Lễ kính Thánh Gioan Maria Vianney tại Ars

Lễ kính Thánh Gioan Maria Vianney tại Ars

ĐHY Christophe Schoeborn, O.P, TGM giáo phận Vienne, Chủ tịch HĐGM Áo, đã được mời chủ sự các buổi lễ tại Đền Thánh Ars bên Pháp, trong hai ngày 3 và 4-8-2018, nhân dịp kỷ niệm 200 năm thánh nhân đến làm cha sở tại làng này.

Năm 1818, Cha Gioan Maria Vianney đến làng Ars-sur-Formans và làm cha sở tại đây trong 41 năm trời, hoàn toàn biến đổi dân làng từ tình trạng khô khan nguội lạnh thành những tín hữu nhiệt thành. Thánh thân được tôn làm bổn mạng của các cha sở.
Trung tâm hành hương Ars đã tổ chức 2 ngày mừng kính Thánh bổn mạng.
– Lúc 15.30 chiều ngày 3-8-2018, ĐHY Schoeborn đã thuyết trình tại Trung tâm linh mục ở Ars về đề tài: ”Một vị thánh đến Ars. Đâu là sứ điệp cho ngày nay?”.
– Tiếp đến lúc 17 giờ chiều có thánh lễ cầu cho ơn gọi do Đức Cha Roland, GM sở tại, cử hành cũng tại trung tâm linh mục.
– Sau cùng lúc 8 giờ tối, có buổi cử hành lòng thương xót tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Maria Vianney ở Ars, trong đó có chầu Thánh Thể và giải tội.
* Thứ bẩy, 4-8, lễ kính Thánh bổn mạng, bắt đầu lúc 9 giờ sáng với Kinh Ngợi Khen tại Nhà Thờ Đức Bà Từ Bi.
– Tiếp đến là thánh lễ trọng thể do ĐHY Schoenborn chủ sự lúc 10 giờ. Rồi từ 12 giờ có chầu Mình Thánh Chúa.
– Từ 13 đến 14 giờ, các trẻ em có thể chơi đùa và ăn pic-nick ở đồng cỏ, cùng với các hoạt động giải trí khác..
– Lúc 3 giờ chiều có cuộc rước hài cốt thánh Gioan Maria Vianney từ lâu đài
Ars, tiếp theo đó là kinh chiều trọng thể.
Tại Nhà thờ Đức Mẹ Từ Bi có giải tội suốt ngày (La Voix de l'Ain 3-8-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Tín hữu Myanmar đi 3 ngày 2 đêm để nhìn thấy Đức Giáo hoàng

Tín hữu Myanmar đi 3 ngày 2 đêm để nhìn thấy Đức Giáo hoàng

 

Yangon – “Chúng tôi mệt nhừ, nhưng chúng tôi sẽ được đền bù bằng việc nhìn thấy Đức Thánh Cha. Nhìn thấy ngài, đối với chúng tôi, như là nhìn thấy gương mặt của Chúa Giêsu. Đây là một ơn phúc và chúc lành.” Đó là lời của một số phụ nữ trong nhóm 200 khách hành hương đã đi xe lửa 3 ngày 2 đêm từ bang Kachin đến Yangon, Myanmar, tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô khi ngài đến thăm Myanmar vào tuần tới.

Sáng nay, 24/11, sau hành trình dài 3 ngày 2 đêm, nhóm 200 khách hành hương này đã đến giáo xứ thành Phanxicô Assisi ở Yangon. Tất cả họ đều thuộc sắc dân Kachin, là sắc tộc có số Kitô hữu đông nhất ở Myanmar, đến từ miền cực bắc của đất nước, nơi bị tàn phá tan hoang vì cuộc xung đột giữa quân đội sắc tộc và quân đội chính phủ. Nhóm khách hành hương này mang theo lời cầu nguyện và đau khổ của tất cả những người Kachin mà vì lý do kinh tế và an ninh không thể tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành vào ngày 29/11 tới đây.

Dù thật khó khăn để đến được Yangon, nhưng các tín hữu hành hương vẫn tỏ rõ niềm vui của họ. Cụ Petru Longgam, 83 tuổi nói: “Những người Kachinh chúng tôi như thế, chúng tôi thích nói chuyện, chúng tôi là những người cởi mở. Lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi theo đạo, chúng tôi sẽ có thể nhìn thấy một đức giáo hoàng. Thật là không tin nổi!”

Ngày mai giáo xứ thánh Phanxicô sẽ đón tiếp một nhóm 500 tín hữu hành hương khác và ngày sau nữa, một nhóm 700. Giáo xứ này cũng như các giáo xứ ở Yangon, cộng tác với Hội đồng giám mục để trợ giúp tất cả khách hành hương. Mỗi giáo xứ muốn đóng góp phần của mình. Có các tình nguyện viên chăm lo cho khách hành hương. Có những người lo ăn uống, tắm giặt, ghi danh, vv.

Cha xứ Jacob chia sẻ về thời điểm này: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là một phép lạ. Mọi người vui vẻ giúp đỡ nhau, nó là một ngày hội tuyệt vời. Sự kiện này khuyến khích củng cố đức tin và tình yêu. Giáo xứ chúng tôi có 1300 tín hữu và sẽ đón tiếp số khách hành hương tương tự. Tất cả vui vẻ đón tiếp họ, cả người Hồi giáo và Phật giáo sống ở đây cũng thế. Đây là dấu chỉ rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể là thời khắc đối thoại và có thể đóng góp cho tiến trình hòa giải quốc gia. Niềm tin Công giáo liên kết, chứ không chia rẽ. Tôi là một ví dụ: tôi thuộc sắc tộc Kharen, cha tôi là Phật tử còn mẹ là Công giáo.” (Asia News 24/11/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha đến Colombia khởi đầu chuyến viếng thăm 5 ngày

Đức Thánh Cha đến Colombia khởi đầu chuyến viếng thăm 5 ngày

BOGOTÀ. Chiều thứ tư, 6-9-2017, ĐTC Phanxicô đã đến Bogotà, thủ đô Colombia, để viếng thăm nước này trong 5 ngày, khích lệ mọi thành phần dân chúng trong tiến trình hòa bình và hòa giải sau 53 năm nội chiến.

Bối cảnh hòa bình mong manh

1. Thực vậy, 2 ngày trước khi ĐTC lên đường, hôm 4-9, đã có một biến cố lịch sử đối với đối với Colombia: đó là chính phủ nước này đã ký hiệp định ngưng bắn song phương với nhóm phiến quân ”Quân đội giải phóng quốc gia”, gọi tắt là ELN. Hiệp định được ký tại Quito, thủ đô Ecuador, sau 7 tháng thương thuyết tại đây, và sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-10 tới đây.

Lực lượng ELN được thành lập năm 1964 sau cuộc nổi dậy của giới nông dân và hiện còn ít nhất 1.500 chiến binh. Trong số những người theo lực lượng này bấy giờ cũng có hàng trăm LM, tu huynh và nữ tu, họ theo chủ nghĩa mác xít, say mê Cuba của Fidel Castro, nhưng dị ứng đối với giáo điều của Xô Viết.

Tổng thống Santos của Colombia cho biết Hiệp định ngưng bắn có tính chất tạm thời, cho đến ngày 12-1 năm tới, 2018, và có thể được gia hạn khi cuộc hòa đảm giữa hai bên được tiếp tục.

Tổng thống Santos đòi lực lượng ELN phải nhưng các vụ bắt cóc, các hoạt động khủng bố chống các cơ cấu hạ tầng dầu hỏa, ngưng sử dụng mìn chống người và chấm dứt việc tuyển mộ các trẻ vị thành niên.

2. 9 tháng trước khi ký hiệp định với nhóm du kích ELN, tức là hồi tháng 11 năm 2016, chính phủ Colombia đã ký hiệp định hòa bình với một tổ chức du kích đông đảo hơn, tên là FARC, lực lượng võ trang cách mạng Colombia, và chính thức kết thúc 53 năm xung đột võ trang làm cho hơn 250 ngàn người chết. Hành trình hậu chiến là một con đường cam go và còn rất nhiều khó khăn. Vì thế với chủ đề ”Chúng ta đi bước đầu”, cuộc viếng thăm của ĐTC muốn góp phần đẩy mạnh tiến trình hòa giải quốc gia Colombia.

Mặc dù đã có những hiệp định ngưng bắn và hòa bình được ký kết giữa chính phủ và hai nhóm phiến quân ở Colombia, nhưng thách đố hòa bình và hòa giải vẫn còn ở mức độ rất lớn. Nhiều người Colombia, kể cả các tín hữu Công Giáo và những người có khuynh hướng bảo thủ, chống lại ý tưởng các cựu du kích quân mác xít, đã từng gây ra bao nhiêu tội ác, nay được giảm án và thậm chí có thể tham gia chính trị như một đảng phái. Cả những người bị các nhóm bán quân sự cực hữu bách hại cũng lên tiếng bày tỏ lập trường tương tự.

Dân nước Colombia vẫn còn chia rẽ nhau về các hiệp định hòa bình và hiệp định ngưng bắn đã ký kết, và các GM Colombia đứng ở giữa lằn ranh giữa hai lập trường, đồng thời khuyến khích các giáo dân lên tiếng bày tỏ lập trường. Nhiều tín hữu Công giáo bảo thủ, cùng với những người Tin Lành, lập luận rằng, những hiệp định vừa nói có cả những điều khoản có hại cho gia trình truyền thống, điều mà những người ủng hộ hiệp định hòa bình phủ nhận.

Trong bối cảnh đó, Đức Ông Hector Fabio Henao, Giám đốc Caritas Colombia, nói với giới báo chí: ”Chúng tôi mong đợi ĐGH mang lại nhiều hy vọng. ĐTC đến đây giữa lúc vấn đề hòa giải là một thánh đố lớn nhất. Chúng tôi hy vọng sứ điệp của ngài đánh động tâm hồn của những người đã chịu đau khổ vì cuộc xung đột tại đây”.

Khẩu hiệu cuộc viếng thăm của ĐTC tại Colombia là ”Chúng ta hãy đi bước đầu”. Đức Cha Juan Carlos Cardenas Toro, GM phụ tá tổng giáo phận Cali, giải thích rằng ”Bước đầu này của ĐGH, bước ra khỏi máy bay để đến gần hơn với dân nước Colombia chịu đau khổ là điều mở ra cánh cửa hy vọng cho chúng tôi”.

Lên đường

Sáng thứ tư vừa qua, ĐTC đã rời nhà trọ Thánh Marta để ra phi trường Fiumicino đáp máy bay đi Colombia.

Chiếc Airbus A330 của hãng Alitalia chở ĐTC, đoàn tùy tùng và hơn 70 ký giả quốc tế cất cánh lúc quá 11 giờ sáng và trực chỉ thủ đô Bogotà của Colombia.

Trên máy bay, ĐTC đã chào thăm các ký giả đồng hành và nói với họ: ”Đây là chuyến công du hơi đặc biệt, một chuyến du hành để giúp Colombia tiếp tục tiến bước trên con đường hòa bình. Tôi xin anh chị em một lời cầu nguyện cho ý chỉ đó trong cuộc hành trình này. Cám ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em sẽ làm.. Tôi cũng muốn nói rằng chúng ta sẽ bay ngang không phận của Venezuela, tôi xin anh chị em cũng cầu nguyện cho nước này để cuộc đối thoại có thể thực hiện được, để Venezuela tìm lại được một sự ổn định tốt đẹp nhờ đối thoại với tất cả mọi người”.

Khi bay ngang không phận của Venezuela, ĐTC cho gửi điện nồng nhiệt chào mừng tổng thống Nicolás Maduro và nhân dân nước này. Ngài viết: ”Tôi cầu nguyện để mọi người dân ở Venezuela có thể thăng tiến con đường liên đới, công lý và hòa hợp, và tôi khẩn cầu ơn an bình trên tất cả anh chị em”.

Tiếp đón

Sau 12 tiếng rưỡi đồng hồ bay, máy bay chở ĐTC và đoàn đồng hành đã đáp xuống căn cứ không quân Catam thuộc phi trường thủ đô Bogotà vào lúc gần 4 giờ rưỡi chiều giờ địa phương. Giờ Bogotà đi sau giờ Roma 7 tiếng đồng hồ.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được Tổng thống Juan Manuel Santos, cùng với phu nhân Maria Clemencia Rodriguez Munera nồng nhiệt tiếp đón, và hai em bé trong y phục cổ truyền đã tặng hoa cho ngài.

Hiện diện tại sân bay cũng có một số quan chức chính quyền dân sự và vài GM Colombia, cùng với đại diện các nhóm phiến quân Lực lượng võ trang cách mạng Colombia (FARC) và Quân đội giải phóng quốc gia (ELN), sau cùng là 1 ngàn tín hữu, trong đó có một số chiến binh bị thương trong khi thi hành nghĩa vụ.

Như một cử chỉ cổ võ hòa bình và hòa giải, một thiếu niên tên là Emmanuel Rojas, đã trao cho ĐTC tượng một con chim bồ câu. Em sinh ra trong một trại du kích quân, mẹ em là bà Clara Rojas, một nhà chính trị Colombia bị phiến quân bắt cóc hồi năm 2002 và chỉ được trả tự do sau 6 năm bị giam giữ.

Nghi thức tiếp đón thật đơn sơ với phần giới thiệu thành phần của hai phái đoàn: chính phủ và Tòa Thánh, rồi ĐTC dùng xe mui trần đi về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở trung tâm thủ đô.

Dọc đường suốt 15 cây số, hàng trăm ngàn người đã đứng hai bên để đón chào ĐTC. Càng gần Tòa Sứ thần Tòa Thánh, dân chúng càng đông, và tràn ra đường, khiến các nhân viên an ninh lo lắng. Đại sứ quán của Tòa Thánh tọa lạc ở khu vực Teusaquilo, nơi có trụ sở của nhiều bộ cũng như của Đại học Công Giáo và Viện quốc gia Colombia Truyền thanh và truyền hình. Đây là một trong những khu vực đông dân cư nhất ở thủ đô Bogotà. ĐTC qua 4 đêm tại đây trong những ngày viếng thăm, nên các giới chức liên hệ của chính quyền đã thiết lập 3 vòng đai an ninh, với 633 cảnh sát viên được bố trí.

Khi đến tòa sứ thần vào khoảng 6 giờ chiều giờ địa phương, ĐTC đã được một nhóm gần 1 ngàn tín hữu nồng nhiệt tiếp đón với những bài ca và điệu vũ truyền thống.

Phần lớn những người trẻ hiện diện là những người theo một chương trình cai nghiện ma túy thuộc Trung tâm bảo vệ trẻ em và người trẻ, gọi tắt là Idipron. ĐTC đã được đại diện các bạn trẻ trao tặng chiếc áo ruana màu trắng, một tấm áo poncho hai mảnh do các bạn trẻ ở Trung Tâm Idipron dệt. Ngoài ra cũng có một nhóm thuộc ”các gia đình lòng thương xót”, một hội gồm các giáo dân và linh mục chuyên hoạt động để giúp đỡ những người túng thiếu nhất.

Ứng khẩu trong dịp này, ngài nói với những người trẻ: ”Các con hãy tiếp tục tiến bước. Đừng để mình bị bị đánh bại, bị lường gạt, đừng đánh mất niềm vui, niềm hy vọng và nụ cười. Cả những trẻ em cũng có thể trở thành anh hùng”. Trước khi kết thúc, ĐTC mời gọi mọi người đọc kinh Kính Mừng và ban phép lành cho tất cả.

Vào đến nhà nguyện bên trong, ĐTC đã dâng hoa kính Đức Mẹ trước sự hiện diện của các nhân viên của tòa Sứ Thần.

G. Trần Đức Anh OP

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

Cảm nhận Đức Tin của nam sinh đạt Huy Chương Vàng Toán Quốc Tế

“Em rất sung sướng, hạnh phúc! Tạ ơn Chúa, cám ơn cha mẹ, quý thầy cô và mọi người”. Đó là tâm sự chân thành với người viết của Antôn Phan Nhật Duy, sau vài giờ em biết mình được huy chương vàng tại kỳ thi Olympic Toán học quốc tế (International Mathematical Olympiad), lần thứ 58, năm 2017 (IMO 2017), vừa tổ chức tại Jio de Janeiro, Brazil.

Nhìn lại hoàn cảnh xuất thân và lắng nghe tâm sự của Nhật Duy, để thấy phần nào sự chăm chỉ, khiếm tốn và lòng đạo đức của cậu học sinh xuất sắc, đáng tự hào này.

Em Antôn Phan Nhật Duy là con thứ hai của anh Giuse Phan Tình Nguyện và chị Maria Võ Thị Lài, giáo dân họ Tân Vạc, xứ Kẻ Đọng, thuộc xã Sơn Tiến, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Vốn làm nông thuần túy, kinh tế còn khó khăn, việc cho bốn người con ăn học đầy đủ cũng là cố gắng lớn của bố mẹ Nhật Duy. Hằng ngày, ngoài giờ học, phụ giúp gia đình trồng trọt, chăn nuôi trở thành nhiệm vụ quen thuộc đối với anh em Duy.

Trước khi vào thành phố Hà Tĩnh học cấp III ở trường Chuyên, Phan Nhật Duy là học sinh trường Tiểu học II và Trung học cơ sở Sơn Tiến. Suốt các năm học phổ thông, em đều là học sinh giỏi toàn diện. Riêng môn Toán, Nhật Duy thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp huyện, tỉnh và quốc gia.

Điều đáng ghi nhận nữa là Nhật Duy cũng thường xuyên đạt giải cao trong các kỳ thi Giáo lý.

Sang Brazil thi Olympic lần này, ngoài sách vỡ, ít tiền bạc và tư trang, Antôn Phan Nhật Duy còn mang theo hai thứ đặc biệt đó là: bức ảnh “Chúa Thương xót” với hàng chữ “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” và tràng Chuỗi Mân Côi. Duy kể: “Em thường xuyên cầu nguyện, xin Đức Mẹ và thánh Antôn quan thầy bầu cử cho”.

Nói về thi Olympic, Nhật Duy tâm sự: “Mỗi thí sinh phải làm sáu bài thi, mỗi ngày thi ba bài. Em khá lo lắng sau ngày thứ nhất, chỉ biết cố gắng, cầu nguyện và phó thác. Thi xong vẫn chưa hết hồi hộp, thật may mắn cho em vừa đủ để đạt huy chương vàng. Em cảm thấy đó là hồng ân lớn lao Chúa thương ban, đền đáp công sức của cha mẹ, các thầy cô và mọi người”.

Huy chương vàng của Phan Nhật Duy góp phần quan trọng giúp đội tuyển Toán Việt Nam đứng thứ ba trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia IMO 2017. Đây là thành tích cao nhất của nước ta trong 43 lần tham gia sân chơi này.

Người Công Giáo xác tín “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,10). Để có được tấm huy chương vàng tại IMO, dĩ nhiên ngoài tố chất thông minh và sự cố gắng vượt bậc của cá nhân Antôn Phan Nhật Duy là bao mồ hôi và công lao của cha mẹ, các thế hệ thầy cô, đặc biệt là những người trực tiếp bồi dưỡng. Ngang qua những con người bình thường đó, Chúa dệt nên điều phi thường. Cá nhân Nhật Duy (chàng trai chưa đầy mười tám tuổi) ý thức điều đó, nên cảm nhận đầu tiên khi giành chiến thắng là “tạ ơn Chúa và cám ơn tất cả mọi người”. Đó cũng là vẻ đẹp của Đức tin Công giáo, vì khi ta càng cố gắng sống trọn tình với Chúa là Cha thì ta mới có thể sống vẹn nghĩa với anh em mình.

“Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui”
(Tv 125,3).

Xin chúc mừng Antôn Phan Nhật Duy, xin Chúa tiếp tục đồng hành cùng em để niềm tự hào hiện tại sẽ được tiếp tục trong tương lai.

Antôn Hùng Mạnh

http://giaophanvinh.net/modules.php?name=News&op=viewst&sid=13589

Truyền hình trực tiếp và thuyết minh tiếng Việt, Lễ Truyền Dầu và Lễ Phục Sinh do Đức Thánh Cha cử hành tại Vatican 2017

Truyền hình trực tiếp và thuyết minh tiếng Việt, Lễ Truyền Dầu và Lễ Phục Sinh do Đức Thánh Cha cử hành tại Vatican 2017

Anh chị em thân mến!

1. Truyền hình trực tiếp Thánh Lễ Truyền Dầu, Thứ Năm Tuần Thánh lúc 14h25 ngày 13.04.2017

Thứ năm ngày 13.04.2017, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Truyền Dầu tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô (hay còn gọi là Đền Thờ Thánh Phêrô).

Truyền Thông Vatican sẽ thực hiện việc truyền hình trực tiếp và thuyết minh Tiếng Việt sự kiện quan trọng này qua kênh Youtube: Vatican – Tiếng ViệtGiờ Thánh Lễ là: 14:25 (2h25 chiều) ngày 13.04.2017 giờ Việt Nam

2. Truyền hình trực tiếp Thánh Lễ Phục Sinh, Chúa Nhật lúc 14h55 ngày 16.04.2017

Chúa Nhật ngày 16.04.2017, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành Thánh Lễ Phục Sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Truyền Thông Vatican sẽ thực hiện việc truyền hình trực tiếp và thuyết minh Tiếng Việt sự kiện quan trọng này qua kênh Youtube: Vatican – Tiếng ViệtGiờ Thánh Lễ là: 14:55 (2h55 chiều) ngày 16.04.2017 giờ Việt Nam

Ban Việt Ngữ – Truyền Thông Vatican

Tuần 9 ngày dâng kính Mẹ Maria cầu cho cuộc bầu cử tồng thống Hoa kỳ

Tuần 9 ngày dâng kính Mẹ Maria cầu cho cuộc bầu cử tồng thống Hoa kỳ

hai-ung-cu-vien-tong-thong-hoa-ky

Washington D.C. – Hội Hiệp sĩ Columbus tổ chức tuần cửu nhật ngày dâng kính Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội, bổn mạng của Hoa kỳ, để cầu nguyện cho cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Tuần cửu nhật sẽ bắt đầu từ 30/10 cho đến ngày 7/11, ngày trước ngày bầu cử.

Vào năm 1791, Đức cha John Carroll, Giám mục đầu tiên của Hoa kỳ, đã phó thác giáo phận của ngài – lúc đó cũng là giáo phận duy nhất, bao gồm toàn lãnh thổ Hoa kỳ – cho Đức Maria. Năm 1846, các Giám mục Hoa kỳ đã tuyên bố nhận Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội là quan thầy của Hoa kỳ.

Tuần cầu nguyện 9 ngày xuất phát từ lễ cung hiến đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington vào năm 1959. Sau đó Đức Hồng y Patrick O'Boyle, khi ấy là Tổng Giám mục Washington đã phê chuẩn.

Các giáo xứ, các phân bộ của hội Hiệp sĩ Columbus, các gia đình và các cá nhân được mời tham gia làm tuần cửu nhật này. Ông Carl Anderson, chủ tịch điều hành của Hội Hiệp sĩ Columbus cho biết: “Giáo hội dạy rằng các tín hữu Công giáo được kêu gọi xây dựng lương tâm của mình dựa trên giáo huấn của Giáo hội và bỏ phiếu theo lương tâm được huấn luyện tốt đó. Đề cập đến cuộc bầu cử tại Hoa kỳ, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói là chúng ta nên ‘nghiên cứu các chương trình (của các ứng cử viên) kỹ càng, cầu nguyện và chọn lựa theo lương tâm’, và tuần cửu nhật này nhắm giúp các tín hữu Công giáo Hoa kỳ thực hành điều này.” (CAN 19/10/2016)

Hồng Thủy

Linh mục Federico Lombardi, giám đốc Dòng Tên cuối cùng của Đài Phát Thanh Vatican

Linh mục Federico Lombardi, giám đốc Dòng Tên cuối cùng của Đài Phát Thanh Vatican

Cha Lombardi phê bình sức ép của báo chí trên Đức Giáo Hoàng

Giám đốc Dòng Tên Đài Phát Thanh Vatican chào từ biệt: ngày 1 tháng 3, linh mục giám đốc Federico Lombardi sẽ rời Đài Phát Thanh của Giáo hoàng.

Cha sẽ không được thay thế. Từ hơn 80 năm nay, Đài Phát Thanh Vatican được giao cho các tu sĩ Dòng Tên điều hành, bây giờ Đài Phát Thanh Vatican sẽ sát nhập vào Trung tâm Truyền hình Vatican (CTV) và sẽ thay đổi tên. Một trang lịch sử đã được lật qua. Nhưng trước khi ra đi, linh mục Lombardi nói các cảm nhận của mình, đôi khi có chút luyến tiếc, đôi khi có chút cay đắng. Ngài nói với Đài Phát Thanh Vatican tiếng Ý về 25 năm cuối của Đài Phát Thanh Vatican và ngài không ngần ngại nói quan điểm của mình về việc cải cách đang tiến hành. Như một loại như chúc thư, và đây là những điểm chính.

Một Đài Phát Thanh hướng về các vùng ngoại vi

Linh mục Lombardi nhắc lại sự gắn bó của mình với làn sóng ngắn, các thính giả sống trong những điều kiện khó khăn, thế nhưng họ cũng gởi thư đến đài để cám ơn về tinh thần phục vụ của đài, nhất là ở Phi châu và Âu châu, nhận những lời khích lệ này ngài rất vui. Ngài cũng nhắc lại, năm đầu tiên khi Liên Xô sụp đổ, đài đã nhận 40 000 thư gởi đi từ Ukraina.

Dù ngài thích làn sóng ngắn, nhưng linh mục Lombardi cho rằng các kỹ thuật truyền thông mới bây giờ mở một khoảng không gian rất quan trọng, ngày nay rất trọng yếu và chiếm ưu thế, nhưng trong bản chất của Đài Phát Thanh Vatican, trong sứ vụ từ đầu, sau đó đặc biệt trong thời gian Giáo hội bị các chế độ độc tài bách hại nhất là dưới chế độ cộng sản, thì ưu tiên hàng đầu của Đài vẫn là phục vụ người nghèo, người bị bức bách, những người thiểu số đang gặp khó khăn hơn là chiều theo luật tối thượng của đa số thính giả, linh mục Lombardi nhắc lại. Tuy nhiên tầm mức thính thị phải được chú trọng một cách thích đáng, nhưng đó không phải là tất cả. Ngài hy vọng trong tương lai những điều này sẽ không bị quên, trong việc nhận định về các tiến hóa của truyền thông Vatican. Đó là một thách thức hào hứng: quan tâm đến người nghèo, chiến đấu chống lại văn hóa loại trừ trong thế giới hiện đại của hệ thống truyền thông mới.

Tài nguyên đa ngôn ngữ, đa văn hóa

Ngài nhắc lại di sản văn hóa và nhân bản mà Đài Phát Thanh Vatican phải mang lại cho các cơ quan truyền thông Vatican là “một tài nguyên ngoại hạng của truyền thông đa ngôn ngữ và đa văn hóa,” với gần “40 thứ tiếng và mười mấy ký tự khác nhau”. Đối với linh mục Lombardi, đây cũng là một “kinh nghiệm quý giá về mặt giáo hội” vì “sống với đài là một trường học phổ quát của công giáo. Tôi lưu ý là nguồn tài nguyên này sẽ được giữ gìn và tôi bằng lòng khi thấy điều này được công nhận trong những đường lối lớn cải cách.”

Các cố gắng hiện đại hóa

Cha nêu lên “con đường hoán đổi” mà nhân viên Đài Phát Thanh Vatican đi từ “kỹ thuật và cách tổ chức làm việc đời xưa đến kỹ thuật và cách tổ chức làm việc ngày nay”, cha khen các cố gắng của “300 nhân viên tận tâm, nhiệt thành muốn tiếp tục phục vụ Tòa Thánh với khả năng chuyên nghiệp và nhân bản của mình và với tinh thần làm việc cho giáo hội. Họ phải được tháp tùng và nâng cao giá trị nhiều nhất có thể”, ngài nhấn mạnh.

Còn về việc tái cấu trúc đang tiến hành, linh mục Lombardi công nhận sự tiến hóa này là cần thiết, ngài nhắc lại, từ những năm 1990 Đài Phát Thanh Vatican đã đi vào kỷ nguyên số và đa truyền thông. “Chúng tôi không chỉ sản xuất các chương trình thính thị, chúng tôi còn phát triển trang mạng lớn và các trang trang mạng xã hội”. Chúng tôi vẫn còn giữ cách gọi “Đài Phát Thanh Vatican”, nhưng “trên thực tế chúng tôi không còn ở trong nghĩa riêng của từ này”, chúng tôi đã trở nên một trung tâm quan trọng đưa tin tức, đào sâu khả năng đa ngôn ngữ và đa văn hóa, phát đi với kỹ thuật và hình thức phù hợp nhất để mở rộng địa bàn hoạt động ở nhiều nơi trên thế giới: như Đức Piô XI đã làm với Marconi (khi thành lập Đài Phát Thanh Vatican năm 1931), khi ngài dùng kỹ thuật sáng tạo nhất thời đó cũng như chúng tôi đang làm bây giờ.”

Thay tên

Linh mục công nhận tên Đài Phát Thanh Vatican có thể tạo nên các chỉ trích về tiền tiêu quá nhiều cho cấu trúc, vì “cho rằng chúng tôi bị kẹt trong việc sản xuất các chương trình thính thị để phát trên đài truyền thống”, bây giờ không còn như thế nữa, chúng ta có thể thấy khi xem các trang mạng của đài. Sự thay đổi tên, một công việc được dự trù trong chương trình cải cách sẽ lấy đi sự lập lờ này. Cha cũng thấy bình thường là các thế hệ mới mọc lên và mang đến các tiến hóa này. Theo ngài, sự sát nhập với Trung tâm Truyền hình Vatican (CTV) là hợp lý, nhưng phải thành công trong việc phối hợp hai cơ quan có tầm vóc và lịch sử rất khác nhau.

 Những gì có thể tiết kiệm?

Về việc tiết kiệm ngân sách, linh mục Lombardi nhắc lại từ năm 2003 Đài Phát Thanh Vatican đã bỏ 70 chỗ. Ngoài các việc giảm bớt các chương trình làn sóng ngắn và cố gắng hợp lý hóa và điều hợp một vài sinh hoạt thì linh mục e ngại về việc tiết kiệm tối đa sẽ giảm bớt một số sinh hoạt quan trọng. Linh mục nhắc lại Đài Phát Thanh Vatican đóng một vai trò quan trọng và đôi khi không được biết đến trong những sinh hoạt khác ngoài việc truyền các buổi lễ, phiên dịch theo yêu cầu của phủ Quốc vụ khanh, tài liệu và thư khố hay giới thiệu Vatican trong thế giới truyền thông và các nhà thông tin quốc tế. Tất cả chi phí này là một phần không thể cắt xén được và vẫn do Vatican chi trả dù nó không còn ở trong bản chiết tính của Đài Phát Thanh Vatican.

Các sứ vụ cần tái định nghĩa lại cho Dòng Tên

Còn về vị trí của Dòng Tên, theo đó từ đầu Đức Giáo hoàng Piô XI đã giao Đài Phát Thanh Vatican cho Dòng đảm trách, linh mục cũng nhắc lại, nhân viên Dòng Tên ở đài được trả lương thấp hơn các nhân viên khác của đài (dưới hình thức không phải là lương theo đúng nghĩa, nhưng là tiền bồi thường trả cho cộng đoàn của họ), đó cũng là một số tiết kiệm lớn. Ngài cũng cho biết vai trò của các tu sĩ Dòng Tên trong công việc truyền thông của Vatican sẽ được xác định lại, theo đúng nghĩa, “Đài Phát Thanh Vatican không còn nữa.” Nhưng cho đến bây giờ, các tu sĩ Dòng Tên vẫn giữ trách nhiệm với Đài Phát Thanh Vatican và “tiếp tục làm việc với các đồng nghiệp của mình như thường lệ, chịu trách nhiệm trong lãnh vực biên tập, thông tin, truyền thông dưới quyền của ban giám đốc chương trình”, các công việc này vẫn còn do tu sĩ Dòng Tên Ba Lan, linh mục Andrzej Majewski đảm nhận.

Các cơn khủng hoảng và các thất vọng

Trong cuộc phỏng vấn này, linh mục Lombardi cũng nói về hai giai đoạn đau lòng: trước hết là cuộc tranh cãi về sự độc hại các làn sóng của trung tâm phát sóng Santa Maria di Galeria xảy ra năm 2001 và đã là trọng tâm tranh cãi của báo chí Ý. “Thật khó khi bị cáo buộc đã làm chuyện xấu, thậm chí còn là giết trẻ em, nhưng chúng tôi đã vượt lên thử thách với tinh thần trách nhiệm, nghiêm túc và trình độ khoa học cao”, ngài khẳng định.

Ngài cũng nói đến sự hối tiếc về “ảo mộng bị vỡ” của nhiều người Nigéria sau khi bỏ chương trình phát sóng bằng ngôn ngữ hausa, một ngôn ngữ miền Bắc-Đông Nigéria. “Tôi đã phải bỏ dự án này, tôi nhớ quan tâm lúc đó là ‘không nới rộng thêm nữa’…” “Đối với tôi, đó là một quyết định sai lầm, đi ngược với sự thông hiểu về tính cần thiết đích thực về mặt nhân bản và Giáo hội, theo đó chúng tôi có thể đáp ứng một cách khiêm tốn nhưng đáng kể”, linh mục Lombardi thố lộ.

Đài là “nhà” của linh mục

Năm nay linh mục Lombardi 73 tuổi, cha là giám tỉnh Dòng Tên Ý trong những năm 1980, nhưng trước đó, cha đã làm mười mấy năm cho tờ báo Văn minh Công giáo, một tờ báo nổi tiếng của Dòng Tên. Đài Phát Thanh đã làm cho cha khám phá một khía cạnh khác của ngành báo chí. Trong 25 năm làm việc ở Đài Phát Thanh Vatican, từ giám đốc các chương trình trong những năm  1991 đến 2005, rồi tổng giám đốc từ năm 2005 đến 2016, ngài giữ kỷ niệm lý thú của “tầm sinh hoạt thông tin trên đài, tầm quốc tế của địa bàn hoạt động, với 60 quốc tịch đại diện ngay trong cộng đồng làm việc, với các văn hóa, ngôn ngữ và ký tự khác nhau”.

Dù ngài có những trách nhiệm khác nhau như điều hành Văn phòng Báo chí từ năm 2006 nhưng đài vẫn là nhà của ngài. ngài cho biết không bao giờ ngài nghĩ mình sẽ xin rời ban điều hành Đài Phát Thanh Vatican. “Đó là sứ vụ mà các bề trên của tôi kêu gọi tôi phục vụ cho Vatican. Tôi luôn xem đây là sứ vụ đầu tiên và chính yếu, tôi luôn trung thành, luôn dấn thân phục vụ cho những người đã được giao phó đầu tiên cho tôi.”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

Trích từ Phanxico.vn

Ba tân Giám Mục vừa được thụ phong ngày 8 tháng 9 năm 2015 tại Losngeles

Ba tân Giám Mục vừa được thụ phong ngày 8 tháng 9 năm 2015 tại Los Angeles

Mass_of_Episcopal_Ordination_screenshot_1_CNA_9_8_15

Los Angeles, Calif., Ngày 8 tháng 9 năm 2015 – Đức Tổng Giám Mục Jose H. Gomez của Los Angeles đã  phong ba tân giám mục phụ tá vào ngày thứ ba 8 tháng 9 năm 2015, bao gồm cả các nhà truyền giáo trên mạng rất nổi tiếng là Cha Robert Barron. Đức Tổng Giám Mục khuyến khích các tân giám mục hãy mang lại niềm vui của tình yêu Thiên Chúa cho mục tử của họ.

"Là giám mục, đều là tôi tớ của hy vọng. Và luôn luôn phục vụ tốt nhất bằng ví dụ của riêng của chúng ta, "Đức Tổng Giám Mục Gomez đã nói  trong  thánh lễ tại Nhà thờ Our Lady of Angels, Los Angeles".

Đức Tổng Giám Mục Gomez khuyến khích ba vị tân giám mục "chúng ta phải gần gũi với mọi người", đặc biệt là người nghèo, người dễ bị tổn thương và yếu đuối. "Thấu hiểu niềm vui và hy vọng và chăm lo đến mọi người. Hãy nói chuyện với tâm lòng của họ đầy niềm hy vọng ".

ĐTGM khuyến khích các giám mục hay dạy bởi những gương tốt  "niềm vui đến trong sự hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài cho sự tạo dựng và lịch sử."

Đức Tổng Giám Mục Gomez đã đồng tế Thánh lễ cùng với một số các giám mục và hàng chục linh mục. Hàng trăm người đã tham dự, bao gồm cả các gia đình thân nhân và các nhà lãnh đạo từ các tôn giáo khác.

Trong thánh lễ cũng có Đức Tổng Giám mục mới nhậm chức Cupich của giáo phận Chicago và Giám mục phụ tá Joseph Sartoris Los Angeles đã nghỉ hưu. Đồng thời cũng có Đức Tổng giám mục Carlo Maria Viganò, là sứ thần tòa thánh tại Hoa Kỳ, và cựu Tổng giám mục giáo phận Los Angeles Đức Hồng Y Roger Mahony.

Đức Tổng Giám mục Viganò đọc sắc lệnh của ĐTC Phanxicô phong chức cho ba vị tân giám mục. Ngài yêu cầu  hãy cầu nguyện cho các tân giám mục mới sẽ giúp "mang Tin Mừng đến mọi người."

Ba vị giám mục mới là Robert Barron, David O'Connell và Joseph Brennan.

Trước khi được bổ nhiệm, Đức Giám mục Robert Barron đã từng là Hiệu trưởng kiêm chủ tịch Chủng viện Mundelein Seminary Chicago tại Đại học St. Mary of the Lake. Ông đã trở nên nổi tiếng thông qua các chương trình trên mạng trực tuyến của mình (Word On Fire Catholic Ministries). Ông còn sản xuất bộ phim tài liệu "Công giáo".

Hai vị giám mục khác đã được phục vụ trong Tổng giáo phận Los Angeles.

Đức Giám mục O'Connell là một nguồn gốc của quận Cork, nước Ái Nhĩ Lan. Ngài được thụ phong linh mục năm 1979. Ông đã lo về việc để chấm dứt bạo lực trong thành phố ở Los Angeles. Ông từng là một thành viên của Ủy ban mục vụ của giáo phận về dân di trú.

Bishop Brennan được thụ phong linh mục vào năm 1980. Ông là chủ tịch các hội đoàn công giáo của tổng giáo phận Los Angeles.

Thái Trọng (Phỏng dịch CNA News)

Bánh Thánh Thể

Bánh Thánh Thể

Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.

Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.

Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:

Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.

Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.    

Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.

Sưu tầm

Cha Lombardi và sinh hoạt của Đức Thánh Cha ngày 7-7-2015

 Cha Lombardi và sinh hoạt của Đức Thánh Cha ngày 7-7-2015

Thứ ba 7-7-2015 là ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm mục vụ của ĐTC tại Ecuador. Ban sáng ngài đến ”Công viên 200 năm”, rộng 125 hécta, ở thủ đô Quito, cách tòa Sứ Thần 11 cây số để gặp gỡ 40 GM thuộc HĐGM Ecuador, trước khi cử hành thánh lễ cho khoảng 1 triệu rưỡi tín hữu vào lúc 10 giờ rưỡi cũng tại Công viên này, với chủ đề là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

 Ban chiều vào lúc 4 giờ rưỡi, ĐTC đã gặp gỡ giới học đường và đại học tại Đại học Công Giáo Ecuador. Sau đó lúc 6 giờ, ngài gặp xã hội dân sự ở nhà thờ thánh Phanxicô là thánh đường cổ kính nhất của Mỹ châu la tinh, thuộc khu trung tâm lịch sử của thành Quito. Sau cùng ĐTC viếng thăm thánh đường của dòng Tên, ”Iglesia de la Compania”. Nhà thờ này được xây từ năm 1606 và có bức ảnh baroc nổi tiếng năm ngoái có 150 ngàn người đến viếng.

 Ký giả Mario Galgano, thuộc ban tiếng Đức, đài Vatican, đã phỏng vấn Cha Federico Lombardi, SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh và cũng là Tổng giám đốc Đài Vatican:

 H. Tình trạng sức khỏe của ĐTC thế nào, thưa cha?

 Lombardi: ĐTC vẫn khỏe mạnh, không phải chỉ vì tôi phải nói như vậy, nhưng đó là sự thực và vì nếu ai thấy những gì ngài làm thì không thể không cảm thấy ngưỡng mộ vì nghị lực khác thường của ngài, đặc biệt khi nhìn ngài ở gần kề, mặc dù bao nhiêu công việc trong ngày, thấy ngài luôn thanh thản, an bình, tự chủ, quan tâm đến những người ở chung quanh, chú ý đến cả những chi tiết nhỏ.. quả thực ĐTC tỏ ra có một khả năng sống những giai đoạn đặc biệt với nhiều công tác như thế, với một khả năng hoàn toàn đương đầu với mọi khía cạnh của vấn đề.

 H. Chương trình hoạt động trong ngày 7-7-2015 của ĐTC rất khẩn trương: cử hành thánh lễ tại Công viên 200 năm ở thủ đô Quito, gặp gỡ các sinh viên, nghĩa là giới đại học, rồi giới xã hội của Ecuador.. Đâu là những điểm mạnh trong ngày thứ ba 7-7 của ĐTC?

 Lombardi: Ngày 7-7 này có lợi điểm là diễn ra hoàn toàn trong cùng một thành phố, vì thế không phải di chuyển xa như trong ngày 6-7 bằng máy bay, đi tới phi trường và trở về … Mọi hoạt động trong ngày thứ ba này đều diễn ra tại thủ đô, vì thế ĐTC có thể thi hành một chương trình với một loạt những sinh hoạt quan trọng, bắt đầu từ cuộc gặp gỡ với các GM, tuy là cuộc gặp gỡ riêng nhưng có một tầm quan trọng trong một cuộc viếng thăm mục vụ trong Giáo Hội, rồi đến thánh lễ đặc biệt tại Công viên kỷ niệm 200 năm độc lập, thánh lễ được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, không những với nội dung phong phú, nhưng cả về việc chuẩn bị tinh thần.

 Ban chiều ngày 7-7, ĐTC đã có hai biến cố quan trọng: trước tiên là gặp giới giáo dục. Giáo hội Ecuador rất muốn có cuộc gặp gỡ này với ĐTC để ngài khích lệ nỗ lực giáo dục qui mô của Giáo hội, nhưng được hội nhập vào trong một thực tại rộng lớn và phức tạp hơn. Cuộc gặp gỡ này là cơ hội để ĐTC đề cập đến một loạt các vấn đề lớn, không những liên quan tới giáo dục, nhưng cả những giá trị lớn đang được thông truyền qua giáo dục, những vấn nạn lớn của thế giới ngày nay. ĐGH đặc biệt nhắc đến những vấn nạn mà ngài bàn tới trong thông điệp mới đây ”Laudato sì”. Những câu hỏi ấy giúp xếp đặt việc giáo dục, nhắm giúp người trẻ chuẩn bị trả lời cho các vấn nạn ấy của nhân loại ngày nay, với trách nhiệm của họ và với sự chẩn bị thích hợp.

 H. Về giới văn hóa, dân sự xã hội, trong cuộc gặp gỡ ĐTC đã có một bài diễn văn rất sâu xa, đề cập đến nhiều đề tài. Có gì gây ấn tượng mạnh nhất không?

 Lombardi. Chắc chắn đó là một bài diễn văn người ta chờ đợi rất nhiều, vì tình trạng hiện nay của xã hội Ecuador, cũng như nhiều xã hội khác, đang ở trong tình cảnh khó khăn, với những căng thẳng. Chắc chắn có một sự tiến bộ rất tích cực ở Ecuador, trong nhiều năm, nhưng cũng có nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Vậy ĐGH có thể góp phần thế nào cho nhân dân Ecuador trong tình trạng như thế? Đó là một câu hỏi lớn. Và ĐTC, trong tất cả các bài diễn văn của cuộc viếng thăm ở Ecuador, một cách này hay cách khác, đều chuyển đạt một sứ điệp đối thoại, liên đới, hướng dẫn việc xây dựng một xã hội hài hòa, bao gồm mọi người, có thả năng hội nhập tất cả các thành phần khác nhau của xã hội, hội nhập tinh thần sáng tạo của các thành phần ấy cũng như trách nhiệm của họ, cùng quan tâm đến công ích của đất nước. Và phương pháp mà ĐTC chọn trong bài diễn văn của ngài là đi từ kinh nghiệm cụ thể của gia đình, các giá trị gia đình, và nới rộng các giá trị ấy, từ việc xây dựng gia đình đến xã hội. Vì thế ĐTC đã chỉ một con đường rất cụ thể để trình bày diễn văn của ngài, tập trung vào những thái độ mà mỗi người phải có để góp phần tích cực vào tương lai đất nước của mình (SD 8-7-2015)

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Nhận ra phép lạ mỗi ngày

Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".

Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa con".

Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.

Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.

Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.

Veritas Radio

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không : “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2). Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo. 

Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.

Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra mộtgóc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.

Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh. Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.

Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.

Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.

Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.

Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,24)

Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.

Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.

Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn. ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).

Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.

Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này ?

Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tóm lược cuộc họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay ngày 15-1-2015

Tóm lược cuộc họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay ngày 15-1-2015

Ngày 15-1-2015, trên chuyến bay dài hơn 6 tiếng đồng hồ từ thủ đô Colombo của Sri Lanka đến Manila, Philippines, ĐTC Phanxicô đã dành 45 phút để trả lời các câu hỏi của một số đại diện trong số 76 ký giả tháp tùng ngài. Từ vấn đề tự do ngôn luận, báo chí, cho đến Thông điệp ngài sắp công bố về môi sinh, vấn đề hòa giải tại Sri Lanka, và nạn lạm dụng trẻ em..

Chống lạm dụng tự do ngôn luận để mạ lỵ tôn giáo

Trả lời câu hỏi của một ký giả Pháp xin ngài nhận định về những vụ khủng bố gần đây tại Paris, tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, ĐTC nói:

”Cả hai tự do này đều là những quyền căn bản của con người. Kẻ nào chủ trương giết người nhân danh Thiên Chúa thì rơi vào lầm lạc, và cũng sai lầm như thế những kẻ nào xúc phạm tôn giáo nhân danh quyền được nói những gì mình muốn. Về tự do ngôn luận: mỗi người không những có tự do và có quyền, nhưng còn có nghĩa vụ nói điều mà mình nghĩa có thể giúp xây dựng công ích. Nếu một đại biểu không nói điều mà họ nghĩ là con đường chânthực phải theo, thì không cộng tác vào công ích”.

”Nhưng chắn chắn là không thể dùng bạo lực để phản ứng lại sự xúc phạm, nhưng cũng không thể khiêu khích.. ”Không thể mạ lỵ tín ngưỡng của người khác, không thể chế nhạo đức tin, vì tự do ngôn luận có một giới hạn, đó là phẩm giá của mỗi tôn giáo”.

ĐTC cũng nói rằng người ta có nguy cơ bị những phản ứng xấu khi lăng mạ điều thánh thiêng đối với người khác, tương tư như thế, người ta có nguy cơ trở thành nạn nhân của thiên nhiên khi khai thác thiên nhiên thái quá.

Thông điệp về môi sinh

Đó cũng là một đề tài được đề cập đến trong cuộc họp báo: thông điệp về môi sinh mà ĐTC loan báo sẽ công bố. Thông điệp này sẽ hoàn tất vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm nay. Ngài cho biết cuối tháng 3 sắp tới, ngài sẽ dành một tuần để kết thúc dự thảo thông điệp. Sau dự thảo thứ I do ĐHY Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đệ trình cho ngài, ngài đã duyệt lại dự thảo thứ II với sự cộng tác của các chuyên gia, và dự thảo thứ III được soạn với sự đóng góp của các nhà thần học và những đóng góp xây dựng khác từ Bộ giáo lý đức tin, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh và LM thần học gia tại Phủ giáo hoàng. Thông điệp này sẽ là một đóng góp cho Hội nghị thượng định sắp tới ở Paris về việc bảo vệ môi sinh. Hội nghị thượng đỉnh lần trước tại Peru đã làm ngài thất vọng vì ”thiếu can đảm”.

Phong thánh theo thể thức tương đương

Được hỏi về việc phong thánh ở Sri Lanka, ĐTC giải thích tại sao gần đây ngài dành ưu tiên cho việc phong hiển thánh theo thể thức tương đương, trong trường hợp đó là những vị chân phước đã được tôn kính từ nhiều thế kỷ, như trường hợp Chân phước Joseph Vaz Tông đồ tại Sri Lanka. Còn trong trường hợp các chân phước Angela da Foligno, Pierre Favre SJ, Anchieta SJ và những vị khác, ngài quyết định phù hợp với quan điểm của ngài Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm (Evangelii gaudium): ngài muốn ”những nhà đại truyền giáo”. Cũng vậy trong cuộc viếng thăm vào tháng 9 tới đây tại Hoa Kỳ, ngài sẽ tôn phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra, dòng Phanxicô, là vị đã mang Tin Mừng vào miền tây nước Mỹ.

Chống lạm dụng trẻ em trong các vụ khủng bố tự sát

ĐTC mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng ngày càng gia tăng đối với các trẻ em nam nữ trong các vụ khủng bố tự sát, một thảm trạng cũng đã từng xảy ra tại Sri Lanka trong thời nội chiến. Ngoài những vấn đề tâm lý, ĐTC coi đó là là một sự thiếu quân nơi những người tự sát để giết người. Một kẻ khủng bố tự sát là một người hiến mạng sống nhưng làm không đúng, trái ngược với tấm gương của bao nhiêu thừa sai, cũng hiến mạng sống, nhưng là để xây dựng. Vì thế, đối với ĐGH, đặt bom ở lưng một trẻ em không là gì khác hơn là một cách thức kinh khủng biến em ấy thành một nô lệ.

Vatican có thể bị khủng bố?

Trả lời câu hỏi về vấn đề: có thể có khủng bố chống bản thân ngài và Vatican hay không, ĐTC mỉm cười nói ngài chỉ sợ cho sự an toàn tính mạng của những ngừơi đến gặp ngài. Ngài cho biết là ngài đối đầu với nguy hiểm này bàng ”một liều 'vô thức'! Cách tốt nhất để đáp lại bạo lực là sự dịu dàng.

Viếng thăm chùa Phật giáo

Trả lời câu hỏi tại sao ngài bất ngờ đến viếng chùa Phật giáo chiều ngày thứ tư, 14-1-2015 ở Colombo, ĐTC cho biết đó là một cuộc viếng thăm đáp lễ đối với vị sư trụ trì chùa ấy. Vị sư đã ra phi trường chào đón ngài. Ngoài ra ngài cũng muốn nhìn nhận giá trị của sự liên tôn.. đặc tính này cũng được biểu lộ ở Đền thánh Đức Mẹ Madhu ở miền bắc Sri Lanka, đây không phải chỉ là nơi gặp gỡ và cầu nguyện của các tín hữu Công Giáo mà thôi.

Ủng hộ ủy ban sự thật và hòa giải

Được hỏi về việc ngài ủng hộ Ủy ban sự thật và hòa giải trên thế giới, như Ủy ban ở Sri Lanka, ĐTC cho biết ở Argentina, ngài cũng đã từng ủng hộ tất cả những cố gắng quân bình giúp mọi người đồng ý với nhau, và không tìm kiếm sự báo thù. ĐTC nhắc lại lời tân tổng thống Sirena của Sri Lanka và cho biết ngài ngưỡng mộ ý tưởng của Tổng thống muốn đi đến cùng công việc kiến tạo hòa bình và hòa giải, nhất là kiến tạo sự hòa hợp nơi dân chúng ở Sri Lanka.. Nhưng để đạt được mục tiêu này cần phải ”đi vào tâm hồn dân chúng” (SD 15-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kitô hữu, bạn là ai?

Kitô hữu, bạn là ai?

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.

Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”

Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ: ngày thứ 2

ISTANBUL. Trong ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ, ĐTC Phanxicô đã dành buổi sáng để viếng Đền thờ Hồi giáo, Bảo tàng viện thánh Sophia, và buổi chiều để cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công Giáo, trước khi tham dự buổi cầu nguyện đại kết với Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I.

ĐTC đã đáp máy bay từ thủ đô Ankara bay tới thành phố Istanbul, một thành phố cổ kính với gần 14 triệu dân, cách thủ đô Ankara 450 cây số về hướng tây bắc và là thành phố duy nhất trên thế giới ở hai bên bờ Á châu và Âu châu.

Khi đã đến phi trường Istanbul, ngài được ông thị trưởng cùng với chính quyền và đặc biệt là Đức Thượng Phụ Bartolomaios tiếp đón. Liền đó ngài được hướng dẫn đi viếng Đền thờ Xanh của Hồi giáo cách đó 30 cây số.

Viếng Đền thờ Xanh

Tên chính thức của giáo đường này là ”Đền thờ Sultan Ahmet”. Đây là một trong những Đền thờ quan trọng nhất của Hồi giáo ở Istanbul được vua Ahmet I xây cất cách đây 400 năm (1609-1617) để làm nơi thờ phượng quan trọng nhất trong Đế quốc Ottoman. Thường thường các Đền thờ Hồi giáo chỉ có 4 tháp, nhưng Đền thờ này là nơi duy nhất có 6 tháp, và chỉ thua Đền thờ Ka'ba ở thánh địa La Mecca bên Arập Sauđi có 7 tháp.
Tại cửa Đền thờ, ĐTC đã được vị Đại Mufti và một Imam hướng dẫn. Tôn trọng tập tục của Hồi giáo, ĐTC cũng cởi giầy trước khi bước vào Đền thờ. Trong cuộc viếng thăm ngài cũng có một lúc thờ lạy Chúa trong thinh lặng.

Thăm Bảo tàng viện thánh Sophia

Tiếp đến ĐTC đã tới Bảo tàng viện thánh Sophia chỉ cách đó 1 cây số. Bên ngoài có hàng trăm tín hữu và dân chúng đứng chào ngài. Đây là lần đầu tiên trong cuộc viếng thăm Thổ Nhĩ kỳ có dân chúng như vậy. Họ mang những biểu ngữ và hô ”hoan hô ĐGH” khi ngài đến trước cửa Bảo tàng viện.

Nơi đây xưa kia là Vương cung thánh đường dâng kính Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, được hoàng đế Constantino xây cất năm 360 tại nơi trước đó là đền thờ của dân ngoại. Thánh đường hai lần bị hỏa hoạn phá hủy vào năm 404 và năm 532, nên hoàng đế Giustiniano đã cho xây lại để biến thành ”Vương cung thánh đường nguy nga nhất từ tạo thiên lập địa”. Hoàng đế ra lệnh thu thập trong các dinh của đế quốc những vật liệu quí giá và đá cẩm thạch đẹp nhất để xây thánh đường với 10 ngàn công nhân do 100 cai thợ điều khiển và đã hoàn thành sau gần 6 năm trời. Trong ngày khánh thành, hoàng đế Giustiniano đã thốt lên: ”Hỡi vua Salomon, tôi đã qua mặt ngài rồi!”.

Khi thành Constantinople bị Đạo binh thánh giá chiếm hồi năm 1204, Đền thờ thánh Sofia bị cướp mất những đồ trang trí quí giá, và 250 năm sau đó, khi thành này bị rơi vào tay đế quốc Ottoman, vua Mohammed II đã ra lệnh biến nhà thờ này thành Đền thờ Hồi giáo. Từ năm 1935, do lệnh của tổng thống Ataturk, Đền thờ thánh Sophia được biến thành bảo tàng viện.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 4 đến viếng thăm Bảo tàng viện này, lần chót là ĐGH Biển Đức 16 hồi tháng 11 năm 2006.

Khi đến Bảo tàng viện, ĐTC đã được ông tổng giám đốc tiếp đón và hướng dẫn trong cuộc viếng thăm dài nửa tiếng đồng hồ tại cựu thánh đường hùng vĩ và tráng lệ này.

Thánh lễ Công Giáo

Lúc gần 4 giờ chiều, ĐTC đã đến Nhà Thờ chính tòa Chúa Thánh Linh của Giáo hội Công Giáo ở địa phương để cử hành thánh lễ Công Giáo đầu tiên và duy nhất cho các tín hữu trong cuộc viếng thăm tại quốc gia này. Hàng trăm tín hữu nồng nhiệt chào đón ĐTC tại khuôn viên thánh đường.

Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Linh bắt đầu được dùng làm nơi thờ phượng từ gần 170 năm nay (1846). Tại bàn thờ thánh đường này có đặt thánh tích của một số vị thánh như thánh Linô, Giáo Hoàng tử đạo liền sau thánh Phêrô (67-69). Trong dịp lễ kính Gioan Kim Khẩu, bổn mạng của hạt đại diện Tông tòa Constantinople, ĐGH Lêo 13 đã tặng cho Nhà thờ chính tòa này hài cốt thánh Linô. Tại khuôn viên Nhà thờ chính tòa có tượng ĐGH Biển Đức 15 do người Thổ Nhĩ Kỳ dựng lên hồi năm 1919, khi ngài còn sống, để cám ơn nỗ lực của ĐGH bênh vực các nạn nhân Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ nhất. Ở bệ tượng có ghi hàng chữ: ”Kính tặng vị Đại Giáo Hoàng trong thảm trạng thế chiến, Đức Biển Đức 15, ân nhân của các dân tộc, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc hoặc tôn giáo, như dấu chỉ biết ơn, Đông Phương”. Nhà Thờ này có thể chứa được 550 người.

Thánh lễ ĐTC cử hành mang sắc thái liên nghi lễ, bằng tiếng la tinh, nhưng cũng có những lời cầu nguyện bằng tiếng Arméni, Thổ Nhĩ Kỳ, Aramaico của nghi lễ Canđê, Siriac-Thổ nhĩ kỳ, tiếng Ý, Pháp, Anh và Tây Ban nha. Đồng tế với ĐTC có khoảng 50 linh mục, trước sự hiện diện của các tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Đặc biệt Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, Đức Thượng Phụ Ignace III Younan của Công Giáo Siria, và một số vị lãnh đạo khác của Kitô giáo như Tin Lành, Arméni Tông Truyền, cũng có mặt tại buổi lễ.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng ĐTC đã diễn giải về vai trò của Chúa Thánh Linh trong đời sống của Giáo Hội và các tín hữu:
Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội. Ngài ban sự sống, khơi dậy các đoàn sủng khác nhau làm cho Dân Chúa được phong phú và nhất là Ngài kiến tạo sự hiệp nhất giữa các tín hữu: từ nhiều người, Chúa biến họ thành một thân thể duy nhất, thân mình của Chúa Kitô. Toàn thể cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội tùy thuộc Chúa Thánh Linh; Ngài thực hiện mọi sự.

Như thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta trong bài đọc thứ I hôm nay, chính việc tuyên xưng đức tin chỉ có thể thực hiện nhờ Chúa Thánh Linh soi dẫn: ”Không ai có thể nói ”Đức Giêsu là Chúa!” nếu họ không được Chúa Thánh Linh tác động” (1 Cr 12,3b). Khi chúng ta cầu nguyện, chính là vì Chúa Thánh Linh khơi dậy kinh nguyện trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta phá vỡ cái vòng ích kỷ của mình, chúng ta ra khỏi chính mình và đến với tha nhân để gặp gỡ họ, lắng nghe, giúp đỡ họ, chính là Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta….

Chúa Thánh Linh cũng khơi dậy những đoàn sủng khác nhau trong Giáo Hội; bề ngoài điều này có vẻ là tạo nên sự xáo trộn, nhưng trong thực tế, dưới sự hướng dẫn của Ngài, điều ấy tạo nên một sự phong phú vô biên, vì Thánh Linh là thần trí hiệp nhất, nhưng không có nghĩa đồng nhất. Chỉ Thánh Linh mới có thể khơi lên sự khác biệt, đa dạng, và đồng thời kiến tạo sự hiệp nhất. Khi chúng ta muốn tạo ra sự khác biệt và khép kín mình trong những cục bộ và độc quyền của mình, thì chúng ta gây ra chia rẽ; và khi chúng ta muốn thực thi sự hiệp nhất theo những kế hoạch con người, thì rốt cuộc chúng ta tạo nên sự đồng nhất. Trái lại nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, thì sự phong phú, khác biệt, đa dạng không bao giờ trở thành xung đột, vì Chúa thúc đẩy chúng ta sống sự khác biệt trong tình hiệp thông của Giáo Hội.

ĐTC nói thêm rằng:
Nhiều chi thể và đoàn sủng có một nguyên lý hòa hợp trong Thần trí của Chúa Kitô, Đấng mà Chúa Cha đã và còn tiếp tục sai đến để thực hiện sự hiệp nhất nơi các tín hữu. Chúa Thánh Linh làm cho Giáo Hội được hiệp nhất: hiệp nhất trong đức tin, trong đức ái, trong sự hòa hợp nội tâm. Hội Thánh và các Giáo Hội được mời gọi để cho Chúa Thánh Linh hướng dẫn, đặt mình trong thái độ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.

Đây là một viễn tượng hy vọng, nhưng đồng thời cũng là viễn tượng cơ cực, vì trong chúng ta luôn có cám dỗ chống lại Chúa Thánh Linh.. Ở lại trong tình trạng tĩnh và bất động thì dễ dàng và thoải mái hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và đòi Thánh Linh phải chiều theo ý mình. Và các tín hữu Kitô chúng ta trở thành những môn đệ chân chính, môn đệ thừa sai, có khả năng đánh động lương tâm, nếu chúng ta từ bỏ thái độ tự vệ và để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn. Ngài chính là sự tươi mát, là óc sáng tạo và mới mẻ.

Thái độ tự vệ của chúng ta có thể được biểu lộ qua sự bám víu thái quá vào những ý tưởng, sức mạnh của mình, và thế là chúng ta rơi vào chủ thuyết tự cứu độ bằng sức riêng của mình, hoặc thái độ tham vọng và háo danh. Những thái độ tự vệ như thế ngăn cản không cho chúng ta hiểu rõ tha nhân và chân thành cởi mở đối với với họ. Nhưng Giáo Hội xuất phát từ lễ Hiện Xuống, được giao phó lửa của Thánh Linh, Đấng không làm đầy tâm trí bằng những ý tưởng, nhưng thiêu đốt tâm hồn; Giáo Hội được luồng gió của Thánh Linh thổi vào, luồng gió không thông truyền quyền lực, nhưng làm cho Giáo Hội có khả năng phục vụ trong yêu thương, một ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được.

Và ĐTC kết luận rằng: trong hành trình đức tin và đời sống huynh đệ của chúng ta, hễ chúng ta càng khiêm tốn để cho Thánh Linh của Chúa hướng dẫn, thì chúng ta càng vượt thắng được những hiểu lầm, chia rẽ và những tranh luận, chúng ta sẽ là dấu chỉ đáng tin cậy về sự hiệp nhất và an bình.

Cuối thánh lễ, Đức Cha Pelatre dòng Đa Minh, Đại diện Tông Tòa Istanbul của Công Giáo la tinh đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC. Ngài nhắc đến cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng trước đây tại thánh đường này, đặc biệt là Đức Gioan 23 khi còn làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ nhĩ kỳ. Cộng đoàn Công giáo địa phương đã vui mừng vì lễ phong hiển thánh cho Người và đã tổ chức nhiều sinh hoạt, trong đó có cả buổi thuyết trình của Đức Thượng Phụ Chính thống Bartolomaios.

ĐTC đã tặng cho Nhà Thờ chính tòa một chén lễ bằng bạc và một áo lễ.

Cầu nguyện đại kết

Sau thánh lễ Đức Thánh Cha đã đi xe tới Toà Thượng Phụ Phanar cách đó 5 cây số để tham dự buổi cầu nguyện đại kết và hội kiến riêng vời Đức Thượng Phụ Barlolomaios I.

Giáo Hội Chính Thống có khoảng 300 triệu tín hữu, đa số sống bên Đông và Bắc Âu, dọc theo các bờ biển đông bắc Địa Trung Hải và vùng Trung Đông, làm thành nhiều Giáo Hội Thượng Phụ tự trị khác nhau, nhưng liên kết với nhau trong tinh thần đức tin. Từ ”chính thống” được các kitô hữu sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ IV để phân biệt giáo lý chính truyền với các giáo lý không chính truyền. Từ chính thống cũng ám chỉ vài Giáo Hội Đông phương tự tách rời vào thế kỷ thứ V sau cuộc tranh luận liên quan tới thiên tính của Chúa Kitô. Các Giáo Hội Chính Thống được hướng dẫn bởi một Thượng Phụ là tước hiệu của năm Giáo Hội đầu tiên là: Roma, Costantinopoli, Alessandria, Antiokia và Giêrusalem, được chính thức thừa nhận dưới thời hoàng đế Giustiniano (527-565). Tước hiệu này được ban cho Tổng Giám Mục Matscơva vào thế kỷ XVI, các Tổng Giám Mục Serbia và Bulgaria vào đầu thế kỷ XX và thủ lãnh của Giáo Hội Rumania vào giữa thế kỷ XX, trong khi thủ lãnh Giáo Hội Georgia được gọi là Thượng Phụ Catolicos. Sau cùng Giáo Hội Armeni Tông Truyền được lãnh đạo bởi một vị Catolicos. Hàng giáo phẩm chính thống gồm ba chức cổ xưa là phó tế, linh mục và giám mục.

Tòa Thượng Phụ Đại Kết là trung tâm cao nhất của Giáo Hội Chính Thống trên toàn thế giới. Đức Thượng Phụ Đại Kết là ”vị đầu tiên trong các vị bằng nhau” so sánh với các Thượng Phụ khác của Chính Thống giáo và quyền tối thượng của Costantinopoli diễn tả sự hiệp nhất của Chính Thống giáo và phối hợp các hoạt động của Chính Thống giáo. Tòa Thượng Phụ bao gồm Istanbul và bốn giáo phận khác tại Thổ Nhĩ Kỳ là Núi Athos, Creta Patmos và các đảo Dodecanneso và các giáo phận Trung Âu, Tây phương, Mỹ châu, Pakistan và Nhật bổn. Sau cùng là các vùng không trực tiếp thuộc quyền của các Thượng Phụ chính thống khác.

Từ bao thế kỷ qua trụ sở Tòa Thượng Phụ nằm cạnh nhà thờ Thánh Sophia. Sau khi thành Costantinopoli bị thất thủ vào tay người Hồi năm 1453, tòa Thượng Phụ được dời về khu phố Phanar từ năm 1601 cho tới nay.
Buổi phụng vụ đại kết đã diễn ra lúc sau 6 giờ chiều giờ địa phương. Ca đoàn hát thánh ca dẫn nhập trong khi Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phu tiến vào nhà thờ. Bài đọc trích từ chương 8 sách ngôn sứ Dacaria miêu tả viễn ảnh ơn cứu độ thời Đấng Cứu Thế.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha Đức Thượng Phụ nói chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha bắc một cây cầu biểu tượng nối liền Đông Tây và diễn tả tình yêu thương của Đấng chủ sự tình bác ái đối với người em, người đầu tiên đựơc Chúa gọi. Nó cũng tiếp nối các chuyến viếng thăm của các vị tiền nhiệm nhằm tái lập sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các Giáo Hội. Nó là một sự kiện lịch sử chứa đựng nhiều cầu mong cho tương lai.

Từ bao thế kỷ nay đây là nơi các Thượng Phụ Đại Kết đã cử hành mầu nhiệm Thánh Thể và là nơi các vi tiền nhiệm đã sống, trong số đó có thánh Gregorio Thần học gia, thánh Gioan Kim Khẩu cũng như thánh tích của thánh Basilio Cả, thánh nữ Eufemia tử đạo và các vị thánh khác. Năm nay Toà Thượng Phụ Costantinopoli kỷ niệm 10 năm biến cố Giáo Hội Roma trả lại các thánh tích cho Giáo Hội Costantinopoli. Xin các thánh giáo phụ bầu cử cho các Giáo Hội của chúng ta mau được hiệp nhất như Chúa Kitô mong mỏi.

Tiếp lời Đức Thượng Phụ Đức Thánh Cha biết ơn Đức Thượng Phụ cho phép ngài đến đây để cùng cầu nguyện với Đức Thượng Phụ và Giáo Hội Costantinopoli trong khi chờ đợi cử hành lễ kính thánh Anrê Tông Đồ. Qua lời ngôn sứ Dacaria, trong buổi cầu nguyện chiều nay Chúa lai cho chúng ta nền tảng của thái độ hướng tới ngày mai là lời hứa của Ngài, tảng đá vững vàng trên đó chúng ta có thể tiến bước với niềm vui và hy vọng: ”Này đây Ta cứu thoát dân Ta từ Đông và từ Tây … trong trung tín và công lý” (Dc 8,7-8). Vâng, thưa người anh em Bartolomeo đáng kính và thân mến, trong khi tôi cảm ơn vì sự tiếp đón nồng hậu của người, tôi cảm thấy niềm vui lớn hơn nửa vì suối nguồn ở một nơi khác, nó không phải nơi sự dấn thân và các sức mạnh của chúng ta, nhưng nơi sự tín thác chung nơi sự trung tín của Thiên Chúa, là Đấng đặt nền cho việc tái thiết đền thánh Người là Giáo Hội. Đó là hạt giống của hòa bình hạt giống của niềm vui, mà thế giới không thể trao ban, nhưng Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ mà Đấng Phục Sinh đã ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Hai thánh Anrê và Phêrô đã lắng nghe lời hứa và nhận được ơn đó. Họ là hai anh em trong máu huyết, nhưng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô đã biến họ thành anh em trong đức tin và đức mến. Trong buổi chiều tươi vui này, trong lời cầu nguyện canh thức này nhất là tôi muốn nói lên điều này: là anh em trong niềm hy vọng. Thật là một ơn có thể là anh em trong niềm hy vọng của Chúa Phục sinh và thật là một trách nhiệm có thể cùng nhau bước đi trong niềm hy vọng ấy và được hai anh em thánh Anrê và Phêrô nâng đỡ!. Và biết rằng niềm hy vọng này không gây thất vọng bởi vì nó được dựa trên lòng trung thánh của Thiên Chúa chứ không phải dựa trên chúng ta và trên các sức nghèo nàn của chúng ta! Với niềm hy vọng tươi vui này tràn đầy lòng biết ơn và chờ đợi, tôi xin gửi tới Đức Thượng Phụ và mọi người hiện diện và Giáo Hội Costantinopoli lời chào thân ái huynh đệ và lời mừng lễ Thánh Bổn Mạng tươi vui.

Tiếp đến cả hai vị cùng đọc Kinh Lậy Cha bằng tiếng Latinh. Đức Thánh Cha ban phép lành bằng tiếng Latinh. Đức Thượng Phụ ban phép lành bằng tiếng Hy lạp.

Hội kiến
Sau buổi phụng vụ đại kết Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ đã lên lầu hai Tòa Thượng Phụ để hội kiến riêng với nhau. Tiếp đến hai bên đã trao đổi quà tăng. Đức Thánh Cha đã tặng Đức Thượng Phụ một bức khảm đá mầu hình Chúa Kitô thuộc thế kỷ thứ IX, lấy từ mộ của thánh Phêrô, dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.
Lúc sau 7 giờ chiều Đức Thánh Cha đã rời Tòa Thượng Phụ để trở lại tòa đại điện Tòa Thánh ở Istanbul nằm cách đó 5 cây số để dùng bữa tối kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ.

G. Trần Đức Anh OP, Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

VATICAN. Chiều tối ngày 9-10-2014, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, cho biết trong 8 phiên họp khoáng đại những ngày qua, đã có tổng cộng 180 nghị phụ phát biểu, thêm vào có có 80 vị phát biểu trong các giờ thảo luận tự do.

Sáng ngày 10-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC, trong vòng 90 phút, các nghị phụ đã nghe các bài phát biểu của các nam nữ dự thính viên chưa lên tiếng trong những ngày trước đây.

Tiếp đến, sau 30 phút giải lao, các nghị phụ đã nhóm họp trong 1 tiếng rưỡi đồng hồ để bầu vị điều hợp và tường trình viên trong 10 nhóm nhỏ: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm tiếng Tây Ban Nha.

Ban chiều, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 10, từ lúc 4 giờ rưỡi, với sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Các đại biểu của 8 Giáo Hội Kitô anh em đã lên tiếng trong dịp này.

Đứng đầu là Đức TGM Chính Thống Athenagoras, đại diện tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, tiếp đến là Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ thuộc tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga. Các vị còn lại là đại diện Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte Ai Cập, Chính Thống Siri bên Liban, đại diện Liên hiệp Anh giáo, Tin Lành Luther, Tin Lành cải cách và Liên hiệp Tin Lành Baptist thế giới.

Cuối tuần này, 11 và 12-10, các nghị phụ được nghỉ, nhưng ban chuyên gia phải cùng với ĐHY Peter Erdoe, Tổng tường trình viên, đúc kết các bài phát biểu để soạn thành bản tường trình sau phần thảo luận để trình bày trong phiên khoáng đại thứ 11 vào sáng thứ hai, 13-10 tới đây, trước khi các nghị phụ nhóm trong 6 cuộc hội thảo nhóm.

Nội dung phiên nhóm thứ 7 và thứ 8 ngày 9-10-2014

Trong phiên khoáng đại thứ 7 sáng thứ 5, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 184 nghị phụ, các nghị phụ dành phần đầu để tiếp tục bàn về những hoàn cảnh hôn nhân khó khăn, và dành phần hai để bàn đề vấn đề cởi mở đối với sự sống, cụ thể là việc sinh sản, làm cha làm mẹ có trách nhiệm, vấn đề ngừa thai.

– Mở đầu, ông bà dự thính viên, Arturo và Hermenlinda As Zamberline, đặc trách ”êkip Đức Bà” ở Brazil, đã được mời lên tiếng.

Phong trào Đức Bà này được cha Henri Caffarel thành lập từ năm 1938 và hiện có mặt tại 70 quốc gia với 137.200 thành viên trên thế giới trong đó có 45.500 người ở Brazil.

Ông bà Zamberline thành hôn từ 41 năm nay, có 3 người con và các cháu. Trong bài trình bày chứng từ, ông bà xin Giáo Hội trình bày rõ ràng đạo lý của mình để tránh sự hoang mang nơi các tín hữu vì các linh mục đưa ra những lời khuyên bảo trái ngược nhau về vấn đề kiểm soát sinh sản. Cần giúp các tín hữu Công Giáo vâng phục giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ngừa thai.

Ông bà nói: ”Xét vì bầu không khí trầm trọng hiện nay, chúng ta phải nhận rằng có nhiều đôi vợ chồng Công Giáo, cả những người tìm cách sống hôn nhân một cách nghiêm túc, cũng cảm thấy không bị buộc sử dụng các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên mà thôi. Và họ thường không bị các cha giải tội sửa sai, nếu các đôi vợ chồng ấy cởi mở đối với sự sống và loại bỏ phá thai.” Ông bà Zamberline nhận xét rằng nhịp sống ngày nay khiến cho nhiều đôi vợ chồng khó tìm được thời giờ để học hòi về cách kế hoạch hóa gia đình theo phương pháp tự nhiên. Các phương pháp này bị ngộ nhận là không chính xác và hiệu nghiệm, chỉ vì không được giải thích đúng đắn và vì thế người ta áp dụng sai.

ông Bà Zamberline cũng lấy làm tiếc vì trong các bài giảng và các dịch vụ đón tiếp của Giáo Hội không nhấn mạnh về đạo lý của Thông điệp Humanae vitae, sự sống con người. Họ nói:

”Kính thưa ĐTC và các nghị phụ, cùng quí vị, nếu các đôi vợ chồng tìm được ánh sáng và nâng đỡ nơi hàng giáo sĩ, thì đó là một khích lệ rất lớn. Sự kiện những lời khuyên của các linh mục dành cho các đôi vợ chồng nhiều khi tương phản nhau càng làm gia tăng sự hoang mang nơi các giáo dân. Chúng con xin các ngài mau lẹ dạy các linh mục và các tín hữu những đường hướng chính của một nền sư phạm mục vụ để giúp họ chấp nhận và tôn trọng những nguyên tắc của thông điệp Humanae vitae. Theo họ cần cấp thiết phổ biến rộng rãi một đường hướng dễ dàng và chắc chắn đáp ứng những đòi hỏi của thế giới ngày nay, không làm thương tổn nòng cốt của luân lý Công Giáo

”Tuyệt đối cần hướng dẫn các đôi vợ chồng hướng về sự hoàn hảo nhân bản và Kitô trong quan hệ tính dục. Quan hệ tính dục là một yếu tố thánh hóa. Tính dục ngày nay đang cần đượ ccứu thoát khỏi thái độ dâm ô bệnh hoạn thu hẹp con người vào một chiều kích duy nhất.

– Trong cùng phiên họp sáng ngày 9-10, ĐHY André Vingt-Trois, Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM mạnh mẽ chống lại ”não trạng ngừa thai” khiến cho nhiều tín hữu Công Giáo nghĩ rằng dùng các phương tiện ngừa thai nhân tạo không phải là tội. Các đôi vợ chồng Công Giáo thường không tin rằng dùng các phương tiện này là tôi nên họ không xưng chúng khi đi xưng tội và cứ bình tâm rước lễ như thường. ”Vì thế, – ĐHY nói – cần khuyến khích một tâm thức cởi mở đối với sự sống, có sự đánh bại não trạng ngừa thai và sự lan tràn kiểu mẫu nhân loại học cá nhân chủ nghĩa, đưa tới tình trạng suy sụp dân số ở mức độ trầm trọng tại một số nước, với những hậu quả về mặt xã hội và nhân bản mà hiện nay người ta không quan tâm đủ”.

– Trong các bài phát biểu khác, một số nghị phụ tái khẳng định hồng ân sự sống cũng như đức khiết tịnh là những giá trị căn bản của hôn nhân Kitô, đồng thời nhấn mạnh phá thai là tội ác nặng nề. Có nghị phụ nói đến thảm trạng của nhiều gia đình, chẳng hạn ở Á châu, với những vụ giết trẻ em, bạo hành phụ nữ, buôn người. Vì thế cũng cần đề cao ý niệm công lý trong số các nhân đức cấu thành gia đình.

– Về vấn đề trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái, và những giáo huấn đức tin, trách nhiệm này đứng hàng đầu và cần được quan tâm đặc biệt. Ngoài ra, việc mục vụ cho các trẻ em có thể tạo nên môi trường tiếp xúc với những gia đình ở trong hoàn cảnh khó khăn.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh tới ảnh hưởng tiêu cực của việc ngừa thai đối với xã hội, làm giảm bớt số trẻ em sinh ra. Đứng trước tình trạng đó, các tín hữu Công Giáo không thể im lặng, trái lại cần mang lại một sứ điệp hy vọng, theo đó các trẻ em có vai trò quan trọng, mang lại sự sống và niềm vui cho cha mẹ và củng cố đức tin cũng như việc thực hành đạo.

Sau cùng, các nghị phụ nói đến vai trò thiết yếu của giáo dân trong công tác tông đồ gia đình, loan báo Tin Mừng cho gia đình. Ví dụ các phong trào giáo dân có thể tháp tùng các gia đình gặp khó khăn.

Phiên họp thứ 8

Trong phiên khoáng đại thứ 8, từ lúc 4 giờ rưỡi đến 7 giờ chiều ngày thứ năm, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 181 nghị phụ, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt đã bàn về đề tài ”Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục: thách đố giáo dục nói chung và nền giáo dục Kitô trong những hoàn cảnh gia đình khó khăn”, như được nhắc đến trong chương 2 thuộc phần thứ 3 của Tài liệu làm việc.

Trước tiên, công nghị tái khẳng định ơn gọi sự sống như một yếu nền tảng của gia đình; và từ đó các nghị phụ kêu gọi các tín hữu hãy đào sâu kiến thức về thông hiệp Humanae vitae (Sự sống con người) do ĐGH Phaolô 6 ban hành năm 1968, và cũng hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc dùng các phương pháp tự nhiên để điều hòa sinh sản và không chấp nhận việc ngừa thai bằng các phương pháp nhân tạo. Kết hiệp và sinh sản là hai điều không tách rời khỏi tác động vợ chồng. Công nghị cũng mạnh mẽ lên án sự lèo lái các hệ di truyền và việc giữ các phôi thai đông lạnh.

– Ngoài ra, nhiều nghị phụ Phi châu tố giác xu hướng của một số nước và tổ chức ở thế giới tây phương trình bày một số ý niệm như phá thai và đồng tính luyến ái như những ”nhân quyền” và đặt điều kiện cho các nước nghèo phải chấp nhận và thi hành những ý niệm ấy thì mới được nhận viện trợ kinh tế. Về vấn đề này, một số nghị phụ nêu rõ sự kiện thành ngữ ”các quyền sức khỏe tính dục và sinh sản” không được định nghĩa rõ ràng trong công pháp quốc tế, nên rốt cuộc chúng hàm chứa những nguyên tắc mâu thuẫn với nhau, như một đàng người ta lên án sự cưỡng bách phá hai, nhưng đàng khác lại cổ võ phá thai an toàn, hoặc một đàng bảo vệ chức phận làm mẹ, nhưng lại thăng tiến sự ngừa thai. Tuy việc cổ võ những thứ gọi là ”nhân quyền” như thế không có giá trị bó buộc, nhưng nó cũng là một nguy cơ, vì nó có thể ảnh hưởgn tới việc giải thích các qui luật khác, đặc biệt là trong cuộc tranh đấu chống lại nạn kỳ thị phụ nữ.

– Rồi công nghị tái khẳng định tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn phối, vì việc cử hành đám cưới ngày càng bị thu hẹp vào chiều kích xã hội và pháp lý, thay vì chiều kích tôn giáo và tinh thần. Việc chuẩn bị hôn phối bị những cặp đính hôn coi là một sự áp đặt, một nghĩa vụ phải chu toàn, và họ tham dự một cách miễn cưỡng, không xác tín, và do đó các khóa chuẩn bị ấy rất ngắn. Thực ra, hôn nhân là một ơn gọi cả đời, việc chuẩn bị hôn nhân phải dài và sâu xa, như trong trường hợp đời sống tu trì. Các nghị phụ cũng nhận thấy nơi những cặp chuẩn bị kết hôn thiếu ý thức về giá trị bí tích của mối dây hôn phối, đến độ có thể nói việc cử hành lễ cưới không nhất thiết là cử hành bí tích hôn phối.

– Về vấn đề làm sao để thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu được nhanh chóng hơn: các nghị phụ được nhắc nhớ rằng ĐTC Phanxicô đã thành lập một ủy ban đặc nhiệm ngày 20-9 vừa qua, để nhắm tới một thủ tục đơn sơ và mau lẹ hơn, một thủ tục duy nhất cho toàn thể Giáo Hội.

Cho đến nay giáo luật đòi phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, thì mới được tuyên bố một hôn nhân là vô hiệu. Vì thế sau phán quyết thứ I về một hôn phối là vô hiệu, thì vị bảo hệ (difensor vincoli) bó buộc phải kháng án lên tòa cấp cao hơn. Trong phiên họp có nghị phụ nêu giả thuyết: có thể để tùy GM phân định và phán quyết về việc có cần phải kháng án hay không. Đồng thời các nghị phụ cầu mong có thêm nhiều thẩm phán giáo dân, đặc biệt là cả các thẩm phán phụ nữ, được chuẩn bị kỹ lưỡng để làm việc trong các tòa án hôn phối.

– Các nghị phụ cũng nhấn mạnh rằng các linh mục cần được chuẩn bị kỹ lưỡng về việc mục vụ hôn nhân và gia đình, và có thể sử dụng cả những bài giảng như một thời điểm ưu tiên và hữu hiệu để loan báo cho các tín hữu Tin Mừng về gia đình. Cần có sự huấn luyện và thông tin, vì sự thánh thiện tinh thần, óc sáng tạo và quan hệ trực tiếp của các vị với các gia đình rất được các giáo dân đánh giá cao.

– Trong số các bài phát biểu, các nghị phụ cũng nói đến tương quan giữa việc di cư và gia đình, đồng thời tái khẳng định rằng cần phải khẳng định quyền cơ bản của mội người di dân được sống trong gia đình, và kêu gọi các nhà chính trị quốc tế bảo về quyền đoàn tụ gia đình. Đối với người di dân, gia đình là yếu tố thiết yếu để hội nhập vào quốc gia họ định cư.

– Trong giờ thảo luận tự do, từ 6 đến 7 giờ, các nghị phụ trao đổi về 3 đề tài:

Thứ I, đối với những người ly dị tái hôn, cần thiết lập một hành trình thống hối, và cũng để ý đến những người ly dị nhưng không tái hôn. Họ thường chịu đau khổ trong âm thầm và ở ngoài lề cuộc sốgn xã hội.

Thứ II: cần bảo vệ con cái của những cặp ly dị, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý do ly dị gây ra. Trong lãnh vực này, có nghị phụ nhắc nhở rằng một nền mục vụ thích hợp cho các trẻ em thường có thể làm cho cha mẹ các em xích lại gần Giáo Hội hơn.

Thứ III: các nghị phụ nhắc đến tầm quan trọng của tương quan giữa gia đình và việc giáo dục con cái, đặc biệt là quyền của các cha mẹ được chọn lựa dự án giáo dục thích hợp nhất cho con cái, và để con cái có thể được một nền giáo dục có chất lượng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio