Thánh ca Tiếng Việt cất lên giữa Tokyo

Vatican News Tiếng Việt: Nhật Bản vẫn được cho là một nước “đóng cửa” với dòng người di cư đang diễn ra trên thế giới. Sự “đóng cửa” này xuất phát từ nguyên nhân nào thưa cha?

Có nhiều nguyên nhân để nói về sự “đóng cửa” của nước Nhật đối với thế giới bên ngoài.

Trước hết đó là lý do địa lý. Nước Nhật bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, bị bao phủ xung quanh bởi biển. Vậy nên, nước Nhật vốn tự bản chất ít có tương tác với thế giới bên ngoài.

Kế đến là lý do chính trị. Do nhiều mâu thuẫn, hoài nghi nên nước Nhật đã duy trì chính sách “bế quan toả cảng” một thời gian dài cho đến thời Minh Trị. Có thể nói đây là 2 nguyên nhân dẫn đến việc nước Nhật dường như đi bên lề những chuyển biến của thế giới, đặc biệt vấn đề đón nhận người di cư.

Tuy nhiên thời gian gần đây có rất nhiều tổ chức xã hội ở Nhật đang kêu gọi chính phủ mở rộng cửa hơn để tiếp nhận những người di cư do chiến tranh, xung đột hay mâu thuẫn chính trị.

Vatican News: Theo nhiều bài viết thì có một cộng đồng Việt Nam khá đông đang sinh sống tại Nhật Bản. Vậy, sự hội nhập của tín hữu Công giáo Việt Nam vào Giáo hội địa phương như thế nào?

Theo thông kê gần đây nhất, người Việt ở Nhật đã lên tới con số 370.000, chỉ đứng sau Trung Quốc và Hàn Quốc. Người Việt ở Nhật bao gồm nhiều thành phần người di dân của những năm 80, gần đây là du học sinh, tu nghiệp sinh, kỹ sư.

Nhìn chung tiếng Nhật là rào cản lớn nhất trong việc hội nhập vào xã hội Nhật. Tiếng Nhật là một trong nhưng thứ tiếng khó học nhất trên thế giới.

Phong tục tập quán của Nhật cũng khá khác biệt so với những nước châu Á xung quanh nên việc hội nhập tương đối khó. Người Nhật yêu chuộng sự ngăn nắp, rõ ràng trong công việc và các tương quan.

Tuy nhiên, nói như thế không phải là không thể hội nhập vào xã hội Nhật. Những người đến Nhật từ những năm 80 đã hội nhập vào văn hoá Nhật rất tốt. Nhìn chung, người Nhật có thiện cảm nhiều đối với Việt Nam.

Những năm gần đây do số lượng người Việt đến Nhật quá đông và các công ty, trường học đưa người sang Nhật nhưng chưa trang bị cẩn thận kiến thức cơ bản dẫn đến những khó khăn trong việc hội nhập văn hoá và đời sống ở Nhật. Điều đặc biệt là người Nhật rất không thích sự ồn ào. Người Việt Nam thì khá thoải mái về vấn đề này nên đôi khi làm họ mất thiện cảm phần nào.

Gần đây, người Việt Nam đến Nhật với tư cách là sinh viên, thực tập sinh, kỹ sư… Điều này mang lại bộ mặt mới cho xã hội Nhật nhưng cũng là một thách đố. Làm sao để giúp các bạn trẻ này thật sự tìm được tương lai của mình ở Nhật là câu hỏi lớn dành cho xã hội cũng như Giáo hội Nhật. Nhiều nhóm xã hội, thiện nguyện của nhà nước, chùa và nhà thờ cũng hình thành để giúp các bạn trẻ Việt Nam ở Nhật hội nhập tốt hơn và thành công hơn.

Giáo Hội Nhật cũng dần mở ra hơn với di dân, đặc biệt người Việt Nam. Các thánh lễ Chúa Nhật nhiều nơi được cử hành với nhiều ngôn ngữ. Tiếng Việt cũng được đưa vào phụng vụ như bài đọc tiếng Việt trong thánh lễ, các lời cầu nguyện…

Vatican News: Trong chuyến viếng thăm tại Nhật, Đức Thánh Cha đề cập đến vấn đề “đón nhận người nhập cư” ra sao? Những lời chia sẻ của ĐTC có tác động như thế nào?

ĐTC luôn chủ trương đón nhận người di cư. Tuy nhiên, về phía xã hội Nhật mặc dù có những tiến bộ nhưng vẫn còn dè dặt. Đức Thánh Cha cũng đã đề cập đến vấn đề mở cửa đón nhận mọi người đặc biệt người nghèo, người di dân… Hy vọng thông điệp của Ngài sẽ giúp nước Nhật thay đổi nhiều hơn về mảng này.

Thánh ca Tiếng Việt được cất lên

Vatican News: Trong Thánh lễ do ĐTC chủ tế, cộng đoàn Công giáo Việt cũng đóng góp bài hát “Tán tụng Hồng ân”. Cha có thể chia sẻ sự tham gia của cộng đoàn người Việt trong chuyến viếng thăm lần này?

Ban tổ chức đề nghị tôi tìm 5 bạn trẻ Việt Nam để đại diện đi đón ĐTC tại toà Khâm sứ ngày 23/11, một người đọc lời nguyện và họ muốn mình hát một bài lúc hiệp lễ. Đề nghị này đến cũng khá bất ngờ.

Có một số lớn những người Việt đang sinh sống ở Nhật tham dự thánh lễ của ĐGH tại Nagasaki và Tokyo. Cũng có các phái đoàn từ Việt Nam sang với số lượng khiêm tốn hơn ở Thái Lan. Tuy nhiên, tất cả những ai hiện diện trong thánh lễ ở Tokyo Dome vừa qua đều xúc động khi nghe tiếng Việt vang lên trong thánh lễ. Đó là sự ưu ái của giáo hội Nhật dành cho người Việt.

Trong quá khứ, cộng đoàn Việt Nam ở Nhật chịu nhiều thiệt thòi hơn các cộng đoàn khác như Philippines, Tây Ba Nha, Brazil… Hiện nay Dòng Tên Nhật Bản có trung tâm dành cho người nói tiếng Tây Ban Nha, người Philippines, người Đức, người Trung Quốc nhưng chưa có trung tâm dành cho người Việt.

Tuy nhiên, những năm gần đây với sự tăng trưởng số người Việt đến Nhật Bản, Giáo hội Nhật bắt đầu quan tâm hơn đến chúng ta. Dòng Tên Nhật Bản cũng bắt đầu nghĩ đến chuyện đẩy mạnh hơn hoạt động dành cho di dân, đặc biệt cho người Việt Nam.

Chúng ta cám ơn Giáo hội Nhật vì những nỗ lực của họ trong việc cố gắng đồng hành về thiêng liêng với giáo dân Việt Nam tại Nhật. Đồng thời tôi thiết nghĩ người Công giáo Việt Nam tại Nhật đang được mời gọi để làm chứng cho Chúa ngang qua đời sống của mình trong môi trường vốn đang bị thế tục hoá của Nhật.

Chúng con xin chân thành cảm ơn cha!

Vatican News

Chúa đồng hành cùng con trên từng bước đường đời

Chúa đồng hành cùng con trên từng bước đường đời

Dân Chúa luôn đi trên từng bước đường để đào sâu đức tin. Mỗi người cũng đang trong từng bước hành trình để hoàn tất cuộc đời. Và xưng tội là một bước trong con đường gặp gỡ Chúa. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Có một thời, chế độ nô lệ và án tử hình là điều chấp nhận được, nhưng bây giờ chúng là trọng tội

Có từng bước để hiểu con người Chúa Giêsu. Có một tiến trình, để đào sâu đức tin, cũng như để hiểu được đạo đức luân lý và các Điều Răn. Có những thứ, một thời được coi là bình thường và không có gì là tội lỗi, nhưng hiện tại chúng là trọng tội.

Chúng ta thử nghĩ về chế độ nô lệ. Khi chúng ta đi học ở trường, chúng ta được nghe kể lại về những gì người ta đối xử với các nô lệ. Các nô lệ bị đưa từ nơi này qua nơi khác, bị bán từ người này sang người khác. Ở Châu Mỹ Latinh, họ trở thành như hàng hóa để trao đổi mua bán… Đây là tội trọng về luân lý. Bây giờ chúng ta nói như thế, chúng ta nói đây là tội vô cùng nặng nề. Nhưng vào thời đó, người ta nói là Không. Thời đó, những người cho rằng có thể đối xử như thế với các nô lệ, vì họ cho rằng các nô lệ không có linh hồn. Nhưng rồi, từng bước chúng ta đào sâu con đường đức tin, và chúng ta hiểu đạo đức luân lý cách tốt hơn. Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con tạ ơn Cha vì ngày nay không còn những nô lệ nữa! Hay là lại có nhiều hơn xưa nữa! Nhưng ít nhất chúng ta biết chắc rằng, ngày nay chế độ nô lệ là một tội luân lý. Cả án tử hình cũng thế. Ngày trước nó được coi là điều bình thường, nhưng ngày nay, càng ngày án tử hình càng trở thành một điều không thể chấp nhận được.

Dân Chúa luôn trên đường đào sâu đức tin và đạo đức luân lý

Cũng thế, ngay cả giữa những chiến tranh tôn giáo, thì đức tin và luân lý đạo đức vẫn ngày càng sáng tỏ hơn. Giữa những thời khắc khó khăn ấy, Giáo Hội vẫn có đầy những vị thánh, những vị thánh ẩn danh. Những vị thánh ẩn danh ấy, sự thánh thiện ấy tiếp tục dẫn dắt Giáo Hội đến thời mà Chúa sẽ tỏ cho chúng ta mọi sự. Và như thế, từng bước từng bước một, Thiên Chúa tỏ mình cho Dân của Ngài.

Dân Chúa luôn luôn trên từng bước đường. Luôn luôn như thế. Mỗi khi Dân Chúa dừng chân, thì họ trở nên như những tù nhân trong ngục, như con lừa trì trệ, họ sẽ chẳng hiểu, sẽ không tiếp bước, sẽ không đào sâu đức tin và tình yêu mến, sẽ không thanh tẩy tâm hồn. Còn chúng ta, mỗi chúng ta cũng đang trên đường hoàn tất thời gian, hoàn tất cuộc sống, và tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghĩ về các tông đồ, về những nhà truyền giáo. Các ngài trước tiên đã được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn, các ngài yêu mến Dân Chúa, các ngài luôn luôn trên bước hành trình. Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta vì chúng ta vẫn còn trên đường lữ hành, và Thần Khí thúc đẩy chúng ta tiến bước: đây là hoạt động vĩ đại của lòng thương xót Chúa. Mỗi người chúng ta đang trong hành trình hoàn thành thời gian của chính mình. Chính lời hứa của Thiên Chúa cũng đang tiếp diễn và Giáo Hội ngày nay tiếp tục tiến bước.   

Xưng tội chính là một bước trên hành trình gặp gỡ Chúa

Khi đi xưng tội, chúng ta có tự hỏi lòng mình, rằng tôi có xấu hổ vì tội lỗ của mình không. Tôi có hiểu được rằng, việc mình làm là một bước trong tiến trình hoàn tất thời gian không. Hãy cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Và hãy chú ý rằng, ơn tha thứ của Thiên Chúa không phải là điều gì đó tự động.

Chúng ta có hiểu được rằng, chúng ta vẫn đang trong hành trình, dân Chúa đang trong hành trình, và một ngày nào đó, có lẽ hôm nay, ngày mai hay ngày kia, tôi sẽ đối diện với chính mình trước mặt Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi tôi, Đấng luôn đồng hành với tôi trên từng bước đường đời. Khi bạn đi xưng tội, bạn có nghĩ những điều ấy không? Bạn có nghĩ bạn đang bước từng bước đường đời? Bạn có nghĩ đâu là bước đường dẫn bạn tới gặp gỡ Chúa, dẫn bạn tới chỗ hoàn tất thời gian? Đây là hành động lớn lao của lòng Chúa xót thương.

Tứ Quyết SJ

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô

ĐTC gặp gở các đại biểu

SANTA CRUZ. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn đại biểu thuộc các Phong trào dân chúng nhóm tại Santa Cruz, Bolivia, chiều ngày 9-7-2015, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ chống lại các hình thức thực dân mới và đưa ra nhiều đề nghị ”cách mạng” cải tiến nền kinh tế thế giới.

ĐTC đã đến khu vực Hội chợ triển làm Expo Feria ở thành phố Santa Cruz khoảng 5 giờ rưỡi chiều để gặp gỡ các tham dự viên Cuộc gặp gỡ thế giới kỳ 2 của các Phong trào nhân dân. Trung tâm này có diện tích 5 ngàn mét vuông và có hội trường Gaurayo có thể chứa được 3 ngàn người.

Tại đây trong những ngày từ 7 đến 9-7-2015 đã diễn ra cuộc gặp gỡ lần thứ 2 các Phong trào dân chúng, được tổ chức với sự cộng tác của Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Tham dự sinh hoạt này có các đại biểu của các phong trào dân chúng đến từ các nước trên thế giới như giới lao động bấp bênh, và giới kinh tế không chính thức, đại diện các tầng lớp nông dân không ruộng đất, những người dân tại các khu phố nghèo, các thổ dân, và di dân. Ngoài ra cũng có một đoàn đại diện những người dấu tranh thuộc các phong trào xã hội.

Trong số các tham dự viên từ phía Tòa Thánh có ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; Đức GM Marcelo Sanchez Sorondo, người Argentina, Chưởng Ấn Hàm lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của các phong trào dân chúng này đã được tổ chức tại Vatican hồi tháng 10 năm ngoái, và trong số các tham dự viên cũng có tổng thống Evo Morales của Bolivia.

Khi ĐTC đến nơi vào lúc quá 5 giờ rưỡi chiều, ngài đã được 6 tham dự viên, 3 nam 3 nữ, trao tặng Văn kiện chung kết của Hội nghị và cũng được trình bày tổng quát nội dung văn kiện. Cả tổng thống Evo Morales cũng lên tiếng trong dịp này và ông đã phát biểu 30 phút, trước khi ĐTC trình bày lập trường của ngài.

Diễn văn của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phong trào này hồi tháng 10 năm ngoái (2014) tại Vatican trong một bầu không khí huynh đệ, quyết định, dấn thân, khao khát công lý. Và bây giờ cuộc gặp gỡ thứ hai này nhắm tạo cơ hội để thảo luận về những cách thức tốt đẹp hơn để vượt thắng những tình trạng bất công trầm trọng đang làm cho bao nhiêu người bị gạt bỏ trên thế giới phải chịu đau khổ.

Thực trạng cần thay đổi

1. Trước tiên ĐTC nhận xét rằng chúng ta đang cần một sự thay đổi. Đây là những vấn đề chung cho mọi nước Mỹ châu la tinh và toàn thể nhân loại. Các vấn đề có tính chất hoàn cầu và không một nước nào một mình có thể giải quyết được:

– Chúng ta có biết nhìn nhận rằng tình trạng hiện nay không tốt trong một thế giới có bao nhiêu nông dân không có ruộng đất, bao nhiêu gia đình không có nhà ở, bao nhiêu công nhân viên không có quyền lợi, nhiều người bị thương tổn trong phẩm giá của họ hay không?

– Chúng ta có nhận ra rằng tình trạng hiện nay không tốt vì bao nhiêu cuộc chiến tranh điên rồ bùng nổ và bạo lực huynh đệ tương tàn gia tăng trong các khu phố của chúng ta hay không? Vì đất đai, nước, không khí và tất cả những sinh vật trong thiên nhiên đang liên tục bị đe dọa hay không?

Những thực tại tàn phá ấy tương ứng với một chế độ đang trở thành hoàn vũ, một chế độ áp đặt tiêu chuẩn lợi lộc bằng bất kỳ giá nào, không nghĩ đến sự gạt ra ngoài lề xã hội hoặc phá hủy thiên nhiên. Ngày nay sự lệ thuộc lẫn nhau trên trái đất đòi phải có những câu trả lời hoàn cầu cho các vấn đề địa phương. Sự hoàn cầu hóa niềm hy vọng, nảy sinh từ các dân tộc và gia tăng giữa người nghèo, phải thay thế sự hoàn cầu hóa tình trạng gạt ra ngoài lề và sự dửng dưng!

ĐTC nhận xét rằng ngay cả nơi những nhóm thiểu số đang thu hẹp, tưởng rằng mình được hưởng lợi nhờ chế độ ấy, nhưng thực tế họ cũng đang cảm thấy bất mãn và nhất là buồn sầu. Nhiều người đang chờ đợi một sự thay đổi giải thoát họ khỏi sự sầu muộn cá nhân chủ nghĩa ấy khiến họ trở thành nô lệ. Có lẽ nó đang gây thiệt hại không thể chữa lành cho hệ thống kinh tế. Sự ham hố vô độ đối với tiền bạc đang thống trị. Việc phục vụ công ích bị loại xuống hàng thứ yếu. Khi tư bản trở thành thần tượng và điều khiển những chọn lựa của con người, khi sự tham lam tiền bạc kiểm soát toàn bộ chế độ kinh tế đã hội, làm hư hỏng xã hội, phá hủy tình huynh đệ giữa con người với nhau, thúc đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác và đe dọa cả căn nhà chung của chúng ta.

Trước những tin tức đen tối hằng ngày, chúng ta tin rằng mình chẳng có thể làm được gì, nên chỉ cần chăm sóc mình và gia đình bé nhỏ của mình với tình thương yêu. Nhưng tương lai của nhân loại phần lớn ở trong khả năng tổ chức và thăng tiến những sáng kiến khác, trong nỗ lực hằng ngày tìm kiến 3 điều là: công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và trong sự tham gia tích cực vào những tiến trình thay đổi lớn trên bình diện quốc gia, miền và hoàn cầu.

Trách nhiệm của các Phong trào dân chúng

Sau khi trình bày thực trạng trên đây, ĐTC nói với các vị lãnh đạo các phong trào dân chúng rắng:

2. Anh chị em là những người phổ biến sự thay đổi, những tiến trình thay đổi. Phải quan niệm sự thay đổi không phải như một cái gì một ngày kia sẽ xảy tới, vì ta đề ra những chọn lựa này hay chọn lựa khác về phương diện chính trị hoặc vì ta thiết lập cơ cấu xã hội này hay cơ cấu kia. Một sự thay đổi cơ cấu mà không có sự hoán cải chân thành trong thái độ và trong tâm hồn thì sớm muộn gì cũng trở thành một thứ bệnh bàn giấy, hư hỏng và sụp đổ. Mỗi người chúng ta chỉ là thành phần của một toàn bộ phức tạp và khác nhau, tác động trên nhau trong thời gian. Chúng ta phải chú ý đến những con người cụ thể, với khuôn mặt và danh tánh. Chúng ta rùng mình trước bao nhiêu đau khổ và cảm động vì ”chúng ta đã thấy và đã nghe” không phải những con số thống kê lạnh lùng, nhưng là những vết thương của nhân loại đau khổ, những vết thương của chúng ta, thân thể chúng ta. Điều này rất khác với sự đề ra những lý thuyết trừu tượng hoặc thái độ phẫn nộ ”tao nhã”. Sự gắn bó với khu phố, đất đai, lãnh thổ, công ăn việc làm, công đoàn, nhận ra mình trong khuôn mặt người khác, sự gần gũi hằng ngày, với những lầm than cơ cực và những cử chỉ anh hùng thường nhật, và điều giúp thực thi sứ mạng không phải đi từ những ý tưởng hay ý niệm, nhưng từ cuộc gặp gỡ chân thành giữa con người với nhau, vì ta không yêu thương những ý niệm hay ý tưởng, nhưng ta yêu thương con người.

ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải làm việc trong viễn tượng không phe phái, và tìm cách giải quyết tận căn các vấn đề tổng quát là nạn nghèo đói, chênh lệch và loại trừ. Như thế các phong trào dân chúng trở thành một giải pháp khác với thứ hoàn cầu hóa loại trừ. Giáo Hội không thể và không được xa lạ với tiến trình ấy trong việc loan báo Tin Mừng. Sự cộng tác với các phong trào dân chúng, trong niềm tôn trọng nhau, có thể tăng cường những cố gắng và củng cố các tiến trình thay đổi.

Những đề nghị của ĐTC

Sau cùng, ĐTC đề cập đến một vài thách đố quan trong trong thời điểm lịch sử hiện nay. Ngài xác quyết rằng Giáo Hoàng cũng như Giáo Hội không có độc quyền giải thích thực tại xã hội hoặc đề nghị những giải pháp cho các vấn đề hiện nay. Đúng hơn, không có một công thức. Vì thế, ĐTC đề nghị 3 nghĩa vụ lớn”

1. Thứ I là đặt kinh tế phục vụ các dân tộc. Con người và thiên nhiên không phải phục vụ tiền bạc. Không chấp nhận một thứ kinh tế loại trừ và bất chính trong đó tiền bạc thống trị thay vì phục vụ. Nền kinh tế này giết hại, gạt bỏ, phá hủy Mẹ Trái đất. Nền kinh tế phải là một sự quản lý tốt căn nhà chung. Một nền kinh tế thực sự có tính chất cộng đồng, lấy hứng từ Kitô giáo, phải bảo đảm phẩm giá cho các dân tộc, ”một sự thịnh vượng không loại trừ thiện ích nào”. Công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và cả việc giáo dục, sức khỏe, đổi mới, những sáng tác nghệ thuật và văn hóa, truyền thông, thể thao và giải trí. Cần cơ cấu hóa toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối để những khả năng và đòi hỏi của mỗi người được diễn tả thích hợp trong chiều kích xã hội. Đó không phải là một ảo tưởng hay tưởng tượng.

Những tài nguyên trong thế giới, kết quả của lao công thuộc các thế hệ các dân tộc và là hồng ân trong công trình tạo dựng, dư đủ cho sự phát triển toàn diện mỗi người và tất cả mọi người. Trái lại hệ thống hiện hành theo đuổi những mục tiêu khác. Do sự gia tăng vô trách nhiệm các nhịp độ sản xuất, tăng cường trong kỹ nghệ và nông nghiệp những phương pháp gây hại cho Mẹ Trái Đất, nhân danh mức sản xuất, người ta tiếp tục phủ nhận không cho hằng tỷ anh chị em được hưởng các quyền cơ bản nhất về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chế độ này làm thương tổn dự phóng của Chúa Giêsu. Sự phân phối công bằng các hoa trái của trái đất và lao công của con người không phải chỉ là một sự thương người. Đó là một nghĩa vụ luân lý. Đối với các Kitô hữu, sự dấn thân như thế càng mạnh mẽ hơn, vì đó là một giới răn.

Nghĩa vụ thứ hai là liên kết các dân tộc chúng ta trên hành trình hòa bình và công lý. Các dân tộc trên thế giới muốn làm chủ vận mạng của mình. Họ muốn tiến bước trong an bình trên con đường tiến về công lý. Họ không muốn sự bảo hộ hoặc những sự xen mình, trong đó kẻ mạnh nhất bắt những kẻ yếu phải tùng phục. Họ yêu cầu rằng nền văn hóa, ngôn ngữ, các tiến trình xã hội và các truyền thống tôn giáo của họ được tôn trọng. Không quyền bính nào – trong thực tế hoặc được thiết lập – có quyền tước đoạt các nước nghèo khỏi quyền thực thi trọn vẹn chủ quyền của mình, và khi xảy ra như thế, họ thấy đó là những hình thức thực dân mới làm thương tổn nghiêm trọng khả năng hòa bình và công lý, vì ”hòa bình không những dựa trên sự tôn trọng các quyền con người, nhưng còn trên sự tôn trọng các quyền của các dân tộc, đặc biệt là quyền độc lập” (Toát yếu xã hội, 157).

Trong những năm gần đây, sau bao nhiêu hiểu lầm, nhiều nước Mỹ châu la tinh đã thấy sự gia tăng tình huynh đệ giữa các dân tộc, để làm cho chủ quyền của mình được tôn trọng, chủ quyền của mỗi nước, và chủ quyền của vùng này nói chung. Nhưng ta phải rất để ý, vì chế độ thực dân mới có những khuôn mặt mới. Đó là quyền lực vô danh của thần tiền bạc: các liên minh, một số hiệp ước được gọi là tự do mậu dịch và sự áp đặt các phương thế tiết kiệm ngày càng làm cho các công nhân và người nghèo phải thắt lưng buộc bung. Cũng vậy, sự tập trung độc quyền các phương tiện truyền thông tìm cách áp đặt những kiểu mẫu tiêu thụ và một thứ đồng nhất về văn hóa, là một sắc thái khác của chế độ thực dân mới. Đó là chế độ thực dân ý thức hệ. Như các GM Phi châu đã nói, nhiều khi chúng chủ trương biến các nước nghèo thành những mảnh của một cơ cấu, một phần của một guồng máy khổng lồ.

Không có vấn đề trầm trọng nào của nhân loại có thể được giải quyết nếu không có sự đối tác giữa các quốc gia và dân tộc trên bình diện quốc tế. Nhưng sự đối tác không có nghĩa là áp đặt, không được ép nước này phải phục vụ và tùng phục quyền lợi của nước khác. Chế độ thực dân, cũ và mới, biến các nước nghèo thành những người cung cấp nguyên liệu và công nhân rẻ tiền, nó gây ra bạo lực, nghèo đói, cưỡng bách di dân, vì nó chối bỏ quyền được phát triển toàn diện. Đó là một sự bất chính và bất chính thì sinh ra bạo lực mà không có ngành cảnh sát, quân đối hoặc mật vụ nào có thể ngăn chặn được.

Chúng ta hãy chống lại những hình thức thực dân cũ và mới. Chúng ta hãy ủng hộ chấp nhận cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc và các nền văn hóa.

Sau cùng, ĐTC nhìn nhận có những sự ác do các tín hữu Kitô gây ra trong dòng lịch sử. Ngài nói: ”Tôi muốn nói thật là rõ ràng, như thánh Gioan Phaolô 2, tôi khiêm tốn xin lỗi, không những vì những xúc phạm của Giáo Hội, nhưng vì những tội ác chống lại các dân tộc bản xứ trong thời kỳ gọi là chinh phục Mỹ châu. Tôi cũng xin tất cả mọi người, tín hữu hay không tín hữu, nhớ đến nhiều GM, LM và giáo dân đã và đang còn loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu với lòng can đảm và hiền từ, tôn trọng và trong an bình; khi rời bỏ cõi đời này, họ đã để lại những công trình thật cảm động, thăng tiến nhân bản và yêu thương, nhiều khi ở cạnh các dân tộc bản xứ hoăc tháp tùng các phong trào bình dân cho đến độ tử đạo. Giáo Hội, các con cái nam nữ của mình là thành phần của căn tính các dân tộc Mỹ châu la tinh. Căn tính mà tại đây cũng như tại các nước khác, một số quyền lực quyết liệt muốn xóa bỏ, đôi khi vì đức tin của chúng ta có tính chất cách mạng, vì đức tin chúng ta thách thức bạo quyền của thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta kinh hoàng nhận thấy như tại Trung Đông và các nơi khác trên thế giới ngưới ta bách hại, tra tấn, ám sát các anh chị em chúng ta vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng phải tố giác điều đó: trong cuộc thế chiến thứ 3 từng mảnh này mà chúng ta đang sống, có một thứ diệt chủng đang xảy ra và phải chặn đứng lại.

Nghĩa vụ thứ ba, có là lẽ quan trọng nhất mà chúng ta phải đảm nhận hôm nay, đó là bảo vệ Mẹ Trái Đất của chúng ta.

Chúng ta cảm thấy thất vọng gia tăng vì các hội nghị thượng đỉnh quốc tế nối tiếp nhau mà không có tiến bộ quan trọng nào. Có một mệnh lệnh khẩn thiết về luân lý đạo đức rõ rệt, không thể trì hoãn được phải hành động mà chưa được đáp ứng. Ta không thể để cho một số lợi lộc – nó có tính chất toàn cầu nhưng không hoàn vũ – áp đặt trên các nước, bắt các nước và các tổ chức quốc tế phải tùng phục và tiếp tục thiên nhiên. Các dân tộc và các phong trào được kêu gọi lên tiếng, động viên và đòi hỏi một cách ôn hòa nhưng kiên trì, yêu cầu chấp nhận những biện pháp thích hợp.

ĐTC kết thúc dài 55 phút. Sau cùng ngài nói: ”Xin anh chị em nhớ rằng niềm hy vọng không đánh lừa và xin nhớ cầu nguyện cho tôi. Nếu ai không thể cầu nguyện, thì xin hãy nghĩ đến tôi một cách tích cực!”. Trước đó ngài cũng nói rằng: ”Với thông điệp của ngài, tương lai không ở trong những kẻ cường quyền, nhưng trong tay các dân tộc”.

Sau cuộc gặp gỡ với hàng ngàn đại diện của các phong trào dân chúng, ĐTC đã về tòa TGM Santa Cruz để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP- Radio Vatican

 

Đức tin cứu sống

Đức tin cứu sống

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:

Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:

– Hắn vẫn còn sống ư?

Người y tế trả lời:

– Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.

Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:

– Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác

Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.

Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.

Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.

Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.

Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.

Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.

Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.

Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.

Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.

Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

Tóm lược Thông Điệp ”Laudato sí” của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tóm lược Thông Điệp ”Laudato sí” của Đức Thánh Cha Phanxicô

Laudato si

Laudato sí: một ”bản đồ”

 Bản văn này nhắm giúp đọc Thông điệp lần đầu tiên, giúp lãnh hội diễn tiến tổng quát và nhận ra những hướng đi căn bản của Thông điệp. Phần ”Một cái nhìn tổng quát” trình bày tổng quan Thông Điệp, sau đó trình bày nội dung mỗi chương, nêu rõ mục tiêu và trích dẫn vài đoạn nòng cốt. Các con số ở trong ngoặc đơn là số đoạn của Thông Điệp. Phần chót là Mục Lục tổng quát của Thông Điệp

 Một cái nhìn tổng quát

 ”Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?”. Câu hỏi này chính là trọng tâm thông điệp ”Laudato sí”, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà người ta chờ đợi về việc săn sóc căn nhà chung. Ngài viết tiếp: ”Câu hỏi này không phải chỉ liên quan riêng đến môi trường mà thôi, vì ta không thể đặt câu hỏi một phần”, và điều này khiến ta tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống và những giá trị làm căn bản cho đời sống xã hội: ”Chúng ta đến trần thế này để làm gì? Chúng ta hoạt động và tranh đấu với mục đích nào? Tại sao trái đất lại cần chúng ta?”. Đức Giáo Hoàng viết: ”nếu chúng ta không đặt những câu hỏi căn bản ấy, thì tôi không tin rằng những quan tâm của chúng ta về môi trường có thể có những hiệu quả quan trọng”.

 Thông điệp lấy tên từ lời cầu của thánh Phanxicô. 'Laudato sí, mí Signore” (Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa), trong bài ca của các thụ tạo có nhắc nhớ rằng trái đất là căn nhà chung của chúng ta, ”cũng như người chị chúng ta, chúng ta chia sẻ cuộc sống với chị ấy, và như người mẹ tươi đẹp đón nhận chúng ta trong vòng tay của mẹ” (1). Chính ”chúng ta là đất” (Xc St 2,7). Chính thân thể chúng ta được cấu thành nhờ những yếu tố của trái đất, không khí là yếu tố mang lại cho chúng ta hơi thở và nước của trái đất làm cho chúng ta được sống và được bổ dưỡng” (2).

 Giờ đây, trái đất, bị ngược đãi và cướp phá đang kêu than và những tiếng than trách của trái đất đang hiệp với những tiếng rên xiết của tất cả những người bị bỏ rơi trên thế giới này. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi hãy lắng nghe họ, ngài kêu gọi tất cả và từng người – cá nhân, gia đình, tập thể địa phương, quốc gia và cộng đồng quốc tế – hãy ”hoán cải về môi sinh”, theo kiểu nói của thánh Gioan Phaolô 2, nghĩa là ”đổi hướng”, đón nhận vẻ đẹp và trách nhiệm dấn thân để 'săn sóc căn nhà chung'. Đồng thời Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhìn nhân rằng: ”Người ta nhận thấy có sự nhạy cảm ngày càng gia tăng đối với môi trường và việc săn sóc thiên nhiên, và thành thực lo lắng vì những gì đang xảy ra cho hành tinh của chúng ta” (19), hợp thức hóa cái nhìn hy vọng mà toàn thể Thông Điệp làm nổi bật và gửi đến tất cả mọi người một sứ điệp rõ ràng và đầy hy vọng: ”Nhân loại còn có khả năng cộng tác để xây dựng một căn nhà chung” (13); ”con người còn khả năng can thiệp tích cực” (58); ”không phải tất cả đã bị mất mát, vì con người, tuy có khả năng thoái hóa tột độ, nhưng vẫn còn có thể tự vượt thắng, tái chọn lựa điều thiện và tái tạo” (205).

 Dĩ nhiên ĐGH Phanxicô ngỏ lời với các tín hữu Công Giáo, ngài nhắc lại lời thánh Gioan Phaolô 2: ”Đặc biệt các tín hữu Kitô nhận thấy rằng nghĩa vụ của họ giữa lòng thiên nhiên, các nghĩa vụ của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa là thành phần đức tin của họ” (64), nhưng họ ”đặc biệt muốn đối thoại với tất cả mọi người về căn nhà chung của chúng ta” (3): đối thoại được nói đến trong toàn Thông điệp, và trong chương V nó trở thành một phương thế để đối phó và giải quyết các vấn đề. Ngay từ đầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở rằng cả ”các Giáo Hội và các Cộng đoàn Kitô khác – cũng như các tôn giáo khác – đã phát triển sự quan tâm sâu xa và một suy tư quí giá” về đề tài môi sinh học (7). Đúng hơn, họ đóng góp đặc biệt, bắt đầu tự sự đóng góp của ”Đức Thượng Phụ chung quí mến Bartolomeo” (7), được trích dẫn nhiều trong các đoạn số 8-9. Rồi nhiều lần, Đức Giáo Hoàng cám ơn những người giữ vai chính trong công cuộc này – các cá nhân cũng như các hiệp hội và tổ chức – ngài nhìn nhận rằng ”suy tư của vô số nhà khoa học, triết gia, thần học gia và các tổ chức xã hội đã phong phú hóa tư tưởng của Giáo Hội về những vấn đề ấy” (7) và Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy nhìn nhận ”sự phong phú mà các tôn giáo có thể đóng góp cho một nền môi sinh học toàn diện và cho sự phát triển trọn vẹn con người” (62).

 Lộ trình của Thông Điệp được trình bày trong số 15 và được khai triển trong 6 chương. Văn kiện đi từ một sự lắng nghe tình trạng, dựa trên những thủ đắc khoa học tốt nhất ngày nay (ch. 1), đối chiếu với Kinh Thánh và truyền thống Do thái – Kitô (ch. 2), nêu rõ căn cội của các vấn đề (ch. 3) trong thời đại kỹ thuật làm chủ và trong thái độ co cụm thái quá tự tham chiếu của con người. Chủ trương của Thông điệp (ch 4) là một 'nền môi sinh học toàn diện, bao gồm rõ rệt các chiều kích nhân bản và xã hội” (137), gắn chặt với vấn đề môi trường. Trong viễn tượng ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề nghị (ch. 5) khởi sự một cuộc đối thoại chân thành trên mọi bình diện của đời sống xã hội, kinh tế và chính trị, cuộc đối thoại này cơ cấu hóa các tiến trình quyết định minh bạch và ngài nhắc nhở (ch.6) rằng không dự phóng nào có thể hữu hiệu nếu không được linh hoạt nhờ một lương tâm được huấn luyện và có tinh thần trách nhiệm, Đức Giáo Hoàng đề nghị những điểm để tăng trưởng trong chiều hướng này trên bình diện giáo dục, tu đức, Giáo Hội, chính trị và thần học. Thông điệp kết thúc với 2 kinh nguyện: một được trình bày để chia sẻ với tất cả những người tin nơi ”Một Thiên Chúa Sáng Tạo và là Cha” (246) và một được đề ra cho những người tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, theo nhịp điệp khúc ”Laudato sí” khởi đầu và kết thúc Thông Điệp.

 Thông Điệp được một số chủ đề hướng dẫn, được cứu xét dưới những viễn tượng khác nhau, mang lại cho nó một sự nhất thống vững mạnh: ”Quan hệ thâm sâu giữa những người nghèo và sự mong manh của trái đất; xác tín rằng mọi sự trên trái đất có liên hệ mật thiết với nhau; sự phê bình mô hình mới và những hình thức quyền lực xuất phát từ kỹ thuật; lời mời gọi tìm kiếm những cách thức khác để hiểu kinh tế và tiến bộ; giá trị riêng của mỗi thụ tạo; ý nghĩa nhân bản của môi sinh học; sự cần thiết phải có những cuộc thảo luận chân thành và ngay thẳng; trách nhiệm hệ trọng của chính trị quốc tế và địa phương; nền văn hóa gạt bỏ và đề nghị một lối sống mới” (16)

 Chương I. Những gì đang xảy ra cho nhà chúng ta

 Chương này tóm lược những thủ đắc khoa học mới nhất về môi trường như một cách thức để lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên, ”biến những gì xảy ra cho thế giới thành đau khổ đang xảy ra cho bản thân mình, và như thế nhìn nhận đâu là sự đóng góp mà mỗi người có thể mang lại” (19). Chương này đề cập đến ”các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay” (15).

 – Những thay đổi khí hậu: ”Những thay đổi khí hậu là một vấn đề hoàn cầu với những hệ lụy trầm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị, và chúng là một trong những thách đố chính hiện nay đối với nhân loại” (25). Nếu ”khí hậu là một thiện ích chung của tất cả và cho tất cả mọi người” (23), thì ảnh hưởng nặng nề nhất của sự thay đổi khí hậu đè nặng trên những người nghèo nhất, nhưng ”nhiều người có nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị hơn, dường như chỉ chú tâm tới việc che đậy vấn đề hoặc dấu nhẹm những triệu chứng của sự thay đổi khí hậu” (26): ”sự thiếu phản ứng đứng trước những thảm trạng ấy của anh chị em chúng ta là một dấu hiệu cho thấy có sự mất ý thức trách nhiệm đối với những người đồng loại của chúng ta, trách nhiệm này vốn là nền tảng của mọi xã hội dân sự' (25).

 – Vấn đề nước uống: Đức Giáo Hoàng khẳng định rõ ràng rằng ”có được nước uống an toàn là một nhân quyền thiết yếu, cơ bản và của tất cả mọi người, vì nó ảnh hưởng tới sự sống còn của con người và vì thế, đây là điều kiện để thực thi các nhân quyền khác”. Tước bỏ quyền của người nghèo được nước uống có nghĩa là ”phủ nhận quyền sống vốn bắt nguồn từ chính phẩm giá bất khả nhượng của họ” (30).

 – Bảo vệ sự đa dạng sinh vật (biodiversità): ”Mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn” (33). Không những chúng là những ”tài nguyên” có thể khai thác được, nhưng còn có giá trị tự mình. Trong viễn tượng đó ”thật là đáng ca ngợi và ngưỡng mộ những cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật tìm cách giải quyết các vấn đề do con người gây ra”, nhưng sự can thiệp của con người, khi nó nhắm phục vụ cho tài chánh và sự thiêu thụ, thì ”làm cho trái đất nơi chúng ta sinh sống bớt phung phú và tươi đẹp hơn, ngày càng giới hạn và u ám hơn” (34)

 – Món nợ môi sinh; trong khuôn khổ một nền luân lý đạo đức về các quan hệ quốc tế, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng cho thấy có ”một thứ nợ về môi sinh” (51), nhất là nợ của các nước giầu đối với những nước nghèo trên thế giới. Đứng trước những thay đổi khí hậu, có ”những trách nhiệm khác nhau” (52), và trách nhiệm của các nước phát triển thì lớn hơn.

 Ý thức về những khác biệt sâu xa về các vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tỏ ra rất ngạc nhiên vì ”chỉ có những phản ứng yếu ớt” trước những thảm trạng của bao nhiêu con người và dân tộc. Mặc dù không thiếu những ví dụ tích cực (58), nhưng Thông Điệp tố giác ”một thái độ thiếu nhạy cảm và một thứ vô trách nhiệm thiếu suy xét” (59). Thiếu một nền văn hóa thích hợp (53) và sự sẵn sàng thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ (59), trong khi đó cần cấp thiết ”kiến tạo một hệ thống qui phạm (..) đảm bảo hệ thống môi sinh” (53).

 Chương II – Tin Mừng về sự sáng tạo

 Để đương đầu với những vấn đề được trình bày trong chương thứ I, Đức Giáo Hoàng Phanxico đọc lại các trình thuật Kinh Thánh, và trình bày một cái nhìn toàn diện đến từ truyền thống Do thái – Kitô và nêu rõ ”trách nhiệm lớn lao” (90) của con người đối với thiên nhiên, mối liên hệ thâm sâu giữa tất cả các loài thụ tạo và sự kiện ”môi sinh là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và là trách nhiệm của mọi người” (95).

 Trong Kinh thánh, ”Thiên Chúa giải thoát và cứu vớt cũng là Đấng đã tạo dựng vũ trụ.. […] nơi Ngài, lòng quí mến và sức mạnh liên kết với nhau” (73). Ở vị thế trung tâm là trình thuật về sự sáng tạo để suy tư về tương quan giữa con người và các loài thụ tạo khác, và cho thấy tội lỗi phá vỡ sự quân bình của toàn thể thiên nhiên nói chung: ”Các trình thuật này gợi ý về <B>”Cuộc sống con người dựa trên 3 tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất”<D>. Theo Kinh Thánh, 3 tương quan sinh tử này bị cắt đứt, không những bên ngoài, nhưng cả bên trong chúng ta nữa. Sự tan vỡ ấy chính là tội lỗi” (66)

 Vì thế, cho dù ”đôi khi các tín hữu Kitô đã giải thích Kinh Thánh không đúng, nhưng ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ phủ nhận rằng từ sự kiện được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và từ mệnh lệnh thống trị trái đất, người ta có thể biện minh cho một sự thống trị tuyệt đối trên các loài thụ tạo” (67). Loài người có trách nhiệm ”vun trồng và gìn giữ” vườn thế giới (Xc St 2,15), vì biết rằng ”<B>mục đích chung kết của các loài thụ tạo khác không phải là chúng ta. Trái lại tất cả tiến bước, cùng với chúng ta và qua chúng ta, hướng về một mục tiêu chung, là Thiên Chúa” (83).

 Sự kiện con người không phải là chủ tể của vũ trụ, ”không có nghĩa là mọi sinh vật đều giống như nhau và tước bỏ giá trị đặc thù của chúng”; và ”cũng không bao hàm sự thần thánh hóa trái đất, làm cho chúng ta không còn ơn gọi cộng tác và bảo vệ sự mong manh của trái đất” (90), nhưng <B>”một tâm tình kết hiệp thâm sâu với các hữu thể khác trong thiên nhiên, không thể là một tâm tình chân chính, nếu đồng thời trong tâm hồn không có sự dịu dàng, cảm thông và quan tâm đến con người” (91). Cần ý thức về một sự hiệp thông đại đồng: ”Được cùng một Cha dựng nên, tất cả hữu thể của vũ trụ chúng ta được liên kết với nhau bằng những mối dây vô hình và chúng ta họp thành một thứ gia đình đại đồng, […] thúc đẩy chúng ta có thái độ tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn” (89).

 Chương này kết thúc điều nòng cốt của mạc khải Kitô giáo: ”Chúa Giêsu trần thế”, với ”tương quan rất cụ thể và thương yêu của Ngài với thế giới”, đã ”sống lại vinh hiển, hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền chủ tể đại đồng của ngài” (100)

 Chương III: căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra

 Chương này trình bày một phân tích tình hình hiện nay, ”để có thể nhận thấy, không những các triệu chứng, nhưng cả những nguyên do sâu xa” (15), trong một cuộc đối thoại với triết học và các khoa học nhân văn.

 Điểm nòng cốt trước tiên của chương III là những suy tư về kỹ thuật: với lòng biết ơn, nhìn nhận những đóng góp của kỹ thuật để cải tiến các điều kiện sống (102-103), tuy nhiên kỹ thuật ”mang lại một sự thống trị lớn lao trên toàn thể nhân loại và thế giới cho những người nắm giữ kiến thức kỹ thuật và nhất là quyền lực kinh tế để khai thác nó” (104). Chính chủ trương thống trị bằng kỹ thuật đưa tới sự phá hủy thiên nhiên và khai thác bóc lột con người và các dân tộc yếu thế hơn. ”Mô hình kỹ thuật trị có xu hướng thi hành sự thống trên cả kinh tế và chính trị” (109), ngăn cản không cho nhìn nhận rằng ”nguyên thị trường […] không đảm bảo sự phát triển toàn diện con ngừơi và không làm cho mọi người được hội nhập xã hội” (109).

 Nơi căn cội người ta nhận thấy trong thời đại tân tiến ngày nay một chủ trương quy hướng vào con người thái quá (116): con người không còn nhìn nhận vị thế đúng đắn của mình so với thế giới và tự tham chiếu, chỉ qui hướng mọi sự về mình và quyền lực của mình. Từ đó nảy sinh chủ trương ”sử dụng rồi vứt bỏ” biện minh cho mọi thứ gạt bỏ, dù là môi trường hay con người, đối xử với tha nhân và thiên nhiên như những đồ vật và dẫn tới vô số những hình thức thống trị. Đó là thứ chủ trương dẫn tới sự khai thác trẻ em, bỏ rơi người già, biến những người khác thành nô lệ, đánh giá quá cao khả năng của thị trường tự điều khiển, thực hành việc buôn người, buôn bán da thú vật đang trên đường bị triệt tiêu và ”những kim cương đẫm máu”. Đó cũng chính là chủ trương của nhiều tổ chức bất lương mafia, buôn bán cơ phận con người, những kẻ buôn bán ma túy và gạt bỏ các thai nhi vì chúng không đáp ứng các dự phóng của cha mẹ (123).

 Dưới ánh sáng ấy, Thông Điệp cứu xét hai vấn đề nghiêm trọng đối với thế giới ngày nay. Trước tiên là lao công: ”Trong bất kỳ sự áp dụng nền môi sinh học toàn diện nào, không loại trừ con người, điều tối cần thiết là phải nhìn nhận giá trị lao công' (124), và nhìn nhận rằng ”từ khước không đầu tư vào con người, để được lợi nhuận ngay tức khắc, đó thực là một lối kinh doanh tệ hại nhất cho xã hội” (128).

 Vấn đề thứ hai liên quan đến những giới hạn của tiến bộ khoa học, cụ thể là những thực phẩm biến thái hệ di truyền, gọi tắt là OGM (132-136), đây là ”một vấn đề phức tạp” (135). Mặc dù ”tại một số vùng, việc sử dụng loại thực phẩm này đã làm tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết một số vấn đề, nhưng người ta gặp những khó khăn lớn không thể coi thường” (134), bắt đầu từ sự ”tập trung đất đai canh tác vào tay một thiểu số người” (134). Đức Giáo Hoàng Phanxicô đặc biệt nghĩ đến các nhà sản xuất nhỏ và các công nhân ở miền quê, sự đa sạng sinh học, các hệ thống môi sinh (ecosistemi). Vì thế cần ”có một cuộc thảo luận khoa học và xã hội theo tinh thần trách nhiệm và có tính chất rộng rãi, có thể cứu xét tất cả thông tin hiện có và gọi đích danh sự vật” từ ”những đường hướng nghiên cứu độc lập và liên ngành” (135)

Chương IV: Môi sinh học toàn diện

 Trọng tâm đề nghị của Thông Điệp là một nền môi sinh học toàn diện như một mô hình công lý: một nền môi sinh học ”hội nhập chỗ đứng đặc biệt của con người trong thế giới này và tương quan của con người với thực tại xung quanh” (15). Thực vậy, chúng ta không thể coi thiên nhiên như cái gì tách biệt khỏi chúng ta hay như một cái khung cho đời sống chúng ta” (139). Điều này có giá trị vì chúng ta sống trong các lãnh vực khác nhau: trong kinh tế và chính trị, trong các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt trong những nền văn hóa bị đe dọa nhất, và thậm chí trong mọi lúc đời sống thường nhật của chúng ta.

 Viễn tượng toàn diện cũng đòi một nền môi sinh học về các cơ chế: ”Nếu mọi sự đếu có liên hệ với nhau, thì tình trạng sức khỏe của các cơ chế trong một xã hội cũng có những ảnh hưởng đối với môi trường và tới chất lượng đời sống con người: ”Những gì làm thương tổn tình liên đới và tình thân hữu của dân chúng cũng đều gây hại cho môi trường” (142).

 Với nhiều thí dụ cụ thể, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lập lại tư tưởng của ngài, đó là có một liên hệ giữa các vấn đề môi sinh và các vấn đề xã hội và con người mà không bao giờ người ta có thể phá vỡ. Vì thế, ”sự phân tích các vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi sự phân tích các bối cảnh nhân bản, gia đình, lao động, thành thị, và tách khỏi tương quan của mỗi người với chính mình' (141), xét vì ”không có hai cuộc khủng hoảng riêng rẽ, một cuộc khủng hoảng môi trường và một cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng chỉ có một cuộc khủng hoảng duy nhất và phức tạp về xã hội và môi trường” (139).

 Nền môi sinh học toàn diện này ”không thể tách rời khỏi ý niệm công ích” (156), nhưng phải hiểu một cách cụ thể: trong bối cảnh ngày nay, trong đó ”có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản”, sự dấn thân cho công ích có nghĩa là thực hiện những chọn lựa liên đới trên căn bản ”sự chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất” (158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nhấn mạnh: ”ngoài sự liên đới chân thành giữa các thế hệ, còn cần tái khẳng định nhu cầu cấp thiết về luân lý cần có sự liên đới được canh tân giữa các thế hệ” (162).

 Nền môi sinh học toàn diện cũng ảnh hưởng tới đời sống thường nhật, điều mà Thông Điệp đặc biệt chú ý trong môi trường thành thị. Con người có khả năng lớn trong việc thích ứng và ”thật là điều đáng ngưỡng mộ óc sáng tạo và lòng quảng đại của các cá nhân và các nhóm có khả năng gỡ bỏ các giới hạn của môi trường […], học cách định hướng cuộc sống của họ giữa sự xáo trộn và bấp bênh” (148). Dầu vậy, một sự phát triển chân chính đòi phải cải tiến toàn diện về chất lượng cuộc sống con người: không gian công cộng, nhà ở, phương tiện di chuyển, v.v. (150-154).

 Cả thân xác chúng ta cũng đặt chúng ta trong tương quan trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Sự đón nhận thân thể mình như hồng ân của Thiên Chúa là điều cần thiết để đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như món quà của Chúa Cha và như căn nhà chung; trái lại một chủ trương thống trị trên thân xác mình đang biến thành một thứ thống trị nhiều khi rất tinh vi” (155).

 Chương V: Một vài đường hướng và hoạt động

 Chương này đề cập đến câu hỏi: chúng ta có thể và phải làm gì? Nếu chỉ phân tích mà thôi thì không thể đủ: còn cần phải có những đề nghị ”đối thoại và hành động đòi có sự can dự của mỗi người chúng ta, cũng như của nền chính trị quốc tế nữa” (15) và ”giúp chúng ta ra khỏi cái vòng lẩn quẩn tự hủy diệt mà chúng ta đang phải đương đầu” (163). Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một điều không thể loại bỏ, đó là làm sao để việc xây dựng những hành trình cụ thể không được cứu xét như một ý thức hệ, hời hợt hoặc thu hẹp. Vì thế một điều không thể thiếu, đó là đối thoại, một từ luôn đặc nhắc đến trong mỗi phần của chương IV này: ”Có những cuộc thảo luận, về những vấn đề liên quan đến môi trường, trong đó thật là khó đạt tới một sự đồng thuận. [….], Giáo Hội không chủ trương giải quyết các vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi thảo luận chân thành và minh bạch, để những nhu cầu đặc thù hoặc các ý thức hệ không làm thương tổn công ích” (188).

 Trên căn bản đó, Đức Giáo Hoàng Phanxico không sợ đưa ra một phán đoán nghiêm khắc về những hoạt động quốc tế gần đây: ”Các hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường trong những năm gần đây không đáp ứng các mong đợi, vì thiếu quyết định chính trị, chúng không đạt tới các hiệp định môi trường hoàn cầu thực sự có ý nghĩa và hữu hiệu” (166). Và ngài tự hỏi: ”tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một quyền bính sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cấp thiết và cần phải hành động?” (57). Trái lại – như các vị Giáo Hoàng đã nhiều lần lập lại kể từ Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”, cần có những hình thức và dụng cụ hữu hiệu để quản trị thế giới” (175): ”Chúng ta cần một hiệp định về các chế độ quản trị cho toàn thể những gì gọi là công ích của thế giới” (174), xét vì ”sự bảo vệ môi trường không thể được bảo đảm dựa trên tính toán tài chánh về phí tổn và lợi lộc mà thôi. Môi trường là một trong những thiện ích mà các cơ cấu thị trường không có khả năng bảo vệ hoặc thăng tiến một cách thích hợp” (190, trích dẫn Sách Toát yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh).

 Cũng trong chương này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh việc phát triển những tiến trình quyết định lương thiện và minh bạch, để có thể ”phân định” đâu là những chính sách và sáng kiến xí nghiệp có thể đưa tới một ”sự phát triển toàn diện” (185). Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh hưởng của một dự án mới về mặt môi sinh “đòi có những tiến trình chính trị minh bạch và có sự đối thoại, trong khi nạn tham ô che đậy ảnh hưởng thực sự về môi sinh của một dự án để đổi lấy những ân huệ, nó thường đưa tới những hợp đồng mơ hồ, trốn tránh nghĩa vụ thông tin và một cuộc thảo luận sâu rộng” (182).

 Đặc biệt quan trọng là lời kêu gọi gửi đến những người nắm giữ các trách vụ chính trị, để họ ”tránh tiêu chuẩn hành động duy hiệu năng và nhất thời” (181) đang thịnh hành ngày nay; ”Nếu họ có can đảm làm, thì họ sẽ có thể tái nhìn nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ như một người và họ sẽ để lại một chứng tá về trách nhiệm quảng đại, sau khi họ đi vào lịch sử” (181)

 Chương VI: Giáo dục và linh đạo môi sinh

 Chương cuối cùng đi thẳng vào trọng tâm sự hoán cải môi sinh mà Thông Điệp mời gọi. Những căn cội cuộc khủng hoảng văn hóa tác động sâu xa và không dễ điều chỉnh lại những tập quán và cách cư xử. Giáo dục và huấn luyện vẫn là những thách đố chủ yếu: ”Mọi thay đổi cần có những động lực và một hành trình giáo dục” (15); cần có sự can dự của tất cả các lãnh vực giáo dục, trước tiên là ”trường học, gia đình, các phương tiện truyền thông, việc huấn giáo” (213).

 Điểm đầu tiên là ”nhắm đến một lối sống mới” (203-208), có thể tạo ra cơ hội ”gây một sức ép lành mạnh trên những người nắm giữ quyền bính chính trị, kinh tế và xã hội” (206). Và điều này xảy ra khi những chọn lựa của những ngừơi tiêu thụ ”thay đổi được cách hành xử của các xí nghiệp, bó buộc họ cứu xét ảnh hưởng về môi sinh và những kiểu mẫu sản xuất” (206).

 Ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành trình giáo dục về môi sinh có khả năng ảnh hưởng tới những cử chỉ và thói quen thường nhật, từ sự giảm bớt tiêu thụ nước, cho đến việc thu lượm rác theo các loại khác nhau, 'tắt những đèn điện vô ích' (211): Một môi sinh học toàn diện được thực hiện kể cả bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ lý lẽ bạo lực, khai thác bóc lột, ích kỷ” (230). Tất cả điều ấy sẽ đơn giản hơn nhờ cái nhìn chiêm niệm đến từ đức tin: ”Đối với tín hữu, thế giới không được chiêm ngắm từ bên ngoài nhưng từ bên trong, nhìn nhận những lối liên hệ qua đó Chúa Cha liên kết chúng ta với mọi sinh vật. Ngoài ra khi làm tăng trưởng khả năng đặc thù mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu, sự hoán cải môi sinh dẫn đưa họ đến chỗ phát huy khả năng sáng tạo và sự hăng hái' (220).  Trở lại đường hướng được đề nghị trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”: ”Sự điều độ, được sống một cách tự do và ý thức, có tác động giải thoát” (223), cũng vậy ”hạnh phúc đòi phải biết giới hạn một số nhu cầu làm cho chúng ta choáng váng, và nhờ đó tỏ ra sẵn sàng đối với nhiều cơ may do cuộc sống mang lại” (223); theo cách thức đó, chúng ta có thể tái cảm thấy chúng ta cần lẫn nhau, chúng ta có một trách nhiệm đối với nhau và đối với thế giới, và sống tốt lành lương thiện là điều thật bõ công” (229)

 Các thánh tháp tùng chúng ta trong hành trình này. Thánh Phanxicô nhiều lần được trưng dẫn, là ”mẫu gương tuyệt hảo về sự chăm sóc những gì là yếu đuổi và một nền môi sinh toàn diện, được sống trong vui mừng” (10), mẫu gương về sự ”không thể tách biệt nhau giữa mối quan tâm đối với thiên nhiên, công bằng đối với người nghèo, dấn thân trong xã hộiu và hòa bình nội tâm (10). Nhưng Thông điệp cũng nhắc đến thánh Biển Đức, thánh Têrêsa thành Lisieux, chân phước Charles de Foucauld.

 Sau thông điệp Laudato sí này, việc xét mình, – phương thế mà Giáo Hội luôn cổ võ để định hướng cuộc sống của mình dưới ánh sáng tương quan với Chúa, – phải bao gồm một chiều kích mới: không những cứu xét xem ta đã sống tình hiệp thông với Thiên Chúa, với tha nhân và với bản thân như thế nào, nhưng còn với toàn thể các loài thụ tạo và thiên nhiên nữa.

 MỤC LỤC THÔNG ĐIỆP

 Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa [1-2]

 Chúng ta không dửng dưng đối với điều gì của thế giới này [3-6]

 Được liên kết do cùng một mối quan tâm [7-9)

 Thánh Phanxicô Assisi [10-12]

 Lời kêu gọi của tôi [13-16]

 CHƯƠNG I

 Điều đang xảy ra cho căn nhà của chúng ta [17-61)

  I. Sự ô nhiễm và thay đổi khí hậu [20-26)

 Ô nhiễm, rác rưởi và văn hóa gạt bỏ [20-22)

 Khí hậu như công ích [23-26]

 II. Vấn đề nước uống [27-31]

 III. Đánh mất sự đa dạng sinh vật [32-42]

 IV. Suy giảm phẩm chất đời sống con người và suy thoái xã hội [43-47)

 V. Bất công hoàn cầu [53-59)

 VI. Phản ứng yếu ớt [53-59]

 VII. Các ý kiến khác nhau [60-61]

 CHƯƠNG II

 Tin Mừng về sự sáng tạo [62-100]

 I. Ánh sáng do đức tin mang lại [63-64]

 II. Sự khôn ngoan của các trình thuật Kinh Thánh [65-75]

 III. Mầu nhiệm vũ trụ [76-83)

 IV. Sứ điệp của mỗi thụ tạo trong sự hòa hợp của toàn thể công trình tạo dựng [84-88]

 V. Một sự hiệp thông đại đồng [89-92]

 VI. Của cải để mưu ích cho mọi người [93-95]

 VII. Cái nhìn của Chúa Giêsu [96-100]

 CHƯƠNG III

 Căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra [101-136]

 I. Kỹ thuật: óc sáng tạo và quyền bính [102-105]

 II. Hoàn cầu hóa mô hình kỹ thuật trị [106-114]

 III. Khủng hoảng và hậu quả của thuyết duy nhân loại học tân thời [115-136]

 Chủ thuyết duy tương đối thực hành [122-123]

 Cần thiết bảo vệ lao công [124-139]

 Canh tân sinh học từ nghiên cứu [130-136]

 CHƯƠNG IV

 Một nền môi sinh học toàn diện [137-162]

 I. Môi sinh học môi trường, kinh tế, xã hội [138-142]

 II. Môi sinh học văn hóa [143-146]

 III. Môi sinh học về đời sống thường nhật [147-155]

 IV. Nguyên tắc công ích [156-158]

 V. Công lý giữa các thế hệ [159-162]

 CHƯƠNG V

 Vài đường nét định hướng và hành động [163-201]

 I. Đối thoại về môi trường trong chính trị quốc tế [164-175]

 II. Đối thoại hướng về những chính sách quốc gia và địa phương [176-181]

 III. Đối thoại và minh bạch trong các tiến trình quyết định [182-188]  IV. Chính trị và kinh tế trong đối thoại để đạt tới sự viên mãn của con người [189-198]

 V. Các tôn giáo trong cuộc đối thoại với khoa học [199-201]

 CHƯƠNG V

 Giáo dục và linh đạo môi sinh học [202-215]

 I. Nhắm đến một lối sống mới [203-208]

II. Giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường [209-215]

 III. Hoán cải môi sinh học [216-232]

 IV. Vui mừng và hòa bình [222-227]

 V. Tình yêu dân sự và chính trị [228-232]

 VI. Các dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ [233-237]

 VII. Chúa Ba Ngôi và tương quan giữa các thụ tạo [238-240]

 VIII. Nữ Vương toàn thể thụ tạo [241-242]

 IX. Đi xa hơn mặt trời [243-246]

 Kinh nguyện cho trái đất của chúng ta

 Kinh nguyện Kitô giáo với thụ tạo

 

 G. Trần Đức Anh OP, dịch từ bản tóm lược chính thức của Hội Đồng Tòa Thánh ”Công lý và Hòa bình”.

 

Dấu chân

Dấu chân

Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: "Dấu Chân", giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.

1. Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi. Này là dấu chân to, và kìa là dấu chân nhỏ. Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.

ĐK. Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ. Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa. Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi. Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.

2. Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn. Lạ lùng dấu chân to, và nặng nề vết in đậm. Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?

Ca khúc được dệt nhạc từ truyện "Footprints".

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.

– Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: "Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con…Nhưng khi con thất bại, đau khổ…những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?".

Chúa Giêsu trả lời: "Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con".

Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.

Câu chuyện "Trên đường Emmau" là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.

1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh

Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh "Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh". Người đã giải thích cho các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm" (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của "Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một". Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.

Thánh Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.

Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: "Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh" (MK21).

Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để "khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng" (MK 26).

2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.

Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.

Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư "Mane Nobiscum Domine", số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).

Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.

Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.

3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh

Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo "bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ". Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Hạt lúa mục nát

Hạt lúa mục nát

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.

Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.

2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?

3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?

4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tôi tớ

Tôi tớ

Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?

Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.

Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:

Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.

Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.

Sưu tầm