Bánh Hằng Sống

Bánh Hằng Sống

Nhà văn James Colaianni ghi lại một chuyện như sau:

Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.

Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.

Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.

Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.

Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.

Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi."

Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.

Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).

Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.

Thật là một điều bất hạnh khi phải hành trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.

Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh. Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.

Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?

Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng với cái vé cuộc đời.

Sưu tầm

Niềm tin thắp sáng hy vọng

Niềm tin thắp sáng hy vọng

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.

1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.". Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ". Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông "Đừng sợ, cứ tin". Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.

Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con". Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi".

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.

– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.

Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.

2. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.

Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.

Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể".

Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.

Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7)

Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi "có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43).

Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).

Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.

3. Niềm tin thắp sáng hy vọng

Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.

Mẹ Têrêxa nói với ông: Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có đức tin?.

Mẹ Têrêxa đáp: Ông hãy cầu nguyện.

Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện.

Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.

Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đức tin cứu sống

Đức tin cứu sống

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:

Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:

– Hắn vẫn còn sống ư?

Người y tế trả lời:

– Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.

Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:

– Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác

Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.

Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.

Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.

Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.

Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.

Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.

Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.

Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.

Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.

Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

Biến hình

Biến hình

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.

Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?

2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?

4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

 

Trò chơi hòa bình

Trò chơi hòa bình

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:

– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?

Đám trẻ nhốn nháo trả lời:

– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.

Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:

– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:

– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.

Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:

– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.

Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?

Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:

– Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.

– Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.

– Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.

Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).

Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).

Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.

Thập giá, biểu tượng của tình yêu

Thập giá, biểu tượng của tình yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:

“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.

Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.

Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.

Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.

Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá máu của Chúa Kitô.

Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.

Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.

Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.

Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.

Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.