giáo trong nhiều năm và đã có trên 10 ngàn Kitô hữu hy sinh mạng sống để minh chứng Đức tin.

Năm 1925, Đức giáo hoàng Piô XI đã tuyên chân phước cho 79 vị tử đạo. Năm 1968, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã tuyên chân phước cho 24 vị tử đạo. Ngày 14 tháng 10 năm 1984, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên hiển thánh cho 103 vị tử đạo Hàn Quốc.

Từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1,300 USD lên 19,500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công Giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5,000. Số tân linh mục hằng năm vào khoảng 130 đến 150 vị. Với 5,000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Số tín hữu Công Giáo gia tăng 3% mỗi năm (linh mục Piero Gheddo). Văn phòng Trung ương Thống kê Giáo Hội cho biết: Giáo Hội Công Giáo tại Hàn Quốc, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, có 16 giáo phận, 1,673 giáo xứ và 843 trung tâm mục vụ, với 35 giám mục, 4,261 linh mục,10 phó tế, 1,489 đại chủng sinh và 395 tiểu chủng sinh, 516 nam tu sĩ và 9,016 nữ tu, 123 thừa sai giáo dân và 14.195 giáo lý viên.

Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc điều hành 328 trung tâm giáo dục thuộc mọi cấp lớp với 221,020 học sinh theo học, 49trung tâm đặc biệt và 200 cơ sở khác, 40 bệnh viện, 4 phòng khám, 9 trại phong, 513 nhà an dưỡng cho người già và người khuyết tật, 277 trại mồ côi và nhà trẻ, và 83 trung tâm tư vấn gia đình và bảo vệ sự sống. (VIS).

Đức hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công Giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu. Như thế, Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để tuyên hiển thánh cho 103 vị Tử Đạo. Trong đó có thánh Anrê Kim Taegon, linh mục, thánh Phaolô Chong Hasang, chủng sinh, và 98 người Hàn Quốc cùng ba vị thừa sai người Pháp. Tất cả đều tử đạo trong khoảng từ năm 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân với 47 phụ nữ, 45 đàn ông.

Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Gioan Phaolô II đã nói: "Giáo Hội Hàn Quốc thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Hàn Quốc ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến".

Nét độc đáo của Giáo Hội Hàn Quốc đó là sự cộng tác tuyệt vời của giáo dân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Khác với lịch sử của các Giáo Hội khác trên thế giới, Giáo Hội Nam Hàn là do chính các giáo dân thành lập. Vào thế kỷ XVIII, một vài triết gia người Hàn đã sang Bắc Kinh gặp được nhà truyền giáo nổi tiếng linh mục Mátthêu Ricci. Sau khi thụ huấn và chịu phép Rửa tội, họ về nước đem theo cuốn Thánh Kinh và họ dịch sang tiếng Hàn rồi rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội Công Giáo. Trong các năm 1779-1836, khi các thừa sai đầu tiên người Pháp tới Đại Hàn, thì Kitô giáo đã được phổ biến trong nước, nhưng sau đó bị bách hại khốc liệt. Nhưng sự cộng tác của giáo dân thì vẫn tồn tại mạnh mẽ. Ngày nay tại Hàn Quốc, những ai muốn gia nhập Kitô giáo đều biết rằng mình phải có bổn phận dấn thân trong một hiệp hội hay phong trào nào đó hiện hữu trong các giáo xứ.

Từ thập niên 1980, trong 10 năm chuẩn bị lễ tuyên thánh cho các vị tử đạo, Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đã phát động phong trào mỗi một tín hữu phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo. Nhờ đó, số tín hữu đã gia tăng gấp đôi.

Hiện nay, Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", nghĩa là vào năm 2020, số tín hữu Công Giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, lý tưởng là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay để đạt con số 10 triệu người Công Giáo.

3. Những Đền thánh Công Giáo, nơi thu hút khách hành hương

Đoàn hành hương chúng tôi có 4 ngày ở đất Hàn nên dành trọn mỗi ngày đến một Đền thánh để tìm hiểu học hỏi và dâng lễ.

a. Đền thánh Yongsu ở Khu tưởng niệm Linh mục Kim Dae-gun, Thánh Tử Đạo đầu tiên tại đảo Cheju.

Buổi sáng sớm, sau khi thưởng thức món mì chay Uđông, đoàn chúng tôi đi qua cây cầu dài 21km bắc qua biển. Người Hàn gọi là “vĩ đại cầu”. Hành trình hơn 80km đến làng AnSung linh thiêng. Đang là mùa xuân nên khí hậu mát mẻ, núi rừng ngát xanh, khung cảnh tuyệt đẹp. Núi xanh bao bọc trung tâm hành hương. Nơi đây có Nhà thờ và nhiều nhà nguyện nhỏ và nhiều dãy nhà khác ẩn khuất trong vườn cây xanh mát. Đây là nơi lý tưởng để tĩnh tâm, linh thao.

Một nữ giáo dân phụ trách khu vực đền thánh giới thiệu cho chúng tôi về miền đất thánh thiêng và Thánh Anrê Kim. Chị chào mừng đoàn hành hương tín hữu Công Giáo Việt Nam. Vào năm1801, chính quyền phong kiến cấm đạo tuyệt đối. Sau 200 năm lịch sử, du khách đến xứ sở thanh bình này cảm nhận miền đất thiêng được khởi đi từ dòng máu tử đạo. Năm 1846 vị Lm đầu tiên của Hàn quốc là Thánh Anrê Kim bị chặt đầu nên người dân gọi ngọn núi thiêng này là núi chặt đầu.

Trước khi chết, thánh nhân có 3 câu nói nổi tiếng: tôi đem đức tin vào Hàn quốc và tôi luôn cầu nguyện cho đất nước bình an, tôi không bao giờ từ bỏ đức tin và tôi sẽ sống lại.

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao. Sáu năm sau khi học hỏi những tinh hoa của Tin Mừng, ngài trở về quê hương qua ngã Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và được thụ phong linh mục. Trở về trên con thuyền nhỏ nên ngài lạc đường và sau nhiều ngày lênh đênh trên biển ngài lên bờ lần đầu tại đảo Cheju. Đảo Cheju là nơi du lịch chính của Hàn Quốc, và đã thu hút 7,578,000 du khách Hàn Quốc và nước ngoài trong năm 2010. Giáo phận Cheju, nơi có đảo Cheju, có 67,496 tín hữu Công Giáo theo thống kê năm 2009. (UCA News 6-5-2011).

Đền thánh Yongsu, nơi tôn kính thánh tử đạo Anrê Kim Taegon bình yên giữa núi rừng hùng vĩ. Thánh nhân đã cử hành thánh lễ đầu tiên của mình ở Hàn Quốc tại đây. Chúng tôi hôn kính xương thánh và viếng mộ và của ngài. Mộ của thân mẫu thánh nhân cũng nằm trên ngọn đồi nhỏ phía sau.Chúng tôi dâng thánh lễ trong nhà nguyện nhỏ ấm cúng.Tạ ơn Chúa đã đưa chúng tôi đến nơi đây hành hương và cầu nguyện bên mộ phần thánh tử đạo.

Sau khi ăn trưa chúng tôi đi một hành trình dài 4 giờ xe đi về thành phố thủ phủ Kwangju, một trong 6 thánh phố lớn nhất của xứ sở Kim Chi.

Hệ thống giao thông xứ Hàn quá hiện đại như các nước Âu châu và Mỹ. Không thấy một xe honda nào trên quốc lộ. Không thấy một bóng dáng cảnh sát nào đứng đường.

Alex thuyết minh cho biết về lịch sử và văn hóa kinh tế xứ Hàn. Tổng thống Pắc Chung Hy trong 18 năm lãnh đạo (1961-1979) đã đưa đất nước phát triển. Từ một đất nước không có tài nguyên khoáng sản. Với ¾ diện tích đất đai là núi đồi. Đất đai chỉ sản xuất được 1 mùa, không có lương thực. Phía Bắc giáp Triều Tiên và ba phía kia giáp biển đầm lầy. Pac Chung Hy cùng nội các đã tìm ra đường lối phát triển đất nước. Công trình đầu tiên là mở tuyến đường Bắc Nam phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng sân bay quốc tế Incheon và thành phố Seoul. Đưa học sinh sinh viên sang Mỹ du học nhièu nghành nghề, đặc biệt là nghành y học để các bác sĩ trở về chăm sóc sức khỏe tốt cho dân. Phát triển đất nước phải bắt đầu từ gia đình rồi đến xã hội. Mọi du học sinh khi thành đạt đều trở về giúp xây dựng quê hương.

Ngày nay ở Hàn quốc có 4 nghành kinh tế chủ lực. Đó là xây dựng, công nghệ điện tử, sản xuất xe hơi và đóng tàu biển. Người dân làm việc chăm chỉ cần cù và được trả lương xứng đáng với khả năng. Lương kỹ sư là 60,000usd/năm và tăng theo thời gian, sau 10 năm làm việc mức lương đạt 100,000 usd/năm. Mức lương thấp nhất dành cho người lao động thủ công cũng rất cao 1500 usd/tháng. Chế độ bảo hiểm và an sinh xã hội rất tốt nên không có người ăn xin, người bán vé số dạo.

b. Linh Địa Đức Mẹ Naju.

Từ sáng sớm chúng tôi đến thăm vùng đất thánh Naju. Một chị giáo dân từng du học Mỹ làm việc ở văn phòng truyền giáo của giáo phận hướng dẫn và giới thiệu rất tận tình.

Naju là một thị trấn nhỏ với khoảng 90 ngàn dân thuộc miền Tây Nam bán đảo Triều Tiên, cách Thủ đô Seoul chừng 320 Kilô mét về phía nam. Naju thuộc Giáo phận Kwangju. Bộ phim truyền thuyết Jumong được quay tại Naju.

Chúng tôi vào viếng thánh đường Hoa Hồng. Nơi đây có thánh tượng Đức Mẹ ban ơn lành chảy huyết lệ liên tiếp từ ngày 30 tháng 6 năm 1985, đã gây chấn động cho cả nước.

Thánh tượng này là sở hữu của gia đình ông bà Julia Kim (Tên bà là Hong Sun Yoon và tên ông là Man Box Julio Kim), một gia đình Công Giáo công chức trong thành phố. Bà Julia chính là người được Đức Mẹ hiện ra để mời gọi mọi người cầu nguyện cho có sự an bình trên thế giới. Chúng tôi được xem phim tư liệu về thánh địa Naju. Sau đó đoàn chúng tôi tiếp tục hành trình lên núi thánh Đức Mẹ Naju. Giữa núi rừng bao la, ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ ban ơn tâm hồn lữ khách được nâng lên trong cuộc gặp gỡ thân tình với Mẹ. Chúng tôi chọn một cây thánh giá gỗ và lần lượt chia nhau vác bắt đầu đi 14 chặng đàng thánh giá. Những giáo dân Bắc 54 thuộc lòng kinh nguyện, sốt sắng trong mỗi chặng thương khó của Chúa. Kết thúc đàng thánh giá nơi thánh tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng tôi đọc kinh và hát ca sốt mến dâng tất cả cho trái tim Cực Thánh Chúa Giêsu.

Ban chiều trở lại thánh đường Hoa Hồng, chúng tôi dâng lễ. Cha linh hướng và cộng đoàn Nữ tu cùng tham dự thánh lễ. Dù không hiểu tiếng Việt nhưng họ cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Sau thánh lễ, thật may mắn, bà Julia Kim từ bệnh viện đến thăm và nói chuyện với chúng tôi. Người phụ nữ đã bước vào tuổi 65, hơn 20 năm bị ung thư vẫn trẻ trung và thật phúc hậu. Trước khi nói chuyện bà tặng cho các linh mục chuỗi Mân Côi xin các linh mục đặt tay chúc lành, một cử chỉ thật khiêm tốn. Bà chào mừng đoàn Việt Nam từ một nơi rất xa đã đến hành hương nên dù đang điều trị tại bệnh viện bà vẫn cố gượng dậy để đến gặp gỡ. Bà cầu chúc mọi người sức khỏe và bình an trong ơn lành của Đức Mẹ. Bà nói về đức tin. Khi tin vào Chúa và Đức Mẹ chúng ta luôn có bình an. Nghe bà nói chuyện tôi nhận thấy bà có đức tin mạnh mẽ và đời sống cầu nguyện thân mật với Chúa với Đức Mẹ nên bà rất khiêm tốn và trọn niềm tín thác.

Julia sinh năm 1947 là con gái của một vị học giả cổ điển Trung hoa. Cụ thân sinh của Julia đã bị mất tích trong thời Nam Bắc phân tranh và cô em út cũng qua đời khi mới lên 2 tuổi. Julia sống với mẹ, một người mẹ can đảm và chuyên cần lam lũ nuôi con ăn học qua hết bậc trung học. Đến năm 25 tuổi (1972) cô kết hôn với Juliô, người con cả trong gia đình. Ông bà sinh được 4 cháu (Tên là Rosa, Tomas, Térèsa và Philip). Ông bà đã lãnh nhận được ơn đức tin và đã trở thành con Giáo Hội vào lễ Phục sinh 1981.

Sau lần trở lại, bà dành hết thì giờ vào việc phục vụ khách hàng (nơi cửa tiệm hớt tóc của bà), lo cơm nước cho chồng con và săn sóc gia đình.

Ông Lubino Park là khách hàng quen thuộc của bà. Ông bị chứng bệnh sưng phổi từ khi ông phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện Lao trị. Ông xin bà Julia cầu nguyện cho trước khi khám nghiệm giải phẫu. Vốn có tinh thần tông đồ, nên bà đã dâng một tuần bảy ngày với các việc hy sinh và kinh nguyện để cầu cho ông. Kết quả sau ba lần tái khám, bác sỹ cho hay ông đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Để trả ơn bà Julia, ông xin tặng bà một món quà tôn giáo bày bán trong tiệm ảnh tượng của nhà thờ. Bà Julia chọn bức tượng Đức Mẹ ban ơn lành làm kỷ vật và cũng là để nhớ ơn Mẹ đã nhậm lời bà cầu nguyện.

Sau khi sinh cháu thứ tư, bà mắc một chứng bệnh ung thư. Trước cảnh tượng đau đớn năm chờ chết, bà đã nhiều lần ý "chấp nhận cái chết" với chồng con. Bà cũng cố gượng viết một chúc thư dành cho người sẽ làm vợ kế của chồng bà. Bà cũng được cha Sở xứ đạo Naju thường xuyên đến cho bà lãnh nhận Mình Thánh Chúa và khuyên nhủ ủi an trong khi chờ chết. Hôm ấy trong giấc ngủ mơ, bà thấy mình được Chúa chỉ dẫn đọc Thánh Kinh. Bà mở nhằm đoạn sách nói về người đàn bà loạn huyết lâu năm được Chúa chữa lành nhờ lòng tin. Sau giấc chiêm bao ấy, cũng nhờ lòng tin, bà được Chúa cho hoàn toàn bình phục, lại ban cho hết những gì bà khẩn cầu. Vì thế, nghĩ đến ơn Chúa ban, bà quyết định biến nhà mình thành nơi cư trú cho mọi kẻ nghèo hèn. Từ tháng 5, 1985 cơn bệnh của bà lại tái phát, nhưng Chúa vẫn cho bà đủ sức để làm việc phục vụ. Đức Mẹ đã tỏ cho Julia Kim biết về con đường thiêng liêng theo thánh Têrêsa thành Lisieur là cầu nguyện, sinh hoạt chung, chịu đựng hy sinh, làm việc đền tội dâng lên Thiên Chúa vì yêu mến và sống khiêm nhường hiệp ý với Mẹ thì rất có giá trị trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Bà Julia kể: Sau khi đi thăm Kwangju, tôi đến Naju lúc 11g20 khuya ngày 30 tháng 6 năm 1985. Tôi đọc kinh Mân Côi xin cho kẻ có tội được ơn trở lại và cho những người đang đau khổ tại Kwangju. Đang khi đọc kinh, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt chảy dài trên đôi mắt tượng Mẹ. Tôi hồ nghi không phải là nước mắt Mẹ nên tôi đánh thức chồng tôi đang ngủ gục, để nhìn cho rõ. Hai chúng tôi nhìn sát mắt Mẹ và chúng tôi xác định là nước mắt thật sự đã chảy ra từ khoé mắt Mẹ.

Sáng hôm sau tôi thức dậy từ 6 giờ và đi thẳng đến chân tượng Mẹ để quan sát lại. Tôi thấy những giọt nước Phép tôi vẩy lên tượng khi đêm đã khô sạch, nhưng vệt nước chảy từ khoé mắt Mẹ hôm qua, giờ vẫn còn chảy đều. Trước khi rời nhà đi làm, Juliô bảo tôi "đừng tiết lộ cho ai biết về hiện tượng lạ này" Anh lại bảo tôi "phải cầu nguyện sốt sáng hơn" nữa.

Vì thế, chẳng bao lâu sự kiện Đức Mẹ khóc tại Naju được loan đi khắp nơi và thiên hạ kéo đến đông nghẹt cả đường phố. Gia đình ông bà Juliô đã trở thành nơi cầu nguyện suốt đêm ngày.

Đức tổng giám mục Gong Hee Victorius Yoon đã để tâm nghiên cứu và nghiệm xét những sự lạ xảy ra tại đây và đã công bố với các cha trong ngày tĩnh tâm của các linh mục giáo phận rằng: "Sự kiện Đức Mẹ khóc chảy nước mắt không thể chối được. Chúng tôi thường xuyên quan sát các sự kiện và diễn tiến của biến cố…. Và tôi cũng đang tiếp tục nghiên cứu các hệ quả…." (tháng 7 năm 1989).

Ngài cũng nói với cha Raymond Spies Chánh sở Xứ đạo Naju rằng: "Tôi hết sức tin tưởng vào hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại Naju này. Tôi chấp nhận như là một sự có thật. Tôi chưa thấy nơi bà Julia nói điều gì trái với Tín lý của Giáo Hội. Xin cha cho tôi biết rõ tình hình bằng cách cung cấp cho tôi cả những thông điệp, nhật ký của bà Julia, các hình ảnh và băng hình nữa".

Đức Tổng giám mục Ivan Dias, Khâm Sứ Toà Thánh tại Nam Triều Tiên cũng công khai bày tỏ: "Tôi xin phó dâng sứ mạng Khâm Sai của tôi qua lời cầu nguyện của cha Raymond Spies, bà Julia và cũng cậy nhờ vào những sự đau khổ bí nhiệm của bà chịu nữa" (Ngày 22 tháng 12, 1991).

Chia tay cha Linh hướng, các Nữ tu, các thiện nguyện viên và bà Julia Kim trong lưu luyến, chúng tôi về thánh phố Kwanju nghĩ ngơi.

c. Thánh địa Chonjinam

Từ Kwanju chúng tôi đi hơn 3 giờ xe là đến vùng thánh địa Chonjinam trên núi cao.

Đức Ông Byon Ki – Young tiếp đón chúng tôi rất niềm nở và tặng sách “History of the Foundation of the Korean Catholic Church” do ngài biên soạn.

Chon-jin-am, một nơi gặp gỡ giữa Nho giáo, Phật giáo và Công Giáo, đã trở thành nơi khai sinh của Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc.

Vị linh mục cai quản thánh địa chuyên đón đoàn hành hương đã đưa chúng tôi lên núi trước phần mộ của 5 linh mục đầu tiên và ngài giới thiệu đôi nét lịch sử hình thành Giáo Hội Hàn quốc.

Chon-jin-am có 5 ngôi mộ của 5 linh mục tử đạo khai sinh Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc. Các ngài đi tìm chân lý và gặp gỡ nơi Tin Mừng Chúa Giêsu rồi về nước các ngài truyền bá Tin Mừng. Họ đã xây dựng Giáo Hội Hàn Quốc mà không có sự giúp đỡ của các nhà truyền giáo nước ngoài.

Hiện nay, tại Chon-jin-am, đã đặt nền móng xây dựng vương cung thánh đường. Dự kiến sẽ kéo dài trong thời gian dài. Vương cung được mô phỏng theo phong cách lấy cảm hứng từ các tôn giáo khác nhau của người dân Hàn Quốc: Nho giáo, Phật giáo và Kitô giáo (xin đọc thêm tư liệu lịch sử tại web: chonjinam.org).

Đoàn chúng tôi đọc kinh cầu nguyện và xuống núi dâng lễ kính thánh Antôn Pađôva trong nhà nguyện nhỏ dưới chân núi.

Ban chiều chúng tôi về thành phố Seoul ghé vào cửa hàng sâm nổi tiếng Ginseng Outlet, tham quan và mua quà lưu niệm.

d. Bảo tàng lịch sử Giáo Hội Hàn quốc và Thánh đường Juldusan

Seoul là thủ đô của Hàn Quốc, nằm bên Sông Hàn ở phía Tây Bắc Hàn Quốc. Thành phố cách biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên 50 km về phía Nam (Khu phi quân sự Triều Tiên). Với dân số hơn 10 triệu, Seoul là thành phố lớn nhất Hàn Quốc. Diện tích chỉ 605 km², đây là một trong những thành phố lớn có mật độ dân số cao nhất thế giới. Hệ thống giao thông quá hiện đại.

Seoul có một hệ thống tàu điện ngầm nối mỗi quận của thành phố và các khu vực xung quanh. Với lượng khánh hơn 8 triệu mỗi ngày, hệ thống tàu điện ngầm của Seoul được xếp vào một trong những hệ thống tàu điện ngầm bận rộn nhất trên thế giới. Tàu điện ngầm vùng đô thị Seoul có 12 tuyến phục vụ Seoul, Incheon, Gyeonggi, tây Gangwon, và bắc Chungnam.

Chúng tôi đến miền đất thánh thiêng giữa lòng thủ đô Seoul. Đó là bảo tàng lịch sử của Giáo Hội Hàn quốc. Một vị trí rất đẹp từ trên đồi cao nhìn xuống sông Hàn thơ mộng. Hàn Quốc tự hào với hàng loạt bảo tàng quốc gia và rất nhiều những bảo tàng chuyên đề dành cho những đối tượng riêng biệt. Các bảo tàng quốc gia trưng bày những hiện vật vô giá xuyên suốt chiều dài lịch sử 5000 năm của Hàn Quốc.

Chúng tôi dâng thánh lễ khởi đầu ngày mới trên miền đất có nhiều vị tử đạo vào năm 1866.

Một thiện nguyện viên nói tiếng Anh lưu loát hướng dẫn và thuyết minh cho chúng tôi về lịch sử Giáo Hội Hàn quốc, tham quan bảo tàng với nhiều chứng tích lịch sử Giáo Hội bị bách hại và đặc biệt là tư liệu hình ảnh Đức Gioan Phaolô II đến thăm Hàn quốc 2 lần (dịp phong thánh năm 1984 và dịp Đại hội Thánh Thể năm 1993). Nơi đây có dãy nhà trưng bày cách sống động những nhà tù và các dụng cụ tra tấn các vị tử đạo. Sau đó chúng tôi vào Thánh đường Juldusan viếng Chúa. Nhiều giáo dân Hàn đang lần chuỗi và cầu nguyện.

Sau khi chụp hình lưu niệm, chúng tôi chia tay các thiện nguyện viên với lời cảm ơn chân thành.

Chỉ còn một buổi chiều tại Seoul, chúng tôi thăm lâu đài Kinh Bắc Cung – Gyeongbok Place, nơi ở và làm việc của các triều đại phong kiến Triều Tiên. Cung điện Kyongbuk – Cung điện ánh sáng và hạnh phúc. Cung điện được xây dựng vào năm 1394 dưới đời vua Chosun (1392 – 1910), đời vua cuối cùng của Hàn Quốc. Đây được xem là một công trình nghệ thuật nổi tiếng có phong cách và kiến trúc độc đáo và đẹp nhất Seoul. Cung điện là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với những hồ sen thơm ngát, những ngôi chùa đá cổ kính và đặc biệt là những cung điện nguy nga, tráng lệ.

Chúng tôi tham quan Bảo tàng Dân tộc Quốc gia là bảo tàng quốc gia duy nhất về văn hóa dân gian, trưng bày khoảng 4,000 hiện vật về đời sống văn hóa. Tham quan Bảo tàng Cung điện Quốc gia trưng bày 40.000 hiện vật tái hiện lại lịch sử và văn hóa của triều đại Joseon. Sau đó đi chợ Dongdaemun mua sắm đặc sản xứ Hàn. Ban tối được nhâm nhi rượu Soju với gà hâm sâm, thưởng thức nhiều món kim chi quốc hồn quốc túy đất nước này.

Hôm sau kết thúc chuyến hành hương, chúng tôi lên đường sớm kịp chuyến bay từ Incheon về Sài gòn.

4. Thay lời kết

Hàn Quốc có diện tích là 99,720 cây số vuông, dân số 48,754,657 (tháng 7, 2011), Thu nhập bình quân đầu người là 30,000 Mỹ kim (năm 2010), tổng sản lượng quốc nội (GDP) là $1.459 trillion (2010) (trillion là một ngàn tỉ); xếp hàng thứ 13 trên thế giới. (theo tài liệu của CIA World Factbook).

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang đẩy mạnh chương trình học hỏi Lời Chúa để truyền giáo cho xã hội đang thay đổi nhanh chóng ngày nay. Hy vọng chương trình "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", sẽ gia tăng tín hữu lên 10 triệu vào năm 2020.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự ngày Giới Trẻ Á châu và lễ tuyên hiển thánh cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Linh Mục Rossi De Gasperis, SJ viết: Trong lịch sử hiện đại mặc dù chiến tranh lạnh đã chấm dứt trên thế giới, nhưng Đại Hàn vẫn còn là vùng ghi đậm dấu vết hậu qủa của nó với chiến tranh Triều tiên và sự kiện đất nước chia đôi lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Ngày 15 tháng 8 năm 1948 Cộng Hòa Nam Hàn khai sinh, trong khi ngày mùng 9 tháng 9 cùng năm, Bắc Hàn được tuyên bố là Cộng hòa dân chủ nhân dân Bắc Hàn. Ngày 25 tháng 5 năm 1950 Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Chiến tranh mau chóng trở thành toàn diện và bị quốc tế hóa với sự tham dự của Hoa Kỳ trợ giúp Nam Hàn, và Trung Quốc yểm trợ Bắc Hàn. Ba năm nội chiến đã khiến cho khoảng 400 ngàn người dân Nam Hàn bị giết, 55,000 lính Mỹ thiệt mạng và khoảng 1 triệu người dân Bắc Hàn và Trung quốc chết và bị thương. Ngày 27 tháng 7 năm 1953 Liên Hiệp Quốc chấp nhận nghị quyết chia đôi Triều Tiên lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới và là vùng phi quân sự. Nó là “bức tường Berlin của Á châu” ngăn cách và phân rẽ hàng trăm ngàn gia đình “người bắc kẻ nam”.

Trong hơn nửa thế kỷ qua chế độ cộng sản vô thần Bắc Hàn đã tiêu diệt tôn giáo. Giáo Hội Công Giáo không còn linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân nữa. Tuy nhiên, Giáo Hội Nam Hàn đã không bao giờ coi bức tường ngăn cách hiện hữu, và đã liên tục dấn thân hoạt động cho việc thống nhất đất nước, qua các công tác bác ái cứu trợ nhân dân Bắc Hàn, đặc biệt là cứu đói.

Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn đã thành lập một Ủy ban hòa giải nhắm nhiều mục đích khác nhau. Cha Timoteo Lee Eun-Hyung thành phần Ủy ban cho biết ngoài việc rao truyền Tin Mừng cho Bắc Hàn là nơi không có tự do tôn giáo, Ủy ban tìm mọi cách để trao đổi tin tức giữa hai miền, cũng như chia sẻ tình yêu thương liên đới, trong đó có việc trợ giúp các anh chị em Bắc Hàn định cư tại Nam Hàn. Ngoài ra còn có việc cầu nguyện chung. Gần biên giới có vài giáo xứ, trong đó vào mỗi ngày thứ tư tín hữu tụ tập nhau cầu nguyện cho người dân Bắc Hàn.

Hồi tháng 5 vừa qua ĐHY Andrew Yeom Soo-Jung, TGM Seoul đã sang thăm vùng kỹ nghệ Kaesong nằm trên đất Bắc Hàn. Đây là vùng có các hãng xưởng kỹ nghệ tạo công ăn việc làm cho 55,000 dân Bắc Hàn và là vùng đầu tư rất có triển vọng trong tương ái, đặc biệt khi hai miền Nam Bắc Hàn thống nhất với nhau. Hiện nay Nam Hàn là quốc gia phát triển kỹ nghệ đứng hàng thứ 11 trên thế giới. Nếu từ đây cho tới năm 2015 hai miền Bắc và Nam Hàn có thể thống nhất, thì với 70 triệu dân Đại Hàn vào năm 2050 Đại Hàn sẽ cỏ thể trở thành cường quốc kỹ nghệ thứ 8, vượt cả Đức và Anh quốc và với lợi tức đầu người lớn hơn của cả Nhật Bản. Vì thế chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô vào trung tuần tháng 8 này sẽ có thể góp phần mở ra các viễn tượng mới đầy hy vọng cho cả hai miền Bắc và Nam Hàn. (SD 4-8-2014. R.Vatican).

Đây là bài phỏng vấn linh mục Hur Young-Up phát ngôn viên tổng giáo phận Seoul.

Hỏi: Thưa cha, cha có cảm nghĩ gì về chuyến công du sắp tới của ĐTC tại Nam Hàn?

Đáp: Giáo Hội Đại Hàn là Giáo Hội đầu tiện tại Á châu được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Qua biến cố ý nghĩa này Giáo Hội Đại Hàn trở thành cánh cửa rao giảng Tin Mừng tại Á chậu. Đức Thánh Cha đến Nam Hàn như là một chủ chăn để gặp gỡ dân chúng và gặp gỡ giới trẻ Á châu. Chúng ta có thể nói rằng Đại Hàn là quốc gia biểu tượng cho các nhu cầu của hòa bình và hòa giải. Vì thế, chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể mang lại một sứ điệp quan trọng của niềm hy vọng và hoa bình cho đất nước chúng tôi.

Hỏi: Người dân Đại Hàn nghĩ gì về Đức Thánh Cha Phanxicô, thưa cha?

Đáp: Không phải chỉ có các tín hữu công giao mà tất cả mọi người dân Đại Hàn đều thích Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi qúy trọng các kiểu cách thân thiện và sự đơn sơ của ngài, chúng tôi đanh giá cao kiểu ngài lo lắng cho cho người mghèo và những người bị gạt bỏ bên lề xã hội. Toàn dân Đại Hàn nóng lòng chờ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Việc chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha tiến hành như thế nào thưa cha?

Đáp: Cùng với Giáo Hội chính quyền của chúng tội cũng ủng hộ việc chuẩn bị cho chuyên công du mục vụ này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vì thế tôi tin rằng các chuẩn bị bên ngoài cũng như bên trong đều quan trọng. Chuyến viếng thăm của Đức Thnah Cha không chỉ là một dịp đặc biệt cho Giáo Hội, mà cũng là một cơ may quan trọng cho các cuộc cải cách nội bộ và công tác rao truyền Tin Mừng nữa.

Hỏi: Thưa cha, cách đây 25 năm, hồi năm 1989, Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Nam Hàn lần thứ hai. Đâu là các hoa trái của chuyến viếng thăm đó?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đã đem lại các kết qủa tích cực cho Giáo Hội Đại Hàn. Giáo Hội đã được biết tới nhiều hơn trong xã hội và đã gây được ấn tượng tốt nơi người dân.

Hỏi: Tiến trình tục hóa liện quan tới Nam Hàn cũng giống như tại tất cả mọi quốc gia kỹ nghệ. Giáo Hội Nam Hàn đã trả lời ra sao?

Đáp: Ngày nay đất nước chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ chủ thuyết duy vật, cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, và vô cảm tôn giáo. Bên trong Giáo Hội cũng có cùng vấn đề đó. Vì thế thật là điều quan trọng, khi Giáo Hội tìm ra các con đường mới và các phương thức mới để đương đầu với các vấn đề như thế. Tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và là một mục tiêu đói với việc rao giảng Tin Mừng.

Hỏi: Các tín hữu Nam Hàn có sẵn sàng đương đầu với thách đố của công tác rao truyền Tin Mừng mới hay không?

Đáp: Tái truyền giảng Tin Mừng là một phương pháp mới giúp chúng ta canh tân đức tin của mình trong thế giới thay đổi nhanh chóng này. Thật là quan trọng việc chính Giáo Hội thay đổi trước để đi ra hướng về thế giới, và phổ biến Tin Mừng qua các phương tiện mới và với các kết qủa mới. Con đường Giáo Hội Đại Hàn phải đi còn dài, nhưng chúng tôi đang làm tốt chừng nào có thể để biến đổi việc rao giảng Tin Mừng thành hành động.

Hỏi: Chúng ta nhớ là Tin Mừng đã được phổ biến tại Đại Hàn năm 1700, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đạo Công Giáo đã được đem vào trong đất nước chúng tôi sau khi các sách Công Giáo được dịch ra tiếng Đại Hàn, và các học sinh đại hàn bắt đầu học. Tiếp theo đó các tín hữu thành lập các cộng đoàn Công Giáo và rao giảng đức tin của họ cho các người khác. Như thế điều đặc biệt nhất của Giáo Hội Đại Hàn là nó đã bắt đầu qua các giáo dân, chứ không qua các thừa sai. Giáo Hội Đại Hàn đã chịu nhiều bách hại ngay lập tức. Nhưng cha ông chúng tôi đã duy trì được đức tin của họ, và tiếp tục phổ biến tin vui của Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa cha, đâu là dấn thân của Giáo Hội cho việc thống nhất đất nước?

Đáp: Đây là sứ mệnh của Giáo Hội Đại Hàn: làm việc cho hòa giải và thống nhất đất nước chúng tôi. Tôi tin rằng việc yểm trợ nhân đạo và các cuộc đối thoại chân thành là điều cần thiết nhất. Giáo Hội đã tiếp tục yểm trợ nhân đạo cả khi tương quan giữa Bắc và Nam Hàn căng thẳng.

Hỏi: Liên quan tới việc tái thống nhất đất nước việc đối thoại liên tôn có tầm quan trọng nào giúp đạt mục đích này không?

Đáp: Đối thoại liên tôn là một vấn đề quan trọng, nhưng không liên quan gì tới các mục tiêu chính trị. Tôi nghĩ rằng thật là một điều hay đẹp, khi con người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau và trân trọng vẻ đẹp mà mội tôn giáo đã đem đến cho con người.(RG 16-7-2014; vietvatican.net).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Cuộc đối thoại đại kết và các tương quan với Do thái giáo

Cuộc đối thoại đại kết và các tương quan với Do thái giáo


Phỏng vấn linh mục Hur Young-Up, phát ngôn viên Tổng giáo phận Seoul

Trong các ngày từ 13 tới 18 tháng 8 tới đây Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Nam Hàn để chủ sự ngày Giới Trẻ Á châu và lễ phong hiển Thánh cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Lúc 16 giờ chiều ngày 13 tháng 8 máy bay chở Đức Thánh Cha cất cánh từ phi trường Fiumicino và sẽ đến phi trướng quốc tế Seoul lúc 10 giờ rưỡi sáng 14-8. Sau đó lúc 12 giờ Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh lễ riêng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Lễ nghi tiếp đón sẽ diễn ra vào lúc 15 giờ 45 tại ”Tòa nhà xanh”. Sau đó lúc 16 giờ 30 ngài gặp gỡ hàng lãnh đạo Nam Hàn trong phong khánh tiết Chungmu. Lúc 17 giờ 30 ngài gặp gỡ càc Giám Mục Nam Hàn tại trụ sở của Hội Đồng Giám Mục.

Thứ sáu 15-8 lúc 8 giờ 45 phút sáng Đức Thánh Cha đi trực thăng tới Daejeon, và lúc 10 giờ 30 ngài chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ hồn xác lên trời và đọc Kinh Truyền Tin tại vận động trường quốc tế thành phố. 13 giờ 30 ngài dùng bữa với giới trẻ tại đại chủng viện Daejeon. Ban chiều lúc 16 giờ 30 ngài đi trực thăng đến Đền thánh Solmoe để gặp gỡ giới trẻ Á châu gần đền thánh. Lúc 19 giờ 15 ngài đi trực thăng trở về Seoul.

Ngày 17-8 lúc 8 giờ 55 phút Đức Thánh Cha viếng thăm Đền thánh tử đạo Seo So mun và lúc 10 giờ ngài chủ tế thánh lễ phong hiển Thánh cho Paul Yun-Ji Chung và 123 vị tử đạo tại cửa Gwanghwamun ở Seoul. Vào ban chiều Đức Thánh Cha viếng thăm Trung tâm phục hồi người tàn tật tại ”Nhà hy vọng” ở Kkhotongnae. Tiếp đến lúc 18 giờ 30 ngài găp gỡ giới lãnh đạo Tông đồ giáo dân tại Trung tâm tu đức Kkhotongnae, sau đó Đức Thánh Cha trở về Seoul.

Chúa Nhật 17-8 lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha đi trực thăng tới đền thánh Haemi và chủ sự thánh lễ bế mạc Ngày giới trẻ Á châu lần thứ sáu trong lâu đài Haemi.

Ngày thứ hai 18-8 lúc 9 giờ sáng Đức Thánh Cha gẵp gỡ giới lãnh đạo các tôn giáo trong dinh cũ của tòa Tổng Giám Mục Seoul. Sau đó lúc 9 giờ 45 ngài chủ sư thánh lễ cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải trong nhà thờ chính tòa Myeong Dong trong thủ đô Seoul. Lúc 12 giờ 45 là lễ tiễn biệt tại phi trường Seoul. Máy bay rời phi trường Seoul lúc 12 giờ và dự kiến về tới phi trường Ciampino của Roma Roma lúc 17 giờ 45.

Nam Hàn rộng 99.268 cây số vuông, có hơn 5 triệu tín hữu công giáo trên tổng số 43 triệu dân. Giáo Hội công giáo có 16 giáo phận, 1.673 giáo xứ và 843 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 35 Giám Mục, 3.606 linh mục triều, 655 linh mục dòng, 10 Phó tế trọn đời, 516 tu huynh, 9.016 nữ tu, 56 giáo dân tận hiến, 123 giáo dân thừa sai và 14.195 giáo lý viên. Tính trung bình mỗi linh mục trông coi 1.266 tín hữu. Ngoài ra, Giáo Hội còn có 395 tiểu chủng sinh và 1.489 đại chủng sinh. Giáo hội công giáo Nam Hàn hiện đảm trách 235 trường tiểu học với gần 30 ngàn học sinh, 59 trường trung học với hơn 35 ngàn học sinh, và 34 trường cao học và đại học với hơn 156 ngàn sinh viên. Bên cạnh đó Giáo Hội cũng điều hiển 40 nhà thương, 4 trạm xá, 9 trại phong cùi, 513 nhà hưu dưỡng cho người già, người tàn tật và người bệnh tâm thần, 513 nhà mồ côi, 277 vườn trẻ, 83 trung tâm gia đình và trung tâm bảo vệ sự sống, 49 trung tâm giáo dục chuyên biệt hay cải huấn xã hội và 200 trung tâm thuộc các loại khác.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phong vấn linh mục Hur Young-Up phát ngôn viên tổng giáo phận Seoul.

Hỏi: Thưa cha, cha có cảm nghĩ gì về chuyến công du sắp tới của ĐTC tại Nam Hàn?

Đáp: Giáo Hội Đại Hàn là Giáo Hội đầu tiện tại Á châu được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Qua biến cố ý nghĩa này Giáo Hội Đại Hàn trở thành cánh cửa rao giảng Tin Mừng tại Á chậu. Đức Thánh Cha đến Nam Hàn như là một chủ chăn để gặp gỡ dân chúng và gặp gỡ giới trẻ Á châu. Chúng ta có thể nói rằng Đại Hàn là quốc gia biểu tượng cho các nhu cầu của hòa bình và hòa giải. Vì thế, chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể mang lại một sứ điệp quan trọng của niềm hy vọng và hoa bình cho đất nước chúng tôi.

Hỏi: Người dân Đại Hàn nghĩ gì về Đức Thánh Cha Phanxicô, thưa cha?

Đáp: Không phải chỉ có các tín hữu công giao mà tất cả mọi người dân Đại Hàn đều thích Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi qúy trọng các kiểu cách thân thiện và sự đơn sơ của ngài, chúng tôi đanh giá cao kiểu ngài lo lắng cho cho người mghèo và những người bị gạt bỏ bên lề xã hội. Toàn dân Đại Hàn nóng lòng chờ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Việc chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha tiến hành như thế nào thưa cha?

Đáp: Cùng với Giáo Hội chính quyền của chúng tội cũng ủng hộ việc chuẩn bị cho chuyên công du mục vu này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vì thế tôi tin rằng các chuẩn bị bên ngoài cũng như bên trong đều quan trọng. Chuyến viếng thăm của Đức Thnah Cha không chỉ là một dịp đặc biệt cho Giáo Hội, mà cũng là một cơ may quan trọng cho các cuộc cải cách nội bộ và công tác rao truyền Tin Mừng nữa.

Hỏi: Thưa cha, cách đây 25 năm, hồi năm 1989, Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Nam Hàn lần thứ hai. Đâu là các hoa trái của chuyến viếng thăm đó?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đã đem lại các kết qủa tích cực cho Giáo Hội Đại Hàn. Giáo Hội đã được biết tới nhiều hơn trong xã hội và đã gây được ấn tượng tốt nơi người dân.

Hỏi: Tiến trình tục hóa liện quan tới Nam Hàn cũng giống như tại tất cả mọi quốc gia kỹ nghệ. Giáo Hội Nam Hàn đã trả lời ra sao?

Đáp: Ngày nay đất nước chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ chủ thuyết duy vật, cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, và vô cảm tôn giáo. Bên trong Giáo Hội cũng có cùng vấn đề đó. Vì thế thật là điều quan trọng, khi Giáo Hội tìm ra các con đường mới và các phương thức mới để đương đầu với các vấn đề như thế. Tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và là một mục tiêu đói với việc rao giảng Tin Mừng.

Hỏi: Các tín hữu Nam Hàn có sẵn sàng đương đầu với thách đố của công tác rao truyền Tin Mừng mới hay không?

Đáp: Tái truyền giảng Tin Mừng là một phương pháp mới giúp chúng ta canh tân đức tin của mình trong thế giới thay đổi nhanh chóng này. Thật là quan trọng việc chính Giáo hội thay đổi trước để đi ra hướng về thế giới, và phổ biến Tin Mừng qua các phương tiện mới và với các kết qủa mới. Con đường Giáo Hội Đại Hàn phải đi còn dài, nhưng chúng tôi đang làm tốt chừng nào có thể để biến đổi việc rao giảng Tin Mừng thành hành động.

Hỏi: Chúng ta nhớ là Tin Mừng đã được phổ biến tại Đại Hàn năm 1700, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đạo Công giáo đã được đem vào trong đất nước chúng tôi sau khi các sách công giáo được dịch ra tiếng Đại Hàn, và các học sinh đại hàn bắt đầu học. Tiếp theo đó các tín hữu thành lập các cộng đoàn công giáo và rao giảng đức tin của họ cho các người khác. Như thế điều đặc biệt nhất của Giáo Hội Đại Hàn là nó đã bắt đầu qua các giáo dân, chứ không qua các thừa sai. Giáo Hội Đại Hàn đã chịu nhiều bách hại ngay lập tức. Nhưng cha ông chúng tôi đã duy trì được đức tin của họ, và tiếp tục phổ biến tin vui của Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa cha, đâu là dấn thân của Giáo Hội cho việc thống nhất đất nước?

Đáp: Đây là sứ mệnh của Giáo Hội Đại Hàn: làm việc cho hòa giải và thống nhất đất nước chúng tôi. Tôi tin rằng việc yểm trợ nhân đạo và các cuộc đối thoại chân thành là điều cần thiết nhất. Giáo Hội đã tiếp tục yểm trợ nhân đạo cả khi tương quan giữa Bắc và Nam Hàn căng thẳng.

Hỏi: Liên quan tới việc tái thống nhất đất nước việc đối thoại liên tôn có tầm quan trọng nào giúp đạt mục đích này không?

Đáp: Đối thoại liên tôn là một vấn đề quan trọng, nhưng không liên quan gì tới các mục tiêu chính trị. Tôi nghĩ rằng thật là một điều hay đẹp, khi con người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau và trân trọng vẻ đẹp mà mội tôn giáo đã đem đến cho con người.

(RG 16-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio