Vác đỡ Thánh Giá Chúa

Vác đỡ Thánh Giá Chúa

Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.

Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.

Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.

Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.

Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.

Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.

Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.

Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.

Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.

Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa chiều bẻ lái” cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?

Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.

Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ? Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được”? Ấy vậy, những chuyện “quả tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô sao?

Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.

Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.

Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai…

Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được không?

Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.

Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Giữ trong sạch nhà Cha

Giữ trong sạch nhà Cha

“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”

Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.

Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).

Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.

Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.

Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.

Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!

Noel Quesson

Lớp Sáu – Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

Bài Học 16 – Kho Báu và Ngọc Quý

americangoldentopaz

Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.

Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?

Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.

KhoTangTrongBinhDeVo

Haiti năm năm sau trận động đất

Haiti năm năm sau trận động đất

Phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava
(RG 12-1-2015)

**Cách đây năm năm chiều ngày 12 tháng giêng năm 2010 một trận động đất lớn mạnh tới 7 độ Richter đã xảy ra tại Haiti khiến cho 230 ngàn người chết và 3 triệu người bị tổn thương. Phần lớn các cơ cấu hạ tầng cơ sở bao gồm tất cả các nhà thương và hàng chục ngàn gia cư bị phá hủy. Trong các dinh thự bị sập có cả dinh tổng thống và nhà thờ chính tòa thủ đô Port-au-Prince. Sau trận động đất lại xảy ra một trận dịch tả khiến cho hàng ngàn người khác chết. Kể từ đó đến nay nhân dân Haiti chưa phục hồi được cuộc sống của mình.

Ngày mùng 10 tháng giêng vừa qua một hội nghị đã được tổ chức tại dinh thự thánh Piô X tại Vaticăng. Hội nghị do Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm và Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu cùng tổ chức với sự cộng tác của HĐGM Haiti. Hội nghị có chủ đề là “Tình hiệp thông của Giáo Hội: tưởng niệm và hy vọng cho Haiti năm năm sau trận động đất”. Tham dự hội nghị có các vị đại diện của Tòa Thánh, của Giáo Hội tại Haiti và một của một số HĐGM khác, cũng như của các tổ chức từ thiện công giáo, dòng tu và một số đại diện ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Sau lời chào của ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục kiêm Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu Latinh, ĐHY Robert Sarah, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum, đã trình bầy công cuộc trợ giúp tái thiết Haiti. Nhiều diễn giả khác đã lên tiếng. Lúc 11 giở các tham dự viên đã được ĐTC tiếp kiến. Vào ban chiều đã có phần trình bầy các chứng từ của những người đang hoạt động giúp tái thiết Haiti.

Cộng hòa Haiti nằm trong vùng biển Caraibi, rộng 27.750 cây số vuông có hơn 10,5 triệu dân. Đảo này
Đã được ông Cristoforo Colombo khám phá ra năm 1492. Khi đổ bộ lên bờ biển phiá tây Haiti, ông Colombo tưởng là mình đã tìm thấy Ấn Độ hay Á châu. Xưa kia Haiti có thổ dân Taino sinh sống. Nhưng sau đó Haiti trở thành thuộc địa của các nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Năm 1804 Haiti được độc lập và là quốc gia châu Mỹ Latinh đầu tiên được độc lập. Haiti cũng là quốc gia Mỹ Latinh đầu tiên đánh bại ba lực lượng thực dân âu châu là Anh Pháp, và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Haiti là nước Mỹ Latinh nghèo nhất và có một lịch sử đầy biến động vói các cuộc đảo chánh liên miên tạo ra cảnh bất ổn chính trị, ngăn cản sự phát triển kinh tế và an sinh.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị bài phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava,
là tổ chức đã tài trợ việc xây cất nhà thương nhi đồng Saint Damien. Nhà thương này đã trở thành điểm tham chiếu cho toàn Haiti.

Hỏi: Thưa bà Rava, tình hình của các trẻ em tại Haiti hiện nay ra sao?

Đáp: Hiện nay các trẻ em chết vì đói khát, và đây là một điều gây vấp phạm, một gương mù gương xấu. Vùng đất này đã là hòn ngọc của quần đảo Caraibi. Thật lả một điều gây vấp phạm, khi bây giờ nó đã trở thành một quốc gia không có một cơ cấu nào. Một cách đặc biệt trong dịp Giáng Sinh 2014 – như đã xảy ra cách đây vài năm – tôi được đặc ân và cơ may mừng lễ tại đây cùng với gia đình tôi và các anh chị em ân nhân và thiện nguyện viên khác. Chúng tôi có một trại cho các thiện nguyện viên là nơi hiện có 15 người đến từ Italia, sống trong hai tuần và tận hiến kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh cho công tác trợ giúp các trẻ em. Đây là một trong những kỳ nghỉ đẹp nhất, tuyệt đẹp. trong nghĩa năng lực của sự thiện thấm nhập vào trong các mạch máu của bạn, và trao ban cho bạn một nghị lực cho suốt một năm.

Hỏi: Tổ chức Rava hiện đang làm gì tại Haiti thưa bà?

Đáp: Trong các ngày này chúng tôi đã sống với các trẻ em trong viện mồ côi Foyer, gần nhà thương nhi đồng thánh Damien. Chúng tôi đã tổ chức một chương trình thi tài năng trẻ cho các em, theo kiểu của chương trình X Factor, chúng tôi đã tổ chức một chương trình văn nghệ và đã bỏ phiếu chọn các tiết mục hay nhất… Và chúng ta hãy nghĩ là các trẻ em này là những người đã mất gia đình sau trận động đất. Chúng tôi đã làm việc trong nhà thương thánh Damien, trong khu vực dành cho các trẻ em tàn tật nặng nhất, phải lưu lại nhà thương trong thời gian rất lâu vì các em cần rất nhiều săn sóc. Chúng tôi cũng đã làm việc trong khu vực dành cho các trẻ em thiếu dĩnh dưỡng. Thế rồi còn có vài người, trong đó có con trai tôi làm việc với cha Rick tại Francsiville trong trại nuôi cá mới, và chúng tôi đã đem quà Giáng Sinh cho các trẻ em sống tại các bãi đổ rác. Chắc chắn là trong đời các em đã chưa bao giờ nhận được qùa Giáng Sinh. Chúng tôi đã thành lập một trại nuôi gà và chúng tôi cũng đi đưa đám các trẻ em bị chết, vì mỗi ngày đều có trẻ em qua đời, vì bệnh tật và vì kiệt sức. Tại Haiti này người ta làm mọi sự. Tôi coi sự kiện được tới Haiti và trợ giúp người dân tại đây là một ơn.

Hỏi: Thưa bà, có nhiều trẻ em mồ côi vì trận động đất, có đúng thế không?

Đáp: Có nhiều trẻ em mồ côi lắm. Điều khiến cho tôi xúc động nhất đó là chẳng hạn như nhà thương thánh Damien trong lúc này gặp rất nhiều khó khăn, vì số bệnh nhân đã tăng lên gấp bốn lần các trợ giúp, và chúng tôi đã lên tới con số 99.000 trẻ em mỗi năm, bởi vì không có các nhà thương nhi đồng miễn phí khác trên toàn đảo có thể trợ giúp các em. Chúng tôi đã tới trại tiếp cư gần Tabarre – nơi có nhà thương của chúng tôi – là trại vẫn còn có hàng chục ngàn người phải sống tại đây. Và chúng tôi vẫn tiếp tục trợ giúp. Nhưng trông thấy trại khi nó mới được thành lập thì khác. Ngày nay năm năm sau khi xảy ra trận động đất, nhìn lại trại đã khiến cho chúng tôi rúng động, bởi vì trại tiếp cư đã được bình định. Có nhiều người đã ổn định việc sống luôn trong trại này, trong khi các lều bạt đã mòn cũ, và không có các điều kiện vệ sinh. Trông thấy người dân phải sống trong cảnh khổ sở như thế khiên cho tôi buồn lắm, bởi vì họ là những người đã hy vọng rất nhiều vào sự trợ giúp tái thiết cuộc sống, mà vẫn chưa có thể rời trại tạm cư.

Hỏi: Năm năm sau khi trận động đất thê thảm xảy ra, có còn sự hiện diện tích cực trong vùng không, và tình hình trợ giúp nhân đạo ra sao thưa bà Riva?

Đáp: Trên quan điểm của chúng tôi như là tổ chức Francesca Riva, tôi có thể nói rằng các trợ giúp đã được gia tăng nhiều, cũng giống như việc nhân bánh và cá lên nhiều. Tôi cũng không biết chúng xảy ra như thế nào. Chúng tôi đã làm rất nhiều việc, nhưng chúng tôi là một tổ chức bác ái bé nhỏ. Chúng tôi đã không bao giờ rời bỏ đảo này. Đã có rất nhiều tổ chức nhân đạo rời Haiti ngay lập tức sau thời gian cứu trợ khẩn cấp. Đó là một cấp thiết thời đó – cần phải nói như vây – nhưng tôi kêu gọi tiếp tục trợ giúp nhân dân Haiti. Có nhiều trẻ em tiếp tục tìm đến nhà mồ côi của chúng tôi cũng như các viện mồ côi khác. Tại Saint Damien có các danh sách dài các em chờ đợi để được nhận. Có khu vực dành cho những người bị bệnh dịch tả cần được chuyền nước biển, khu vực này đầy bệnh nhân, bởi vì tại Haiti có rất nhiều trẻ em bị mất nước cần được chữa trị. Chúng tôi đang tái thiết nhà cửa cho những người đã mất gia cư. Thật là rất đẹp, khi trong thấy các việc đã làm được. Nhưng còn rất nhiều việc phải làm. Với niềm vui khi xăn tay áo lên bắt tay vào việc thì có thể trông thấy sự khác biệt: chúng tôi ở đây là vì việc này. Tuy nhiên, nó cũng là một lời mời gọi tất cả mọi người đến xem và ra tay dấn thân góp phần tái thiết cuộc sống cho người dân Haiti đau khổ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình, trợ giúp vợ, và gần gũi với con cái

Người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình, trợ giúp vợ, và gần gũi với con cái

Điều cần thiết đầu tiên là à người cha phải luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư 4-2-2015 trong đại thánh đường Phaolo VI.

Ngài đã tiếp tục trình bầy phần hai gương mặt của người cha trong gia đình. Lần trước ngài đã nói tới các người cha vắng mặt, lần này ĐTC nhìn khía cạnh tích cực. Cả thánh Giuse cũng đã bị cám dỗ bỏ Đức Maria, khi khám phá ra là Mẹ đã mang thai, Nhưng thiên thần Chúa can thiệp và vén mở cho thánh nhân biết chương trình của Thiên Chúa và sứ mệnh là cha nuôi. Và thánh Giuse, người công chính, “đã đón vợ về nhà mình” (Mt 1,24) và trở thành cha của gia đình Nagiarét. ĐTC nói:

Mỗi gia đình cần có người cha. Hôm nay chúng ta dừng lại trên giá trị vai trò của người cha, và tôi muốn khởi hành từ vài kiểu diễn tả trong sách Châm Ngôn, các lời mà một người cha nói với con mình: “Hỡi con, tâm trí con khôn ngoan, thì lòng dạ cha cũng vui sướng. Môi miệng con nói những lời chân thật, thì tâm hồn cha sẽ mừng rỡ hân hoan” (Cn 23,15-16). Không thể diễn tả tốt hơn sự hãnh diện và cảm động của một người cha thừa nhận đã thông truyền cho con trai điều thực sự quan trọng trong cuộc sống, hay một trái tim can đảm. Người cha này không nói: “Cha hãnh diện vì con, bởi con hoàn toàn giống cha, bởi vì con lập lại những điều cha nói và cha làm”. Không, ông không chỉ nói với con một điều gì thôi. Ông còn nói với con một cái gì quan trọng hơn nhiều, mà chúng ta có thể giải thích như sau: “Cha sẽ hạnh phúc, mỗi lần thấy con hành động khôn ngoan, và cha sẽ cảm động, mỗi khi nghe con nói với sự thẳng thắn. Đó là điều cha đã muốn để lại cho con , để nó trở thành của con: đó là thái độ cảm nhận và hành động, ăn nói và phán xử khôn ngoan và ngay thẳng. Và để cho con được như vậy cha đã dạy con những điều con không biết, Cha đã sửa chữa các lầm lỗi mà con không thấy. Cha đã làm cho con cảm nhận được lòng trìu mến sâu thẳm và kín đáo, mà có lẽ con đã không hoàn toàn thừa nhận khi con còn trẻ và không chắc chắn. Cha đã cho con một chứng tá của sự nghiêm ngặt và cứng rắn mà có lẽ con đã không hiểu, khi con đã chỉ muốn sự đồng loã và che chở. Chính cha đã là người đầu tiên phải thử thách sự khôn ngoan của mình và canh chừng trên các thái qủa của tình cảm và oán hờn, để mang gánh nặng của các hiểu lầm không thể tránh được và tìm ra các lời nói đúng đắn để làm cho mình được hiểu. Giờ đây cha cảm động, khi Cha thấy con tìm sống như vậy với các con của con và với tất cả mọi người. Cha hạnh phúc và thỏa mãn”. Đó là điều mà một người cha khôn ngoan và trưởng thành nói với con mình.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Một người cha biết rõ việc thông truyền gia tài này cho con mắc mỏ chừng nào: biết bao nhiêu sự gần gũi, biết bao nhiêu dịu hiền và biết bao nhiêu cứng rắn! Tuy nhiên ông nhận được biết bao an ủi và phần thưởng, khi các con vinh danh gia tài đó. Thật là một niềm vui chuộc lại mọi mệt nhọc, cao vượt hơn mọi hiểu lầm và chữa lành mọi vết thương. Tiếp đến ĐTC nhấn mạnh sự hiện diện của người cha trong gia đình như sau:

Như thế, sự cần thiết đầu tiên là điều này: đó là người cha hãy luôn luôn hiện diện trong gia đình. Ước chi ông gần gũi vợ để chia sẻ mọi sự vui buồn, mệt nhọc và hy vọng. Ước chi ông gần con cái trong sự lớn lên của chúng: khi chúng chơi đùa và khi chúng dấn thân, khi chúng vô tư và khi chúng lo lắng, khi chúng tự diễn tả và khi chúng nín lặng, khi chúng dám liều lĩnh và khi chúng sợ hãi, khi chúng đi sai một bước và khi chúng tìm lại đường đi. Người cha hiện diện, luôn luôn hiện diện.
Nói hiện diện không giống như nói kiểm soát. Bởi vì các người cha kiểm soát quá thì huỷ diệt con cái, không để cho chúng lớn lên.

Phúc Âm nói với chúng ta mẫu gương của Người Cha ở trên Trời, Chúa Giêsu nói là Cha duy nhất, có thể gọi được là “Người Cha nhân hậu” (x. Mc 10,18). Tất cả đều biết dụ ngôn ngoại thường gọi là dụ ngôn “người con hoang đàng” hay đúng hơn “người cha thương xót” trong chương 15 Phúc Âm thánh Luca (x. 15,12-32). Biết bao nhiêu phẩm giá và hiền dịu trong việc chờ đợi của người cha đứng ở cửa nhà để chờ đứa con trở về! Các người cha phải kiên nhẫn. Biết bao lần có việc khác phải làm đang chờ; cầu nguyện, và chờ đợi với lòng kiên nhẫn, sự dịu hiền, độ lượng và thương xót.

**ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Một người cha tốt biết chờ đợi và tha thứ, từ tận cùng thẳm con tim. Chắc chắn rồi, ông cũng biết sửa dậy con với sự cứng rắn: ông không phải là người mềm yếu, hay đầu hàng và tình cảm, Người cha biết sửa dậy không làm mất phẩm giá cũng là người cha biết che chở không tiết kiệm sức lực của mình.

Có một lần trong một cuộc họp hôn nhân tôi đã nghe một người cha nói: “Đôi khi con cũng phải đánh các con con một chút, nhưng không bao giờ đánh trên mặt để không làm mất phẩm giá của chúng. Thật đẹp biết bao. Ông ta có ý thức về phẩm giá. Ông phải phạt con, nhưng làm một cách đúng đắn và tiếp tục tiến bước.

Như vậy, nếu có người nào đó có thể giải thích tường tận kinh “Lạy Cha chúng con”, Chúa Giêsu đã dậy, thì đó chính là người đã sống chức làm cha. Nếu không có ơn thánh đến từ Cha trên trời, thì các người cha sẽ mất can đảm và bỏ cuộc. Nhưng con cái cần tìm thấy một người cha chờ đợi chúng, khi chúng trở về từ các thất bại của chúng. Chúng sẽ làm tất cả để không thừa nhận Cha và để đừng thấy ông, nhưng chúng cần ông, và sự kiện không tìm thấy cha mở ra trong chúng các vết thương khó mà chữa lành.

Giáo Hội là mẹ chúng ta dấn thân nâng đỡ với tất cả sức lực của mình sự hiện diện nhân hậu quảng đại của các người cha trong các gia đình, bởi vì đối với các thế hệ mới họ là những người giữ gìn và trung gian không thể thay thế được của niềm tin nơi lòng tốt, công lý và sự chở che của Thiên Chúa, như thánh Giuse vậy.

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương hiện diện đặc biệt DHY André Vingt-Trois TGM Paris, ba GM Phụ tá và các đại chủng sinh Paris đang dọn mình chịu chức Linh Mục. Ngài phó thác các gia đình cho sư bầu cử của Thánh Giuse, nhất là các người cha gia đình để họ là những người gìn giữ và là trung gian cho các thế hệ trẻ trong lòng tốt, sự công bằng và dưới sự chở che của Thiên Chúa.

Ngài cũng chào các tín hữu Mỹ, Phần Lan Anh quốc và Sri Lanka. Chào các tín hữu nói tiếng Đức ĐTC tái khẳng định vai trò không thể thay thế được của các người cha trong gia đình, và xin mọi người đồng hành với họ trong lời cầu nguyện để họ luôn gìn giữ các thế hệ tương lai.

Ngài cũng chào các tín hữu Tây Ban Nha, Argentina, và Mexico và khích lệ họ cầu nguyện để trong gia đình không bao giờ vắng bóng một người cha tốt.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc nhở rằng ngày mùng 2-2 vừa qua là Ngày Đời Thánh Hiến, Ngài tín thác cho lời cầu nguyện của họ cuộc sống của tất cả những người sống đời thánh hiến, được Chúa Kitô hướng dẫn trung thành phục vụ Thiên Chúa và tha nhân qua lời cầu nguyện, qua việc ăn chay hãm mình để kéo đổ ơn hoán cải, hòa bình và thịnh vượng xuống trên thế giới.

Ngài cũng đặc biệt chào các GM tham dự đại hội do cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Trung tâm quốc tế linh hoạt truyền giáo. ĐTC cầu chúc đại hội giúp làm sống dậy niềm tin nơi Chúa và hăng say làm chứng cho công tác rao truyền Tin Mừng trong các vùng ngoại biên.

ĐTC chúc mọi đoàn hành hương canh tân sự gắn bó với Tin Mừng, liên đới với các anh chị em khác, và tái khám phá ra niềm hy vọng Kitô.

Nhắc đến lễ kính thánh nữ Agatha tử đạo Giáo Hội mừng ngày 5-2, ĐTC cầu mong thánh nữ giúp người trẻ hiểu giá trị cuộc sống tận hiến cho Thiên Chúa. Ngài xin gương đức tin không lay chuyển của thánh nữ giúp các anh chị em đau yếu tín thác các khổ đau cho Chúa; và sự mạnh mẽ của thánh nữ chỉ cho các đôi tân hôn các giá trị đích thật của cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay

Có hàng triệu trẻ em vô tội tử đạo ngày nay

Phỏng vấn Linh Mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng

** Chúa Nhật 28 tháng 12 vừa qua là lễ Các Thánh Anh Hài, tưởng niệm biến cố các trẻ em Bếtlêhem đã bị vua Hêrốt tàn sát xưa kia, vì nhà vua tin rằng trong số các trẻ em từ hai tuổi trở xuống cũng có Hài Nhi Giêsu, Vua Cứu Thế, là Đấng khiến cho nhà vua lo sợ cho địa vị của mình. Tuy nhiên trong ngày này Giáo Hội cũng tưởng niệm tất cả các trẻ em tử đạo vô tội thuộc mọi thời đại. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Cả ngày nay nữa sự thinh lặng bất lực của các em kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu Hêrốt”. Đức Thánh Cha đã nhắc tới biết bao nhiêu trẻ em bị giết trước khi chào đời, bị tàn sát dưới các trận mưa bom, phải di tản, bị lạm dụng, khai thác bóc lột, bị đối xử tàn tệ, và không có cha mẹ trong sự ích kỷ của một nền văn hóa không yêu thương sự sống.

Qủa thật, đã không có thời đại nào trong lịch sử nhân loại trong đó trẻ em lại bị đối xử tàn nhẫn như trong thời đại tân tiến của ngàn năm thứ ba. Theo tổ chức UNICEF nạn bạo hành trẻ em xảy ra tại khắp nơi, trong mọi quốc gia và xã hội trên thế giới này. Chính các trẻ em cho biết cả các hành động bạo lực nhỏ và lạm dụng lập đi lập lại trong cuộc sống thường ngày cũng khiến cho các em đau khổ, gây chấn thương cho sự tự trọng, sự an bình thanh thản và lòng tin tưởng của các em nơi người khác. Đa số các bạo hành chống lại trẻ em là do chính cha mẹ, các hôn phu và hôn thê, các người chồng vợ hay người chung sống, các bạn học cùng lớp cùng trường, các thầy giáo cô giáo và các người cho việc.

Đa số các vụ bạo hành trẻ em bị dấu nhẹm: các trẻ em nạn nhân cũng như những người chứng kiến cảnh bạo lực thinh lặng vì sợ hãi bị trừng phạt hay vì sợ dư luận xã hội lên án. Rất nhiều người, trong đó có các trẻ em, chấp nhận bạo lực như một khía cạnh không thể tránh dược của cuộc sống. Thường khi các trẻ em bị bạo hành im lặng, vì các em không có phương cách chắc chắn hay đáng tin cậy để tố cáo hay kêu cứu.

** Trên bình diện quốc tế không có các dữ kiện thường xuyên được thống kê, do đó các con số chỉ có tính cách phỏng đoán. Dựa trên các nghiên cứu và các dữ kiện dân số năm 2000 tổ chức Sức Khỏe Thế Giới ước tính có khoảng 73 triệu trẻ nam và 150 triệu trẻ nữ là nạn nhân của các giao hợp tính dục cưỡng bách, và các hình thức bạo lực khác bao gồm các đụng chạm tới thân xác.

Tại 16 nước phát triển trên thế giới được phân tích do một nghiên cứu toàn cầu về sức khỏe, do tổ chức Sức Khỏe Thế Giới và Trung tâm Hoa kỳ kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật đảm trách, có từ 20 tới 65% trẻ em là nạn nhân của các hành động hay lời nói ức hiếp xúc phạm của người khác.

Hằng năm có khoảng 275 triệu trẻ em chứng kiến các cảnh bạo lực trong gia đình. Các cảnh bạo lực này ảnh hưởng tiêu cực trên sự phát triển của các em trong thời gian gần và trong thời gian xa.

Trong số 218 triệu trẻ em lao động trong năm 2004 có 126 triệu em phải làm các việc nguy hiểm tới tính mạng. Các thống kê mới của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế cho biết trong năm 2000 có 5,7 triệu trẻ em bị cưỡng bách lao động để trừ nợ nần cho gia đình, 1,8 triệu trẻ em là nạn nhân của kỹ nghệ tình dục mại dâm hay phim ảnh dâm ô, khoảng 1,2 triệu trẻ em nạn nhân của dịch vụ buôn bán trẻ em; và có hàng triệu trẻ em lao công khác hàng ngày bị bạo hành tại nơi làm việc bởi các chủ nhân hay bạn bè.

Ngoài ra tổ chức Sức Khỏe Thế Giới cũng cho biết hàng năm có từ 100 tới 140 triệu bé gái và phụ nữ bị chặt cắt bộ phận sinh dục. Và chỉ nội trong năm 2002 đã có 53.000 trẻ em từ 0 tới 17 tuổi bị sát hại.

Các bé trai thường bị bạo hành trên thân xác, trong khi các bé gái thường bị bạo hành tính dục, bị bỏ rơi và sa vào vòng mại dâm. Theo một nghiên cứu tại một vài quốc gia có tới 21% nữ giới bị lạm dụng tình dục trước khi lên 15 tuổi. Trẻ em các nước có lợi tức thấp và trung bình có nguy cơ bị giết cao gấp đôi trẻ em các nước có lợi tức cao. Các thanh thiếu niên lứa tuổi 15-17 và trẻ em 0-4 tuổi thường gặp nguy hiểm hơn cả. Sau cùng có một vài nhóm trẻ em đặc biệt dễ bị thương tích hơn cả, trong đó có các trẻ em tàn tật, các trẻ em thuộc các nhóm thiểu số, các trẻ em bụi đời, các trẻ em có vấn đề pháp lý và các trẻ em di cư tỵ nạn.

Hiện nay có ít nhất 106 quốc gia không cấm các hình phạt thể lý trong các trường học. Có 145 nước không cấm các hình phạt thân xác trong các trung tâm trợ giúp; tại 78 nước các hình phạt thể lý được chấp nhận như biện pháp kỷ luật; và tại 31 nước chúng được chấp nhận như phần của các án hình sự.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của linh mục Fortunato Di Noto, người thành lập Hiệp hội Meter, chống nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh trẻ em mại dâm trên mạng.

Hỏi: Thưa cha, ngày nay có biết bao nhiêu trẻ em vô tội tử đạo, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi, các trẻ em vô tội tử đạo ngày nay là các trẻ em bị chết dưới các vụ bỏ bom, khi các em ở trong nhà mình, khi các em đang học hành, khi các em đang ngủ trong giường. Các trẻ em tử đạo vô tội cũng là các trẻ em bị xung vào quân ngũ để chiến đấu, bị tra tấn, bị hãm hiếp bạo hành, bị bán đi như nô lệ, hay trở thành nạn nhân của các hình thức nô lệ mới là nạn lạm dụng tính dục trẻ em và phim ảnh dâm ô trẻ em trên mạng. Các thánh anh hài tử đạo ngày nay cũng là các trẻ
em bị giết vì niềm tin kitô của mình.

Hỏi: Các trẻ em tử đạo cũng là các trẻ em bị giết vì nạn phá thai và không bao giờ được chào đời, có phải vậy không thưa cha?

Đáp: Vâng đúng thế. Có biết bao nhiêu trẻ em không được sinh ra, hàng triệu và hàng triệu nạn nhân trên thế giới này. Và phá thai không phải là một lựa chọn văn hóa, lại càng không phải là kế hoạch hóa gia đình. Người ta biện minh cho phá thai bằng cách nói rằng có lẽ các trẻ em sinh ra sẽ không có gì ăn, sẽ thiếu dinh dưỡng, nhưng đó là một biện minh vô lý mà chúng ta không thể im lặng chấp nhận được, chúng ta phải lên tiếng, chúng ta phải nói to lên.

Hỏi: Sự thinh lặng của biết bao nhiêu trẻ em – Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói – kêu khóc dưới lưỡi gươm của biết bao nhiêu vua Hêrốt ngày nay nữa, cha nghĩ sao?

Đáp: Quý vị hãy nghĩ tới tệ nạn buôn cơ phận trẻ em, nạn khai thác tình dục trẻ em, hay khi các vua Hêrốt đi cả tới chỗ kế hoạch hóa giết trẻ em một cách êm dịu. Đó, biết bao nhiêu vua Hêrốt của thế giới ngày nay. Họ không chỉ không cúi đầu trên nhân loại như Đức Thánh Cha nói, mà họ chỉ cúi đầu trước các lợi nhuận là tiền bạc. Và tiền bạc chúng ta biết – như thánh Phaolô nói – là rác ruởi, là rác rến của ma qủy.

Hỏi: Nhưng mà sự vô tội còn có thể bị hãm hiếp, bị giết chết cả trên bình diện tâm lý nữa thưa cha…

Đáp: Chắc chắn rồi. Chỉ cần nghĩ tới sự kiện truyền hình lèo lái con người làm sao, khi chuyển tải các sứ điệp bạo lực. Thế rồi còn có các khu xóm ổ chuột mới hiện hữu trên mạng vi tính nữa. Nghĩa là các trẻ em là đối tượng của một cuộc sống bị xâm lăng bởi kỹ thuật không biết quản lý, và thế là các em bị đắm tầu trong các vùng ngoại biên vi tính. Các người thiện chí phải ở trong các vùng ngoại biên đó, không phải chỉ để truyền thông, mà cũng để đồng hành với nỗi khổ đau của các trẻ em vị thành niên bị đắm chìm trong thế giới vi tính ấy.

Hỏi: Thưa cha Di Noto, khi năm 2014 kết thúc và nó đã là một năm khủng khiếp, cha tố cáo biết bao nhiêu nạn nhân vô tội…

Đáp: Chúng ta có thể liệt kê chúng ra như một loại chuỗi hạt của khổ đau… Tôi tin rằng chính vì lễ các Thánh Anh Hài mà chúng ta phải nâng lời cầu nguyện và khẩn nài lên Chúa và lãnh nhận một dấn thân cụ thể. Thật thế, không bao giờ được thiếu hy vọng đứng trước các vấn đề kinh khủng này, trong đó các trẻ em không được sống cả ngày trong đó các em sinh ra. Cần hy vọng rằng có biết bao nhiêu người thiện tâm… Tôi xin chấm dứt bằng cách kể cho qúy vị nghe một điều. Tôi đã trồng các cây trước giáo xứ của tôi, và người ta thường nhổ mất chúng. Vậy tôi làm gì? Tôi trồng chúng trở lại. Và người ta lại nhổ chúng đi. Và tôi đã làm gì? Tôi lại trồng chúng trở lại nữa. Thật thế, trong cuộc sống người ta nhổ các trẻ em đi. Nhưng chúng ta không bao giờ có thể quên tiếp tục hy vọng và tiếp tục làm sao để các trẻ em ở chỗ nhất, vì các em được Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương, các em là các người có đặc ân trong một xã hội không được trở thành vô nhân, nhưng phải luôn luôn hy vọng nơi con người.

Hỏi: Thưa cha, Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm các Thánh tử đạo vô tội. Các vị có giá trị nào đối với chúng ta?

Đáp: Giáo Hội đã luôn luôn có một tình yêu lớn đối với trẻ em. Chính Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI trưóc khi chết có nói rằng dấn thân của Giáo Hội cho nhi đồng không phải là một mốt mau qua, nhưng là một dấn thân thường xuyên, chính vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta. Quý vị hãy tưởng tượng rằng trong Giáo Hội ngoài các Thánh Anh Hài, đã có biết bao nhiêu trẻ em tử đạo. biết bao nhiều trẻ em chứng nhân của đức tin, biết bao nhiêu trẻ em được nâng lên danh dự bàn thờ như là các vị tử đạo, như là các Thánh, các Chân phước, các Tôi tớ Chúa. Điều này chứng minh cho thấy một cuộc cách mạng có thể xảy ra cả qua các trẻ em nữa. Thật đúng thế, người ta có thể xúc phạm đến các trẻ em, nhưng cũng đúng thật là chúng ta có thể tưởng niệm các em vì các em là thí dụ sống cho tất cả mọi người.

(RG 28-12-1014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Con Người Đến Để Phục Vụ

Con Người Đến Để Phục Vụ

Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.

Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.

Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư – chết vô địa táng".

Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".

Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Năng cầu khẩn Chúa Thánh Thần, và dưỡng nuôi con cái bằng Lời Chúa và gương sống đức tin

Năng cầu khẩn Chúa Thánh Thần, và dưỡng nuôi con cái bằng Lời Chúa và gương sống đức tin

Hãy thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, để Người trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh. linh hứng chúng ta và làm cho chúng ta tiến tới. Các cha mẹ hãy dưỡng nuôi con cái mình bằng Lời Chúa và gương sống đức tin.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ như trên trong thánh lễ ban bí tích Tửa Tội cho 33 trẻ em nam nữ trong nhà nguyện Sistina và trong bài huấn dụ khi đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu và du khách hanh hương tại công trường Thánh Phêrô.

Lúc 9 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ ban Bí Tích Rửa Tội cho 33 trẻ em nam nữ, con của các nhân viên làm việc trong Tòa Thánh.

Sau lời chào mở đầu, ĐTC đã đối thoại với các cha mẹ. Ngài nói: Mở đầu buổi cử hành này, tôi xin hỏi các cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu: Anh chị em đặt tên cho con là gì? Anh chị em xin gì cho con cái anh chị em với Giáo Hội Chúa? Anh chị em thân mến khi xin Bí tích Rửa Tội cho con cái anh chị em, anh chị em dấn thân giáo dục chúng trong đức tin, để trong việc tuân giữ các giới răn chúng học yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như Chúa Kitô đã dậy chúng ta. Anh chị em có ý thức được trách nhiệm này của anh chị em không? Các cha me thưa có. Và anh chị em là các cha mẹ đỡ đầu, anh chị em có sẵn sàng trợ giúp cha mẹ các em trong nhiệm vụ quan trọng như thế không? Các cha mẹ đỡ đầu thưa có.

Tiếp đến ĐTC nói: Các trẻ em thân mến, với niềm vui lớn Giáo Hội Chúa đón nhận các con. Nhân danh Người cha làm dấu thánh giá cho các con. Và sau tôi anh chị em là cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu cũng làm dấu của Chúa Kitô Cứu Thế trên con của anh chị em.

Các cha mẹ và người đỡ đầu đã bế các em lên để ĐTC vẽ dấu thánh giá trên trán các em và họ cũng vẽ dấu thánh già trên trán chúng.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói Lời Chúa cho chúng ta thấy như một người cha và một bà mẹ giỏi Thiên Chúa muốn các sự tốt lành cho con cái Ngài. Và điều Thiên Chúa muốn trao ban là Lời ngài, làm cho chúng ta lớn lên và sinh hoa trái tốt lành trong cuộc sống, như mưa và tuyết rơi xuống khiến cho đất đai được phong phú (x. Is 55,10-11). Cũng thế anh chị em là cha me, cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, cô chú hãy giúp các trẻ em này lớn lên, nếu anh chị em cho chúng Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa Giêsu, và làm gương cho chúng bằng cách có thói quen đọc Lời Chúa mỗi ngày và mang Lời Chúa theo trong mình, trong túi trong xách tay, để đọc. Khi trông thấy anh chị em đọc Lời Chúa, các em sẽ noi theo. Các bà mẹ hãy cho con cái sữa, nếu chúng khóc vì đói, hãy bình tĩnh cho chúng bú ngay bây giờ đây. Cứ bình tĩnh (Lúc này có nhiều em khóc lớn trong nhà nguyện). Chúng ta cảm tạ Chúa vì ơn của sữa, và cầu nguyện cho các bà mẹ, biết bao nhiêu bà mẹ không có điều kiện cho con cái họ ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và trợ giúp họ. Điều mà sữa làm cho thân xác, thì Lời Chúa làm cho tinh thần: Lời Chúa lam cho đức tin lớn lên. Và nhờ đức tin chúng ta được Thiên Chúa sinh ra. Đó là điều xảy ra trong bí tích Rửa Tội. Chúng ta đã nghe lời thánh Gioan nói: “Ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì đã được Thiên Chúa sinh ra” (1 Ga 5,1). Hôm nay là đức in của anh chị em, là đức tin của Giáo Hội qua đó các em bé này nhận bí tích Rửa Tội, nhưng ngày mai, với ơn thánh Chúa sẽ là đức tin của các em, sẽ là tiếng “có” cá nhân thưa với Chúa Giêsu Kitô, Đấng trao ban cho chúng ta tình yêu của Chúa Cha. Bí tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào dân thánh Chúa là Giáo Hội, trong đó đức tin được thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là đức tin của Mẹ Maria, của các Tông Đồ, của các Thánh Tử Đạo. Ánh sáng đức tin được chuyền tay nhau, mà trong chốc lát nữa chúng ta sẽ đốt lên từ nến phục sinh biểu tượng cho Chúa Kitô sống lại. Anh chị em là các gia đình hãy lấy ánh sáng đức tin từ Ngài để truyền lại cho con cái. Hãy dậy cho con cái anh chị em biết rằng không thể là kitô hữu ngoài Giáo Hội, không thể theo Chúa Kitô mà không có Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là mẹ và làm cho chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Chúa Giêsu.

Trong bí tích Rửa Tội chúng ta đưọc thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần. Từ “kitô” có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu trong cùng Thánh Thần trong đó Chúa Giêsu được dìm mình trong suốt cuộc đời dương thế của Người. Người là Đấng được xức dầu, được thánh hiến. Các người được rửa tội là các kitô hữu nghĩa là những người được thánh hiến, được xức dầu. Các cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái anh chị em trở thành các kitô hữu, thì hãy giúp chúng lớn lên “chìm ngập” trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là trong hơi ấm tình yêu của Thiên Chúa, trong ánh sáng Lời Ngài. Vì thế đừng quên cầu khẩn Chúa Thánh Thần thường xuyên. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa Cha trong Kinh Lậy Cha, nhưng ít khi cầu xin Chúa Thánh Thần. Nhưng cầu khẩn Chúa Thánh Thần rất quan trọng, để Người dậy chúng ta đưa gia đình, con cái tiến tới, để cho con cái lớn lên trong bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Chẳng hạn hãy cầu khẩn với lời cầu đơn sơ này: “Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổ đầy trái tim của tín hữu Chúa và đốt lên trong chúng ngọn lửa tình yêu của Chúa”. Khi cầu nguyện như vậy, anh chị em cảm thấy sự hiện diện hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dậy chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần và sống theo Thần Khí như Chúa Giêsu. Xin Mẹ đồng hành với con cái và gia đình anh chị em.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương. Trong bài huấn dụ ngài đã đào sâu ý nghĩa lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhấn mạnh rằng với biến cố này “thời gian của trời đóng kín đã kết thúc”, chúng ta đang sống trong thời gian của lòng thương xót. ĐTC nói:

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa chịu phép rửa kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm miêu tả điều xảy ra trên bờ sông Giorđan. Trong khi Gioan Tây Giả ban phép rửa cho Chúa Giêsu, thì trời mở ra. Thánh sử Marcô nói: “Lập tức, khi ra khỏi nước Người thấy trời mở ra” (Mc 1,10). Trở lại trong trí chúng ta lời khẩn nài thê thảm của ngôn sứ Isaia: “Ôi phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is 63,19). Lời khẩn cầu này đã được nhận lời với biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. ĐTC giải thích như sau:

Như thế đã chấm dứt “thời gian “trời đóng” ám chỉ sự xa cách giữa Thiên Chúa và con người, hậu qủa của tội lỗi. Tội lỗi làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa và bẻ gẫy mối liên hệ giữa đất và trời, và như thế xác định sự bần cùng và thất bại của cuộc sống chúng ta. Trời mở ra ám chỉ rằng Thiên Chúa đã ban ơn thánh Người để trái đất cho hoa trái của nó “(x. Tv 85,13). Như thế trái đất trở thành nơi ở của Thiên Chúa giữa loài người, và từng người trong chúng ta có khả thể gặp gỡ Con Thiên Chúa, khi kinh nghiệm tất cả tình yêu và lòng thương xót vô biên của Người.

Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa hiện diện thực sự trong các Bí Tích, một cách đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp gỡ Người nơi gương mặt của các anh chị em chúng ta, cách riêng nơi người nghèo, người bệnh, người bị tù, người tỵ nạn: họ là thịt xác sống động của Chúa Kitô khổ đau và là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Với biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trời không chỉ xé ra, mà Thiên Chúa lại nói và làm vang lên tiếng nói của Người: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Tiếng của Thiên Chúa Cha loan báo mầu nhiệm dấu ẩn nơi Con Người được vị Tiên Hô làm phép rửa. Đức Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể, cũng là Ngôi Lời vĩnh viễn, mà Thiên Chúa Cha đã muốn nói với thế giới. Chỉ khi lắng nghe, đi theo và làm chứng cho Lời đó, chúng ta mới có thể làm cho kinh nghiệm đức tin của chúng ta phong phú tràn đầy, mà mầm giống đã được đặt để trong chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội. Và rồi biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu: điều này cho phép Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, khai mào sứ mệnh của Người là cứu rỗi tất cả chúng ta. Chúa Thánh Thần, Đấng vĩ đại bị lãng quên trong lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta thường cầu xin Chúa Giêsu; chúng ta cầu xin Chúa Cha, đặc biệt trong “Kinh Lậy Cha”, nhưng không thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, có đúng thế không? Ngài là Đấng bị bỏ quên. Chúng ta cần xin sự trợ giúp của Người, sức mạnh của Người, linh hứng của Người. Chúa Thánh Thần là Đấng đã linh hoạt toàn cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu, cũng là Thần Khí hướng dẫn cuộc sống kitô, cuộc sống của con người nam nữ nói rằng họ là tín hữu kitô và muốn là tín hữu kitô. Đặt để dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần cuộc sống kitô và sứ mệnh, mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận được nhờ sức mạnh của bí tích Thánh Tẩy, có nghĩa là tìm lại lòng can đảm tông đồ cần thiết giúp thắng vượt các thích nghi trần tục dễ dãi. ĐTC khẳng định như sau:

Trái lại, một kitô hữu, một cộng đoàn “điếc” đối với tiếng nói của Chúa Thánh Thần. thúc đẩy đem Tin Mừng đến tận cùng bờ cõi trái đất và xã hội, cũng trở thành một kitô hữu và một cộng đoàn “câm” không nói và không rao giảng Tin Mừng. Nhưng xin anh chị em nhớ điều này: hãy thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, để Người trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh. linh hứng chúng ta và làm cho chúng ta tiến tới. Xin Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ Giáo Hội, đồng hành với tất cả chúng ta là những người đã được rửa tội; xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Tin Mừng, để như thế trao ban ý nghĩa tràn đầy cho cuộc sống chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu và các đoàn hành hương, đặc biệt là Hiệp hội giáo dân Lòng Chúa Thương Xót. Ngài nói ngày nay cần đến lòng thương xót biết bao, và thật là điều quan trọng anh chị em giáo dân đem nó đến với các môi trường xã hội khác nhau. Anh chị em cứ tiến lên. Chúng ta đang sống trong thời gian của lòng xót thương. Đây là thời gian của lòng thương xót.

Chiều ngài mai tôi sẽ lên đường tông du tại Sri Lanka và Philippines. Xin cám ơn lời cầu chúc của anh chị em như viết trên băng rôn kia, xin cám ơn rất nhiều! Tôi xin anh chị em vui lòng đồng hành với tôi bằng lời cầu nguyện, và tôi cũng xin các anh chị em người Sri Lanka và Philipines sống tại Roma đặc biệt cầu nguyện cho tôi trong chuyến viếng thăm này.

Xin chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật an lành, cả khi trời hơi xấu một chút. Hôm nay cũng là ngày để tươi vui nhớ tới bí tích Rửa Tội của từng người. Xin anh chị em nhớ lời tôi xin là tìm ngày rửa tội của mình, để mỗi người có thể nói tôi đã được rửa tội ngày đó. Ước chi hôm nay là niềm vui của bí tích Rửa Tội. Xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em ăn trưa ngon miệng và xin hẹn gặp lại.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

SUY NIỆM ĐẦU NĂM

SUY NIỆM ĐẦU NĂM

 Một năm mới đang về. Điều đó có ý nghĩa gì cho tôi? Xin trân trọng giới thiệu những dòng suy tư sau đây của Cha Karl Rahner, S.J.

– (Người dịch)

 Một năm mới đang về. Năm mới sẽ đem về gì đây? Tôi không có ý nói đến một viễn tượng nào đó cho thế giới, cho tình hình chính trị, hay cho Giáo Hội. Tôi muốn nghĩ đến viễn tượng của chính mình – của tôi. Dấu hỏi này và nỗi ưu tư này không hề vu vơ. Vì rồi sẽ tới lúc tôi ra đi, sẽ tới lúc tôi không còn có mặt trên trần đời này nữa. Và chính đức tin – chứ không phải những tưởng tượng lẩn quẩn về mình – cho tôi biết rằng dù ra đi nhưng mình sẽ vẫn tồn tại thực sự, và tồn tại trong tất cả sự thực mà mình đã trở thành ở đây và bây giờ, rằng toàn bộ thời gian đang trôi chảy đây được thâu họp vào thực tại mệnh danh là “vĩnh cửu” – vĩnh cửu của tôi, vĩnh cửu của bạn, vĩnh cửu độc nhất, không thể chuyển và không thể đổi.

 Vì thế tôi có lý do để băn khoăn rằng năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi. Mà nói cho cùng, tất cả lịch sử rốt cục cũng chỉ quan trọng ở chỗ nó đem lại gì cho mỗi con người, cho bạn và cho tôi, trong vĩnh cữu ấy (dù có thể nhiều người nông cạn không nhìn ra tầm quan trọng này). Vì mọi cái khác đều trôi qua, chúng không quan trọng lắm bởi chúng nay còn mai mất. Rõ ràng ta có thể nói rằng cái thực tại chóng qua này đây – nếu được hiểu đúng – chính là vĩnh cửu trong tiến trình đang trở thành; thực thể vĩnh hằng là thực thể phàm trần đã được mang đến mức viên mãn, chứ không phải là một cái gì sẽ đến sau này theo cách hiểu thông thường – vì nếu thực thể vĩnh hằng chỉ là cái sẽ đến sau, thì rồi cũng sẽ tới lượt nó trôi đi mất, tiêu vong!

 Đó là lý do tại sao tôi quan tâm tới vấn đề năm mới này sẽ đem lại gì cho mình. Với tất cả niềm trân trọng đối với vĩnh cửu, tôi muốn đặt câu hỏi này ra. Vì những gì đang đến sẽ không tan biến mất. Nó đến để ở lại. Nó có mặt để lưu tồn chứ không phải để tiêu vong. Nó cắm vào trong khoảng trống của thời gian để lấp đầy thời gian. Nó là huyền nhiệm của vĩnh cửu trong thời gian. Năm mới này sẽ đem lại gì đây – vấn đề này tôi trân trọng mấy cũng không vừa. Vì bao lâu tôi còn đi qua dòng chảy của thời gian trong thân phận con người mình, tôi vẫn luôn nghĩ rằng thời gian không chứa đựng gì ngoại trừ chính nó. Tôi phải thường xuyên tự cảnh tỉnh mình. Vĩnh cửu đang diễn ra nơi tôi bây giờ, một lần và cho tất cả, vĩnh cửu đang có mặt bây giờ dẫu tôi tưởng rằng những gì đang trôi qua đây chẳng có mấy tầm quan trọng.

 Không phải mọi khoảnh khắc đời tôi đều có đầy giá trị lưu dấu vĩnh cửu như nhau. Vậy, khi nào thì một khoảnh khắc của đời tôi được “viên mãn” (theo nghĩa: khi thời gian đến hồi “viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và đi vào trần gian)? Rõ ràng khoảnh khắc ấy sẽ xảy đến khi mà – với tất cả ý thức, can đảm và quyết tâm – tôi huy động trọn vẹn con người mình và với tự do của mình tôi trao phó trọn vẹn con người tôi cho Thiên Chúa, một cách hoàn toàn không nhuốm màu vị kỷ, một cách khôn tả vì đó chính là nhờ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa, Đấng mà tôi chỉ thực sự biết khi nào tôi đạt đến cuộc dâng hiến khôn tả nầy. Và người ta đạt đến điều này không phải bằng con đường thông thuộc đầy dấu vết của cảm tính và giảo hoạt, nhưng là bằng thái độ nghiêm túc triệt để và bền bỉ trung thành, vì Thiên Chúa là Đấng ta không thể hiểu thấu. Như vậy, tôi chỉ có một cách để làm chủ chính mình: làm chủ qua hành vi thí bỏ và trao hiến trọn vẹn con người tôi!

 Và rõ ràng, đó là tất cả ý nghĩa của hành vi Kitô hữu. Vì, dù người ta có ý thức hay không, trong trật tự  của cuộc sống hiện tại, một hành vi như thế không thể được thực hiện ngoài đức tin và ân sủng. Sở dĩ ta có thể bước tới được với Thiên Chúa, đấy là bởi vì chính Ngài – Đấng vô cùng – đã đến gần gũi với ta nơi Đức Giêsu Kitô (dù người ta có biết điều này hay không).

    Thật là đúng đắn, đáng khen, và rất có ý nghĩa khi nói (miễn là ta biết dè dặt đúng mức chứ không lạm dụng bừa bãi) rằng chúng ta suy tưởng về Chúa, chúng ta có thiện chí, chúng ta giữ các giới răn của Ngài thì (ta nghĩ) sẽ chẳng có sự cố gì có thể xảy đến cho mình, chắc hẳn Ngài phải tỏ ra ưu ái ta, thưởng công cho ta (như nhiều người Công Giáo nghĩ) hay ít nhất Ngài cũng phải tha thứ tội lỗi cho ta (như nhiều người khác nghĩ).

 Dĩ nhiên cách nghĩ ấy có thể đúng. Hay phải nói rằng quả thực cách nghĩ ấy đúng. Song đó không phải là tất cả sự thực mà tôi đang quan tâm ở đây. Nói cho cùng, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với hết lòng, hết sức lực, với trọn linh hồn mình. Và đàng khác, chúng ta phải yêu như vậy ngay khi mình còn trong thân phận lữ khách hành hương cách xa Chúa vời vợi, ngay khi mình vẫn không nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Vì phúc ân mà ta được hứa nằm ở trong sự hoàn thành trọn vẹn cuối cùng và vĩnh viễn của thời gian, của tình yêu trong thời gian.

 Vì thế chúng ta phải tận hiến chính mình cho Ngài trước đã, bằng chính sự tự do trong hiện tại này, để có thể hoàn toàn đón nhận được Ngài. Đó phải là một hiến dâng trọn vẹn, không thể có một cắt xén nào, một châm chước nào. Tất cả các phúc ân mà Ngài ban cho ta cũng cốt ở chỗ giúp ta thực hiện hành vi dâng hiến này. Tuy nhiên duy chỉ việc Chúa ban ơn cho ta cũng không đủ để làm ra hành vi dâng hiến đó; nó phải là một việc làm của ta nữa (một việc làm trong thời gian mang ý nghĩa vĩnh cửu). Ngay cả người kẻ trộm bị đóng đinh thảm hại kia cũng được nhận lời khi – vào giây phút cuối cùng – anh ta bắt đầu tin yêu với trọn tấm lòng, trọn năng lực và trọn linh hồn anh.

 Nhưng khi nào thì điều này xảy đến cho tôi? Và ở đâu ơn Chúa sẽ hoàn toàn chiến thắng và hoàn toàn khuất phục sự tự do của tôi – để con người nhát đảm và khiếp sợ của tôi (vốn không dễ gì chịu bỏ mình) có thể tìm ra được đủ can đảm để dám thực sự hoàn toàn quên mình vì Chúa? Ở đâu và khi nào tôi sẽ đạt đến điều đó? Chắc hẳn là tôi đã được điều đó rồi, tôi có thể tự nhủ mình một cách đầy an ủi như thế. Vì, dĩ nhiên, tôi xác tín rằng mình đang sống trong ân sủng Chúa, tôi xác tín rằng mình đã gặp thấy lòng khoan nhân của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài – là chính tình yêu của Thiên Chúa – vẫn được đổ tràn vào lòng ta. Và do đó, (có thể nói) tình hình không có gì là quá bi đát hay quá mờ mịt cho tôi, vì tình yêu của Thiên Chúa tràn trào; nếu không nhận được tình yêu ấy thì chẳng một ai có thể gặp thấy được Thiên Chúa của mình.

 Câu hỏi có thể đặt ra: Phải chăng chúng ta có thể nói rằng ta phải yêu mến Thiên Chúa từ nơi sâu thẳm nhất của con người mình, yêu một cách đích thực và chân thành – nhưng ta không cần phải thu tóm trọn cả cuộc sống mình vào trong tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa “ngay lúc này”, lúc mà chúng ta đang xao xuyến đặt câu hỏi này ra? Khi tự hỏi như vậy là chúng ta cho thấy rằng mình vẫn còn đang bước đi trong cuộc hành trình dang dở, vẫn đang còn ở trong giòng lịch sử phận người…. Không được phép cố tình giậm chân tại chỗ, chết cứng. Chúng ta phải hăng hái tiến lên và trưởng thành trong tình yêu này.

 Và nếu chúng ta làm thế, thì rõ ràng là mọi sự sẽ trở thành tốt đẹp ngay trong hiện tại này – nghĩa là ngay khi mà chúng ta còn chưa có được một tình yêu có sức làm cho mình biến đổi hoàn toàn, ngay khi chúng ta còn tham lam và ích kỷ – dù vẫn có niềm tin và thiện chí. Chúng ta có tấm lòng và tấm lòng đó sẽ triển nở nếu ta không cố tình phung phí những cơ hội do cuộc sống và ơn Chúa ban cho.

 Tất cả những điều ấy quả xác thực và sự xác thực này rất có tính khích lệ cho ta. Song như vậy không có nghĩa là có thể hoàn toàn thỏa mãn, vì dù sao chăng nữa một lúc nào đó trong cuộc đời ta cái khoảnh khắc “thời gian viên mãn” vẫn cần phải xảy ra. Cái khoảnh khắc linh thánh, tuyệt vời, trọn vẹn ấy phải xảy ra. Cái khoảnh khắc tĩnh lặng như đêm Chúa ra đời, trong đó với trọn lòng mình con người dâng hiến trọn vẹn chính mình trong bàn tay của Đấng mà mình không thể thấu hiểu (thật là khủng khiếp một sự phó thác như thế) – và cuộc dâng hiến ấy trọn vẹn đến nỗi món quà hiến dâng không bao giờ bị lén lút rút lại, như thực tế vốn thường xảy ra.

 Ta có thể dám hy vọng không, hy vọng rằng một ngày nào đó mình cỏ đủ tấm lòng để thực hiện được hành vi dâng hiến ấy? Có phải thực ra ta đã hy vọng rồi – vì rất có thể ta đã bắt đầu hy vọng rồi, và vì ta nghĩ mình vốn vẫn yêu mến một mức nào đó hoặc vốn vẫn khao khát một tình yêu như thế? Có phải đó là một dấu chứng đầy đủ cho niềm hy vọng – vừa rất dũng cảm vừa vô cùng thiết yếu – rằng rồi sẽ đến lúc ta có thể thực sự biết yêu bằng trọn vẹn con người mình? Duờng như tuổi tác càng chất chồng thì tấm lòng người ta càng khó sẵn sàng để hiến dâng. Nó trở nên mỏi mệt, héo hắt, lạnh lẽo và chán chường. Người ta tự hỏi phải chăng mình tiếp tục bước tới bởi vì mình không thể làm bất cứ gì khác, mình đã hóa khô cứng do trải qua sự khổ luyện hằng ngày, hoặc phải chăng mình như bất lực không còn có thể làm gì khác bởi vì chính sự bất lực này là phần thưởng ân phúc của sự tự do đích thực? Có phải nhân đức đã xuống cấp trở thành chuyện thông thường, sự nỗ lực phấn đấu đã trở thành chuyện náo động vu vơ, và lòng trung tín chỉ còn là tập quán?

 Sự viên mãn của thời gian trong đời tôi ở đâu, đâu là giờ phút quyết định trong đó toàn bộ thực tại con người tôi được huy động? Phải có một giờ phút như vậy. Bởi vì rõ ràng là con người ta không xây đắp cuộc đời mình bằng cách thu gom những việc lành của mình, từng việc từng việc lẻ tẻ, và dồn chúng lại. Đúng hơn, mỗi việc lành ấy đều có tiềm năng chứa đựng cái toàn thể, có tiềm năng hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nếu chẳng vậy, làm sao một hành vi riêng lẻ nào đó có thể quyết định cả cuộc sống con người. Thế mà mọi hành vi, hiểu theo nghĩa đầy đủ, đều có sức quyết định như thế. Tội “trọng” là cái có thực, và việc lành “trọng” cũng có thực. Một việc lành “trọng” tự yếu tính nó phải khác với một việc lành “nhẹ” – cũng như tội trọng khác với tội nhẹ. Nhưng đâu là những lúc mà tôi đã thực hiện những hành vi có tầm quan trọng như thế, những hành vi có trọng lượng bằng cả con người tôi – bởi vì chúng đặt cả con người tôi lên bàn cân của Thiên Chúa?

 Người ta thường nói đến những phút giờ trọng đại nhất, những khoảnh khắc tuyệt vời và linh thánh nhất của đời người – và cứ dựa theo những biến cố đang được mừng thì đó là: dịp rước lễ lần đầu, ngày thành hôn, …, dịp lãnh chức thánh, vv… Có phải những biến cố ấy là những bước quặt của cuộc đời mà chúng ta đang tìm kiếm? Có phải những biến cố ấy chính là sự tròn đầy của vĩnh cửu đi vào trong một khoảnh khắc của thời gian? Chúng ta được phép nghĩ thế. Vì còn gì trọng đại hơn và quyết liệt hơn cái khoảnh khắc mà – chẳng hạn – người ta thực sự ăn tấm bánh vĩnh cửu là chính Thân Mình Chúa, Đấng đã tự hiến đến chết vì chúng ta?

 Tuy nhiên ai cũng rõ rằng người ta không những có thể đón nhận tấm bánh vĩnh cửu ấy một cách bất xứng và vì thế tự chuốc lấy án vĩnh viễn cho mình – chúng ta còn biết rằng dù bí tích có giá trị trọn vẹn nhưng không phải bao giờ ta cũng lãnh nhận trọn vẹn thực tại mà bí tích hàm chứa, tức trọn vẹn ân sủng – dẫu là ta không đang lãnh nhận bí tích một cách bất xứng đi nữa. Không phải mỗi lần lãnh nhận sự viên mãn của thời gian là mỗi lần tôi nhận được sự viên mãn của đời mình. Người ta có thể sống trong khoảnh khắc của Đức Kitô mà cuộc sống của chính mình vẫn trôi qua một cách khô cằn trống rỗng – hay khá hơn thì cũng rất rời rạc vá víu. Sẽ tuyệt diệu biết bao nếu trong mô thức bí tích ấy người ta có thể tìm thấy được sự viên mãn của cuộc sống mình. Tuyệt diệu biết bao  nếu sự viên mãn của thời gian có thể có mặt trong chính giòng đời tôi, ở đây và bây giờ. Lúc ấy sẽ không còn phải thiếu thốn gì nữa. Sự sung mãn vĩnh cửu của Thiên Chúa sẽ hiện diện – và sự hiện diện thâm sâu này sẽ hiện thực một cách khả giác trong chính biểu lộ của nó vừa ở chiều kích cá nhân vừa ở chiều kích Giáo Hội, vừa hết sức cụ thể vừa đượm tính phụng vụ. Sự sung mãn ấy sẽ được hiện thực tròn đầy trong dấu chỉ, trong biểu hiệu của bữa đại tiệc vĩnh hằng, bữa đại tiệc của sự hoàn thành đầy đủ. Người ta sẽ uống cạn chén rượu đời mình – và chén rượu ấy được cảm nhận đã tan hòa thành một trong chén của Đức Kitô.

Điều đó là có thể và là cần thiết. Song quả là ta không thể quyết chắc rằng Thiên Chúa đã đặt định sẵn cho mọi người để phút giờ quyết định ấy của mỗi người đều xảy ra đúng khi dấu chỉ của bí tích (diễn tả sự hoàn thành của thế giới và của từng người bằng ân phúc và thứ tha) được thực hiện trong cuộc đời họ. Xem ra chỉ một phần bé nhỏ của ân sủng ấy được đón nhận, xem ra trong cõi lòng người ta chỉ thực sự có chỗ để đón nhận chỉ một phần của ân sủng ấy – nếu như cõi lòng ấy không nhút nhát và hẹp hòi quá mức.

 Nghĩa là, phút giờ trọng đại ấy, phút giờ sung mãn ấy rất có thể cũng xảy ra khi dấu chỉ của bí tích (theo nghĩa rộng) nghèo nàn hơn, mù mờ hơn và không phải là một opus operatum gì cả. Người ta có thể uống cạn chén rượu đời mình với trọn sự sống và sự chết của mình trong một phút giờ nào đó không phải là phút giờ của bàn tiệc Thánh Thể – dù vậy họ vẫn sống phút giờ ấy của mình trong sự kết hợp mật thiết với phút giờ của Đức Kitô. Vì Đức Kitô đã kết hợp phút giờ của mọi người vào trong phút giờ của Ngài – phút giờ trở thành hiện thực trong hy lễ tiến dâng và trong bàn tiệc Thánh Thể.

 Người ta có thể bất chợt đột phá qua mọi rào chắn vốn vẫn giam hãm bản ngã đầy xao xuyến của mình và hòa nhập vào khung trời bao la của Thiên Chúa xuyên qua một sự từ bỏ rất âm thầm lặng lẽ, một hy sinh xem ra hết sức nhỏ nhặt tầm thường của họ. Có lẽ chính người ấy cũng không chú ý mấy đến điều đang diễn ra nơi mình, có lẽ chẳng có cảm nghĩ nào được người ấy xem là đáng đặc biệt ghi nhớ. Chỉ có điều là người ấy bỗng dưng trở nên thật quảng đại cởi mở. Bỗng dưng tồn tại một cái gì đó mà mình không thể gọi tên, một cái gì đó rất kỳ diệu, vô hình và không thể nào tả được.

 Nhưng mọi sự khác hẳn. Thực tại đang có mặt ấy không thể được xếp bên cạnh những thứ khác lấp đầy đời sống như kiểu những món đồ đạc cũ kỹ được chất ngổn ngang đầy kín trong nhà kho. Thực tại ấy không thể được so sánh với bất cứ gì khác và không thể được gán cho là cùng loại hay khác loại với cái này hoặc cái kia. Con người ấy đã từ bỏ, đã ra đi, đã đoạn tuyệt. Bây giờ, thật bất ngờ, con người ấy lại có mặt khắp mọi nơi và nắm giữ tất cả, cái tưởng như “không là gì” ấy hóa ra chính là tất cả. Con người ấy không cần một chỗ tựa nào nữa, vì bây giờ chính bản thân mình đã trở thành một “toàn-thể-tính” ổn định, tự nâng đỡ mình (trong toàn-thể-tính của Thiên Chúa) đứng vững không té ngã – vì trong cô đơn này và trong sự từ bỏ này, không có gì mà con người ấy có thể té ngã vào được nữa.

 Có thể có người đâm ra kinh sợ cái vô hạn rất trầm lặng đang mở ra cho mình này – không phải mở ra bằng những ý tưởng trừu tượng, nhưng là mở ra nơi cảm nghiệm về năng lực thực có của hữu thể mình, tức là tinh thần. Người ấy như hoảng sợ thoái lui, quay trở lại với những gì quen thuộc trong cuộc sống mình, quay trở lại với những gì khả giác, với những bổn phận có giới hạn, với những nguyên tắc được công thức hóa rõ ràng. Và như vậy người ấy không nhận ra đúng đắn rằng trong khi những điều ấy quả cần thiết (cần thiết theo lý chứ không phải theo tình cảm cuồng nhiệt) – thì người ta vẫn đâu phải cần đến chúng để trốn thoát khỏi những thứ khác.

 Những điều ấy là phương tiện để cho người ta đạt đến sự chấp nhận đích thực đối với cái vô hạn vốn phải thực sự được tìm thấy trong chúng – và là cái không chỉ được đặt ra trước mặt người ta như một phần thưởng cho những việc tốt lành hữu hạn mà họ thực hiện. Dĩ nhiên trong những việc tốt lành này có sự hiện diện của ân sủng (nếu đây là những việc lành đúng nghĩa như đã đề cập). Và ân sủng này, cuối cùng, là chính Thiên Chúa – là ‘ơn phi tạo’ – là Thánh Thần Tình Yêu vĩnh cửu. Thiên Chúa hiện diện đích thân trong những công việc tốt lành đó. Ngài không chỉ là phần thưởng hứa ban cho những kẻ làm việc lành, bởi chính Ngài – trong chân tính của Ngài – là Đấng trao ban những công việc ấy không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho chúng trở thành điều mà chúng nên thành và phải thành (thì mới có thể được gọi là những việc có giá trị đúng nghĩa – tức giá trị cứu độ): đó là chúng trở thành những lối mở dẫn vào sự vô hạn bỏ ngỏ của Thiên Chúa.

 Những công việc và những tình cảm ngay lành xét theo tự nhiên (nếu chúng tồn tại một cách tinh thuần đúng nghĩa) sẽ là những thực tại mà tự thân chúng đáng được tưởng thưởng bằng một phần thưởng nào đó của Thiên Chúa – chứ không phải là chính Thiên Chúa. Còn những “việc lành” của các Kitôhữu (dù công khai hay âm thầm) thì chứa đựng sự vô hạn của chính bản thân Thiên Chúa – Đấng vừa là điều kiện quyết định sự hiện hữu của khả tính của chúng (bởi vậy nên gọi là ân sủng) vừa chính là phần thưởng của chúng (gọi là sự sống đời đời). Và bởi vì Thiên Chúa đã không muốn chọn một thế giới nào khác ngoài cái thế giới mà Ngài đã trao ban chính bản thân Ngài (chính bản thân Ngài, chứ không duy chỉ trao ban những thành quả do Ngài làm ra) cho nên rõ ràng là tất cả những gì hữu hạn chỉ có ý nghĩa trong tư cách là một lối mở dẫn vào cái vô hạn không thể hiểu thấu, trầm lặng và khôn lường.

 Như vậy, chỉ cần một hay hai củ hành ném qua bờ giậu cho người nghèo khó cũng có thể là một bước quặt có tính quyết định – một chút lòng tốt mà trong đó thực sự không hề nhắm kiếm tìm sự biết ơn, thứ tha mà không hề chú ý đến sự kiện rằng mình đang tha thứ, một giọt máu chảy ra từ trái tim và rơi vào đâu đó – thực không thể biết là nơi nào – mà không hề xót xa, thái độ âm thầm chịu nỗi đớn đau cùng cực mà không hề hiểu vì sao – cũng không biết được liệu mình có sẽ còn khả năng chịu đựng. Hay một kẻ cô đơn cùng cực mà không trốn chạy khỏi nỗi cô đơn của mình, cũng không phóng chiếu mình trong nỗi cô đơn đó. Hoặc một người sống đàng hoàng tử tế trong cuộc sống bình thường và do đó bị khinh chê là khờ dại, song vẫn không phẫn nộ phản kháng lại cái điên rồ của một thế giới trong đó con người ngay thẳng bị xem là dại khờ.

 Con người đó cũng không tự vỗ về an ủi mình (để bù trừ cho sự thiếu vắng lời khen ngợi của kẻ khác) bằng cách tự biểu dương và khâm phục tính cách tử tế của mình. Người ấy không âm thầm thu gom những cái tốt của mình lại – để sau này trình làng và gặt hái vinh dự, cũng không kể công với bạn hữu hay vợ/chồng mình nhân khi mình lên tiếng phiền trách vì bị xử tệ. Người ấy chỉ muốn tử tế, đơn giản vậy thôi! Kỳ diệu biết bao một sự tử tế hoàn toàn vô tư, vô cầu. Đó là sự tử tế hoàn toàn hồn nhiên như trẻ thơ. Đó là tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa trong thế giới đời thường. Thử hình dung một người chuyên chăm làm bổn phận mình, người ấy không ngoại tình – trong hành vi và cả trong tâm tưởng – mặc dù bổn phận chung thủy này cơ hồ như đòi người ấy phải chết đi chính mình, cơ hồ như đòi người ấy phải khước từ chính bản ngã. Một hình dung khác, một người cầu nguyện bỗng đột nhiên quên mất rằng mình đang cầu nguyện, đột nhiên quên mất rằng mình đang cần một sự gì đó (và dĩ nhiên là cũng quên mất rằng mình đang cố gắng tranh thủ cái mình cần), người ấy quên cả rằng mình đang lên lời.

 Chỉ còn có Thiên Chúa ở đó thôi – rất trầm lặng, rất âm thầm nhưng cũng rất thực. Không thể thấu hiểu, không thể diễn tả, không thể so sánh, không thể bập bẹ được gì về Ngài – nhưng chính là Ngài đó, rất thực. Ngài ở đó dường như bởi vì ta không còn ở đó. Ta có được Ngài bởi vì ta đã bỏ mình và ra khỏi mình. Ngài ở đó, vì ta – rốt cục – không còn đồn trú trong vành đai bản ngã mình nữa. Nói cho cùng, không thể nào diễn tả xa hơn về cuộc siêu thoát này; vì một khi ta cố diễn nó thành lời trong chính cái khoảnh khắc mà mình đã để bản ngã lại đằng sau, thì lập tức ta đã quay trở về bên trong những lằn mức giới hạn rõ rệt của tình trạng và thực tại mình. Nếu ta có phát biểu về nó (đôi khi đây là điều ta phải làm), thì ta cũng không nhằm làm cho sự phát biểu của mình đóng vai trò phô diễn cái hành động chứa đựng trong lời phát biểu ấy.

 Thực có những giờ phút quyết định như thế. những giờ phút ấy hoàn toàn có thể xảy ra. Nhưng ta không đạt được những giờ phút ấy duy chỉ bằng việc bàn luận về chúng. Bởi chỉ cần có một chút khả năng, người ta có thể ăn nói trơn tru về chúng duy chỉ nhờ nghe người khác kể lại hoặc nhờ ở việc phát hiện ra dấu vết rõ ràng của Thần Khí và ân sủng (dấu vết này thậm chí có thể được tìm thấy nơi những việc làm và những kinh nghiệm phàm tục và tầm thường nhất của đương sự). Vì nếu chúng ta không có một chút kinh nghiệm gì về cái mà ta chỉ đạt được trọn vẹn trong những giờ phút quyết định ấy, thì ta đâu còn thần tính nữa và đâu còn được ân sủng thu hút nữa – trong khi thực sự ta luôn còn thần tính (cho dẫu ta đang dã man vung dao giết người) và luôn luôn được thu hút về phía ân sủng. Nhưng không phải mọi kinh nghiệm đều được ta đón nhận và nắm giữ với tất cả năng lực của lòng mình. Ta không có được sự viên mãn của thời gian và vĩnh cửu trong lòng mình bởi vì ta tự hài lòng với chỉ một thoáng hương vị của nó và mê mải triết lý về chút hương vị bé nhỏ đó thôi.

 Và như vậy câu hỏi vẫn còn: Phải chăng một giờ phút quyết định như thế – giờ phút mà thời gian của đời tôi đạt đến sự viên mãn – đã từng xảy ra? Một câu hỏi điên khùng! Người ta không thể thực sự đặt câu hỏi kiểu đó. Bởi vì chẳng ích gì cho tôi việc tôi có thể kể lại một khoảnh khắc như thế đã từng xảy ra trước đây trong đời mình. Có lẽ tôi có thể tuyên bố như thế. Có lẽ tôi có thể quyết đoán rằng khoảnh khắc ấy đã từng xảy ra hồi tôi còn bé, lúc rước lễ lần đầu, khi tôi mời Chúa ngự vào lòng tôi – một tấm lòng bé nhỏ nhưng chứa chan tình mến Ngài.

 Nhưng khi đặt câu hỏi như vậy, chẳng khác nào tôi cho rằng những gì đã xảy ra vẫn còn có nghĩa lý với tôi bây giờ. Và điều đó hoàn toàn sai. Vì sự viên mãn của thời gian trong đời tôi chỉ thực sự đáng kể khi đó là cái chưa trôi qua. Vấn đề quan trọng là bây giờ hay ngày mai đây, một phút giờ mang tầm vĩnh cửu như thế có xảy đến với tôi hay không. Vì bao lâu con người còn trong thân phận khách hành hương, bao lâu thời gian vẫn còn là thời gian, thì mỗi khoảnh khắc vẫn tựa như  người chạy tiếp sức với bó đuốc trong tay – người ấy không chỉ giữ ngọn lửa rực cháy ấy cho riêng mình mà còn phải trao nó cho người kế tiếp. Chỉ khi người sau nhận bó đuốc và mang nó chạy tiếp thì cuộc chạy của kẻ trước mới khả dĩ có được ý nghĩa và giá trị gì.

 Đời sống quả thực không phải là một tổng hợp của những phần rời rạc riêng biệt (ở đây đang nói đến đời sống tinh thần chứ không phải sự sống thể chất); nhưng toàn thể đời sống xét như một thực thể thống nhất không tách chia được – vận hành qua thời gian và trong một tiến trình trở thành xuyên qua mọi sự. Vì vậy, duy chỉ sự kiện tôi đã được cái gì trước đây sẽ không hề có nghĩa rằng hiện giờ tôi đang có cái đó, song trong quá trình lâu dài này tôi có thể trở thành – một lần nữa trong hiện tại – như mình đã trở thành trước đây. Cái đã qua luôn luôn chỉ có nghĩa một tiếng gọi thúc giục ta hiện thực hóa điều vốn đã từng hiện thực, và đó cũng còn là một lời hứa đảm bảo rằng điều đã từng thành công trong quá khứ cũng sẽ thành công trong hiện tại này. Như vậy chỉ vì sự hiếu kỳ vu vơ hoặc vì nỗi day dứt ăn năn muốn biến quá khứ thành tương lai mà người ta mới quay trở lại với quá khứ của mình – để lục tìm những phút giờ cao cả của vĩnh cửu đã từng xảy ra trong đó.

 Do đó, đừng nên hỏi rằng đã từng có một phút giờ quyết định như thế hay không trong đời mình – một cuộc đời nghèo nàn trống rỗng, một cuộc đời đầy những ảo ảnh ngay cả trong những điều gọi là tốt lành mà ta đã làm. Thay vào đó, tốt hơn nên hỏi một phút giờ như vậy sẽ xảy đến với tôi từ đâu trong quãng đường trước mặt mình. Tôi phải tìm ra nó ở trước mặt chứ không phải ở sau lưng. Và cũng chính ở phía trước mặt tôi là nơi tôi phải gặp thấy lại những phút giờ xưa cũ ấy. Vì những phút giờ mà Thiên Chúa từ nhân tuôn đổ ơn sủng của Ngài trên tôi chỉ có thể còn lại với tôi ở trên đường tôi đang đi tới mà thôi. Kho tàng của quá khứ là sự mở ngỏ của tương lai.

 Vì rõ ràng chúng ta đã hành động là nhằm để có khả năng hành động, đã yêu thương là nhằm để có khả năng yêu thương. Thật ra toàn thể quá khứ của tôi có thể đến lại với tôi, bởi nó cần được bảo toàn hay được cứu độ. Vì một người tìm gặp được Thiên Chúa thì không thể đánh mất gì, và vì một khi chúng ta vẫn còn có thể có một trái tim và khả năng yêu mến Thiên Chúa với trọn tấm lòng mình thì chúng ta chẳng bị hụt mất gì cả.

 Tuy nhiên, cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa ập xuống trên những ai không hết lòng tin vào sứ điệp hồng phúc của ân sủng đó của Ngài, ân sủng mà Ngài không hề tiếc rẻ, ân sủng quyết định tất cả sự sống của ta. Có một thứ tinh thần thực dụng trong đó người ta chỉ biết đến những gì nơi chính mình và nơi con người mà thôi, và thường quên chính điều thực tiễn đệ nhất là Thiên Chúa – là tương lai vĩnh cửu và là ân sủng nhờ đó mình có thể làm cho tương lai vĩnh cửu ấy thành tương lai của chính mình. Sự hoàn thành của tất cả khả năng này không phải ở đâu và lúc nào cũng nhất thiết phải xảy ra kèm theo với cảm xúc và với những giọt nước mắt vui mừng – như chúng ta thường muốn thế.

 Cơ hội hồng phúc này chủ yếu được hứa cho những người mỏi mệt và nặng trĩu trong lòng, những người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vô hình của khổ đau và thất vọng: Phúc cho những ai than khóc, phúc cho những ai đói khát.

 Một năm mới đang về. Một năm như bao năm khác. Một năm của rối ren và thất vọng với chính bản thân tôi và với bao người. Khi Thiên Chúa xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta, Ngài dựng giàn giáo tốt để triển khai công trình. Giàn giáo ấy tốt đến nỗi chúng ta muốn được sống luôn trong đo!. Chỉ có điều trớ trêu là giàn giáo ấy lại bị hạ xuống. Thế rồi chúng ta gọi sự tan rã này là tính mong manh vô thường bi đát của đời sống chúng ta. Chúng ta xót xa và sầu thảm nếu trong viễn tượng của một năm mới chúng ta nghĩ mình không thể gặp thấy gì ngoài sự sụp đổ của tòa nhà cuộc sống mình – cuộc sống mà thực ra đang được xây dựng âm thầm cho vĩnh cửu đàng sau giàn giáo được dựng lên và lại được hạ xuống.

 Không, năm mới đang đến đây không phải là một năm thất vọng hay một năm của những ảo tưởng ru ngủ người ta. Đó là năm của Thiên Chúa, là năm mà trong đó những phút giờ quyết định đang đến gần tôi một cách âm thầm và êm ái, và sự viên mãn của thời gian đang đến để đi vào đời tôi. Tôi có sẽ nhận ra những phút giờ ấy không? Hay những phút giờ ấy vẫn trống rỗng chứ không có gì lạ?    đối với tôi chúng xem ra quá bé nhỏ, quá khiêm tốn và tầm thường?

 Dĩ nhiên xét mặt ngoài thì những phút giờ ấy sẽ không trông có vẻ khác biệt gì so với những khoảnh khắc tốt lành thường ngày của bất cứ ai. Vì thế, tôi có thể dễ dàng bỏ nhỡ không nhận ra những phút giờ ấy: một chút nhẫn nhục làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút cho những người xung quanh tôi; sự bỏ qua một lỗi lầm của người khác; việc dám liều để xây dựng niềm tin thực sự vào một người mà mình có xu hướng không tin tưởng bởi vì mình nghĩ mình đã có những kinh nghiệm không tốt về người đó trước đây; sự chân thành chấp nhận rằng người khác có cơ sở đúng đắn để phê phán mình; sự bao dung đón nhận những vết thương người khác gây cho mình và để nó chết hẳn trong lòng mình chứ không kéo dài nó bằng sự than phiền, sân si, xót xa và báo oán; sự trung thành trong đời cầu nguyện dù không cảm nhận được những “niềm ủi an” hay những “cảm nghiệm sùng ngưỡng sốt mến”; sự cố gắng để yêu thương những người khiến mình bực bội (dù là sự sai quấy hiển nhiên thuộc về họ), và không duy chỉ là cố gắng thuận thảo với họ bằng cách nuốt giận vì thấy như vậy có lợi cho mình; sự cố gắng để nhìn thấy nơi sự “điên dại” của người khác một loại thông minh khác với sự khôn ngoan của mình nhưng đó không hẳn là ngu dại; sự nhẫn nhịn để không đáp lại sự bất bao dung của người khác theo kiểu ăn miếng trả miếng; sự cố gắng để không lấy nhân đức của mình biện minh cho những lầm lỗi của mình; một ý chí cải thiện chính mình khi nhìn thấy tội lỗi nơi người khác và chân tình muốn giúp họ đổi mới; sự xác tín vững vàng rằng mình rất sẵn lòng và rất dễ dàng tự gạt mình và lấp liếm nhiều lỗi lầm và gian ác mà mình vốn nhận thấy nơi bất cứ ai khác; không chì chiết kẻ khác cũng không tự đề cao mình, và nhiều điều khác nữa vốn chỉ thực sự là tốt khi được chuyên cần thực hành.

 Chúng ta chỉ cần cố gắng làm nghiêm túc những bổn phận bình thường ấy trong đời sống hằng ngày. Và tất cả sẽ trở thành lớn lao. Song nếu vì quá phấn khích mà không lượng sức mình, sự việc sẽ hóa ra nguy hại. Vì để sống được như vậy, chúng ta phải là người chịu thiệt, chúng ta sẽ cảm thấy như mình cho đi nhiều mà không nhận lại bao nhiêu. Chẳng có mối lợi nào được thu vén cả – không được gì trước mắt người đời, cũng không được gì bên trong lòng mình (chẳng hạn, một lương tâm tốt lành hay một cảm thức rằng mình đã đắc thủ được nhiều nhân đức!); vì thậm chí những mối lợi ấy cũng không còn sức hấp dẫn nào đối với mình.

 Rồi, một khi đã biết làm những việc nhỏ nhặt ấy với một thái độ thích đáng (tự căn bản đây chính là thái độ Kitô giáo, dù ta không ý thức như vậy) – sẽ đến lúc mà những nguyên tắc ứng xử hằng ngày thực sự trở thành chuẩn mực đạo đức và luân lý, trở thành cửa ngõ dẫn ta vào vĩnh cửu bất diệt. Sẽ đến lúc ta không được tưởng thưởng gì thêm – nghĩa là, ta không nhận được bất cứ gì đặc biệt dù bên ngoài hay ở trong lòng mình, vì Thiên Chúa đích thực hiện diện trong chính cái “không gì cả” ấy, và đánh mất hữu hạn lại chính là bắt được vô hạn. Hơn nữa, chính xuyên qua việc đánh mất những cái hữu hạn mà ta nhận thức được rằng mình đang đạt được cái vô hạn. Cuộc sống của ta là một cuộc trả giá chính bản thân mình để lấy cái vô hạn. Để được Thiên Chúa, ta không thể trả giá nào rẻ hơn.

 Ta cần nhận hiểu chiều kích thần nhiệm ấy của cuôc sống thường ngày. Chỉ khi nhận hiểu như vậy, ta mới có thể tự nguyện nỗ lực – trong tinh thần con cái Thiên Chúa – để chu toàn lề luật vì lòng kính trọng đối với quyền cai quản tối cao trên vũ trụ (việc này ta không bao giờ có thể làm xong trọn vẹn; vì đây là việc khó chịu, làm ta ấm ức như một kẻ lao động khổ sai). Chiều kích thần nhiệm ấy của cuộc sống thường ngày chính là ân sủng. Hoàn toàn là ân sủng. Nhưng dĩ nhiên điều đó không có nghĩa rằng ta không cần phải làm gì cả ngoại trừ cố chấp đợi chờ cho đến khi ân sủng của Thiên Chúa cưỡng bức ta đấu tranh chống lại ý muốn của ta. Sự cưỡng bức của ân sủng, nếu có thể gọi như thế, chính là ở chỗ ta được trao ban ý chí hướng thiện – và ý chí hướng thiện, đành rằng tiên vàn do Chúa ban, song đó cũng là thành quả do công phu đắc thủ của con người. Thái độ thích đáng của ta là tập cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian qua việc sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày.

 Sống chiều kích thần nhiệm ấy, tức là ta đang sẵn sàng để cảm nhận những khả năng tột đỉnh của cuộc sống, đó là những khoảnh khắc hy sinh anh hùng, những thử thách khủng khiếp, sự điên rồ thánh thiện và cuối cùng là nỗi chết của chính mình – ta chết trong cái chết của Đức Kitô! Làm sao ta có thể đón nhận những khoảnh khắc ấy nếu ta không tỉnh thức sẵn sàng và – trong khả năng hết sức có thể của mình – tự chuẩn bị cho mình những phút giờ tột đỉnh ấy, những phút giờ mà ta không thể nắm trước được, những phút giờ xảy đến ngoài mọi tiên lượng của ta?

 Bất cứ ai chưa từng cảm nếm vĩnh cửu trong thời gian sẽ kinh hoàng và lẩn trốn những phút giờ ấy. Họ khiếp sợ; họ cảm thấy mình bị đòi hỏi quá sức chịu đựng của mình. Thậm chí họ không nhận ra rằng ân sủng lớn lao của đời sống đang ở ngay trước mặt, trong tầm tay họ. Họ phớt lờ, họ cho rằng mình không thể “như thế” được. Và rõ ràng, họ không thể “như thế” được bởi vì họ quá nhu nhược và tự ti trong đánh giá chính bản thân mình.

 Cần phải tập sống chiều kích thần nhiệm của cuộc sống thường ngày. Nó khác hẳn với một thái độ “trung thành với bổn phận” nào đó của những người quá tủn mủn chi li, họ “đạo đức” một cách cứng nhắc và không ước ao gì khác hơn ngoài việc tiếp tục mãi mãi làm một “viên chức hạng quèn” của Thiên Chúa, miễn là họ luôn luôn nhận được “tiền lương” ngay trong cuộc sống hiện tại này. Dĩ nhiên là những công việc nhỏ nhặt thường ngày vẫn còn đó và chúng ta không thể thoát ra được. Thánh nhân cũng phải ngáp, cũng phải cạo râu … như bất cứ ai. Không có gì chắc chắn rằng những phút giờ sẽ được ban cho chúng ta trong những ngày tháng sắp tới đây sẽ là những phút giờ vĩ đại và đặc biệt quan trọng – ngay cả dù xét theo quan điểm của chính chúng ta. Vậy thì chắc chắn phải có một vĩnh cửu trong cuộc sống thường ngày. Vì chúng ta biết rằng mọi con người mà chúng ta gặp thấy xung quanh cuộc sống mình – có vẻ như quá đỗi bình thường thôi – song họ đều có đủ giá trị để trở thành một vĩnh cửu, và trở thành vĩnh cửu ngay trên mặt đất này, dù cho tất cả những gì họ làm dường như chỉ là nhọc nhằn lo toan sinh kế, cưới vợ lấy chồng, bình luận chính trị hoặc xem bóng đá hay tán gẫu về nghệ thuật Picasso …

 Có lẽ chính vì lý do này mà những phút giờ quyết định ấy chỉ đến với chúng ta giữa chính nhịp sống thường ngày. Nhiều khoảnh khắc của nhịp sống thường ngày sẽ chẳng hề có ý nghĩa bước quặt quyết định gì cả. Dĩ nhiên chúng ta không thể dốc toàn lực mình mọi nơi mọi lúc. Và để có được sự tự do lớn nhất thì ta phải từ bỏ nhiều nhất, bởi vì thực tại thiết cốt nhất được đặt nền móng trên khả năng thâm sâu nhất và đây là một món quà được ban tặng cho chúng ta. Khả năng dốc được toàn lực mình trong sự tự do hoàn toàn chính là món quà tặng vĩ đại nhất. Khả năng ấy không được ban cho chúng ta trong hết mọi phút giây. Tuy nhiên, khả năng ấy hoàn toàn có thể được ban cho chúng ta trong một tình huống rất bình thường của cuộc sống thường ngày. Ai có thể nói trước được khi nào thì phút giờ ấy xảy đến? Chúng ta luôn luôn phải bước vào một tương lai bất quyết, với những rủi ro và những cơ hội mà tương lai bất quyết ấy bao hàm. Bất chợt, trong khi chúng ta chỉ cảm nhận được rất mù mờ về cái bất quyết ấy khi chấp nhận nó thì sự hoàn thành lớn lao sẽ được ban cho chúng ta. Dù sao đi nữa, sự hoàn thành ấy là của chúng ta vì chúng ta đã chấp nhận nó trong đức tin (dù không biết nó).

 Một năm với những khả năng như thế đang đến với chúng ta. Chúng ta phải mừng năm mới với đức tin cao độ hơn bao giờ – Hãy bứt ra khỏi sự yếu nhược, sự chán chường và bất tín cố hữu của mình. Tương lai đang đến. Những kẻ điên rồ nghĩ rằng tương lai đến để tìm kiếm quá khứ như thể một ám ảnh khổ lụy và chết chóc. Kỳ thực nó đến vì nó muốn trở thành vĩnh cửu. Nơi những con người chiếm hữu được Thiên Chúa thì cái quá khứ này luôn hiện diện vô giới hạn. Tương lai vĩnh tồn ấy đang đến với chúng ta – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi, xuyên qua những phút giờ quyết định của sự tự do đầy năng lực tin, cậy, mến.

 Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì khác nữa ngoài Thiên Chúa – trong sự viên mãn của thời gian đời tôi. Mà này, rất có thể rằng chính cái khoảnh khắc ngắn ngủi lúc này đây sẽ không còn chuyển giao ngọn đuốc của sự sống vĩnh cửu cho một khoảnh khắc nào khác, thay vào đó ngọn đuốc bây giờ sẽ tự nó sáng soi như  ánh sáng bất diệt. Biết đâu đó, như Thánh Tông Đồ Phaolô nói, tôi lao về phía trước, tôi không ngoái lại đằng sau. Tôi không nghĩ  rằng mình đã đến đích, nhưng tôi lao về phía trước nhằm để đến đích. Đứng trước thềm năm mới này, chúng ta cũng có thể thốt lên lời cầu “Maranatha!” – Lạy Chúa, xin hãy đến! Vì quả Chúa đang đến – đang đến trong năm mới của đời tôi. Năm mới này sẽ đem lại gì cho tôi? Còn gì nữa nếu không phải là Đức Giê-su Kitô chịu đóng đanh và Phục Sinh! Còn gì nữa nếu không phải là mầu nhiệm sự chết và sự sống của Ngài trong sự sống và sự chết của tôi! Còn gì khác nữa nếu không phải là ánh sáng chói lọi của Ngài trong đức tin nhọc nhằn của tôi, lời hứa của Ngài trong đức cậy truân chuyên của tôi, tình yêu của Ngài dành cho tôi trong nỗ lực không ngừng tìm kiếm Ngài trên con đường yêu mến và chia sẻ định mệnh của Ngài.

 Một năm mới lại về, năm của Chúa! 

 Karl Rahner, S.J.

(Lm. Lê Công Đức dịch)

(Trích từ Xuân Bích Việt Nam)

 

 

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giái Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.
7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh 'ngồi lê đôi mách', lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

12. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

13. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

14. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ – một điều mà LM này bịa đặt – về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

Nên thánh không hệ tại ở việc « nhắm mắt và có cái đầu như trên các hình ảnh đạo đức ». Để nên thánh, « không cần phải là giám mục, linh mục hay tu sĩ », « sự thánh thiện không phải chỉ dành riêng cho những ai có khả năng tách ra khỏi những nhiệm vụ thường ngày để chỉ chú tâm cầu nguyện ». Nhưng « đúng hơn chính khi sống chứng tá Kitô hữu của chúng ta mà chúng ta được mời gọi nên thánh », và « nên thánh không thể được thực hiện mà không có niềm vui ». Đó là tóm tắt bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 19/11/2014 tại quảng trường thánh Phêrô trước chừng khoảng 15.000 người.

 « Và nếu chúng ta là bậc cha mẹ hay ông bà, nên thánh bằng cách dạy đức tin và cuộc sống  cho con cháu ». « Cần phải kiên nhẫn nhiều đối với nhiệm vụ này, để là những bậc cha mẹ tốt, để là những bậc ông bà tốt, và chính trong sự kiên nhẫn này mà sự thánh thiện nảy sinh ». Đức Thánh Cha còn khuyên kiê nhẫn nếu « buổi tối con cái của bạn xin bạn thảo luận về những vấn đề của nó, và bạn đang cảm thấy mệt mỏi, bạn không muốn nghe nó, trái lại, hãy ngồi xuống, dành thời gian lắng nghe nó, và khi lắng nghe nó bạn sẽ tiến bước đến sự thánh thiện ». Với những bước nhỏ tiến tới sự thánh thiện, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lấy ví dụ một người phụ nữ đi chợ mua sắm, gặp các bạn nữ của mình, và rồi đi đến chỗ ngồi lê đôi mách. Nếu người phụ nữ này không chiều theo cám dỗ nói xấu người khác, thì đó cũng là một bước tiến tới sự thánh thiện.

Từ đó Đức Thánh Cha khẳng định : « Chính khi sống các hoạt động của mọi ngày bằng tình yêu mà chúng ta được mời gọi nên thánh, dù thân phận chúng ta là gì : người đã kết hôn hay độc thân, cha mẹ hay ông bà, người tu trì… Mọi bậc sống đưa chúng ta đến sự thánh thiện nếu chúng ta sống nó trong sự hiệp thông với Chúa và phục vụ anh em. Lời mời gọi nên thánh của Thiên Chúa là một lời mời gọi sống và hiến dâng cho Ngài mỗi giây phút của cuộc sống chúng ta cách vui tươi, bằng cách biến nó thành một sự dâng hiến tình yêu cho những người xung quanh chúng ta ».

Tý Linh ( XBVN )

theo Radio Vatican

Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?

Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt 25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người, và nếu thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ không phải là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều cần thiết; nhất là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, đang muốn gởi tới tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời sống Tin Mừng của tôi.

Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới đoạn Tin Mừng Luca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều (xem Lc 7,36-50), trong đó Đức Giêsu khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”.

Trước hết số yến bạc có là năm, hai, hay một (NB: dụ ngôn này trong Luca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19,11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và nhiều điều khác nữa; thế nhưng Kitô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ trao ban cho chúng ta một thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu tha thứ, và nén bạc này thì mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giêsu Kitô đã dùng cả cuộc đời Người để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Kitô hữu tìm thấy chính là ‘ơn cứu độ’ Chúa ban. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều tự biết mình đã nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội và trong suốt năm tháng cuộc đời, kẻ năm, người hai… tùy theo nhận định riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi. Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước biết mình nhận được một số yến bạc nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc khác; “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, còn người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên đào lỗ chôn giấu. Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được tha ít (đúng hơn cho là mình được tha ít) thì yêu mến ít” (Lc 7,43.47). Thái độ và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế tôi đâm sợ…” Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ thứ tha, thì cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa quá đòi hỏi và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và đôi khi còn sống trong sợ hãi. Đức Giêsu đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần tới độ một số kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ vì họ cảm thấy mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì tới lòng nhân lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).

Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra trước Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận ra mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời phán quyết của Ông Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm thấy mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ của đầy tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã trong sạch và không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” để rồi phải nghe phán quyết nghiêm thẳng của Con Người quang lâm: hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và sử với nó theo đúng luật công bằng: “hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc lóc nghiến răng’, vì sẽ không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như thế.

Kitô hữu sẽ là những người ngày cánh chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28), không phải vì họ đã thánh thiện và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời Kitô hữu của mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ yên lòng ‘ngẩng đầu’ tiến đến trước mặt ‘Ngài Quan Án’ từ nhân, giầu lòng thương xót, và hay thứ tha.

Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì chúng con đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. Amen.

Chủ chăn không được độc đoán nhưng phải khiêm tốn và biết lắng nghe

Chủ chăn không được độc đoán nhưng phải khiêm tốn và biết lắng nghe

Ý thức chức thừa tác là một ơn Chúa ban chứ không phải vì mình thông minh, tài giỏi, tốt lành hơn người khác, giúp các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế biết sống khiêm tốn, cảm thông, thương xót, biết lắng nghe và học hỏi từ người khác, chứ không độc đoán, làm như thể cộng đoàn là của riêng mình và mọi người phải quỳ phục dưới chân mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với háng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi găp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 12-11-2014.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý các đức tính mà các vị thừa tác của Giáo Hội phải có để sống việc phục Giáo Hội một cách đích thực và phong phú.

Mở đầu bài huấn Đức Thánh Cha nói: Trong bài giáo lý trước chúng ta đã minh nhiên sự kiện Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên Ngài qua chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế. Chính nơi các vị Chúa Giêsu hiện diện, trong quyền lực của Thần Khí Ngài, và tiếp tục phục vụ Giáo Hội bằng cách dưỡng nuôi đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội. Như thế, các chức thừa tàc này là một ơn lớn lao Chúa ban cho mỗi cộng đoàn kitô và cho toàn thể Giáo Hội, trong nghĩa nó là một dấu chỉ sống động sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Vậy chúng ta có thể tự hỏi đâu là điều được đỏi hỏi nơi các vị thừa tác này của Giáo Hội, để họ có thể sống việc phục vụ của mình một cách đích thật và phong phú?

Trong các ”Thư mục vụ” gửi các môn đệ của mình là Timoteo và Tito, tông đồ Phaolô cẩn thận đừng lại trên gương mặt của các giám mục, linh mục và phó tế, bằng cách phác họa ra ơn gọi của các vị và các đức tính cần được nhận ra nơi những người được chọn và trao phó cho các chức thừa tác này.

Thật là biểu hiệu, cùng với các ơn gắn liền với đức tin và cuộc sống tinh thần, có vài đức tính rất nhân bản được liệt kê ra: sự tiếp đón, thanh đạm, kiên nhẫn, hiền dịu, có thể tin cậy, có con tim tốt. Đó là mẫu tự, đó là văn phạm nền tảng của mỗi chức thừa tác. Nó phải là văn phạm nền tảng của mỗi giám mục, mỗi linh mục, mỗi phó tế. Phải, vì nếu không có bẩm chất xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, trân qúy và liên lạc với các anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì không thể cống hiến một phục vụ và một chứng tá thực sự tươi vui và đáng tin cậy.

Thế rồi còn có một cung cách nền tảng mà thánh Phaolô khuyên nhủ các môn đệ của người và tất cả những ai được thụ phong chức thừa tác mục tử. Thánh tông đồ khích lệ họ liên tục làm sống lại ơn đã nhận lãnh (X. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Điều này có nghĩa là họ phải luôn luôn sống trong ý thức rằng mình không phải giám mục, linh muc hay phó tế bởi vì mình thông minh hơn, tài giỏi hay tốt hơn các người khác, nhưng chỉ vì đó là một ơn, một ơn của tình yêu Thiên Chúa đã rộng ban, trong quyền năng Thần Khí của Người, cho thiện ích của dân Người. Ý thức này thật là quan trọng, và nó là một ơn cần phải xin mỗi ngày.

Thật thế, một Mục tử ý thức được rằng chức thừa tác của mình chỉ nảy sinh duy nhất từ lòng thương xót và từ con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ quyền uy, làm như thể là tất cả mọi người phải qùy dười chân mình và cộng đoàn là của riêng mình, là vương quốc của mình.

Ý thức rằng tất cả là quà tặng, tất cả là ơn thánh, cũng giúp một Mục tử không rơi vào chước cám dỗ đặt mình làm trung tâm sự chú ý và chỉ tin tưởng nơi chính mình. Thật khốn cho một giám mục, một linh mục, hay một phó tế nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, luôn luôn có câu trả lời đúng cho mọi chuyện, và không cần tới ai hết! Trái lại, ý thức mình là người đầu tiên là đối tượng lòng thương xót và cảm thương của Thiên Chúa phải dẫn đưa một vị thừa tác tới chỗ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông đối với người khác. Tuy ý thức là mình được mời gọi can đảm giữ gìn kho tàng đức tin (x. 1 Tm 6,20) người ấy sẽ lắng nghe dân chúng. Thật vậy, họ ý thức được rằng mình luôn luôn học hỏi được điều gì đó, cả từ những người còn xa đức tin và xa Giáo Hội. Rồi với các anh em mình tất cả phải đưa tới chỗ có một cung cách hành xử mới, mang dấu vết của sự chia sẻ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự hiệp thông.

Các bạn thân mến, chúng ta phải luôn luôn nhớ ơn Chúa, bởi vì nơi con người và trong chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế, Người tiếp tục hướng dẫn và đào tạo Giáo Hội Người, khiến cho nó lớn lên dọc dài con đường nên thánh. Đồng thới chúng ta cũng phải tiếp tục cầu nguyện, để cho các Mục Tử của các cộng đoàn chúng ta là hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu thương của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ các nườc Âu châu và Bắc Mỹ cũng như tín hữu đến từ Nam Phi, Indonesia, Nhật Bản, Argentina, Mehicô và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng Arập, đặc biệt đoàn hành hương đến từ Giordania, Đức Thánh Cha khẳng định rằng lời mời gọi của Thiên Chúa luôn luôn là hoa trái lòng quảng đại, cảm thông và thương xót của Người. Ngài xin họ cầu nguyện cho các chủ chăn, để các vị thi hành chức thừa tác với lòng khiêm nhường, tinh thần phục vụ và biết lắng nghe, và trở thành hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu của Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa chúc lành cho họ và che chở họ khỏi kẻ dữ.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ngài nhắc tới kỷ niệm 25 năm lễ phong chân phước cho tu huynh Alberto Adam Chmielowski. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi người là ”Bổn mạng của sự thay đổi khó khăn của đất nước chúng ta và Âu châu”. Chúng ta hãy học hỏi nơi thánh nhân việc thực thi tình yêu thương xót đối với những người cần được trợ giúp là hình ảnh sống động của Chúa Kitô.

Với các tín hữu Mehicô Đức Thánh Cha chia buồn về vụ các sinh viên học sinh mất tích, nhưng thật ra là bị ám sát. Thực tại thê thảm này của nạn tội nằm phạm đàng sau việc buôn bán ma túy. Nó liên quan tới anh chị em và gia đình anh chị em.

Trông thấy một nhóm quân nhân Chile Đức Thánh Cha nói trong những ngày này chúng ta đang kỷ niệm 30 năm ký kết hiệp định hòa bình giữa Argentina và Chile, liên quan tới việc tranh chấp biên giới giữa hai bên. Hiệp định đã có thể ra đời nhờ ý chí đối thoại và sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II và Đức Hồng Y Samore. Đức Thánh Cha cầu mong tất cả các dân tộc đang xung khắc và tranh chấp nhau liên quan tới biên giới, văn hóa và mọi lý do khác tìm giải quyết chúng qua việc đối thoại, chứ không qua sự tàn ác của chiến tranh.

Với các đoàn hành hương nói tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các Nữ tu Scalabrini, các Nữ tu Cát minh thừa sai của Chúa Giêsu Hài đồng đang họp tổng tu nghị, các sinh viên và giáo sư Phân khoa Khoa học xã hội của Đại học giáo hoàng Salesien nhân kỷ niệm 25 năm thành lập; các gia đình có con cái là nạn nhân giao thông và những người bị mất tích. Ngài cầu nguyện cho những người đã thiệt mạng vì các tai nạn lưu thông cũng như cho những người đã không bao giờ trở về với tình yêu thương gia đình.

Sau khi xướng tên của nhiều nhóm khác Đức Thánh Cha cầu chúc chuyến hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ củng cố nơi họ ý thức thuộc gia đình Giáo Hội.

Chào các bạn trẻ, các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài nhắc cho mọi người biết hôm thứ ba vừa qua Giáo Hội mới mừng lễ thánh Martino thành Tours. Ngài xin cho gương bác ái lớn lao của thánh nhân nêu gương sống hiến thân cho các bạn trẻ; lòng tín thác của người nơi Chúa Kitô Cứu Thế nâng đỡ các người đau yếu trong những lúc khổ đau; và sức mạnh tinh thần của thánh nhân nhắc nhớ cho các cặp vợ chồng mới cưới lấy đức tin làm trung tâm điểm cuộc sống hôn nhân.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho tất cả mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sống chân tình

Sống chân tình

Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.

Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống. Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào”. Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là thầy. Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.

Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.

Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói “Con người ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”.

Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.

Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: “Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao”. Hãy soi đời mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.

Hãy sống trong sự thật

Hãy sống trong sự thật

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.

Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.

Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.

Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.

“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa – yêu người.

 

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư 29-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng…Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng ”Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: ”Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như từ Nigeria, Ấn Độ, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình và Ba Tây.

Nhắc tới ngày lễ các Thánh Nam Nữ ngày mùng 1 tháng 11 sắp tới, Đức Thánh Cha xin các tín hữu Ba Lan cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người nam nữ đã biết cộng tác với ơn thánh Chúa và có can đảm làm chứng cho đức tin, đức cậy và đức mến trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy học hỏi nơi họ để trở nên thánh trong thời đại chúng ta.

Ngài khuyến khích các bạn trẻ biết noi gương các Thánh, người đau yếu biết dâng các khổ đau để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những ai cần hoán cải, và các cặp vợ chồng mới cưới lo lắng cho sự trưởng thành của đức tin trong cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Paul VI PP

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.

Khi tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma.
Áo lễ ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.

Trong số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng, trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.

Đầu thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình bày.
Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm (26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài vốn là một luật sư, làm chủ báo ”Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.

Thầy Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.

Sau 28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu.

Đức TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli.
Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng 6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ ”vinh quang và quyền lực phàm nhân”.

Đứng trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích.
Ngài cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì phê bình ĐGH là bất động.

Đức Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima, Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu, và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia.
Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản.
Đức Phaolô 6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội, thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh ngắn, hưởng thọ 81 tuổi.
Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Manila, Philippines.
Bài giảng của ĐTC

”Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn Tin Mừng: ”Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy. Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.

Chắc chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: ”Và hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là – đứng trước bất kỳ loại quyền bính nào – cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.

Chúa không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên, mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống Tin Mừng là ”một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và Thiên Chúa yêu mến ”sự mới mẻ ấy” dường nào! ”Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.

Đây chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại, không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống – với đôi chân đặt vững trên mặt đất – và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.

Chúng ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt – Sinodo có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có hy vọng.
Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: ”chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2). Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn, xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015. Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi (1 Cr 3,6).

Chân phước Phaolô 6

Trong ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: ”Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại, chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp .. với những nhu cầu gia tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc Apostolica sollicitudo).

Đối với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!

Trong nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã ghi chú: ”Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P. Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất hiện ở chân trời.

Đức Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi dành trọn cuộc đời của Người cho ”sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để ”Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu thương của tất cả mọi người và là ngừơi ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp Ecclesiam Suam, Lời Tựa).

Ý nguyện và kinh Truyền Tin

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến tranh.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.

ĐTC cũng nói rằng ”Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii nuntiandi của Người, qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.

ĐTC không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Trả về

Trả về

Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
 
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
 
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
 
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
 
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
 
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
 
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
 
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. 
 
Sưu tầm

Y phục xứng kỳ đức

Y phục xứng kỳ đức

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
 
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

a. Điều khó hiểu
 
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán“. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

b. Ý nghĩa dụ ngôn
 
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “cáctá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
 

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới : người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới
 
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo,trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

VATICAN. Chiều tối ngày 9-10-2014, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, cho biết trong 8 phiên họp khoáng đại những ngày qua, đã có tổng cộng 180 nghị phụ phát biểu, thêm vào có có 80 vị phát biểu trong các giờ thảo luận tự do.

Sáng ngày 10-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC, trong vòng 90 phút, các nghị phụ đã nghe các bài phát biểu của các nam nữ dự thính viên chưa lên tiếng trong những ngày trước đây.

Tiếp đến, sau 30 phút giải lao, các nghị phụ đã nhóm họp trong 1 tiếng rưỡi đồng hồ để bầu vị điều hợp và tường trình viên trong 10 nhóm nhỏ: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm tiếng Tây Ban Nha.

Ban chiều, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 10, từ lúc 4 giờ rưỡi, với sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Các đại biểu của 8 Giáo Hội Kitô anh em đã lên tiếng trong dịp này.

Đứng đầu là Đức TGM Chính Thống Athenagoras, đại diện tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, tiếp đến là Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ thuộc tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga. Các vị còn lại là đại diện Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte Ai Cập, Chính Thống Siri bên Liban, đại diện Liên hiệp Anh giáo, Tin Lành Luther, Tin Lành cải cách và Liên hiệp Tin Lành Baptist thế giới.

Cuối tuần này, 11 và 12-10, các nghị phụ được nghỉ, nhưng ban chuyên gia phải cùng với ĐHY Peter Erdoe, Tổng tường trình viên, đúc kết các bài phát biểu để soạn thành bản tường trình sau phần thảo luận để trình bày trong phiên khoáng đại thứ 11 vào sáng thứ hai, 13-10 tới đây, trước khi các nghị phụ nhóm trong 6 cuộc hội thảo nhóm.

Nội dung phiên nhóm thứ 7 và thứ 8 ngày 9-10-2014

Trong phiên khoáng đại thứ 7 sáng thứ 5, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 184 nghị phụ, các nghị phụ dành phần đầu để tiếp tục bàn về những hoàn cảnh hôn nhân khó khăn, và dành phần hai để bàn đề vấn đề cởi mở đối với sự sống, cụ thể là việc sinh sản, làm cha làm mẹ có trách nhiệm, vấn đề ngừa thai.

– Mở đầu, ông bà dự thính viên, Arturo và Hermenlinda As Zamberline, đặc trách ”êkip Đức Bà” ở Brazil, đã được mời lên tiếng.

Phong trào Đức Bà này được cha Henri Caffarel thành lập từ năm 1938 và hiện có mặt tại 70 quốc gia với 137.200 thành viên trên thế giới trong đó có 45.500 người ở Brazil.

Ông bà Zamberline thành hôn từ 41 năm nay, có 3 người con và các cháu. Trong bài trình bày chứng từ, ông bà xin Giáo Hội trình bày rõ ràng đạo lý của mình để tránh sự hoang mang nơi các tín hữu vì các linh mục đưa ra những lời khuyên bảo trái ngược nhau về vấn đề kiểm soát sinh sản. Cần giúp các tín hữu Công Giáo vâng phục giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ngừa thai.

Ông bà nói: ”Xét vì bầu không khí trầm trọng hiện nay, chúng ta phải nhận rằng có nhiều đôi vợ chồng Công Giáo, cả những người tìm cách sống hôn nhân một cách nghiêm túc, cũng cảm thấy không bị buộc sử dụng các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên mà thôi. Và họ thường không bị các cha giải tội sửa sai, nếu các đôi vợ chồng ấy cởi mở đối với sự sống và loại bỏ phá thai.” Ông bà Zamberline nhận xét rằng nhịp sống ngày nay khiến cho nhiều đôi vợ chồng khó tìm được thời giờ để học hòi về cách kế hoạch hóa gia đình theo phương pháp tự nhiên. Các phương pháp này bị ngộ nhận là không chính xác và hiệu nghiệm, chỉ vì không được giải thích đúng đắn và vì thế người ta áp dụng sai.

ông Bà Zamberline cũng lấy làm tiếc vì trong các bài giảng và các dịch vụ đón tiếp của Giáo Hội không nhấn mạnh về đạo lý của Thông điệp Humanae vitae, sự sống con người. Họ nói:

”Kính thưa ĐTC và các nghị phụ, cùng quí vị, nếu các đôi vợ chồng tìm được ánh sáng và nâng đỡ nơi hàng giáo sĩ, thì đó là một khích lệ rất lớn. Sự kiện những lời khuyên của các linh mục dành cho các đôi vợ chồng nhiều khi tương phản nhau càng làm gia tăng sự hoang mang nơi các giáo dân. Chúng con xin các ngài mau lẹ dạy các linh mục và các tín hữu những đường hướng chính của một nền sư phạm mục vụ để giúp họ chấp nhận và tôn trọng những nguyên tắc của thông điệp Humanae vitae. Theo họ cần cấp thiết phổ biến rộng rãi một đường hướng dễ dàng và chắc chắn đáp ứng những đòi hỏi của thế giới ngày nay, không làm thương tổn nòng cốt của luân lý Công Giáo

”Tuyệt đối cần hướng dẫn các đôi vợ chồng hướng về sự hoàn hảo nhân bản và Kitô trong quan hệ tính dục. Quan hệ tính dục là một yếu tố thánh hóa. Tính dục ngày nay đang cần đượ ccứu thoát khỏi thái độ dâm ô bệnh hoạn thu hẹp con người vào một chiều kích duy nhất.

– Trong cùng phiên họp sáng ngày 9-10, ĐHY André Vingt-Trois, Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM mạnh mẽ chống lại ”não trạng ngừa thai” khiến cho nhiều tín hữu Công Giáo nghĩ rằng dùng các phương tiện ngừa thai nhân tạo không phải là tội. Các đôi vợ chồng Công Giáo thường không tin rằng dùng các phương tiện này là tôi nên họ không xưng chúng khi đi xưng tội và cứ bình tâm rước lễ như thường. ”Vì thế, – ĐHY nói – cần khuyến khích một tâm thức cởi mở đối với sự sống, có sự đánh bại não trạng ngừa thai và sự lan tràn kiểu mẫu nhân loại học cá nhân chủ nghĩa, đưa tới tình trạng suy sụp dân số ở mức độ trầm trọng tại một số nước, với những hậu quả về mặt xã hội và nhân bản mà hiện nay người ta không quan tâm đủ”.

– Trong các bài phát biểu khác, một số nghị phụ tái khẳng định hồng ân sự sống cũng như đức khiết tịnh là những giá trị căn bản của hôn nhân Kitô, đồng thời nhấn mạnh phá thai là tội ác nặng nề. Có nghị phụ nói đến thảm trạng của nhiều gia đình, chẳng hạn ở Á châu, với những vụ giết trẻ em, bạo hành phụ nữ, buôn người. Vì thế cũng cần đề cao ý niệm công lý trong số các nhân đức cấu thành gia đình.

– Về vấn đề trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái, và những giáo huấn đức tin, trách nhiệm này đứng hàng đầu và cần được quan tâm đặc biệt. Ngoài ra, việc mục vụ cho các trẻ em có thể tạo nên môi trường tiếp xúc với những gia đình ở trong hoàn cảnh khó khăn.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh tới ảnh hưởng tiêu cực của việc ngừa thai đối với xã hội, làm giảm bớt số trẻ em sinh ra. Đứng trước tình trạng đó, các tín hữu Công Giáo không thể im lặng, trái lại cần mang lại một sứ điệp hy vọng, theo đó các trẻ em có vai trò quan trọng, mang lại sự sống và niềm vui cho cha mẹ và củng cố đức tin cũng như việc thực hành đạo.

Sau cùng, các nghị phụ nói đến vai trò thiết yếu của giáo dân trong công tác tông đồ gia đình, loan báo Tin Mừng cho gia đình. Ví dụ các phong trào giáo dân có thể tháp tùng các gia đình gặp khó khăn.

Phiên họp thứ 8

Trong phiên khoáng đại thứ 8, từ lúc 4 giờ rưỡi đến 7 giờ chiều ngày thứ năm, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 181 nghị phụ, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt đã bàn về đề tài ”Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục: thách đố giáo dục nói chung và nền giáo dục Kitô trong những hoàn cảnh gia đình khó khăn”, như được nhắc đến trong chương 2 thuộc phần thứ 3 của Tài liệu làm việc.

Trước tiên, công nghị tái khẳng định ơn gọi sự sống như một yếu nền tảng của gia đình; và từ đó các nghị phụ kêu gọi các tín hữu hãy đào sâu kiến thức về thông hiệp Humanae vitae (Sự sống con người) do ĐGH Phaolô 6 ban hành năm 1968, và cũng hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc dùng các phương pháp tự nhiên để điều hòa sinh sản và không chấp nhận việc ngừa thai bằng các phương pháp nhân tạo. Kết hiệp và sinh sản là hai điều không tách rời khỏi tác động vợ chồng. Công nghị cũng mạnh mẽ lên án sự lèo lái các hệ di truyền và việc giữ các phôi thai đông lạnh.

– Ngoài ra, nhiều nghị phụ Phi châu tố giác xu hướng của một số nước và tổ chức ở thế giới tây phương trình bày một số ý niệm như phá thai và đồng tính luyến ái như những ”nhân quyền” và đặt điều kiện cho các nước nghèo phải chấp nhận và thi hành những ý niệm ấy thì mới được nhận viện trợ kinh tế. Về vấn đề này, một số nghị phụ nêu rõ sự kiện thành ngữ ”các quyền sức khỏe tính dục và sinh sản” không được định nghĩa rõ ràng trong công pháp quốc tế, nên rốt cuộc chúng hàm chứa những nguyên tắc mâu thuẫn với nhau, như một đàng người ta lên án sự cưỡng bách phá hai, nhưng đàng khác lại cổ võ phá thai an toàn, hoặc một đàng bảo vệ chức phận làm mẹ, nhưng lại thăng tiến sự ngừa thai. Tuy việc cổ võ những thứ gọi là ”nhân quyền” như thế không có giá trị bó buộc, nhưng nó cũng là một nguy cơ, vì nó có thể ảnh hưởgn tới việc giải thích các qui luật khác, đặc biệt là trong cuộc tranh đấu chống lại nạn kỳ thị phụ nữ.

– Rồi công nghị tái khẳng định tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn phối, vì việc cử hành đám cưới ngày càng bị thu hẹp vào chiều kích xã hội và pháp lý, thay vì chiều kích tôn giáo và tinh thần. Việc chuẩn bị hôn phối bị những cặp đính hôn coi là một sự áp đặt, một nghĩa vụ phải chu toàn, và họ tham dự một cách miễn cưỡng, không xác tín, và do đó các khóa chuẩn bị ấy rất ngắn. Thực ra, hôn nhân là một ơn gọi cả đời, việc chuẩn bị hôn nhân phải dài và sâu xa, như trong trường hợp đời sống tu trì. Các nghị phụ cũng nhận thấy nơi những cặp chuẩn bị kết hôn thiếu ý thức về giá trị bí tích của mối dây hôn phối, đến độ có thể nói việc cử hành lễ cưới không nhất thiết là cử hành bí tích hôn phối.

– Về vấn đề làm sao để thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu được nhanh chóng hơn: các nghị phụ được nhắc nhớ rằng ĐTC Phanxicô đã thành lập một ủy ban đặc nhiệm ngày 20-9 vừa qua, để nhắm tới một thủ tục đơn sơ và mau lẹ hơn, một thủ tục duy nhất cho toàn thể Giáo Hội.

Cho đến nay giáo luật đòi phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, thì mới được tuyên bố một hôn nhân là vô hiệu. Vì thế sau phán quyết thứ I về một hôn phối là vô hiệu, thì vị bảo hệ (difensor vincoli) bó buộc phải kháng án lên tòa cấp cao hơn. Trong phiên họp có nghị phụ nêu giả thuyết: có thể để tùy GM phân định và phán quyết về việc có cần phải kháng án hay không. Đồng thời các nghị phụ cầu mong có thêm nhiều thẩm phán giáo dân, đặc biệt là cả các thẩm phán phụ nữ, được chuẩn bị kỹ lưỡng để làm việc trong các tòa án hôn phối.

– Các nghị phụ cũng nhấn mạnh rằng các linh mục cần được chuẩn bị kỹ lưỡng về việc mục vụ hôn nhân và gia đình, và có thể sử dụng cả những bài giảng như một thời điểm ưu tiên và hữu hiệu để loan báo cho các tín hữu Tin Mừng về gia đình. Cần có sự huấn luyện và thông tin, vì sự thánh thiện tinh thần, óc sáng tạo và quan hệ trực tiếp của các vị với các gia đình rất được các giáo dân đánh giá cao.

– Trong số các bài phát biểu, các nghị phụ cũng nói đến tương quan giữa việc di cư và gia đình, đồng thời tái khẳng định rằng cần phải khẳng định quyền cơ bản của mội người di dân được sống trong gia đình, và kêu gọi các nhà chính trị quốc tế bảo về quyền đoàn tụ gia đình. Đối với người di dân, gia đình là yếu tố thiết yếu để hội nhập vào quốc gia họ định cư.

– Trong giờ thảo luận tự do, từ 6 đến 7 giờ, các nghị phụ trao đổi về 3 đề tài:

Thứ I, đối với những người ly dị tái hôn, cần thiết lập một hành trình thống hối, và cũng để ý đến những người ly dị nhưng không tái hôn. Họ thường chịu đau khổ trong âm thầm và ở ngoài lề cuộc sốgn xã hội.

Thứ II: cần bảo vệ con cái của những cặp ly dị, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý do ly dị gây ra. Trong lãnh vực này, có nghị phụ nhắc nhở rằng một nền mục vụ thích hợp cho các trẻ em thường có thể làm cho cha mẹ các em xích lại gần Giáo Hội hơn.

Thứ III: các nghị phụ nhắc đến tầm quan trọng của tương quan giữa gia đình và việc giáo dục con cái, đặc biệt là quyền của các cha mẹ được chọn lựa dự án giáo dục thích hợp nhất cho con cái, và để con cái có thể được một nền giáo dục có chất lượng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio