ĐTC Phanxicô cử hành Thánh lễ Ngày Thế giới Người Nghèo lần II

ĐTC Phanxicô cử hành Thánh lễ Ngày Thế giới Người Nghèo lần II

Trong Thánh lễ Ngày Thế giới Người Nghèo lần II, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Chúa Giêsu yêu thương vô vị lợi. Ngài nhấn mạnh rằng gia tài thật sự là Thiên Chúa và tha nhân.

Lúc 10 giờ sáng Chúa nhật hôm qua, ĐTC Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ tại đền thờ thánh Phêrô nhân ngày thế giới người nghèo lần thứ hai. Đồng tế với ĐTC trong Thánh lễ có 15 HY, 35 GM và khoảng 200 LM, cùng với sự hiện diện tham dự của khoảng 6000 người nghèo.

Trong bài giảng, dựa trên đoạn Tin mừng theo thánh Mt 14,22-33, kể lại việc Chúa Giêsu, sau khi đã hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no, Ngài yêu cầu các môn đệ rời đi, rồi Ngài giải tán dân chúng, và Ngài lên núi cầu nguyện, rồi khi các môn đệ đang ở trên thuyền và lo sợ vì bão tố giữa đêm đen thì Chúa Giêsu xuất hiện, trấn an họ, ĐTC mời gọi các tín hữu quan sát 3 hành động của Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng nói trên và học theo Chúa Giêsu: biết rời đi khi thành công để không dính bén với thành công của cải; biết trấn an, an ủi người khác khi họ gặp khó khăn; và cuối cùng là biết đưa tay ra, giúp đỡ những người khốn khổ.

Thứ nhất: Rời bỏ sự thành công và yên hàn

Đầu tiên là rời đi. Chúa Giêsu rời bỏ đám đông khi đang trên đỉnh điểm thành công, khi được dân chúng tung hô sau khi đã hóa bánh ra nhiều. Trong khi các môn đệ của Ngài muốn tận hưởng giây phút vinh quang thì Ngài lại yêu cầu họ rời đi và Ngài giải tán đám đông (x Mt 14,22-23). Khi được đám đông tìm kiếm thì Ngài lại tìm ở một mình; khi mà sự nôn nóng thúc đẩy mọi người đi xuống đồng bằng gặp Chúa Giêsu thì Ngài lại lên núi cầu nguyện; rồi giữa đêm tối Chúa đến với các môn đệ trên mặt nước. Trong tất cả mọi sự kiện, Chúa Giêsu luôn đi ngược dòng: đầu tiên là rời bỏ sự thành công và tiếp đến là thanh thản. Qua đó, Ngài dạy chúng ta biết can đảm rời bỏ: rời bỏ sự thành công làm cho con tim hãnh diện tự mãn và rời bỏ sự thanh thản làm cho tâm hồn ngủ quên.

Đi lên với Chúa bằng cầu nguyện và đi xuống với tha nhân qua yêu thương

 

Nhưng rời bỏ để đi đâu? Để đến với Chúa qua việc cầu nguyện và đến với những người nghèo khổ bằng cách yêu thương, ĐTC nói: vì “kho tàng thật sự của cuộc sống chính là: Thiên Chúa và tha nhân. Đi lên với Thiên Chúa và đi xuống đến với tha nhân, đây là con đường Chúa Giêsu đã chỉ.” Chúa Giêsu đã tách các môn đệ của Ngài ra khỏi tình trạng tiện nghi thoải mái, khỏi sự nhàn rỗi của những thỏa mãn nhỏ nhặt thường ngày. Các môn đệ không được chọn để sống tĩnh lặng trong cuộc sống bình thường. Họ cũng được mời gọi như Thầy của mình, dong duổi trên đường, hành trang gọn nhẹ, sẵn sàng rời bỏ giây phút vinh quang, cảnh giác để không bị dính bén với của cải chóng qua. Kitô hữu biết rằng quê hương của mình ở trên trời như thánh Phaolô đã nhắc trong thư gửi tín hữu Êphêsô: “là đồng hương với các thánh và người nhà của Thiên Chúa.” (Ep 2,19).

Giáo hội bước đi, biết rời bỏ và trung thành phục vụ

ĐTC mời gọi các tín hữu như những người lữ hành, chúng ta không thu góp của cải; vinh quang của chúng ta nằm ở chỗ bỏ lại sau lưng những thứ sẽ qua đi để nắm chặt lấy những điều sẽ tồn tại mãi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta trở nên như Giáo hội trong bài sách Công vụ tông đồ: luôn luôn bước đi, biết rời bỏ và trung thành phục vụ (x. Cv 28,11-14).

Lạy Chúa xin nâng chúng con dậy từ sự thanh thản lười biếng, từ sự ru ngủ thinh lặng của những bến cảng an toàn của chúng con. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi sự gắn chặt vào việc tự quy chiếu nơi mình làm giảm nhẹ cuộc sống; xin giải phóng chúng con khỏi thái độ luôn tìm kiếm thành công. Xin dạy chúng con biết cách “rời bỏ” để khởi hành trên con đường mà Chúa đã chỉ cho chúng con: đến với Chúa và tha nhân.

Thứ hai: Bảo đảm, trấn an

Thái độ thứ hai của Chúa Giêsu là bảo đảm, trấn an. Trong đêm đen, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ (c.25). Biển ở đây, với độ sâu thăm thẳm của nó, muốn nói đến các thế lực của sự ác. Chúa Giêsu đến gặp các môn đệ của Người bằng cách chà đạp những kẻ thù kiểm ác của con người. Đây là ý nghĩa của dấu chỉ: thay vì sự biểu diễn chiến thắng của sức mạnh, nó là mạc khải về sự chắc chắn rằng Chúa Giêsu, chỉ có Chúa Giêsu, chiến thắng các kẻ thù mạnh mẽ nhất của chúng ta: ma quỷ, tội lỗi, sự chết và sợ hãi. Hôm nay Ngài nói với chúng ta: “Hãy can đảm, chính Thầy đây; đừng sợ.”

Để Chúa lèo lái con thuyền cuộc đời ta

Chiếc thuyền đời của chúng ta thường bị giông bão thổi lật. Ngày cả khi biển có vẻ lặng thì nó nhanh chóng nổi sóng. Khi chúng ta bị kẹt trong giông bão, nó dường như là vấn đề của riêng chúng ta. Vấn đề không phải là thời điểm giông bão, nhưng là cách thức chúng ta vượt qua cơn bão. ĐTC nói: Chỉ có Ngài ban sự sống trong sự chết và hy vọng trong đau khổ; mình Ngài chữa lành trái tim của chúng ta bằng sự tha thứ của Ngài và giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi bằng cánh truyền cho chúng ta sự tự tin.

ĐTC nhắc nhở các tín hữu hãy mời Chúa Giêsu lên con thuyền cuộc đời của chúng ta. Như các môn đệ, chúng ta sẽ nhận ra rằng một khi Chúa ở trên thuyền thì giông gió sẽ lặng im và thuyền sẽ không bị đắm chìm. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban cho chúng ta sự bảo đảm này. Chúng ta cần biết bao những người có thể an ủi người khác không chỉ bằng lời nói trống rỗng nhưng với lời sự sống. Nhân danh Chúa Giêsu, chúng ta có thể trao tặng sự an ủi thật sự. Nó không phải là những lời động viên trống rỗng nhưng là sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng ban sức mạnh.

Lạy Chúa, xin trấn an chúng con: được Chúa an ủi, chúng con sẽ có thể đem sự an ủi thật sự đến cho người khác.

Thứ ba: Đưa tay ra

Việc thứ ba Chúa Giêsu làm là đưa tay ra. Giữa bão táp, Ngài đã đưa tay ra cho Phêrô (c.31). Chúng ta có thể đặt mình vào chỗ của Phêrô: chúng ta là những người kém lòng tin và chúng ta là những hành khất của ơn cứu độ. Chúng ta là người nghèo sự sống thật và chúng ta cần bàn tay giơ ra của Chúa, kéo chúng ta ra khỏi sự dữ. Đây là khởi đầu của đức tin: tẩy sạch lòng mình sự tin chắc kiêu ngạo  cho rằng mình đang an vị, mình có khả năng, tự lập và nhận ra chúng ta cần ơn cứu độ. Đức tin lớn lên trong bối cảnh này, bối cảnh trong đó chúng ta hòa mình đứng bên cạnh bao nhiêu người không đang đứng trên các bục cao nhưng đang cần và cầu xin sự giúp đỡ. Vì thế, sống đức tin trong sự giao tiếp với những người nghèo khổ là điều quan trọng đối với tất cả chúng ta. Đây không phải là một chọn lưạ xã hội học, không phải là cách thế của một giáo hoàng, mà là một yêu cầu thần học. Nhận ra mình là hành khất cầu xin ơn cứu độ. Bằng cách này, chúng ta nhận lấy Thần khí của Tin mừng. “Thần khí của sự nghèo khó và tình yêu – công đồng nói – thật sự là vinh quang và chứng tá của Giáo hội của Chúa Kitô” (Vui mừng và hy vọng, 88).

Tiếng kêu của người nghèo

Chúa Giêsu nghe tiếng kêu của Phêrô. Chúng ta cầu xin ơn để biết nghe tiếng kêu của những người bị nhấn chìm bởi những đợt sóng của cuộc sống. Tiếng kêu của người nghèo: đó là đó là tiếng kêu gào thét của đứa trẻ chưa được sinh ra, của những trẻ em bị chết đói, của những người trẻ tuổi được sử dụng để làm bom người hơn là tiếng reo vui hò hét của sân chơi. Đó là tiếng kêu của người già, bị hất hủi và bỏ rơi. Đó là tiếng kêu của tất cả những người phải đối mặt với những cơn bão của cuộc sống mà không có sự hiện diện của một người bạn. Đó là tiếng kêu của tất cả những người bị buộc phải chạy trốn khỏi nhà của họ và quê hương để rồi có một tương lai bất định. Đó là tiếng kêu của mọi người dân, bị tước đoạt ngay cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có của họ. Đó là tiếng kêu của tất cả những Ladarô, những người khóc trong khi một số ít người giàu có hội hè ăn mừng,  về tất cả những gì thuộc về họ . Bất công là gốc rễ của nghèo đói. Tiếng kêu của người nghèo hàng ngày trở nên mạnh mẽ hơn nhưng ít được nghe hơn, bị nhấn chìm bởi sự ồn ào huyên náo của số ít người giàu, những người ngày càng ít hơn nhưng càng giàu có hơn.

Kitô hữu không thể dửng dưng đứng im hay đầu hàng trước sự ác

Đứng trước sự coi thường nhân phẩm, chúng ta thường đứng im khoanh tay hoặc giơ tay tỏ vẻ vô vọng trước sức mạnh ác nghiệt của sự ác. Nhưng Kitô hữu chúng ta không thể đứng khoang tay dửng dưng hay dang tay cách bất lực. Chúng ta phải giơ tay mình ra như Chúa Giêsu đã làm với chúng ta. Tiếng kêu của người nghèo tìm thấy sự lắng nghe của Chúa, nhưng còn chúng ta thì sao? Chúng ta có mắt để thấy, có tai để nghe, tay để đưa ra giúp đỡ không? Chính Chúa Kitô đã kêu gọi lòng bác ái của các môn đệ nơi những người nghèo. Ngài yêu cầu chúng ta nhận ra Ngài nơi những người đói khát, nơi khách lạ và những người bị tước đoạt nhân phẩm, nơi các bệnh nhân và tù nhân (x. Mt 25,35-36).

Yêu thương vô vị lợi

Chúa Giêsu đã đưa tay ra, cách tự do, chứ không vì bổn phận. Và chúng ta cũng phải thế. Chúng ta không được mời gọi chỉ làm điều tốt cho người mình thích. Chúa Giêsu yêu cầu hơn: cho những người không có gì để cho lại chúng ta, yêu thương vô vị lợi (x. Lc6,32-36). Hãy nhìn quanh chúng ta. Những gì chúng ta làm, chúng ta có làm cách tự do, cho người không thể trả lại cho chúng ta không? Đó sẽ là cánh tay dang ra của chúng ta, gia tài thật sự của chúng ta ở trên thiên đàng.

Lạy Chúa, xin hãy dang tay ra với chúng con và nắm lấy chúng con. Xin giúp chúng con yêu như Chúa yêu. Xin dạy chúng con để lại đàng sau những gì đang qua đi, dạy chúng con là nguồn bảo đảm cho những người quanh chúng con và trao ban cách tự do cho những người nghèo khổ.

Hồng Thủy

 

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Gia đình Nazaret: yêu thương nhau và tin tưởng Thiên Chúa

Vatican. Lúc 12 giờ trưa Chúa nhật 31.12.2017, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật kính Thánh Gia. Ngài mời gọi các gia đình sống theo gương sáng Gia Đình Nazaret luôn yêu thương nhau và tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất sau Lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng lễ Thánh Gia Nazaret. Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta ngẫm suy về kinh nghiệm sống trong một mái nhà của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Các ngài sống yêu thương nhau và đặt niềm tin nơi Thiên Chúa. Thánh Giuse và Mẹ Maria ẵm Hài Nhi Giêsu lên Đền Thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa (Lc 2,22) theo luật Môsê. Việc hiến dâng này cho thấy rằng, cha mẹ Hài Nhi là người dưỡng nuôi chứ không phải là chủ sở hữu. Điều ấy đáng để chúng ta suy ngẫm. Các bậc cha mẹ là người dưỡng nuôi, dạy dỗ con cái, để giúp con cái lớn khôn trưởng thành, chứ cha mẹ không phải là chủ sở hữu con cái.

Cử chỉ dâng con cho Thiên Chúa, nhấn mạnh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là chủ của lịch sử cá nhân cũng như gia đình. Tất cả những gì chúng ta có đều đến từ Thiên Chúa. Từng gia đình được mời gọi tái nhận biết quà tặng và thiên chức này. Đó là bảo vệ và giáo dục con cái, là giúp con cái biết mở ra đối với Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tin Mừng kể về hai cụ già và cũng là hai bậc ngôn sứ, đó là cụ ông Simeon và cụ bà Anna. Các cụ được đầy Thánh Thần, nên nói về Hài Nhi Giêsu cho hết mọi người: “Thiên Chúa đã đặt em bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Em còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2,34.35).

Những lời tiên tri ấy vén mở cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đến để đốn ngã những hình ảnh sai lầm mà chúng ta tự tạo ra về Thiên Chúa cũng như về chính mình. Chúa đến để chống lại những an toàn giả tạo của thế gian mà chúng ta cậy dựa. Chúa đến để làm cho chúng ta thức tỉnh mà vững bước trên con đường của những giá trị nhân bản chân thực và những giá trị Tin Mừng. Trên con đường tái sinh và phục sinh này, không một hoàn cảnh nào, không một gia đình nào bị loại trừ. Mỗi lần trong gia đình có những thương tổn, có những mong manh, khó khăn và thất bại, thì mọi người được mời gọi trở lại cội nguồn của kinh nghiệm Kitô, để mở ra những con đường mới, để mở ra những khả thể vượt ngoài sức tưởng tượng.

Bài Tin Mừng kể tiếp: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về thành Nazaret, miền Galile. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2,39.40). Có một niềm vui lớn lao của gia đình, đó là sự lớn mạnh trưởng thành của các con: tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm vững mạnh, thêm khôn ngoan, được ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Những điều ấy diễn ra cho những người con, cho Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu thực sự là một con người giữa loài người chúng ta. Con Thiên Chúa trở thành một trẻ thơ, để từng ngày lớn lên, để thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, để ơn phúc Thiên Chúa đổ xuống trên Người. Mẹ Maria và Thánh Giuse rất vui khi nhìn thấy tất cả những điều ấy đến với người con Giêsu. Và đó cũng là nhiệm vụ của một gia đình, nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đầy đủ và hài hòa của trẻ thơ, để trẻ thơ có thể có một cuộc sống tốt đẹp như Thiên Chúa muốn và để xây dựng thế giới.

Đó cũng là lời cầu chúc của Cha xin gửi tới tất cả các gia đình hôm nay. Nguyện xin Mẹ Maria là Nữ Vương các gia đình, chuyển cầu cho chúng ta.

 

Anh chị em thân mến!

Tôi xin bày tỏ sự gần gũi với các anh chị em Chính Thống Copte ở Ai Cập, vì bị những cuộc tấn công cách đây 2 ngày tại một nhà thờ và một cửa hàng vùng ngoại ô Cairo. Xin Chúa thương nhận linh hồn những người quá cố, xin Chúa nâng đỡ những người bị thương, ủi an các gia đình và các cộng đoàn, và xin Chúa hoán cải tâm hồn những kẻ đã gây ra bạo lực.

Hôm nay Cha muốn gửi lời chào đặc biệt tới các gia đình. Xin Chúa Thánh Thần chúc lành và hướng dẫn gia đình anh chị em.

Cha chào thăm tất cả anh chị em là dân thành Roma và khách hành hương. Ngày cuối năm này, chúng ta đừng quên tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ơn lành ta đã nhận trong năm qua. Chúng ta hãy dành thời gian để nhìn lại, để tạ ơn. Nếu nhìn lại những khó khăn, chúng ta cũng tạ ơn Chúa vì đã giúp ta vượt qua những giây phút ấy. Hôm nay là một ngày tạ ơn.

Chúc anh chị em ngày tốt lành. Cám ơn anh chị em vì những lời cầu chúc. Mong anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho Cha. Hẹn gặp lại anh chị em!

Tứ Quyết SJ

Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật

Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Nhật, 12.06.2016

VATICAN. Lúc 10h30 sáng Chúa Nhật, ngày 12.06, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Quảng Trường Thánh Phê-rô nhân Ngày Năm Thánh dành cho các bệnh nhân và người khuyết tật cả về thể xác lẫn tâm trí.

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và linh mục. Đặc biệt, tham dự thánh lễ, có hơn 20 ngàn người khuyết tật, bệnh nhân và những người săn sóc họ.

Trong lúc bài Tin Mừng được công bố, có những hoạt cảnh đi kèm, nhờ đó những người khuyết tật tâm trí có thể hiểu được.

 Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha:

“Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:19). Trong những lời này, Thánh Tông Đồ Phao-lô đã diễn tả cách mạnh mẽ mầu nhiệm đời sống Kitô giáo, mầu nhiệm đó có thể được gom tóm trong sự năng động phục sinh về cái chết và sự sống lại được nhận lãnh ngang qua Bí Tích Thanh Tẩy. Thật vậy, khi được dìm trong nước, mỗi người chúng ta đã chết và được mai táng cùng với Đức Kitô (Rm 6:3-4), và khi trồi lên khỏi mặt nước, một sự sống mới được chiếu tỏa rạng ngời trong Chúa Thánh Thần. Sự tái sinh này ôm ấp lấy tất cả mọi chiều kích của đời sống chúng ta: kể cả bệnh tật, khổ đau và cái chết cũng được tìm thấy nơi Đức Kitô và chính ở nơi Ngài mà chúng ta đọc được ý nghĩa tối hậu cho những bệnh tật, khổ đau và chết chóc ấy. Ngày hôm nay, Ngày Năm Thánh dành cho bệnh nhân và những người mang những khuyết tật, Lời Chúa về sự tái sinh này lại có một âm vang đặc biệt cho mỗi người chúng ta.

Dù sớm hay muộn, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đối mặt – vào những thời điểm rất đau đớn – với sự yếu đuối mong manh và bệnh tật của chính chúng ta cũng như của người khác. Có bao nhiêu gương mặt khác nhau của nhân loại đã phải đón lấy kinh nhiệm này cách hết sức đặc trưng và đầy cảm xúc. Tất cả những điều ấy làm dấy lên câu hỏi bức thiết về ý nghĩa của đời sống con người. Chúng ta dường như dễ yếu lòng để chọn một giải pháp yếm thế, như thể cách giải quyết duy nhất chỉ đơn giản là kiên nhẫn chịu đựng những kinh nghiệm đau thương và cậy dựa vào sức của riêng bản thân. Hay có lẽ, chúng ta đã đặt tất cả sự tin tưởng vào khoa học, nghĩ rằng chắc chắn ở một nơi nào đó trên thế giới có một phương thuốc có khả năng chữa lành bệnh tật. Nhưng buồn thay, sự thật không phải như thế, thậm chí thần dược có tồn tại đi nữa, cũng chỉ đến được với một số người.

Bản chất con người, đã bị thương tổn vì tội lỗi, được ghi dấu bởi những giới hạn. Chúng ta đã thấy những chối bỏ, xuất hiện cách đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay, đối với sự sống có những giới hạn thể lý nghiêm trọng. Người ta nghĩ rằng bệnh nhân hay người khuyết tật không thể hạnh phúc, vì họ không thể sống một đời sống được định hình bởi một nền văn hóa vui chơi và giải trí. Trong một thời đại khi sự chăm sóc cho thân xác của con người trở thành nỗi ám ảnh và gây ra nhiều tốn kém, bất cứ ai không hoàn hảo đều phải được che dấu đi, vì người ấy đe dọa đến hạnh phúc và sự thanh bình của một số người có đặc quyền và là sự nguy hiểm đối với những người lãnh đạo. Những người khuyết tật phải bị tránh xa, phải bị ‘cách ly’ trong những tòa nhà ‘tô vôi hào nhoáng’, hay trong những ‘ốc đảo’ của lòng mộ đạo hay của công ích xã hội, để người ta không phải giữ lại không gian cho một hữu thể sai lầm. Trong một số trường hợp, chúng ta thậm chí được nói rằng tốt hơn hết là hãy loại trừ những người khuyết tật đi càng sớm càng tốt, vì họ trở thành một gánh nặng kinh tế không thể chấp nhận được trong thời buổi khủng hoảng. Nhưng thật là ảo tưởng khi con người ngày nay nhắm mắt làm ngơ trước gương mặt của bao bệnh nhân và người khuyết tật. Họ đã không hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống, là phải biết đón nhận những đau khổ và giới hạn. Thế giới sẽ không trở nên tốt hơn nếu chỉ bởi những người có vẻ ‘hoàn hảo’ bên ngoài. Thế giới chỉ trở nên tốt hơn khi tình liên đới nhân loại, việc đón nhận và tôn trọng lẫn nhau được gia tăng. Lời của Thánh Tông Đồ Phao-lô thật đúng đắn thay: ‘Những gì thế gian cho là yếu kém, Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh’(1 Cr 1:27)!

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (Lc 7:36-8:3) trình bày cho chúng ta một tình huống cụ thể về sự yếu đuối. Một phụ nữ bị xem là tội lỗi, bị người khác xét xử và loại trừ, nhưng Đức Giêsu lại đón nhận và bảo vệ chị: ‘Chị đã yêu mến nhiều’ (Lc 7:47). Đó là kết luận của Đức Giêsu, Đấng đã chú ý đến những đau khổ và sự nài xin của chị. Sự dịu dàng của Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu mà Thiên Chúa bày tỏ cho những ai đau khổ và bị gạt ra bên lề. Đau khổ không chỉ là về thể lý nhưng còn là tinh thần, một trong những bệnh lý thường gặp nhất hiện nay. Đó là sự đau khổ của tâm hồn; khiến người ta buồn khổ vì thiếu tình yêu mến. Khi kinh nghiệm được sự thất vọng hay bị phản bội trong những mối tương quan thân thiết, chúng ta mới nhận ra chúng ta dễ bị tổn thương và mong manh đến là dường nào. Vì thế, cám dỗ muốn trở nên tự-chấp-nhận-mình (tự-đủ-cho-chính-mình) lại phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, và chúng ta có nguy cơ đánh mất cơ hội lớn lao nhất trong đời sống: yêu bất chấp chất cả.

Hạnh phúc mà mọi người đều mong muốn có thể được diễn tả trong rất nhiều cách thức và chỉ đạt được khi chúng ta có khả năng yêu thương. Đó chính là đường lối của tình yêu, ngoài ra không còn cách nào khác. Nhưng thách đố là ai mới là người yêu thương nhất. Bao nhiêu người khuyết tật và đau khổ đã lại rộng mở tâm hồn khi họ nhận ra họ được yêu thương! Bao nhiêu tình yêu mến đã được ngự trị nơi tâm hồn chỉ đơn giản với một nụ cười dễ mến! Như thế, chính sự yếu đuối mong manh của chúng ta có thể trở thành một nguồn mạch của sự an ủi, và nâng đỡ chúng ta trong cảnh cô đơn. Đức Giêsu, trong cuộc khổ nạn, đã yêu chúng ta cho đến cùng (Ga 13:1); trên thánh giá, Ngài đã mặc khải tình yêu bằng cách hoàn toàn trao ban chính mình. Chúng ta có thể đến với Thiên Chúa với những yếu đuối, bệnh tật, đau khổ của chúng ta khi chúng ta nhận ra những đau khổ ấy mô tả gương mặt của Người Con Một Yêu Dấu bị đóng đinh trên thập giá? Những đau đớn thể xác mà Người phải chịu đi kèm với sự nhạo báng, hạ nhục và khinh miệt. Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại những điều ấy bằng lòng thương xót khi Ngài đón nhận và tha thứ tất cả: Chính bởi thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành’(Is 53:5; 1 Pr 2:24). Đức Giêsu là thầy thuốc chữa lành với phương dược tình yêu, vì Ngài đã dùng chính bản thân mình để xoa dịu những đau khổ và cứu độ chúng ta. Thiên Chúa có thể hiểu những yếu đuối của chúng ta, vì chính Ngài đã kinh nghiệm điều ấy như một người phàm thật sự (Dt 4:15).

Cách chúng ta kinh nghiệm bệnh nạn và những khuyết tật là một chỉ số tình yêu mà chúng ta đang sẵn sàng để trao ban. Cách chúng ta đối mặt với đau khổ và những giới hạn là sự đo lường tự do của chúng ta trong việc đem lại ý nghĩa cho kinh nghiệm cuộc sống nhân sinh, cả khi chúng phủ lấp chúng ta bằng sự vô nghĩa và không có ích lợi gì. Nhưng chúng ta đừng để bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy (1 Tx 3:3). Chúng ta biết rằng trong sự yếu đuối chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ (2 Cr 12:10) và được lãnh nhận ân sủng để mang lấy vào mình những gian nan thử thách của Đức Kitô vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh (Cl 1:24). Vì thân thể ấy, hình ảnh của chính Thiên Chúa Phục Sinh, gìn giữ những thương tích của mình, dấu vết của một cuộc chiến đấu cam go, nhưng đó là những thương tích được biến đổi mãi mãi vì tình yêu.”

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Ý, Pháp, Trung Quốc, Bồ Đào Nha và Đức. Trong số những người giúp lễ mang lễ vật lên cho Đức Thánh Cha trong phần Dâng Lễ, cũng có một gia đình với em bé gái bị down, hay là bệnh khờ.

Hàng chục các linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước lễ.

Trước khi đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người, Đức Thánh Cha thông báo rằng: “Hôm thứ 7, 11.06, ở a Vercelli, Giáo hội đã tuyên phong chân phước cho linh mục Giacomo Abbondo. Ngài sống vào khoảng thế kỷ 18, có lòng yêu mến Chúa nông nàn, hết mình dấn thân cho phần rỗi của các con chiên trong xứ đạo. Đồng thời, ở Monreale, ngày hôm nay, nữ tu Carolina Santocanale, vị sáng lập Dòng Nữ Tu Capucino Của Đức Mẹ Vô Nhiễm Lộ Đức, cũng được tuyên phong chân phước.

Trong bối cảnh Ngày Năm Thánh Dành cho các bệnh nhân, Hội Nghị Quốc Tế về chăm sóc sức khỏe cho những người nhiễm bệnh Hansen cũng đang được diễn ra ở Roma trong những ngày này. Với tâm tình biết ơn, tôi gởi lời chào thân ái đến ban tổ chức và những người tham dự hội nghị, hy vọng rằng hội nghị sẽ gặt hái được nhiều thành công trong việc chống lại bệnh phong.

Ngày hôm nay, ngày thế giới chống lạm dụng trẻ em. Xin cho các trẻ em được giải thoát khỏi những hình thức nô lệ, bách hại và lạm dụng.

Tôi cũng gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác, đã hiện diện trong buổi lễ ngày hôm nay. Xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành và che chở cho hết thảy mọi người chúng ta.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở dể là môn đệ Chúa Giêsu

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở dể là môn đệ Chúa Giêsu

Thánh lễ Ngày Năm Thánh Giới Trẻ sáng Chúa Nhật 24-4-2016

Có con tim yêu thương, tự do, rộng mở để là môn đệ Chúa Giêsu

ĐTC khích lệ người trẻ có con tim yêu thưong và tự do để hướng tới các lý tuởng cao đẹp. Vì tình yêu là “thẻ căn cước” của kitô hữu, là “tải liệu” duy nhất  có giá trị cần liên tục gia hạn để được nhận biết là môn đệ của Chúa Giêsu.

Ngài đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong bài giảng thánh lễ cho Ngày Năm Thánh Giới Trẻ cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật 24 tháng 4 hôm qua.

Từ mấy ngày qua hơn 70,000 bạn trẻ tuổi từ 13 tới 16 từ Italia và nhiều nước trên thế giới đã tuôn về Roma hành hương Năm Thánh. Các bạn trẻ được 203 giáo xứ Roma tiếp đón, và đã theo dõi các buổi học giáo lý theo các thứ tiếng tại nhiều nhà thờ khác nhau trong thủ đô Giáo Hội. Chiều thứ bẩy đã có hàng trăm Linh Mục ban bí tích Hoà Giải cho họ tại quảng trường thánh Phêrô. Chính ĐTC Phanxicô cũng đã giải tội cho 16 bạn trẻ. Tiếp đến vào ban tối các bạn trẻ đã tham dự đại nhạc hội tại sân vận động Olimpic Roma với các chứng từ, hoạt cảnh và các màn trình diễn của nhiều ca sĩ nổi tiếng.

Ngay từ 8 giờ sáng Chúa Nhật quảng trường thánh Phêrô đã đông đặc các bạn trẻ, tín hữu và du khách hành hương. Đảm trách thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh còn có ca đoàn Mater Ecclesiae và ca đoàn Anh giáo.

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có 20 Hồng Y, 50 Giám Mục, và 950 Linh Mục. Phần lời nguyện giáo dân đã được các bạn trẻ tuyên đọc trong các thứ tiếng Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Ý và tiếng Hoa. 180 Linh mục đã giúp ĐTC cho các bạn trẻ và tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa điều răn yêu thương Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ. Ngài nói:

 “Từ điều này mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Các thanh thiếu niên nam nữ thân mến, thật lớn lao biết bao trách nhiệm mà Chúa tín thác cho chúng ta hôm nay! Nó nói với chúng ta rằng thiên hạ sẽ nhận biết các môn đệ của Chúa Giêsu từ cách họ yêu thương nhau. Nói cách khác, tình yêu là “thẻ căn cước” của kitô hữu, là “tải liệu” duy nhất  có giá trị để được nhận biết là môn đệ của Chúa Giêsu. Nếu tài liệu này hết hạn, và ta không gia hạn nó liên tục, thì chúng ta không là các chứng nhân của Chúa nữa.  Vì vậy cha hỏi các con: các con có muốn tiếp nhận lời Chúa Giêsu mời gọi là môn đệ của Ngài không? Các con có muốn là bạn trung thành của Ngài không? Bạn thật của Chúa Giêsu được phân biệt một cách nòng cốt bởi tình yêu cụ thể rạng ngời trong cuộc sống của mình. Các con có muốn sống tình yêu này mà Chúa ban cho chúng ta không ? – Các bạn trẻ thưa có – Thế thì chúng ta hãy tìm đến học trường của Ngài, là một trường sự sống để học yêu thương.

Trước hết yêu thương là điều xinh đẹp, là con đường để hạnh phúc. Tuy nhiên, nó không dễ dàng, nó đòi hỏi dấn thân, nó khiến cho ta mệt nhọc. Chẳng hạn chúng ta hãy nghĩ tới khi mình nhận được một món qua. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc. Nhưng để chuẩn bị món qua đó các người quảng đại đã phải dành thời giờ và dấn thân, và như vậy họ cũng tặng chúng ta một chút cái gì đó của chính con người họ, một cái gì mà họ đã biết lấy đi của họ. Chúng ta cũng hãy nghĩ tới món quà mà cha mẹ và các linh hoạt viên của các con đã làm, bằng cách cho phép các con đến Roma tham dự Ngày Năm Thánh dành cho các con. Các vị đã phải lên chương trình, tổ chức, chuẩn bị mọi sự cho các con, và điều này khiến cho các vi vui, cả khi các vị có phải khước từ một chuyến du hành cho chính mình. Thật thế, yêu thương có nghĩa là cho đi, không phải chỉ một cái gì là vật chất, nhưng một cái gì của chính mình: thời giờ, tình bạn và các khả năng của mình.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Chúng ta hãy nhìn lên Chúa là Đấng không thể thắng vượt được trong sự quảng đại. Chúng ta nhận từ Ngài biết bao ơn, và mỗi ngày đáng lý ra chúng ta phải cám ơn Ngài… Cha muốn hỏi các con: các con có cám ơn Chúa mỗi ngày không? Cả khi nếu chúng tra quên, thì Chúa không quên ban cho chúng ta mỗi ngày một ơn đặc biệt. Đó không phải là một món quà vật chất cần giữ trong tay và sử dụng, nhưng là một món quà lớn lao hơn nữa, cho cuộc sống. Ngài cho chúng ta tình bạn trung thành của Ngài và sẽ không bao giờ lấy đi. Cả khi con làm cho Ngài thất vọng, và xa rời Ngài, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục yêu thương con và gần gũi con, tin tưởng nơi con hơn là chính con tin nơi mình. Và điều này thật quan trọng biết bao! Vì sự đe dọa chính ngăn cản lớn lên một cách tốt đẹp, đó là khi không có ai chú ý đến con, khi con cảm thấy mình bị bỏ ra một bên. Trái lại Chúa luôn luôn ở với con, và hài lòng ở với con.  Cũng như Ngài đã làm với các môn đệ trẻ của Ngài, Ngài nhìn vào mắt con và mời con theo Ngài, “ra khơi” và “thả lưới”, tin tưởng nơi lời Ngài, nghĩa là bỏ vào cuộc chơi các tài năng của con trong cuộc sống, cùng với Ngài, mà không sợ hãi. Chúa Giêsu chờ đợi nơi con một câu trả lời, Ngài chờ đợi tiếng “vâng” của con.

Các thanh thiếu niên thân mến, vào tuổi của các con, các con cảm thấy nổi lên trong mình ước muốn yêu và nhận tình yêu thương. Nếu các con đến học trường của Ngài, Chúa sẽ dậy các con khiến cho lòng trìu mến và sự dịu hiện trở thành đẹp hơn nữa. Ngài sẽ đặt để trong tim các con một ý hướng tốt lành, ý hướng yêu thương mà không chiếm hữu: yêu thương các bản vị mà không muốn họ là của riêng mình, nhưng để cho họ tự do. Thật vậy, luôn luôn có cám dỗ làm ô nhiễm tình yêu với yêu sách bản năng chiếm lấy, có được điều mình thích. Nền văn hóa duy tiêu thụ cũng củng cố khuynh hướng này. Nhưng mọi sự, nếu ta siết chặt quá, thì bị hỏng, bị hư hại: và ta thất vọng với cái trống rỗng bên trong. Nếu các con lắng nghe tiếng Chúa, Ngài sẽ vén mở cho các con bí quyết của sự hiền dịu: lo lắng cho người khác có nghiã là tôn trọng họ, giữ gìn họ và chờ đợi họ.

ĐTC nói thêm trong bài giảng thánh lễ Ngày Năm Thánh giới trẻ: Trong các năm này các con cũng cảm thấy một ước ao tự do lớn lao. Nhiều người sẽ nói với các con rằng tự do có nghĩa là làm điều mình muốn. Nhưng ở đây phải biết nói không. Tự do không luôn luôn có thể là làm điều hợp với tôi: điều này khiến cho ta bị khép kín, xa cách và ngăn cản chúng ta là các người bạn cởi mở và chân thành. Khi tôi khỏe thì mọi sự đều trôi chảy là điều không đúng đâu. ĐTC định nghĩa sự tự do như sau:

Sự tự do, trái lại, là ơn có thể lựa chọn sự thiện: ai lựa chọn sự thiện kẻ ấy tự do, ai tìm điều đẹp lòng Thiên Chúa, cả khi nó vất vả đi nữa, người ấy tự do. Chỉ với các lựa chọn can đảm và mạnh mẽ người ta mới thực hiện được các giấc mộng cao cả nhất, các giấc mộng đáng để cho chúng ta tiêu hao cuộc sống. Các con đừng hài lòng với sự tầm thường xoàng xĩnh, “sống vật vờ” đứng ngồi thoải mái. Đừng tín thác nơi kẻ làm cho các con lo ra khỏi sự giầu có đích thực, là chính các con, bằng cách nói với các con rằng cuộc đời chỉ đẹp khi có nhiều sự. Hãy coi chừng kẻ muốn làm cho các con tin rằng các con chỉ có giá trị khi đeo mặt nạ làm ra vẻ mạnh mẽ, như các anh hùng trong phim ảnh, hay khi các con mặc quần áo hàng hiệu mới nhất. Hạnh phúc của các con vô giá và không thể mua bán. Nó không phải là một chương trình “app” mà người ta chuyển vào điện thoại cầm tay. Nó cũng không phải là phiên bản cập nhật nhất có thể giúp các con trở thành tự do hay lớn lao trong tình yêu.

Vì tình yêu là món qua tự do của người có con tim rộng mở. Nó là một trách nhiệm đẹp kéo dài suốt đời. Nó là dấn thân thường ngày của người biết thực hiện các giấc mộng cao cả! Tình yêu được dưỡng nuôi bằng sự tin tưởng, kính trọng và tha thứ. Tình yêu không được hiện thực vì ta nói về nó, nhưng khi ta sống nó: nó không phải là một bài thơ êm dịu cần học thuộc lòng, mà là một lựa chọn cuộc sống cần thực hành! Chúng ta có thể lớn lên trong tình yêu như thế nào? Bí quyết vẫn là Chúa: Chúa Giêsu trao ban chính Ngài cho chúng ta trong Thánh Lễ, Ngài cống hiến sự tha thứ và niềm an bình cho chúng ta trong bí tích Giải Tội. Chính tại đó chúng ta học tiếp nhận Tình Yêu của Ngài, biến nó thành của chúng ta, và thông chuyền nó trong thế giới. Và khi yêu thương xem ra nặng nề, khi khó nói không với điều sai lầm, các con hãy nhìn lên thập giá Chúa Giêsu, ôm lấy nó và không rời tay Chúa dẫn các con tới với tha nhân và nâng các con dậy, khi các con ngã. Tè ngã là điều có thể xảy ra, nhưng phải đứng dậy.

Cha biết các con có khả năng có các cử chỉ của tình bạn và lòng tốt lớn lao. Các con được mời gọi xây dựng tương lai: cùng với những người khác và cho người khác, không bao giờ chống lại ai khác! Các con sẽ làm những điều tuyệt diệu, nếu các con tự chuẩn bị ngay từ bây giờ, bằng cách sống tràn đầy tuổi trẻ giầu ơn lành như thế của các con, mà không sợ hãi mệt nhọc. Hãy làm như các tay vô địch thể thao đạt các đích điểm bằng cách khiêm tốn kiên trì luyện tập mỗi ngày.  Chương trình hằng ngày của các con hãy là các công việc của lòng thương xót. Hãy luyện tập với lòng hăng say để trở thành các tay vô địch của cuộc sống, các tay vô địch của tình yêu! Như thế các con sẽ được nhận biết như là các môn đệ của Chúa Giêsu. Và cha bảo đảm với các con rằng niềm vui của các con sẽ tràn đầy. 

Trước khi hát kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã đặc biệt chào các bạn trẻ. Ngài nói: các con đã từ Italia và nhiều nơi trên thế giới đến để sống những giờ phút của đức tin và sự chia sẻ huynh đệ. Cha cám ơn các con về chứng tá tươi vui và ồn ào của các con. Hãy can đảm tiến bước!

Hôm qua tại Burgos bên Tây Ban Nha đã được tôn phong chân phước linh mục Valentin Palencia Marquina và 4 bạn tử đạo, bị giết vì đức tin trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì các chứng nhân can đảm này, và qua lời bầu cử của các vị chúng ta hãy khẩn nài Chúa giải thoát thế giới khỏi mọi bạo lực.

Tôi luôn luôn âu lo vì các anh em giám mục, linh mục, tu sĩ công giáo và chính thống đã bị bắt cóc từ lâu bên Syria. Xin Thiên Chúa từ nhân đánh động con tim của những người bắt cóc, và ban cho các anh em của chúng ta được tự do sớm chừng nào có thể, để các vị có thể trở về các cộng đoàn của mình. Vì thế tôi mời gọi tất cả cầu nguyện và chúng ta cũng không quên tất cả những ai bị bắt cóc trên thế giới. Chúng ta hãy phó thác tất cả các khát vọng và niềm hy vọng của chúng ta cho sự bầu cử của Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót.

Tiếp đến là Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Sau thánh lễ ĐTC đã bắt tay chào và nói chuyện với các linh mục, và một số đại diện giới trẻ, rồi ngài đã đi xe Jeep quanh các lối giữa quảng trường chào ngưởi trẻ, tín hữu và du khách hành hương hiện diện.

Linh Tiến Khải

Biện Pháp Điệp Từ – Điệp Ngữ

Biện Pháp Điệp Từ – Điệp Ngữ

1. Thế nào là điệp ngữ?

Điệp ngữ là việc lặp lại nhiều lần một từ, một cụm từ hoặc cả câu trong một khổ thơ, một đoạn văn hay trong một bài thơ hay một bài văn.

DiepTuDiepNgu

2. Các hình thức điệp ngữ

a) Lặp từ, cụm từ, câu nhằm tạo ra sự nhấn mạnh

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền trôi thấp thoáng cánh buồn xa xa,

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt nước một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,

Tiếng mưa sầm sập vây quanh chỗ ngồi

từ "buồn trông" được lặp đi lặp lại là 1 điệp ngữ để làm nổi bật nỗi buồn của Thúy Kiều.

b) Lặp từ, cụm từ, câu nhằm tạo ra sự liệt kê

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát….

Có bão tháng bẩy

Có mưa tháng ba

(Hạt gạo làng ta – Trần Đăng Khoa)

Việc lặp lại nhiều lần từ có trong bài là sự liệt kê những chất làm nên hạt gạo và giúp người đọc thấy được: để làm ra hạt gạo trong thời chiến tranh thật là khó. Cây mạ được cấy xuống không chỉ có phù sa màu mỡ, có hương được chắt lợ cái tinh túy của đất trời, có sự tảo tần sớm hôm của người nông dân mà còn có cả những thiên tai và tàn phá.

c) Lặp từ, cụm từ, cả câu nhằm tạo sự khẳng định


VD: Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành, phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực… 
Cách sử dụng điệp ngữ trong câu văn trên có tác dụng khẳng định số lượng hoa phượng ở đây là nhiều vô kể…

 

3. Thực Hành

 

1. Hãy chỉ ra những điệp ngữ trong đoạn thơ, đoạn văn sau và nêu tác dụng của những điệp ngữ đó. ( Nhằm nhấn mạnh ý gì, hoặc gợi cảm xúc gì cho người đọc?)

 

Người ta đi cấy lấy công 
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, rông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tầm lòng
(Đi cấy – Ca dao)

 

2. Điền những từ thích hợp vào ô trống để tạo thành những câu văn có dùng điệp ngữ
a) Làng quê tôi tràn ngập màu xanh:……….rất non tơ của đồng lúa,……….thật đậm đà của bãi ngô,……….đến mượt mà của thảm cỏ.
b) Hoa hồng ……gần, hoa huệ …….xa, hoa nhài……đây đó. hương thơm tỏa lan khắp vườn.

 

3. Viết lại những câu văn sau có dùng điệp ngữ nhằm nhấn mạnh và gợi cảm xúc cho người đọc:
a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và cả lũy tre thân mật làng tôi.
– > Tôi yêu căn nhà đơn sơ, yêu khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt và yêu cả lũy tre thân mật làng tôi.
b) Bức tranh buổi sớm trên quê hương tôi đẹp quá! đến mê hồn!
– >

c) Tôi lớn lên bằng tình thương của bố, của mẹ, của bà con xóm giềng nơi tôi ở.
– >

4. Tập viết đoạn văn có sử dụng điệp ngữ
Hãy viết một đoạn văn miêu tả trong đó có sử dụng điệp ngữ
+ Đoạn văn tả cây ăn quả:

+ Đoạn văn nói về tình cảm bạn bè: 
 

Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tinh yêu và thành tín

Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tinh yêu và thành tín

ĐTC chào tín hữu tham dự buổi tiêp kiến sáng thứ tư 13-1-2016 trongi đại thính dường Phaolô VI

Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín

Thánh Kinh giới thiệu Thiên Chúa như Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín, luôn luôn sẵn sàng tiếp đón, thông cảm và thứ tha.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với  gần 7,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chúng tại đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói:

Hôm nay chúng ta bắt đầu các bài giáo lý liên quan tới lòng thương xót theo viễn tượng kinh thánh, để học biết lòng thương xót, bằng cách lắng nghe điều chính Thiên Chúa dậy dỗ chúng ta với Lời Ngài. Chúng ta bắt đầu với Thánh Kinh Cựu Ước, chuẩn bị cho chúng ta và dẫn chúng ta tới mạc khải tràn đầy của Chúa Giêsu Kitô, nơi Người  lòng thương xót của Thiên Chúa Cha được vén mở một cách thành toàn.

Trong Thánh Kinh Chúa được giới thiệu như là “Thiên Chúa xót thương”. Đó là tên của Ngài, qua đó Ngài vén mở cho chúng ta  gương mặt và con tim của Ngài. Khi tự vén mở cho ông Môshê như kể trong sách Xuất Hành, chính Ngài tự định nghĩa như thế này: “Chúa, Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận, giầu tình yêu và thành tín” (Xh 34,6). Cả trong các văn bản khác chúng ta cũng tìm thấy công thức này, với vài thay đổi, nhưng luôn luôn nhấn mạnh trên lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng không mệt mỏi tha thứ (x. St 4,2; Ge 2,13; Tv 86,15; 103,8; 145,8; Nkm 9,17). Chúng ta hãy cùng nhau duyệt xét một lần các từ này của Thánh Kinh nói với chúng ta về Thiên Chúa.

Chúa “thương xót”: lời này khơi dậy một thái độ của sự hiền dịu như thái độ của một bà mẹ đối với con minh. Thật thế, từ do thái được Thánh Kinh dùng khiến nghĩ tới ruột hay cung lòng mẹ. Vì thế hình ảnh gợi lên là hình ảnh của một Thiên Chúa xúc động và hiền dịu với chúng ta như một bà mẹ, khi ôm lấy đức con nhỏ vào vòng tay, chỉ ước mong yêu thương, che chở, giúp đỡ và sẵn sàng trao ban tất cả, cả chính mình. Đó là hình ảnh mà từ này gợi lên. Như thế đó là một tình yêu có thể định nghĩa trong nghĩa tốt lành là “nội tạng”.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Thế rồi cũng có viết rằng Chúa “trắc ẩn” trong nghĩa ân xá, cảm thương, và trong sự cao cả của Ngài Ngài cúi xuống trên kẻ yếu đuối và nghèo túng, luôn luôn sẵn sàng tiếp đón, cảm thông và tha thứ. Ngài như người cha của dụ ngôn thánh Luca kể trong Phúc Âm (x. Lc 15,11-32): một người cha không khép kín trong giận dữ vì đứa con út bỏ đi, nhưng trái lại tiếp tục chờ đợi nó – ông đã sinh ra nó – rồi ông chạy ra gặp nó và ôm hôn nó, không để cho nó kết thúc sự xưng thú của nó – làm như thể ông bịt miệng nó lại – tình yêu và niềm vui của ông to biết chừng nào vì đã tìm lại được con. Và rồi ông cũng đi gọi người anh cả giận dữ và không muốn vào mừng lễ; anh là đứa con luôn luôn ở trong nhà nhưng sống như là một đầy tớ hơn là một người con, thế mà người cha cũng cúi xuống trên anh, mời anh vào nhà, tìm mở rộng trái tim anh cho tình yêu, để không có ai bị loại trừ khỏi lễ mừng của lòng thương xót. Lòng thương xót là một lễ mừng.

Về Thiên Chúa thương xót này người ta cũng nói rằng Ngài “chậm giận” dịch sát chữ là “có hơi thở dài”, có nghĩa là với hơi thở rộng rãi của lòng quảng đại và có khả năng chịu đựng. Thiên Chúa biết chờ đợi, các thời gian của Ngài  không phải là các thời gian của sự không kiên nhẫn của con người. Ngài như người nông phu khôn ngoan biết chờ đợi, để cho hạt giống có thời gian lớn lên, cho dù có cỏ lùng (x. Mt 13,24-30).

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Và sau cùng Chúa tự tuyên bố là “cao cả trong tình yêu và lòng thành tín”. Định nghĩa này về Thiên Chúa đẹp biết bao! Ở đây có tất cả. Bởi vì Thiên Chúa cao cả và quyền năng, nhưng sự cao cả và quyền năng này được trải dài ra trong việc yêu thương chúng ta, là những người bé nhỏ, bất lực. Từ “tình yêu “ được dùng ở đây ám chỉ lòng trìu mến, ân phước, lòng tốt. Nó không phải là tình yêu của tiểu thuyết truyền hình… Chính tình yêu đi bước trước, không tuỳ thuộc nơi các công nghiệp của con người, nhưng tùy thuộc sự nhưng không vô biên. Đó là sự ân cần của Thiên Chúa, mà không gì có thể ngăn chặn được, kể cả tội lỗi, bởi vì nó biết vượt qua tội lỗi, chiến thắng sự dữ và tha thứ sự dữ.

Một “lòng thành tín” vô hạn: đó là từ cuối cùng trong mạc khải của Thiên Chúa cho ông Môshê. Lòng trung thành của Thiên Chúa không bao giờ suy giảm, bởi vì Chúa là Đấng Giữ Gìn, Đấng không ngủ, nhưng liên tục canh thức trên chúng ta để đưa chúng ta tới sự sống như nói trong thánh vịnh: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành!

Giavê giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Giavê giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.” (Tv 121,3-4.7-8).

Và vì Thiên Chúa thương xót này trung thành trong lòng từ bi của Ngài, và thánh Phaolo nói lên một điều hay đẹp: nếu bạn không trung thánh với Ngài, Ngài sẽ vẫn trung thành, bởi vì Ngài không thể tự chối bỏ chính mình. Lòng trung thành trong sự thương xót chính là bản chất của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa luôn luôn và hoàn toàn đáng tin cậy. Một sự hiện diện vững vàng và ổn định. Đó là sự chắc chắn của đức tin chúng ta. Và như vậy trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, chúng ta hãy hoàn toàn phó thác mình cho Ngài, và hãy sống kinh nghiệm được yêu bởi vì “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và cao cả trong tình yêu và lòng trung thành này”.

ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau và chúc mừng năm mới 2016 mọi người lần nữa. Với các tín hữu Pháp ngài nói hôm nay phụng vụ nhớ thánh Hilario, Giám Mục thành Poitiers, và thánh Rémi, Giám Mục thành Reims. Tôi đặc biệt mang vào lời cầu nguyện của tôi nước Pháp, dân chúng và các vị lãnh đạo. Tôi cầu chúc mỗi người được ơn tiếp nhận lòng thương xót Chúa và mang nó đến cho các anh chị em khác. Chào các nhóm nói tiếng Anh, cũng như các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nhà ĐTC cầu chúc Năm Thánh Lòng Thương Xót là thời gian ân sủng và canh tân tinh thần, giúp mọi người cảm nhận được tình yêu thương của Thiên Chúa từ bi nhân hậu và thương xót, cũng như nếm hưởng trước hơi ấm và ánh quang gương mặt của Thiên Chúa từ bi sẽ được chiêm ngưỡng trong cuộc sống mai sau. Chào các tín hữu đến từ Giordania, Thánh Địa và vùng Trung Đông, ĐTC nói Thiên Chúa từ bi mời gọi chúng ta biết thương xót nhau như con cái đích thật của Chúa.

Ngài cũng chào nhiều đoàn hành hương Italia do các Giám Mục hướng dẫn. Ngài cầu chúc việc bước qua Cửa Thánh cũng khích lệ họ có các hành động thương xót trên thể lý cũng như tinh thần đối với tha nhân.

Ngài mời gọi giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn trong Năm Thánh này hãy là những người tiếp nhận và chia sẻ sự dịu hiền của Thiên Chúa Cha. Ngài khuyến khích người trẻ đem tình yêu Chúa đến cho các bạn đồng trang lứa; người đau yếu tìm được nâng đỡ trong sự vuốt ve của Chúa, và các cặp mới cưới biết là các chứng nhân cho vẻ đẹp của hôn nhân, qua tình yêu chung thủy của họ.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 10

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 10

Ngày Mồng Hai Tết – Sống Chữ Hiếu

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

CayChaLa

HotChaLa

Cây và Trái Chà Là

Hạt/Hột Chà Là

Hình 1: Hột và Trái Chà Là

     Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành.  Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu.  Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành.  Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Thịt Ta là của ăn

Thịt Ta là của ăn

Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.

Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.

Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.

Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.

Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.

Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?

2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?

3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?

4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Hạt giống mọc lên

Hạt giống mọc lên

Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.

Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?

Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.

Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.

Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng dọc dài thời gian của lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Thiên Chúa.

Dụ ngôn “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) chính là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá.

Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.

Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.

Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.

Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người truyền giáo cần phải sống giữa những anh chị em nầy và chia sẽ đời sống của họ. Ðó là điều cần phải làm trước tiên và đó là chìa khóa thành công của một nhà truyền giáo thật sự. Cần huấn luyện những cá nhân trưởng thành và những tổ chức tự lập ngõ hầu những thành phần của địa phương có thể rao giảng phúc âm cho chính đồng bào của họ và cung cấp những giáo dân có đức tin vừng mạnh, có trình độ trí thức tốt, có khả năng làm việc cách hăng say giữa anh chị em mình.

Tôi vừa mới đi du lịch hành hương đất nước Hàn Quốc(10-15/6/2012). Theo linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).

Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.

Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.

Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu. (Sẽ chia sẻ thêm về Giáo hội Hàn Quốc trong những bài sau).

Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13).

Một Giáo Hội khiêm nhu nhỏ bé dễ hòa mình vào giữa đại đa số những người nghèo của Châu Á. Và một Giáo Hội không quyền lực dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm. Vì phải chăng đã đến lúc cần sáng tạo ra những "mô hình" mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ hòa mình vào những cộng đồng xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo. Tục ngữ Việt Nam có câu: "có thực mới vực được đạo". Giáo Hội không được sai đến để giải quyết vấn đề kinh tế xã hội… nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không quan tâm đến những vấn đề ấy. Chúa Giêsu đã loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Người là "làm cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy" (Lc 7,22).

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, truyền giáo chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Ái mộ những sự trên trời

Ái mộ những sự trên trời

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.

Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Yêu

Yêu

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.

Vị tu sĩ đáp “có chứ”.

Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.

Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.

Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.

Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.

Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).

Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.

Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.

Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải là chứng tỏ hoặc giải nghĩa.

Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thành một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).

Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để có khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.

Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.

Sưu tầm

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mexico, Á Căn Đình ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mêhicô, Argentina ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Tình thương

Tình thương

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.

Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.

Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.

Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.

Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.

Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin… chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.

Sưu tầm

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA TỘI

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA TỘI

1) Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ

Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.

2) Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời

Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.

3) Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.

Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.

4) Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.

Từ xưa trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.

Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.

Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn bí tích Rửa Tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1) Bạn có dễ dàng nhận lỗi không?

2) Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa?

3) Ơn phép Rửa Tội là gì? Bạn đã sống ơn phép Rửa Tội chưa?

4) Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa?

5) Chúa Giêsu chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.

Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"

Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 – 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.

Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.

Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.

Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 – 27.

Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.

Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).

Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.

Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.

Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Tình yêu là lẽ sống

Tình yêu là lẽ sống

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi

Chỉ còn lương thực tăng giá thôi

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực

Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Y phục xứng kỳ đức

Y phục xứng kỳ đức

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
 
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

a. Điều khó hiểu
 
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán“. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

b. Ý nghĩa dụ ngôn
 
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “cáctá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
 

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới : người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới
 
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo,trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

 CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Peter and heaven's key

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao “Chìa Khóa Nước Trời", tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa. Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavít (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).

Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh Kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình (Harper’s Dict 524-525).

Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).

Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khóa mở cửa Nhà thờ. Đức Giám mục trao chìa khóa cho Linh mục Quản xứ để ngài mở cửa Nhà thờ. Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn giáo phận là thuộc Đức Giám mục giáo phận, còn Linh mục Quản xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám mục, thay mặt Đức Giám mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa.

Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể”; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu.

Chìa khóa mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.

Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”.

Có câu chuyện “Chìa khóa và ổ khóa Thiên Đàng” thật ý nghĩa
 
Một hôm nọ,
khóa cửa Thiên Đàng bị hư, thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khóa xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.

– Chào anh, tôi có cái ổ khóa bị hư, anh làm ơn sửa giùm.

– Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khóa to và quý thế này?

– Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ.
 
– Ừ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái vật qúy bằng vàng ròng này ở đâu vậy?

Thánh Phêrô tần ngần trả lời:

– Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.

Anh thợ vồn vã:

– À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng.

Thánh Phêrô giật mình:

– Đắt thế à? Tôi chỉ có 1.000 thôi.

– Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm?

– Anh hiểu lầm rồi! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nadarét. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng.

Anh thợ mỉm cười lắc đầu.

– Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.

Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được nhiều thứ khóa, chỉ trừ khóa của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư?

Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.

Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng.

– Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khóa vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.

Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi:

– Tôi có cái khóa cửa Thiên Đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp.
 
– Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái
khóa thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.

– Tốt lắm, anh cứ nói.

– Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên Các Thánh hay Các Thiên Thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khóa thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khóa cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.

Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khóa  khi nghe nói thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.

– Lạy thánh Phêrô, ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.

– Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khóa chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế? Phải có hàng lối chứ.

– Gặp thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xi-nê hoặc đi mua thịt, mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.

– Chúng mày biết gì? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ”Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế” à? Phải trật tự chứ!

– Chúa ơi ! Chết con rồi.
 


 

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hỏa ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.

Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.

Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, đấu đá nhau đến vậy hay sao? Ôi! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây, "những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.

– Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.

Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước, đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.

Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khóa trên tay thánh Phêrô.

– Ổ khóa này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.

– Khóa cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi?

– Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi.

– Thật không?

– Thật chứ! Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à?
 
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ
khóa lẫn chìa cho cậu bé.

– Cẩn thận kẻo rơi nhé.

Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khóa cho Phêrô.
 
– Cụ giữ lấy chìa
khóa này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì… Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khóa đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.

Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng:

– Ôi Chúa ơi! Cậu làm gì vậy?

Cậu bé mỉm cười trả lời:

– Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ. "Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở ". Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao?

Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại:

– Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé?

– Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa. Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không?

Thánh Phêrô sốt sắng:

– Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ?

Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô:

– Đi Bê-lem, rồi lên Núi Sọ.

Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

CÁC GIÁM MỤC THỤY SĨ KÊU GỌI ÁP DỤNG CÁC GIÁ TRỊ KITÔ VÀO CUỘC SỐNG XÃ HỘI

CÁC GIÁM MỤC THỤY SĨ KÊU GỌI ÁP DỤNG CÁC GIÁ TRỊ KITÔ VÀO CUỘC SỐNG XÃ HỘI

LUGANO: Ngày 28-7-2014 các Giám Mục Thụy sĩ yêu cầu chính quyền liên bang giải thích và áp dụng các giá trị Kitô vào cuộc sống cụ thể của xã hội.

Thông cáo mang chữ ký của Đức Cha Giacomo Grampa, nguyên Giám Mục Lugano, đại diện các Giám Mục Thụy sĩ, được công bố 5 tháng sau khi chính quyền Liên bang chấp nhận sáng kiến ”chống nạn di cư ồ ạt” do vài đảng phái chính trị đề ra yêu cầu chính quyền hạn chế số người di cư vào Thụy Sĩ ở mức 0.2%, và dành 10% trợ giúp phát triển cho việc kiểm soát sinh sản tại các nước nghèo. Đức Cha Grampa đặc biệt nêu bật sự kiện Thụy Sĩ đã luôn luôn là quốc gia đa ngôn ngữ, đa tôn giáo, đa văn hóa và có nhiều truyền thống khác nhau. Tại Thụy Sĩ các nền văn hóa tự do và duy xã hội, cải cách và công giáo, thành thị và nông thôn chung sống với nhau. Các giá tri Kitô cho tới nay đã được tháp nhập vào cuộc sống của dân chúng. Nhưng ngày nay chúng bị lèo lái để chống lại kẻ thù, là người khác, người ngoại quốc, người hồi. Nếu từ phía các Giáo Hội, từ phía cộng đoàn Kitô các giá trị này bị hạn hẹp, lập lại và không được giải thích, thì có nguy cơ tạo ra việc đồng hòa tín hữu và nơi những người sử dụng các giá trị đó dể ”bảo vệ các truyền thống kitô” mà không hiểu và không sống chúng. Với hậu qủa là cuối cùng có nhiều Kitô hữu xác tín rằng để bảo vệ Kitô giáo cần phải hạn chế số người nước ngoài vào Thụy Sĩ, hạn chế một số quyền của họ và xây tường ngăn cách… Nạn bài người nước ngoài đã đi tới chỗ lấy việc của các công nhân Thụy sĩ cho người nước ngoài làm với đồng lương rẻ mạt. Sự sợ hãi là một thực tại, nhưng cách thức thắng vượt nó là sự găp gỡ. Nguyên tắc nhìn vào mắt người ăn xin khi bố thí cho họ, cũng có giá trị đối với việc gặp gỡ người nước ngoài, vì như thế là mở rộng cho một viễn tượng khác.

Đức Cha Grampa mời gọi mọi ngưởi chú ý tới ”các người nước ngoài vô hình” không có gương mặt, không thể gặp được, nhưng họ điều kiện hóa cuộc sống chúng ta: đó là các tổ chức tài chánh quốc tế làm sụp đổ các hệ thống kinh tế, bằng cách chuyển vận đi nơi khắc các của cải không do họ làm ra. Đó là các băng đảng tội phạm mua các hàng quán, rửa tiền bẩn thỉu, qua các hiệp hội quốc tế hay điều hành các trung tâm sức khỏe nhưng che dấu dịch vụ mại dâm. ”Loại người nước ngoài đó” chinh phục chúng ta một cách lấn lướt ngấm ngầm: bằng cách ăn trộm lương tâm và văn hóa của chúng ta” (SD 28-7-2014).

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio