Đức Thánh Cha dâng lễ Chúa Hiển Linh: Ánh Sáng Dịu Dàng của Thiên Chúa toả sáng trong tình yêu khiêm nhường

Đức Thánh Cha dâng lễ Chúa Hiển Linh: Ánh Sáng Dịu Dàng của Thiên Chúa toả sáng trong tình yêu khiêm nhường

Sáng Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh, lúc 10h, Đức Thánh Cha dâng Thánh Lễ trọng thể tại đền thờ thánh Phêrô cùng với nhiều hồng ý, giám mục và các tín hữu tham dự.

Trong bài giảng lễ, bắt đầu từ việc giải nghĩa từ “hiển linh” – Chúa tỏ mình ra, Đức Thánh Cha nhắc đến Chúa tỏ mình ra cho tất cả mọi dân tộc, ba nhà Đạo sĩ là những người đại diện. Ngài tỏ thực tại tuyệt đẹp của Thiên Chúa, đến với tất cả mọi nước, mọi dân tộc và ngôn ngữ đều được Ngài đón nhận và yêu mến. Biểu tượng cho điều này là ánh sáng, vươn đến và chiếu soi tất cả.

Hôm nay, nếu Thiên Chúa chúng ta tỏ mình ra cho tất cả mọi người, thì ngài cũng sẽ tiếp tục làm ngạc nhiên về cách Ngài tỏ mình ra. Tin Mừng kể về những xôn xao trong cung điện vua Hêrôđê, trong khi Chúa Giê-su lại tỏ mình ra như một vị vua: “Đức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2,2), Ba vị Đạo sĩ hỏi. Họ sẽ tìm thấy Ngài, nhưng không phải là nơi họ đã nghĩ: không phải trong điện ngà Giêrusalem, nhưng trong ngôi nhà đơn sơ ở Bêlem. Có một sự nghịch lý trong lễ Giáng Sinh khi Tin Mừng nói về kiểm tra dân số trên khắp cả thiên hạ thời hoàng đế Augustô và tổng trấn Quirinio (x. Lc 2,2). Nhưng không một nhà cầm quyền nào để ý rằng Đức Vua của lịch sử đã sinh ra trong thời của họ. Và rồi, khi Chúa Giêsu được 30 tuổi, Ngài lại tỏ mình công khai, Gioan Tẩy Giả đã đi trước, Tin Mừng đã giới thiệu Ngài một lần nữa trọng thể, và liệt kê tất cả mọi “cấp bậc” quyền lực cả đời lẫn đạo: Tiberio Cesare, Phongxio Pilato, Hêrôđê, Philippo, Lisania, thượng tế Anna và Caipha. Và ngài kết luận: “Lời Thiên Chúa phán với Gioan trong hoang địa” (Lc 3,2). Như thế, Lời Chúa không đến với bất cứ cấp bậc nào, nhưng đến với một người ẩn mình trong sa mạc. Quả là ngạc nhiên: Thiên Chúa không lên sân khấu của thế giới này để tỏ mình ra.

Khi nghe danh sách những người nổi tiếng, người ta có thể dễ dàng có khuynh hướng “quay ánh đèn” về phía họ. Chúng ta có thể nghĩ rằng: Có lẽ sẽ hay hơn nếu ngôi sao của Đức Giê-su hiện ra ở Roma trên ngọn đồi Palatino, nơi hoàng đế Augusto đã ngự triều cai quản thế giới; khi ấy toàn đế quốc lập tức trở thành Kitô giáo. Hay nếu ngôi sao chiếu trên cung điện vua Hêrôđê, thì ông ấy có thể làm điều tốt chứ không làm điều xấu. Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa lại không đến với ai toả sáng bằng ánh sáng của riêng họ. Thiên Chúa đề nghị nhưng không áp đặt; chiếu sáng nhưng không làm chói mắt. Chúng ta luôn có một cám dỗ lớn là đem so sánh ánh sáng của Thiên Chúa với ánh sáng của thế gian. Đã bao lần chúng ta chạy theo quyến rũ lấp lánh của quyền lực và của sân khấu, lại thấy rằng mình phục vụ tốt cho Tin Mừng. Nhưng như thế chúng ta đã hướng ánh sáng vào nhầm chỗ, vì Thiên Chúa không ở đó. Ánh sáng của Ngài nhẹ nhàng chiếu giải tình yêu khiêm nhường. Rồi bao nhiêu lần chúng ta, như là Giáo Hội, đã toả sáng bằng chính ánh sáng của mình! Nhưng chúng ta không phải là mặt trời của nhân loại. Chúng ta là mặt trăng phản chiếu ánh sáng thật là Thiên Chúa. Giáo Hội là ánh trăng mầu nhiệm và Thiên Chúa là ánh sáng của trần gian (x. Ga 9,5). Chính Ngài chứ không phải chúng ta.

Ánh sáng của Thiên Chúa đến với ai biết đón nhận. Tiên tri Isaia trong bài đọc một (x. Is 60,2) đã nhắc nhở chúng ta rằng ánh sáng của Thiên Chúa không ngăn chặn bóng tối và mây mù phủ lấp mặt đất, nhưng chiếu toả trên ai sẵn sàng đón nhận. Do đó, tiên tri lặp lại lời mời dành cho mỗi người: “Đứng lên, bừng sáng lên” (60,1). Hãy đứng dậy, nghĩa là thoát ra khỏi chỗ hiện tại của mình và sẵn sàng bước đi. Nếu không, sẽ vẫn giậm chân tại chỗ như các kinh sư tư vấn cho vua Hêrôđê, về điều họ đã biết, là Đấng Mêsia sinh ra ở đâu, nhưng không một bước di chuyển. Và rồi mỗi ngày, chúng ta cần mặc lấy Thiên Chúa là ánh sáng, cho đến khi Đức Giêsu trở thành trang phục hằng ngày của chúng ta. Nhưng để mặc lấy trang phục của Thiên Chúa, vốn đơn giản như ánh sáng, thì trước tiên cần cởi bỏ những trang phục hào hoa. Nếu không thì cũng giống vua Hêrôđê, dù thấy ánh sáng của Thiên Chúa nhưng vẫn thích ánh sáng trần thế của thành công và danh vọng. Ngược lại, như Ba vị Đạo sĩ, nhận ra lời tiên tri, họ đứng dậy để mặc lấy ánh sáng. Chỉ có họ nhìn thấy ngôi sao trên bầu trời: các kinh sư không nhìn thấy, Vua Hêrôđê không nhìn thấy và cũng chẳng có ai ở Giêrusalem nhìn thấy. Để tìm kiếm Đức Giêsu, phải đi theo một hành trình khác, con đường của Ngài, con đường yêu thương khiêm nhường. Và phải kiên trì theo con đường đó. Thật vậy, Tin Mừng hôm nay kết luận rằng Ba nhà Đạo sĩ, sau khi gặp Đức Giêsu, đã “đi con đường khác mà về xứ mình” (Mt 2,12). Một con đường khác với con đường của Hêrôđê. Một con đường khác để vào thế giới, giống như con đường của bao nhiêu người trong cảnh Giáng Sinh đã ở với Đức Giêsu: Đức Maria, thánh Giuse, các mục đồng. Cũng giống như các vị Đạo sĩ, họ rời bỏ nơi cư ngụ của mình, để trở thành những kẻ hành hương trên con đường của Thiên Chúa. Bởi vì chỉ có ai dám bỏ đi sự dính bén với thế gian này để bước đi thì mới có thể tìm thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Điều này đúng cả với chúng ta. Nếu chỉ biết nơi Chúa Giêsu sinh ra mà không đến nơi thì chưa đủ, giống các kinh sư thôi. Nếu chỉ biết Đức Giêsu mới sinh là ai mà không gặp Ngài thì không đủ. Khi nào nơi của ngài trở thành nơi của chúng ta, thời của ngài trở thành thời của chúng ta, con người của Ngài trở thành sự sống của chúng ta, thì khi ấy lời tiên tri ứng nghiệm nơi chúng ta. Và như thế, Giêsu sinh ra trong chúng ta và trở thành “Thiên Chúa hằng sống vì tôi”. Hôm nay, chúng ta được mời gọi theo gương các vị Đạo sĩ. Họ không bàn cãi, nhưng bước đi; họ không đứng lại nhìn, nhưng bước vào nhà của Giêsu; không đặt mình làm trung tâm, nhưng bái lạy Giêsu, vì Ngài mới là trung tâm; họ không cứng nhắc với kế hoạch của họ, nhưng sẵn sàng chọn đường khác để về. Bằng cử chỉ, họ diễn tả mối tương quan mật thiết với Chúa, một sự mở ra trọn vẹn với Ngài, một liên hệ toàn bộ với Ngài. Họ dùng ngôn ngữ tình yêu để liên hệ với Ngài, cùng một ngôn ngữ mà Giêsu con trẻ đã nói. Thật vậy, các vị Đạo sĩ đến với Chúa không phải để nhận, nhưng để cho. Chúng ta tự hỏi: Chúng ta đã mang đến cho Chúa Giêsu món quà nào trong ngày lễ Giáng Sinh của Ngài, hay chúng ta chỉ trao đổi quà cho nhau giữa chúng ta?

Nếu chúng ta đã đến với Chúa bằng tay không, thì hôm nay chúng ta có thể bù lại được. Có thể thấy Tin Mừng kể một danh sách ngắn những món quà: vàng, nhũ hương mộc dược. Vàng nói lên điều giá trị nhất, để nhắc nhớ rằng vị Đạo sĩ đã đặt Thiên Chúa ở vị trí trên hết, để tôn thờ. Nhưng để làm được điều đó thì phải rút mình khỏi vị trí cao nhất đó và thấy mình cần được giúp đỡ, mình không tự đủ được. Rồi đến nhũ hương, biểu tượng của sự tương quan với Thiên Chúa, việc cầu nguyện, như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan (x. Tv 141,2). Nhưng, giống như hương trầm, để toả hương thì phải chịu đốt cháy; vì thế, việc cầu nguyện cũng “đốt cháy” chút thời gian, dành giờ cho Thiên Chúa. Cầu nguyện thật sự thì không phải chỉ bằng lời. Và rồi, mộc dược, được dùng cùng với tình yêu để liệm xác Đức Giêsu tháo xuống từ Thánh Giá (x. Ga 19,39). Chúa vui khi chúng ta chăm sóc những thân thể chịu nhiều đau khổ, những thân xác yếu đuối, những ai bị lùi lại đàng sau, những ai chỉ có thể nhận mà không thể đổi lại gì về vật chất. Thật quý trong mắt Thiên Chúa khi tỏ lòng thương xót đối với những người không có gì để đền đáp – một sự miễn phí, nhưng không! Sự miễn phí, nhưng không thật quý trong mắt Thiên Chúa. Trong thời gian gần kết thúc Mùa Giáng Sinh, chúng ta đừng để mất cơ hội làm một món quà đẹp cho Vị Vua của chúng ta, Ngài đến không trên sân khấu xa hoa của thế giới, nhưng trong sự nghèo mà sáng của Bêlem. Nếu chúng ta làm điều đó, thì ánh sáng của Ngài sẽ chiếu toả trên chúng ta.

Văn Yên, SJ

Các tân hiển thánh và chân phước trong năm 2018

Các tân hiển thánh và chân phước trong năm 2018

Năm 2018 đang khép lại là dịp để nhìn lại quà tặng tình yêu Người ban cho Giáo hội qua các vị thánh và chân phước được tuyên phong trong năm này.

Sự thánh thiện ở trong tầm tay

Trong số các tân hiển thánh và chân phước được tuyên phong trong năm 2018, có một Giáo hoàng, nhiều linh mục và tu sĩ, và cũng rất nhiều giáo dân, qua đó cho thấy rằng sự thánh thiện ở trong tầm tay, khả năng của mọi người, như ĐTC Phanxicô đã nói trong tông huấn “Hãy vui mừng hân hoan”:

Tôi thích thấy sự thánh thiện của dân Chúa kiên trì: nơi các phụ huynh nuôi dưỡng con cái với thật nhiều tình yêu thương , nơi những người nam nữ lao động để mang về lương thực cho gia đình, nơi các bệnh nhân, những nữ tu cao niên vẫn tiếp tục mỉm cười. Trong tình cảnh này, để tiến bước từng ngày tôi nhìn thấy sự thánh thiện của Giáo hội quân nhân. Rất nhiều lần, nó là sự thánh thiện “ở ngay bên cạnh”, của những người sống gần chúng ta và nó là sự phản chiếu sự hiện diện của Thiên Chúa, hay, dùng một thành ngữ khác, “giai cấp trung lưu của sự thánh thiện”.

Các thánh và chân phước thể hiện nhiều nét khác nhau của sự thánh thiện và nên thánh bằng những con đường cũng như trong những hoàn cảnh khác nhau.

Các vị tử đạo của chiến tranh, khi tình yêu nảy sinh từ sự thù ghét

Năm 2018 bắt đầu với lễ phong chân phước vào ngày 03/02 cho Teresio Olivelli, một người Ý yêu nước, bị quân Đức quốc xã giết trong trại tù Herbruck vì “thù ghét đức tin”. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, Olivelli đã giúp đỡ các bạn lính cả về thể lý cũng như tinh thần với những lời “hãy giải phóng chúng ta.” Tiếp đến, ngày 15/04, Luciano Botovasoa, dòng Ba Phanxicô, được tuyên phong hiển thánh. Trong cuộc cách mạng ở Madagascar, khi Giáo hội bị bách hại. Botovasoa đã muốn ở lại bên cạnh các thừa sai người Pháp và đã bị giết. Ngày 01/05, cha Janos Brenner, người Hungari, đã bị chế độ cộng sản giết hại trong một cuộc phục kích khi cha đang mang Mình Thánh Chúa cho một bệnh nhân, được tuyên phong chân phước.

Có hai cuộc tuyên thánh tập thể: thứ nhất là vào ngày 10/11m tại Barcelona, Teodoro Del Olmo và 15 bạn tử đạo, trong đó có các linh mục dòng Vinh sơn Phaolô, các giáo dân, nạn nhân của cuộc nội chiến Tây ban nha; thứ hai là lễ tuyên thánh vào ngày 08/12 cho Đức cha Pierre Claveri và 18 bạn tử đạo, được biết với tên “các vị tử đạo Algeri.” Trong những năm tăm tối dưới chế độ Hồi giáo cực đoan tại Algeri, các ngài đã chọn ở lại chứ không bỏ rơi người dân đau khổ.

 Những nhà truyền giáo: như các tông đồ được gửi đến những vùng ngoại biên của thế giới

Ngày 26/05, nữ tu Leonella Sgorbati, người nhỏ bé nhưng có trái tim vĩ đại, truyền giáo tại Mogadiscio (Somalia) nhiều năm trời, được tuyên phong chân phước. Nhà Tạm trong nhà các nữ tu là sự hiện diện sống động duy nhất của Chúa Giêsu ở đất nước này. Sơ đã bị sát hại nhưng đã chọn tha thứ cho người sát hại mình. Tiếp đến, ngày 27/10, thánh Nazaria Ignazia March Mesa, sáng lập dòng các Nữ Truyền giáo thập tự chinh của Giáo hội, được phong thánh. Sơ truyền giáo ở Bolivia nhiều năm, dành cuộc đời cầu nguyện cho sự trung thành kiên vững của các tu sĩ và tinh thần tông đồ của các linh mục.

Ngày 27/10, cha Tullio Maruzzo, nhà truyền giáo dòng Phanxicô và giáo lý viên Luis Obdulio đã bị sát hại trong làn sóng bạo lực tại Guatemala trong cuộc chiến giành độc lập từ tay người Tây ban nha.

Chăm sóc bệnh nhân – các thánh là gương mặt thật về sự dịu dàng của Thiên Chúa

Chân phước Anna Chrzanowska, một nữ y tá, là người đầu tiên có sáng kiến trợ giúp các bệnh nhân tại gia. Trong khi đó, hai vị thánh và chân phước Carmen Rendíles Martínez, sáng lập dòng các Nữ tỳ Chúa Giêsu, sinh ra không có cánh tay trái, nhưng không vì thế mà thiếu đi sức mạnh và nghị lực, đã chia sẻ kinh nghiệm bệnh tật, vác thánh giá để dâng hy sinh cho Chúa. Thánh Francesco Spinelli, sau khi được Chúa chữa lành cách kỳ diệu đã hoàn toàn dành cuộc đời chăm lo cho các bệnh nhân đau khổ nhất bằng cách mang Lời Chúa và sự dịu dàng đến cho họ. Cuối cùng là thánh Nunzio Sulprizio, qua đời khi mới 19 tuổi vì ung thư xương, hầu như phải nằm bệnh viện suốt, nhưng đã tận dụng thời gian dạy giáo lý cho các em bé nằm cùng bệnh viện và cầu nguyện, dâng những đau khổ cầu cho người tội lỗi hoán cải.

Các vị tử đạo tinh tuyền, những nhánh huệ trắng đẫm máu

Hai thánh Maria Goretti mới là Anna Kolesárová, người Slovak, được phong chân phước ngày 01/09, bị một người lính giết vì chị đã kháng cự lại ý xấu của ông ta, và người thứ hai là chân phước Veronica Antal, được phong chân phước ngày 22/09, bị giết bởi một kẻ cuồng tín.

Các chân phước là hình ảnh của Chúa Kitô cho thế giới

Có hai tân á thánh kết hiệp đặc biệt với Chúa Giêsu ngay từ khi còn tại thế. Ngày 02/06 là lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Chịu đóng đinh, người được Chúa nói chuyện và yêu cầu thành lập dòng các Nữ tu Thánh Tâm, chuyên lo dạy dỗ giới trẻ. Ngày 09/09, Alfonsa Maria Eppinger được phong chân phước. Chị đã có những cuộc xuất thần và nhìn thấy trước tình hình chính trị và tương lai của Giáo hội.

Các linh mục, những người gặp gỡ Chúa

Thánh giáo hoàng Phaolô VI được tuyên thánh cùng với Đức cha Oscar Romero và cha Vincenzo Romano vào ngày 04/10. Các ngài là những người bảo vệ sự sống, bạn của người nghèo và hòa bình, xuất phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô.

Các nữ tu, những nhân vật chính của lịch sử duy nhất mà Thiên Chúa đã viết

Clara Fey, trong giấc mơ, được Chúa Hài đồng mời gọi chăm sóc người nghèo và chị đã dành cả cuộc đời thành lập dòng các Nữ tu nghèo Chúa Hài đồng Giêsu. Chị được phong chân phước ngày 05/05.

Ngược lại, chân phước Maria, được tuyên phong chân phước ngày 10/06, xuất thần từ gia đình giàu sang quyền quý, nhưng từ bỏ tất cả ngay từ thời niên thiếu, mang Lời Chúa đến cho các bạn trong xã hội thấp bé.

Thánh Maria Caterina Kasper, thành lập dòng các Nữ tỳ nghèo của Chúa Giêsu, có ơn gọi chăm sóc người nghèo bởi vì chính ngài cũng là một người nghèo. Cuối cùng là chân phước Maria Chúa Giêsu Thánh Thể, được tuyên phong hiển thánh ngày 23/06, sau một cuộc đời dành để chăm sóc các trẻ em và người cao niên: đây là con đường trở nên trọn lành của chị, con đường nên thánh.

Hồng Thủy

Hãy ở lại trong tình thương của Thầy

Hãy ở lại trong tình thương của Thầy

Vatican. Chúa nhật 06.05.2018, vào lúc 12h trưa tại Quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hàng chục ngàn tín hữu và khách hành hương. Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha quảng diễn bài Tin Mừng Chúa nhật, với trọng tâm là lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Sau khi đọc kinh, Đức Thánh Cha chào thăm mọi người, và đặc biệt mời gọi cầu nguyện cho dân nước Cộng hòa Trung Phi.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Lời Chúa trong mùa Phục Sinh tiếp tục cho chúng ta thấy lối sống gắn kết để trở thành cộng đoàn của Đấng Phục Sinh. Hôm nay, bài Tin Mừng nói về lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Sống gắn bó mật thiết với tình yêu của Chúa, vừa gìn giữ chúng ta, vừa là điều kiện để cho lòng mến của chúng ta không bị nguội tắt. Cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, với lòng biết ơn, chúng ta đón nhận tình thương đến từ Chúa Cha và ở lại trong tình thương ấy. Khi đó, chúng ta cố gắng từ bỏ ích kỷ và tội lỗi. Để làm được điều này, chẳng dễ dàng gì, nhưng không phải là không thể.

Trước hết, điều quan trọng là nhận biết rằng, tình yêu của Chúa Kitô không phải là loại cảm xúc hời hợt, nhưng là một thái độ nền tảng của con tim. Thái độ ấy là thế này: muốn sống như Chúa Kitô muốn. Chúa Giêsu khẳng định: Nếu anh em tuân giữ các điều răn của Thầy, thì anh em ở lại trong tình thương của Thầy, giống như Thầy đã tuân giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Ngài” (Ga 15:10). Tình thương ấy được nhận thấy trong cuộc sống hằng ngày, qua từng thái độ, từng cử chỉ; bằng không thì tình thương ấy chỉ là những lời rỗng tuếch mà thôi. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta giữ các điều răn của Chúa và được tóm lại trong điều này: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12).

Làm thế nào mà chúng ta có thể sống tình thương của Chúa Phục Sinh, trong khi chúng ta chưa biết sống chia sẻ với anh chị em đồng loại? Biết bao lần Chúa đã nói rằng, yêu thương tha nhân, không phải bằng lời nói nhưng bằng hành động cụ thể. Tha nhân chính là người mà tôi gặp trên đường phố, với khuôn mặt với câu chuyện cuộc đời. Người ấy gọi hỏi tôi, người ấy đẩy tôi ra khỏi những sở thích, những quan tâm của tôi, đẩy tôi ra khỏi chỗ an toàn của tôi. Người ấy chờ đợi sự sẵn lòng lắng nghe của tôi. Người ấy chờ tôi cùng làm điều gì đó trên nẻo đường. Cần sẵn lòng với tất cả những anh chị em mà tôi gặp thấy trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, từ những người thân trong gia đình, đến những người trong cộng đoàn, nơi tôi làm việc, nơi trường học… Trong từng cảnh huống ấy, nếu tôi ở lại trong sự thân thiết với Chúa Giêsu, thì tình yêu của Người có thể lan truyền sang người khác và sống động nơi chính tôi. Đó là tình thương của Chúa, là tình bạn của Chúa.

Tình thương ấy không chỉ được chúng ta thực hiện trong những khoảnh khắc đặc biệt, nhưng cần phải trở thành lối sống của chúng ta. Vì thế, với tình yêu mến, cần chăm sóc gìn giữ người cao niên như kho tàng quý giá, ngay cả khi các vị trở thành gánh nặng về kinh tế với nhiều bất lợi. Vì thế, cần chăm sóc người ốm đau bệnh tật với tất cả những trợ giúp cần thiết, cả khi họ ở giai đoạn cuối đời. Vì thế, cần đón mừng tất cả trẻ em chào đời. Vì thế, cần luôn luôn bảo vệ sự sống, yêu mến sự sống từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên.

Chúng ta được Thiên Chúa yêu mến trong Đức Giêsu Kitô. Chúng ta được mời gọi yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Nhưng không thể làm được điều ấy, nếu chúng ta không mang trong mình một trái tim giống Trái Tim của Chúa. Thánh Lễ mà chúng ta tham dự mỗi ngày Chúa nhật, có mục đích huấn luyện con tim chúng ta trong Trái Tim Chúa Kitô, để tất cả đời sống của ta được hướng dẫn bởi lòng quảng đại của Chúa. Lạy Mẹ Đồng Trinh Maria, xin giúp chúng con biết ở lại trong tình thương của Chúa Giêsu, để chúng con được lớn lên trong tình thương dành cho tha nhân, đặc biệt là dành cho những ai yếu đuối nhất bé nhỏ nhất, để chúng con có thể đáp lại xứng đáng ơn gọi Kitô hữu của mình.

 

Đức Thánh Cha chào thăm

Anh chị em thân mến,

Hôm qua tại Aachen bên Đức, có lễ tuyên phong chân phước Chiara Fey, người sáng lập Dòng Nữ Tử Chúa Giêsu Hài Đồng Nghèo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì tân chân phước là chứng nhân nhiệt thành cho Tin Mừng, là nhà giáo dục chăm sóc những thanh niên có hoàn cảnh khó khăn.

Cha mời gọi cầu nguyện cho dân nước Cộng hòa Trung Phi, nơi mà Cha đã từng viếng thăm và vẫn mang trong tim. Những ngày này đã xảy ra bạo lực chết chóc. Trong số những người bị chết, có một linh mục. Chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, để mọi người biết nói không với bạo lực, nói không với sự trả thù, để mọi người có thể cùng nhau xây dựng hòa bình.

Cha chào thăm anh chị em, là người dân thành Roma và các khách hành hương, đặc biệt là những người đến từ Tây Ban Nha và Slovakia. Cha đặc biệt chào thăm các tân vệ binh Thụy Sỹ và gia đình bè bạn của các tân vệ binh. Cha chào mừng các vị đại diện của Hiệp hội Meter. Chúc quý vị can đảm tiếp tục dấn thân trong sứ mạng bảo vệ trẻ em khỏi nạn bạo hành.

Chúc anh chị em ngày tốt lành và đừng quên cầu nguyện cho Cha!

Tứ Quyết SJ

 

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng 03 năm 2018: Ơn nhận định thiêng liêng

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng 03 năm 2018: Ơn nhận định thiêng liêng

Vatican. Trong tháng 03 năm 2018, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi toàn thể Hội Thánh nhận thức tầm quan trọng của ơn phân định thiêng liêng, để mỗi người có thể nhận ra tiếng Chúa trong thế giới phức tạp với biết bao tiếng nói ngày nay. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video như sau:

Thời đại ngày nay đòi hỏi chúng ta phải phát huy một năng lực chiều sâu để nhận định… Nhận định để có thể nhận ra tiếng Chúa giữa biết bao tiếng nói, để tiếng nói của Chúa dẫn chúng ta đến sự sống Phục Sinh, để tiếng Chúa giải thoát chúng ta khỏi rơi vào thứ văn hóa sự chết.

Chúng ta cần biết đọc thấy trong tâm hồn mình điều mà Chúa muốn, để chúng ta có thể sống trong tình yêu và trở nên những người tiếp nối sứ mạng tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy cũng nhau cầu nguyện, để toàn thể Giáo Hội nhận ra tính khẩn thiết của việc huấn luyện phân định thiêng liêng, cả trên bình diện cá nhân lẫn cộng đoàn.

Tứ Quyết SJ

Đức tin, tình yêu sự sống của Pablo Raez, bị bệnh bạch cầu, qua đời khi 21 tuổi

Đức tin, tình yêu sự sống của Pablo Raez, bị bệnh bạch cầu, qua đời khi 21 tuổi

Ngày 25 tháng 2 vừa qua (2017), người thân, bạn bè cũng như nhiều người ở Marbella, thành phố Malaga, Tây ban nha, ngậm ngùi trước sự ra đi vĩnh viễn của chàng trai trẻ Pablo Raez. Dù qua đời khi chỉ mới 21 tuổi, nhưng chàng thanh niên Công giáo đạo đức Pablo đã tạo nên một thay đổi cho thế giới, đã giúp cho quỹ hiến tủy ở tỉnh quê nhà của anh tăng hơn 1000%.

 

Pablo Raez sinh ngày 26 tháng 4 năm 1996 tại Marbella, Tây ban nha. Anh theo học ngành chuyên viên chăm sóc sức khỏe cho các vận động viên và cũng là một vận động viên năng động và nổi tiếng. Ngày 26 tháng 3 năm 2015, trong giai đoàn chuẩn bị giải phẫu vết thương đầu gối, anh được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu. Trong quá trình điều trị bệnh, Pablo đã chia sẻ cuộc chiến đấu hàng ngày và tinh thần tích cực lạc quan của mình với hơn 300 ngàn người theo dõi trên facebook. Với đức tin mạnh mẽ và khao khát sống, Pablo đã cố gắng khuyến khích việc hiến tủy để điều trị căn bệnh này. Trong video kêu goi hiến tặng tủy vào ngày 24 tháng 8 năm 2016, đã có hơn 1 triệu người xem.

Sau khi được thay tủy của cha mình, Pablo đã phục hồi, có thể hoạt động lại trong một ít tháng. Trong thời gian này anh đã gặp người bạn gái của mình và làm việc ở Luân đôn. Sau 10 tháng giải phẫu, vào mùa hè năm 2016, Pablo trở lại Tây ban nha để được giải phẫu đầu gối lần nữa. Chính lúc này, các bác sĩ khám phá ra bệnh bạch cầu của anh đang tái phát. Pablo tìm được một người Mỹ hiến tặng tủy và được giải phẫu vào tháng 11 năm 2016. Sau 38 ngày điều trị, giữa tháng 12, anh được xuất viện. Dù anh luôn lạc quan, nhưng anh cũng chia sẻ trên mạng internet là kết quả cuộc thay tủy không tích cực như anh hy vọng. Ngày 25 tháng 1 năm 2017, Pablo viết những chia sẻ lần cuối cùng trên trang facebook của anh.

Ngày 25 tháng 2, anh qua đời ở tuổi đôi mươi. Thánh lễ an táng Pablo được cử hành ngày 27 tháng 2, tại nhà thờ Nhập thể ở Marbella, với cả ngàn người tham dự cũng như sự có mặt của các hãng truyền thông lớn của Tây ban nha. Cha José López Solórzano, cha xứ của giáo xứ và cũng là cha đỡ đầu của Pablo chủ sự Thánh lễ an táng. Vô cùng xúc động, cha José nói với cộng đoàn: “Tôi không biết an táng Pablo thế nào; điều tôi có thể làm là cùng khóc với anh chị em. Trong bài giảng, cha José đã nhắc với mọi người về sự đơn sơ giản dị của Pablo. Anh đã lớn lên trong bầu khí đơn giản và từ sự giản đơn này đã phát sinh những điều vĩ đại. Pablo đã làm những gì anh phải làm; anh đã để lại dấu ấn của anh cho thế giới này. Cha José cũng nhắc lại lời Pablo thường nói: “Bệnh bạch cầu đang dạy cho con nhiều điều hơn là những gì mà nó lấy từ con; sự chết là phần của cuộc sống và vì vậy chúng ta không nên sợ, nhưng hãy yêu mến nó.”

Trong một đoạn phim được quay lại cách đây không lâu, cha José kể: “Khi tôi nghe rằng Pablo cám ơn bệnh bạch cầu của anh, tôi bị giật mình… Nhiều lần, những sự việc xảy ra với chúng ta, nó qua đi trong cuộc sống của chúng ta, nhưng Pablo thì học mỗi ngày từ những gì xảy ra với anh.” Cha José cũng kể ngài đã gặp Pablo ở nhà thờ Nhập thể này khi cậu ta được 14 tuổi. Pablo đã đến xin cha được nhận lãnh bí tích rửa tội và rước lễ lần đầu. Cha José đã nói với Pablo, đó là quyết định cá nhân của cậu ta. Thế là Pabo bắt đầu thời gian học hỏi và cuối cùng được rửa tội, lãnh bí tích Thêm sức và rước lễ lần đầu. Trong đoạn phim này, Pablo cũng chia sẻ về tình bạn với cha José. Đối với anh: “cha là cha đỡ đầu của tôi nhưng trên hết, cha là bạn tôi. Cha là người bạn vĩ đại đối với tôi và đã hiện diện trong cơn đau bệnh của tôi; cha thực sự là một trong những người gần tôi nhất và luôn luôn, luôn luôn có thể ở đó để thấy tôi.” Pablo kể lại một trong những ngày khó khăn nhất đời anh, là khi anh đang được cấy tủy và anh rất sợ, và cha José đã đến. Khi Pablo nhìn thấy cha, anh khóc rất nhiều và rồi anh biết rằng anh sẽ được khỏe hơn và anh đã khỏe hơn. Pabo cũng tin là tất cả mọi người đang cầu nguyện cho anh và điều đó giúp anh hồi phục.

Nụ cười, sự gần gũi và tính cách  mà Pablo tỏ hiện trên mạng internet đã làm cho cả nước xúc động về cuộc chiến đấu chống lại bệnh tật của anh. Anh đã đánh động và khiến cho nhiều người suy nghĩ về sứ điệp tích cực của anh, về tình yêu sự sống và giúp đỡ người khác. Sau khi Pablo qua đời, một lời kêu gọi trên internet thu hút được hơn 100 ngàn chữ ký, thỉnh cầu đặt tên của Pablo cho một con đường hay bệnh viện ở quê nhà của Pablo để vinh danh anh, vì Pablo đã giúp số ân nhân hiến tặng tủy ở Malaga trong năm 2016 tăng lên đến 1300%, với tổng số 11201 người hiến tặng mới. (CNA 02/03/2017)

Hồng Thủy

 

Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Những người cứng nhắc thì sợ tự do mà Thiên Chúa ban, họ sợ yêu mến. Kitô hữu là nô lệ của tình yêu mến, chứ không nô lệ cho lề luật. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

“Chúc tụng Chúa đi!” là lời ca khen của tác giả Thánh Vịnh 103 dâng lên Thiên Chúa vì những kỳ công vĩ đại. Chúa Cha làm nên biết bao điều kỳ diệu với công trình sáng tạo. Chúa Con thực hiện công trình cứu chuộc lạ lùng. Khi một trẻ thơ hỏi Thiên Chúa rằng vì sao Ngài tạo nên thế giới, thì Chúa sẽ nói “vì yêu mến”.

Hãy mở rộng cõi lòng, đừng cậy dựa vào các điều luật

Tại sao Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ này? Đơn giản vì Ngài chia sẻ chính sự toàn hảo của chính Ngài. Và trong cuộc tái tạo, Thiên Chúa sai chính Con Một tới để làm cho những gì đã bị xấu đi  – trở lại đẹp đẽ, những gì sai lỗi – trở về đúng đắn, những gì tệ hại – trở về tốt lành.

Khi Chúa Giêsu nói: “Cha tôi hằng làm việc, thì tôi cũng làm việc”, các luật sĩ cảm thấy chướng tai gai mắt và muốn giết Chúa. Tại sao? Bởi vì họ không thể đón nhận những gì từ Thiên Chúa như là quà tặng. Đối với họ, chỉ có công thẳng mà thôi, vì họ chỉ dựa vào các điều luật. Thay vì mở lòng đón nhận những quà tặng từ Thiên Chúa, họ lại khép kín vào những luật lệ, có lẽ 500 điều luật, có lẽ còn hơn… Họ không biết nhận ơn lành của Thiên Chúa. Có những món quà chỉ nhận được khi có tự do mà thôi. Thế mà họ lại sợ tự do Thiên Chúa ban, họ sợ tình yêu mến.

Kitô hữu làm nô lệ cho tình yêu, chứ không nô lệ cho lề luật

Đó là lý do hôm nay chúng ta ca tụng Chúa Cha: “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng! Con yêu mến Ngài quá đỗi, vì biết bao ơn lành Ngài đã ban. Ngài đã cứu độ con, Ngài đã dựng nên con.” Đó là lời cầu nguyện chúc tụng ngợi khen, đó là lời nguyện của niềm vui sướng. Lời nguyện ấy đem lại cho chúng ta niềm vui của đời sống người Kitô.

Có những Kitô hữu rất buồn chán vì họ đóng cửa tâm hồn, vì họ không bao giờ biết đón nhận quà tặng của Thiên Chúa, vì họ sợ tự do là điều luôn đi kèm cùng quà tặng. Những người như thế chỉ biết có luật lệ và bổn phận, những bổn phận đóng khung. Làm như thế là làm nô lệ cho lề luật, và không có tình yêu mến. Trái lại, khi làm nô lệ cho tình yêu mến, bạn có tự do. Đó là điều thật tuyệt!

Làm thế nào để nhận được ơn cứu độ

Có những người đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và sống như Chúa Giêsu, Con Một Chúa Cha, trong tình yêu mến, trong sự hiền từ và trong tự do. Nhưng cũng có những người nép mình trong cái khung khép kín của những lề luật; họ có vẻ an toàn, càng nhiều luật lệ càng có vẻ an toàn hơn, mà kỳ thực thì không có tự do, không có niềm vui.

Có hai công trình của Thiên Chúa. Đó là công trình sáng tạo và công trình cứu chuộc. Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi lòng mình: Làm thế nào để sống cách tuyệt vời hai công trình kỳ diệu ấy? Nguyện xin Chúa giúp chúng ta hiểu được những điều vĩ đại mà Ngài đã làm khi sáng tạo vũ trụ vì tình yêu mến! Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình yêu của Ngài, để ngày hôm nay chúng ta có thể cùng nhau thưa lên: “Lạy Chúa, Ngài thật tuyệt vời biết bao! Xin tạ ơn Ngài, xin cám ơn Ngài!”

Tứ Quyết SJ

Sự cứng nhắc và tinh thần thế gian là thảm họa cho các linh mục

Sự cứng nhắc và tinh thần thế gian là thảm họa cho các linh mục

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-09-12-2016

Các linh mục là những người làm trung gian cho tình yêu Thiên Chúa, chứ không làm trung gian cho những bận tâm của riêng mình. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta. Ngài tập trung vào những cám dỗ gây nguy hiểm cho đời phục vụ của các linh mục.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về những người luôn bất mãn. Ngày nay có những Kitô hữu cũng thế, họ không bao giờ thỏa mãn, không hiểu được những gì Chúa dạy, không hiểu được mặc khải của Tin Mừng. Cũng thế, có nhiều linh mục không bao giờ thỏa mãn, mà luôn đi tìm những dự án mới, vì lòng các vị ấy ở xa đường lối của Chúa Giêsu. Do đó, các vị than phiền và sống cách khổ sở.

Các linh mục làm trung gian cho tình yêu Thiên Chúa  

Chúa Giêsu làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta phải đi theo con đường của Đấng trung gian là Chúa Giêsu. Trong đời thường, có những người làm trung gian, đó là họ làm một nghề và nhận lại thù lao cho nghề ấy. Nhưng ở đây, người trung gian có nghĩa hoàn toàn khác.

Vị trung gian cần hy sinh chính bản thân mình để có thể nối kết con người với Đấng ban sự sống. Cái giá phải trả chính là toàn cuộc sống, là cả mạng sống, với tất cả sự cực nhọc, với công việc phục vụ và rất nhiều thứ khác. Đây chính là trường hợp của các linh mục coi xứ. Các vị sống như thế, để có thể kết nối với đoàn chiên, kết nối với người dân, và để dẫn đưa họ đến với Chúa Giêsu. Khi làm Đấng trung gian, Chúa Giêsu hoàn toàn trút bỏ chính mình, hoàn toàn khiêm nhường đến độ trở ra như không. Thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philipphê (2:7-8) nói rất rõ về điều này: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang… Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Đây chính là con đường của Chúa, con đường của hy sinh và khiêm nhường đến tận cùng, của việc tự vét cạn chính mình, tự làm rỗng chính mình, tự hóa ra không.

Sự cứng nhắc dẫn đến việc xa lánh người dân

Một linh mục đích thực, là người trung gian và rất gần gũi với dân chúng. Vị linh mục ấy không làm việc để rồi được nhận lại cái gì đó theo kiểu một quan chức.  

Thế nhưng, có những vị trung gian thích đi dạo quanh để được người ta nhìn thấy và tán thưởng. Để làm cho mình trở thành quan trọng, vị linh mục ấy đi theo con đường của cứng nhắc và xa lánh người dân. Vị ấy không biết đến nỗi khổ của con người. Vị ấy đánh mất những gì đã được hấp thụ nơi gia đình, nơi cha mẹ, nơi ông bà và anh chị em… Khi cứng nhắc như thế, các vị ấy chất gánh nặng lên người dân mà trong khi mình chẳng làm gì. Các vị nói với dân Chúa rằng: không thể thế này, không thể thế kia… Có nhiều người dân muốn tìm một chút an ủi, một chút hiểu biết, thế mà bị gạt đi.

Vị linh mục tốt cười vui với trẻ thơ

Khi xét mình, người linh mục có thể tự hỏi: Hôm nay tôi là một người trung gian của Chúa hay tôi chỉ là một quan chức? Tôi có sống phục vụ tha nhân không? Một vị linh mục tốt, thì có khả năng quan tâm, có khả năng vui chơi và mỉm cười với trẻ thơ… Vị ấy biết cách để gần gũi những gì là bé nhỏ, với những con người bé nhỏ. Có những vị luôn buồn rầu với vẻ mặt nghiêm trọng và sa sầm nét mặt, nhưng nếu là người trung gian của Chúa, vị linh mục tốt sẽ có những nụ cười, có sự thân thiện, sự thấu hiểu và lòng cảm thông.

Có ba vị thánh là mẫu gương cho đời linh mục. Thứ nhất, thánh Policarpo giữ vững ơn gọi và đi lên giàn để chịu thiêu sống. Khi lửa cháy lên, các tín hữu xung quanh ngửi thấy mùi bánh mì. Ngài đã kết thúc cuộc đời của người trung gian của Chúa và trở thành “bánh cho các tín hữu”. Thứ hai, thánh Phanxicô Xaviê chết đang khi tuổi còn trẻ. Ngài chết trên bãi biển trong khi vẫn hướng về Trung Hoa, nơi ngài ao ước đi tới. Thứ ba, thánh Phaolô Tre Fontane bị lính bắt và giải đi ngay từ sáng sớm. Ngài biết rằng có một số người trong cộng đoàn Kitô hữu đã phản bội. Ngài đã hiến dâng chính mạng sống mình như của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Đó là ba mẫu gương mà chúng ta tìm thấy về cuộc đời của một linh mục. Đó là cái kết của người linh mục, của vị trung gian của Thiên Chúa, cái kết trên thập giá.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha: tình yêu không tiêu diệt ngay cả kẻ thù, nhưng luôn xây dựng

Đức Thánh Cha: tình yêu không tiêu diệt ngay cả kẻ thù, nhưng luôn xây dựng

Đức Thánh Cha thăm Cuba vào tháng 9-2015

Thứ sáu hôm nay (29/7), Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp video cho các bạn trẻ Cuba đang họp nhau tại thủ đô Lahabana tham dự Ngày hội giới trẻ Cuba, từ 28-30/7, xuất phát từ Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Krakow, Ba Lan,.

Các bạn trẻ Cuba muốn chia sẻ sinh hoạt này với Đức Thánh Cha Phanxicô và đã gửi một lá thư cho ngài, trong đó có đoạn viết: “Trong cùng thời điểm của Ngày Quốc tế Giới trẻ ở Krakow, chúng con đã chuẩn bị Ngày Giới trẻ ở La Habana với cùng chương trình và đề tài. Chúng con cũng dùng tên gọi Ngày Quốc tế Giới trẻ, bởi vì chúng con không muốn nó chỉ là một sự kiện nhưng muốn là từ nơi đây, chúng con hiệp nhất với Cha và tất cả bạn trẻ đang họp nhau ở đó.”

Có 1400 bạn trẻ tham dự Ngày Quốc tế Giới trẻ ở La Habana. Chương trình sẽ gồm có những buổi giáo lý và các giờ chung, Đàng Thánh giá và đi qua Cửa Thánh. Các bạn trẻ viết tiếp trong thư: “Chúng con không để mình đầu hàng trước thực tế khó khăn về kinh tế, điều đã ngăn cản chúng con đến Cracovia đông đảo, ngăn cản chúng con sống kinh nghiệm này”.

Trong sứ điệp gửi cho các bạn trẻ Cuba, Đức Thánh Cha Phanxicô khen ngợi các người trẻ về sáng kiến này và cổ vũ họ liên kết với nhau trong tình thân xã hội, dù cho những khác nhau giữa họ, và trở thành những người mang hòa bình và xây dựng các cầu nối. Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các bạn trẻ Cuba là ngài tin tưởng sự kiện này sẽ là một cơ hội thúc đẩy một nền văn hóa gặp gỡ, tôn trọng, hiểu biết và tha thứ lẫn nhau. Ngài khuyến khích họ đừng sợ bất cứ điều gì và giải thoát họ khỏi xiềng xích của thế giới này để loan báo Tin Mừng.

Đức Thánh cha đề nghị các bạn lắng nghe và sống Tin Mừng trong đời sống cá nhân, gia đình và bạn bè. Tin Mừng hoán cải con tim, ngài khuyên các bạn hãy để được thay đổi bởi Lời Chúa, là tinh thần và sự sống. Ngài nhắc các bạn trẻ khi đí Đàng Thánh giá, hãy nhớ là chúng ta không thể yêu Thiên Chúa nếu không yêu anh em, bởi vì Thánh giá là bảo đảm chắc chắn của tình yêu trung thành của Thiên Chúa đối với chúng ta, một tình yêu vĩ đại cho đến đi vào trong tội lỗi, đau khổ của chúng ta để tha thứ tội lỗi, và chữa lành khổ đau. Thánh giá là tình yêu đi vào trong khổ đau và cho chúng ta sức mạnh chịu đựng đau khổ và đi vào sự chết để chiến thắng nó và cứu độ chúng ta. Đức Thánh cha khuyên các bạn trẻ khi đi qua Cửa Thánh hãy để cho mình thấm nhiễm tình yêu này, hãy bịnh vì yêu, như thế họ nhìn người khác với lòng thương xót, sự gần gũi, dịu dàng, trên hết những ai đau khổ và cần giúp đỡ. Đức Thánh Cha cũng dạy các bạn trẻ hãy ở trước Thánh Thể, đồng hành với Chúa Giêsu Thánh Thể, vì trong Ngài và chỉ trong Ngài, họ tìm được sức mạnh để tiếp tục dự án hạnh phúc đẹp nhất và có thể xây dựng của cuộc sống chúng ta. Tình yêu xây dựng, tình yêu không tiêu diệt ngay cả kẻ thù, tình yêu luôn xây dựng.

Để là những người mang hòa bình, Đức Thánh cha nói với các bạn trẻ Cuba là cần duy trì khả năng ước mơ, và cảnh cáo là bất cứ ai không còn có thể mơ ước thì giống như một người già nghỉ hưu. Đức Thánh cha nói: “Đừng cầu kỳ hay kén chọn. Hãy ước mơ là, với sự giúp đỡ của các con, Cuba có thể thay đổi và phát triển mỗi ngày”.

Nói về tầm quan trọng của hy vọng, Đức Thánh Cha Phanxicô nói là hy vọng mang con người đến với nhau để xây dựng tình thân xã hội và ngài nhấn mạnh là không cần thiết tất cả suy nghĩ làm như nhau, nhưng quan trọng là tất cả chia sẻ khao khát ước mơ và tình yêu cho quốc gia và họ có thể cùng nhau xây những cầu nối bằng cách giơ tay họ ra với người khác. (RV 29/7/2016)

Hồng Thủy Op

Kitô hữu sống trong tình yêu của Thiên Chúa với niềm vui mừng và sự ngạc nhiên

Kitô hữu sống trong tình yêu của Thiên Chúa với niềm vui mừng và sự ngạc nhiên

Thánh lễ sáng thứ Hai, 23.05, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. Không tồn tại một Kitô hữu buồn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Hai, 23.05, tại nguyện đường thánh Marta. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng, ngay cả trong những lúc đau khổ của cuộc sống, Kitô hữu phải biết tín thác vào Đức Giêsu và sống với niềm hy vọng. Bên cạnh đó, Đức Giêsu mời gọi các tín hữu đừng để bả vinh hoa giàu có chế ngự, vì cuối cùng, chúng chỉ mang lại đau khổ mà thôi.

Kitô hữu sống trong niềm vui và trong sự ngỡ ngàng sửng sốt nhờ sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Khởi đi từ bài đọc một trích Thư Thứ Nhất của Thánh Phê-rô Tông đồ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ngay cả khi phải chịu ưu phiền giữa trăm chiều thử thách, chúng ta cũng không bị tước mất đi niềm hân hoan vui mừng về những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Thiên Chúa đã tái sinh ta trong Đức Kitô và ban cho ta một niềm hy vọng sống động.

Thẻ căn cước của Kitô hữu là niềm vui Phúc Âm

"Chúng ta có thể chạm tới niềm hy vọng mà các Kitô hữu thời sơ khai đã mô tả. Niềm hy vọng ấy giống như một mỏ neo để tiến về Nước Trời. Chúng ta hãy bám lấy cọng dây và tiến về nơi đó, để đạt được niềm hy vọng sống động, một niềm hy vọng sẽ mang lại cho chúng ta niềm vui.

Kitô hữu là một người của niềm vui, một người có niềm vui trong tim. Không tồn tại Kitô hữu không có niềm vui. Nhưng có người nói rằng: ‘Ôi cha ơi, con thấy những Kitô hữu không biết vui đầy kia kìa.’ – ‘Đó không phải là Kitô hữu. Họ nhận mình là Kitô hữu thôi, nhưng thật chất không phải. Nơi họ thiếu thiếu một điều gì đó.’ Thẻ căn cước của Kitô hữu là niềm vui, niềm vui của Tin Mừng, niềm vui được Đức Giêsu tuyển chọn, được Đức Giêsu cứu chuộc, được Đức Giêsu tái sinh; sự vui mừng hân hoan của niềm hy vọng Đức Giêsu đang chờ đợi chúng ta, niềm vui – ngay cả khi giữa những thánh giá và giữa những đau khổ của cuộc sống – cũng được diễn tả trong một cách thức khác, đó là sự bình an trong niềm xác tín Đức Giêsu vẫn đang đồng hành với chúng ta và ở với chúng ta.

Kitô hữu làm cho niềm vui mừng này lớn mạnh lên với sự tín thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn nhớ lời Ngài đã giao ước. Đến lược mình, các Kitô hữu cũng phải biết rằng Thiên Chúa luôn nhớ đến họ, luôn yêu thương họ, luôn đồng hành với họ và đang chờ đợi họ. Đó chính là niềm vui mừng

Sự giàu có mang lại buồn đau

Bài Tin Mừng ngày hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và anh thanh niên giàu có. Anh có thiện chí nhưng lại không có khả năng để mở rộng tâm hồn mình ra trước niềm vui mừng hoan hỷ. Anh đã chọn lựa sự buồn rầu, vì anh có nhiều của cải.

Anh đã để lòng mình quá gắn bó với của cải. Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng không thể làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được. Tiền bạc, của cải, tự bản chất, chẳng có gì xấu nhưng làm tôi tớ cho tiền của thì lại xấu vô cùng. Chàng thanh niên tội nghiệp ấy đã sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi.

Trong các xứ đạo, cộng đoàn và tổ chức, chúng ta nghe thấy nhiều người nhận mình là Kitô hữu hay muốn trở thành Kitô hữu nhưng họ lại buồn rầu, sầu muộn. Như vậy, có điều gì đó không đúng lắm khi họ nói mình là Kitô hữu. Chúng ta phải giúp họ tìm thấy Đức Giêsu, giúp họ quẳng nỗi muộn phiền ấy đi, để họ có thể hân hoan sung sướng trong niềm vui Tin Mừng.

Sự vui mừng và ngỡ ngàng là tâm tình của người Kitô hữu khi được tiếp chạm vào sự mặc khải và tình yêu của Thiên Chúa, và những cảm xúc ấy được khuấy động tràn dâng lên bởi Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu có phần thất vọng khi thấy chàng thanh niên không thể hy sinh, từ bỏ mà bước theo Ngài, vì anh đã quá gắn bó với giàu sang, tiền của. Khi các Tông đồ hỏi Chúa: ‘Như vậy thì ai có thể được cứu?’, Đức Giêsu trả lời: ‘Đối với loài người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.’

Niềm vui Kitô giáo và khả thể được cứu khỏi những dính bén thế trần chỉ có thể được thực hiện ngang qua quyền năng của Thiên Chúa, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng biết ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước sự hiện diện của Ngài, trước sự hiện diện của rất nhiều những kho tàng thiêng liêng mà Ngài đã ban cho chúng ta. Và với sự ngạc nhiên này, xin Chúa ban cho chúng ta niềm vui mừng, niềm vui trong đời sống thường ngày, trong con tim đong đầy sự bình an mặc dù đang ở giữa trăm chiều thử thách. Xin Chúa cũng bảo vệ chúng ta khỏi ham muốn đi tìm kiếm hạnh phúc nơi những sự vật mà cuối cùng chỉ mang lại khổ đau: chúng hứa hẹn nhiều, nhưng thật chất, chẳng mang lại cho ta được gì cả. Anh chị em hãy nhớ rằng: Kitô hữu là một người của niềm vui, niềm vui trong Thiên Chúa; và Kitô hữu cũng là một người biết ngỡ ngàng ngạc nhiên nữa.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sống

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sống

Phái đoàn 160 tín hữu Việt nam Hoa Kỳ tham dự buổi tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô sáng thứ tư 6-4-2016

Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta tình yêu cứu rỗi canh tân cuộc sốngi

Lòng thương xót của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện trong cuộc đời dương thế, đặc biệt qua cái chết hiến tế của Ngài. Trên thập giá Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa Cha tội lỗi của toàn thế giới và các tội lỗi ấy được xóa bỏ. Tình yêu của Chúa Bị Đóng Đanh không biết các chướng ngại và không bao giờ cạn kiệt. Lòng thương xót Chúa xoá bỏ các bần cùng của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua. Trong hàng chục đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ cũng có nhóm 160 tín hữu Việt Nam đến từ nhiều thành phố khác nhau.

Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục khai triển đề tài giáo lý lòng thương xót Chúa trong Tân Uớc, sau khi đã trình bầy phần Cựu Ước. ĐTC nói chính Chúa Giêsu đã thành toàn lòng thương xót ấy bằng cách thực hiện và luôn luôn thông truyền nó trong mọi lúc cuộc đời Ngài. ĐTC giải thích như sau

Khi gặp gỡ các đám đông, loan báo Tin Mừng, chữa lành người bệnh, tới gần các kẻ rốt hết, tha thứ cho người tội lỗi, Chúa Giêsu khiến cho tình yêu rộng mở cho mọi người trở thành hữu hình: không có ai bị loại trừ cả! Nó rộng mở cho mọi người, vô biên giới. Một tình yêu tinh tuyền, nhưng không, tuyệt đối. Một tình yêu đạt tột đỉnh trong Hiến Tế của Thập Giá. Phải, Tin Mừng thật sự là “Tin Mừng của Lòng Thương Xót”, bởi vì Chúa Giêsu là Lòng Thương Xót!

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: tất cả bốn Phúc Âm đều chứng thực rằng trươc khi bắt đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu đã muốn lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả (Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22; Ga 1,29-34). Biến cố này ghi dấu một hướng đi định đoạt cho tất cả sứ mệnh của Chúa Kitô. Thật thế, Ngài đã không được giới thiệu với thế giới trong ánh quang của đền thờ: Ngài đã có thể làm điều đó. Ngài đã không làm cho mình được loan báo bởi kèn trống: ngài đã có thể làm. Ngài cũng không đến trong y phục của một thẩm phán: Ngài đã có thể làm như thế. Trái lại, sau 30 năm sống ẩn dật tại Nagiarét, Chúa Giêsu đã đến sông Giordan cùng với biết bao nhiêu dân chúng và xếp hàng với các kẻ tội lỗi. Ngài đã không xấu hổ: Ngài ở đó với tất cả mọi người, với các người tội lỗi, để lãnh phép rửa. Như vậy cho tới khi bắt đầu sứ vụ của mình, đuợc thúc đẩy bởi tình liên đới và lòng cảm thương,  Ngài đã tự tỏ lộ ra như Đấng Cứu Thế nhận lấy gánh nặng của các điều kiện con người. Như chính Ngài đã khẳng định trong hội đường Nagiarét bằng cách tự đồng hóa với lời tiên trị Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì thế tôi đã được xức dầu thánh hiến và Ngài đã sai tôi đi đem tin vui cho người nghèo khó, loan báo cho người tù sự giải thoát, cho người mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được tự do, và loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Tất cả những điều Chúa Giêsu đã làm sau khi rửa tội là việc thành toàn chương trình khởi đầu: đó là đem tới cho tất cả mọi người tình yêu thương của Thiên Chúa, tình yêu thương cứu rỗi. Chúa Giêsu đã không đem thù hận tới , ngài không đem tới sự sự thù nghịch: nhưng Ngài đã đem tới cho chúng ta tình yêu! Môt tình yêu lớn lao, một con tim rộng mở cho tất cả mọi người, cho tất cả chúng ta. Một tình yêu cứu rỗi.

Ngài đã trở thành gần gũi với những người rốt hết, bằng cách thông truyền cho họ lòng thương xót là sự tha thứ, niềm vui và cuộc sống mới. Chúa Giêsu, Người Con do Chúa Cha gửi tới, thưc sự là khởi đầu thời thương xót đối với toàn nhân loại. Những người đã hiện diện trên bờ sông Giordano đã không hiểu ngay tầm quan trọng  nơi cử chỉ của Ngài. Chính Gioan Tẩy Giả  cũng kinh ngạc về quyết định của Chúa (x. Mt 3,14). Nhưng Thiên Chúa Cha thì không! Ngài khiến cho tiếng của mình được nghe từ trên trời: “Ngươi là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con” (Mc 1,11). Như vậy, Thiên Chúa Cha xác nhận con đường mà Chúa Con đã đi như Đấng Cứu Thế, trong khi Chúa Thánh Thần xuống trên Ngài như chim bồ câu. Như thế con tim của Chúa Giêssu đập cùng nhịp với con tim của Thiên Chúa Cha và của Chúa Thánh Thần, bằng cách tỏ cho tất cả mọi người thấy rằng ơn cứu rỗi là hoa trái lòng xót thương của Thiên Chúa.

ĐCT nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta có thể chiêm ngưỡng  một cách rõ ràng hơn mầu nhiệm cao cả của tình yêu đó, bằng cách nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đanh. Trong Ngài là Đấng vô tội mà chết cho chúng ta là những kẻ có tội, Ngài khẩn nài Thiên Chúa Cha: “Lậy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). ĐTC giải thích thêm như sau:

Chính trên thập giá Chúa Giêsu giới thiệu lên lòng thương xót của Thiên Chúa Cha tội lỗi của thế giới: tội lỗi của tất cả mọi người, tội của tôi, tội của bạn, tội  lỗi của các anh các chị. Và ở trên thập giá Ngài trình diện chúng với Thiên Chúa Cha. Và cùng với tội lỗi của thế giới tất cả mọi tội lỗi của chúng ta đều được xóa bỏ. Không ai bị loại ra ngoài lời cầu nguyện ấy của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải sợ hãi nhìn nhận mình và xưng thú mình là kẻ có tội. Có biết bao lần chúng ta nói: “Nhưng ông này là một kẻ tội lỗi, ông ta đã làm điều này, điều nọ.. “ và chúng ta phán đoán người khác. Còn bạn thì sao? Từng người trong chúng ta đáng lý ra phải tự hỏi: “Phải, người này là một kẻ tội lỗi” Còn tôi? Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng tất cả chúng ta được tha thứ: tất cả chúng ta có khả thể nhận lãnh ơn tha thứ này là lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta không được sơ hãi nhận mình là kẻ có tội, xưng thú mình là người tội lỗi, bởi vì mọi tội đã được Con Thiên Chúa đem lên thập giá. Và khi chúng ta xưng thú  điều đó với lòng sám hối và tín thác nơi Chúa, thì chúng ta chắc chắn được tha thứ. Bí tích Hòa giải thời sự hóa sức mạnh của sự tha thứ phát xuất từ Thập Giá, và canh tân trong cuộc sống chúng ta ơn thánh của lòng thương xót, mà Chúa Giêsu đã chinh phục cho chúng ta. Chúng ta không được sợ hãi các bần cùng của chúng ta, mỗi người đều có các bần cũng riêng của mình. Quyền năng tình yêu của Đấng bị đóng đanh không biết tới các chướng ngại và không cạn kiệt. Đó là lòng thương xót xóa bỏ các bần cùng của chúng ta.

Anh chị em rất thân mến, trong Năm Thánh này chúng ta hãy xin Thiên Chúa ơn được sống kinh nghiệm quyền năng của Tin Mừng: Tin Mừng của lòng thương xót biến đổi, làm cho chúng ta bước vào trong con tim của Thiên Chúa, khiến cho chúng ta có khả năng tha thứ và nhìn thế giới với sự tốt lành hơn. Nếu chúng ta tiếp nhận Tin Mừng của Đấng chịu đóng đanh phục sinh, thì toàn cuộc sống chúng ta được nhào nặn bởi sức mạnh tình yêu canh tân của Ngài.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp đến từ các nước Pháp, Bỉ, Canada và Togo bên Phi châu. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng Anh như Anh quốc, Êcốt, Ailen, Đan Mạch, Hoà Lan, Na Uy, Kenya, Zimbabwe, Australia, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Hoa Kỳ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, trong đó có các nhóm đến từ các nước châu Mỹ Latinh.  ĐTC cầu chúc mọi ngưới có những ngày hành hương bổ ích, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, và được nhiều ơn lành của Chúa trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Slovenia và các nhóm nói tiếng A Rập..

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC chúc mừng các độc giả và thân hữu của tuần báo Niedziela hành hương Roma nhân dịp mừng 90 năm thành lập. Cả ngày nay nữa đây là một ơn lớn của Chúa Quan Phòng ban cho Ba Lan, vì tuần báo tiếp tục cho tin tức về Giáo Hoji và là một nâng đỡ cho đất nước trong những lúc khó khăn của lịch sử. ĐTC cầu chúc tuần san tiếp tục sứ mệnh rao truyền Tin Mừng, củng cố đức tin của độc giả và sinh nhiều hoa trái trong đời sống. Ngài phó thác các thành công ây cho Chúa Giêsu Từ Nhân và Thánh Mẫu Nữ Vương Ba Lan  trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này.

Sau cùng ngài chào các đoàn hành hương Ý đến từ nhiều giáo phận, giới trẻ, các người đau yếu và các đôi tân hôn, trước khi cất kinh Lạy Cha và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

ĐTC Phanxicô mở Cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Bangui Trung Phi 2/2

ĐTC Phanxicô mở Cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Bangui Trung Phi 2/2

ĐTC Phanxicô mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại nhà thờ chính toà Bangui

Sau khi từ giã hàng lãnh đạo Trung Phi, lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đến thăm trại tỵ nạn giáo xứ Thánh Cứu Thế Bangui, cách đó 5 cây số. Từ mấy giờ trước dân chúng dã tụ tập múa hát chờ đợi ĐTC. Rất đông trẻ em cầm các mảnh giấy hay mảnh vải trắng viết hàng chữ đơn sơ “Chào mừng ĐTC”. ĐTC đã xoa đầu các em chạy đến chào ngài. Một phụ nữ đại điện mọi người ngỏ lời chào mừng ĐTC. Bà nói lên nỗi vui sưóng được ĐTC tới thăm để chia sẻ các khổ đau, lo lắng và hy vọng của họ. Ước chi chuyến viếng thăm của ĐTC đem lại hoà giải, hoà bình lâu bền và hạnh phúc cho đất nước chúng con.

ĐTC dã ứng khẩu và nói: “Tôi đã đọc những gì các trẻ em đã viết. Chúng ta hãy làm tất cả để có hòa bình. Nhưng không thể có hòa bình nếu không có tình yêu, sự tha thứ, và hòa giải. Mỗi người phải làm một cái gì đó. Tôi cầu chúc hòa bình cho anh chị em. Dù thuộc chủng tộc, văn hóa, tôn giáo nào đi nữa, chúng ta tất cả đều là anh chị em với nhau. Tôi cầu chúc hoà bình cho anh chị em.” ĐTC đã ban phép lành cho mọi người. Các trẻ em vây quanh ĐTC, người lớn cùng như trẻ em rất vui mừng được ĐTC xoa đầu, bắt tay và chúc lành.

Sau khi từ giã người tỵ nạn ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh để gặp gỡ các Giám Mục, dùng bữa trưa với các vị, và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh hoạt vào ban chiều.

Sự chia rẽ của các kitô hữu là một gương mù, bởi vì trước hết nó trái nghịch với ý muốn của Chúa. Nó cũng là một gương xấu trước biết bao thù hận và biết bao bạo lực xâu xé nhân loại.

Lúc 15 giờ 45 phút chiều ĐTC đã đến Phân Khoa thần học tin lành Bangui để gặp gỡ các cộng đoàn tin lành. Phân khoa này đã do Hiệp hội tin lành Phi châu thành lập năm 1974 để đáp ứng các nhu cầu của Giáo Hội Tin Lành Phi châu. Kể từ năm 1977 đến nay phân khoa đã đào tạo 650 mục sư phục vụ các cộng đoàn tin lành tại 21 nước Phi châu. Phân khoa có phòng ốc cho các sinh viên và gia đình họ cũng như một thính đường có 500 chỗ ngồi. Bên cạnh cũng có một trường cho vợ của các sinh viên, một vườn trẻ và một trường tiểu học.

Một ca đoàn dã hát chào mừng ĐTC. ĐTC đã được phân khoa trưởng tiếp đón và tháp tùng vào thính đường có khoảng 400 đại diện của các cộng đoàn tin lành Trung Phi. Cùng an tọa trên khán đài có ĐC Dieudonné Nzapalainga, TGM Bangui, và mục sư chủ tịch Liên hiệp các Giáo Hội tin lành Trung Phi.

Sau lời chào mừng của vị phân khoa trưởng và vị chủ tịch, ĐTC đã ngỏ lời với mọi người. Ngài nêu bật rằng  từ qúa lâu dân tộc Trung Phi đã bị ghi dấu bởi các thử thách, và bạo lực gây ra biết bao khổ đau. Điều này khiến cho việc loan báo Tin Mừng lại càng cần thiết và cấp bách hơn nữa, Bởi vì chính thịt xác Chúa Kitô khổ đau trong các chi thể yêu dấu của Ngài: những người nghèo túng, các bệnh nhân, người già và những người bị bỏ rơi, các trẻ em không còn cha mẹ hay bị bỏ rơi cho chính mình, không được hướng dẫn và giáo dục. Họ cũng là tất cả những người mà bạo lực và thù hận đã làm tổn thương trong tâm hồn và trên thân xác, những người mà chiến tranh đã lấy mất tất cả, công ăn việc làm, nhà cửa, những người thân.

Thiên Chúa không phân biệt giữa những người đau khổ. Tôi đã thường gọi điều này là đại kết của máu. Tất cả các cộng đoàn của chúng ta đau khổ không phân biệt vì bất công và thù hận mù quáng, mà ma quỷ dấy lên. Và nhân dịp này tôi muốn bầy tỏ sự gần gũi và lo lắng dối với mục sư Nicolas, mà nhà bị cướp bóc và đốt cháy, cũng như trung tâm của cộng đoàn của mục sư. Trong bối cảnh khó khăn này Chúa không ngừng gửi chúng ta ra đi biểu lộ cho mọi người sự hiền dịu, lòng thông cảm và xót thương của Ngài. Khổ đau và sứ mệnh chung đó là một dịp quan phòng giúp chúng ta cùng tiến trên con đường hiệp nhất, và cũng là một phương tiện thiêng liêng cần thiết…

Các bạn thân mến, sự chia rẽ của các kitô hữu là một gương mù, bởi vì trước hết nó trái nghịch với ý muốn của Chúa. Nó cũng là một gương xấu trước biết bao thù hận và biết bao bạo lực xâu xé nhân loại, trước biết bao mâu thuẫn được dựng lên trước Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì thế, trong khi đánh giá cao tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cộng tác có giữa các kitô hữu của đất nước anh chị em, tôi khích lệ anh chị em tiếp tục trên con đường phục vụ chung này của lòng bác ái. Đó là một chứng tá cho Chúa Kitô xây dựng sự hiệp nhất. Ước chi anh chị em có thể ngày càng can đảm  thêm vào lòng kiên trì và bác ái việc phục vụ của lời cầu nguyện và suy tư chung, trong việc tìm hiểu biết, tin tưởng và thân hữu với nhau hơn, hầu hướng tới sự hiệp thông tràn đầy mà chúng ta hy vọng vững vàng.

ĐTC mời gọi hàng giáo sĩ tu sĩ nhập thể con tim, tình yêu, sự hiền dịu, tha thứ và lòng xót thương của Thiên Chúa giữa lòng xã hội Trung Phi.

Lúc 16 giờ ruỡi ĐTC đã đi xe tới nhà thờ chính toà Bangui cách đó 2 cây số để chủ sự thánh lễ cho các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội được xây năm 1973 có 2.500 chỗ ngồi. Nhà thờ được trùng tu trong các năm 1961-1962, và được trang hoàng với 5 ngọn đèn thủy tinh, do tổng thống Bokassa tặng nhân dịp lễ đăng quang hoàng đế của ông năm 1976-1977. ĐGH Gioan Phaolô II đã cầu nguyện tại đây trong chuyến viếng thăm Bangui ngày 14 tháng 8 năm 1985. Nhà thờ chính toà cũng đã là nơi tổ chức kỷ niệm 100 năm Trung Phi lãnh nhận hạt giống đức tin, cũng như Hội nghị Liên HĐGM vùng Trung Phi châu, trong các ngày từ 29 tháng 6 tới mùng 6 tháng 7 năm 2008.

ĐTGM Bangui Dieudonné Nzapalainga đã được tấn phong trong nhà thờ chính toà này ngày 22 tháng 7 năm 2012. Bên cạnh nhà thờ chính tòa có một trung tâm vi tính, một phòng khám bệnh phát thuốc do huynh đoàn thánh Vinh Sơn Paoli đảm trách, một nhà sách và một phòng hội họp cho 30 hội đoàn giáo xứ sinh hoạt, trong đó cũng có 5 cộng đoàn cơ bản.

ĐTC đã tới công trường rộng gần nhà thờ chính toà, nơi đã có hàng chục ngàn bạn trẻ tụ tập để gặp gỡ ĐTC và tham dự buổi canh thức cầu nguyện vào lúc 7 giờ chiều. Các bạn đã theo dõi thánh lễ ĐTC cử hành cho các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh lúc 5 giờ chiều trên các màn truyền hình khổng lồ. Bên trong nhà thờ chính toà có khoảng 2.500 linh muc tu sĩ nam nữ các dòng và các chủng sinh. Cha sở nhà thờ chính tòa đã tiếp đón ĐTC tại cửa và tháp tùng ngài vào phòng thánh để mặc áo lễ và chủ sự lễ nghi mở cửa Năm Thánh của nhà thờ chính toà. Đây là lần đầu trong lịch sử Giáo Hội, một Giáo Hoàng chủ sự lễ nghi mở Cửa Thánh ngoài Roma.

ĐTC và đoàn giúp lễ tiến tới Cửa Lòng Thương Xót. Trong khi giơ tay mở cửa ngài nói: “Hãy mở các cửa công chính” Cộng đoàn thưa: “Tôi sẽ vào và sẽ tạ ơn Chúa”. “Đây là cửa của Chúa” – “Các người công chính hãy vào”. “Con bước tới nhà Chúa, lậy Chúa” – “Con phủ phục hướng về Đền Thánh Chúa”.

ĐTC đứng trên ngưỡng Cửa Lòng Thương Xót và sau một lúc cầu nguyện ngài bước vào trong nhà thờ chính tòa. Thánh lễ đã đưọc cử hành bằng tiếng Pháp, và các bài đọc là của Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng năm C.

Giảng trong thánh lễ ĐTC mời gọi hàng giáo sĩ tu sĩ nhập thể con tim, tình yêu, sự hiền dịu, tha thứ và lòng xót thương của Thiên Chúa giữa lòng xã hội Trung Phi. Ngài nói; từ nhà thờ chính toà này với con tim, tư tưởng và lòng trìu mến tôi muốn đến với tất cả các linh mục, những người sống đời thánh hiến, các nhân viên mục vụ của Trung Phi đang hiệp nhất trong tinh thần trong lúc này với những người hiện diện nơi đây. Qua các vị tôi muốn chào tất cả mọi người dân Trung Phi, các bệnh nhân, người già, các người bị thương tích từ cuộc sống….

Như hai thánh Phêrô và Gioan lên đền thờ xưa kia, không có vàng bạc cho người bất toại, tôi đến để cống hiến cho họ sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa chữa lành con người, làm cho nó đứng lên, và khiến cho nó có khả năng bắt đầu một cuộc sống mới, “đi qua bờ bên kia” (x. Lc 8,22).

Chúa Giêsu không chỉ gửi chúng ta sang bờ bên kia, nhưng Ngài mời chúng ta cùng đi với Ngài, mỗi người theo ơn gọi đặc thù của mình. Vì thế chúng ta phải ý thức rằng không thể qua bờ bên kia nếu không qua với Chúa, bằng cách giải thoát chúng ta khỏi các ý niệm về gia đình và huyết thống chia rẽ, để xây dựng một Giáo Hội Gia Đình của Thiên Chúa, rộng mở cho tất cả mọi người, lo lắng cho những người thiếu thốn. Điều này giả thiết sự gần gũi các anh chị em khác và một tinh thần hiệp thông. Trước hết đây không phải là vấn đề phương tiện tài chánh. Chỉ cần trong thực tế chia sẻ cuộc sống của dân Chúa, trao ban lý lẽ cho niềm hy vọng nơi chúng ta (x. Pr 3,15), làm chứng cho lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là Đấng “nhân lành chỉ lối cho các tội nhân” (Tv 24,8). Ngài cho mặt trời mọc lên trên người lành kẻ dữ (Mt 5,45). Sau khi sống kinh nghiệm ơn tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ. Ơn gọi của chúng ta là “nên trọn lành như Cha anh em ở trên trời” (Mt 5,48). Một trong các đòi hỏi của ơn gọi nên trọn lành là tình yêu đối với các kẻ thù, cản ngăn cám dỗ báo thù và chống lại vòng xoáy trả thù vô tận. Nhu thế các người loan báo tin mừng trước hết phải là những người kiến tạo sự tha thứ, là các chuyên viên của hòa giải, và người tài giỏi của lòng thương xót.

Tiếp tục bài giảng ĐTC đã rút tiả ra từ các bài đọc phụng vụ Chúa Nhật thứ I mủa Vọng vài đặc tính của ơn cứu rỗi. Trước hết là hạnh phúc Chúa hứa đưọc loan báo trong các phạm trù của sự công bằng. Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị con tim chúng ta tiếp đón Chúa Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô, Thẩm Phán duy nhất thưởng phạt mọi người. Ngài đến để làm phong phú các lịch sử cá nhân và tập thể, các niềm hy vọng bị thất vọng, và các cầu mong cằn cỗi. Nhất là Ngài gửi chúng ta đi loan báo cho những ai bị các kẻ quyền lực của thế giới này áp bức, cũng như những kẻ bị gẫy gập dưới sức nặng tội lỗi của họ.

Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa cũng có mùi vị của tình yêu. Con Thiên Chúa đến để mạc khải Thiên Chúa không chỉ là Công Lý, nhưng trước hết  là Tình Yêu. Tại khắp nơi, nhất là nơi đâu thống trị bạo lực, thù hận, bất công và bách hại, các kitô hữu được mời gọi làm chứng cho Thiên Chúa là Tình Yêu. Tuy có nhiều linh mục và giáo dân trong đất nươc này sống các nhân đức kitô tới bậc anh hùng, nhưng khoảng cách giữa lý tưởng này và chứng ta của chúng ta đôi khi còn xa lắm.

Sau cùng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa có quyền năng chiến thắng tất cả. Nếu thánh Phaolô nói tới một tình yếu lớn mạnh và tràn đầy, thì bởi vì chứng tá kitô phải phán ánh sức mạnh không thể chống lại mà Tin Mừng nói tới: sức mạnh của tình yêu không lùi bước trước bất cứ sự gì. Xác tín này trao ban cho tín hữu sự thanh thản, lòng can đảm và sức mạnh kiên trì trong sự thiện trước các nghịch cảnh tệ hại nhất.

Sau cùng ĐTC dã kêu gọi những người sử dụng vũ khí một cách bất công trên thế giới này hãy hạ các dụng cụ chết chóc này xuống, tráí lại hãy vũ trang mình bằng công lý, tình yêu và lòng thương xót là các bảo đảm đích thật cho hòa bình.

Lúc 19 giờ ĐTC còn một sinh hoạt nữa đó là cuộc gặp gỡ với trẻ Trung Phi gần nhà thờ chính toà.

Sáng thứ hai hôm nay ĐTC gặp gỡ cộng đoàn Hồi giáo gần đền thờ Koudoukou, trưóc khi đến chủ sự thánh lễ cho tín hữu tại tòa nhà thể thao Barthélémy Boganda, rồi ra phi trường từ giã Trung Phi để trở về Roma.

Chúng tôi sẽ tường thuật các sinh hoạt này của ĐTC trong các buổi phát sáng thứ ba.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Tóm lược Phúc trình chung kết Thượng Hội Đồng Giám mục

Tóm lược Phúc trình chung kết Thượng Hội Đồng Giám mục

Pope arrived on the last day of Synod 2015

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 đã kết thúc tốt đẹp và đã thông qua Phúc trình chung kết, với những hướng đi tích cực cho việc mục vụ gia đình trong hoàn cảnh xã hội ngày nay.

Trong phiên họp khoáng đại thứ 18 và là phiên cuối cùng chiều thứ bẩy, 24-10 vừa qua, các nghị phụ Thượng HĐGM đã bỏ phiếu về bản tường trình chung kết gồm 94 đoạn. Toàn bộ đã được thông qua với đa số 2 phần 3, tức là tối thiểu 177 phiếu trên 265 nghị phụ hiện diện. Đây là văn kiện được các nghị phụ đệ lên ĐTC và ngài đã cho phép công bố.

Phúc trình mô tả gia đình là ánh sáng trong bóng đen của thế giới. Thực vậy gia đình ngày nay tuy có bao nhiêu khó khăn, nhưng cũng có khả năng rất lớn đương đầu và phản phản ứng trước những khó khăn ấy.

Phúc trình chung kết mạch lạc và đón nhận rất nhiều sửa chữa tài liệu làm việc do các nghị phụ đề nghị, và do đó phản ánh tiếng nói của Thượng HĐGM.

Những đoạn bàn về các gia đình ở trong tình trạng khó khăn:

Đặc biệt có hai đoạn được chấp thuận với 178 và 180 phiếu, vừa đủ để được thông qua với 2 phần 3 số phiếu. Trong những đoạn này có nói về phương thức mục vụ dành cho các gia đình bị thương tổn hoặc ở trong những tình trạng ”bị rối”, không hợp với giáo luật và kỷ luật của Giáo Hội, cụ thể là những cặp sống chung không kết hôn, những cặp chỉ kết hôn dân sự, những người ly dị tái hôn dân sự và cách thức mục vụ dành cho những trường hợp này trong thái độ tích cực và tiếp đón.

Văn kiện tái khẳng định đạo lý về sự bất khả phân ly của bí tích hôn phối, đặc tính này không phải là cái ách, nhưng là hồng ân của Thiên Chúa, là chân lý dựa trên Chúa Kitô và mối liên hệ của Người với Giáo Hội. Đồng thời các nghị phụ nhấn mạnh rằng chân lý và lòng từ bi thương xót đều đồng qui trong Chúa Kitô. Từ đó, Thượng HĐGM kêu gọi đón tiếp các gia đình bị thương. Tuy không nói rõ ràng về việc cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ, nhưng Thượng HĐGM nhắc nhớ rằng họ không bị vạ tuyệt thông và để tùy sự phân định của các vị mục tử, phân tích tình trạng gia đình phức tạp của họ. Các nghị phụ nhấn mạnh rằng sự phân định này phải được thực hiện theo giáo huấn của Hội Thánh, trong niềm tín thác lòng thương xót của Chúa không bị phủ nhận đối với bất kỳ một ai.

Đối với những người sống chung, Văn kiện tái khẳng định rằng cần phải cứu xét tình trạng của họ một cách tích cực, tìm cách biến hoàn cảnh ấy thành cơ hội hoán cải, tiến đến sự viên mãn của hôn nhân và gia đình, dưới ánh sáng Tin Mừng.

Về những người đồng tính luyến ái

Văn kiện khẳng định rằng không được kỳ thị những người có xu hướng đồng tính luyến ái, nhưng đồng thời cho biết Giáo Hội chống lại sự kết hiệp giữa những người đồng phái và không chấp nhận những sức ép từ bên ngoài trên Giáo Hội về vấn đề này.

Có những đoạn đặc biệt nói về những người di dân, tị nạn, bị bách hại, gia đình của họ bị phân tán và họ có thể trở thành nạn nhân của nạn buôn người. Thượng HĐGM kêu gọi đón tiếp họ, tái khẳng định các quyền và cả nghĩa vụ của họ đối với những nước đón nhận họ.

Đề cao giá trị phụ nữ, bảo vệ trẻ em và người già

Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM cũng trình bày những suy tư đặc thù về phụ nữ, người nam, trẻ em, là những bản lề của đời sống gia đình, đồng thời tái khẳng định sự bảo vệ và đề cao giá trị những vai trò của họ.

Đối với các phụ nữ, Thượng HĐGM cầu mong họ nắm giữ một vai trò quan trọng hơn trong tiến trình huấn luyện các thừa tác viên thánh chức, trong khi đối với các trẻ em, các vị đề cao vẻ đẹp của sự nhận con nuôi và ủy thác, tái tạo những mối liên hệ gia đình bị gián đoạn. Thượng HĐGM cũng không quên những người góa bụa, người khuyết tật, người già, các ông bà nội ngoại là những người giúp thông truyền đức tin trong gia đình và cần phải bảo vệ họ chống lại nền văn hóa gạt bỏ. Cả những người không kết hôn cũng được nhắc đến vì sự dấn thân của họ trong Giáo Hội và trong xã hội.

Cuồng tín, cá nhân chủ nghĩa, nghèo đói..

Văn kiện chung kết Thượng HĐGM cũng bàn đến những bóng đen của thời đại ngày nay đang đè nặng trên gia đình: trước tiên là thái độ cuồng tín về chính trị và tôn giáo thù nghịch đối với Kitô giáo, trào lưu cá nhân chủ nghĩa gia tăng, ý thức hệ về giống (gender), các cuộc xung đột, bách hại, nạn nghèo đói, công ăn việc làm bấp bênh, nạn tham ô hối lộ, những cưỡng bách kinh tế loại trừ gia đình khỏi lãnh vực giáo dục và văn hóa, hiện tượng hoàn cầu hóa sự dửng dưng đặt tiền bạc chứ không phải con người ở trung tâm xã hội, nạn dâm ô và sự suy giảm dân số.

Tăng cường chuẩn bị hôn phối

Thượng HĐGM đặc biệt kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn phối, nhất là đối với những người trẻ dường như lo sợ đối với hôn nhân: cần có một sự huấn luyện thích hợp cho họ về tình cảm, tập nhân đức khiết tịnh, và tự chủ. Trong viễn tượng này, các nghị phụ nhắc nhở về mối liên hệ giữa hành vi tính dục và hành vi sinh sản giữa vợ chồng, trong đó con cái là hoa trái quí giá nhất, vì chúng mang trong mình ký ức và hy vọng của một hành vi yêu thương. Một liên hệ khác cũng được tái khẳng định là liên hệ giữa gia đình và ơn gọi sống đời gia đình và ơn gọi sống đời thánh hiến. Cả việc giáo dục về tính dục, về thể xác và thăng tiến việc làm cha làm mẹ theo tinh thần trách nhiệm theo giáo huấn của Đức Phaolô 6 trong Thông Điệp ”Humanae vitae” (Sự sống con người) cũng là điều chủ yếu, cũng vậy vai trò hàng đầu của các cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái.

Bảo vệ sự sống từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên

Thượng HĐGM kêu gọi các chính quyền hãy ”thăng tiến và nâng đỡ các chính sách gia đình, trong khi các tín hữu Công Giáo dấn thân trong chính trị được nhắn nhủ bảo vệ gia đình và sự sống vì xã hội nào lơ là đối với gia đình thì sẽ mất viễn tượng tương lai của mình. Về vấn đề này, Thượng HĐGM tái khẳng định sự thánh thiêng của cuộc sống con người từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên và cảnh giác chống lại những đe dọa trầm trọng đối với gia đình như nạn phá thai và làm cho chết êm dịu.

Những đoạn cuối cùng dành cho các hôn nhân hỗn hợp, trong đó các nghị phụ nhấn mạnh các khía cạnh tích cực đối với việc thăng tiến đối thoại đại kết và liên tôn. Rồi tái khẳng định sự cần thiết phải bảo vệ tự do tôn giáo và quyền phản kháng lương tâm trong xã hội.

Giáo hội cần canh tân ngôn ngữ đễ loan báo Tin Mừng

Văn kiện chung kết trình bày một suy tư dài về sự cần thiết phải thay đổi ngôn ngữ của Giáo Hội, làm cho nó có ý nghĩa hơn để việc loan báo Tin Mừng gia đình đáp ứng thực sự những mong đợi sâu xa nhất của con người. Thực vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là trình bày một qui tắc, nhưng là loan báo ơn mang lại khả năng sống những thiện hảo của gia đình

Gia đình là bến cảng chắc chắn cho các tình cảm sâu xa nhất

Sau cùng, Phúc trình chung kết nhấn mạnh vẻ đẹp của gia đình: Giáo Hội tại gia dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, tế bào cơ bản của xã hội mà Giáo Hội góp phần làm tăng trưởng, là bến cảng chắc chắn cho những tâm tình sâu xa nhất, là điểm duy nhất liên kết, trong một thời đại bị phân hóa, là thành phần của sinh thái học con người, gia đình cần được bảo vệ, nâng đỡ và khích lệ, kể cả từ phía các chính quyền

Thỉnh cầu ĐTC ban hành một văn kiện về gia đình

 Các nghị phụ đệ trình phúc trình lên ĐTC để ngài cứu xét xem có nên tiếp tục hành trình với một văn kiện của ngài, dựa trên Thượng HĐGM này, để đào sâu thêm đề tài gia đình theo hướng đi mà ngài đã đề ra. Chúng ta tiếp tục tiến bước”

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta

Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta

Đanien Côn-neo (Daniel Connell) là người đã giải phóng dân tộc Ái nhĩ lan. Ông là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi người ta cười nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin bí tích Thánh Thể. Ông đã giải đáp: “Sao các ông lại hỏi tôi? Các ông phải hỏi Chúa Giêsu. Phần tôi, tôi chỉ tin như Chúa Giêsu đã nói. Nếu điều đó không đúng, thì Chúa mới là người đáng trách. Nhưng sự thật của Chúa thì muôn đời tồn tại”.

Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta, phải xây dựng và chỉ có thể xây dựng trên Lời Chúa. Chúa là sự sống của ta và Chúa là căn bản lòng tin của ta. Chúa là lương thực nuôi hồn ta, Chúa liên kết với ta, thông chia sự sống nhiệm mầu của Người cho ta. Nếu chúng ta thấy xao xuyến, mệt mỏi bơ vơ, là tại chúng ta đã xa cách Chúa, tại chúng ta đã cách ly Chúa. Khi đó chẳng những chúng ta lạc lõng khốn cùng mà còn phải chết muôn đời nữa. Vì Chúa đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt, không uống máu Con Người, thì trong các ngươi không có sự sống” (Ga 6,53).

Khi nói về bánh hằng sống, Chúa Giêsu nói xen lẫn hai sự kiện: Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Chúa nói cả hai chuyện một lúc như vậy, cốt cho ta hiểu rằng cả hai chỉ là một. Tiếp nhận Chúa là đón nghe và làm theo Lời Chúa. Sống Lời Chúa cũng chính là việc ăn Mình, uống Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, là cụ thể hóa Lời Chúa bằng bí tích Mình Máu Chúa, là hòa nhập sự sống ta với sự sống Chúa. Cũng như Thánh Lễ không phải là hai phần tách biệt mà chỉ là một: đó là mầu nhiệm Chúa Kitô dạy dỗ ta bằng Lời Chúa và Lời Chúa đi vào cuộc sống ta bằng chính Máu Thịt Chúa. Chúa trở nên huyết nhục chúng ta, để biến đổi sự sống ta thành sự sống Chúa, và rồi từ đó, Lời Chúa sẽ thành lời nói và hành động của ta. Ta sẽ là hiện thân Chúa Giêsu giữa trần gian.

Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết ba tác dụng của bí tích Thánh Thể: Trước hết là sự sống lại và cuộc sống vĩnh viễn: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, còn Ta, Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày tận thế” (Ga 6,54). Trong bữa tiệc ly, Chúa đã nối kết tiệc Thánh Thể với tiệc Nước Trời: “Thầy sẽ không uống rượu nho này nữa cho tới lúc Thầy lại uống với các con trong Nước của Cha Thầy”.

Thứ đến là tình liên đới giữa Đức Kitô và các tín hữu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người đó”. Ở trong Chúa là hưởng hạnh phúc với Chúa. Hạnh phúc lớn nhất là ở bên người mình yêu và được người đó yêu mình. Từ Cựu Ước đã có những lời diễn tả thực tại này: “Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta là Thiên Chúa các ngươi” (Xh 6,7); “Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người” (Diễm ca 6,3); “Các con hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56; 15,4).

Sau cùng là sự tận hiến cho Cha: “Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Cha, cũng vậy, ai ăn Thầy sẽ sống nhờ Thầy”. Chúa Giêsu đã sống kết hiệp với Cha, Chúa cũng đòi ta hiệp nhất với Ngài như thế.

Lạy Chúa, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa. Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.

Noel Quesson

Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu

Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu giáo lý về Một Chúa Ba Ngôi trong sách bổn đồng ấu ngày xưa. Hỏi Đức Chúa Trời có mấy ngôi? Thưa Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.

Một câu giáo lý quen thuộc mà hết thế hệ này đến thế hệ khác đều học thuộc lòng một cách đầy đủ và chính xác từng lời và từng dấu chấm, dấu phẩy. Điểm đặc biệt là không ai thắc mắc tại sao Một Chúa mà lại Ba Ngôi? Có lẽ chúng ta không thắc mắc, không phải vì chúng ta đã hiểu mà vì cha mẹ chúng ta tin, và vì Hội thánh dạy chúng ta như thế. Thực vậy đức tin của chúng ta được trao ban từ Hội thánh và qua cha mẹ cùng người đỡ đầu tiếp tục bảo vệ, vun trồng đức tin của chúng ta.

Rồi dần dà theo thời gian, đức tin của chúng ta thêm kiên vững và được củng cố nhờ những ngày tháng học giáo lý và học hỏi lời Chúa. Chúng ta tin Một Chúa Ba Ngôi không do trí óc tưởng tượng của con người mà dựa trên thế giá lời chứng của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết. Chính Chúa Giêsu là lời mạc khải tròn đầy về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ngài cho chúng ta biết, Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha, và khi hoàn tất công trình Chúa Cha trao phó, Ngài đã về trời và ban Thánh Thần đến thánh hóa thế gian trong ân sủng và tình yêu của Chúa.

Có một bà cụ đi xe lửa lần đầu tiên nên rất bỡ ngỡ sợ lầm tàu và lạc đường. Bà quay sang hỏi một hành khách ngồi bên cạnh:

– Thưa ông, tàu này có phải là tàu đi Roma không?

Ông ấy trả lời ngay:

– Vâng, đây là tàu đi Roma. Bà đừng lo, vì Roma là nhà của tôi, tôi phải về đó.

Nhưng bà ấy vẫn chưa thỏa lòng, cứ miên man nghĩ ngợi: Nhỡ ông kia cũng lầm tàu thì sao? Làm sao mà mình biết được? Vừa lúc ấy người tài công bước vào, bà hỏi:

– Bác tài công ơi, tàu này là tàu đi Roma phải không?

Người tài công trả lời:

– Vâng, đây chính là tàu đi Roma. Tàu sẽ chạy trong vài phút nữa. Bà cứ việc ngồi thoải mái đừng lo lắng gì cả, sẽ tới Roma an toàn.

Tới lúc ấy bà mới yên tâm, vì bà đã hỏi người có thẩm quyền trên tàu. Bà ấy đã nhận được câu trả lời từ một người có thẩm quyền nên không còn lo sợ nữa.

Mỗi người chúng ta cũng đang đi trên hành trình đời sống, một hành trình vào cõi vĩnh hằng. Có rất nhiều tôn giáo. Có rất nhiều con đường của người này kẻ kia chỉ chúng ta con đường về trời. Nhưng chỉ có một người đáng chúng ta tin cậy, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngài có đủ thẩm quyền để chúng ta tin lời Ngài là chân lý, là sự thật. Đó chính là Chúa Giêsu.

Thực vậy, chúng ta tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và các mầu nhiệm khác trong đạo đều dựa vào lời chứng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên lời chứng của Ngài đáng để chúng ta tin. Chính Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa và phép lạ lớn nhất đó là tự mình sống lại sau ba ngày chôn cất nơi huyệt mộ. Chính Ngài không chỉ nói về Chúa Cha mà cả cuộc sống của Ngài là để tôn vinh Chúa Cha và Ngài hằng sống đẹp lòng Chúa Cha.

Bên cạnh đó, với phương pháp loại suy chúng ta cũng có thể hiểu phần nào về mầu nhiệm Một Chúa ba Ngôi. Tựa như bóng đèn điện: có dòng điện, có ánh sáng và có hơi nóng. Hoặc như cùng một dòng nước chảy nhưng có thể hiện hữu dưới ba hình thái: thể hơi, thế rắn và thể lỏng, nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng mưa.

Nhìn vào Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã tỏ bày tình yêu của mình qua ba cách khác nhau: Chúa Cha đã tỏ mình ra qua việc tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cho dù con người có bất trung phản loạn Chúa vẫn yêu thương, yêu thương đến nỗi ban chính Con Một của mình là Đức Giêsu Kytô làm Đấng cứu chuộc trần gian. Cứu là giải thoát. Chuộc là cái gì của mình đã mất nay phải chuộc lại. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết, và chuộc lại chúng ta trở về làm cho cái Thiên Chúa bằng giá máu trên đồi Golgotha. Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa đã thánh hóa chúng ta thành con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng đời sống sám hối và canh tân cho xứng đáng là con cái Chúa và xứng đáng là Đền Thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Amen.

Ở lại trong tình thương

Ở lại trong tình thương

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con". Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.

Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.

Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.

Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.

Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.

Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.

Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.

Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.

Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.

Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.

Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.

Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.

Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.

Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.

Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.

Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.

Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.

Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.

Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc… của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?

Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó không? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta."

Ngã rẽ cuộc đời

Ngã rẽ cuộc đời

Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.

Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.

Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.

Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.

Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).

Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ

1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?

2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?

3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?

4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?

5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Haiti năm năm sau trận động đất

Haiti năm năm sau trận động đất

Phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava
(RG 12-1-2015)

**Cách đây năm năm chiều ngày 12 tháng giêng năm 2010 một trận động đất lớn mạnh tới 7 độ Richter đã xảy ra tại Haiti khiến cho 230 ngàn người chết và 3 triệu người bị tổn thương. Phần lớn các cơ cấu hạ tầng cơ sở bao gồm tất cả các nhà thương và hàng chục ngàn gia cư bị phá hủy. Trong các dinh thự bị sập có cả dinh tổng thống và nhà thờ chính tòa thủ đô Port-au-Prince. Sau trận động đất lại xảy ra một trận dịch tả khiến cho hàng ngàn người khác chết. Kể từ đó đến nay nhân dân Haiti chưa phục hồi được cuộc sống của mình.

Ngày mùng 10 tháng giêng vừa qua một hội nghị đã được tổ chức tại dinh thự thánh Piô X tại Vaticăng. Hội nghị do Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm và Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu cùng tổ chức với sự cộng tác của HĐGM Haiti. Hội nghị có chủ đề là “Tình hiệp thông của Giáo Hội: tưởng niệm và hy vọng cho Haiti năm năm sau trận động đất”. Tham dự hội nghị có các vị đại diện của Tòa Thánh, của Giáo Hội tại Haiti và một của một số HĐGM khác, cũng như của các tổ chức từ thiện công giáo, dòng tu và một số đại diện ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Sau lời chào của ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục kiêm Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu Latinh, ĐHY Robert Sarah, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum, đã trình bầy công cuộc trợ giúp tái thiết Haiti. Nhiều diễn giả khác đã lên tiếng. Lúc 11 giở các tham dự viên đã được ĐTC tiếp kiến. Vào ban chiều đã có phần trình bầy các chứng từ của những người đang hoạt động giúp tái thiết Haiti.

Cộng hòa Haiti nằm trong vùng biển Caraibi, rộng 27.750 cây số vuông có hơn 10,5 triệu dân. Đảo này
Đã được ông Cristoforo Colombo khám phá ra năm 1492. Khi đổ bộ lên bờ biển phiá tây Haiti, ông Colombo tưởng là mình đã tìm thấy Ấn Độ hay Á châu. Xưa kia Haiti có thổ dân Taino sinh sống. Nhưng sau đó Haiti trở thành thuộc địa của các nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Năm 1804 Haiti được độc lập và là quốc gia châu Mỹ Latinh đầu tiên được độc lập. Haiti cũng là quốc gia Mỹ Latinh đầu tiên đánh bại ba lực lượng thực dân âu châu là Anh Pháp, và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Haiti là nước Mỹ Latinh nghèo nhất và có một lịch sử đầy biến động vói các cuộc đảo chánh liên miên tạo ra cảnh bất ổn chính trị, ngăn cản sự phát triển kinh tế và an sinh.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị bài phỏng vấn bà Mariavittoria Rava, Chủ tịch tổ chức Rava,
là tổ chức đã tài trợ việc xây cất nhà thương nhi đồng Saint Damien. Nhà thương này đã trở thành điểm tham chiếu cho toàn Haiti.

Hỏi: Thưa bà Rava, tình hình của các trẻ em tại Haiti hiện nay ra sao?

Đáp: Hiện nay các trẻ em chết vì đói khát, và đây là một điều gây vấp phạm, một gương mù gương xấu. Vùng đất này đã là hòn ngọc của quần đảo Caraibi. Thật lả một điều gây vấp phạm, khi bây giờ nó đã trở thành một quốc gia không có một cơ cấu nào. Một cách đặc biệt trong dịp Giáng Sinh 2014 – như đã xảy ra cách đây vài năm – tôi được đặc ân và cơ may mừng lễ tại đây cùng với gia đình tôi và các anh chị em ân nhân và thiện nguyện viên khác. Chúng tôi có một trại cho các thiện nguyện viên là nơi hiện có 15 người đến từ Italia, sống trong hai tuần và tận hiến kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh cho công tác trợ giúp các trẻ em. Đây là một trong những kỳ nghỉ đẹp nhất, tuyệt đẹp. trong nghĩa năng lực của sự thiện thấm nhập vào trong các mạch máu của bạn, và trao ban cho bạn một nghị lực cho suốt một năm.

Hỏi: Tổ chức Rava hiện đang làm gì tại Haiti thưa bà?

Đáp: Trong các ngày này chúng tôi đã sống với các trẻ em trong viện mồ côi Foyer, gần nhà thương nhi đồng thánh Damien. Chúng tôi đã tổ chức một chương trình thi tài năng trẻ cho các em, theo kiểu của chương trình X Factor, chúng tôi đã tổ chức một chương trình văn nghệ và đã bỏ phiếu chọn các tiết mục hay nhất… Và chúng ta hãy nghĩ là các trẻ em này là những người đã mất gia đình sau trận động đất. Chúng tôi đã làm việc trong nhà thương thánh Damien, trong khu vực dành cho các trẻ em tàn tật nặng nhất, phải lưu lại nhà thương trong thời gian rất lâu vì các em cần rất nhiều săn sóc. Chúng tôi cũng đã làm việc trong khu vực dành cho các trẻ em thiếu dĩnh dưỡng. Thế rồi còn có vài người, trong đó có con trai tôi làm việc với cha Rick tại Francsiville trong trại nuôi cá mới, và chúng tôi đã đem quà Giáng Sinh cho các trẻ em sống tại các bãi đổ rác. Chắc chắn là trong đời các em đã chưa bao giờ nhận được qùa Giáng Sinh. Chúng tôi đã thành lập một trại nuôi gà và chúng tôi cũng đi đưa đám các trẻ em bị chết, vì mỗi ngày đều có trẻ em qua đời, vì bệnh tật và vì kiệt sức. Tại Haiti này người ta làm mọi sự. Tôi coi sự kiện được tới Haiti và trợ giúp người dân tại đây là một ơn.

Hỏi: Thưa bà, có nhiều trẻ em mồ côi vì trận động đất, có đúng thế không?

Đáp: Có nhiều trẻ em mồ côi lắm. Điều khiến cho tôi xúc động nhất đó là chẳng hạn như nhà thương thánh Damien trong lúc này gặp rất nhiều khó khăn, vì số bệnh nhân đã tăng lên gấp bốn lần các trợ giúp, và chúng tôi đã lên tới con số 99.000 trẻ em mỗi năm, bởi vì không có các nhà thương nhi đồng miễn phí khác trên toàn đảo có thể trợ giúp các em. Chúng tôi đã tới trại tiếp cư gần Tabarre – nơi có nhà thương của chúng tôi – là trại vẫn còn có hàng chục ngàn người phải sống tại đây. Và chúng tôi vẫn tiếp tục trợ giúp. Nhưng trông thấy trại khi nó mới được thành lập thì khác. Ngày nay năm năm sau khi xảy ra trận động đất, nhìn lại trại đã khiến cho chúng tôi rúng động, bởi vì trại tiếp cư đã được bình định. Có nhiều người đã ổn định việc sống luôn trong trại này, trong khi các lều bạt đã mòn cũ, và không có các điều kiện vệ sinh. Trông thấy người dân phải sống trong cảnh khổ sở như thế khiên cho tôi buồn lắm, bởi vì họ là những người đã hy vọng rất nhiều vào sự trợ giúp tái thiết cuộc sống, mà vẫn chưa có thể rời trại tạm cư.

Hỏi: Năm năm sau khi trận động đất thê thảm xảy ra, có còn sự hiện diện tích cực trong vùng không, và tình hình trợ giúp nhân đạo ra sao thưa bà Riva?

Đáp: Trên quan điểm của chúng tôi như là tổ chức Francesca Riva, tôi có thể nói rằng các trợ giúp đã được gia tăng nhiều, cũng giống như việc nhân bánh và cá lên nhiều. Tôi cũng không biết chúng xảy ra như thế nào. Chúng tôi đã làm rất nhiều việc, nhưng chúng tôi là một tổ chức bác ái bé nhỏ. Chúng tôi đã không bao giờ rời bỏ đảo này. Đã có rất nhiều tổ chức nhân đạo rời Haiti ngay lập tức sau thời gian cứu trợ khẩn cấp. Đó là một cấp thiết thời đó – cần phải nói như vây – nhưng tôi kêu gọi tiếp tục trợ giúp nhân dân Haiti. Có nhiều trẻ em tiếp tục tìm đến nhà mồ côi của chúng tôi cũng như các viện mồ côi khác. Tại Saint Damien có các danh sách dài các em chờ đợi để được nhận. Có khu vực dành cho những người bị bệnh dịch tả cần được chuyền nước biển, khu vực này đầy bệnh nhân, bởi vì tại Haiti có rất nhiều trẻ em bị mất nước cần được chữa trị. Chúng tôi đang tái thiết nhà cửa cho những người đã mất gia cư. Thật là rất đẹp, khi trong thấy các việc đã làm được. Nhưng còn rất nhiều việc phải làm. Với niềm vui khi xăn tay áo lên bắt tay vào việc thì có thể trông thấy sự khác biệt: chúng tôi ở đây là vì việc này. Tuy nhiên, nó cũng là một lời mời gọi tất cả mọi người đến xem và ra tay dấn thân góp phần tái thiết cuộc sống cho người dân Haiti đau khổ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Hãy dùng thời gian để yêu thương

Hãy dùng thời gian để yêu thương

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)

Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì ngàn năm đối với Chúa như một ngày.

Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.

Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.

Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.

Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi, nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Ngài. Ngài là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người đạt tới sự sống viên mãn.

Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.

Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.

Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.

Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.

Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39 – 40).

Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1 – 3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33 – 37; Lc 17, 22 – 37; 21, 35)

Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo… đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng… Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gio-an còn định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.

Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.

Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban. Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".

Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.

Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:

Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh

Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan

Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác

Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn

Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai

Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa

Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa

Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.

Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu.

Bài học tha thứ

Bài học tha thứ

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn "dĩ hòa vi quý", không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.

Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.

Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.

Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ "quá tam ba bận" mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.

Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.

Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.

Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì "oán báo oán, oán lại chập chùng". Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là "hãy yêu thương nhau". Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa".

Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.

Suy tôn Thánh Giá

Suy tôn Thánh Giá

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại tiểu bang Carolina vào Tuần Thánh.

Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?

Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.

Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.

Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?

Lạy Chúa,

Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.

Veritas Radio