ĐTC chấp thuận tính luân lý của việc cắt bỏ tử cung trong một số trường hợp

ĐTC chấp thuận tính luân lý của việc cắt bỏ tử cung trong một số trường hợp

Hôm 10/12/2018, ĐTC đã phê duyệt câu trả lời của Bộ Giáo lý Đức tin liên quan đến nghi ngờ về tính hợp luân lý của việc cắt bỏ tử cung trong một số trường hợp.

Các câu trả lời năm 1993 vẫn có giá trị

Bộ Giáo lý Đức tin khẳng đinh giá trị của “Các câu trả lời về những nghi ngờ được đặt ra liên quan đến việc cắt bỏ tử cung và các câu hỏi liên quan” được đưa ra năm 1993. Những câu trả lời này xem việc cắt bỏ tử cung là hợp luân lý khi có nguy hiểm nghiêm trọng và đối với tính mạng hoặc sức khỏe của người mẹ, và xem việc này là bất hợp pháp, như một phương thức triệt sản trực tiếp, cắt bỏ tử cung và thắt ống dẫn trứng (cách ly tử cung) với mục đích không thể có bất kỳ sự mang thai nào mà có thể gây ra một số rủi ro cho người mẹ.

Nghi ngờ

Nhưng trong những năm gần đây, một số trường hợp cụ thể đã được đệ trình lên Tòa Thánh, cũng liên quan đến việc cắt bỏ tử cung, tuy nhiên chúng đề cập đến một vấn đề khác với vấn đề được xem xét vào năm 1993, vì chúng liên quan đến những tình huống không thể sinh sản. Bộ Giáo lý đức tin đã đưa ra một chú giải để cho vấn nạn này.  

Câu hỏi: Khi tử cung bị xem là ở trong tình trạng chắc chắn không còn phù hợp cho việc sinh sản và các chuyên viên y khoa chắc chắn rằng việc mang thai sẽ đưa đến việc hư thai tự nhiên trước khi bào thai có thể đạt đến tình trạng khả thi, vậy thì cắt bỏ tử cung có hợp pháp không?

Trả lời: Có, bởi vì ở đây không phải là trường hợp triệt sản.

Ghi chú chú giải:

Không thể sinh sản

Yếu tố tạo nên sự khác biệt quan trọng của câu hỏi mới này là các chuyên viên y khoa chắc chắn rằng trong trường hợp mang thai, thì nó sẽ tự bị hư trước khi bào thai đạt đến tình trạng có thể sống được. Ở đây không phải là trường hợp khó khăn hay rủi ro, quan trọng nhiều hay ít, nhưng là trường hợp một đôi vợ chồng không thể sinh sản.

Ghi chú của Bộ viết: “Mục đích chính của việc triệt sản là ngăn cản sự hoạt động của các cơ quan sinh sản và điều xấu của việc triệt sản bao gồm việc từ chối con cái: nó là một hành động chống lại thiện ích có con cái. Ngược lại trong trường hợp được đề cập đến trong câu hỏi, chúng ta biết rằng các cơ quan sinh sản không có khả năng bảo vệ một bào thai được thụ tinh cho đến khi nó có thể sống được, nghĩa là nó không có khả năng thực hành chức năng sinh sản tự nhiên của nó. Mục đích của tiến trình sinh sản là để một em bé chào đời, nhưng ở đây, việc tạo nên một bào thai sống là điều không thể về sinh học. Do đó, ở đây chúng ta không đang xét đến sự hoạt động khiếm khuyết hoặc hoặc rủi ro của các cơ quan sinh sản, nhưng đứng trước một tình huống mà trong đó mục đích tự nhiên là sinh ra một đứa trẻ sống thì không thể thực hiện được.”

Sự chắc chắn của y khoa và tính hợp luân lý của việc cắt bỏ tử cung

Can thiệp y khoa không thể bị xét là chống lại việc sinh sản, bởi vì chúng ta ở trong bối cảnh khách quan trong đó cả việc sinh sản và hậu quả, việc chống sinh sản, đều không thể. Do đó, cắt bỏ một cơ quan sinh sản mà không thể đưa đến việc thai nghén thì không thể bị xem như là triệt sản trực tiếp, là điều mà cả mục đích và phương tiện đều bất hợp pháp về bản chất.

Vấn đề về các tiêu chí để đánh giá liệu việc mang thai có thể hoặc không thể kéo dài đến trạng thái sống được là một vấn đề y khoa. Từ quan điểm đạo đức, chúng ta phải hỏi xem y học đã đạt được mức độ chắc chắn nhất mà nó có thể đạt được không, và theo nghĩa này, câu trả lời được đưa ra là hợp lệ cho câu hỏi, vì nó đã được đặt ra với một đức tin tốt.

Chọn lựa những cách thức tốt cho vợ chồng

Câu trả lời cho câu hỏi không nói rằng quyết định thực hành phẫu thuật cắt tử cung luôn là chọn lựa tốt nhất, nhưng nói rằng chỉ trong các điều kiện được đề cập ở trên, nó là một quyết định hợp luân lý, do đó không loại trừ các lựa chọn khác (ví dụ, nghĩ đến thời gian không thể thụ thai hoặc tiết dục hoàn toàn). Đó là quyết định của vợ chồng, với sự bàn bạc với các bác sĩ và người linh hướng của họ, để chọn con đường để theo, khi áp dụng các tiêu chí chung của việc can thiệp y tế từ từ vào trường hợp và hoàn cảnh của họ.

Hồng Thủy

Kinh Truyền Tin đầu năm 1/1/2019

Kinh Truyền Tin đầu năm 1/1/2019

Đức Thánh Cha chào và Chúc mừng năm mới các tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài nói: “các mục đồng đã chăm chú nhìn Mẹ Maria và Hài Nhi được Mẹ bồng ẵm trên tay. Và như thế, Mẹ giới thiệu Chúa Giêsu cho chúng ta. Mẹ chúc lành cho chúng ta. Hôm nay Mẹ chúc lành cho tất cả chúng ta. Mẹ chúc lành cho hành trình của mỗi người trong năm mới này.

“Lời chúc lành của Thiên Chúa là cốt lõi của mọi lời chúc chúng ta dành cho nhau trong những ngày này. Phụng vụ hôm nay lấy lại lời chúc rất cổ xưa các tư tế chúc lành cho dân. Lời chúc thế này: ‘Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh chị em. Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và rủ lòng thương anh chị em! Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em!’ (Ds 6,24-26).

“Ba lần tư tế lặp lại danh Đức Chúa và giơ tay chúc lành cho dân chúng. Điều đó có nghĩa là ban cho họ sức mạnh từ Thiên Chúa.”

Đức Thánh Cha cũng nhắc đến hôm nay là Ngày Thế giới Hoà bình lần thứ 52, với chủ đề: “Chính trị tốt phục vụ hoà bình”. Ngài nói: “Chúng ta đừng nghĩ chính trị chỉ dành riêng cho những nhà lãnh đạo. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với đời sống của ‘thành phố’, với lợi ích chung; và chính trị thật sự tốt khi mỗi người đóng góp phần của mình để phục vụ hoà bình.”

Văn Yên, SJ

Thư của Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên về Dự Án Linh Đài Đức Mẹ La Vang

Thư của Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên về Dự Án Linh Đài Đức Mẹ La Vang

Thứ Tư ngày 21, 2018

Thưa quí anh chị em:
Tôi, linh mục Nguyễn Văn Tuyên, đồng trưởng ban của Ban La Vang, nhân danh Ban La Vang chân thành cám ơn quí ông bà và anh chị em về lòng rộng rãi và lời cầu nguyện liên lỉ của quí vị với dự án Linh Đài Đức Mẹ La Vang. Không có sự giúp đỡ của quí vị, chúng tôi không thể đạt được những thành quả của ngày hôm nay, và có thể nhanh chóng cử hành lễ đặt viên đá đầu tiên cách đây mấy tuần. Nhờ sự tin tưởng và phó thác của quí vị nơi chúng tôi, nên công trình đã có thể thực hiện nhanh như thế.

Hàng trăm giáo dân đã hiện diện và chứng kiến nghi lễ đặt viên đá đầu tiên do các Đức Giám Mục Kevin Vann và Tôma Nguyễn Thái Thành cử hành vào ngày thứ Bảy, 27 tháng Mười, vừa qua tại khuôn viên Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô.

Trong khi chúng ta đang hướng tới việc xây dựng linh đài, nếu có thể, chúng tôi xin anh chị em vui lòng hoàn tất nhanh chóng lời hứa của anh chị em, để chúng ta có đủ tài chánh hoàn thành công việc xây cất vào mùa hè năm tới. Nếu anh chị em có bạn bè hay người thân chưa biết về công trình này, hay chưa có cơ hội đóng góp, thì xin anh chị em liên lạc với các linh mục tại 16 cộng đoàn Việt Nam trong Giáo Phận Orange như Nhà Thờ Chính Toà, St Columban, Westminster, St Cecilia, vv. để họ cũng có cơ hội đóng góp cho công trình vĩ đại, lưu truyền một gia bảo đức tin cho những anh chị em Việt Mỹ sau này.

Linh tượng đang được thực hiện bằng một khối đá cẩm thạch mầu trắng từ Nước Ý Đại Lợi, và sẽ hoàn tất chuyển đến nhà thờ chính tòa Christ Cathedral vào tháng Tư năm tới.

Suốt trong Mùa Tạ Ơn năm nay, chúng ta đang có những tượng Mẹ La Vang nhỏ, do một ân nhân ẩn danh tặng. Nếu anh chị em muốn ủng hộ, xin vui lòng đến nhà thờ Christ Cathedral, Polycarp hay Westminster sau Thánh Lễ để chuộc tượng mẹ. Chỉ có 400 tượng thôi. Và tiền thu được sẽ dành cho Dự Án La Vang 100 phần trăm.

Một lần nữa, chớ gì đức tin của chúng ta tiếp tục hướng dẫn chúng ta không chỉ xây dựng Linh Đài Đức Mẹ La Vang, mà còn xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Xin cầu chúc anh chị em những ngày lễ nghỉ với người thân được hạnh phúc và tràn đầy ân phúc của Thiên Chúa!
Chúc Mừng Lễ Tạ Ơn!


Rev. Father Nguyễn Văn Tuyên, Co -Chair, La Vang Project, Christ Cathedral Pastor, Blessed Sacrament Church Diocese of Orange

Ấn bản Thánh kinh mới giúp tín hữu dễ tiếp cận Thánh kinh

Ấn bản Thánh kinh mới giúp tín hữu dễ tiếp cận Thánh kinh

Không phải là điều gì mới lạ khi các tín hữu Tin lành thường khiến các tín hữu Công giáo bối rối khi bàn luận về Thánh kinh, vì họ thường rất thuộc và biết nhiều về Thánh kinh hơn người Công giáo. Ví dụ, một tín hữu Tin lành Luther có thể đọc thuộc cả một cuốn sách trong bộ Thánh kinh, trong khi các tín hữu Công giáo lại khá vất vả để phân biệt những câu, những đoạn trong Thánh kinh.

Ấn bản The Great Adventure Catholic Bible

Để giúp cho các tín hữu Công giáo bình dân vượt qua được lỗ hổng này bằng cách giúp cho họ dễ có cũng như dễ đọc Thánh kinh hơn, phiên bản The Great Adventure Catholic Bible, được nhà xuất bản Ascension Press phát hành.

Trong bài phỏng vấn trên báo Crux, học giả Thánh kinh Mary Healy nói: “Nhiều tín hữu công giaó mà tôi gặp cảm thấy Thánh kinh là loại sách khó tiếp cận. họ không cảm thấy Thánh kinh là thứ họ có thể cầm và đọc mỗi ngày và qua đó có thể trò chuyện với Thiên Chúa. Nhưng phiên bản Thánh kinh này đang giúp các tín hữu làm điều đó.”

Phiên bản Thánh kinh mới này sử dụng mã hóa màu sắc, bản đồ, mốc thời gian, bài viết và biểu đồ để làm cho Tin Mừng dễ tiếp cận hơn với những người muốn trở nên quen thuộc hơn với Thánh kinh.

Ấn phẩm mới làm nổi bật 70 sự kiện quan trọng trong Kinh Thánh và đặt chúng theo thứ tự thời gian để người đọc luôn ý thức được họ đang ở đâu trong trình thuật.

Healey là tổng biên tập của ấn bản này, bảo đảm rằng nhiều chi tiết trong cuốn sách là chính xác và đáp ứng nhu cầu học hỏi Thánk kinh tốt nhất, đồng thời dễ cho các Kitô hữu lần đầu tiên tiếp cận với Thánh Kinh. Bà chia sẻ thêm: “Các tín hữu Công giáo chúng ta không có thói quen học Thánh kinh. Nhiều tín hữu lớn lên với suy nghĩ rằng đọc Thánh kinh là việc dành cho các tín hữu Tin lành. Điều này là sự bóp méo mà có thể khiến thánh Augustin cũng như thánh Tôma Aquino, bất cứ giáo phụ hay thần học gia nào trong lịch sử của chúng ta phải kinh hoàng, vì các ngài nhận ra rằng Thánh kinh như là Lời của Chúa và là linh hồn của thần học. Học giả Healey cũng nhận định rằng công đồng Vatican hai đã khuyến khích điều này, kết quả là nhiều tín hữu Công giáo khao khát Lời Chúa.

Học hỏi Thánh kinh và việc truyền giáo

để Ấn bản Kinh thánh này đáp lại lời mời gọi của ĐTC Phanxicô là đem Lời Chúa đến các vùng ngoại biên của xã hội, bằng cách bỏ đi sự  phức tạp và hình thức của nó để bắt đầu một cuộc đối thoại với những người cảm thấy xa cách Giáo hội và Thiên Chúa nhất. Theo giáo sư Healey, Thánh kính kết nốt cách sâu sắc với việc truyền giảng Tin mừng, bởi vì nếu chúng ta có một sứ điệp hấp dẫn để mang đến cho người khác, chính chúng ta cũng phải được đắm mình trong lời của Thiên Chúa… Nếu kiến thức về Kinh thánh của tôi yếu thì tôi sẽ bị giảm bớt khả năng mang Tin mừng cho người khác.”

Bà Healey kết luận: “Trong thế giới của chúng ta ngày nay, có một bệnh dịch về thông tin sai lạc, tin tức giả, nhưng quan trọng hơn hết đó là những lời nói dối về việc như là con người, chúng ta là ai, dối trá về ý nghĩa của cuộc sống và về Thiên Chúa là ai. Theo bà, "những tường thuật sai lầm" thuyết phục mọi người rằng cuộc sống không có ý nghĩa bằng cách giảm nhẹ kinh nghiệm của con người thành một đám mây nguyên tử không có quy tắc đạo đức hay ranh giới. Bà xác quyết: "Thời gian đã chín muồi cho người Công giáo mạnh dạn, kiên quyết, vui vẻ đề xuất một lần nữa những tin mừng vinh quang của Chúa Giêsu Kitô, và để làm điều đó, chúng ta không chỉ lặp lại các công thức từ quá khứ, nhưng làm theo cách thức đáp ứng nhu cầu của những người đương thời. Mọi người đang tuyệt vọng đói khát sự thật. Có quá nhiều thông tin sai lệch và các Tin Mừng sai lầm, đến nỗi chúng ta cần phải làm cho lời của sự thật sáng rõ hơn. ”

Healey vừa là thành viên của Hội đồng Tòa Thánh cổ võ hiệp nhất các Kitô hữu vừa là thành viên của phong trào đối thoại quốc tế giữa Tin lành và Công giáo. Năm 2014, ĐTC Phanxicô đã bổ nhiệm bà là một trong 3  thành viên nữ đầu tiên của Ủy ban Giáo hoàng về Thánh kinh.

Hồng Thủy

Lễ kính Thánh Gioan Maria Vianney tại Ars

Lễ kính Thánh Gioan Maria Vianney tại Ars

ĐHY Christophe Schoeborn, O.P, TGM giáo phận Vienne, Chủ tịch HĐGM Áo, đã được mời chủ sự các buổi lễ tại Đền Thánh Ars bên Pháp, trong hai ngày 3 và 4-8-2018, nhân dịp kỷ niệm 200 năm thánh nhân đến làm cha sở tại làng này.

Năm 1818, Cha Gioan Maria Vianney đến làng Ars-sur-Formans và làm cha sở tại đây trong 41 năm trời, hoàn toàn biến đổi dân làng từ tình trạng khô khan nguội lạnh thành những tín hữu nhiệt thành. Thánh thân được tôn làm bổn mạng của các cha sở.
Trung tâm hành hương Ars đã tổ chức 2 ngày mừng kính Thánh bổn mạng.
– Lúc 15.30 chiều ngày 3-8-2018, ĐHY Schoeborn đã thuyết trình tại Trung tâm linh mục ở Ars về đề tài: ”Một vị thánh đến Ars. Đâu là sứ điệp cho ngày nay?”.
– Tiếp đến lúc 17 giờ chiều có thánh lễ cầu cho ơn gọi do Đức Cha Roland, GM sở tại, cử hành cũng tại trung tâm linh mục.
– Sau cùng lúc 8 giờ tối, có buổi cử hành lòng thương xót tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Maria Vianney ở Ars, trong đó có chầu Thánh Thể và giải tội.
* Thứ bẩy, 4-8, lễ kính Thánh bổn mạng, bắt đầu lúc 9 giờ sáng với Kinh Ngợi Khen tại Nhà Thờ Đức Bà Từ Bi.
– Tiếp đến là thánh lễ trọng thể do ĐHY Schoenborn chủ sự lúc 10 giờ. Rồi từ 12 giờ có chầu Mình Thánh Chúa.
– Từ 13 đến 14 giờ, các trẻ em có thể chơi đùa và ăn pic-nick ở đồng cỏ, cùng với các hoạt động giải trí khác..
– Lúc 3 giờ chiều có cuộc rước hài cốt thánh Gioan Maria Vianney từ lâu đài
Ars, tiếp theo đó là kinh chiều trọng thể.
Tại Nhà thờ Đức Mẹ Từ Bi có giải tội suốt ngày (La Voix de l'Ain 3-8-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Hồng y McCarrick không còn là Hồng y nữa!

Hồng y McCarrick không còn là Hồng y nữa!


Sáng ngày 28/07, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết là chiều ngày 27/07, ĐTC đã nhận được thư của ĐHY Theodore McCarrick xin từ chức Hồng y. Thông cáo viết tiếp: “ĐGH Phanxicô đã nhận đơn từ chức từ ĐHY và đã ra lệnh cho ngài ngưng thực thi bất kỳ sứ vụ công khai nào, cùng với việc buộc ngài phải ở lại trong một ngôi nhà sẽ được chỉ định cho ngài, để sống một cuộc đời cầu nguyện và sám hối, cho đến khi các cáo buộc chống lại ngài được làm rõ theo tiến trình thông thường của giáo luật.”
Những cáo buộc đáng tin và có nền tảng
Hồi tháng trước, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, theo chỉ thị của ĐGH Phanxicô, đã yêu cầu ĐHY McCarrick không thực thị bất cứ sứ vụ linh mục nào cách công khai. Quyết định được đưa ra sau khi Ủy ban của tổng giáo phận New York kết luận rằng những cáo buộc chống lại ĐHY McCarrich, cáo buộc ngài lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, là đáng tin và có nền tảng. ĐHY McCarrick đã chấp nhận quyết định dù nói rằng mình vô tội.
ĐHY O’Malley yêu cầu có thủ tục rõ ràng đối với các hành xử không thích hợp của linh mục, tu sĩ và hồng y
ĐHY Sean Patrick O’Malley, Tổng giám mục Boston và cũng là chủ tích Ủy ban Giáo hoàng bảo vệ trẻ vị thành niên, bức xúc trước những tin tức liên quan đến ĐHY McCarrick, trong đó có cáo buộc về các hành xử không thích hợp với cả người lớn nữa. ĐHY O’Malley khẳng định rằng những hành động này không thể chấp nhận về luân lý và không thích hợp với vai trò của linh mục, giám mục hay hồng y.
ĐHY O’Malley nói rằng những trường hợp này và những trường hợp khác giống như thế đòi hỏi điều khác hơn là những lời xin lỗi. Ngài lưu ý rằng khi có các cáo buộc chống lại một Giám mục hay một Hồng y, thì có một sự thiếu sót lớn trong chính sách của Giáo Hội liên quan tới cung cách hành xử và việc lạm dụng tính dục. Giáo Hội Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách “không khoan nhượng” liên quan tới việc lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên từ phía các linh mục, nhưng cần có các thủ tục rõ ràng hơn đối với các trường hợp liên lụy tới các Giám Mục. Vì thế Giáo Hội cần có môt chính sách mạnh mẽ toàn diện để đối phó với các vụ vi phạm lời khấn độc thân từ phía các Giám Mục trong các vụ tội phạm lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và trong các vụ liên quan tới người lớn. Một cách cụ thể cần có các thủ tục trong sáng và trung thực để bảo đảm công lý cho các nạn nhân và trả lời cho sự phẫn nộ chính đáng của tín hữu.
Với việc ĐHY McCarrick từ chức, Hồng y đoàn còn 224 vi, trong đó có 124 Hồng y cử tri và 100 Hồng y trên 80 tuổi không có quyền bỏ phiếu.

Hồng Thủy

Gương sống của Thánh Rita thành Cascia được bốn phụ nữ ngày nay noi theo

Gương sống của Thánh Rita thành Cascia được bốn phụ nữ ngày nay noi theo

Phục vụ người thân cận, kiên trì, khiêm nhường và can đảm ôm lấy chính thập giá của mình: đó là 4 nhân đức nổi trội của thánh nữ Rita đã thực hành trong cuộc sống thường ngày. Để vinh danh các phụ nữ, những người cũng đã một cách nào đó sống theo mẫu gương của Thánh Rita, nghĩa là can đảm thực hành những điều mà mọi người cho là không thể; vào ngày 21-5 tại Cascia bốn phụ nữ sẽ được sự Công nhận quốc tế dành riêng cho những “trường hợp không thể”.

Cuộc đời và câu chuyện của nữ tu Augustinô ngày nay vẫn còn được suy tư. Là phụ nữ, vợ, mẹ, góa, nữ đan sĩ, bị kỳ thị, Thánh nữ Riata đã sống từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày đưa vào thực hành các giá trị của việc đón tiếp, bác ái, đối thoại và tha thứ.

Những phụ nữ với các nhân đức của Thánh Rita

Năm nay, các nhân đức của thánh Rita đã được công nhận nơi Emanuela Disarò và Daniela Burigotto – các phụ nữ của Gloria Trevisan và Marco Gottardi, hai vị hôn thê đã chết trong ngọn lửa của Tháp Grenfell ở London – vì đã đón nhận thập giá, tìm sức mạnh trong đức tin; Soňa Vancaková của Košice (Slovakia) vì đã chiến đấu và tin cho đến cùng giá trị của gia đình, được hiểu đó là những kinh nghiệm khó khăn của gia đình trong sự giúp đỡ cụ thể và nâng đỡ những gia đình khác cũng đang có hoàn cảnh khó khăn; Giuseppina Ceccaroni của Gualdo Cattaneo (Perugia), vì đã phải đối mặt với những trở ngại của cuộc sống, tìm sức mạnh trong đức tin và phục vụ người khác. Bốn "phụ nữ của Rita" sẽ đón nhận sự Công nhận từ bề trên Hội dòng Augustinô, cha Alejandro Moral Antón vào lúc 5:30 g chiều, tại nhà thờ Thánh Rita. Sự vinh danh sẽ được viết trên một tấm da vào trao cho các phụ nữ.

Lần thứ 60, sự kết hợp của đức tin và hòa bình: Cascia-Košice

Vào đêm trước của ngày phụng vụ kính nhớ vị thánh của Roccaporena, lúc 6.30 chiều, dự kiến sẽ có cử hành tưởng nhớ ngày Qua đời của thánh nữ, trong khi đó vào lúc 9:30 g chiều, Ngọn đuốc Hòa bình sẽ đến, biểu tượng của sự Kết hợp đức tin và hòa bình mà mỗi năm kết nối Cascia với một thành phố khác nhân danh thánh Rita. Năm nay, lần thứ 60 của sáng kiến, thành phố được kết nghĩa là Košice, ở Slovakia, nơi có cộng đoàn tu sĩ Augustinô và nơi vào ngày 8 tháng 5 một nhà thờ được dâng kính cho Thánh Rita.

Truyền thống làm phép hoa hồng vào ngày lễ Thánh Rita

Ngày 22 tháng 5, đỉnh cao của lễ Thánh Rita, sẽ có thánh lễ trọng thể mừng Thánh nữ tại sân nhà thờ. Năm nay, vào lúc 11:00 giờ thánh lễ sẽ được ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh chủ tế. Cuối Thánh lễ sẽ có lời nguyện với Thánh Rita và truyền thống làm phép hoa hồng, biểu tượng của thánh nữ, được giữ lại hoặc trao cho một người cần sự an ủi. (Rei 19-5-2018)

Ngọc Yến

Lời Chúa đi vào đôi tai, qua trái tim và ra đôi tay

Lời Chúa đi vào đôi tai, qua trái tim và ra đôi tay

Sáng thứ tư 32-1 ĐTC đã tiếp kiến hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường thánh Phêrô. Hai nhóm đông nhất là 2.000 học sinh Trường Đức Bà Phù Hộ Roma, và 1.300 học sinh Học viện Giêsu Maria Roma. Bên cạnh đó là các nhóm quốc tế như nhóm 31 vị Giám đốc quốc gia các Hiệp hội giáo hoàng truyền giáo và 30 nữ tu dòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria, nhóm 148 linh mục tham dự đại hội quốc tế về đề tài “Đức tin và việc phân định ơn gọi”, nhóm 15 đại biểu cuộc gặp gỡ 2019 tại Giêrusalem. Ngoài ra có nhiều nhóm đến từ các nước Âu châu như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo. Từ Hoa Kỳ có 5 nhóm trong đó có nhóm 225 sinh viên các đại học Loyola, Chicago Illinois và Rome campus, và nhóm 160 sinh viên của đại học thánh Gioan New York.  Đến từ xa nhất là nhóm 40 sinh viên đại học công giáo Australia, và hai nhóm tín hữu Argentina.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Thánh Lễ và giải thích phần Phụng vụ Lời Chúa. Ngài nói: chúng ta tụ họp nhau tham dự Thánh Lễ trước hết để lắng nghe điều Thiên Chúa đã làm và còn muốn làm cho chúng ta. Đây là một kinh nghiệm trực tiếp chứ không phải là nghe nói đến, bởi vì khi trong Giáo Hội Thánh Kinh được đọc lên, thì chính Thiên Chúa nói vói dân Ngài và Chúa Kitô hiện diện trong lời Ngài loan báo Tin Mừng” (Thứ tự tổng quát của sách Lễ Roma, 29; Hiến chế SC 7; 33).

Có biết bao lần khi Lời Chúa được đọc thì người ta bình luận: “Này hãy nhìn ông này, hãy nhìn bà nọ, hãy nhìn cái mũ bà kia đội: tức cười thật”. Và người ta bắt đầu bình luận. Có đúng vậy hay không? Có đúng không? Phải bình luận trong khi nghe đọc Lời Chúa à? Tôi xin hỏi anh chị em: có phải làm vậy hay không? Không – mọi người trả lời – ĐTC nói tiếp: Bởi vì nếu bạn nói chuyện bép xép với người khác thì bạn không nghe Lời Chúa. Khi đọc Lời Chúa trong Thánh Kinh – Bài đọc nhất, bài đọc hai, Thánh vịnh đáp ca và Tin Mừng – chúng ta phải lắng nghe, phải mở con tim ra để cho chính Chúa nói với chúng ta và không nghĩ tới các điều khác hay nói về các điều khác. Đã hiểu chưa? Tôi không tin là đã hiểu nhiều. Tôi sẽ giải thích cho anh chị em biết điều gì xảy ra trong Phụng Vụ Lời Chúa.

ĐTC giải thích như sau:

** Các trang Thánh Kinh thôi là một bản viết để trở thành lời nói sống động, được chính Thiên Chúa công bố. Chính Thiên Chúa qua điều được đọc nói với chúng ta, mời gọi chúng ta lắng nghe với lòng tin.  Thần Khí Đấng đã nói qua các ngôn sứ” (Kinh Tin Kính) và đã linh hứng các tác giả thánh, làm cho “lời của Thiên Chúa hoạt động thực sự trong trái tim điều đã vang lên trong tai” (Sách Bài Đọc, dẫn nhập, s.9). Nhưng để lắng nghe Lời Chúa cũng cần có con tim rộng mở để tiếp nhận các lời trong tim. Thiên Chúa nói và chúng ta lắng nghe, để rồi thực hành điều chúng ta đã nghe.

Lắng nghe rất là quan trọng. Đôi lần có lẽ chúng ta không hiểu tại sao lại có vài bài đọc hơi khó hiểu… Nhưng Thiên Chúa cũng nói với chúng ta trong một cách thế khác : trong thinh lặng và lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đừng quên điều này. Trong Thánh Lễ khi chúng ta bắt đầu các bài đọc,  chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa.

Chúng ta cần lắng nghe Thiên Chúa! Đây thật là một vấn đề của sự sống, như kiểu diễn tả sắc nhọn sau đây “Con người sẽ không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng mọi lời phát ra từ miệng Thiên Chúa nữa” (Mt 4,4). Sự sống trao ban cho chúng ta Lời Chúa. Trong nghĩa này chúng ta nói tới Phụng Vụ Lời Chúa như là “bàn tiệc” Chúa dọn để dưỡng nuôi cuộc sống thiêng liêng của chúng ta. Bàn tiệc phụng vụ là một bàn tiệc dồi dào, kín múc một cách rộng rãi từ các kho tàng của Thánh Kinh (x. SC, 51) Cựu Ước cũng như Tân Ước, bởi vì trong đó Giáo Hội loan báo cùng mầu nhiệm duy nhất của Chúa Kitô (x. Sách Bài Đọc, Dẫn nhập 5). Chúng ta hãy nghĩ tới sự phong phú của các bài đọc Sách Thánh được cống hiến bởi ba chu kỳ Chúa Nhật, mà dưới ánh sáng của các Phúc Âm Nhất Lãm, chúng đồng hành với chúng ta dọc dài năm phụng vụ, một sự phong phú lớn. Ở đây tôi cũng muốn nhắc lại tầm quan trọng của Thánh Vịnh đáp ca, có nhiệm vụ tạo thuận tiện cho việc suy gẫm những gì đã nghe trong bài đọc trước đó. Thật tốt là Thánh vịnh được đánh giá cao với việc hát lên ít nhất là điệp khúc (Sách Bài Đọc, Dẫn nhập, 19-22). Cả các bài đọc ngày thường cũng rộng ban của ăn cho cuộc sống kitô trong chu kỳ hai năm.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói việc công bố phụng vụ của các bài đọc với các bài ca lấy ra từ Thánh Kinh, diễn tả và tạo thuận tiện cho tình hiệp thông giáo hội đồng hành với lộ trình sống của tất cả và của từng tín hữu. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Vì thế chúng ta hiểu tại sao vài việc lựa chọn chủ quan, như bỏ các bài đọc hay thay thế chúng bằng các văn bản không kinh thánh, bị cấm. Tôi đã nghe nói có người dọc báo vì có tin tức trong ngày- Không!

Lời Chúa là Lời Chúa! Nhật báo chúng ta có thể dọc sau. Nhưng trong Thánh Lễ chúng ta đọc Lời Chúa. Chính Chúa nói với chúng ta. Thay thế Lời Chúa bằng các điều khác làm nghèo nàn đi và gây nguy hiểm cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong việc cầu nguyện. Trái lại, phẩm giá của giá sách và việc dùng Sách Bài Đọc, việc sắp xếp các người đọc tốt và các người hát thánh vịnh quan trọng.  Hãy tìm những người đọc tốt, những người biết đọc chứ không phải những người đọc mà ngưòi ta không hiểu gì hết. Như thế này ĐTC đọc lâm râm một câu làm thí dụ. Chọn các người đọc tốt. Cần phải đọc thử trước Thánh Lễ để  đọc tốt. Điều này tạo ra một bầu khí thinh lặng đón nhận.

Chúng ta biết rằng lời Chúa là một trợ giúp cần thiết để chúng ta không lạc lối, như tác giả thánh vịnh xưng thú hhi hướng tới Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi “ (Tv 119,105). Làm sao chúng ta có thể đương đầu với cuộc lữ hành trần thế với các mệt nhọc và thử thách của nó, mà không được thường xuyên nuôi dưỡng và soi sáng bởi Lời Chúa vang lên trong phụng vụ?

Chỉ nghe bằng tai không thôi mà không tiếp nhận trong con tim hạt giống Lời Chúa  và cho phép nó sinh hoa trái, thì chắc chắn là không đủ. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn người gieo giống và các kết quả khác nhau theo các loại đất khác nhau (x. Mt 4,14-20). Hoạt động của Thánh Thần khiến cho câu trả lời hữu hiệu, cần tới các con tim để cho Ngài làm việc và vun trồng, làm sao để những gì đã nghe trong Thánh Lễ bước sang cuộc sống thường ngày, như tông đồ Giacôbê cảnh cáo: “Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa chứ không chỉ là những người nghe suông và lừa dối chính mình” (Gc 1,22).  Lời Chúa bước đi trong chúng ta. Chúng ta lắng nghe

Lời Chúa với đôi tai, nói qua trái tim, chứ không ở lại trong đôi tai, Lời Chúa phải đi vào trái tim và từ trái tim đi ra đôi tay, đi ra các công việc làm tốt lành. Đó là lộ trình mà Lời Chúa làm: từ đôi tai sang trái tim và ra đôi tay. Chúng ta hãy học các điều này.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện. Với các nhóm nói tiếng Pháp ngài khích lệ mọi người hiểu biết tầm quan trọng của Lời Chúa giúp đương đầu với cuộc lữ hành trần gian và cần phải thực thi lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Chào các nhóm nói tiếng Anh ngài xin Chúa ban cho họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình. Chào các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và Brasil, ngài khích lệ mọi người tiếp nhận Lời Chúa trong con tim,  lấy thánh ý Chúa làm trung tâm điểm cuộc sống như Mẹ Maria và để cho Lời Chúa sinh nhiều hoa trái.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC khích lệ họ để cho Lời Chúa nhào nặn cuộc sống gia đình đặc biệt là trong việc giáo dục trẻ em và giới trẻ, không sợ hãi loan báo Thiên Chúa và nói về đức tin và Giáo Hội.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các nữ tu Salesien và cầu chúc các nữ tu tiếp tục cống hiến nền giáo dục có nhiều giá trị cho các thế hệ trẻ.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua lễ nhớ thánh Don Bosco là cha và thầy dậy giới trẻ. Ngài nhắn nhủ người trẻ nhìn lên thánh nhân như nhà giáo dục gương mẫu; người đau yếu biết noi gương thánh nhân tín thác mọi sự cho Chúa Kitô chịu đóng đinh, và các cặp vợ chồng mới cưới xin thánh nhân bầu cử cho họ biết quảng đại dấn thân sống sứ mệnh đời hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Tổng thống Donald Trump: những luật phá thai của Mỹ là sai và phải thay đổi

Tổng thống Donald Trump: những luật phá thai của Mỹ là sai và phải thay đổi

Hôm 18/01, qua hệ thống vệ tinh, Tổng thống Donald Trump của Hoa kỳ đã ngỏ lời trực tiếp với những người tham dự cuộc Tuần hành ủng hộ sự sống và khen ngợi lý do tốt đẹp ủng hộ sự sống và cám ơn phong trào về sự ủng hộ của họ dành cho các phụ nữ có thai.

Tổng thống Trump nói: “Các bạn đến từ nhiều hoàn cảnh, nhiều nơi chốn, những tất cả đến vì một lý do tốt đẹp: xây dựng một xã hội nơi mà sự sống được cử hành, được bảo vệ và được yêu thương. Cuộc Tuần hành vì sự sống là một phong trào xuất phát từ tình yêu thương.”

Ông Trump nói thêm: “Các bạn yêu các trẻ em, được sinh ra và chưa được sinh ra, bởi vì các bạn tin rằng mọi sự sống là thánh thiêng, mọi đứa trẻ là một món quà quý giá Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ các bạn mà hàng ngàn người Mỹ được sinh ra và đạt được đầy đủ năng lực mà Thiên Chúa ban. Chính nhờ các bạn.”

Tổng thống Trump cũng nhận định là quyết định của tòa án tối cao hợp pháp hóa việc phá thai trên toàn quốc đã dẫn đến những luật cho phép phá thai rộng rãi nhất bất cứ nơi nào trên thế giới, so sánh với Bắc hàn và Trung quốc. Ông khẳng định: “Nó là sai lầm, cần phải thay đổi. Người Mỹ ngày càng bảo vệ sự sống hơn.”

Tổng thống cũng đã ủng hộ mạnh mẽ một dự luật trước Hạ viện, đó là phá thai muộn có thể bị cấm vì những đứa trẻ chưa được sinh ra có thể cảm thấy đau đớn. Ông kêu gọi các thượng nghị sĩ "thông qua luật quan trọng này.”

Trước đó một ngày, tổng thống Trump đã tuyên bố thành lập một văn phòng mới để bảo vệ quyền của nhân viên y tế, những người phản đối các quy trình như phá thai và chuyển đổi giới tính tại các cơ sở tôn giáo. Văn phòng này sẽ thuộc Bộ Y tế, thực hiện các luật hiện hành để bảo đảm các tổ chức y tế tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân viên. (Catholic Herald 19/01/2018)

Hồng Thủy

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Tường thuật chiều ngày thứ hai và sáng ngày thứ ba ĐTC viếng thăm Chile

Chuyến công du Chile của ĐTC đã bước sang ngày thứ ba.  Thứ tư hôm qua ĐTC chỉ có hai sinh soạt chính: ban sáng ngài chủ sự Thánh Lễ tại phi trường Maquechue ở Temuco, và ban chiều gặp gỡ giới trẻ tại đền thánh Đức Bà Maipu ở Santiago. Nhưng trước hết kính mời quý vị cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của ĐTC chiều ngày thứ ba 16 tháng giêng.

Sau khi cử hành Thánh Lễ tại công viên O’Higgins trong thủ đô Santiago ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh cách đó 18 cây số để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đi thăm trung tâm cải huấn các nữ tù nhân. Trung tâm này có tên gọi là trung tâm Thánh Gioakim do các nữ tu Chúa Chiên Lành trông coi. Trong hơn một trăm năm đây là nơi giam giữ các phụ nữ phạm các tội nhẹ như trộm cắp, chỉ có vài trường hợp là tội giết người. Nhưng tình hình đã thay đổi: với việc buôn bán và nghiền ma tuý có nhiều phụ nữ phạm tội nặng bị nhốt tại trung tâm này. Tuy chỉ có 855 chỗ nhưng trong năm 2,000 số tù nhân đã lên tới 1,400. Hiện nay trung tâm  tiếp nhận 45% các nữ tù nhân toàn nước Chile và được Giáo Hội Chile đặc biệt lưu tâm qua Văn phòng mục vụ nhà tù.

Xe chở ĐTC đã đến nhà tù lúc 4 giờ chiều giờ địa phương và ĐTC đã được bà giám đốc nhà tù cùng 5 linh mục tuyên uý tiếp đón gần nhà nguyện. Hai nữ tù nhân cùng các con của họ tặng hoa cho ĐTC. Tiếp đến ĐTC đi đến phòng thể thao, nơi có nữ tu Nelly León, phụ trách mục vụ, và 600 nữ tù nhân hiện diện.

Nhân danh các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên xã hội, ban giám đốc và nhân viên làm việc trong nhà tù, cũng như các linh mục tuyên uý chị Nelly đã chào mừng ĐTC, bạn của dân nghèo, của công lý, của sự thiện và hoà bình, và cám ơn ngài đã tới thăm các tù nhân. 600 chị em tù nhân thuộc nhiều tôn giáo hiện điện trong nhà thể thao – được trang hoàng với các hình ảnh, gương mặt và lời nói được mọi nhà tù toàn Chile gửi tới – đại diện cho 50.000 tù nhân toàn nước. Chiị Nelly cho biết mỗi Chúa Nhật khi cùng nhau cử hành phụng vụ trong nhà nguyện  Mục Tử Nhân Lành, các tù nhân làm chứng cho xác tín sự sống chiến thắng cái chết, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự ngay thẳng của con tim chiến thắng cái khô cằn của lòng ích kỷ.

Bà Janett Zurita, đại diện cho các chị em tù nhân hiện diện và tất cả những người đã đánh mất sự tự do vì các lầm lỗi của mình, công khai xin lỗi những người đã bị thiệt thòi vì tội phạm của họ. Bà cũng xin ĐTC cầu nguyện cho các tù nhân và nhất là cho con cái của họ, tuy vô tội nhưng cũng phải chia sẻ các hệ lụy tù tội của mẹ. Các tù nhân kinh nghiệm được sự dịu hiền và lòng thương xót của Thiên Chúa, qua các linh mục tuyên uý, các nhân viên mục vụ và người thiện nguyện, cũng như qua tổ chức mục vụ “Espacios Mandela” và Hội “Phụ nữ đứng lên” trợ giúp họ học nghề, liên lạc với gia đình và chuẩn bị cho họ tái hội nhập xã hội.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, tôi xin cám ơn, cám ơn, cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đã làm, và cám ơn vì đã cống hiến cho tôi dịp may có thể gặp gỡ anh chị em. Đối với tôi thật là quan trọng chia sẻ lúc này với anh chị em và gần gũi biết bao nhiêu anh chị em hôm nay bị mất tự do. ĐTC đã đặc biệt cám ơn chị Janeth đã chia sẻ các khổ đau của chị và đã can đảm xin lỗi. Chúng ta tất cả đều học được từ thái độ can đảm và khiêm tốn này. Vì nó nhắc cho biết rằng không có thái độ như thế là chúng ta không là người nữa. Chúng ta tất cả đều phải xin lỗi, truớc tiên là tôi đây. Tất cả. Điều này khiến cho chúng ta là người. Vì nếu không có thái độ xin lỗi, chúng ta đánh mất đi ý thức đã sai lầm, và mỗi ngày chúng ta được mời gọi bắt đầu trở lại.

Trong lúc này tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu đã nói : « Ai không có tội thì ném đá trước đi ! » (Ga 8,7). Anh chị em biết đấy, trong các bài giảng tôi thường nói rằng tất cả chúng ta đều phạm các lầm lỗi, nhưng chúng ta dấu nó bên trong. Tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi. Ai không có tội thì giơ tay lên. Đã không có ai có can đảm giơ tay cả. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ cái luận lý quá đơn sơ chia rẽ thực tại thành người tốt người xấu, để bước vào trong một năng động khác có khả năng tiếp nhận sự giòn mỏng, các hạn hẹp và cả tội lỗi để giúp chúng ta tiến tới. Nhắc lại việc hai bà mẹ và các con nhỏ của họ đợi, chào đón và tặng hoa khi ngài bước vào trung tâm cải huấn, ĐTC suy tư về hai từ : mẹ, và các con và nói : nhiều người trong chị em là mẹ, và chị em biết trao ban sự sống có nghĩa là gì. Chị em đã biết mang trong cung lòng mình một sự sống và cho nó chào đời. Chức làm mẹ không phải và sẽ không bao giờ là một vấn đề, nhưng là một món quà, một trong những món quà tuyệt vời nhất mà chị em có thể có. Ngày nay chị em đang đứng trước thách đố sinh ra sự sống cho tương lai chào đời, làm cho nó lớn lên, trợ giúp nó phát triển, không phải chỉ cho chúng ta, nhưng cho con cái của anh chị em và toàn xã hội. Chị em có một khả năng thích ứng với các hoàn cảnh và tiến tới không thể tin được. Hôm nay tôi muốn mời gọi khả năng sinh ra tương lai sống trong mỗi chị em. Khả năng đó cho phép chiến đấu chống lại biết bao nhiêu chủ trương biến con người thành đồ vật, và kết thúc với việc giết chết niềm hy vọng. Không ai trong chúng ta là đồ vật cả. Chúng ta tất cả là các bản vị con người. Đừng để mình bị biến thành đồ vật.

Bị lấy mất đi sự tự do không đồng nghĩa với đánh mất đi các giấc mộng và niềm hy vọng. Thật cam go và đau đớn nhưng không có nghĩa là mất niềm hy vọng. Mất tự do không đồng nghĩa với không có phẩm giá. Không được đụng tới phẩm giá con người, trái lại cần săn sóc, giữ gìn, vuốt ne nó. Không được lấy mất phẩm giá của ai hết. Chị em mất tự do, vì thế cần chiến đấu chống lại mọi loại sáo ngữ, nhãn hiệu nói rằng không thể thay đổi hay không đáng công hoặc kết qủa luôn luôn như nhau. Không phải vậy đâu. Mỗi một cố gắng chiến đấu cho một ngày mai tốt đẹp hơn sẽ luôn luôn cho hoa trái và được tưởng thưởng.

Từ thứ hai là con cái : chúng là sức mạnh, chúng là niềm hy vọng, chúng là khích lệ. Chúng là lời nhắc nhở rằng cuộc sống được xây dựng bằng cách nhìn về phiá trước chứ không nhìn về phiá sau. Việc mất tự do không là tình trạng vĩnh viễn. Hãy nhìn về chân trời phiá trước, về việc tái hội nhập vào trong cuộc sống xã hội. Một hình phạt không tương lai không phải là một hình phạt nhân đạo, mà là một tra tấn. Mỗi một hình phạt là một món nợ phải trả cho xã hội, nhưng nó phải có một chân trời của việc hội nhập, vì vậy cần phải chuẩn bị cho việc hội nhập, hãy nhìn về việc hội nhập vào cuộc sống thường ngày trong xã hội. Chính vì thế tôi trân quý và mời gọi gia tăng mọi nỗ lực có thể, để các dự án như «Khoảng không Mandela » và « Hội Phụ nữ đứng lên » có thể lớn lên và được củng cố. Tên của hội nhắc nhớ biến cố Chúa Giêsu vào nắm tay bé gái con ông trưởng hội đường Do thái đã chết và nói với em : « Bé gái, Ta truyền cho con : hãy đứng đậy ! » (Mc 5,41). Thật đẹp biết bao có những người thiện tâm thuộc mọi tôn giáo có can đàm theo gương Chúa Giêsu và là dấu chỉ bàn tay giang ra nâng người khác dậy

** Chúng ta tất cả đều biết rằng hình phạt bỏ tù thường bị giản lược vào việc trừng phạt, mà không cống hiến các dụng cụ thích hợp giúp kích động các tiến trình thay đổi. Trái lại, các không gian này thăng tiến các chương trình học việc và đồng hành để tái lập các tương quan là dấu chỉ của niềm hy vọng và tuơng lai. Chúng ta hãy hoạt động để chúng lớn lên. Không đuợc chỉ giản lược an ninh công cộng vào các biện pháp kiểm soát nhiều hơn, nhưng nhất là với các biện pháp phòng ngừa, với việc làm, giáo dục và nhiều cuộc sống cộng đoàn hơn.

Với tâm tình này tôi muốn chúc lành cho các nhân viên mục vụ, các thiện nguyện viên, nhân viên, đặc biệt là các hiến binh và gia đình họ. Anh chị em có một nhiệm vụ tế nhị và phức tạp và vì thế tôi cầu chúc chính quyền cũng có thể bảo đảm  cho anh chị em có các điều kiện cần thiết để làm việc với phẩm giá. Phẩm giá làm nảy sinh ra phẩm giá… Các hoa mà anh chị em tặng tôi sẽ đem dâng cho Đức Me nhân danh tất cả anh chị em.

Trung tâm cải huấn đã tặng ĐTC một ảnh Đức Mẹ nổi bằng gốm mầu trắng, xanh da trời và vàng thuộc loại đất sét nung kiểu vùng Toscana theo nghệ thuật đã có từ năm 1400.

Trước khi rời trung tâm cải huấn, ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các nhân viên làm việc tại trung tâm. Sau đó ngài đi xe đến quảng trường Arma strong thủ đô Santiago rồi đến nhà thờ chính toà để gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

Nhà thờ chính toà dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời là kết quả của nhiều công trình xây cất dọc dài các thế kỷ. Nhà thờ đầu tiên được xây năm 1600, nhưng sau đó bị ba trận động đất làm hư hại vào các năm 1648, 1657 và 1730 khiến cần phải xây nhà thờ mới như hiện nay. Công việc xây cất bắt đầu năm 1748 do hai cha dòng Tên người Đức là Pedro Vogl và Juan Hogen cùng với kỹ sư Matias Vasquez Acunha đảm trách. Nhà thờ mới được thánh hiến năm 1775. Năm năm sau kỹ sư người Ý Gioachino Toesca canh tân mặt tiền theo kiểu tân cổ điển. Ngày 21 tháng 5 năm 1840 ĐGH Gregorio XVI nâng nhà thờ lên hàng chính toà. Trong một ngày năm Thánh Lòng Thương Xót 2016 nhà thờ chính toà đã  trở thành nhà ăn cho người nghèo. Sáng kiến này của ĐHY Ricardo Ezzati Andrello đã được lập lại hồi tháng 8 năm ngoái.

** ĐTC được ĐHY TGM Santiago và kinh sĩ đoàn tiếp đón tại cửa vào và tháp tùng đến nhà nguyện Thánh Thể để ngài viếng Mình Thánh Chúa trong giây lát. Tiếp đến hai tu sĩ một nam một nữ đã tặng hoa cho ĐTC, ngài đã đặt hoa trên bàn thờ chính trước ảnh Đức Mẹ. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra dưới hình thức một buổi cử hành Lời Chúa.

Sau lời chào mừng của ĐHY Ricardo Ezzati, TGM Santiago, ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu phục sinh với Phêrô và vài tông đồ bên bờ hồ Galilea, nơi các ông trở lại với nghề đánh cá, nhưng không bắt được gì. Trong cuộc gặp gỡ ấy Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô có yêu Ngài không và giao cho ông nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, như thánh Gioan kể lại trong chương 21. Áp dụng vào hiện tình của Giáo Hội tại Chile ĐTC  đề cập đến ba thời điểm trong cuộc sống của tông đồ Phêrô và cộng đoàn kitô tiên khởi: Phêrô thất vọng, Phêrô được tha thứ, Phêrô được biến đổi.

Cũng như kinh nghiệm của các tông đồ luôn luôn bao gồm hai khiá cạnh cá nhân và cộng đoàn, các người sống đời thánh hiến được mời gọi một cách riêng rẽ, nhưng luôn luôn là thành phần của một nhóm lớn hơn. Phúc Âm không sợ cho chúng ta thấy các lúc khó khăn và cả xung đột, mà các môn đệ đã phải trải qua. Bên cạnh các lưới trống rỗng không có con cá nào, họ còn có một sự trống rỗng khác đè nặng con tim: đó là sự lạc lõng và đảo lộn nội tâm vì cái chết của Thầy. Nó đã gây ra nơi họ một cơn lốc xoáy các xung đột: Phêrô đã chối bỏ Ngài, Giuđa đã phản bội Ngài và các người khác đã chạy trốn. Chỉ còn có vài phụ nữ và môn đệ yêu dấu ở lại. Đó là các giờ của lạc hướng và đảo lộn nội tâm trong cuộc đời của người môn đệ. Trong những lúc cơn lốc của các bách hại, khổ đau ngờ vực dâng lên vì các biến cố văn hoá lịch sử, thật không dễ tìm lại con đường phải theo. Có rất nhiều cám dỗ, nhưng cám dỗ tệ hại nhất là dừng lại và nhai lại nỗi khổ đau. Như ĐHY Ezzati đã nói: “Cuộc sống linh mục và thánh hiến tại Chile đang trải qua các giờ phút khó khăn của hỗn loạn và các thách đố không nhỏ. Cùng với sự trung thành của đại đa số cũng có cỏ lùng của sự dữ lớn lên với gương mù gương xấu theo sau và sự đảo tẩu”. Tôi biết nỗi đớn đau của các vụ lạm dụng trẻ vị thành niên và tôi chú ý theo dõi những gì anh chị em làm để thắng vượt sự dữ nghiêm trọng và đau đớn này. Đau đớn vì tai hại và nỗi khổ của các nạn nhân và gia đình họ, thấy sự tin tưởng họ đặt nơi các vị thừa tác của Giáo Hội bị phản bội. Đau đớn cho các cộng đoàn giáo hội và đau đớn cho anh em, ngoài sự mệt nhọc của việc tân tụy lại còn phải sống sự tai hại gây ra bởi sự nghi ngờ và tranh luận có thể khiến cho nhiều người nghi ngờ, sợ hãi và mất tin tưởng. Tôi biết anh em đã bị sỉ nhục trên tầu điện hay khi đi trên đường, hay việc mặc áo linh mục đi vào nhiều vùng phải trả giá mắc mỏ. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự sáng suốt gọi thực tại với tên của nó, và can đảm xin lỗi cũng như khả năng lắng nghe điều Chúa đang nói với chúng ta.

** Tiếp tục bài nói chuyện với các linh mục tu sĩ và chủng sinh ĐTC nói: Xã hội Chile ngày nay rất khác với xã hội Chile hồi tôi được đào tạo. Có các hình thức văn hoá mới khác nhau nảy sinh không thích hợp với các khung cảnh cũ. Chúng ta phải công nhận rằng nhiều khi chúng ta không biết hội nhập vào trong các hoàn cảnh mới này như thế nào. Thường khi chúng ta ước mơ “củ hành Ai Cập”, mà quên rằng đất hứa ở đàng trước, và có thể rơi vào cám dỗ khép kín và tự cô lập mình để bênh vực các lập trường và địa vị của chúng ta. Chúng ta cũng có thể bị cám dỗ nghĩ rằng mọi sự đều xấu xa, và thay vì loan báo tin vui thì lại chỉ tuyên xưng cái bất khả năng và thất vọng của chúng ta. Dù muốn hay không, chúng ta phải đương đầu với thực tại cá nhân, cộng đoàn và xã hôị như nó là. Hình ảnh các môn đệ mạnh mẽ, can đảm sinh động, cảm thấy mình được mời gọi theo Chúa Giêsu, chắc chắn về mình, sẵn sàng vào tù hay chết vì Thầy, bênh vực Thầy tới độ muốn xin lửa trời xuống đốt trái đất, rút gươm ra để chiến đấu, quở trách Thầy như Phêrô đã làm, không còn nữa. 

Đây là giờ của sự thật trong cuộc sống của cộng đoàn tiên khởi. Phêrô sống kinh nghiệm sự hạn hẹp yêu đuối và tội lỗi của mình. Điều tương tự có thể xảy ra cho chúng ta như môn đệ và như Giáo Hội. Có những lúc trong đó chúng ta đương đầu với các vinh quang và yếu đuối của chúng ta. Nhưng đó cũng là những giờ phút nảy sinh ra người tông đồ.

Chúa Giêsu đã chỉ hỏi Phêrô một câu thôi: “Con có yêu Thầy không?”. Ngài không quở trách và lên án. Điều duy nhất Ngài muốn là cứu Phêrô khỏi nguy cơ khép kín trong tội lỗi và nhai lại nỗi đớn đau sự hạn hẹp của mình, làm suy giảm mọi thiện ích đã sống với Ngài. Chúa muốn cứu ông khỏi thái độ tàn phá của chủ trương coi mình là nạn nhân, hay rơi vào chỗ coi mọi sự như nhau, không dấn thân và tương đối hoá mọi sự, coi mọi người chống lại mình là kẻ thù, hay không thanh thản chấp nhận các phản bác  hay phê bình, buồn sầu và chán nản. Chúa Giêsu mời Phêrô lắng nghe con tim mình và học biết phân định. Vì Chúa không bảo vệ sự thật mà hy sinh bác ái, hay bảo vệ bác ái mà hy sinh sự thật, cũng không bảo vệ thế quân bình mà hy sinh cả hai.

Giữa các tội lỗi, hạn hẹp bần cùng và sa ngã của chúng ta Chúa Giêsu đến giơ tay cho chúng ta, và dùng lòng thương xót đối với chúng ta. Chúng ta không hơn người khác, nhưng được sai đi với ý thức là những người được tha thứ…  ĐTC định nghĩa người được thánh hiến như sau:

** Người được thánh hiến là người gặp gỡ các dấu chỉ của sự Phục Sinh trong chính các vết thương của mình, và trông thấy trong các vết thương của thế giới sức mạnh của sự Phục Sinh và giống Chúa Giêsu không gặp gỡ các anh em khác để trách mắng và lên án. Một Giáo Hội với các vết thương có khả năng hiểu các vết thương của thế giới ngày nay và lấy chúng làm của mình, khổ đau, đồng hành với chúng và tìm chữa lành chúng. Ý thức có các vết thương giải phóng chúng ta khỏi trở thành những người tự quy chiếu tin rằng mình cao hơn người khác, vì tuân giữ các điều lệ xác định hay vì trung thành với một loại công giáo riêng của quá khứ.

Nơi Chúa Giêsu các vết thương của chúng ta được phục sinh, chúng giúp chúng ta liên đới, phá hủy các bức tường giam hãm chúng ta trong thái độ ưu việt để kích thích chúng ta xây cầu và đi gặp gỡ biết bao nhiêu người khát khao tình yêu thương xót mà chỉ có Chúa Kitô mới có thể cống hiến… Biết bao lần chúng ta có các thái độ bành trướng, chiếm chỗ, xuất hiện phô trương, mà không xắn tay áo đi gặp và sờ mó thực tại khổ đau của dân chúng. Thánh Hurtado có nói: “sẽ là sai tất cả các phương pháp được áp đặt để đồng phục, tất cả các phương pháp yêu sách hướng chúng ta tới Thiên Chúa mà lại khiến cho chúng ta quên các anh em khác; tất cả những phương pháp làm cho chúng ta nhắm mắt với vũ trụ, thay vì dậy chúng ta mở mắt để nâng mọi sự lên với Đấng tạo thành mọi vật; tất cả các phương pháp khiến cho chúng ta ích kỷ và khép kín trong chính mình đều sai”.

Dân Chúa không cần các siêu anh hùng, nhưng cần các chủ chăn, các người thánh hiến biết cảm thương và giơ tay cho người đã ngã như Chúa Giêsu.

Kinh nghiệm được Chúa rửa chân khiến cho Phêrô hiểu rằng sự cao cả đích thực đi qua việc trở nên bé nhỏ và phục vụ. Qua kinh nghiệm tội lỗi, các hạn hẹp và yếu đuối Phêrô khám phá ra nơi Chúa Giêsu rằng các vết thương của mình có thể là con đường của sự Phục Sinh. Biết Phêrô chán nản để hiểu Phêrô được biến đổi là lời mời gọi từ một Giáo Hội của những người phiền muộn bước sang một Giáo Hội phục vụ Chúa nơi những người đói khát, bị tù tội, vô gia cư, trần truồng, đau yếu. Một việc phục vụ không đồng hoá với chủ trương cứu trợ hay óc cha chú.

Canh tân lời ngôn sứ là canh tân dấn thân của chúng ta không chờ đợi một thế giới lý tưởng, một cộng đoàn lý tưởng, một môn đệ lý tưởng  để sống và loan báo Tin Mừng, nhưng là tạo ra các điều kiện để mọi người phiền muộn có thể gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta không yêu các tình trạng, cũng không yêu các cộng đoàn lý tường, nhưng yêu thương con người…

Mỗi khi chúng ta tìm trở về nguồn và phục hồi sự tươi trẻ nguyên thuỷ của Tin Mừng, thì nảy sinh ra các con đường mới, các phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, các dấu chỉ hùng hồn, các lời tràn đầy ý nghĩa đối với thế giới ngày nay. Giáo Hội mà tôi yêu mến là Giáo Hội của mọi ngày.

Diễn văn của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay tán đồng của mọi người hiện diện.

Tiếp đến ĐTC đã gặp 50 Giám Mục Chile trong nhà mặc áo của nhà thờ chính toà.  HĐGM Chile gồm 34 Giám Mục của 5 Tổng giáo phận và 20 giáo phận, một giám quản tông toà, một qiáo quận và một Giám Mục quân đội.

** Sau lời chào mừng của ĐC Santiago Silva Retamales, Chủ tịch HĐGM Chile, ĐTC đã ngỏ lời với các GM và khích lệ các vị sống tình hiền phụ và gần gũi chăm sóc các linh mục tu sĩ và chủng sinh, noi gương thánh Giuse. Vì nếu mục tử bị phân tán, thì đoàn chiên cũng sẽ bị tản mác và làm mồi cho chó sói.  Một tình hiền phụ không phải là chủ trương cha chú cũng không phải là lạm dụng quyền hành, nhưng giúp lớn lên và phát triển các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần muốn đổ tràn đầy trên các linh mục.

Một trong các vấn đề mà các xã hội của chúng ta ngày này phải đương đầu là cảm tưởng mình mồ côi, không thuộc về ai hết. Nó cũng có thể thấm nhập chúng ta và hàng giáo sĩ, khiến cho chúng ta quên rằng mình là thành phần của Dân Thiên  Chúa, và Giáo Hội không là và sẽ không bao giờ là một giai tầng ưu việt các người thánh hiến, linh mục hay giám mục. Quên đi điều này có nguy cơ rơi vào các kinh nghiệm sai lạc cá nhân, cộng đoàn và chức thừa tác mà Giáo Hội đã trao phó cho chúng ta. Thiếu ý thức tuỳ thuộc Dân Thiên Chúa như người phục vụ chứ không phải chủ nhân có thể dẫn chúng ta tới một trong các cám dỗ gây thiệt hại cho năng động truyền giáo, mà chúng ta được mời gọi thăng tiến: đó là chủ trương duy giáo sĩ là một hí hoạ của ơn gọi đã nhận lãnh. Việc thiếu ý thức rằng truyền giáo là sứ mệnh của toàn thể Giáo Hội chứ không phải của linh mục hay giám mục, hạn chế chân trời và tệ hơn nữa hạn chế mọi sáng kiến Chúa Thánh Thần có thể khơi dậy giữa chúng ta. Đề cập tới tương quan với giáo dân ĐTC nói:

Chúng ta hãy nói lên điều này cách rõ ràng: các giáo dân không phải là tôi tớ của chúng ta, cũng không phải là các ngườì làm công của chúng ta. Họ không được lập lại như két điều chúng ta nói. Chủ trương duy giáo sĩ không thúc đẩy các đóng góp và đề nghị khác nhau, nhưng dập tắt từ từ ngọn lửa ngôn sứ mà toàn Giáo Hội được mời gọi làm chứng giữa lòng các dân tộc. Óc duy giáo sĩ quên rằng sự hữu hình và tính bí tích của Giáo Hội là của toàn dân Thiên Chúa chứ không phải chỉ là của ít người ưu việt và được soi sáng. Tiếp đến ĐTC đã yêu cầu các Giám Mục săn sóc việc đào tạo các linh mục tương lai làm sao để họ có khả năng phục vụ dân Chúa, bằng cách nhận biệt sự khác biệt của các nền văn hoá và khước từ mọi hình thức duy giáo sĩ. Các linh mục tương lai phải ý thức rằng họ sẽ thi hành chức thừa tác trong một xã hội tục hoá, vì vậy họ cần được chuẩn bị làm việc trong một khung cảnh cụ thể chứ không phải trong các thế giới hay tình trạng lý tưởng, đặc biệt là biết chung vai sát cánh với giáo dân trong một bầu khí phân định và tinh thần công nghị. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ơn mơ mộng và lựa chọn hoạt động truyền giáo và ngôn sứ có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, kiểu cách, giờ giấc, ngôn ngữ và mọi cơ cấu giáo hội trở thành dụng cụ thích hợp cho công tác rao truyền Tin Mừng tại Chile. 

Trước khi từ giã ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các GM rồi đi ra phiá cửa sau nhà thờ chính toà, nơi có 10 đại diện các Giáo Hội Kitô khác và các tôn giáo không kitô chờ đợi ngài. Sau khi chào các vị ĐTC lên xe đi thăm đền thánh Alberto Hurtado dòng Tên và gặp gỡ các tu sĩ của dòng.

** Đền thánh dâng kính thánh Alberto Hurtado, là linh mục dòng Tên sinh năm 1901, qua đời năm 1952, và là người đã thành lập “Hogar Cristo” trung tâm tiếp đón những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Cha qua đời khi mới 51 tuổi vì bị bệnh và đã được Đức Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 14 tháng 10 năm 1994 và đươc Đức Biển Đức XVI phong hiển thánh ngày 23 tháng 10 năm 2005. Đền thánh do kỹ sư Cristian Undurraga, là một trong những kỹ sư nổi tiếng nhất Chile xây cất, với mầu đỏ thắm tọa lạc trong khu phố nhà ga trung ương Santiago và được khánh thành năm 1995. Bên trong có mộ của thánh Alberto Hurtado đựng đất của mọi miền đất nước tượng trưng cho tình yêu của tín hữu toàn nước đối với vị thánh của dân nghèo. Trước đó xác của ngài được giữ trong nhà nguyện las Bienaventuranzas của giáo xứ thánh Giuse Thợ. Giáo xứ này hiện còn giữ một thách tích là một lóng ngón tay trái của thánh nhân. Chính tại đây Đức Gioan Phaolô II đã quỳ cầu nguyện trong chuyến viếng thăm Chile năm 1987.

Phía trước đền thánh là quảng trường rộng 5,000 mét vuông, chung quanh có các cây cọ biểu tượng cho các cây cột của một đền thờ, ở chính giữa có một bàn thờ cho các buổi cử hành phụng vụ. Trong quần thể đền thánh cũng còn có một viện bảo tàng rộng 700 mét vuông và cao 7 mét, cũng do kỹ sư Undurraga xây. Bên trong  trưng bầy các đồ vật thánh Hurtado dùng hằng ngày khi còn sống, trong đó có một chiếc xe chở hàng mầu xanh cha Hurtado dùng để đem thực phẩm phân phát cho dân nghèo trong thành phố.

Sau khi viếng thăm đền thánh và gặp các tu sĩ dòng Tên ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.

Sáng thứ tư 17 tháng giêng lúc 7 giờ 20 ĐTC đã rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để ra phi trường lấy máy bay đi Temuco, cách Santiago 618 cây số. Trước khi lên máy bay ĐTC đã chào 20 người thuộc Ban tổ chức chuyến viếng thăm của ngài tại Chile.

Sau 1 giờ 20 phút máy bay đã đáp xuống phi trường La Araucania. Có một nhóm trẻ em và một ca đoàn hát mừng ĐTC tại phi trường. Ngài được chào đón bởi ĐC Hector Eduardo Vargas Bastidas, GM Temuco, ĐC Francisco Javier Stegmeier GM Villaria chủ tịch các GM miền, cùng các tỉnh trưởng Temuco, Padre de las Casas và Freire.

Temuco, thủ phủ vùng La Araucania, là thành phố có hơn 290 ngàn dân cư và ở trên độ cao 674 mét, nằm trên bờ sông Cautin và được bao bọc bởi đồi Nhiebol và Conun Huenu. Đây là vùng đất thổ dân Mapuche sinh sống nên thành phố vẫn còn mang dấu tích của nền văn hoá và kiểu sống của họ. Cũng chính tại đây bà Gabriela Mistral và ông Pablo Neruda, hai nhân vật nổi tiếng từng nhận giải Nobel, đã sinh sống vào các thập niên đầu thế kỷ XX.

** Thành phố do quân đội Chile xây ngày 24 tháng hai năm 1881 như pháo đài để chống trả các cuộc tấn công của thổ dân Indios. Ông Manuel Recabaren người đảm trách việc xây cất gọi nó là pháo đài  Recabaren hay pháo đài Temuco, trong tiếng Mapuche có nghĩa là “nước temu” là một loại cỏ thuốc thuộc gia đình mộc dược. Những người thuộc địa mau chóng biến pháo đài quân sự thành thủ phủ toàn vùng này với dân số lên tới 7.000 sau 10 năm thành lập. Ngày nay Temuco là một thành phố hành chánh, thương mại, đại học và văn hoá nổi tiếng với Đại học biên giới và Đại học công giáo. Năm 2010 thành phố bị hư hại vì một trận động đất khiến cho một số dinh thự bị hư hại hiện nay vẫn còn đang được tu sửa. Nổi tiếng có quảng trường Armas Anibal Pinto hay quảng trường Armas Temuco, được đặt theo tên của tổng thống Chile giữa các năm 1876-1881. Vùng cao nhất thành phố là Cerro Nhielol rộng 87 mẫu tây có cây cỏ và thú vật, xưa kia được thổ dân Mapuche dùng để cử hành các lễ nghi khác nhau. Đây là vùng thiên nhiên được che chở và bảo vệ. Ngoài ra còn có chợ của toà thị sảnh nơi có bán các thổ sản tiểu công nghệ Mapuche và đại lộ Alemania.

Giáo phận Temuco được thành lập năm 1925, rộng hơn 17 ngàn cây số vuông có hơn 630 ngàn dân cư, trong đó có 403 ngàn tín hữu công giáo, sống trong 37 giáo xứ. Nhân lực của giáo phận gồm 49 linh mục triều, 21 nữ tu, 46 phó tế, 4 đại chủng sinh, 31 tu huynh, 125 thành viên các dòng nữ. Giáo Hội điều khiển 322 cơ sở giáo dục và 10 trung tâm bác ái.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe tới sân bay Maquehue cách đó 23 cây số. Phi trường này có chỗ cho 400,000 người. Nó đã được khánh thành năm 1928 và được nới rộng trong thập niên 1990. Hiện nay phi trường này đã đóng cửa vì các chuyến bay thương mại đã được chuyển về phi trường quốc tế La Araucania. Trước khi lên xe díp đi một vòng để chào tín hữu ĐTC đã chào vị chỉ huy phi trường.

Thánh lễ về đề tài “Phát triển các dân tộc” đã bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi. Trong số các tín hữu tham dự có đại diên của các bộ lạc thổ dân toàn vùng La Araucania. Thánh lễ đã được linh hoạt bởi các bài thánh ca và vũ điệu với nhiều yếu tố văn hoá thổ dân.

** Giảng trong Thánh Lễ ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì vùng đất Araucania mầu mỡ xanh tươi  xinh đẹp, nhưng cũng có biết bao khổ đau, bất công, và vi phạm các quyền con người gây ra chết chóc đã xảy ra ngay tại sân bay nơi cử hành thánh lễ. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho hiệp nhất trong Phúc Âm cho biết Ngài đã cảm thấy trong con tim một trong các đe dọa tệ hại nhất sẽ tấn kích dân Chúa và toàn nhân loại: đó là sự chia rẽ, đụng độ,  đàn áp lẫn nhau. Vì thế cần cầu nguyện và không cho phép đụng độ và chia rẽ xảy ra.

Một trong các cám dỗ chính là việc lẫn lộn sự hiệp nhất với đồng nhất. Chúa Giêsu đã không xin Thiên Chúa Cha cho mọi người bằng nhau, giống nhau, bởi vì sự hiệp nhất không nảy sinh và sẽ không nảy sinh từ việc trung lập hay bịt miệng các khác biệt. Vẻ đẹp của một vùng đất nảy sinh từ sự kiện mọi thành phần biết chia sẻ sự khôn ngoan của mình với người khác. Sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu xin và cống hiến thừa nhận điều mà mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá được sai đi đem đến cho vùng đất được chúc lành này.  Sự hiệp nhất là một sự khác biệt được hoà giải, bởi vì nó không chấp nhận biện minh cho các bất công cá nhân và tập thể được thi hành nhân danh nó. Chúng ta phải gạt bỏ cái luận lý tin rằng có các nền văn hoá cao hay thấp. Một cái áo choàng Chamel đòi hỏi các người dệt nó biết nghệ thuật hoà hợp các chất liệu và mầu sắc khác nhau. Nghệ thuật của sự hiệp nhất đòi hỏi có các tay thủ công nghệ đích thực biết hoà hợp các khác biệt trong các phòng thí nghiêjm của các làng mạc, đường sá, quảng trường và quang cảnh.

Sự hiệp nhất mà các dân tộc của chúng ta cần có đòi hỏi chúng ta lắng nghe nhau và nhất là thừa nhận nhau. Điều này không có nghĩa là nhận các tin tức liên quan tới các người khác. Nhưng là tiếp nhận điều Thần Khí đã gieo nơi họ như là một ơn cho cả chúng ta.

Liên đới là phương thế dệt sự hiệp nhất và xây dựng lịch sử khiến chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần nhau trong các khác biệt.

Để xây dựng hiệp nhất không thể chấp nhận bạo lực như phương thế. Có hai hình thức bạo lực đe dọa các tiến trình hiệp nhất: Thứ nhất là các thoả hiệp hay đẹp gồm các từ hoa mỹ không bao giờ được thực hiện. Nó khiến cho niềm hy vọng bị cưỡng đoạt Thứ hai không thể ủng hộ rằng một nền văn hoá thừa nhận nhau không thể xây dựng trên nền tảng của bạo lực và phá huỷ với giá của mạng sống con người. Không thể đòi hỏi việc thừa nhận bằng cách hủy hoại tha nhân, vì nó chỉ tạo ra bạo lực và chia rẽ. Bạo lực sinh ra bạo lực. Tàn phá gia tăng đổ vỡ và chia rẽ. Bạo lực rốt cuộc khiến cho lý do chính đáng nhất trở thành dối trá. Các thái độ này giống như phún thạch của núi lửa tàn phá, thiêu rụi mọi sự và chỉ để lại cằn cỗi và thê lương.

Linh Tiến Khải

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 31.12.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật kính Thánh Gia. Ngài mời gọi các gia đình sống theo gương sáng Gia Đình Nazaret luôn yêu thương nhau và tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất sau Lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng lễ Thánh Gia Nazaret. Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta ngẫm suy về kinh nghiệm sống trong một mái nhà của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Các ngài sống yêu thương nhau và đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse và Mẹ Maria ẵm Hài Nhi Giêsu lên Đền Thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa (Lc 2,22) theo luật Môsê. Việc hiến dâng này cho thấy rằng, cha mẹ Hài Nhi là người dưỡng nuôi chứ không phải là chủ sở hữu. Điều ấy đáng để chúng ta suy ngẫm. Các bậc cha mẹ là người dưỡng nuôi, dạy dỗ con cái, để giúp con cái lớn khôn trưởng thành, chứ cha mẹ không phải là chủ sở hữu con cái.

Cử chỉ dâng con cho Thiên Chúa, nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là chủ của lịch sử cá nhân cũng như gia đình. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ Thiên Chúa. Từng gia đình được mời gọi tái nhận biết quà tặng và thiên chức này. Đó là bảo vệ và giáo dục con cái, là giúp con cái biết mở ra đối với Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tin Mừng kể về hai cụ già và cũng là hai bậc ngôn sứ, đó là cụ ông Simeon và cụ bà Anna. Các cụ được đầy Thánh Thần, nên nói về Hài Nhi Giêsu cho hết mọi người: “Thiên Chúa đã đặt em bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Em còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34.35).

Những lời tiên tri ấy vén mở cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đến để đốn ngã những hình ảnh sai lầm mà chúng ta tự tạo ra về Thiên Chúa cũng như về chính mình. Chúa đến để chống lại những an toàn giả tạo của thế gian mà chúng ta cậy dựa. Chúa đến để làm cho chúng ta thức tỉnh mà vững bước trên con đường của những giá trị nhân bản chân thực và những giá trị Tin Mừng. Trên con đường tái sinh và phục sinh này, không một hoàn cảnh nào, không một gia đình nào bị loại trừ. Mỗi lần trong gia đình có những thương tổn, có những mong manh, khó khăn và thất bại, thì mọi người được mời gọi trở lại cội nguồn của kinh nghiệm Kitô, để mở ra những con đường mới, để mở ra những khả thể vượt ngoài sức tưởng tượng.

Bài Tin Mừng kể tiếp: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành Nazaret, miền Galile. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2,39.40). Có một niềm vui lớn lao của gia đình, đó là sự lớn mạnh trưởng thành của các con: tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm vững mạnh, thêm khôn ngoan, được ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Những điều ấy diễn ra cho những người con, cho Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu thực sự là một con người giữa loài người chúng ta. Con Thiên Chúa trở thành một trẻ thơ, để từng ngày lớn lên, để thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, để ơn phúc Thiên Chúa đổ xuống trên Người. Mẹ Maria và Thánh Giuse rất vui khi nhìn thấy tất cả những điều ấy đến với người con Giêsu. Và đó cũng là nhiệm vụ của một gia đình, nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đầy đủ và hài hòa của trẻ thơ, để trẻ thơ có thể có một cuộc sống tốt đẹp như Thiên Chúa muốn và để xây dựng thế giới.

Đó cũng là lời cầu chúc của Cha xin gửi tới tất cả các gia đình hôm nay. Nguyện xin Mẹ Maria là Nữ Vương các gia đình, chuyển cầu cho chúng ta.

 

Anh chị em thân mến!

Tôi xin bày tỏ sự gần gũi với các anh chị em Chính Thống Copte ở Ai Cập, vì bị những cuộc tấn công cách đây 2 ngày tại một nhà thờ và một cửa hàng vùng ngoại ô Cairo. Xin Chúa thương nhận linh hồn những người quá cố, xin Chúa nâng đỡ những người bị thương, ủi an các gia đình và các cộng đoàn, và xin Chúa hoán cải tâm hồn những kẻ đã gây ra bạo lực.

Hôm nay Cha muốn gửi lời chào đặc biệt tới các gia đình. Xin Chúa Thánh Thần chúc lành và hướng dẫn gia đình anh chị em.

Cha chào thăm tất cả anh chị em là dân thành Roma và khách hành hương. Ngày cuối năm này, chúng ta đừng quên tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ơn lành ta đã nhận trong năm qua. Chúng ta hãy dành thời gian để nhìn lại, để tạ ơn. Nếu nhìn lại những khó khăn, chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì đã giúp ta vượt qua những giây phút ấy. Hôm nay là một ngày tạ ơn.

Chúc anh chị em ngày tốt lành. Cám ơn anh chị em vì những lời cầu chúc. Mong anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho Cha. Hẹn gặp lại anh chị em!

Tứ Quyết SJ

Đức Ông Phêrô Nguyễn Đức Tiến Qua Đời

Đức Ông Phêrô Nguyễn Đức Tiến Qua Đời

Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, chúng tôi trân trọng kính báo: Đức Ông Phêrô Nguyễn Đức Tiến, cựu Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, đã an nghỉ trong Chúa lúc 2:56 sáng ngày thứ Bảy, 14 tháng 10 năm 2017, tại tư gia ở Thành Phố Fountain Valley, California, hưởng thọ 87 tuổi. Đức Ông Nguyễn Đức Tiến đã phục vụ trong chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo hơn 13 năm, và một trong những đóng góp đáng kể của ngài là đã cùng với các linh mục, tu sĩ nam nữ, và giáo dân Việt Nam tại Giáo Phận Orange xây dựng lên Trung Tâm Công Giáo hiện nay, tọa lạc tại góc đường Harbor và Westminster, Thành Phố Santa Ana. “Đức Ông Nguyễn Đức Tiến đã để lại một tấm gương hy sinh và tận tụy của một vị chủ chăn trong suốt một chiều dài lớn mạnh của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Giáo Phận Orange,” theo lời Linh Mục Trần Văn Kiểm, hiện là Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam.

Đức Ông Tiến sinh ngày 14 tháng 7 năm 1930 tại Làng Đông Khê, Giáo Xứ Cao Mộc, Tỉnh Thái Bình. Năm 12 tuổi, ngài theo học tại tiểu chủng viện Mỹ Đức, Thái Bình, cho đến năm 1949. Sau đó tiếp tục tu học tại đại chủng viện Thánh Alberto, Nam Định, từ năm 1949 – 1954. Năm 1954, ngài được Đức Giám Mục giáo phận cho tu học tại viện Đại Học Quốc Tế thuộc Dòng Đa Minh tại Hồng Kông. Năm 1958, ngài trở về nước và được bổ nhiệm dạy học tại chủng viện Tân Tạo, Phan Rang.

Ngày 10 tháng 5 năm 1960, ngài được Đức Giám Mục Piquet Lợi phong chức linh mục và phục vụ cho Giáo Phận Nha Trang. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm Phó Hiệu Trưởng và dạy học tại trường Trung Học Trương Vĩnh Ký cho tới năm 1975. Trong thời gian này, Ngài theo học và tốt nghiệp Cử Nhân Ngành Địa Lý và Cao Học Ngành Sử Học tại Đại Học Đà Lạt.

Sau biến cố 1975, ngài vượt biên qua Thái Lan, định cư tại Syracuse, New York, và phục vụ cho giáo phận nơi đây cho đến năm 1979 trước khi chuyển về phục vụ tại Giáo Phận Orange cho đến ngày nghỉ hưu vào năm 2001. Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trao ban tước vị Đức Ông năm 1990.

Các nghi lễ an táng sẽ được bắt đầu với Thánh Lễ tại Trung Tâm Công Giáo vào lúc 9:00 sáng thứ Tư, ngày 18 tháng 10. Sau đó linh cữu sẽ được quàn tại TTCG suốt ngày thứ Tư, từ 9:00 giờ sáng đến 9:00 giờ tối. Vào lúc 6:00 giờ chiều cùng ngày sẽ có thêm một Thánh Lễ được cử hành cũng tại TTCG. Sang ngày thứ Năm, 19 tháng 10, linh cữu sẽ được quàn tại Nhà Thờ St. Barbara từ 3:00 chiều và sau đó sẽ là Thánh Lễ Vọng An Táng vào lúc 6:00 cũng tại Nhà Thờ St. Barbara.

Thánh lễ An Táng sẽ được cử hành tại Nhà Thờ St. Barbara lúc 10:00 sáng thứ Sáu, ngày 20 tháng 10, và sau đó linh cữu sẽ được an nghỉ tại Nghĩa Trang Chúa Chiên Lành (Good Shepherd Cemetery). Các cộng đoàn, đoàn thể muốn thực hiện các giờ đọc kinh cầu nguyện, xin liên lạc với Linh mục Phạm Ngọc Hùng ở số điện thoại (714) 721-5625.

 

Đức Thánh Cha gặp giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna

Đức Thánh Cha gặp giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna

BOLOGNA. ĐTC kêu gọi giới trí thức và đại học Bologna thăng tiến quyền văn hóa, quyền hy vọng và quyền hòa bình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn giới trí thức và sinh viên Đại học Bologna, bắc Italia, chiều chúa nhật 2-10-2017 trong khuôn khổ chuyến viếng thăm mục vụ dài 13 tiếng đồng hồ tại hai giáo phận Cesena và Bologna.

Lúc 4 giờ rưỡi chiều, ĐTC từ nhà thờ chính tòa thánh Phêrô của Bologna đến quảng trường trước Vương cung thánh đường Thánh Đaminh. Ngài tiến vào Vương cung Thánh Đường thánh Đa Minh, chào thăm hàng chục tu sĩ Đa Minh trong nhà thờ, rồi đến cầu nguyện trước mộ của thánh Đa Minh. Tại đây, ngài cũng ghi vào sổ vàng lưu niệm những hàng chữ bằng tiếng Tây Ban Nha:

Trước mộ Thánh Đa Minh, tôi đã cầu nguyện cho dòng Anh em Thuyết Giáo. Tôi đã cầu xin cho các phần tử của Dòng ơn trung thành với gia sản đã lãnh nhận. Tôi đã cám ơn Chúa vì tất cả những điều tốt lành mà các con cái Chúa đã làm cho Giáo Hội và tôi đã cầu xin như một món quà là sự gia tăng nhiều ơn gọi. Anh em Đa Minh thân mến: xin Chúa chúc lành cho anh em, và xin Đức Trinh Nữ Thánh bảo vệ anh em, và xin anh em vui lòng đừng quên cầu nguyện cho tôi”.

Sau đó, ĐTC mới tiến ra quảng trường bên ngoài, để gặp gỡ hàng ngàn người gồm các giáo sư, sinh viên, đại diện cho 85 ngàn sinh viên các ngành thuộc đại học kỳ cựu này.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của giáo sư viện trưởng, ĐTC nói:

”Từ gần 1 ngàn năm nay, Đại Học Bologna là ”một phòng thí nghiệm thuyết nhân bản: tại đây cuộc đối thoại với các khoa học đã mở ra một thời đại và hình thành thành phố này. Vì thế Bologna được gọi là ”thông thái”: thông thái nhưng không kiêu hãnh, chính nhờ Đại học luôn cởi mở, giáo dục các công dân của thế giới và nhắc nhớ rằng căn tính của đại học này là căn tính căn nhà chung, universitas..

ĐTC cũng nhận xét rằng Đại học Bologna cũng nổi tiếng vì sự tiếp đón dành cho các sinh viên đến từ những môi trường xa xăm và khó khăn, và đó là một dấu chỉ tốt đẹp: ”ước gì Bologna là ngã tư ngàn đời của các cuộc gặp gỡ, đối chiếu và tương quan, và gần đây là chiếc nôi của dự án Erasmus, luôn luôn có thể vun trồng ơn gọi này!”

Ngài nhắc đến sự kiện Đại học Bologna hình thành với việc nghiên cứu luật, và nói: điều này chứng tỏ Đại học ở Âu Châu có những căn cội sâu xa nhất trong chủ thuyết nhân bản, mà các tổ chức dân sự và Giáo Hội, qua những vai trò khác nhau, đã góp phần vào. Chính Thánh Đa Minh cũng ngưỡng mộ sức sinh động của thành Bologna, với số sinh viên đông đảo đến đây để học dân luật và giáo luật. Bologna với Đại học ở đây đã biết đáp ứng những nhu cầu của xã hội mới, thu hút những sinh viên muốn tìm hiểu. Thánh Đa Minh thường gặp gỡ họ. Theo một tường thuật, một học giả, ngạc nghiên về kiến thức của thánh nhân về Kinh Thánh, đã hỏi Người xem đã học từ những sách nào. Câu trả lời thời danh của Thánh Đa Minh là: ”Tôi đã học trong cuốn sách bác ái hơn là trong những cuốn sách khác; cuốn sách này dạy mọi sự”.

ĐTC đã đề nghị với mọi người 3 thứ quyền mà ngài thấy rất thời sự. Trước hết là:

Quyền được văn hóa. Đây không phải chỉ là quyền được học hành, nhưng còn là bảo vệ sự khôn ngoan, nghĩa là một kiến thức nhân bản và nhân bản hóa. Quá nhiều khi người ta bị ảnh hưởng của những lối sống tầm thường và phù du, thúc đẩy con người theo đuổi thành công rẻ tiền, coi rẻ hy sinh, nuôi dưỡng ý tưởng cho rằng việc học hành nghiên cứu là vô ích nếu không mang lại ngay những gì cụ thể. Không phải vậy, việc học giúp đặt những câu hỏi, nó giúp ta không bị tê liệt vì sự tầm thường, và giúp tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.

ĐTC cũng nhắc nhở giới sinh viên và trí thức đại học đừng chiều theo khán thính giả, không theo những kịch bản gây phẫn nộ, thường che đậy những ích kỷ lớn, trái lại cần tận tụy hăng say với công tác giáo dục, nghĩa là rút ra những điều tốt đẹp nhất của mỗi người để mưu ích cho tất cả. Cần chống lại thứ ngụy văn hóa biến con người thành đồ phế thải, biến việc nghiên cứu thành lợi lộc và biến khoa học thành kỹ thuật. Cùng nhau chúng ta khẳng định một nền văn hóa xứng với con người, một nghiên cứu nhìn nhận những công lao, tưởng thưởng hy sinh, và một kỹ thuật không tùng phục những mục tiêu thương mại, một sự phát triển trong đó không phải tất cả những gì tiện dụng đều là điều hợp pháp”.

Thứ hai là quyền được hy vọng. Bao nhiêu người ngày nay đang cảm thấy cô đơn, bất an, cái vẻ nặng nề của sự bỏ rơi. Vì thế cần dành chỗ cho quyền hy vọng: đó là quyền không bị xâm chiếm hằng ngày vì những lời tuyên bố gây sợ hãi và oán ghét. Đó là quyền không bị tràn ngập vì những lời mị dân hoặc phổ biến những tin tức giả dối gây lo âu và nhắm thủ lợi. Đó cũng là quyền được thấy có những giới hạn hợp lý được đề ra cho những thứ tin tức đen, làm sao để để cả những tin tức tốt đẹp cũng được nói tới. Đó là quyền của người trẻ được tăng trưởng, không phải sợ hãi về tương lai, được biết rằng trong cuộc sống có những thực tại đẹp đẽ và lâu bền, đáng được chúng ta dấn thân. Đó là quyền tin rằng tinh yêu chân thực không phải là ”dùng rồi vứt bỏ” và công ăn việc làm không phải là một ảo tưởng không đạt tới được, nhưng là một lời hứa cho mỗi người, cần phải được duy trì.

Thật là đẹp dường nào nếu các phòng học của các đại học trở thành những công xưởng hy vọng, nơi làm việc cho một tương lai tốt đẹp hơn, nơi mà người ta học để trở thành những người trách nhiệm về bản thân và thế giới!

– Sau cùng là quyền hòa bình. Đây là một quyền và nghĩa vụ được ghi khắc trong tâm hồn của nhân loại, vì ”sự hiệp nhất trổi vượt hơn xung đột)) (E.G. 226).

ĐTC khẳng định rằng: Đứng trước hòa bình, chúng ta không thể dửng dưng hoặc trung lập. ĐHY Lercaro ở đây đã từng nói rằng: ”Giáo Hội không thể trung lập đứng trước sự ác, bất kỳ từ đâu tới: sự sống của Giáo Hội không phải là trung lập, nhưng là lời ngôn sứ (Bài giảng 1-1-1968), không trung lập, nhưng là đứng vào hàng ngũ bênh vực hòa bình!

Vì thế, chúng ta kêu gọi quyền hòa bình như quyền của tất cả mọi người được giải quyết các cuộc xung đột mà không bạo lực. Để được vậy, chúng ta lập lại: không bao giờ chiến tranh nữa, không bao chống lại người khác, không bao giờ không có người khác! Hãy đưa ra ánh sáng những lợi lộc và âm mưu, thường là tối tăm, của những kẻ gây ra bạo lực, nuôi dưỡng sự chạy đua võ trang, chà đạp hòa bình bằng những nghiệp vụ. Đại học được nảy sinh ở đây để học luật, để tìm kiếm những gì bảo vệ con người, điều hành cuộc sống chung và bảo vệ chống lại những lý lẽ của kẻ mạnh hơn, của bạo lực và độc đoán. Một thách đố rất thời sự là khẳng định các quyền con người và các dân tộc, các quyền của những người yếu thế hơn, người bị gạt bỏ, quyền của thiên nhiên, căn nhà chung của chúng ta.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Anh chị em đừng tin những kẻ nói với anh chị em rằng chiến đấu cho những điều ấy là vô ích và chẳng có gì thay đổi! Đừng hài lòng với những giấc mơ bé nhỏ, nhưng hãy mơ ước những điều vĩ đại… Cùng với anh chị em, tôi mơ ước ”một thuyết nhân bản mới của Âu Châu, để được vậy cần có ký ức, can đảm, một ước mong lành mạnh và nhân bản”, tôi mơ ước một Âu Châu là người mẹ tôn trọng sự sống và cống hiến hy vọng sự sống, một Âu Châu trong đó người trẻ hô hấp không khí trong lành của sự lương thiện, yêu vẻ đẹp của văn hóa và một đời sống đơn giản, không bị ô nhiễm vì những nhu cầu tiêu thụ vô cùng…

G. Trần Đức Anh OP

 

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Chín 2017: Cầu nguyện cho các giáo xứ

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Chín 2017: Cầu nguyện cho các giáo xứ

VATICAN. Trong tháng Chín 2017, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi cầu nguyện cho các giáo xứ, để các giáo xứ trở thành nơi thông truyền đức tin và thể hiện đức ái. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video rằng:

Các giáo xứ phải có liên hệ với các gia đình, với đời sống người dân, với đời sống xã hội. Các giáo xứ phải là những ngôi nhà với cánh cửa luôn rộng mở chào đón mọi người. Điều này rất quan trọng và là đòi buộc rõ ràng của đức tin.

Những cánh cửa phải luôn rộng mở, để Chúa Giêsu có thể đi ra với tất cả niềm vui trong sứ điệp của Người.

Hãy cầu nguyện cho các giáo xứ của chúng ta, để các giáo xứ không đơn thuần là những văn phòng công sở, nhưng được linh hoạt bởi tinh thần truyền giáo. Nhờ đó các giáo xứ trở thành nơi thông truyền đức tin và thể hiện đức ái.

 

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Bảy 2017: Tái khám phá niềm vui đời sống Kitô

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Bảy 2017: Tái khám phá niềm vui đời sống Kitô

VATICAN. Trong tháng bảy 2017, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi mọi người cầu nguyện cho những anh chị em đang lạc lối đức tin, để nhờ việc chúng ta cầu nguyện và làm chứng cho Tin Mừng, các anh chị em ấy có thể tái khám phá vẻ đẹp của đời sống người Kitô. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video rằng:

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: niềm vui của chúng ta là chính Chúa Giêsu Kitô với tình yêu tín trung và vô tận của Người.

Khi một Kitô hữu buồn rầu, điều ấy có nghĩa là người ấy đang xa cách Chúa Giêsu.

Thế nhưng chúng ta đừng để người ấy lẻ loi một mình! Chúng ta hãy mang đến cho người ấy niềm hy vọng Kitô. Chúng ta làm điều ấy với những lời lẽ, vâng, nhưng hơn hết là bằng đời sống chứng tá cùng với tự do và niềm vui của chúng ta.

Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho những anh chị em đang lạc lối đức tin, để nhờ việc chúng ta cầu nguyện và làm chứng cho Tin Mừng, các anh chị em ấy có thể tái khám phá vẻ đẹp của đời sống người Kitô.

Tứ Quyết SJ

Các kẻ lạ mặt tấn công giáo xứ ở Pinda, bắc Kivu, Congo, và linh mục tu sĩ

Các kẻ lạ mặt tấn công giáo xứ ở Pinda, bắc Kivu, Congo, và linh mục tu sĩ

Kinshasa – “Từ Kinshasa đến Bắc-Kivu, qua Kasai, các nhà thờ, tu viện và trường học Công giáo đang bị phá hoại, cướp phá và tấn công bởi tên cướp có vũ trang, những kẻ nổi loạn hoặc những người thiếu văn minh khác”. Tổ chức phi chính phủ CEPADHO có trụ sở ở bắc Kivu, miền đông của Cộng hòa Dân chủ Congo đã lên tiếng tố cáo như thế.

Tại Kasai, từ hơn một năm nay các cuộc đụng độ đẫm máu giữa quân đội và dân quân đã gây nên những hậu quả kinh hoàng và không thể chịu đựng nổi. Một số giáo xứ trở nên hoang vắng và bị bỏ hoang, đặc biệt tại các giáo phận Luiza, Luebo và Mbụijmayi. Đức sứ thần Tòa Thánh và Đức Tổng Giám mục của Kânnga yêu cầu chấm dứt việc tuyển dụng những người trẻ và trẻ em, những kẻ giết người bởi quân nổi dậy, các vụ xử tử các công dân vô tội.

Hôm Chúa nhật 02/04, những kẻ lạ mặt đã thực hiện một cuộc đột kích vào khu dân cư của giáo xứ ở Paida, thành phố Beni, tỉnh bắc Kivu. 3 linh mục, trong đó có cha quản lý, bị bắt và bị hành hung. Các kẻ cướp đã cướp tiền, máy tinh và các vật dụng khác. Các nạn nhân được cứu nhờ phép lạ. Các trường công giáo gần đó cũng bị cướp phá.

Theo tổ chức CEPADHO, những sự kiện này nhằm trừng phạt các cam kết của các Giám mục trong việc làm trung gian chính trị dẫn đến việc ký kết các thỏa thuận San Silvestro, trong đó dự tính thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc và sẽ tổ chức bầu cử tổng thống và quốc hội trong năm nay.

Vào cuối tháng 3, Hội đồng Giám mục đã từ chối tiếp tục làm trung gian cho việc thực hiện các thỏa thuận. CEDAPHO nhấn mạnh rằng tình trạng bế tắc chính trị không phải là lỗi của các giám mục và Giáo hội Công giáo, nhưng là do các tầng lớp chính trị Congo; họ đã ngăn chặn việc thực hiện các thỏa thuận ngày 31 tháng 12". (Agenzia Fides 5/4/2017)

Hồng Thủy

Lời Chúa dưỡng nuôi lòng kiên trì, sự ủi an và niềm hy vọng

Lời Chúa dưỡng nuôi lòng kiên trì, sự ủi an và niềm hy vọng

** Qua lời của Ngài Thiên Chúa của lòng kiên trì và ủi an dưỡng nuôi nơi chúng ta một niềm hy vọng được biểu lộ ra một cách cụ thể qua việc chía sẻ và phục vụ lẫn nhau, đặc biệt là phục vụ các anh chị em yếu đuối và mỏng giòn nhất.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với gần 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 22-3-2017.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa vài câu trong chương 15 thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma: “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình. Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì lợi ích của họ, và để xây dựng…Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15,1-2-4-5).

ĐTC nói: từ vài tuần qua Tông Đồ Phaolô đang giúp chúng ta hiểu niềm hy vọng kitô một cách rõ ràng hơn. Và chúng ta đã nói rằng đó không phải là một sự lạc quan, không: đó đã là một điều khác. Và thánh tông đồ giúp chúng ta hiểu điều đó là gì. Hôm nay qua bài đọc vừa nghe ngài cũng làm điều ấy bằng cách để gần nhau hai thái độ quan trọng đối với cuộc sống và kinh nghiệm đức tin của chúng ta: đó là lòng kiên nhẫn và sự ủi an. Đâu là ý nghĩa sâu xa đích thật nhất của chúng? Và chúng soi sáng cho thực tại của niềm hy vọng như thế nào? Hai thái độ kiên nhẫn và ủi an. ĐTC giải thích hai thái độ này như sau:

Chúng ta có thể định nghĩa lòng kiên trì như là sự kiên nhẫn: đó là khả năng chịu đựng, mang trên vai, chịu đựng, trung thành, cả khi sức nặng xem ra quá lớn, không thể chịu đựng nổi, và chúng ta sẽ bị cám dỗ bỏ rơi mọi sự và mọi người. Sự ủi an, trái lại, là ơn biết tiếp nhận và cho thấy trong mọi hoàn cảnh, sự hiện diện và hoạt động thương xót của Thiên Chúa, kể  cả trong các hoàn cảnh đáng thất vọng và khổ đau nhất. Giờ đây thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta rằng lòng kiên trì và sự ủi an được Thánh Kinh trao ban cho chúng ta một cách đặc biệt.

** Thật thế Lời Chúa (c. 4) trước hết đưa chúng ta tới chỗ hướng cái nhìn lên Chúa Giêsu, hiểu biết ngài nhiều hơn và đồng hình đạng với ngài, ngày càng giống Ngài hơn. Thứ hai, Lời Chúa vén mở cho chúng ta rằng Chúa thật là “Thiên Chúa của sự kiên nhẫn và ủi an” (c. 5), nghĩa là kiên trì trong tình yêu đối với chúng ta, Ngài không mệt mỏi yêu thương chúng ta: không! Ngài kiên trì: Ngài luôn luôn yêu thương chúng ta! Và Ngài cũng lo lắng cho chúng ta, bằng cách bao phủ các thương tích của chúng ta với sự vuốt ve của lòng lành và sự thương xót của Ngài, nghĩa là Ngài an ủi chúng ta. Ngài cũng không mệt mỏi an ủi chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: trong viễn tượng ấy chúng ta cũng hiểu khẳng định ban đầu của thánh Phaolô: “Chúng ta là những người mạnh mẽ, chúng ta có bổn phận mang các tật bệnh của những người yếu đuối, mà không chiều theo sở thích của mình” (c. 1). Kiểu nói “chúng ta là những người mạnh mẽ” xem ra có thể là tự phụ, nhưng trong luận lý của Tin Mừng chúng ra biết rằng không phải là như thế, nhưng nó ngược lại, bởi vì sức mạnh của chúng ta không đến từ chúng ta, mà từ Chúa. Ai sống kinh nghiệm trong chính mình tình yêu trung thành của Thiên Chúa và sự ủi an của Ngài, thì có bổn phận gần gũi các anh em yếu đuối hơn và mang lấy sự giòn mỏng của họ. Nếu chúng ta gần gũi Chúa, chúng ta sẽ có sức mạnh để gần gũi những người yếu đuối nhất, những người cần được giúp đỡ nhất, an ủi họ và trao ban sức mạnh cho họ. Đó là ý nghĩa của nó. Điều này chúng ta có thể làm mà không tự phụ, nhưng một cách đơn sơ cảm thấy mình như là một “con kênh” chuyển các ơn của Chúa và như thế một cách cụ thể trở thành một “nguời gieo” vãi hy vọng. Đó là điều Chúa xin nơi chúng ta, với sức manh và khả năng an ủi và là những người gieo vãi niềm hy vọng. Nó không dễ đâu. Rồi ĐTC rút tỉa ra kết luận như sau:

Hoa trái của kiểu sống này không phải là một cộng đoàn trong đó  có vài người thuộc hạng A, nghĩa là những người mạmh mẽ, và người khác thuộc hạng B, nghĩa là những người yếu đuối. Trái lại, hoa trái là như thánh Phaolô nói, “có cùng các tâm tình đối với nhau, theo gương Chúa Kitô Giêsu” (c. 5).

** Lời Chúa dưỡng nuôi một niềm hy vọng được bầy tỏ ra một cách cụ thể trong việc chia sẻ, trong việc phục vụ lẫn nhau. Bởi vì cả ai là “kẻ mạnh”  trước sau gì cũng kinh nghiệm sự giòn mỏng của mình, và cần sự an ủi của những người khác; và ngược lại trong sự yếu đuối  ta luôn có thể cống hiến một nụ cười hay một bàn tay cho người anh em gặp khó khăn. Và đó là một cộng đoàn “làm vinh danh Thiên Chúa với cùng một tâm hồn và một tiếng nói” (c. 6).

Nhưng tất cả những điều này chỉ có thể, nếu chúng ta đặt để Chúa Kitô và Lời Ngài vào trung tâm, bởi vì Ngài là Đấng mạnh mẽ, Ngài là Đấng ban sức mạnh cho chúng ta, ban kiên nhẫn cho chúng ta, ban hy vọng cho chúng ta, ban ủi an cho chúng ta. Ngài là “Người anh mạnh mẽ” lo lắng cho từng người  trong chúng ta: thật thế, chúng ta tất cả đều cần được Mục Tử Nhân Lành mang trên vai, và cảm thấy được bao bọc bởi cái nhìn hiền dịu và sốt sắng của Ngài.

Các bạn thân mến, chúng ta sẽ không bao giờ cám ơn Thiên Chúa đủ vì ơn Lời Ngài, hiện diện trong Thánh Kinh. Chính trong đó Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tự mạc khải như là “Thiên Chúa của lòng kiên nhẫn và sự ủi an”. Và chính ở đó chúng ta ý thức được rằng niềm hy vọng của chúng ta không dựa trên các khả năng và sức mạnh của chúng ta, mà dựa trên sự nâng đỡ của Thiên Chúa và trên lòng trung thành của tình yêu Ngài, nghĩa là trên sức mạnh của Thiên Chúa và sự ủi an của Thiên Chúa.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau.

Trong số các đoàn hành hương nói tiếng Pháp, ngài đặc biệt chào tín hữu giáo phận Pontoise do ĐC Stanislas Lalanne hướng dẫn, cũng như các đoàn hành hương đến từ Bỉ và Congo Brazaville.

** Chào các nhóm hành hương đến từ Đan Mạch, Na Uy, và Hoa Kỳ ngài cầu mong Mùa Chay là thời gian ơn thánh giúp canh tân tinh thần cho họ và cho gia đình họ. Ngài đặc biệt chào các tham dự viên hội nghị về “nước và giá trị của nước cho thế giới khát nước” do Hội Đồng Toà Thánh về văn hóa cùng tổ chức với Hiệp hội Argentina Roma. Hôm qua là Ngày quốc tế bảo vệ nước do Liên Hiệp Quốc thành lập cách đây 25 năm, trong khi thứ ba vừa qua là Ngày Quốc Tế bảo vệ Rừng cây. ĐTC bầy tỏ vui mừng vì các cuộc gặp gỡ này ghi dấu một chặng mới trong dấn thân của nhiều tổ chức giúp gây ý thức đối với việc bảo vệ nước uống cho thiện ích của mọi người và đánh giá cao các ý nghĩa văn hoá và tôn giáo của nước. ĐTC khích lệ các nỗ lực của họ trong việc giáo dục trẻ em và người trẻ liên quan tới vấn đề này.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Đức, Bồ Đào Nha, Brassil, Tây Ban Nha và Ba Lan. ĐTC nói Giáo Hội mới mừng lễ thánh Giuse cách đây mấy ngày. Thánh nhân là gương mẫu của niềm hy vọng và kiên nhẫn, vì đã biết chịu đựng và thắng vượt biết bao khó khăn với lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Thánh nhân đã thông truyền cho Thánh Gia sự ủi an của các lời Thiên Chúa hứa. Chúng ta luôn được mời gọi sẵn sàng trợ giúp tha nhân với nụ cười và đôi bàn tay liên đới.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC khuyến khích họ sống mùa Chay trong tinh thần cầu nguyện, ăn chay hãm mình, làm phúc bố thí, cũng như duyệt xét lương tâm và xưng thú tội lỗi. Và nhất là đừng quên giáo huấn của thánh Gioan Phaolô II: “biết gọi trắng là trắng, đen là đen, sự dữ là sự dữ, sự thiện là sự thiện. Nhất là học gọi tội lỗi là tội lỗi, chứ không gọi nó là giải phóng và tiến bộ.”

Trong các nhóm Ý ĐTC đặc biệt chào các giám đốc văn phòng di dân, và khích lệ các vị tiếp đón người di cư tỵ nạn và giúp họ hội nhập xã hội.

Ngài cũng chào nhóm các trẻ em bị bệnh down của giáo phận Ascoli Piceno, và nhân viên của  nghiệp đoàn công nhân bãi biển Italia.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết thứ bẩy tới đây là lễ Truyền Tin cho Trinh Nữ Maria. Ngài cầu mong các bạn trẻ biết noi gương Mẹ vâng theo ý Chúa; người đau yếu không chán nản trong các lúc khó khăn vì biết rằng Chúa luôn trợ lực họ; và các đôi tân hôn biết xây dựng cuộc sống gia đình trên lời Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Ai Cập ngày 28 và 29-4-2017

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Ai Cập ngày 28 và 29-4-2017

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Ai Cập từ ngày 28 đến 29-4-2017 tới đây.

Trong thông cáo hôm 18-3-2017, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, thông báo:

”Nhận lời mời của Tổng Thống, các Giám Mục Công Giáo và Đức Thượng Phụ Tawadros II và Đại Iman Đền thờ Hồi giáo Al Azhar, Cheik Ahmed Mohamed el-Tayyib, ĐTC Phanxicô sẽ thực hiện chuyến Tông Đu tại Cộng hòa Arập Ai Cập từ ngày 28 đến 29-4-2017, viếng thăm thành phố Cairo. Chương trình sẽ được công bố trong thời gian tới đây.”

Đây sẽ là chuyến viếng thăm đầu tiên của ĐTC tại nước ngoài trong năm nay.

Ai Cập rộng 1 triệu 10 ngàn cây số vuông với 83 triệu dân cư, đa số là tín hữu Hồi giáo Sunnit, và Giáo Hội Chính Thống Copte do Đức Thượng Phụ Tawadros II làm Ciáo chủ chiếm 10% dân số. Các tín hữu Công Giáo Copte có 200 ngàn tín hữu.

Đền thờ và Đại học Al Azhar được coi là có uy tín nhất đối với Hồi giáo Sunnit trên thế giới (SD 18-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Nếu chúng ta kiên trì nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ ngạc nhiên khám phá ra rằng Người luôn quan sát mỗi người chúng ta với lòng yêu thương. Đó là ý tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng Thánh lễ kính thánh Gioan Bosco tại nhà nguyện thánh Marta.

Chúa Giêsu không nhìn đám đông cách chung chung. Ngài nhìn mỗi người

Đức Thánh Cha chú giải đoạn thư gửi tín hữu Do thái, trong đó tác giả mời gọi chúng ta “kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” Ngài cũng giải thích bài Tin Mừng rằng chính Chúa Giêsu nhìn chúng ta và nhận thấy chúng ta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu ở gần chúng ta, “Người luôn ở giữa đám đông.” “Không phải là với những vệ sĩ bảo vệ cho Người, để cho đám đông không thể chạm vào Người. Không! Người ở đó và đám đông bao lấy Người. Mỗi khi Người xuất hiện, có một đám đông lớn. Các chuyên gia thống kê có lẽ có thể xuất bản ‘Sự nổi tiếng của Thầy Giêsu đang giảm đi’… Nhưng Chúa Giêsu tìm kiếm điều khác: Ngài tìm dân chúng. Và dân chúng tìm Ngài: dân chúng dán mắt vào Ngài và Ngài dán mắt vào dân chúng. ‘Đúng, vào dân chúng, vào đám đông’ – ‘không, vào mỗi người!’ Đây là điểm đặc biêt của cái nhìn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không nhìn đám đông chung chung: Ngài nhìn mỗi người.”

Chúa Giêsu quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta

Tin Mừng thánh Marco thuật lại 2 phép lạ. Thứ nhất, Chúa Giêsu chữa người đàn bà bị băng huyết 12 năm trời. Giữa đám đông, bà đã có thể chạm được áo choàng của Ngài. Và Chúa Giêsu đã nhận ra có người chạm vào Ngài. Thứ hai, Chúa Giêsu làm cho bé gái 12 tuổi con ông Giairô sống lại. Người nhận ra cô bé đang đói và yêu cầu cha mẹ cho cô ăn. Đức Thánh Cha nhận xét: “Cái nhìn của Chúa Giêsu đến với điều lớn lao cũng như nhỏ bé. Ngài nhìn ngắm tất cả: nhìn ngắm tất cả chúng ta, nhưng nhìn mỗi người chúng ta. Ngài quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta. Bởi vì Người gần chúng ta. Chúa Giêsu không sợ hãi những điều to lớn nhưng cũng để ý đến những điều nhỏ bé. Chúa Giêsu nhìn chúng ta như thế.”

Sự kinh ngạc khi gặp gỡ Chúa Giêsu

Đức Thánh Cha khẳng định rằng nếu chúng ta chạy “với sự kiên trì và mắt hướng nhìn về Chúa Giêsu”, thì sẽ xảy đến với chúng ta những điều xảy ra với dân chúng sau khi con gái ông Giairo đã sống lại, đó là “họ đầy kinh ngạc.” Ngài giảng giải thêm: “Tôi đi, nhìn ngắm Chúa Giêsu, tôi tiến bước, ngắm nhìn Chúa Giêsu và tôi tìm thấy điều gi? Ngươi đang ngắm nhìn tôi! Điều này làm cho tôi kinh ngạc vô cùng. Sự kinh ngạc khi gặp Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta đừng sợ hãi! Chúng ta không sợ hãi như người đàn bà đi đến sờ vào áo choàng của Người. Chúng ta đừng sợ! Chúng ta chạy trên con đường này. Luôn luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu. Và chúng ta sẽ có sự ngạc nhiên tốt đẹp này, chúng ta sẽ tràn đầy sự ngạc nhiên: chính Chúa Giêsu ngắm nhìn tôi.” (SD 31/01/2017)

Hồng Thủy

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Khi tin tưởng vào các thần tượng bằng vật chất, hay do trí óc chúng ta làm ra, khi biến các thực tại hạn hẹp thành tuyệt đối, khi giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng của chúng ta, biến Ngài thành một vị thần giống chúng ta, có thể hiểu được, thấy trước được như các thần tượng vô hồn, là chúng ta đặt hy vọng vào hư vô. Chỉ khi tin tưởng nơi Chúa chúng ta mới trở nên như Ngài, phước lành của Ngài biến đổi chúng ta thành con cái chia sẻ sự sống của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã đề cập tới niềm hy vọng như nhu cầu sơ đẳng của con người: hy vọng vào tương lai, tin tưởng nói sự sống, suy nghĩ tích cực. Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh là thời gian của năm phụng vụ nhằm thức tỉnh nơi dân Thiên Chúa niềm hy vọng. Nhưng thật quan trọng là niềm hy vọng ấy phải đặt để vào điều có thể thực sự giúp chúng ta sống và trao ban ý nghĩa cho cuôc đời mình. Chính vì thế mà Thánh Kinh cảnh báo chúng ta chống lại các niềm hy vọng giả dối, các niềm hy vọng giả dối này mà thế gian trình bầy với chúng ta, bằng cách lột mặt nạ sự vô ích của chúng và chỉ cho thấy cái vô nghĩa của chúng. Và Thánh Kinh làm điều đó bằng nhiều cách thế, nhất là bằng cách tố cáo các thần tượng giả mà con người liên tục bị cám dỗ đặt để niềm tin tưởng của nó, bằng cách biến nó trở thành đối tượng niềm hy vọng của mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đặc biệt các ngôn sứ và các người khôn ngoan nhấn mạnh trên điều ấy, bằng cách đụng chạm tới điểm nhức nhối trên con đường lòng tin của tín hữu. Và ĐTC giải thích như sau:

Bởi vì tin là tín thác nơi Thiên Chúa – ai tin thì tín thác nơi Thiên Chúa – nhưng tới lúc trong đó, khi phải đụng chạm với các khó khăn của cuộc sống, con người cảm nghiệm được sự giòn mỏng của sự tin tưởng của nó và cảm thấy cần có các chắc chắn khác nhau, các chắc chắn cụ thể, có thể sờ mó được. “Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng tình hình hơi xâu một chút, và tôi cần một sự chắc chắn hơi cụ thể môt chút.” Và ở đó, nguy hiểm là ở đó. Và khi đó chúng ta bị cám dỗ tìm cả các an ủi mau qua, xem ra lấp đầy sự trống rỗng của nỗi cô đơn và làm nhẹ bớt cái mệt nhọc của việc tin tưởng.

** Và chúng ta nghĩ có thể tìm chúng trong an ninh. mà nó có thể cho – chẳng hạn – tiền bạc hay trong các liên minh với những người quyền thế; hoặc trong tinh thần thế tục; hay trong các ý thức hệ dối trá. Nhưng chúng ta thích các thần tượng, chúng ta thích các thần tượng biết bao! Có một lần nọ, tại Buenos Aires, tôi phải đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, cách nhau ít nhiều khoảng một ngàn mét. Và tôi đi bộ. Ở giữa hai nhà thờ có một công viên, và trong công viên có rất nhiều các bàn nhỏ, nơi có các thầy bói ngồi; và có rất đông ngưòi xếp hàng dài chờ. Bạn đưa bàn tay cho họ, và họ bắt đầu nói. Nhưng diễn văn luôn luôn giống nhau: có một phụ nữ trong cuộc đời ông, có một bóng đen đang đến, nhưng mọi sự sẽ thành công tốt… Và rồi bạn trả tiền. Điều này có trao ban an ninh cho bạn không? Đó là một sự chắc chắn – xin anh chị em cho phép tôi dùng từ này – của một sự ngu độn – Nhưng đó là một thần tượng: tôi đã đi tới bà thầy bói ông thầy bói, hay tôi đã đi coi bài – Tôi biết là không có ai trong anh chị em làm điều này đúng không? – Tín hữu cười – và tôi đã thành công hơn. Nó làm tôi nhớ tới cuốn phim có tựa đề “Phép lạ tại Milano” của người làm cái đó, thật là thối cái mũi… giá 100 đồng Lire. Họ bắt bạn trả tiền để cho họ ca tụng bạn, trao ban cho bạn một niềm hy vọng giả dối. Đó là thần tượng, và chúng ta gắn bó biết bao với chúng: chúng ta mua các niềm hy vọng giả dối. Và Đấng là niềm hy vọng của sự nhưng không, Đấng đã trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô, một cách nhưng không, đã cho chúng ta sự sống, Đấng ấy thì chúng ta không tin tưởng bao nhiêu…

Đôi khi chúng ta tìm chúng nơi một thần linh có thể cúi gập trước các đòi hỏi của chúng ta, và can thiệp một cách kỳ điệu để biến đổi thực tại, và làm cho nó trở thành như chúng ta muốn; nghĩa là một thần tượng và như là thần tượng nó không thể làm gì hết, bất lực và dối trá.

Có một thánh vịnh tràn đầy khôn ngoan miêu tả cho chúng ta một cách hết sức gợi ý cái giả dối của các thần tượng này, mà thế gian cống hiến cho niềm hy vọng của chúng ta, và con người thuộc mọi thời đại bị cám dỗ đặt tin tưởng nơi chúng. Đó là thánh vịnh 115. Thánh vịnh viết như thế này: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.” (Tv 115,4-8).

Tác giả thánh vịnh trình bầy với chúng ta một cách châm biếm thực tại tuyệt đối phù du của các thần tượng này. Và ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Và chúng ta phải hiểu rằng đây không chỉ là các hình tượng làm bằng kim loại và chất liệu khác, nhưng cũng là các hình tượng mà trí óc chúng ta xây dựng nữa, khi chúng ta tin tưởng nới các thực tại hạn hẹp mà chúng ta biến thành tuyệt đối, hay khi chúng ta giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng về thần linh của chúng ta; một thần linh giống chúng ta, có thể hiểu và tiên liệu, y như các thần tượng mà thánh vịnh nói tới. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chế tạo một thần linh theo hình ảnh của nó, và cũng là một hình ảnh vụng về: không nghe, không cử động và nhất là không thế nói. Nhưng chúng ta lại hài lòng đi tới với các thần tượng hơn là đi tới với Chúa. Chúng ta càng hài lòng hơn với niềm hy vọng phù du trao ban điều giả dối này, thần tượng này hơn là niềm hy vọng vĩ đại chắc chắn mà Chúa ban cho chúng ta…

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: đối chọi với niềm hy vọng nơi một Chúa của sự sống, là Đấng với Lời của Ngài đã tạo dựng nên thế giới và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, người ta tin tưởng nơi các thần tượng câm nín. Các ý thức hệ, với các yêu sách tuyệt đối của chúng, các giầu sang – và đây là một thần tượng lớn – các giầu sang, quyền lực và thành công, sự phù vân, với các ảo tưởng vĩnh cửu và toàn năng của chúng, các giá trị như vẻ đẹp vật lý và sức khỏe, khi chúng trở thành thần tượng cần phải hy sinh mọi sự, tất cả chúng đều là các thực tại làm lẫn lộn tâm trí, và thay vì tạo điều kiện cho sự sống thì nó dẫn đưa tới cái chết.

Thật là xấu xa nghe biết và gây đau đớn cho tâm hồn điều, mà cách đây nhiều năm tôi đã nghe được trong giáo phận kia: có một phụ nữ một phụ nữ giỏi giang, rất đẹp, đẹp lắm, và bà khoe khoang sắc đệp của bà, bà bình luận như thể là chuyện tự nhiên: “Ô, vâng tôi đã phải phá thai, vì gương mặt tôi quan trọng lắm”.Thế đó… Đây là các thần tượng,  chúng đưa bạn tới con đường sai lầm, và không trao ban cho bạn niềm hạnh phúc.

Sứ điệp của thánh vịnh rất rõ ràng: nếu ta đặt tin tưởng nơi các thần tượng, thì ta cũng trở thành như chúng: là các hình ảnh trống rỗng với tay không sờ mó, với chân không bước đi, miệng không thể nói. Ta không còn gì để nói nữa, ta trở thành không có khả năng trợ giúp, thay đổi các sự vật, không có khả năng cười, trao ban chính mình, không có khả năng yêu thương. Và cả chúng ta là các ngưòi của Giáo Hội, chúng ta cũng gặp nguy cơ này khi chúng ta “trần tục hoá chính mình”. Cần phải ở trong thế gian, nhưng bảo vệ chính mình khỏi các ảo tưởng của thế gian là các thần tượng này mà tôi đã nêu trên đây.

Như thánh vịnh tiếp tục, cần phải tín thác và hy vọng nơi Thiên  Chúa, và Thiên  Chúa sẽ chúc phúc. Thánh vinh nói: “Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che. Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa… Ai kính sợ Chúa hãy tin cậy Chúa …Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ chúc phúc” (Tv 115,9-11). Chúa luôn luôn nhớ, cả trong những lúc xấu xa, nhưng Ngài nhớ đến chúng ta. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Và niềm hy vọng không gây thất vọng. Không bao giờ. Không bao giờ gây thất vọng. Các thần tượng luôn luôn gây thất vọng: chúng là các tưởng tượng, chúng không thật.

** Đây là thực tại tuyệt vời của niềm hy vọng: khi tín thác nơi Chúa ta trở thành như Ngài, phúc lành của Ngài biến đổi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con cái Ngài, chía sẻ sự sống của Ngài. Niềm hy vọng nơi Thiên Chúa làm cho chúng ta bước vào trong ánh sáng hoạt động của kỷ niệm của ký ức Ngài chúc lành cho chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Và khi đó có thể vọt lên tiếng Alleluia, chúc tụng Thiên Chúa hằng sống và chân thật, là Đấng vì chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, đã chết trên thập giá và sống lại trong vinh quang. Và nơi vì Thiên Chúa này chúng ta hy vọng, và Thiên Chúa này không phải là một thần tượng, không bao giờ gây thất vọng.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các đại chủng sinh chủng viện Saint Sulpice Issy- les -Moulineaux; các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản; cũng như các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,  và Ba Lan. Ngài nói thế giới cống hiến cho chúng ta biết bao niềm hy vọng giả, thay vì trao ban tin tưởng chúng ăn cắp sự tự do và biến chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Các thần tượng cũng như ma tuý hứa hẹn niềm vui, nhưng lại ăn cướp sự tự do. Vì thế việc chữa lành nô lệ các thần tượng trước hết là nhận biết chúng, quyết định thoát khỏi, can đảm từ bỏ chúng, và nhất là đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thật hằng sống là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói năm nay Ba Lan mừng 100 năm tu huynh Alberto Chmielowski sinh ra.  Tôi khuyến khích anh chị em noi gương vị thánh của lòng thương xót, anh em của những người vô gia cư, dân nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, để đem tình yêu thương, bác ái và niềm hy vọng tới cho mọi người.

ĐTC cũng lưu ý tín hữu đừng để mình bị lừa bởi những kẻ xấu muốn làm tiền họ, vì các vé tham dự tiếp kiến đều hoàn toàn miễn phí.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài đặc biệt chào các linh mục giáo sư các chủng viện, học viện thành viên chi nhánh đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới lễ Chúa chịu phép rửa Chúa Nhật vừa qua. Ngài khích lệ mọi người tái khám phá ra ơn bí tích Rửa Tội đã nhận lãnh, và kín múc từ đó niềm tin nơi Giáo Hội, sức mạnh giúp đối phó với khổ đau bệnh tật và lòng can đảm dấn thân trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải.