Thánh ca Tiếng Việt cất lên giữa Tokyo

Vatican News Tiếng Việt: Nhật Bản vẫn được cho là một nước “đóng cửa” với dòng người di cư đang diễn ra trên thế giới. Sự “đóng cửa” này xuất phát từ nguyên nhân nào thưa cha?

Có nhiều nguyên nhân để nói về sự “đóng cửa” của nước Nhật đối với thế giới bên ngoài.

Trước hết đó là lý do địa lý. Nước Nhật bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, bị bao phủ xung quanh bởi biển. Vậy nên, nước Nhật vốn tự bản chất ít có tương tác với thế giới bên ngoài.

Kế đến là lý do chính trị. Do nhiều mâu thuẫn, hoài nghi nên nước Nhật đã duy trì chính sách “bế quan toả cảng” một thời gian dài cho đến thời Minh Trị. Có thể nói đây là 2 nguyên nhân dẫn đến việc nước Nhật dường như đi bên lề những chuyển biến của thế giới, đặc biệt vấn đề đón nhận người di cư.

Tuy nhiên thời gian gần đây có rất nhiều tổ chức xã hội ở Nhật đang kêu gọi chính phủ mở rộng cửa hơn để tiếp nhận những người di cư do chiến tranh, xung đột hay mâu thuẫn chính trị.

Vatican News: Theo nhiều bài viết thì có một cộng đồng Việt Nam khá đông đang sinh sống tại Nhật Bản. Vậy, sự hội nhập của tín hữu Công giáo Việt Nam vào Giáo hội địa phương như thế nào?

Theo thông kê gần đây nhất, người Việt ở Nhật đã lên tới con số 370.000, chỉ đứng sau Trung Quốc và Hàn Quốc. Người Việt ở Nhật bao gồm nhiều thành phần người di dân của những năm 80, gần đây là du học sinh, tu nghiệp sinh, kỹ sư.

Nhìn chung tiếng Nhật là rào cản lớn nhất trong việc hội nhập vào xã hội Nhật. Tiếng Nhật là một trong nhưng thứ tiếng khó học nhất trên thế giới.

Phong tục tập quán của Nhật cũng khá khác biệt so với những nước châu Á xung quanh nên việc hội nhập tương đối khó. Người Nhật yêu chuộng sự ngăn nắp, rõ ràng trong công việc và các tương quan.

Tuy nhiên, nói như thế không phải là không thể hội nhập vào xã hội Nhật. Những người đến Nhật từ những năm 80 đã hội nhập vào văn hoá Nhật rất tốt. Nhìn chung, người Nhật có thiện cảm nhiều đối với Việt Nam.

Những năm gần đây do số lượng người Việt đến Nhật quá đông và các công ty, trường học đưa người sang Nhật nhưng chưa trang bị cẩn thận kiến thức cơ bản dẫn đến những khó khăn trong việc hội nhập văn hoá và đời sống ở Nhật. Điều đặc biệt là người Nhật rất không thích sự ồn ào. Người Việt Nam thì khá thoải mái về vấn đề này nên đôi khi làm họ mất thiện cảm phần nào.

Gần đây, người Việt Nam đến Nhật với tư cách là sinh viên, thực tập sinh, kỹ sư… Điều này mang lại bộ mặt mới cho xã hội Nhật nhưng cũng là một thách đố. Làm sao để giúp các bạn trẻ này thật sự tìm được tương lai của mình ở Nhật là câu hỏi lớn dành cho xã hội cũng như Giáo hội Nhật. Nhiều nhóm xã hội, thiện nguyện của nhà nước, chùa và nhà thờ cũng hình thành để giúp các bạn trẻ Việt Nam ở Nhật hội nhập tốt hơn và thành công hơn.

Giáo Hội Nhật cũng dần mở ra hơn với di dân, đặc biệt người Việt Nam. Các thánh lễ Chúa Nhật nhiều nơi được cử hành với nhiều ngôn ngữ. Tiếng Việt cũng được đưa vào phụng vụ như bài đọc tiếng Việt trong thánh lễ, các lời cầu nguyện…

Vatican News: Trong chuyến viếng thăm tại Nhật, Đức Thánh Cha đề cập đến vấn đề “đón nhận người nhập cư” ra sao? Những lời chia sẻ của ĐTC có tác động như thế nào?

ĐTC luôn chủ trương đón nhận người di cư. Tuy nhiên, về phía xã hội Nhật mặc dù có những tiến bộ nhưng vẫn còn dè dặt. Đức Thánh Cha cũng đã đề cập đến vấn đề mở cửa đón nhận mọi người đặc biệt người nghèo, người di dân… Hy vọng thông điệp của Ngài sẽ giúp nước Nhật thay đổi nhiều hơn về mảng này.

Thánh ca Tiếng Việt được cất lên

Vatican News: Trong Thánh lễ do ĐTC chủ tế, cộng đoàn Công giáo Việt cũng đóng góp bài hát “Tán tụng Hồng ân”. Cha có thể chia sẻ sự tham gia của cộng đoàn người Việt trong chuyến viếng thăm lần này?

Ban tổ chức đề nghị tôi tìm 5 bạn trẻ Việt Nam để đại diện đi đón ĐTC tại toà Khâm sứ ngày 23/11, một người đọc lời nguyện và họ muốn mình hát một bài lúc hiệp lễ. Đề nghị này đến cũng khá bất ngờ.

Có một số lớn những người Việt đang sinh sống ở Nhật tham dự thánh lễ của ĐGH tại Nagasaki và Tokyo. Cũng có các phái đoàn từ Việt Nam sang với số lượng khiêm tốn hơn ở Thái Lan. Tuy nhiên, tất cả những ai hiện diện trong thánh lễ ở Tokyo Dome vừa qua đều xúc động khi nghe tiếng Việt vang lên trong thánh lễ. Đó là sự ưu ái của giáo hội Nhật dành cho người Việt.

Trong quá khứ, cộng đoàn Việt Nam ở Nhật chịu nhiều thiệt thòi hơn các cộng đoàn khác như Philippines, Tây Ba Nha, Brazil… Hiện nay Dòng Tên Nhật Bản có trung tâm dành cho người nói tiếng Tây Ban Nha, người Philippines, người Đức, người Trung Quốc nhưng chưa có trung tâm dành cho người Việt.

Tuy nhiên, những năm gần đây với sự tăng trưởng số người Việt đến Nhật Bản, Giáo hội Nhật bắt đầu quan tâm hơn đến chúng ta. Dòng Tên Nhật Bản cũng bắt đầu nghĩ đến chuyện đẩy mạnh hơn hoạt động dành cho di dân, đặc biệt cho người Việt Nam.

Chúng ta cám ơn Giáo hội Nhật vì những nỗ lực của họ trong việc cố gắng đồng hành về thiêng liêng với giáo dân Việt Nam tại Nhật. Đồng thời tôi thiết nghĩ người Công giáo Việt Nam tại Nhật đang được mời gọi để làm chứng cho Chúa ngang qua đời sống của mình trong môi trường vốn đang bị thế tục hoá của Nhật.

Chúng con xin chân thành cảm ơn cha!

Vatican News

ĐTC Phanxicô: Đừng tục hóa lễ Giáng sinh; sống những bất ngờ từ Thiên Chúa

ĐTC Phanxicô: Đừng tục hóa lễ Giáng sinh; sống những bất ngờ từ Thiên Chúa

Chỉ còn 6 ngày nữa là đến lễ Giáng sinh. Vì thế, trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 19/12, ĐTC Phanxicô đã trình bày về những điều ngạc nhiên trong lễ Giáng sinh đầu tiên và mời gọi các tín hữu đừng hiểu sai về cách mừng lễ Giáng sinh, đừng tục hóa lễ Giáng sinh nhưng hãy tự hỏi xem Chúa Giêsu thích chúng ta mừng lễ Giáng sinh như thế nào.

ĐTC bắt đầu bài giáo lý với nhận xét rằng: Các cây thông, những đồ trang trí, đèn điện ở khắp mọi nơi nhắc rằng Giáng sinh năm nay cũng là một ngày lễ hội. Chiếc máy quảng cáo mời người ta trao đổi những món quà mới lạ để tạo cho nhau sự ngạc nhiên. Nhưng đây có phải là ngày lễ mà Thiên Chúa yêu thích không? Đâu là lễ Giáng Sinh mà Chúa mong muốn? Những món quà nào, những ngạc nhiên nào mà Thiên Chúa đang chờ đợi?

Giáng sinh đầu tiên trong lịch sử đầy những điều ngạc nhiên

 

Chúng ta hãy quan sát ngày Giáng sinh đầu tiên trong lịch sử để khám phá điều Chúa yêu thích. Lễ Giáng sinh đầu tiên trong lịch sử đầy những điều ngạc nhiên. Bắt đầu từ Mẹ Maria, vị hôn thê của thánh Giuse: thiên thần hiện ra với Mẹ và thay đổi cuộc đời của Mẹ. Từ một trinh nữ Mẹ sẽ trở thành bà mẹ.

Rồi đến lượt thánh Giuse, được gọi làm cha của đứa con mà ngài không sinh ra. Cao trào của câu chuyện là khi đứa con xuất hiện vào thời điểm không được chờ đợi nhất, là khi Mẹ Maria và thánh Giuse đã hứa hôn và theo Luật Do thái họ chưa thể chung sống. Trước xì căng đan đó, nếu theo cách xử thế khôn ngoan của thời đó, thánh Giuse nên ruồng bỏ Mẹ Maria để cứu lấy danh dự tốt đẹp của ngài; nhưng dù có quyền đó, thánh nhân làm mọi người ngạc nhiên: để không làm tổn hại đến Mẹ Maria, thánh nhân nghĩ đến việc rời bỏ Mẹ cách kín đáo, dù có khi phải trả giá cho việc làm này là chính thanh danh của ngài.

Rồi lại một điều ngạc nhiên khác nữa: Trong giấc mơ, Thiên Chúa đã thay đổi kế hoạch của thánh Giuse và yêu cầu thánh nhân đón nhận Mẹ Maria về với mình. Khi Chúa Giêsu đã chào đời, khi mà thánh Giuse đã có những kế hoạch cho gia đình thì trong giấc mơ, ngài được Chúa bảo hãy trỗi dậy và đi sang Ai cập. Tóm lại, Giáng sinh đem đến những thay đổi bất ngờ cho cuộc sống. Và nếu chúng ta muốn sống lễ Giáng sinh, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn mình sẵn sàng trước những ngạc nhiên, nghĩa là sẵn sàng cho một sự thay đổi đời sống cách bất ngờ.

Chúa Giêsu sinh tại Belem là ngạc nhiên lớn nhất

Nhưng chính trong đêm Giáng sinh, bất ngờ lớn nhất xảy đến. Đấng Tối Cao là một hài nhi bé nhỏ. Ngôi Lời trở thành một trẻ sơ sinh, theo nghĩa đen là “không nói được. Không có các vị lãnh đạo chính quyền thời đó  hay các vị đại sứ, đón tiếp Đấng Cứu Thế mà chỉ có các mục đồng đơn sơ, những người đang làm việc trong đêm tối và bị bất ngờ bởi lời loan báo của các thiên thần, nhưng không chậm trễ chờ đợi, họ đã chạy đi gặp Người. Ai mà chờ đợi điều đó xảy ra? Giáng sinh là việc cử hành điều chưa bao giờ xảy ra của Thiên Chúa, hay nói cách hay hơn, là cử hành một Thiên Chúa chưa từng được biết như thế, là điều đảo lộn các lý luận và chờ đợi của chúng ta.

Giáng sinh khai mở một kỷ nguyên mới

Do đó, cử hành lễ Giáng sinh là đón nhận những điều ngạc nhiên từ Trời cao đến trên trái đất này. Chúng ta không thể sống “những điều của thế giới này trên trái đất này”, khi mà Trời cao đã mang đến thế gian những điều mới mẻ. Giáng sinh khai mở một kỷ nguyên mới, nơi mà cuộc sống không theo những lập trình cứng ngắc nhưng là trao tặng; nơi người ta không sống vì mình, theo những sở thích riêng của mình, nhưng sống cho Chúa; và với Thiên Chúa, bởi vì Giáng sinh của Thiên Chúa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Đấng sống cùng chúng ta, bước đi cùng chúng ta.

Để mình được những điều ngạc nhiên đánh động

Sống biến cố Giáng sinh là để cho mình được những điều mới mẻ ngạc nhiên đánh động. Giáng sinh của Chúa Giêsu không mang lại hơi ấm bảo vệ của lò sưởi nhưng là một sự rùng mình thiêng liêng làm rung chuyển lịch sử. Giáng sinh là chiến thắng của sự khiêm nhường trước sự kiêu ngạo, của sự đơn giản trước sự giàu sang, của thinh lặng trước ồn ào, của cầu nguyện về "thời gian của tôi", của Thiên Chúa trên “cái tôi” của tôi.

Cử hành Giáng sinh như Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh Giuse, các mục đồng

Như thế, chúng ta phải cử hành lễ Giáng sinh thế nào cho thích hợp? ĐTC giải thích: Cử hành lễ Giáng sinh là cử hành với Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta và Người xuống thế với những ai cần đến chúng ta. Đó là cử hành như Mẹ Maria: tín thác, vâng phục Thiên Chúa, ngay cả khi không hiểu điều mà Thiên Chúa sẽ làm. Đó là cử hành như thánh Giuse: đứng dậy thi hành điều Thiên Chúa muốn, ngay cả khi nó không theo các kế hoạch của chúng ta. Thánh Giuse ngạc nhiên: trong Tin mừng thánh Giuse không bao giờ nói điều gì, không có lời nào của thánh Giuse được thuật lại trong Tin mừng; và Thiên Chúa nói với ngài trong sự thinh lặng, ngay trong giấc mơ. Giáng sinh là chọn lựa tiếng nói âm thầm của Thiên Chúa hơn là sự ồn ào huyên náo của chủ nghĩa tiêu thụ. Nếu chúng ta biết ở bên hang đá trong thinh lặng, Giáng sinh cũng sẽ là một sự ngạc nhiên đối với chúng ta, chứ không phải là một điều đã nhìn thấy, đã xưa rồi. Thinh lặng trước hang đá: đây là lời mời gọi cho lễ Giáng sinh. Bạn hãy dành chút thời gian, đến trước hang đá và thinh lặng. Bạn sẽ cảm thấy, sẽ nhìn thấy điều ngạc nhiên.

Đừng tục hóa lễ Giáng sinh

ĐTC nhận xét rằng: Tuy nhiên, thật không may, người ta có thể nhầm lẫn về ngày lễ và yêu thích những điều bình thường của thế gian hơn là những điều mới mẻ từ Trời. Nếu Giáng sinh vẫn chỉ là một ngày lễ truyền thống đẹp đẽ, nơi mà chúng ta là trung tâm chứ không phải là Thiên Chúa, thì nó sẽ chỉ là một cơ hội bị đánh mất. Xin anh chị em đừng tục hóa lễ Giáng sinh! Chúng ta đừng bỏ qua việc mừng lễ, như ngày xưa đó, khi “Người đến giữa dân Người và họ đã không đón tiếp Người” (Ga 1,11). Ngay từ đầu Tin mừng của mùa Vọng, Chúa đã cảnh giác chúng ta, khi yêu cầu chúng ta đừng để cho mình trở nên nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng sự đời (LC 21,24). Trong những ngày này, người ta vội vàng như thể chưa bao giờ trong suốt năm. Nhưng mà như thế là người ta làm trái ngược lại điều Chúa Giếu mong muốn. Chúng ta đổ lỗi cho nhiều thứ phải làm trong ngày, cho thế gian này qua mau quá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không đổ lỗi cho thế gian, Người yêu cầu chúng ta đừng để mình bị lôi kéo, nhưng tỉnh thức cầu nguyện trong mọi lúc.

Sẽ là lễ Giáng sinh, nếu…

ĐTC nhắc nhở các tín hữu: Sẽ là lễ Giáng sinh nếu, như thánh Giuse, chúng ta dành chỗ cho thinh lặng; nếu, như Mẹ Maria, chúng ta thưa với Chúa “này con đây”; nếu, như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ ở gần bên những người cô đơn; nếu, như các mục đồng, chúng ta sẽ đi ra khỏi những tường rào cản trở chúng ta để ở với Chúa Giêsu. Sẽ là lễ Giáng sinh nếu chúng ta tìm thấy ánh sáng nơi hang đá đơn hèn ở Bêlem. Nó sẽ không phải là lễ Giáng sinh nếu chúng ta tìm những ánh sáng lung linh của thế giới, nếu chúng ta chỉ chất đầy quà cáp, những bữa ăn tiệc tùng mà không giúp đỡ ít nhất là một người nghèo, giống như Thiên Chúa, bởi vì vào đêm Giáng sinh Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó.

Hãy để Chúa Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên

Cuối cùng, ĐTC chúc mừng Giáng sinh đến các tín hữu, ngài nói: “Anh chị em quý mến, tôi chúc mừng Giáng sinh đến anh chị em, một Giáng sinh đầy những bất ngờ của Chúa Giêsu! Có thể nó có vẻ là những bất ngờ không như ý nhưng là điều Thiên Chúa yêu thích. Nếu chúng ta đón nhận những bất ngờ đó thì chính chúng ta sẽ làm cho mình trở thành một bất ngờ tuyệt vời. Mỗi người trong chúng ta dấu ẩn trong lòng mình khả năng biết ngạc nhiên. Trong Giáng sinh này, chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu làm cho chúng ta ngạc nhiên.

Hồng Thủy

Các đan sĩ – những chứng nhân của Chúa Kitô cho thế giới hôm nay

Các đan sĩ – những chứng nhân của Chúa Kitô cho thế giới hôm nay

Thử thách giúp xác tín hơn khi nói về Tin mừng

Trước hết, Đức cha Carballo xác định rằng đời sống đan tu, cũng như mọi hình thức “đi theo Chúa Kitô”, đều đối diện với nhiều thử thách, nhưng các đan sĩ không xem các thử thách như những vấn đề mà ngược lại, là những cơ hội để đời sống của họ có ý nghĩa hơn khi nói về Tin mừng và nuôi dưỡng một đức tin sáng tạo…

Không trốn đời, nhưng bày tỏ gương mặt của Thiên Chúa

Tiếp đến, các đan sĩ không trốn tránh cuộc đời vì cho rằng nó hư hoại, tội lỗi, không thể sống được; nhưng họ chọn sống trong thế giới theo cách thế của Tin mừng để cho người ta nhìn thấy Thiên Chúa. Đắm mình trong sự sâu thẳm của sự hiện hữu con người, các đan sĩ hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa và làm chứng về một cuộc sống, không bị tê liệt bởi những an toàn được tinh thần hóa hoặc mê hoặc, nhưng năng động, hòa nhịp với tất cả các chiều kích của cuộc sống. Khi sống theo Tin mừng, các đan sĩ làm cho Thiên Chúa tình yêu trở nên cụ thể đối với  những người nam nữ trong thời đại chúng ta…”

Chứng tá về cuộc sống hiệp nhất, gặp gỡ, đối thoại

Đức cha Carballo nói rằng vì thời đại của chúng ta bị chi phối bởi sự đề cao tư duy cá nhân, năng lực cá nhân và nhu cầu tự làm, do đó nó cần sự đối thoại, lắng nghe, thinh lặng đích thực, giúp đưa đến sự suy tư, các suy tưởng và hình thành nền văn hóa gặp gỡ. Các đan sĩ được mời gọi hiệp nhất với nhau để làm chứng trong cuộc sống hàng ngày về các tâm tình của Chúa Kitô, để suy nghĩ theo Tin mừng và hành động như Chúa Giêsu. Các đan viện được mời gọi xét lại những điều này và các yếu tố khác để bảo đảm sự hiện diện gặp gỡ của mình bên cạnh những người nam nữ trong thời đại chúng ta.

Làm chứng về vẻ đẹp của thân xác

Trong thời đại này, khi con người thường bị chà đạp và thân xác bị biến thành thứ đồ vật bị thao túng và để sử dụng, thì những người thánh hiến, cũng như những đan sĩ chiêm niệm, được kêu gọi làm chứng tá rằng thân xác không phải là một nơi của tội lỗi. Họ được mời gọi nói về vẻ đẹp của sự hiện hữu được ban nhưng không qua kiệt tác thân thể.

Qua sự hiện hữu của mình, những người thánh hiến và đặc biệt là các đan sĩ trình bày rằng thân xác và những đặc tính của thân xác là đền thờ của Thiên Chúa. Họ dấn thân làm chứng rằng Kitô giáo không chống lại thân xác và các phẩm chất của nó, nhưng làm chứng rằng đó là nơi và không gian Thiên Chúa tỏ hiện chính mình, trong cuộc sống độc đáo của mỗi người. Họ được kêu gọi làm chứng về ​​vẻ đẹp của con người được nhìn thấy nơi thân xác của những người sống hội nhập, có khả năng liên hệ. Họ được mời gọi để bảo vệ con người trong tất cả các khía cạnh của nó.

Làm chứng về sự ổn định, sống chung và tôn trọng nhau

Trong một thế giới bị xé rách bởi các mảnh vỡ, chiều kích chiêm niệm cho thấy khả năng có thể tái dệt lại tấm vải nhân loại cách cá nhân và cộng đồng, nhiều lần bị xé toạc bởi vì sự trống rỗng. Trong xã hội không có quy tắc, nơi cái tôi trở thành thước đo của mọi thứ, cộng đoàn chiêm niệm được kêu gọi làm chứng về ​​vẻ đẹp của sự tự do được thể hiện qua sự tôn trọng đối với mọi người và với thụ tạo khi xây dựng các lợi ích chung…

Đối với việc sử dụng và phung phí thời gian, cộng đoàn chiêm niệm đề xuất sự ổn định của một cộng đồng sống chung với ý nghĩa của cuộc sống được lựa chọn và người ta gắn bó với nó với niềm đam mê, tôn trọng từng người và nhìn nhận những vai trò khác nhau. Cuộc gặp gỡ với Chúa qua lời cầu nguyện cho phép những người chiêm niệm lắng nghe những gì Thánh Linh nói trong đời sống cá nhân và cộng đồng, để có được một cái nhìn chiêm niệm về các sự kiện, về sự trung gian, về lịch sử của con người.

Các cách sống nghèo của các cộng đoàn đan tu

Thứ nhất, các cộng đoàn ít người, đang già đi hay đau yếu, thật sự cảm thấy mình nghèo khó, có thể trưởng thành trong chọn lựa kết hợp với các cộng đoàn khác để trở thành sự hiện diện có ý nghĩa trong Giáo hội, qua lối sống phù hợp với căn tính của người thánh hiến được thực hiện trong việc chuyên chăm cử hành phụng vụ và các mối liên hệ huynh đệ.

Tiếo đến, người nghèo đối với Thiên Chúa là người tín thác nơi Chúa và tự do khỏi tất cả những điều ngăn cản họ sống như Chúa Giêsu. Bằng cách tích lũy vật chất của cải, các cộng đoàn đang ngày càng rời xa nguồn gốc của sự sống, Chúa Kitô và Tin mừng, và mất đi ý thức rằng mình đang ở trong một đan viện. Chỉ sở hữu những gì là cần thiết, bằng cách chia sẻ điều này với người nghèo, đó là tin tưởng vào Thiên Chúa, làm chứng về sự chăm sóc của Đấng Quan phòng, Đấng không bao giờ bỏ rơi nhân loại: làm cho sự gần gũi của Thiên Chúa trong lịch sử con người trở nên hữu hình, Đấng trở nên nghèo nàn như người nghèo.

Từ bỏ và tự do về tinh thần

Các đan sĩ làm thế nào diễn tả sự nghèo khó Tin mừng? Những hình thức nghèo đói và bé nhỏ nào họ được mời gọi khám phá hoặc "phục hồi", để lời khấn khó nghèo thực sự là một chứng tá hữu hình và đáng tin cậy, có ý nghĩa? Đâu là nền tảng sự nghèo khó thực sự của họ? Các đan sĩ tin rằng “là người lữ hành”, được hiểu trên hết là sự từ bỏ và tự do tinh thần, là một đặc tính của ơn gọi chiêm niệm trong thời gian này, khi mà nhiều cộng đoàn phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.

Đời đan tu thể hiện mối quan hệ trung thành giữa Thiên Chúa và con người

Trong một thế giới đang mất đi chiều sâu của sự giao tiếp, các đan sĩ được kêu gọi, qua sự hiện diện của mình, làm cho mối quan hệ trung thành của Thiên Chúa với nhân loại trở nên hữu hình. Trong thời đại mà các tiếng nói chồng chéo lên nhau, các đan sĩ có sứ mệnh lớn lao là làm chứng nhân về chiều sâu của cuộc sống, mang lại tiếng nói cho thinh lặng, làm cho thấy chúng ta có thể sống trong sự thanh tĩnh; chính trong thời đại mà, để sống, chúng ta chìm đắm trong sự ồn ào, và để lấp đầy những khoảng trống của sự hiện hữu hoặc tình cảm, không được xác định, người ta điên cuồng chạy từ góc này đến góc kia của trái đất mà không cảm nhận được sự sâu sắc và ổn định của các mối quan hệ. Các đan viện được kêu gọi để trở thành nơi loan báo trước, nơi mà thụ tạo trở thành lời ca ngợi Chúa và phương châm bác ái cụ thể trở thành lý tưởng sống chung của con người và nơi con người tìm kiếm Thiên Chúa mà không bị rào cản hoặc ngăn cản, khi trở thành điểm quy chiếu cho mọi người, và khi mang họ vào trong tim mình và giúp họ tìm kiếm Thiên Chúa.

Hồng Thủy, Vatican

ĐTC Phanxicô: Tình yêu hôn nhân không chỉ kéo dài bao lâu đôi bạn còn xuôi thuận

ĐTC Phanxicô: Tình yêu hôn nhân không chỉ kéo dài bao lâu đôi bạn còn xuôi thuận

Sau khi đã dành 2 buổi yết kiến chung liên tiếp để khai triển giáo lý về giới răn thứ 5 – “chớ giết người” – trong mười điều răn, trong bài huấn dụ trước 25 ngàn tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 24.10 hôm qua, trong đó có khoảng 150 tín hữu VN đến từ Mỹ, ĐTC bắt đầu giải thích về giới răn thứ 6: chớ ngoại tình. ĐTC nhận xét rằng đây là giới răn liên quan đến cảm xúc và tính dục và ngài nhấn mạnh rằng giới răn này nhắc trực tiếp đến sự trung thành chung thủy và thực tế là không có mối tương quan đích thực nào của con người lại không có sự trung thành và tin tưởng. ĐTC giải thích điều này như sau:

Người ta không thể chỉ yêu thương bao lâu tình yêu còn “xuôi xắn dễ dàng”

Tình yêu được bày tỏ vượt trên lợi ích của cá nhân khi người ta trao tặng tất cả mà không giữ lại gì cho mình. Như Giáo lý Hội thánh khẳng định: “Tình yêu đòi hoỉ phải dứt khoát, không được tạm bợ.” (số 1646). Trung thành là đặc tính của một mối quan hệ tự do, trưởng thành và có trách nhiệm. Một người bạn cũng chứng tỏ mình chân thực bởi vì anh ta vẫn như vậy trong mọi hoàn cảnh, nếu không anh ta không phải là một người bạn.

Chúa Kitô là người bạn trung thành

Chúa Kitô bày tỏ tình yêu đích thực, Người sống trong tình yêu vô biên của Chúa Cha, và bởi điều này, Người là Người Bạn trung tín, là Đấng đón nhận chúng ta ngay cả khi chúng ta phạm sai lầm và luôn luôn muốn điều tốt lành cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta không xứng đáng.

Con người cần được yêu thương không điều kiện và ai không nhận sự tiếp đón này thì mang trong mình một sự bất toàn nào đó, mà thường họ không nhận biết. Trái tim con người tìm cách lấp đầy sự trống vắng này bằng những thứ thay thế, bằng cách chấp nhận sự thỏa hiệp và tầm thường, là những thứ xem tình yêu chỉ là hương vị hão huyền.

Ở đây có sự nguy hiểm là gọi tên là tình yêu những mối quan hệ chưa chín chắn và chưa trưởng thành, với ảo tưởng về việc tìm kiếm ánh sáng của cuộc sống trong một điều gì đó, mà trong trường hợp tốt nhất, nó cũng chỉ là sự phản chiếu.

Dáng vẻ bên ngoài không đủ cho một tình yêu đích thực

ĐTC nhận xét rằng khi không nhận định đúng về giá trị và đặc tính đích thực của tình yêu, thì người ta đánh giá quá cao sự hấp dẫn thể lý, điều mà tự nó là một món quà của Thiên Chúa nhưng có mục đích là chuẩn bị con đường đi đến một mối tương quan đích thực và trung thành với con người. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói, con người “được kêu gọi đến với sự chân thành hoàn toàn và trưởng thành trong các mối quan hệ", điều "là thành quả dần dần của sự phân định các xung động trong trái tim của một người". Nó là thứ người ta chinh phục, vì mỗi người "phải kiên trì và tập trung học hỏi ý nghĩa của cơ thể là gì". (x. Giáo lý, 12.11.1980).

Cần thời gian chuẩn bị cho hôn nhân

Do đó, lời mời gọi sống đời hôn nhân đòi hỏi một sự phân định chính xác về phẩm chất của mối tương quan và một thời gian đính hôn để kiểm chứng nó. Để đi đến bí tích hôn nhân, những người đính hôn phải hoàn toàn chắc chắn rằng trong mối liên kết của họ có bàn tay của Thiên Chúa, Đấng đi trước họ và đồng hành với họ, và sẽ cho phép họ nói: "Nhờ ơn Chúa Kitô, tôi hứa sẽ luôn trung thành với bạn". Họ không thể hứa hẹn lòng trung thành "trong khi vui cũng như lúc đau buồn, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau ốm", và yêu thương và kính trọng nhau mọi ngày trong cuộc sống của họ, chỉ dựa trên căn bản ý muốn tốt lành hay hy vọng rằng "sự việc sẽ diễn tiến tốt". Họ cần phải xây dựng trên nền tảng vững chắc của Tình Yêu trung thành của Thiên Chúa.

Cần chuẩn bị hôn nhân thật sự

ĐTC nhắc rằng hôn nhân cần phải được chuẩn bị thật sự chứ không chỉ là việc làm qua loa. Nó phải là một hành trình, như một người tân tòng chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tôi. ĐTC nói: Vì thế, trước khi cử hành bí tích hôn phối, chúng ta cần có sự chuẩn bị kỹ càng, tôi muốn nói đến một chương trình giáo lý, bởi vì người ta sống toàn bộ cuộc đời trong tình yêu, và với tình yêu người ta không thể đùa giỡn.

Không thể định nghĩa “chuẩn bị hôn nhân” là 3 hay 4 buổi gặp gỡ học giáo lý tại giáo xứ; không, nó không đúng là chuẩn bị, đây là chuẩn bị giả tạo. Và trách nhiệm của người để cho việc này xảy ra là cha sở, là giám mục, là người để cho việc này xảy ra. Việc chuẩn bị phải kỹ càng cẩn thận và đòi hỏi chúng ta thời gian. Nó không phải là một việc làm hình thức: nó là một bí tích. Nhưng chúng ta phải chuẩn bị bằng một giáo lý thật sự.

Trung thành có giá trị trong mọi chiều kích của cuộc sống

Trung thành thực chất là một cách hiện hữu, một cách sống. Người ta làm việc với lòng trung thành, người ta nói với sự chân thành, người ta vẫn trung thành với chân lý trong suy nghĩ và hành động của chính mình. Một cuộc sống được đan dệt bởi sự trung thành được thể hiện trong mọi chiều kích và giúp trở thành những người nam và nữ trung thành và đáng tin cậy trong mọi hoàn cảnh.

Sự trung thành của Thiên Chúa giúp chúng ta sống trung thành

ĐTC nhắc nhở rằng để đạt đến một cuộc sống tốt đẹp như thế thì bản tính con người của chúng ta thôi chưa đủ, mà cần có sự trung thành của Thiên Chúa đi vào trong sự hiện hữu của chúng ta. Giới răn thứ 6 nhắc chúng ta biết hướng ánh nhìn về Chúa Kitô, Đấng với sự trung thành của Người có thể lấy đi khỏi chúng ta trái tim ngoại tình và ban cho chúng ta con tim trung thành. Trong Người và chỉ trong Người, có tình yêu không giữ lại và xét lại, có sự trao tặng hoàn toàn mà không có lưu ý hay điều kiện và có sự kiên trì chấp nhận cho đến cùng.

Sự trung thành của chúng ta phát xuất từ sự chết và sống lại của Chúa, từ tình yêu không điều kiện của Người nảy sinh sự bền vững của các mối tương quan. Từ sự hiệp thông với Người, với Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần nảy sinh sự hiệp thông giữa chúng ta và biết cách sống trung thành các mối quan hệ của chúng ta.

Hồng Thủy

ĐTC Phanxicô: Kitô hữu tốt phải làm điều thiện

ĐTC Phanxicô: Kitô hữu tốt phải làm điều thiện

"Không làm điều thiện thì không là Kitô hữu tốt. Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì là xấu." ĐTC đã nói với đông đảo bạn trẻ trong buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa nhật
12.08 tại quảng trường thánh Phêrô.
Buổi đọc Kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 12 tháng 8 diễn ra trong bầu khí đặc biệt, với gần 100 ngàn bạn trẻ Italia vừa kết thúc cuộc hành hương “Qua vạn nẻo đường”, và các tín hữu hành hương. Dựa trên lời kêu gọi của thánh Phaolô: ”Anh chị em đừng làm phiền Thánh Linh của Thiên Chúa, vì chính Ngài là dấu ấn ghi trên Anh chị em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30), ĐTC Phanxicô giải thích thế nào là làm phiền lòng Thánh Linh của Thiên Chúa và ngài mời gọi các tín hữu không chỉ không làm điều xấu nhưng còn phải làm điều tốt.

Không làm phiền Thánh Linh: sống lời hứa của bí tích rửa tội chứ không sống giả hình

ĐTC đặt câu hỏi: Nhưng làm phiền Thánh Linh thế nào? Và Ngài giải thích: Tất cả chúng ta đã nhận lãnh Thánh Linh trong bí tích Rửa tội và Thêm sức, vì thế, để không làm phiền Thánh Linh, ta cần sống phù hợp với những lời đã hứa khi chịu phép rửa tội, và khi được canh tân trong bí tích Thêm Sức. Do đó, để không làm phiền Thánh Linh, cần sống phù hợp với các lời hứa của bí tích rửa tội, chứ không sống giả hình. Kitô hữu không thể sống giả hình: phải sống cách phù hợp. Những lời hứa của bí tích rửa tội có hai khía cạnh: từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện.

Từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện

Từ bỏ sự ác có nghĩa là không chiều theo những cám dỗ, tội lỗi, ma quỷ. Cụ thể hơn, nó có nghĩa là từ bỏ nền văn hóa chết chóc, được diễn tả qua sự trốn chạy thực tại tìm đến hạnh phúc giả dối được biểu lộ trong sự dối trá, lừa đảo, bất công, khinh rẻ người khác. Sự sống mới được ban cho chúng ta trong Bí tích rửa tội, và có Chúa Thánh Linh là nguồn mạch, loại bỏ lối sống theo những tâm tình chia rẽ và bất thuận. Vì thế, Thánh Phaolo Tông Đồ khuyên nên xua đuổi khỏi tâm hồn mình ”mọi cứng cỏi, phẫn nộ, giận dữ, la ó, và nói xấu cùng với mọi thứ gian ác” (v.31). 6 yếu tố hoặc tật xấu này làm xáo trộn niềm vui của Thánh Linh làm ô nhiễm tâm hồn và dẫn đưa tới lăng mạ chống Thiên Chúa và tha nhân.

"Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu"

Và ĐTC nói thêm: Không làm sự ác mà thôi thì chưa đủ để trở thành một Kitô hữu tốt; cần gắn bó với sự thiện và làm sự thiện. Và Thánh Phaolô tiếp tục: ”Trái lại anh chị em hãy tử tế với nhau, có lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh chị em trong Chúa Kitô” (v.32). Bao nhiêu lần chúng ta nghe một số người nói: ”Tôi không làm hại một ai”. Đồng ý, nhưng bạn có làm điều thiện không? Bao nhiêu người không làm điều ác, nhưng họ cũng chẳng làm điều thiện, và đời sống của họ diễn ra trong sự dửng dưng, trong lãnh đạm, nguội lạnh. Thái độ ấy trái ngược với Tin Mừng, và trái ngược cả với đặc tính của người trẻ, tự bản chất các bạn năng động, say mê và can đảm. Thánh Alberto Hurtado nói: "Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu."

Kitô hữu thật: chống lại sự dữ, thực hành điều thiện

 ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy trở thành những người giữ vai chính trong sự thiện! Ngài nói: Đừng cảm thấy mình đúng khi không làm điều làm sự ác; mỗi người có lỗi đối với sự thiện họ có thể làm nhưng đã không làm. Không oán ghét mà thôi, thì không đủ, còn cần tha thứ nữa; không oán hận mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn cần cầu nguyện cho kẻ thù nữa; không là nguyên nhân gây chia rẽ mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải mang hòa bình đến nơi nào không có, không nói xấu người khác mà thôi thì chưa đủ, còn cần chặn lại, khi nghe nói xấu người khác. Nếu chúng ta không chống lại sự ác, có nghĩa là chúng ta mặc nhiên nuôi dưỡng sự ác. Cần can thiệp tại nơi mà sự ác lan tràn; vì sự ác phổ biến tại những nơi nào thiếu các tín hữu Kitô can đảm chống lại sự thiện, và ”bước đi trong bác ái” (Xc 5,2), theo lời cảnh giác của Thánh Phaolô.

Cuối cùng ĐTC khuyến khích các bạn trẻ, những người đã bước đi rất nhiều trong những ngày này: hãy bước đi trong bác ái! ĐTC mời gọi họ cùng nhau tiến về Thượng HĐGM sắp tới tại Roma về đề tài ”Giới trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Ngài cầu xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ tất cả bằng lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ, để mỗi người, mỗi ngày, bằng việc làm, có thể khước từ sự ác và chấp nhận sự thiện.

Buổi đọc Kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 12 tháng 8 diễn ra trong bầu khí đặc biệt, với gần 100 ngàn bạn trẻ Italia vừa kết thúc cuộc hành hương “Qua vạn nẻo đường”, và các tín hữu hành hương. Dựa trên lời kêu gọi của thánh Phaolô: ”Anh chị em đừng làm phiền Thánh Linh của Thiên Chúa, vì chính Ngài là dấu ấn ghi trên Anh chị em, để chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30), ĐTC Phanxicô giải thích thế nào là làm phiền lòng Thánh Linh của Thiên Chúa và ngài mời gọi các tín hữu không chỉ không làm điều xấu nhưng còn phải làm điều tốt.

Không làm phiền Thánh Linh: sống lời hứa của bí tích rửa tội chứ không sống giả hình

ĐTC đặt câu hỏi: Nhưng làm phiền Thánh Linh thế nào? Và Ngài giải thích: Tất cả chúng ta đã nhận lãnh Thánh Linh trong bí tích Rửa tội và Thêm sức, vì thế, để không làm phiền Thánh Linh, ta cần sống phù hợp với những lời đã hứa khi chịu phép rửa tội, và khi được canh tân trong bí tích Thêm Sức. Do đó, để không làm phiền Thánh Linh, cần sống phù hợp với các lời hứa của bí tích rửa tội, chứ không sống giả hình. Kitô hữu không thể sống giả hình: phải sống cách phù hợp. Những lời hứa của bí tích rửa tội có hai khía cạnh: từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện.

Từ bỏ sự ác và gắn bó với điều thiện

Từ bỏ sự ác có nghĩa là không chiều theo những cám dỗ, tội lỗi, ma quỷ. Cụ thể hơn, nó có nghĩa là từ bỏ nền văn hóa chết chóc, được diễn tả qua sự trốn chạy thực tại tìm đến hạnh phúc giả dối được biểu lộ trong sự dối trá, lừa đảo, bất công, khinh rẻ người khác. Sự sống mới được ban cho chúng ta trong Bí tích rửa tội, và có Chúa Thánh Linh là nguồn mạch, loại bỏ lối sống theo những tâm tình chia rẽ và bất thuận. Vì thế, Thánh Phaolo Tông Đồ khuyên nên xua đuổi khỏi tâm hồn mình ”mọi cứng cỏi, phẫn nộ, giận dữ, la ó, và nói xấu cùng với mọi thứ gian ác” (v.31). 6 yếu tố hoặc tật xấu này làm xáo trộn niềm vui của Thánh Linh làm ô nhiễm tâm hồn và dẫn đưa tới lăng mạ chống Thiên Chúa và tha nhân.

"Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu"

Và ĐTC nói thêm: Không làm sự ác mà thôi thì chưa đủ để trở thành một Kitô hữu tốt; cần gắn bó với sự thiện và làm sự thiện. Và Thánh Phaolô tiếp tục: ”Trái lại anh chị em hãy tử tế với nhau, có lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh chị em trong Chúa Kitô” (v.32). Bao nhiêu lần chúng ta nghe một số người nói: ”Tôi không làm hại một ai”. Đồng ý, nhưng bạn có làm điều thiện không? Bao nhiêu người không làm điều ác, nhưng họ cũng chẳng làm điều thiện, và đời sống của họ diễn ra trong sự dửng dưng, trong lãnh đạm, nguội lạnh. Thái độ ấy trái ngược với Tin Mừng, và trái ngược cả với đặc tính của người trẻ, tự bản chất các bạn năng động, say mê và can đảm. Thánh Alberto Hurtado nói: "Không làm điều xấu thì tốt, nhưng không làm điều tốt thì xấu."

Kitô hữu thật: chống lại sự dữ, thực hành điều thiện

 ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy trở thành những người giữ vai chính trong sự thiện! Ngài nói: Đừng cảm thấy mình đúng khi không làm điều làm sự ác; mỗi người có lỗi đối với sự thiện họ có thể làm nhưng đã không làm. Không oán ghét mà thôi, thì không đủ, còn cần tha thứ nữa; không oán hận mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn cần cầu nguyện cho kẻ thù nữa; không là nguyên nhân gây chia rẽ mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải mang hòa bình đến nơi nào không có, không nói xấu người khác mà thôi thì chưa đủ, còn cần chặn lại, khi nghe nói xấu người khác. Nếu chúng ta không chống lại sự ác, có nghĩa là chúng ta mặc nhiên nuôi dưỡng sự ác. Cần can thiệp tại nơi mà sự ác lan tràn; vì sự ác phổ biến tại những nơi nào thiếu các tín hữu Kitô can đảm chống lại sự thiện, và ”bước đi trong bác ái” (Xc 5,2), theo lời cảnh giác của Thánh Phaolô.

Cuối cùng ĐTC khuyến khích các bạn trẻ, những người đã bước đi rất nhiều trong những ngày này: hãy bước đi trong bác ái! ĐTC mời gọi họ cùng nhau tiến về Thượng HĐGM sắp tới tại Roma về đề tài ”Giới trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Ngài cầu xin Đức Trinh Nữ Maria nâng đỡ tất cả bằng lời chuyển cầu từ mẫu của Mẹ, để mỗi người, mỗi ngày, bằng việc làm, có thể khước từ sự ác và chấp nhận sự thiện.

Giuse Trần Đức Đức Anh OP

Ước mong sống tràn đầy hạnh phúc

Ước mong sống tràn đầy hạnh phúc

** Nơi từng người trong chúng ta đều có ước muốn một cuộc sống tràn đầy. Kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta không phải là các vấn đề, cho dù chúng có nghiêm trọng và thê thảm tới đâu đi nữa, nguy hiểm lớn nhất của sự sống là một tinh thần thích nghi xấu không phải là sự hiền dịu hay khiêm nhường, nhưng là sự tầm thường xoàng xĩnh, là sự hèn nhát. Cần có ai đó mời gọi chúng ta đi xa hơn, làm nhiều hơn, nhảy vào điều còn thiếu, duyệt xét cái bình thường để rộng mở cho cái ngoại thường.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tu hàng tuần hôm qua. Trước khi bắt đầu ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ kính thánh Anton thành Padova. Ngài hỏi ai có tên thánh là Anton và mời mọi người vỗ tay mừng bổn mạng họ.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về các giới răn của Chúa. Ngài giải thích ý nghĩa trình thuật trong chương 10 Phúc Âm thánh Marco kể lại cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu của người thanh niên nhà giầu muốn có cuộc sống tràn đầy, nên đến quỳ gối hỏi Chúa: “Lậy Thầy, con phải làm gì để có cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giê su đáp: “"Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Anh ta nói: "Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ." Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." ĐTC giải thích:

Trong câu hỏi đó có thách đố của mọi cuộc sống, cả thách đố cuộc sống của chúng ta nữa: ước mong một cuộc sống tràn đầy, vô tận…  Nhưng làm thế nào để đạt được nó đây? Phải theo con đường nào? Sống thực sự, sống một cuộc đời  cao quý… Có biết bao nhiêu người  trẻ tìm “sống” nhưng rồi lại tự hủy hoại mình bằng cách chạy theo những điều phù phiếm mau qua.

** Có vài người nghĩ rằng tốt hơn là dập tắt thúc đẩy này – thúc đầy của sự sống –  bởi vì nó nguy hiểm. Tôi muốn đặc biệt nói với giới trẻ: Kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta không phải là các vấn đề, cho dù chúng có nghiêm trọng và thê thảm tới đâu đi nữa: nguy hiểm lớn nhất của cuốc sống là một tinh thần thích nghi xấu, không phải là sự hiền dịu hay khiêm nhường, nhưng là sự tầm thường xoàng xĩnh, là sự hèn nhát. Một người trẻ xoàng xĩnh là một người trẻ có tương lại hay không? Không! Anh ta ở lại đó, không lớn lên, anh sẽ không thành công. Sự xoàng xĩnh hay sự hèn nhát. Những người trẻ sợ hãi mọi sự: “Không, tôi thì như vậy đấy…” Những người trẻ này sẽ không tiến tới. Phải hiền dịu, mạnh mẽ, nhưng không hèn nhát, không tầm thường xoàng xĩnh.

Chân phước Pier Giorgio Frarssati, đã là một người trẻ – đã nói rằng cần sống chứ không phải sống vật vờ. Những người xoàng xĩnh thì sống vật vờ. Phải sống với sức mạnh của cuộc sống.

Cần xin Thiên Chúa Cha trên trời cho giới trẻ ngày nay ơn của sự âu lo lành mạnh. Nhưng ở nhà, trong các nhà của anh chị em, trong mỗi gia đình, khi thấy một người trẻ ngồi đó suốt ngày, đôi khi cha mẹ nghĩ rằng: “Thằng này bệnh, nó có cái gì đó” và cha mẹ mang nó đi bác sĩ. Cuộc sống của ngưởi trẻ là tiến tới, là âu lo, sự âu lo lành mạnh, là khả năng không hài lòng với một cuộc sống không vẻ đẹp, không mầu sắc. Nếu các người trẻ sẽ không đói khát cuộc sống đích thật nữa, thì tôi tự hỏi nhân loại sẽ đi về đâu? Nhân loại sẽ đi về đâu với các người trẻ âu lo và không âu lo?

Câu hỏi của người trẻ trong Phúc Âm chúng ta mới nghe , ở bên trong từng người trong chúng ta: làm thế nào tìm ra sự sống, sự sống tràn đầy, niềm hạnh phúc? Chúa Giê su trả lời: “Anh biết các giới răn” (c. 19) và Ngài trích lại một phần Mười Điều Răn. Đó là một tiến trình sư phạm, qua đó Chúa Giêsu muốn dẫn tới một nơi chính xác; thật đã rõ ràng từ câu hỏi là người ấy không có sự sống tràn đầy, anh ta tìm cái gì hơn nữa, anh âu lo. Như vậy anh ta phải hiểu cái gì? Anh nói: “Lậy Thầy, tất cả những điều này con đã giữ từ tấm bé” (c. 20).

Làm thế nào để từ tuổi trẻ bước sang tuổi trưởng thành? Đó là khi người ta bắt đầu chấp nhận các hạn hẹp của mình. Người ta trưởng thành, khi tương đối hóa mình và ý thức được “điều còn thiếu” (x. c.21). Người đàn ông này bị bó buộc thừa nhận rằng tất cả những gì ông có thể làm được không vượt quá một “mái nhà”, không đi quá một ranh giới.

** Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Thật đẹp biết bao các người nam nữ! Thật quý báu biết bao cuộc sống của chúng ta! Thế nhưng có một sự thật đó là trong lịch sử của các thế kỷ cuối cùng con người đã thường khước từ sự thật về các hạn hẹp của nó với các hậu quả thê lương.

Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói lên điều gì đó có thể giúp chúng ta: “Anh em đừng tin rằng Thầy đến để hủy bỏ Luật Lệ hay các Ngôn Sứ; Thầy không đến để hủy bỏ nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Chúa Giêsu ban tặng sự thành toàn, Ngài đến cho việc này. ĐTC giải thích thêm như sau:

Người đàn ông này phải đi đến ngưỡng của của một nhảy vọt, nơi mở ra khả thể thôi sống vì chính mình, vì các công việc, các của cải riêng và – chính vì thiếu sự sống tràn đầy – nên cần bỏ mọi sự để theo Chúa. Nhìn cho kỹ trong lời mời cuối cùng của Chúa Giêsu – lời mời vô biên tuyệt vời – không có đề nghị của sự nghèo khó, nhưng là sự giầu có, sự giầu có đích thật: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (c. 21).

Khi có thể chọn một bản gốc và một bản sao, ai lại chọn bản sao bao giờ? Đó là thách đố: tìm ra bản gốc của sự sống chứ không tìm bản sao. Chúa Giêsu không cống hiến các thay thế, nhưng cống hiến sự sống thật, tình yêu thật, sự giầu có thật! Làm sao giới trẻ có thể đi theo chúng ta, khi họ không thấy chúng ta lựa chọn bản gốc, nếu họ thấy chúng ta tùy thuộc các mực thước nửa vời?  Thật là xấu tìm thấy các kitô hữu nửa vời, kitô hữu – xin cho phép tôi dùng từ này – kitô hữu lùn; họ lớn lên cho tới một cỡ nào đó rồi thôi, kitô hữu với con tim thu nhỏ lại, đóng kín. Thật là xấu tìm thấy điều này!

Cần phải có gương của một ai đó mời gọi tôi đi xa hơn, làm nhiều hơn, lớn lên một chút. Thánh Ignazio gọi nó là “magis”, “hơn”, “là lửa, là sự  nồng nhiệt của hành động thức tỉnh những người say ngủ”.

Con đường của cái “thiếu” đi ngang qua cái “có”. Chúa Giêsu đã không đến để hủy bỏ Luật Lệ hay các Ngôn Sứ nhưng để kiện toàn. Chúng ta phải khởi hành từ thực tại để làm bước nhảy vọt “vào điều còn thiếu”. Chúng ta phải dò xét cái bình thường để rộng mở cho sự ngoại thường.

Trong các bài giáo lý này chúng ta sẽ lấy hai Tấm Bia của ông Môshê trong tư cách các các tín hữu kitô, nắm lấy tay Chúa Giêsu để từ các ảo tưởng của tuổi trẻ bước vào kho tàng trên trời, bằng cách bước theo Chúa. Chúng ta sẽ khám phá ra trong từng luật lệ cổ xưa và khôn ngoan, cánh cửa do Thiên  Chúa Cha trên trời mở ra, để Chúa Giêsu là Đấng đã bước qua đó, dẫn đưa chúng ta vào sự sống thật. Sự sống của Ngài. Sự sống các con cái của Thiên Chúa.  

** ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ Pháp, Canada, đặc biệt các học sinh trường trung học Paul Lellizan Marseille và tín hữu đền thánh Montligeon. Ngài cũng chào các nhóm đến từ Anh quốc, Ê cốt, Malta, Australia, Indonesia, Liechtenstein, Malaysia, Philippines, Canada và Hoa Kỳ, cũng như Đức đặc biệt là phong trào Shoenstadt. ĐTC nhắc nhở mọi người sốt sắng tôn sùng Thánh Tâm Chúa trong tháng 6 này và phó thác cho Chúa mọi ước mong thiên quốc của chúng ta.

Ngài cũng chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đặc biệt csc giáo sư và chủng sinh tiểu chủng viện Madrid, các tín hữu Brasil đến từ Anapolis và Palotina cũng như tín hữu Lisboa, cách riêng các học sinh trường hòa bình và huynh đoàn Pedra. Ngài chúc mọi người biết âu lo một cách lành mạnh.

Chào các tín hữu đến từ các nước vùng Trung Đông ĐTC nói Thiên  Chúa đã ban cho chúng ta cuộc sống để sống trong sư tràn đầy và dẻo dai, chứ không phải trong sự lười biếng và do dự. Ngài vén mở cho thấy phải sống nó như thế nào qua Lời hằng sống và theo các giới răn của Ngài để đạt hạnh phúc.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC cầu mong chuyến hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ giúp họ củng cố đức tin và tìm ra các câu trả lời cho các vấn đề hiện sinh như làm thế nào để đạt cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.

Trong các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào một nhóm tân linh mục giáo phận Brescia, các nữ thừa sai bác ái, các nữ tu dòng Đức Bà An Ủi và các nữ tôi tớ Đức Maria thừa tác viên của các bệnh nhân, cũng như tín hữu Abbadia di Montepulciano do ĐC Stefano Manetti hướng dẫn, tín hữu Marigliano và Grottammare, cũng như các tham dư viên đại hội do hiệp hội nhi khoa tổ chức, và các bạn trẻ đội múa cờ tỉnh Volterra.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc cho biết hôm qua lễ kính thánh Anton thành Padova Tiến sĩ Giáo Hội và Bổn mạng người nghèo. Ngài xin thánh nhân dậy mọi người sống vẻ đẹp của tình yêu chân thành nhưng không. Chỉ khi biết yêu thương như thánh nhân, thì mọi người sống chung quanh chúng ta mới không cảm thấy bị gạt bỏ bên lề và chúng ta sẽ ngày càng mạnh mẽ giữa các thử thách của cuộc đời.

Sau cùng ĐTC cũng nhắc đến giải túc cầu quốc tế sẽ khai diễn hôm nay bên Nga. Ngài gửi lời chào các cầu thủ và ban tổ chức, cũng như mọi người theo dõi qua các phương tiện truyền thông xã hội biến cố vô biên giới này. Ước chi biến cố biểu diễn thể thao quan trọng này trở thành dịp gặp gỡ đối thoại và sống tình huynh đệ giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau, tạo thuận tiện cho tình liên đới và hòa bình giữa các quốc gia.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới về ơn gọi lần thứ 55

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới về ơn gọi lần thứ 55

VATICAN. ”Thật là đẹp và là một đại phúc được hoàn toàn và mãi mãi thánh hiến cho Thiên Chúa và phục vụ anh chị em”.

Trên đây là lời khẳng định của ĐTC Phanxicô trong sứ điệp công bố hôm 4-12-2017, để chuẩn bị cho Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 55 sẽ được cử hành vào chúa nhật thứ tư sau lễ Phục Sinh, 22-4-2018. Sứ điệp mang chủ đề là: ”Lắng nghe, phân định và sống lời mời gọi của Chúa”.

ĐTC lần lượt phân tích 3 thái độ liên quan đến ơn gọi là lắng nghe, phân định và sống.

Lắng nghe

”Cần phải nói ngay rằng tiếng Chúa gọi không có sự nổi bật, hiển nhiên như một trong bao nhiêu sự chúng ta có thể thấy, nghe hoặc động chạm được trong kinh nghiệm hằng ngày. Thiên Chúa đến một cách âm thầm và kín đáo, không áp đặt cho tự do chúng ta. Vì thế có thể xảy ra là tiếng Chúa bị bóp nghẹt vì bao nhiêu lo lắng và những thúc giục ở trong tâm trí chúng ta.

”Vì thế, cần có thái độ chăm chú lắng nghe Tiếng Chúa và cuộc sống, chú ý đến cả những chi tiết của cuộc sống thường nhật, học cách đọc các biến cố với con mắt đức tin, và giữ thái độ cởi mở đối với những bất ngờ của Thánh Linh.

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chúng ta không thể khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho chúng ta, nếu chúng ta khép kín nơi mình, trong những thói quen và trong sự thụ động của người phí phạm cuộc đời trong cái vòng chật hẹp của cái tôi, đánh mất cơ hội mơ ước những điều cao cả và trở thành người nắm vai chính trong lịch sử duy nhất và đặc sắc mà Chúa muốn viết lên cùng với chúng ta”.

Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe.. ”thái độ này ngày nay ngày càng trở nên khó khăn, vì như thể chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, trong sự giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập ngày của chúng ta.”

Phân định

ĐTC viết: ”Khi đọc đoạn sách Ngôn Sứ Isaia trong Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu đã phân định nội dung sứ mạng Ngài được trao phó và trình bày cho những người đang chờ đợi Đấng Thiên Sai.. Cũng vậy, mỗi người chúng ta có thể khám phá ơn gọi của mình qua sự phân định thiêng liêng, một tiến trình qua đó, trong sự đối thoại với Chúa và lắng nghe tiếng Thánh Linh, ta đi tới những chọn lựa cơ bản, bắt đầu từ sự chọn lựa bậc sống.”

”Ngày nay, chúng ta rất cần sự phân định và ngôn sứ, vượt thắng những cám dỗ của ý thức hệ và thái độ phó mặc cho định mệnh, hầu khám phá, trong tương quan với Chúa, những nơi chốn, những phương thế và tình trạng qua đó Chúa gọi chúng ta. Mỗi Kitô hữu phải có thể phát huy khả năng ”đọc bên trọng” cuộc sống và nhận thấy nơi và điều mà Chúa đang gọi họ để tiếp tục sứ mạng của Ngài.

– Sau cùng là sống. ĐTC khẳng định rằng: ơn gợi là ngày hôm nay. Sứ mạng Kitô là cho hiện tại. Và mỗi người trong chúng ta được kêu gọi sống đời giáo dân trong hôn nhân, đời sống linh mục trong sứ vụ thánh chức, hoặc ơn gọi đời sống thánh hiến, để trợ thành chứng nhân của Chúa trong lúc này và bây giờ.

Đặc tính “Ngày hôm nay” được Chúa Giêsu công bố bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa tiếp tục ”xuống” để cứu vớt nhân loại chúng ta và cho chúng ta được tham gia sứ mạng của Ngài.

Ngày hôm nay, Chúa tiếp tục kêu gọi đi theo ngài. Chúng ta không được chờ đợi cho đến lúc hoàn hảo mới quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, và cũng đừng kinh hãi vì những giới hạn và tội lỗi của chúng ta, nhưng đón nhận tiếng Chúa với tâm hồn rộng mở” (Rei 4-12-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại

Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, 16.09.2016

Người Kitô hướng tầm nhìn vào ‘ngày sau hết’, có nghĩa là không dừng lại ở đây mà nhìn hướng tới “xác loài người ngày sau sống lại”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điều này trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện thánh Marta.

Đức Thánh Cha phát triển bài giảng dựa trên đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô. Trong thư, thánh Phaolô nói về “sự cứu chuộc trong ngày sau hết”. Đức Thánh Cha nhắc nhớ về khúc cuối của Kinh Tin Kính mà các tín hữu vẫn đọc: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.”

Thật dễ khi nói về quá khứ, vì quá khứ thì cụ thể. Cũng dễ khi nhìn về quá khứ, vì chúng ta thấy nó. Nhưng khi nhìn tới tương lai, chúng ta nghĩ rằng, “tốt hơn là không nên nghĩ”. Và không dễ chút nào để đi vào thực tại của tương lai.

Thật dễ để nhìn về quá khứ; cũng dễ khi nhìn vào hiện tại; ngay cả nhìn tới tương lai cũng dễ. Bởi lẽ, dù quá khứ, hiện tại, hay tương lai, thì tất cả đều chết. Thế nhưng, nhìn tới “ngày sau hết” thì quả là khó. Đó là điều mà thánh Phaolô nói. Điều ấy là gì và như thế nào? Sự sống lại. Chúa Kitô sống lại. Chúa Kitô đã sống lại và rõ ràng Người không phải là ma. Trong Tin Mừng, thánh Luca tường thuật về sự phục sinh: Chúa Giêsu nói “Hãy chạm vào Thầy… Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây… Anh em có gì ăn không?”. Chúng ta lại hỏi: “Trời ở đâu?” nếu “tất cả chúng ta sẽ ở đó,” nhưng chúng ta không hiểu được điều mà thánh Phaolô nói về ‘ngày sau hết’.

Đừng quên rằng, ngay từ thế kỷ đầu, thánh Gioan tông đồ đã xác định: “Nếu ai nói Ngôi Lời Thiên Chúa không trở nên người phàm, thì đó là kẻ phản Kitô”. Để hiểu được ‘ngày sau hết’, thì quả là rất khó khăn. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta sẽ sống lại, giống như Đức Kitô đã sống lại. Thân xác chúng ta sẽ được biến đổi thành thân xác phục sinh.” Đức tin vào sự sống lại, có căn nguyên sâu xa từ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa.

Một lần nữa, chúng ta hãy nhớ rằng, sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã cùng ăn cùng uống với các môn đệ và các ông đã chạm vào Người. Những điều này rất khó hiểu và khó chấp nhận, vì đó là thực tại thuộc về ‘ngày sau hết’. Cần có một mức độ trưởng thành nào đó để có thể hiểu được quá khứ. Cũng thế, cần có một mức độ trưởng thành nào đó để hiểu được hiện tại, để hiểu tương lai. Và cần có một hồng ân lớn lao của Chúa Thánh Thần, chúng ta mới có thể hiểu được ‘ngày sau hết’. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin.

Tứ Quyết SJ

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một hổ nhục cho nhân loại

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một hổ nhục cho nhân loại

ĐTC Phanxicô chào tín hữu và du khách hành hương

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu và là một hổ nhục cho thế giới.

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu và là một hổ nhục cho thế giới. ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến chung tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thư tư 2-12-2015.

Như đã biết, ĐTC Phanxicô vừa mới công du ba nước Phi châu Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi về, trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với mọi người một số kinh nghiệm và cảm tưởng của ngài. ĐTC đã bầy tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự tiếp đón nồng hậu của các chính quyền dân sự và các Giám Mục, cũng như của tất cả những ai đã cộng tác để cho cuộc viếng thăm diễn ra tốt đẹp. Đề cập tới Kenya là quốc gia đầu tiên của chuyến viếng thăm ĐTC nói:

Kenya là một nước  diễn tả tốt thách đố của thời đại chúng ta: đó là bảo vệ thụ tạo bằng cách cải tổ mẫu phát triển  để nó được công bằng, bao gồm mọi người và có thể chịu đựng nổi. Tất cả những điều này được tìm thấy tại Nairobi, là thành phố lớn nhất vùng Đông Phi châu, nơi chung sống sự giầu có và bần cùng: nhưng đây là một gưong mù gương xấu! Không phải chỉ bên Phi châu thôi, mà cả ở đây bên Âu châu nữa.  Tại khắp mọi nơi. Việc chung sống giữa sự giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu, một hổ nhục cho nhân loại. Và ở Nairobi có trụ sở văn phòng của Liên Hiệp Quốc đặc trách Môi sinh, mà tôi đã viếng thăm. Tại Kenya tôi cũng đã gặp gỡ chính quyền và Ngoại giao đoàn, cũng như dân chúng sống trong khu phố bình dân. Tôi cũng đã gặp gỡ các vị lãnh đạo của các Giáo Hội kitô và các tôn giáo khác, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, và người trẻ, biết bao nhiêu người trẻ! Trong mọi dịp tôi đã đều khích lệ giữ gìn kho tàng lớn của đất nước này là sự phong phú thiên nhiên và tinh thần, được tạo thành bởi các tài nguyên của lòng đất, các thế hệ mới, và các giá trị làm thành sự khôn ngoan của người dân. Trong bối cảnh thời sự một cách thê thảm này tôi đã vui mừng đem đến lời hy vọng của Chúa Giêsu phục sinh: “Anh em hãy vững vàng trong đức tin, đừng sợ hãi!”. Đó đã là khẩu hiệu của chuyến viếng thăm. Một lời được biết bao nhiêu người khiêm tốn và đơn sơ sống mỗi ngày, với phẩm giá cao quý; một lời được làm chứng một cách thê thảm và anh hùng bởi các bạn trẻ của đại học Garissa, bị giết ngày mùng 2 tháng 4  vì là kitô hữu. Máu của họ là hạt giống của hòa bình và tình huynh đệ cho Kenya, cho Phi châu và cho toàn thế giới.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC chia sẻ cảm tưởng của ngài liên quan tới Uganda. Tại Uganda chuyến viếng thăm của tôi xảy ra trong dấu chỉ của các Vị Tử Đạo của đất nước này, mà chân phước Phaolô VI đã tôn phong hiển thánh cách đây 50 năm. Vì vậy khẩu hiệu chuyến viếng thăm đã là: “Các con sẽ là các chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Đây là một khẩu hiệu giả thiết các lời trước đó: “Các con sẽ được sức mạnh của Thánh Thần”, bởi vì chính Thần Khí linh hoạt trái tim và đôi tay của các môn đệ thừa sai. Và toàn chuyến viếng thăm Uganda đã diễn ra trong chứng tá được Chúa Thánh Thần linh hoạt. Đề cập đến chứng tá của các kitô hữu Uganda ĐTC nói:

Trong nghiã rõ ràng chứng tá là việc phục vụ của các giáo lý viên, mà tôi đã cám ơn và khích lệ vì sự dấn thân của họ, thường khi cũng lôi kéo cả gia đình họ.  Chứng tá là chứng tá của tình bác ái, mà tôi đã sờ mó được với bàn tay trong Nhà Bác Ái Nalukolongo, có sự dấn thân của biết bao nhiêu cộng đoàn và hiệp hội, tuy gặp biết bao nhiêu khó khăn, nhưng vẫn giữ được ơn hy vọng, và tìm cách sống theo Tin Mừng chứ không sống theo thế gian, bằng cách đi ngược dòng. Các chứng nhân là các linh mục, các người nam nữ sống đời thánh hiến canh tân từng ngày tiếng “có” hoàn toàn với Chúa Kitô và tươi vui tận hiến cho việc phục vụ dân thánh của Thiên Chúa. Tất cả các hình thái chứng tá đa diện này, được linh hoạt bởi cùng Thánh Thần, là men cho toàn thể xã hội, như được chứng minh bởi công tác hiệu quả của việc chống lại bệnh AIDS bên Uganda, và trong việc tiếp đón các người tỵ nạn.

Thế rồi chặng thứ ba trong chuyến du hành của tôi đã là Cộng hòa Trung Phi: trung tâm địa lý của đại lục. Thật ra, cuộc viếng thăm này đã là việc viếng thăm đầu tiên trong ý muốn của tôi, bởi vì quốc gia này đang tìm ra khỏi một giai đoạn rất khó khăn của xung khắc, bạo lực và biết bao khổ đau nơi người dân. Chính vì thế nên, đi trước một tuần,  tôi đã muốn mở Cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót đầu tiên tại Bangui. Đây là một quốc gia khổ đau biết bao nhiêu. Và điều này như dấu chỉ của đức tin và niềm hy vọng cho dân tộc này, và một cách biểu tượng cho mọi dân tộc phi châu các dân tộc cần được cứu chuộc và an ủi nhất. Lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia” (Lc 8,22) đã là khẩu hiệu của chuyến viếng thăm Trung Phi. ĐTC giải thích ý nghĩa cụ thể của lời mời này trong bối cảnh hiện nay của Trung Phi như sau:

Qua bờ bên kia, trong nghĩa dân sự, có nghĩa là bỏ lại đàng sau lưng chiến tranh, các chia rẽ, sự bần cùng, và lựa chọn hoà bình, hòa giải và phát triển. Nhưng điều này giả thiết  một sự vượt qua, xảy ra trong các lương tâm, trong các cung cách hành xử, và trong các ý muốn của con người. Và trên bình diện này phần đóng góp của các cộng đoàn tôn giáo thật định đoạt. Vì vậy tôi đã gặp gỡ các cộng đoàn Tin Lành và Hồi giáo, chia sẻ lời cầu nguyện và dấn thân cho hòa bình. Với các linh mục và các người sống đời thánh hiến, nhưng cũng với người trẻ, chúng tôi đã chia sẻ niềm vui cảm thấy Chúa phục sinh ở trên thuyền với chúng tôi, và chính Ngài hướng dẫn con thuyền sang bờ bên kia. Và sau cùng trong Thánh lễ cuối cùng tại sân vận động Bangui, trong ngày lễ thánh Anrê Tông Đồ, chúng tôi đã canh tân dấn thân theo Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta, sự an bình của chúng ta, Gương mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Thánh lễ cuối cùng này đã thật tuyệt vời: đầy người trẻ, một sân vận động người trẻ! Nhưng hơn phân nửa dân của Cộng hòa Trung Phi là người trẻ vị thành niên, dưới 18 tuổi. Đây là một hứa hẹn để tiến tới!

Tôi muốn nói một lời về các thừa sai. Những người nam nữ đã bỏ tất cả: từ khi còn trẻ họ đã bỏ quê hương để đến đó, để sống một cuộc sống phải làm biết bao nhiêu công việc, đôi khi họ phải ngủ dưới đất… suốt cả đời… Vào một lúc tôi đã tìm thấy tại Bangui một nữ tu già người Ý. Tôi hỏi: “Chị bao nhiêu tuổi”, “Thưa 81”. Không nhiều lắm, già hơn tôi hai tuổi thôi. Chị đi với một bé gái, và bé gái gọi nữ tu 81 tuổi là “bà nội” bằng tiếng Ý. Chị ấy đã sống ở đây khi mới 23-24 tuổi. Suốt cả đời.  Và có biết bao nhiêu nữ tu như chị. Chị nói: “Nhưng mà con không là người ở đây, con từ nước bên cạnh là Congo, con đi canô  qua đây với bé gái này.. “ Các thừa sai là thế: họ rất can đảm”. “Vậy chị làm gì?” “Thưa con là y tá, và con đã học một chút ở đây và trở thành bà đỡ, và con đã cho 3.280 em bé chào đời”. Chị ấy nói với tôi như thế. Tất cả một cuộc đời cho sự sống, cho sự sống của người khác. Và có biết bao nhiêu người như nữ tu này, biết bao nữ tu, biết bao linh mục, biết bao tu sĩ đã đốt cháy cuộc đời mình để loan báo Chúa Giêsu Kitô. Thật là đẹp khi trông thấy như vậy. Thật là đẹp!

Tôi muốn nói một lời với người trẻ. Nhưng có ít người trẻ, vì xem ra việc sinh ra là một xa xỉ phẩm tại Âu châu này: số sinh là zero hay 1%… Tôi xin ngỏ lời với người trẻ: các con hãy nghĩ xem các con làm gì với cuộc đời mình. Các con hãy nghĩ tới nữ tu này và biết bao nữ tu khác như chị, những người đã trao ban cả cuộc đời, và biết bao người đã chết ở đó. Truyền giáo không phải là chiêu dụ tín đồ, bởi vì nữ tu này đã nói với tôi rằng các phụ nữ hồi đến với các chị, vì các chị là nữ tu, là các nữ y tá giỏi, săn sóc họ tốt và không dậy giáo lý để họ theo đạo! Chứng tá. Thế rồi đối với ai muốn, thì các chị dậy giáo lý cho họ. Nhưng mà làm chứng: đó là tinh thần truyền giáo lớn anh hùng của Giáo Hội. Loan báo Chúa Giêsu Kitô với chính cuộc sống của mình! Tôi xin nói với các bạn trẻ: Con hãy nghĩ tới việc làm gì với cuộc đời con. Đây là lúc suy nghĩ và xin Chúa làm cho con cảm thấy ý muốn của Ngài. Nhưng làm ơn đừng loại trừ khả thể trở thành thừa sai, để đem tình yêu thương, nhân tính,và đức tin đến cho các nước khác. Không phải để chiêu dụ tín đồ: không. Điều này những người kiếm tìm một điều khác làm. Đức tin được rao giảng trước hết với chứng tá, và rồi với lời nói. Một cách từ từ.

Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng Chúa vì chuyến hành hương này trên đất Phi châu, và chúng ta hãy để cho mình được hướng dẫn bởi các lời chìa khóa của Chúa: “Các con hãy vững vàng trong đức tin, đừng sợ hãi”, “Các con sẽ là các chứng nhân của Thầy”; “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương Australia và Nam Hàn. Ngài nhắc cho mọi người biết Giáo Hội đã bước vào Mùa Vọng là thời gian của hy vọng mà Chúa đề nghị với chúng ta để có thể tiếp đón Ngài vào trong cuộc sống và thế giới này một cách tốt đẹp hơn. ĐTC cầu chúc mọi người sống Mùa Vọng với nhiều sốt mến, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Đây là thời gian cầu nguyện, canh thức và mở rộng con tim cho Lòng  Thương Xót Chúa, sống bác ái và trợ giúp những người thiếu thốn.

Chào nhóm bạn trẻ “Viva la Gente Hoan hô dân chúng” của phong trào Tổ Ấm mừng kỷ niệm 50 năm thành lập,  ĐTC hy vọng họ tiếp tục ca hát để loan báo tình yêu của Chúa.

Chào các tin hữu Ba Lan ngài cám ơn họ đã tháp tùng chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại Phi châu bằng lời cầu nguyện.

Trong các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào Liên hiệp quốc tế các bề trên tổng quyền, khai mạc dự án Người di cư trên đảo Sicilia; nhân viên của văn phòng chính phủ điều hợp chống nạn tội phạm cho vay nặng lãi và đòi tiền hối lộ để được bảo vệ.

Chào giới trẻ, người bệnh và các đôi tân hôn ĐTC cầu chúc người trẻ được Chúa thúc đẩy trở thành những người thăng tiên đối thoại và cảm thông. Ngài xin Chúa giúp các anh chị em ốm đau biết nhìn lên thập giá Chúa Kitô và học đương đầu với khổ đau trong sự thanh thản. Ngài xin Chúa giúp các cặp vợ chồng mới cưới gia tăng tình yêu và an bình trong cuộc sống đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đừng để lỡ cơ hội

Đừng để lỡ cơ hội

Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.

Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.

Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?

3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Việc lớn, việc nhỏ

Việc lớn, việc nhỏ

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.

Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.

Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.

Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.

Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.

Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.

Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!

Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu – Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu – Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.

Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.

Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.

Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.

Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.

Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.

Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.

Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.

Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.

Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.

Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.

Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Hơi thở của Thiên Chúa

Hơi thở của Thiên Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.

Anh chị em thân mến,

Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.

Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.

“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.

Thưa anh chị em,

Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.

Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.

Anh chị em thân mến,

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.

Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.

Như cành liền cây

Như cành liền cây

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh Lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Toà Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh Lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu Châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.

Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn..

Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe doạ, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ta trồng người như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao người lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm” (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, vì dân Israel như nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x. ls, 1-7).

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là “cây nho thật” và “Chúa Cha là người trồng nho”, để xác minh rằng: đây là cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trồng tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:

“Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn”… “Thầy là cây nho, anh em là cành”.

Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.

Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là “cành nho phải sinh hoa trái”. Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”.

Thế nào là sinh hoa kết trái? Chúng ta có thể tìm thấy cây trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.

Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên một sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến Phục Sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.

Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người Kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không : “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2). Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo. 

Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.

Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra mộtgóc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.

Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh. Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.

Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.

Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.

Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.

Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,24)

Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.

Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.

Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn. ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).

Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.

Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này ?

Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ánh sao đạo đức

 Ánh sao đạo đức

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.

Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.

Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.

Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt
 

Chứng nhân ánh sáng trung thực

Chứng nhân ánh sáng trung thực

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.

Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.

Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".

Dưới đây là icon thể hiện chủ đề "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.

Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

2. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.

Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)

3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả

Chữ nghĩa du di chả mấy hồi

Đói không nói đói, "thiếu ăn" thôi!

Học hành "hạn chế": y chang dốt

Báo cáo "tuy nhiên": ắt hẳn… tồi.

"Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt nửa,

"Có phần sơ sót"? Hãy nhân đôi…

Mực đen gấy trắng đòi trung thực

Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.

Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).

Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.

Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

ĐỨC PHANXICÔ : SỰ THÁNH THIỆN ĐƯỢC SỐNG QUA CHỨNG TÁ KITÔ HỮU Ở ĐỜI THƯỜNG

Nên thánh không hệ tại ở việc « nhắm mắt và có cái đầu như trên các hình ảnh đạo đức ». Để nên thánh, « không cần phải là giám mục, linh mục hay tu sĩ », « sự thánh thiện không phải chỉ dành riêng cho những ai có khả năng tách ra khỏi những nhiệm vụ thường ngày để chỉ chú tâm cầu nguyện ». Nhưng « đúng hơn chính khi sống chứng tá Kitô hữu của chúng ta mà chúng ta được mời gọi nên thánh », và « nên thánh không thể được thực hiện mà không có niềm vui ». Đó là tóm tắt bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 19/11/2014 tại quảng trường thánh Phêrô trước chừng khoảng 15.000 người.

 « Và nếu chúng ta là bậc cha mẹ hay ông bà, nên thánh bằng cách dạy đức tin và cuộc sống  cho con cháu ». « Cần phải kiên nhẫn nhiều đối với nhiệm vụ này, để là những bậc cha mẹ tốt, để là những bậc ông bà tốt, và chính trong sự kiên nhẫn này mà sự thánh thiện nảy sinh ». Đức Thánh Cha còn khuyên kiê nhẫn nếu « buổi tối con cái của bạn xin bạn thảo luận về những vấn đề của nó, và bạn đang cảm thấy mệt mỏi, bạn không muốn nghe nó, trái lại, hãy ngồi xuống, dành thời gian lắng nghe nó, và khi lắng nghe nó bạn sẽ tiến bước đến sự thánh thiện ». Với những bước nhỏ tiến tới sự thánh thiện, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lấy ví dụ một người phụ nữ đi chợ mua sắm, gặp các bạn nữ của mình, và rồi đi đến chỗ ngồi lê đôi mách. Nếu người phụ nữ này không chiều theo cám dỗ nói xấu người khác, thì đó cũng là một bước tiến tới sự thánh thiện.

Từ đó Đức Thánh Cha khẳng định : « Chính khi sống các hoạt động của mọi ngày bằng tình yêu mà chúng ta được mời gọi nên thánh, dù thân phận chúng ta là gì : người đã kết hôn hay độc thân, cha mẹ hay ông bà, người tu trì… Mọi bậc sống đưa chúng ta đến sự thánh thiện nếu chúng ta sống nó trong sự hiệp thông với Chúa và phục vụ anh em. Lời mời gọi nên thánh của Thiên Chúa là một lời mời gọi sống và hiến dâng cho Ngài mỗi giây phút của cuộc sống chúng ta cách vui tươi, bằng cách biến nó thành một sự dâng hiến tình yêu cho những người xung quanh chúng ta ».

Tý Linh ( XBVN )

theo Radio Vatican