Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng 05 năm 2018: Sứ mạng của người giáo dân

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng 05 năm 2018: Sứ mạng của người giáo dân

Vatican. Trong tháng 05 năm 2018, Đức Thánh Cha mời gọi đặc biệt cầu nguyện cho người giáo dân, để họ có thể thực thi sứ mạng của mình, bằng cách đưa ra sáng kiến đáp lại các thách đố của thế giới, và làm chứng cho đức tin bằng đời sống đầy tình liên đới. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video như sau:

Người giáo dân đứng ở tiền tuyến của đời sống Giáo Hội. Chúng ta cần chứng từ của người giáo dân về chân lý của Tin Mừng, và gương mẫu đời sống của người giáo dân diễn tả đức tin bằng cách thực thi tình liên đới.

Chúng ta hãy cám ơn những giáo dân đã sẵn sàng mang lấy các rủi ro. Họ không sợ hãi. Họ mang đến niềm hy vọng cho những ai nghèo khổ nhất, cho những ai bị loại trừ và chịu thiệt thòi.

Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện trong tháng này, để người giáo dân có thể trung thành với sứ mạng đặc thù của họ, sứ mạng mà họ lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, để họ đưa những sáng kiến của mình vào việc phục vụ và đáp lại các thách đố của thế giới ngày nay.

Tứ Quyết SJ

Hãy san bằng núi đồi kiêu căng bằng sự khiêm nhường

Hãy san bằng núi đồi kiêu căng bằng sự khiêm nhường

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 10.12.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng, mời gọi mọi người hoán cải và sửa đổi tâm hồn để đón mừng Chúa đến. Đó là phải lấp đầy những thung lũng trống rỗng bằng cầu nguyện và quan tâm tha nhân. Đó là phải bạt đi núi đồi kiêu căng tự phụ.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu Mùa Vọng với lời mời gọi hãy tỉnh thức. Hôm nay, Chúa nhật thứ hai mùa Vọng, chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh, phụng vụ Lời Chúa chỉ cho chúng ta biết sứ điệp chính của thời điểm này. Đây là thời điểm để nhận biết những khoảng trống cần được lấp đầy trong cuộc sống chúng ta, để biết san bằng những kiêu căng tự phụ, và để biết dành chỗ cho Chúa Giê-su là Đấng đang đến.

Ngôn sứ I-sai-a (Is 40,1-5.9-11) loan báo cho dân biết sự kết thúc của cuộc lưu đày bên Ba-bi-lon, và cuộc hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem. Vị ngôn sứ nói: Có tiếng kêu trong hoang địa: “Hãy dọn đường cho Chúa… Mọi thung lũng hãy lấp cho đầy”. Những thung lũng ấy tượng trưng cho mọi loại khoảng trống trong chúng ta khi ở trước mặt Chúa, đó là tất cả những tội lỗi và thiếu sót của chúng ta. Có khoảng trống trong đời sống, có thể là do chúng ta không cầu nguyện hoặc cầu nguyện quá ít. Mùa Vọng là thời điểm thích hợp để chúng ta cầu nguyện tha thiết hơn, mạnh mẽ hơn, để chúng ta biết dành vị trí quan trọng cho đời sống thiêng liêng. Có một sự trống rỗng khác, có thể là do chúng ta thiếu lòng bác ái đối với tha nhân, đặc biệt là đối với những ai đang cần giúp đỡ, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần nữa. Chúng ta được mời gọi quan tâm đến nhu cầu của người khác, gần gũi hơn với người khác. Giống như thánh Gioan Tiền Hô đã làm, chúng ta có thể mở ra những con đường hy vọng trong sa mạc của trái tim khô cằn nơi nhiều người.

Tiên tri I-sai-a cũng nói: Mọi núi đồi, hãy san cho phẳng. Những ngọn núi, ngọn đồi phải hạ xuống, phải san bằng, đó là sự tự hào kiêu hãnh, sự kiêu căng tự phụ. Nơi nào có sự kiêu căng ngạo mạn, thì Thiên Chúa không thể vào được. Vì khi trái tim chứa đầy những tự phụ kiêu ngạo, thì Thiên Chúa không thể ngự vào. Thế nên, chúng ta phải biết hạ mình. Chúng ta phải chấp nhận trở nên nhiêm tốn, phải đi vào thái độ khiêm nhường, mà không càm ràm than phiền, nhưng biết lắng nghe, để có thể chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ đang đến. Chúng ta cần trở nên những người hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11,29). Kế đến, chúng ta được mời gọi loại bỏ những ngăn trở, để có thể hiệp thông với Chúa: “Con đường cong queo hãy làm cho thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng, và vinh hiển Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa”.

Tuy nhiên, chúng ta cần làm tất cả những điều ấy với niềm vui, bởi vì tất cả những gì ta làm là để đón Chúa Giê-su đến. Khi đợi chờ người thân tới thăm nhà mình, chúng ta chuẩn bị mọi sự với đầy ân cần và hạnh phúc. Cũng tương tự thế, chúng ta muốn chuẩn bị mọi sự để đón chờ Chúa đến. Mỗi ngày, từng ngày đợi chờ Chúa với sự ân cần ấy, là chúng ta được đầy tràn ân sủng khi Chúa đến.

Đấng Cứu Độ mà chúng ta đang đợi chờ, có khả năng biến đổi đời sống chúng ta, bằng ơn sủng của Người, bằng quyền năng của Thánh Thần, với sức mạnh của tình yêu mến. Thật vậy, Chúa Thánh Thần ngự vào lòng chúng ta. Ngài là tình yêu của Thiên Chúa, không ngừng thanh tẩy tâm hồn, ban cho chúng ta sức sức sống mới, ban cho chúng ta sự tự do. Đức Trinh Nữ Maria đã sống thực tại này. Mẹ đã để cho mình được chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Với trọn cả tâm hồn, với trọn cả con người, với trọn cả cuộc sống, Mẹ đã chuẩn bị để đón Đức Ki-tô đến. Xin Mẹ giúp chúng ta biết noi gương Mẹ. Xin Mẹ từng bước dẫn dắt chúng ta đến gặp gỡ Chúa là Đấng đang ngự đến.

Sau bài huấn dụ, Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và ban Phép Lành Tòa Thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là ngày trao giải Nobel Hòa Bình cho Chiến dịch quốc tế bãi bỏ vũ khí hạt nhân. Sự công nhận này trùng với ngày Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Điều ấy nhấn mạnh đến mối liên kết chặt chẽ giữa nhân quyền và việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, để đảm bảo phẩm giá cho mọi người, đặc biệt là những người người yếu thế, cần quyết tâm hành động để xây dựng một thế giới không vũ khí hạt nhân. Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng cùng nhau làm việc để xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta. Chúng ta có tự do, có trí khôn và có khả năng điều khiển các công nghệ, có khả năng kiểm soát các năng lực của chúng ta, để phục vụ cho hòa bình và sự tiến bộ chân thực (Laudato Si, 78.112.202).

Hội nghị Thượng đỉnh về Hành tinh của Chúng ta, sẽ diễn ra tại Pari vào ngày mai trong bối cảnh hai năm sau khi thông qua Hiệp định Khí hậu Pari. Tôi hy vọng chân thành rằng, hội nghị này cũng như các sáng kiến theo chiều hướng ấy, sẽ thúc đẩy nhận thức mạnh mẽ về nhu cầu cần đưa ra những quyết định thiết thực và hiệu quả, để chống lại sự thay đổi khí hậu, đồng thời chống lại đói nghèo, và thúc đẩy phát triển con người.

Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với người dân Ấn Độ, chịu ảnh hưởng bởi cơn bão Okhi. Cũng thế, người dân Albania bị ảnh hưởng nặng nề bởi lụt lội trầm trọng.

Cha xin gửi lời chào thăm tới tất cả mọi người dân thành Roma và các khách hành hương, đặc biệt là các nhóm đến từ Tây Ban Nha. Cha chào mừng nhiều nhóm thiếu nhi và giới trẻ của Italia đến từ các thành phố Firenze, Carugate, Brembate, Almè, Petosino và Pian Camuno. Cha khuyến khích các con hãy trở thành những chứng nhân vui tươi cho Tin Mừng.

Chúc mọi người một ngày tốt lành, và tiếp bước hành trình Mùa Vọng tốt đẹp, để dọn đường cho Chúa đến. Tạm biệt anh chị em, và xin đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

 

Chúa có thể biến đổi “trái tim bằng đá” thành “trái tim bằng thịt”

Chúa có thể biến đổi “trái tim bằng đá” thành “trái tim bằng thịt”

Những trái tim chai cứng chỉ biết lên án tất cả những gì nằm ngoài luật lệ. Nhưng Chúa sẽ làm mềm những trái tim ấy. Sự dịu hiền của Thiên Chúa có thể lấy đi trái tim chai đá, và thay thế những con tim khô cứng ấy bằng những trái tim biết yêu thương. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Những trái tim chai đá gây ra nhiều đau khổ

Trong Thánh Vịnh 94 Chúa cảnh báo thực tế phũ phàng là: người dân rất cứng lòng. Sau đó ngôn sứ Ezekiel loan báo lời hứa vĩ đại. Đó là Thiên Chúa sẽ biến đổi lòng người. Ngài sẽ lấy đi những trái tim bằng đá, và thay vào đó là trái tim bằng thịt, trái tim biết lắng nghe, trái tim trở nên chứng nhân cho đời vâng phục.

Thế đó, thật là đau khổ, đau khổ rất nhiều, khi trong Giáo Hội có những con tim chai đá, những trái tim bằng đá, những trái tim khép kín và không muốn mở ra, những trái tim chỉ biết đến thứ ngôn ngữ của lên án trách móc. Họ không hỏi những điều như: “Xin vui lòng cho tôi biết, tại sao bạn nói điều này? Tại sao điều kia? Vui lòng nói cho tôi…” Không. Họ không nói như thế, không hỏi như thế. Họ khép kín tâm hồn. Họ tỏ ra là biết mọi sự. Họ không cần một lời giải thích nào.

Sống chứng nhân cho đời vâng phục

Trước sự cứng lòng của dân chúng, Chúa Giêsu nhắc lại những gì mà cha ông họ đã đối xử với các ngôn sứ, đó là việc giết hại các ngôn sứ. Và khi một tâm hồn khép kín, thì Chúa Thánh Thần không thể ngự vào. Nơi những trái tim chai đá, không có chỗ cho Chúa Thánh Thần ở.

Thế nhưng, bài đọc trích sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay cho chúng ta thấy, thánh Têphanô được đầy Thánh Thần. Nhờ đó thánh nhân hiểu được mọi sự, và trở thành chứng nhân, sống vâng phục Đấng là Ngôi Lời trở thành người phàm. Điều tuyệt vời ấy chính Chúa Thánh Thần đã làm. Đó là sự thật đầy tràn viên mãn và đó là một trái tim sung mãn. Trái lại, những trái tim ngang bướng không để cho Chúa Thánh Thần ngự vào, thì lúc nào cũng cảm thấy thiếu vắng.

Sự hiền từ của Thiên Chúa có sức biến đổi lòng người

Hai môn đệ trên đường Emmau cũng như chúng ta ngày nay, với nhiều nghi ngờ, với nhiều tội lỗi, thường khi chúng ta muốn rời xa con đường Thập giá. Chúng ta cần được Chúa Giêsu đồng hành nâng đỡ, để Ngài có thể sưởi ấm tâm hồn chúng ta.

Hôm nay chúng ta hãy ngắm nhìn sự hiền từ của Chúa Giêsu, Đấng là chứng nhân cho đức vâng phục. Người là Chứng Nhân Vĩ Đại, là Đấng đã trao hiến mạng sống, để giúp chúng ta thấy sự hiền từ của Thiên Chúa trước những tội lỗi yếu đuối của chúng ta. Nguyện xin ân sủng của Chúa làm mềm dịu những trái tim cứng nhắc của những người bị đóng khung trong lề luật. Họ lên án tất cả những gì nằm ngoài lề luật. Bởi vì họ không biết đến Ngôi Lời đã trở nên người phàm, Đấng là chứng nhân cho đời vâng phục. Bởi lẽ họ chưa biết rằng, sự hiền từ của Thiên Chúa có thể biến đổi trái tim bằng đá, trở thành trái tim biết yêu thương.

Tứ Quyết SJ

Thiên Chúa không dừng lại. Ngài luôn bước ra để tìm kiếm chúng ta và Ngài yêu chúng ra bằng một tình yêu không biên giới

Thiên Chúa không dừng lại. Ngài luôn bước ra để tìm kiếm chúng ta và Ngài yêu chúng ra bằng một tình yêu không biên giới

ĐTC rao giảng trong thánh lễ ngày 16 tháng 10 2015

“Thiên Chúa luôn ban cho con người ân sủng dồi dào, nhưng con người lại có thói quen cân đong, tính toán trong mọi hoàn cảnh. Bởi vậy, để hiểu được sự đầy tràn, chan chứa trong tình yêu của Thiên Chúa luôn luôn cần đến hoa trái của ân sủng.” Đây là nội dung của bài giảng mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã triển khai trong thánh lễ, được cử hành tại nhà nguyện thánh Marta vào sáng hôm nay 20-10-2015.

Sự dồi dào, chan chứa

Đức Thánh Cha nói: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là như thế. Nhưng dường như con người lại không thể hiểu thấu tình yêu quảng đại này và thường chần chừ, do dự khi quyết định trao tặng một điều gì đó cho người khác trong khả năng của mình. Ân sủng của Thiên Chúa được ban tặng nhờ Đức Giêsu, Đấng đã vượt thắng sự sa ngã của Adam, là một minh chứng cho việc trao ban cách quảng đại. Ân sủng này chính là tình bằng hữu giữa con người với Thiên Chúa.

Như đã trao tặng tình bằng hữu, phải chăng Thiên Chúa cũng ban cho con người cả hồng ân cứu độ? Thiên Chúa sẽ ban khi con người biết làm việc thiện: ‘Người sẽ đong cho anh em đấu hảo hạng đã dằn, đã lắc và đầy tràn.’ Điều này cho thấy sự dồi dào của ân sủng, và chính từ “dồi dào’ cũng được lặp lại đến ba lần trong Bài Đọc Một. Đứng trước ân sủng chứa chan ấy, thánh Phao-lô đã thốt lên: ‘Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.’ Vâng, ân sủng chứa chan. Đây chính là tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu không thể đo lường được.”

Một vị Thiên Chúa luôn bước ra ngoài

Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha nói: “Sự vô tận hay không thể đo lường trong tình yêu của Thiên Chúa giống như tình yêu của người cha nhân hậu trong bài Tin Mừng dành cho đứa con của mình. Ngày ngày ông vẫn dõi mắt về phía chân trời xa mà trông chờ người con quay trở về. Trái tim của Thiên Chúa không bao giờ đóng lại nhưng luôn rộng mở. Và khi chúng ta quay trở về như người con thứ, Thiên Chúa sẽ chạy lại ôm chầm lấy chúng ta, hôn lấy hôn để và sai mở tiệc ăn mừng.

Thiên Chúa không hề nhỏ nhen, ích kỷ. Ngài không hề biết đến những suy tính nhỏ mọn. Nhưng Ngài trao ban tất cả. Thiên Chúa không bao giờ dừng lại. Ngài luôn mong ngóng, chờ đợi chúng ta hoán cải. Ngài là vị Thiên Chúa luôn bước ra ngoài, bước ra để tìm kiếm và để tìm kiếm mỗi người chúng ta, không sót một ai. Mỗi ngày, Ngài đang kiếm tìm chúng ta và sẽ tìm kiếm chúng ta luôn mãi. Đây cũng là ý nghĩa của dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị đánh mất: luôn luôn kiếm tìm.”

Cái ôm không biên giới

Đức Thánh Cha nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Chúng ta biết rằng, Đức Giêsu đã từng nói: ‘Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.’ Tuy nhiên, với tiêu chuẩn phàm nhân – nhỏ bé và giới hạn – thật khó để chúng ta có thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ với ân sủng, người ta mới có thể hiểu được điều này.” Để minh họa, Đức Thánh Cha kể một câu chuyện. Ngài nói: “Trước đây, có một nữ tu trong giáo phận của tôi. Vị nữ tu ấy đã 84 tuổi nhưng hằng ngày vẫn không ngừng đi lại giữa những lối đi của bệnh viện để chào thăm và trò truyện với các bệnh nhân bằng một nụ cười luôn tươi nở trên môi. Đó chính là nụ cười của tình yêu Thiên Chúa. Quả thật, vị nữ tu ấy đã được ban tặng ơn để hiểu mầu nhiệm tình yêu dồi dào, chan chứa của Thiên Chúa, điều mà phần lớn người không hiểu được.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: “Đúng là chúng ta có thói quen hay cân đong đo đếm trong mọi tình huống. Nhưng chính những thứ chúng ta hay đo đếm và ngay cả cách đo lường của chúng ra cũng thật nhỏ bé, giới hạn. Bởi thế, tốt hơn hết là chúng ta hãy nài xin ân sủng của Thần Khí và nguyện cầu cùng Chúa Thánh Linh giúp chúng ta hiểu hơn về tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời giúp chúng ta biết khao khát ơn được Thiên Chúa ‘ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để’ bằng một tình yêu không biên giới” (SD 20-10-2015).

Vũ Đức Anh Phương

Bụt nhà không thiêng

Bụt nhà không thiêng

Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:

– Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.

Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?

Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.

Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.

Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

“Tu đâu cho bằng tu nhà –

Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.

Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.

Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.

Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.

Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.

Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.

Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa…, vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48). Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9). Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Huyền thoại tình yêu “Họa mi và bông hồng đỏ” kể rằng.

Một sớm mùa hè, con họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ :”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi“. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Hoạ mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?

– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình

– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Hoạ mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò. (Wiliam Oscar Wilde).

Họa mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp : có chứ.

Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Yêu như Chúa yêu

Yêu như Chúa yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.

Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

Vua vĩnh cửu

Vua vĩnh cửu

Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.

Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.

Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.

Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.

Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.

Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:

– Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.

Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?

Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:

– Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.

Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:

– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…

Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.

Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

Sưu tầm