Các lãnh đạo Công giáo đau buồn về vụ khủng bố ở Manchester

Các lãnh đạo Công giáo đau buồn về vụ khủng bố ở Manchester

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã gửi điện thư do Đức Hồng y Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh ký, chia buồn về thảm kịch gây thương vong, chết chóc, xảy ra tại nhà thi đấu thành phố Manchester, Anh quốc, tối 22/05.

Cảnh sát giao thông Anh xác nhận vụ nổ xảy ra trong "phòng giải lao nhà thi đấu lúc 22h30 ngày 22/5,vào cuối buổi hòa nhạc do nữ ca sĩ người Mỹ Ariana Grande biểu diễn. Nhóm khủng bố Hồi giáo IS đã nhận trách nhiệm tấn công buổi biểu diễn ca nhạc làm cho hơn 20 người thiệt mạng và hàng chục người bị thương. Đa số các nạn nhân là người trẻ.

Trong điện thư, Đức Giáo hoàng bày tỏ đau buồn sâu sắc và bày tỏ tình liên đới sâu đậm với tất cả bị thương tổn bởi hành vi bạo lực vô ý nghĩa này. Ngài khen ngợi các nỗ lực quảng đại của nhân viên cứu hộ và an ninh và đảm bảo cầu nguyện cho những người bị thương và những người đã qua đời. Đức Giáo hoàng nhớ đến cách đặc biệt các trẻ em và người trẻ đã bị thiệt mạng và nhớ đến các gia đình đang đau khổ của họ. Ngài cầu xin Thiên Chúa ban hòa bình, chữa lành và sức mạnh trên đất nước Anh.

Các Giám mục ở Anh cũng lên tiếng tố cáo hành động tội ác này. Đức cha John Arnold, Giám mục giáo phận Salford nói là không có lời biện minh cho bạo lực như thế. Trên tài khoản Twitter của giáo phận ngài viết: “Các công dân thành Manchester và cộng đồng Công giáo hiệp nhất lên án vụ tấn công vào đám đông ở sân thi đấu Arena. Đức cha nhấn mạnh: “chúng ta phải dấn thân hành động cùng nhau để giúp đỡ các nạn nhân và gia đình của họ và xây dựng và củng cố sự tương trợ của cộng đồng chúng ta.”

Giáo phận Salford thông báo rằng đức cha Arnold cử hành các Thánh lễ đặc biệt cầu cho các nạn nhân vào ngày 23/05.

Về phần mình, Đức Hồng y Vincent Nichols của tổng giáo phận Westminster ở Luân đôn, đã gửi thư chia buồn đến đức cha Arnold. Ngài viết: “Tôi đã nghe tin tức truyền thông về sự tàn bạo xảy ra đêm qua ở Manchester với nỗi buồn sâu xa. Xin Chúa đón tất cả mọi người qua đời về bên sự hiện diện thương xót của Người. Xin Chúa thay hướng lòng của những kẻ gây nên sự dữ đến sự hiểu biết chân thực về mong muốn và ý định của Người dành cho nhân loại.” Đức Hồng y cũng bảo đảm với đức cha Arnold và con chiên của ngài về lời cầu nguyện và chia buồn của các Giám mục Anh và xứ Wales. Ngài nói: “Cả chúng tôi cũng than khóc sự mất mát các sự sống này. Chúng tôi cầu nguyện cho những người đã qua đời được an nghỉ đời đời.”

Cuộc tấn công tối thứ hai, 22/05 là cuộc tấn công nặng nề nhất xảy ra ở Anh kể từ vụ nổ bom ở hệ thống xe điện ở Luân đôn vào tháng 7/2005, giết hại 52 người. (SD/CNA 22/05/2017)

Hồng Thủy

Xin Thiên Chúa ban cho các linh mục ơn can đảm sống nghèo khó như Đức Kitô

Xin Thiên Chúa ban cho các linh mục ơn can đảm sống nghèo khó như Đức Kitô

thanh-le-tai-nha-nguyen-marta-18-11-2016

Người dân không tha thứ cho các linh mục gắn chặt với tiền của. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn sống nghèo khó như Chúa Kitô. Đó là điều Đức Thánh Cha chia sẻ trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đánh đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ, vì những kẻ đổi chác tiền bạc đã làm cho Đền Thờ vốn là nhà Thiên Chúa là nơi cầu nguyện, lại biến thành “sào huyệt của bọn cướp”. Chúa làm cho chúng ta hiểu được rằng, mầm mống mà kẻ thù gieo rắc để hủy hoại Nước Trời chính là lòng tham lam tiền bạc. Một khi cõi lòng cứ gắn chặt lấy tiền bạc, thì cũng giống như đang thờ tà thần. Chúa Giêsu đã nói: Không ai có thể làm tôi hai chủ, không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.

Đây là nhà Chúa, là nhà để cầu nguyện, là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình yêu. Và tiền bạc cứ luôn tìm cách để lẻn vào nhà của Thiên Chúa. Có những người vào nhà của Chúa mà luôn mua bán đổi chác và tìm cách thuê những vị trí này nọ? Họ đến với các linh mục để đặt chỗ để thuê và họ mang theo tiền bạc. Những người ấy sẽ phá hủy đời sống chúng ta và có thể dẫn chúng ta tới một cuộc sống gian dối và bất hạnh, không còn niềm vui phục vụ Thiên Chúa chân thật nữa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta niềm vui đích thực.

Bạn có thái độ nào đối với tiền bạc? Đây là một chọn lựa cá nhân. Bạn có dính chặt với tiền bạc không?

Dân Chúa có cảm thức tuyệt vời trong việc đón nhận, trong việc phong thánh, và cả trong việc lên án nữa. Bởi vì dân Chúa có khả năng lên án và tha thứ cho nhiều yếu đuối, nhiều tội lỗi của các linh mục, nhưng có hai điều dân Chúa không thể chấp nhận. Thứ nhất là sự dính chặt với tiền bạc. Khi dân Chúa nhìn thấy những linh mục tham tiền, thì họ không thể tha thứ cho vị linh mục ấy. Thứ hai là đối xử tệ hại với các tín hữu. Khi các linh mục ngược đãi con người, dân Chúa không thể chấp nhận được, không thể tha thứ. Có nhiều loại yếu đuối bất toàn khác, dân Chúa có thể hiểu và cảm thông.

Thật là buồn chán khi thấy một linh mục sắp qua đời trong tình trạng hôn mê và đau đớn, mà cháu chắt chỉ đăm đăm chăm chú tìm xem họ có thể lấy được những gì. Xin ban cho họ kho tàng đích thực là chính Chúa, là kho tàng mà những tâm hồn thành tâm thiện chí kiếm tìm. Chúng ta cầu nguyện “Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con!” hay chúng ta lại có thần tiền nằm thầm kín trong thâm tâm? Hãy can đảm, hãy là người dũng cảm! Hãy lựa chọn!

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn sống nghèo khó như Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn sống cái nghèo của người lao động, là những người làm việc và kiếm tìm điều chân thực và không muốn gì hơn.

Tứ Quyết SJ

Cầu nguyện là năng lượng của Kitô hữu để chiếu sáng

Cầu nguyện là năng lượng của Kitô hữu để chiếu sáng

Thánh lễ sáng thứ Ba, 07.06, tại nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta

VATICAN. Cầu nguyện chính là năng lượng để Kitô hữu chiếu sáng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba, ngày 07.06, tại nguyện đường thuộc Nhà trọ Thánh Marta. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác các tín hữu về nguy cơ có thể trở thành những hạt muối nhạt, không còn mặn mà nữa. Cần phải chiến thắng cám dỗ về một thứ “linh đạo gương soi”, tức là quá chăm chú đến việc đánh bóng chính mình mà lãng quên nhiệm vụ phải mang ánh sáng đức tin đến cho người khác.

Ánh sáng và muối. Những chia sẻ của Đức Thánh Cha khởi đi từ bài đọc Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, chương 5, 13-16. Đức Thánh Cha nói rằng: “Đức Giêsu đã giảng dạy bằng những lời lẽ rất đơn sơ và những hình ảnh rất dung dị, đến nỗi ai cũng có thể hiểu được. Qua đó, Ngài định nghĩa Kitô hữu: Kitô hữu phải là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Muối và ánh sáng không tồn tại cho riêng bản thân mình. Nhưng ánh sáng là để chiếu soi vạn vật; còn muối để ướp, để gìn giữ sự vật khỏi hư nát.

Cầu nguyện là năng lượng để Kitô hữu trở thành ánh sáng cho đời

Kitô hữu sẽ làm gì khi độ mặn của muối và sự sáng của ánh sáng yếu dần đi? Họ phải làm gì để dầu thắp đèn không cạn tắt? Hay nói cách khác, đâu là năng lượng để Kitô hữu trở thành ánh sáng cho trần gian? Đơn giản thôi, đó chính là cầu nguyện. Anh chị em có thể làm rất nhiều việc, rất nhiều hoạt động, và cả những hoạt động bác ái. Anh chị em có thể làm rất nhiều viêc trọng đại cho Giáo hội, cho các đại học công giáo, các học viện, bệnh viện… Và thậm chí, người ta còn muốn lập một đài tưởng niệm để tôn phong anh chị em như là những ân nhân của Giáo hội. Nhưng nếu anh chị em không cầu nguyện, tôi e rằng tất cả những gì anh chị em làm có chút tối tăm, mù mịt trong đó. Rất nhiều hoạt động trở nên đen tối, vi thiếu đi ánh sáng, thiếu cầu nguyện. Vậy điều gì có thể bảo đảm, có thể mang lại ánh sáng cho đời sống của Kitô hữu? Đó chính là cầu nguyện.

Cầu nguyện là tôn thờ Thiên Chúa Cha, là ngợi khen Chúa Ba Ngôi, là lời nguyện tạ ơn, và cũng là lời cầu nguyện xin Chúa ban ơn. Tất cả những lời cầu nguyện ấy phải đến từ trái tim.

Kitô hữu ướp mặn đời bằng Tin Mừng

Muối cũng không để ướp chính mình. Muối chỉ là muối khi muối biết cho đi. Đây cũng chính là tâm tình phải có của Kitô hữu: cho đi, biết ướp cuộc đời cho đằm thắm, biết làm cho mọi sự nên đậm đà bằng thông điệp của Tin Mừng. Cho đi chứ không giữ lại riêng mình. Muối không chỉ dành cho Kitô hữu nhưng cho hết mọi người. Kitô hữu phải cho mình đi, vì muối là cho đi chứ không ở lại với chính mình. Cả ánh sáng và muối cũng đều vì người khác chứ không vì mình. Ánh sáng không chiếu soi ánh sáng và muối cũng không ướp muối.

Có người sẽ thắc mắc rằng: Nếu chúng ta là muối và ánh sáng không ngừng cho đi như thế, liệu muối và ánh sáng đó sẽ duy trì được bao lâu. Xin thưa rằng điều đó đến từ quyền năng của Thiên Chúa, vì Kitô hữu là muối và ánh sáng được Thiên Chúa ban tặng trong Bí Tích Thánh Tẩy. Chất muối và chất sáng đó được ban tặng như một món quà và sẽ tiếp tục được ban tặng nếu chúng ta cũng biết cho đi, biết giãi sáng, biết ướp mặn cho đời. Như thế, chúng sẽ không bao giờ cạn.

Hãy cảnh giác trước cám dỗ về một thứ ‘linh đạo gương soi’

Thứ linh đạo này đã xuất hiện trong Bài Đọc Một, kể về bà góa ở Xa-rép-ta. Bà đã tin ngôn sứ Ê-li-a và thế là hũ bột và vò dầu của bà đã chẳng hề vơi cạn.

Ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ. Nhưng anh chị em cũng phải tỉnh thức trước cám dỗ muốn chiếu sáng hay đánh bóng chính mình. Điều ấy thật tệ, đó là thứ linh đạo gương soi: tự đánh bóng mình. Phải tránh cám dỗ chỉ biết đến bản thân mình. Nhưng hãy là ánh sáng để chiếu giãi, hãy là muối để ướp mặn đời và gìn giữ mọi sự khỏi hư nát.

Muối và ánh sáng không vì mình nhưng vì tha nhân ngang qua những công việc tốt lành. Khi làm việc tốt, chúng ta đã ‘chiếu giãi ánh sáng của mình trước mặt thiên hạ’. Và khi xem thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, người ta sẽ tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời. Điều ấy cũng có nghĩa là chúng ta phải trở về với Chúa, Đấng là nguồn cội và đã ban cho chúng ta sự sáng và chất muối.

Xin Chúa giúp chúng ta biết giãi sáng bằng những việc làm và những thực hành cụ thể, chứ đừng che dấu ánh sáng đi. Xin Chúa giúp chúng ta là hạt muối biết cho đi hương vị mặn mà. Chất mặn ấy rất cần thiết, nhưng ta phải cho đi, vì khi cho đi ta mới tiếp tục được nhận lãnh và triển nở. Cho đi chính là những công việc tốt đẹp của người Kitô hữu.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Pope answer on the plane when come back to Rome

Chiều Chúa Nhật 12-7 vừa qua trên chuyến bay từ Paraquay về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài, liên quan tới chuyến viếng thăm tại ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay, cũng như liên quan tới một vài vấn đề thời sự như cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cuộc đối thoại giữa Cuba và Hoa Kỳ, tình hình Colombia và Venenezuela vv…

Say đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn. Bốn câu đầu ĐTC đã trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, các câu sau bằng tiếng Ý.

Nhà báo Anibal Velazquez của nhật báo ABC Color Paraguay hỏi: thưa ĐTC, dân chúng vui mừng vì ĐTC đã nâng đền thánh Caacupé lên hàng Vương cung thánh đường, nhưng họ tự hỏi Paraguay có tội gì mà chưa có Hồng Y?

Đáp: Không có Hồng Y không phải là một tội. Đa số các nước trên thế giới không có Hồng Y. Quốc tịch của các HY là thiểu số. Đúng thật là cho tới nay Paraguay chưa có HY nào. Tôi không biết lý do. Đôi khi để chọn các HY người ta cân nhắc, đọc và nghiên cứu các hồ sơ của từng vị, xem xét con người, nhất là đặc sủng của HY sẽ được chọn để cố vấn cho ĐGH và trợ giúp Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ. HY tuy thuộc về một Giáo Hội địa phương nhưng được gia nhập vào Giáo Hội Roma và có một cái nhìn đại đồng. Điều này không có nghĩa là tại Paraguay không có các Giám Mục có quan điểm vũ hoàn. Nhưng lý do vì không thể chỉ định qúa 120 HY có quyền bầu Giáo Hoàng. Uruguay đã có hai vị. Một vài nước Trung Mỹ cũng đã có HY, nhưng tất cả tuỳ thuộc các hoàn cảnh, con người và đặc sủng. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là các Giám Mục Paraguay không có giá trị gì. Paraguay có các Giám Mục thiên tài. Tôi nhớ là có hai Giám Mục Bogarin đã làm nên lịch sử Paraguay. Nếu nhìn vào Giáo Hội Paraguay thì Paraguay đáng có hai HY, nhưng nó không liên quan gì tới công nghiệp. Paraguay là một Giáo Hội sống động, tươi vui, một Giáo Hội chiến đấu và có một lịch sử vinh quang.

Hai chị Priscilla Quiroga của đài truyền hình Kênh A và chị Cecillia Dorado Nava của nhật báo El Deber Bolivia thì hỏi: xin ĐTC cho biết ý kiến liên quan tới ước muốn  của Bolovia trong cuộc thương thuyết với Chile để có lối ra Thái Bình Dương. Trong trường hợp hai nước xin Tòa Thánh làm trung gian ĐTC có nhận không?

Đáp: Làm trung gian là một việc rất tế nhị và như là bước cuối cùng. Cũng như trong trường hợp giữa Argentina và Chile để tránh một cuộc chiến. Tình hình đã rất là căng thẳng nên Tòa Thánh đã dấn thân, vì thế Thánh Gioan Phaolô II đã luôn chú ý, ngoài ra có thiện chí của cả hai nước muốn thương thuyết. Có điều lạ, ít nhất là bên Argentina có một nhóm không muốn sự trung gian này, và khi tổng thống Alfonsin tổ chức trưng cầu dân ý có muốn chấp nhận đề nghị trung gian không, thì đương nhiên đa số dân nói là có, nhưng có một nhóm không muốn. Luôn luôn khi có vấn đề trung gian, thì khó có chuyện toàn dân đều đồng ý. Nhưng việc làm trung gian là bước cuối cùng, vì luôn luôn có các gương mặt ngoại giao và các người tạo thuận tiện khác trợ giúp giàn xếp vấn đề.

Trong lúc này thì tôi cho rằng phải rất tôn trọng để cho Bolivia đưa vấn đề ra một toà án quôc tế. Vì vậy, nếu tôi bình luận trong lúc này – tôi là thủ lãnh của một quốc gia – nó sẽ có thể bị giải thích như là xen mình vào hay gây áp lực hoặc gì khác. Tôi cho rằng cần tôn trọng quyết định của nhân dân Bolivia. Và cũng cần xem trước đây đã có các yêu cầu đối thoại hay chưa. Tôi không rõ. Điều tôi biết đó là vào thời tổng thống Lagos của Chile, tôi không nhớ rõ thời gian chính xác, người ta đã tìm một giải pháp. Đây là bình luận mà ĐHY Errazuris nói với tôi. Do đó, tôi không muốn nói gì về điều này cả.

Điểm thứ ba mà tôi muốn thừa nhận rõ ràng. Đó là trong nhà thờ chính tòa Bolivia tôi đã đề cập đến một vấn đề rất tế nhị, khi chú ý tới tình hình cậy nhờ toà án quốc tế. Tôi nhớ rõ mình đã nói: “Là anh em thì cần đối thoại, các dân tộc mỹ latinh cần đối thoại để tạo dựng quốc gia lớn, đối thoại cần thiết” Tới đó tôi thinh lặng rồi nói “Tôi nghĩ tới biển”, và tiếp tục nói: “đối thoại và đối thoại”. Tôi tin rằng sự can thiệp của tôi nhắc tới vấn đề này, nhưng tôn trọng tình hình hiện nay. Vì trong một tòa án quốc tế thì không thể nói tới việc làm trung gian, cũng như tạo thuận tiện, mà chỉ hy vọng thôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, như thế ước vọng của nhân dân Bolivia có chính đáng không?

Đáp: Luôn luôn có một nền tảng công lý, khi có việc thay đổi ranh giới, và nhất là sau một cuộc chiến. Cần phải liên tục xem xét lại. Tôi sẽ nói rằng việc đề nghị một chuyện thuộc loại này, ước vọng này không phải là không chính đáng. Tôi nhớ là hồi năm 1961, khi đang học triết học năm thứ nhất, chúng tôi nhận được một tài liệu về Bolivia do một cha từ Bolivia đem sang, tôi tin nó có đề tựa là “Mười ngôi sao”. Cha hỏi: “Bolivia có mấy vùng?” Chúng tôi trả lời là có 9 vùng. Cha trả lời “có 10 vùng”, rồi giới thiệu từng vùng một ,và sau cùng là vùng thứ 10 cha nhìn biển và không nói lời nào cả. Tôi rất xúc động. Đó là hồi năm 1961. Nếu người ta thấy là có một khát vọng, thì rõ ràng rồi, sau một trận chiến loại này dấy lên các mất mát, thì tôi tin điều quan trọng nhất là đối thoại, là thương thuyết lành mạnh. Giờ đây trong lúc này việc đối thoại có được là chạy tới tòa án La Haye.

Ông Fredy Paredes, thuộc nhật báo Teleamazonas Ecuador hỏi: Thưa ĐTC, trước chuyến viếng thăm của ĐTC nưóc Ecuador náo loạn, sau khi ĐTC rời nước này, những người chống đối chính quyền lại xuống đường biểu tình. Xem ra sự hiện diện của ĐTC tại Ecuador bị sử dụng cho mục đích chính trị đặc biệt câu ĐTC nói: “Nhân dân Ecuador đã đứng lên với phẩm giá”. Con xin hỏi ĐTC theo thứ tự nếu được: “Câu này trả lời cho cái gì? ĐTC có thiệm cảm với dự án chính trị của tổng thống Correa không? ĐTC có tin rằng các lời nhắn nhủ chung mà ĐTC đã đưa ra trong chuyến viếng thăm tại Ecuador nhằm khích lệ sự tăng trưởng, đối thoại, xây dựng dân chủ và không tiếp tục đường lối chính trị gạt bỏ như ĐTC nói, có được thực thi tại Ecuador hay không?

Đáp: Đương nhiên là có các vấn đề chính trị và các cuộc biểu tình. Điều này thì người ta biết rồi. Tôi không biết các khó khăn của nền chính trị tại Ecuador, nên việc đưa ra một ý kiến từ phía tôi sẽ là điều vô nghĩa. Thế rồi người ta nói với tôi,  như một dấu ngoặc trong chuyến viếng thăm của tôi, là tôn trọng chuyến viếng thăm của ĐGH, đó là diều tôi xin cám ơn và trân trọng. Giờ đây các sự vật biến chuyển, và đương nhiên là các vấn đề và các thảo luận chính trị tiếp diễn. Liên quan tới câu nói mà anh đề cập đến, tôi có ý ám chỉ ý thức lớn hơn mà người dân Ecuador có đối với giá trị của họ. Một trận chiến biên giới với Peru không làm được nhiều. Có các lịch sử chiến tranh. Rồi có một ý thức lớn hơn đối với sự khác biệt và phong phú chủng tộc của Ecuador. Và diều này trao ban phẩm giá. Ecuador không phải là một nước bị gạt bỏ. Nó quy chiếu toàn dân và tất cả phẩm giá của dân tộc này, sau cuộc chiến biên giới, họ đã đứng lên với phẩm giá, và đã có ý thức hơn về phẩm giá và sự phong phú của sự hiệp nhất trong khác biệt của mình. Không thể gán cho một tình hình cụ thể, bởi vì cũng chính câu này – người ta bình luận, nhưng tôi không thấy như thế – bị lèo lái để giải thích cả hai tình trạng: chính quyền đã đứng lên tại Ecuador hay những người chống chính quyền đã dứng lên. Một câu nói có thể bị lèo lái, và vì thế tôi tin là cần rất thận trọng. Tôi xin cám ơn câu hỏi cuả anh, bởi vì đó là một kiểu cẩn thận. Và anh đang nêu gương cẩn thận đấy.

Nếu anh chị em cho phép. Việc giải thích một văn bản thật rất quan trọng trong công việc của anh chị em. Không  thể giải thích nó chỉ với một câu. Có những câu là chià khóa  của việc giải thích, và có những câu không là chìa khóa nhưng là những câu qua đi, hay linh động. Vì vậy, cần xem xét hết bối cảnh, tình hình và lịch sử. Nhìn lịch sử của lúc này, hay chúng ta đang nói tới qúa khứ, giải thích một sự kiện quá khứ với kiểu giải thích của thời đó. Chẳng hạn như các cuộc chiến của thập tự quân cần phải giải thích chúng với kiểu giải thích của thời bấy giờ. Điều nòng cốt là giải thích một diễn văn, hay bất cứ bản văn nào, với một loại giải thích toàn vẹn, chứ không cô lập.

Chị Stefania Falasca của nhật báo Avvenire của Italia hỏi: Thưa ĐTC, trong bài nói chuyện với các Phong trào bình dân tại Bolivia ĐTC  đã đề cập tới phong trào tân thực dân và việc tôn thờ thần tiền khống chế nền kinh tế và áp đặt các chính sách thắt lưng buộc bụng luôn luôn thiệt thòi cho dân nghèo. Từ nhiều tuần nay bên Âu châu chúng ta có trường hợp của Hy Lạp và số phận của nước này có nguy cơ ra khỏi khối Euro. ĐTC nghĩ gì về những điều đang xảy ra tại Hy Lạp và cũng liên quan tới Âu châu?

Đáp: Trước hết bởi vì sự can thiệp này cuả tôi trong đại hội của các Phong trào bình dân là lần can thiệp thứ hai. Lần thứ nhất là tại Vaticăng trong phong họp cũ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, hồi đó có 120 tham dự viên. Cuộc hội này đã do Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình tổ chức. Tôi gần gũi với nó, bởi vì nó là một hiện tượng trên toàn thế giới. Kể cả bên Đông phương, bên Philippines, Ấn Độ, Thái Lan. Chúng là các phong trào được tổ chức giữa chúng, không phải chỉ để phản đối mà để tiến tới và có thể sống. Và chúng là các phong trào có sức mạnh, và các anh chị em này đông biết bao. Họ không cảm thấy được đại diên bởi các nghiệp đoàn, vì họ nói rằng các nghiệp đoàn ngày nay là một nghiệp hội, không tranh đấu nữa – tôi đang đơn giản hóa một chút – nhưng ý tưởng của biết bao nhiêu người của các anh chị em này đó là các nghiệp đoàn không tranh đấu cho các quyền lợi của người nghèo. Và Giáo Hội không thể thờ ơ. Giáo Hội có một Giáo lý xã hội  và đối thoại với phong trào này và đối thoại tốt. Anh chị em đã thấy lòng hăng hái cảm nhận được rằng Giáo Hội không xa cách chúng ta, Giáo Hội có một giáo lý giúp chúng ta tranh đấu cho điều này. Đó là một cuộc đối thoại. Không phải Giáo Hội lựa chọn con đường vô chính phủ. Không. Họ không vô chính phủ. Họ là những người làm việc, tìm làm biết bao công việc, kể cả với  những gì bị vứt bỏ, những gì thừa thãi. Họ  thực sụ là các công nhân. Đó là tầm quan trọng của sự kiện này.

Liên quan tới Hy Lạp và hệ thống quốc tế: tôi rất dị ứng với kinh tế, bởi vì cha tôi đã là một kế toán viên và khi không làm xong việc ở sở, thì người đem về nhà làm, cả ngày thứ bẩy và Chúa Nhật, với các sách thời đó, viết theo kiểu chữ gô tích, và người làm việc… và tôi trông thấy cha tôi như vậy, và tôi dị ứng. Tôi không hiều rõ sự việc  ra sao, nhưng chắc chắn sẽ đơn sơ khi nói rằng lỗi chỉ là tại phần này. Các chính quyền Hy Lạp đã đưa tình trạng nợ nần quốc tế tới diểm này cũng có phần trách nhiệm của họ. Với chính quyền mới người ta đã đi tới một việc duyệt xét hơi đúng. Tôi cầu mong và đây là điều duy nhất tôi có thể nói với chị, vì tôi không biết  rõ… tôi cầu mong họ tìm ra một con đường dể giải quyết vấn đề Hy Lạp, và cả một con đường để giám sát không để xảy ra vấn đề này trong các nước khác; và ước gì điều này giúp chúng ta tiến tới, bởi vì con đường vay mượn và nợ nần sau cùng không bao giờ tận. Người ta đã nói với tôi cách đây một năm rằng Liên Hiệp Quốc có một chương trình (nếu ai trong anh chị em biết thì xin giải thích ), một chương trình theo đó một quốc gia có thể tuyên bố mình vỡ nợ, không phải là tình trạng default, nhưng một chương trình tôi đã nghe và không biết nó đã đi tới đâu rồi, và có thật hay không. Tôi nói thể để minh giải thôi, nếu một hãng xưởng có thể tuyên bố mình vợ nợ, thì tại sao một nước lại không thể làm như thế, và đi tới sự trợ giúp của các nước khác? Đó đã là các nền tảng của dự án, nhưng tôi không thể nói thêm gì khác.

Liên quan tới các tân thực dân: đương nhiên là chúng liên quan tới mọi giá trị rồi. Thực dân của chủ thuyết tiêu htụ. Chiếc áo của huynh hướng tiêu thụ đã là một tiến bộ của thực dân. Vì nó đưa tới cho bạn một thói quen không phải là của bạn, và nó cũng khiến cho bạn mất thăng bằng. Chủ thuyết tiêu thụ cũng khiến cho nền kinh tế bên trong một nước mất thăng bằng, cả công lý xã hội và sức khoẻ thể lý và tâm thần cũng mất thăng bằng. Đó là một thí dụ thôi.

Chị Anna Matranga, phóng viên của đài trruyền hình CBS hỏi: Thưa ĐTC một trong các sứ điệp mạnh mẽ nhất của chuyến công du này đó là hệ thống kinh tế toàn cầu thường áp đặt tâm thức của lợi nhuận bằng mọi giá, gây thiệt hai cho dân nghèo. Điều này bị dân Mỹ coi như là lời chỉ trích trực tiếp hệ thống kinh tế và kiểu sống của họ. ĐTC trả lời thế nào cho nhận thức này? Và đâu là lượng định của ĐTC đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên  thế giới?

Đáp: Điều tôi đã nói, câu nói ấy không mới mẻ. Tôi đã nói trong Thông điệp Niềm Vui Phúc Âm: “nền kinh tế này giết chết”. Tôi nhớ rõ câu này. Có một bối cảnh. Và tôi cũng nói trong Thông điệp “Laudato si’ “, việc chỉ trích không phải là một điều mới lạ, người ta biết đó. Tôi đã nghe rằng bên Hoa Kỳ đã có vài lời chỉ trích. Tôi đã nghe, nhưng tôi chưa đọc và nghiên cứu để rồi đối thoại. Chị sẽ hỏi  tôi nghĩ gì, nhưng nếu tôi chưa đối thoại với những người đã chỉ trích, thì tôi không có quyền đưa ra một tư tưởng, cô lập khỏi cuộc đối thoại.

Hỏi: Thưa ĐTC giờ đây ĐTC sẽ sang Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ mình sẽ được tiếp đón như thế nào không, ĐTC có ý tưởng nào về quốc gia này không?

Đáp: Không, bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu, bởi vì cho tới nay tôi đã nghiên cứu ba nước rất xinh đẹp mới viếng thăm này, chúng là một sự phong phú và là một vẻ đẹp. Bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu nước Cuba, vì tôi sẽ viếng thăm trong hai ngày rưỡi, rồi Hoa Kỳ, ba thành phố miền Đông – vì tôi không thể đi đến miền Tây – là Whasington, New York và Philadelphia, tôi phải bắt đầu nghiên cứu các chỉ trích này rồi đối thoại một chút.

Chị Aura Vistas Miguel hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã cảm thấy gì khi trông thấy cây thánh giá hình búa liềm và Chúa Kitô trên đó, do tổng thống Morales dâng tặng? Và cây Thánh Giá ấy đâu rồi?

Đáp: Thật là lạ, tôi không biết điều này và tôi cũng không biết là cha Espinal đã là một nhà điêu khắc và cũng là thi sĩ. Tôi mới chỉ biết trong các ngày này thôi. Tôi đã thấy cây thánh giá, và đối với tôi nó đã là một ngạc nhiên. Điều thứ hai, có thể coi nó như loại nghệ thuật phản đối. Chẳng hạn tại Buenos Aires, cách đây vài năm, đã có một cuộc triển lãm của một điêu khắc gia rất giỏi, có óc sáng tạo, người Argentina. Bây giờ ông ta chết rồi. Nó đã là nghệ thuật phản kháng, và tôi nhớ có một tác phẩm là “Chúa Kitô bị đóng đanh trên một máy bay bỏ bom đang lao đầu xuống”. Đó đã là một chỉ trích chống lại Kitô giáo liên minh với chế độ tư bản là máy bay bỏ bom. Như thế, điểm thứ nhất tôi đã không biết, điểm thứ hai tôi định tính nó như là nghệ thuật phản kháng, trong một vài trường hợp có thể gây xúc phạm. Thứ ba, trong trường hợp cụ thể ở đây Cha Espinal thuộc loại này. Điều này thì tôi biết, vì hồi đó tôi là phân khoa trưởng phân khoa thần học, và người ta đã nói nhiều tới chuyện này, tới các khuynh hướng khác nhau và ai là các người đại diện. Trong cùng năm ấy Cha Bề Trên tổng quyền dòng Tên Arrupe đã viết một bức thư cho toàn dòng liên quan tới việc phân tích  thực tại thần học theo khuynh hướng mác xít, và khẳng định rằng làm như thế là không được. Chúng là các điều khác nhau, làm như thế là không được và không đúng đắn. Và bốn năm sau, năm 1984 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tập sách nhỏ đầu tiên chỉ trích điều này, đó là tuyên bố đầu tiên về nền thần học giải phóng. Rồi đến tập thứ hai mở ra các viễn tượng có tính chất kitô hơn. Tôi đang đơn giản hoá một chút có phải thế không ạ? Chúng ta hãy giải thích thời đó Espinal đã là một người hứng khởi đối với phân tích này của thực tại mác xít, cũng như của thực tại thần học, bằng cách dùng chủ thuyết mác xít. Tác phẩm này phát xuất từ đó. Cả các bài thơ của cha Espinal cũng thuộc loại phản kháng này, nhưng đó đã là cuộc sống, tư tưởng của cha, cha đã là một người đặc biệt, với biết bao nhiêu tài năng thiên phú, và cha tranh đấu trong ý hướng ngay lành. Tôi đã phải giải thích như thế và nói với anh chị em để đừng có các ý kiến sai lầm. Cây thánh giá ấy giờ đây tôi mang theo với tôi, đi với tôi. Có lẽ chị đã nghe biết là tổng thống Morales đã muốn trao tặng tôi hai huân chương, huân chương quan trọng nhất nước Bolivia và huân chương kia thuộc Hội  cha Espinal, một hội mới. Tôi  đã không bao giờ nhận một huân chương, nó không thích hợp với tôi. Nhưng tổng thống đã làm điều này với tất cả thiện chí với ưóc mong khiến cho tôi hài lòng. Và tôi nghĩ rằng chúng đến từ nhân dân Bolivia. Tôi đã cầu nguyện trên  các huân chương ấy, và tôi đã nghĩ, nếu tôi đem về Vaticăng, thì chúng sẽ nằm trong một viện bảo tàng, và sẽ không có ai trông thấy. Do đó tôi đã nghĩ để chúng lại cho Đức Bà Copacabana, là Mẹ của dân nước Bolivia. Chúng sẽ được đem đến đền thánh Đức Mẹ Copacabana, tôi đã giao hai huân chương ấy rồi. Trái lại Chúa Kitô thì tôi đem theo với tôi.

Chị Anaiis Feuga hỏi: Thưa ĐTC, trong thánh lễ tại Guayaquil ĐTC đã nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục phải làm chín mùi một sự phân định để tìm ra các giải pháp cụ thể cho các khó khăn của gia đình. Rồi ĐTC đã xin tín hữu cầu nguyện cho những gì đối với chúng ta xem ra là ô uế, gây gương mù gương xấu, hay khiến cho chúng ta sợ hãi, để Thiên Chúa có thể biến đổi thành phép lạ. Xin ĐTC xác định đâu là các tình trạng ô uế hay gây hoảng sợ hoăc gây gương mù gưong xấu mà ĐTC muốn ám chỉ.?

Đáp: Ở đây nữa tôi cũng sẽ giải thích bối cảnh văn bản. Tôi đã nói tới phép lạ rượu ngon, và tôi nói rằng các vại nước đầy, nhưng là để cho việc thanh tẩy. Mỗi người vào dự lễ cưới đều thanh tẩy và để các dơ nhớp tinh thần của mình ở ngoài. Đó là lễ nghi thanh tẩy trưóc khi vào một nhà nào hay vào đền thờ. Một lễ nghi mà bây giờ chúng  ta có trong nước thánh: nó là phần còn lại của lễ nghi do thái xưa kia. Tôi đã nói rằng chính Chúa Giêsu đã làm ra rượu ngon nhất với nước để rửa các nhơ nhớp, rửa cái tồi tệ nhất. Nói chung chung, tôi đã nghĩ tới việc chú giải này: gia đình bị khủng hoảng – chúng ta tất cả đều biết – chỉ cần đọc tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình mà anh chị em biết đó, vì nó đã được trình bầy trong đó rồi. Chúng tôi đã ám chỉ tất cả những điều ấy: ước chi Chúa thanh tẩy chúng ta khỏi cuộc khủng hoảng này, khỏi biết bao nhiêu điều được miêu tả trong Tài liệu làm việc. Nó là một điều chung chung, chứ tôi đã không nghĩ đến một điểm đặc biệt nào. Xin Chúa khiến cho chúng ta trở nên tốt lành hơn, cho gia đình của chúng ta trưởng thành và tốt lành hơn. Gia đình đang gặp khủng hoảng, xin Chúa thanh tẩy chúng ta và chúng ta tiến tới. Nhưng các điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này thì ở trong Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà anh chị em có.

Anh Javier Martinez Brocal của hãng thông tin  Romereports hỏi: Thưa ĐTC, xin cám ơn ĐTC vì cuộc đối thoại giúp cá nhân chúng con cũng như công việc của chúng con. Con hỏi thay mặt tất cả các nhà báo nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta đã thấy việc trung gian giữa Cuba và Hoa Kỳ xuôi chảy. ĐTC có nghĩ là có thể làm điều gì đó giống như thế trong các tình hình tế nhị khác của Châu Mỹ Latinh hay không, con nghĩ tời Venezuela và cả Colombia nữa? Rồi con có một tò mò: con nghĩ tới cha con ít hơn ĐTC vài tuổi, nhưng chỉ có phân nửa năng lực của ĐTC thôi. Chúng con đã trông thấy năng lực ấy của ĐTC trong chuyến viếng thăm này, và từ hai năm rưỡi nay. ĐTC có bí quyết nào vậy?

Đáp: Đâu là loại “ma tuý” ĐTC dùng, anh ấy muốn hỏi vậy ấy mà.  Đó đã là câu hỏi.

Tiến trình giữa Cuba và Hoa Kỳ đã không có sự trung gian nào. Nó đã không có tính cách trung gian. Đã có ước muốn từ hai phía. Và tôi xin nói thật, điều này đã xảy ra hồi tháng giêng năm ngoái và ba tháng trôi qua trong đó tôi đã chỉ cầu nguyện cho việc này thôi, tôi đã không quyết định gì: mà có thể làm gì cho hai nước này sau 50 năm họ ở trong tình trạng như thế? Nhưng Chúa đã làm cho tôi nghĩ tới một Hồng Y. Ngài đã qua đó, đã nói chuyện, rồi tôi cũng đâu có biết gì đâu, rồi một hôm ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, cũng hiện diện ở đây, đến nói vơi tôi: Ngày mai chúng con có cuộc họp với hai phái đoàn… “Mà làm sao?” “Vâng họ nói chuyện với nhau giữa hai nhóm và họ đang làm điều đó”. Nó đã chạy một mình, đã không có việc làm trung gian. Đó đã là thiện chí của hai nước: công lao là của họ, chính họ đã làm điều này. Chúng tôi hầu như đã không làm gì cả, chỉ làm các điều bé nhỏ thôi, và giữa tháng 12 thì tin được loan ra. Câu chuyện là như thế, thực sự không có gì khác nữa. Điểu tôi lo lắng là trong lúc này đây tiến trình hòa bình đừng ngưng lại, và trong nghĩa này chúng tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ, trong biết bao cách thế. Nhưng sẽ là điều xấu, nếu câu chuyện không tiến tới. Bên Venezuela HĐGM làm việc để đem lại một chút hòa bình, nhưng ở đây cũng thế đã không có việc làm trung gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ đó đã là do Chúa và hai việc tình cờ, rồi nó tiến tới một mình. Đối với Colombia tôi cầu mong và cầu nguyện,  và chúng ta phải cầu nguyện để tiến trình này đừng dừng lại. Nó là một tiến trình đã kéo dài hơn 50 năm nay rồi, và đã có biết bao nhiêu người chết! Tôi nghe nói là có hàng triệu. Liên quan tới Venzuela tôi không có gì để nói.

Ah còn chuyện “ma tuý”. Nhưng mà chỉ có trà mate giúp tôi thôi, tôi đã không nếm coca. Điều này rõ rồi chứ?

Anh Ludwig Ring-Eifel thuộc hãng thông tấn KNA của Đức hỏi: Thưa ĐTC, trong chuyến công du này chúng con đã nghe biết bao nhiêu sứ điệp mạnh mẽ cho người nghèo, cả các sứ điệp mạnh mẽ và đôi khi nghêm khắc nữa đối với người giầu và kẻ quyền th. Nhưng có một điều mà chúng con đã nghe nói tới rất ít đó là các sứ điệp cho giới trung lưu, nghĩa là những người làm việc, trả thuế, dân thường. Con muốn hỏi tại sao trong huấn quyền của ĐTC lại có ít sứ điệp cho lớp trung lưu như vậy? Và nếu có thì đó là sứ điệp nào?

Đáp: Xin cám ơn anh rất nhiều, đó là một sửa sai rất đẹp. Xin cám ơn. Anh có lý, đó là một sai lầm từ phía tôi. Tôi phải nghĩ tới điều này. Tôi sẽ đưa ra vài bình luận, nhưng không phải để biện minh cho tôi. Anh có lý, tôi phải suy nghĩ một chút. Thế giới này có nhiều cực. Lớp trung lưu trở thành bé nhỏ hơn. Có sự  toàn cầu hóa lớn giữa người giầu và người nghèo. Đây là điều có thật, và có lẽ điều này khiến cho tôi đã không chú ý tới giới trung lưu. Tôi nói về thế giới, vài nước thì không, chúng  chạy rất tốt, nhưng trên thế giới nói chung người ta trông thấy việc tạo thành hai cực này và con số người nghèo rất lớn. Thế rồi tại sao tôi nói tới người nghèo? Bởi vì nó là trọng tâm của Tin Mừng, và tôi luôn luôn nói từ Tin Mừng về sự nghèo khó, tự nó có tính cách xã hội học. Tôi cũng có vài lời nói về lớp trung lưu, nhưng chỉ lướt qua. Nhưng người dân đơn sơ, ngưòi dân thường, lớp công nhân, giai tầng ấy có giá trị lớn. Nhưng tôi tin rằng anh đã nói tới một điều mà tôi phải làm, tôi phải đào sâu hơn giáo huấn về điểm này, Tôi xin cám ơn anh về sự trợ giúp.

Chị Vania De Luca thuộc chương trình truyền hình Rainews 24 giờ hỏi: Thưa ĐTC, trong các ngày này DTC đã nhấn mạnh trên sự cần thiết của các lộ trình hội nhập, bao gồm xã hội, chống lại tâm thức gạt bỏ. ĐTC đã ủng hộ cả các dự án đi theo hướng này của việc sống hạnh phúc. Cả khi ĐTC đã cho biết phải nghĩ tới chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ tới việc đề cập tới các vấn đề này tại Liên Hiệp Quốc, tại Tòa Bạch Ốc hay không? ĐTC có nghĩ tới chuyến công du này khi nói  tới các vấn đề này hay không?

Đáp: Không, tôi đã chỉ nghĩ đến chuyến viếng thăm cụ thể này và tới thế giới nói chung. Nhưng nợ nần của các nước trên thế giới trong lúc này thật kinh khủng, Tất cả mọi nước đều nợ, và có một vài nước đã mua nợ của các nước lớn. Đây là một vấn đề quốc tế. Nhưng với điều này tôi đã không đặc biệt nghĩ tới chuyến đi Hoa Kỳ.

Anh Courtney Wals của đài Fox News hỏi: Thưa ĐTC, chúng ta đã nói một chút về Cuba, nơi ĐTC sẽ viếng thăm vào tháng 9 tới đây trước khi đi Hoa Kỳ, cũng như nói tới vai trò của Vaticăng trong việc làm cho hai nước xích lại gần nhau. Bây giờ Cuba sẽ có một vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, theo ĐTC chính quyền La Habana có phải cải tiến danh tiếng của mình liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người kể cả quyền tự do tôn giáo không? Và ĐTC có tin rằng Cuba có nguy  cơ mất đi điều gì trong liên hệ mới này với quốc gia mạnh nhất thế giới hay không?

Đáp: Các quyền con người là để cho tất cà mọi người và người ta tôn trọng các quyền con người chỉ trong một hai nước mà thôi. Tôi sẽ nói rằng trong biết bao nhiêu nước, trong biết bao nhiêu miền trên thế giới này người ta không tôn trọng các quyền con người.

Cuba mất cái gì và Hoa Kỳ mất cái gì? Điều mà cả hai nước đều có được đó là hòa bình. Đây là điều chắc chắn. Sự gặp gỡ, tình bạn, sự cộng tác: đó là điều chiếm được. Nhưng hai nước mất cái gì thì tôi chưa nghĩ ra được; sẽ là những điều cụ thể, nhưng luôn luôn trong một cuộc thương thuyết nguời ta  được và mất. Trở lại với các quyền con người và tự do tôn giáo, anh chị em hãy nghĩ trên thế giới có các nưóc, kể cả vài nước âu châu, vì các lý do khác nhau người ta không để cho bạn làm một dấu chỉ tôn giáo nữa. Và trong các đại lục khác cũng thế, đúng không? Điều này đúng, Tự do tôn giáo không được tôn trọng trên toàn thế giới, trong biết bao nhiêu nước xảy ra như thế.

Anh Benedicte Lutaud hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC như là vị lãnh đạo quốc tế mới của các chính sách thay thế , con muốn biết tại sao ĐTC lại chú ý tới các Phong trào bình dân, và ít chú ý tới thế giới kinh doanh như vậy, và ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay ra cho các phong trào bình dân rất đời hay không?

Đáp: Thế giới của các Phong trào bình dân là một thực tại; nó là một thực tại rất to lớn trên toàn thế giới. Vậy tôi đã làm gì? Điều tôi đã làm là trao ban giáo lý xã hội của Giáo Hội cho nó, đó cũng là điều tôi làm đối với giới kinh doanh. Có một giáo lý xã hội của Giáo Hội. Nếu anh đọc điều tôi đã nói với các Phong trào bình dân, là một diễn văn khá dài, nó là một tóm lược giáo lý của Giáo Hội. Tất cả những gì tôi đã nói là giáo lý xã hội của Giáo Hội, và khi tôi phải nói với thế giới kinh doanh tôi cũng nói cùng điều đó, nghĩa là Giáo lý xã hội của Giáo Hội nói gì với thế giới kinh doanh. Thí dụ trong Thông điệp “Laudato si’” có một đoạn về công ích và cả nợ nần xã hội của tư sản đi theo chiều hướng này đó là áp dụng giáo lý xã hội của Giáo Hội.

Hỏi: ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay này không?

Đáp: Ở đây chính tôi theo Giáo Hội, bởi vì tôi chỉ đơn sơ rao giảng Giáo Lý xã hội của Giáo Hội cho Phong trào này. Đó không phải là một bàn tay giang ra cho một kẻ thù, nó không phải là một sự kiện chính trị, không. Nó là một sự kiện dậy giáo lý. Tôi muốn rằng điều này rõ ràng.

Chị Cristina Cabrejas hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có sợ hãi rằng các diễn văn của ĐTC bị lèo lái bởi các chính quyền, các nhóm quyền lực, các phong trào không?

Đáp: Tôi lập lại một chút những gì đã nói từ đầu. Mỗi một lời nói, mỗi một câu của một diễn văn có thể bị lèo lái. Đó là điều nhà báo Ecuador đã hỏi tôi. Cùng một câu ấy nhưng có vài nguời nói là phò chính quyền, và người khác thì nói là chống chính quyền. Đôi khi có các tin tức chỉ lấy một câu và bên ngoài bối cảnh. Vâng, tôi không sợ, tôi chỉ nói một cách đơn sơ nhưng anh chị em hãy nhìn bối cảnh. Nếu tôi sai, thì với một chút xấu hổ tôi xin lỗi thôi và tiếp tục.

Hỏi: Thưa ĐTC, xin cho phép con hỏi đùa một chút. ĐTC nghĩ gì về tất cả các hình tự chụp giữa thánh lễ mà giới trẻ, trẻ em và các bạn bè họ làm?

Đáp: Tôi nghĩ gì ấy à? Đó là một nền văn hóa khác. Tôi cảm thấy mình là ông cố nội. Hôm nay khi từ giã, một anh cảnh sát to lớn, có lẽ khoảng 40 tuổi, đã nói với tôi: con xin chụp một bức hình vói ĐTC. Tôi đã nói với anh: mà anh là một thiếu niên. Vâng, đó là một nền văn hóa khác, nhưng tôi tôn trọng nó.

Anh Andrea Tornielli hỏi: Thưa ĐTC, đúc kết lại, ĐTC đã muốn để lại cho Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh sứ điệp nào trong những ngày này? Và Giáo Hội Mỹ Latinh có vai trò nào, kể cả như dấu chỉ trong thế giới?

Đáp: Giáo Hội Mỹ Latinh có một sự phong phú lớn: đó là một Giáo Hội trẻ và điều này quan trọng. Một Giáo Hội trẻ với một sự tươi mát, cả với một vài không hình thức. Nó cũng có một nền thần học, một nghiên cứu phong phú. Tôi đã muốn trao ban tâm hồn cho Giáo Hội trẻ này và tôi tin rằng Giáo Hội trẻ này có thể cho chúng ta biết bao nhiêu điều hay đẹp. Trong cả ba quốc gia dọc đường có các người cha các bà mẹ với trẻ em; họ cho thấy các em. Chưa bao giờ tôi đã lại trông thấy nhiều trẻ em như vậy, biết bao nhiêu trẻ em. Đó là một dân, và Giáo Hội cũng như vậy, đó là một bài học cho chúng ta, cho Âu châu, nơi số sinh giảm sút gây hoảng sợ một chút, và cả việc cũng ít có các đường lối chính trị trợ giúp các gia đình đông con. Tôi nghĩ tới nước Pháp có một đường lối chính trị đẹp trợ giúp các gia đình đông con nên đã đạt hơn 2% số sinh, trong khi các nước khác thì có số sinh gần zero, cả khi không phải mọi nước đều như thế. Tôi tin rằng bên Albania có 45%, nhưng bên Paraguay có tói hơn 70% dân số từ 40 tuổi trở xuống. Sự phong phú của dân tộc và Giáo Hội này đó là một Giáo Hội sống động. Đó là một sự phong phú, một Giáo Hội của sự sống. Điều này quan trọng. Tôi tin rằng chúng ta phải học hỏi từ điều này và sửa chữa lại, bởi nếu không, nếu không có con cái… Đó là điều mà tôi đã nói biết bao lần về sự gạt bỏ! Người ta gạt bỏ trẻ em, người ta gạt bỏ người già, và với sự kiện thiếu công ăn việc làm người ta gạt bỏ người trẻ. Vì thế các dân tộc mới, các dân tộc trẻ trao ban cho chúng ta nhiều sức mạnh hơn. Đối với Giáo Hội tôi sẽ nói rằng một Giáo Hội trẻ – với biết bao nhiêu vấn đề, bởi vì có các vấn đề – tôi tin rằng đó là sứ điệp mà tôi tìm thấy: đừng sợ hãi cho tuổi trẻ này và cho sự tươi mát này của Giáo Hội.  Có thể đó là một Giáo Hội hơi vô kỷ luật một chút, nhưng với thời gian sẽ kỹ luật và trao ban cho chúng ta biết bao điều tốt đẹp.

(SD 13-7-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Xin phép, cám ơn và xin lỗi

Xin phép, cám ơn và xin lỗi

ĐTC tiếp kiến các trẻ em ngày 13-05-2015

Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta bước vào trong tình yêu của gia đình, duy trì cuộc sống hạnh phúc và bình an trong gia đình và trong xã hội, vì chúng giúp tránh các rạn nứt có thể trở thành các hố sâu ngăn cách. Vì thế đừng bao giờ kết thúc ngày sống trong gia đình mà không làm hòa với nhau.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 13-5-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài Gia đình và ba lời nói viết trên cửa: Xin phép, cám ơn và xin lỗi. ĐTC nói:

Bài giáo lý hôm nay giống như cửa vào của một loạt các suy tư về cuộc sống gia đình, cuộc sống thực tế của nó với các thời điểm và các biến cố. Trên cánh cửa này có viết ba từ: “Có đuợc phép không?”, “cám ơn”, “xin lỗi”. Thật thế các từ này mở ra con đường giúp sống hạnh phúc trong gia đình. …

Chúng là các từ đơn sơ, nhưng thực thi chúng thì lại không đơn sơ như thế! Chúng gói ghém một sức mạnh lớn: sức mạnh gìn giữ gia đình cả qua hàng ngàn khó khăn và thử thách; trái lại việc thiếu chúng, từ từ mở ra các nứt rạn có thể làm cho nó sụp đổ.

Chúng ta thưòng coi các từ đó như các từ của “nền giáo dục tốt”. Đúng nền giáo dục tốt quan trọng. Một Giám Mục lớn là thánh Phanxicô de Sales, thường nói: “nền giáo dục tốt là một nửa sự thánh thiện”. Tuy nhiên hãy chú ý trong lịch sử chúng ta cũng nhận ra một khuynh hướng hình thức của các cung cách hành xử có thể trở thành mặt nạ che dấu sự khô cằn của tâm hồn và sự thờ ơ đối với tha nhân. Người ta thường nói :”Đàng sau các cung cách tốt ẩn dấu các thói quen xấu”. Cả tôn giáo  cũng không thoát khỏi nguy cơ này, khiến cho việc tuân giữ hình thức rơi vào tinh thần thế tục. Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu đưa ra các cung cách tốt và trích dẫn cả Thánh Kinh nữa. Xem ra nó là một thần học gia. Kiểu của nó bề ngoài đúng đắn, nhưng ý hưóng của nó là nhằm làm sai lệch sự thật của tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta trái lại hiểu nền giáo dục tốt trong các phạm trù đích thực, nơi kiểu của các tương quan tốt đâm rễ sâu trong tình yêu sự thiện và trong sự tôn trọng tha nhân. Gia đình sống nhờ sự tinh tế ấy của tình yêu thương nhau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC khai triển từng từ một. Trước hết là “xin phép” hay hỏi “Có được phép không?” Khi chúng ta lo lắng xin một cách lễ phép, cả khi chúng ta nghĩ rẳng có thể yêu sách, là chúng ta đặt một sự  bảo vệ đích thật cho tinh thần sống chung trong hôn nhân và gia đình. Bước vào trong cuộc sống của người khác, cả khi nó là một phần cuộc sống của chúng ta, đòi hỏi sự tế nhị của một thái độ không xâm lăng, canh tân lòng tin tưởng và sự kính trọng. Chuyện riêng không cho phép coi mọi sự là tự nhiên. Và tình yêu càng thân tình và sâu xa bao nhiêu lại càng đòi hỏi việc tôn trọng sự tự do và khả năng chờ đợi người khác mở cửa tâm lòng họ bấy nhiêu. Liên quan tới điểm này chúng ta hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói trong sách Khải Huyền: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20). Cả Chúa cũng xin phép để vào! Chúng ta đừng quên điều đó.

Từ thứ hai là “cám ơn”. Vài lần người ta nghĩ rằng chúng ta đang trở thành một nền văn minh của các cung cách hành xử xấu và các lời nói xấu, làm như thể chúng là dấu chỉ của sự thoát ly. Nhiều lần chúng ta cũng nghe nói công khai như thế. Sự tử tế và khả năng cám ơn được xem như một dấu chỉ của sự yếu đuối, có khi lại dấy lên ngờ vực. Phải chống lại khuynh hướng này ngay rong gia đình. Chúng ta phải đòi hỏi đối với việc giáo dục sống biết ơn, nhớ ơn : phẩm giá con người và công bằng xã hội đều đi qua đó. Nếu cuộc sống gia đình lơ là lối sống này, cả cuộc sống xã hội cũng sẽ mất nó. Thế rồi, đối với một tín hữu lòng biết ơn là trung tâm của đức tin : một kitô hữu không biết cám ơn là một người đã quên đi tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ câu Chúa Giêsu hỏi khi chữa mười người phong cùi và thấy chỉ có một người trong bọn họ trở lại cám ơn (x. Lc 17,18).

Lời thứ ba là « xin lỗi ». Đây là lời khó nói, chắn chắn rồi nhưng cần thiết. Khi thiếu nó, các nứt rạn nhỏ trở thành lớn hơn – cả khi không muốn – cho tới khi trở thành các hố sâu.  Không phải vô tình trong lời kinh Lậy Cha Chúa Giêsu dậy chúng ta tìm thấy kiểu nói này : « Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con » (Mt 6,12). Thừa nhận dã thiếu sót và ước ao trả lại những gì đã bị lấy mất  – tôn trọng, chân thành, yêu thương – khiến đáng được tha thứ. Và như thế là chúng ta ngăn chặn nhiễm trùng. …

Nếu chúng ta không có khả năng xin lỗi, thì có nghĩa là chúng ta cũng không có khả năng tha thứ. Trong gia đình nơi người ta không xin lỗi thì bắt đầu thiếu dưỡng khí, nước tù đọng. Biết bao nhiêu vết thương đối với lòng yêu mến, biết bao nhiêu xâu xé trong các gia đình bắt đầu với sự mất đi lời nói qúy báu này « Xin lỗi ». Trong cuộc sống hôn nhân người ta cãi nhau biết bao nhiêu lần… có khi điã chén bay nữa, nhưng tôi xin cho anh chị em một lời khuyên : đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hòa với nhau. Và để làm điều đó thì chỉ cần một cử chỉ bé nhỏ, một cái vuốt ve…

Ba lời chìa khóa này của gia đình là những lời đơn sơ và có lẽ ban đầu chúng khiên cho chúng ta cười. Nhưng khi chúng ta quên chúng, thì không có gì để mà cười, có đúng thế không ? Có lẽ nên giáo dục của chúng ta bỏ bê chúng quá. Xin Chúa giúp chúng ta đặt để chúng trở lại vào đúng chỗ, trong con tim chúng ta, trong nhà chúng ta và trong cả cuộc sống chung xã hội nữa.

ĐTC dã chào các đoàn hành hương đến từ các nưóc Bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương đến từ Đài Loan, Camerun, Mêhicô, Honduras, Argentina, Brasil. Ngài đặc biệt chào các thành viên Hội Tương trợ truyền giáo quốc tế Pháp hoạt động trong lãnh vực y tế và cổ võ truyên giáo trong các giáo phận và dòng tu.

Chào các đoàn hành hượng nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nói  13 tháng 5 là lễ Đức Mẹ Fatima. Ngài xin tín hữu gia tăng các cử chỉ hằng ngày tôn sùng Mẹ và noi gương Mẹ và hãy tín thác cho Mẹ mọi sự để trở thành dụng cụ lòng thương xót và hiền dịu của Thiên Chúa đối với các thành phần khác trong gia đình cũng như bạn bè thân hữu. ĐTC mời đức ông người Bồ Đào Nha đọc một kinh Kính Mừng bằng tiếng Bồ kính Đức Mẹ.

Ngài cũng chào các trẻ em Ba Lan mới rước lễ lần đầu và chúc các em càng ngày càng yêu Chúa Giêsu hơn, tín thác nơi Chúa và sống thân tình với Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô của Bộ Truyền giáo đã xong chương trình học và chuẩn bị về nước làm việc. Ngài khích lệ các vị đừng bao giờ đánh mất đi lòng hăng say truyền giáo.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC khuyên mọi người vun trồng lòng tôn sùng Mẹ Maria, siêng năng lần hạt mỗi ngày và cảm thấy Mẹ luôn gần gũi đặc biệt trong những lúc khó khăn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban  cho mọi nguời.

 Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Y phục xứng kỳ đức

Y phục xứng kỳ đức

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
 
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

a. Điều khó hiểu
 
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán“. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

b. Ý nghĩa dụ ngôn
 
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “cáctá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
 

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới : người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới
 
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo,trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tá điền và vườn nho

Tá điền và vườn nho

Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.

Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.

Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.

Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.

Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.

Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.

Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?

Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.

Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Sưu tầm

Bài học tha thứ

Bài học tha thứ

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn "dĩ hòa vi quý", không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.

Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.

Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.

Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ "quá tam ba bận" mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.

Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.

Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.

Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì "oán báo oán, oán lại chập chùng". Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là "hãy yêu thương nhau". Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa".

Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.

Củng cố đức tin

Củng cố đức tin

Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.

Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Thomas, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này – trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay – đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Thomas: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Thomas không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử thách, những trở ngại.

Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Thomas, thái độ của Thomas, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để biến đổi ông, và Thomas đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Thomas nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".

Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".

Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần hành động như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức tin.

Veritas Radio

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Xin Chúa phục sinh ban hòa giải, hòa bình hòa hợp cho các vùng có xung khắc chiến tranh và bạo lực trên thế giới

Đó là lời cầu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra trong buổi đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và thế giới trưa Chúa Nhật 20-4-2014.

Trước đó lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô, đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới. Quảng trường thánh Phêrô đầy kín tín hữu. Những ai không tìm ra chỗ phải theo dõi thánh lễ tại quảng trường Pio XII và đại lộ Hòa Giải. Thánh lễ đã được trực tiếp truyền đi trên các hệ thống truyền hình âu châu và quốc tế. Trong số các người tham dự thánh lễ, ngoài các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục hiên diên tại Roma, có ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Thềm Đền Thờ thánh Phêrô được trang hoàng bằng 35,000 cây cảnh và nhiều loại hoa khác nhau, trong đó có 12,000 hoa Tulip mầu đỏ, vàmg, da cam, trắng, hồng và tím; 6,000 hoa Thủy tiên nhiều mầu, và 2,500 huệ dạ hương. Ngoài ra còn có 8,000 hoa Thủy tiên vàng. Chung quanh bàn thờ có 2,500 bông hồng trắng. Tất cả đều được trồng bên Hòa Lan cho dịp này, và do nhóm 30 chuyên viên Hòa Lan trưng bầy dưới sự điều động của ông Charles van der Voort, em ruột của ông Nic van der Voort, và sự cộng tác của các nhân viên làm vườn của quốc gia thành phố Vaticăng.

Truyền thống tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng trong dịp lễ Phục Sinh và buổi đọc sứ điệp và ban Phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới đã do các nhà trồng hoa Hòa Lan bắt đầu năm 1986. Năm 1985 chuyên viên trồng hoa Nic van der Voort đã xin sang Roma để trang hoàng hoa trong lễ phong Chân phước cho linh mục Titus Brandsma người Hòa Lan. Ông đã nảy sinh ra sáng kiến tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng và gửi phái đoàn chuyên viên sang trưng bầy hoa vào năm sau đó. Và truyền thống tốt đẹp này đã dươc duy trì trong 29 năm qua.

Sau lời chào mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói: ”Anh chị em thấn mến, chúng ta hãy khẩn nài phước lành của Thiên Chúa Cha chúng ta, để lễ nghi rảy nước này làm sống dậy trong chúng ta ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, qua đó chúng ta đã được dìm mình trong cái chết cứu độ của Chúa hầu sống lại với Người trong cuộc sống vĩnh cửu. Ca đoàn Sistina đã hát thánh ca ”Tôi đã thấy nước vọt ra từ đền thánh của Thiên Chúa”.

Các bài sách Thánh đã được đọc trong tiếng Tây Ban Nha và Anh. Thánh vịnh và Tin Mừng đã được hát và công bố bằng tiếng Latinh và Hy lạp. Năm nay lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương trùng ngày với lễ Phục Sinh của Giáo Hội Đông Phương, nên sau phần công bố Tin Mừng băng tiếng Hy lạp, ca đoàn đông phương đã hát các câu thánh ca của phụng vụ Bisantin, xưa kia vẫn được hát trước Đức Giáo Hoàng trong ngày lễ Phục Sinh.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Hindi, Pháp, Hoa, Đức, và Đại Hàn cầu cho các nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và gia đình nhân loại. Xin Chúa phục sinh hiện diện và nâng đỡ Giáo Hội; xin cho mọi thụ tạo và mọi người biết tôn thờ Chúa, đặc biệt xin cho các niềm hy vọng của các dân tộc được hiện thực; cho con người biết chấm dứt các ích kỷ, tham lam chiếm hữu và chay theo quyền bính kiêu căng; xin Chúa thoa dịu các vết thương của khổ đau, nghèo đói, âu lo và cô đơn; xin Chúa xót thương các con cái Người bị ghi dấu bởi sự giòn mỏng và tội lỗi và cho họ được tràn xầy lòng thương xót của Người. Một trăm năm mươi Linh Mục đã cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Sau thánh lễ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi một vòng để chào tín hữu. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện trên bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô để đọc sứ điệp Phục Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

Đội cận vệ Thụy sĩ và đại diện các lực lượng binh chủng Italia đã dàn hàng chào danh dự, và ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và Italia.

Trong sứ điệp Đức Thánh Cha đã duyệt qua các tình hình căng thẳng, khổ đau và nóng bỏng hiện nay trên thế giới. Mở đầu sứ điệp ngài chúc mừng lễ mọi người và nói: Anh chị em thân mến, xin chúc anh chị em lễ Phục Sinh tốt lành thánh thiện! ”Chúa Kitô đã sống lại, anh chị em hãy đến và hãy nhìn xem!” Lời thiên thần loan báo cho các phụ nữ vang lên trong Giáo Hội tản mác khắp thế giới: ”Này các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đanh. Người không ở đây. Người đã sống lại… hãy đến và nhìn xem nơi Người đã nằm” (Mt 28,5-6). Đức Thánh Cha nói:

Đó là tột đỉnh của Phúc Âm, là Tin Mừng tuyệt diệu: Đức Giêsu đấng bị đóng đinh đã sống lại! Biến cố này là nền tảng đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, Kitô giáo sẽ mất đi giá trị của nó; toàn sứ mệnh của Giáo Hội sẽ mất sự thúc đẩy, bởi vì chính từ đó nó đã khởi hành và luôn luôn tái khởi hành. Sứ điệp mà tín hữu kitô đem đến cho thế giới là điều này: Đức Giêsu Tình yêu nhập thể đã chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho người sống lại và đã đặt Người làm Chúa của sự sống và sự chết. Nơi Đức Giêsu, Tình Yêu đã chiến thắng thù hận, lòng thương xót đã chiến thắng tội lỗi, sự thiện chiến thắng sự dữ, chân lý chiến thắng dối trá, sự sống chiến thắng sự chết. Vì thế chúng ta nói với tất cả mọi người: ”Hãy đến và hãy xem!”. Trong mọi trạng huống của con người, bị ghi dấu bới sự giòn mỏng, tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ là một lời nói, nhưng là một chứng tá tình yêu nhưng không và trung thành: đó là ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ tha nhân, đó là gần gũi những ai bị thương tích bởi cuộc sống, chia sẻ với người thiếu thốn những gì cần thiết, ở lại bên cạnh người đau yếu, già cả hay bị loại trừ… ”Hãy đến và hãy xem!”: Tình Yêu mạnh hơn, Tình Yêu trao ban sự sống, tình yêu làm nở hoa niềm hy vọng trong sa mạc. Với niềm vui chắc chắn này trong tim hôm nay chúng con hướng lên Ngài, lậy Chúa phục sinh! Xin hãy giúp chúng con tìm Chúa để tất cả có thể gặp gỡ Chúa, biết rằng chúng con có một người Cha và không cảm thấymồ côi, rằng chúng con có thỂ yêu Chúa và thờ phượng Chúa.

Xin hãy giúp chúng con đánh bại nạn đói đang trở thành trầm trọng hơn bởi các xung khắc và các phung phí vô biên mà chúng con là đồng lõa. Xin làm cho chúng con có khả năng che chở những người không được bênh đỡ, nhất là các trẻ em, phụ nữ người già, đôi khi trở thành đối tượng của khai thác bóc lột và bỏ rơi. Xin làm cho chúng con có thể săn sóc các anh chị em bị bệnh dịch abola bên Guinea Conacry, Sierra Leone và Liberia, cũng như các người bị biết bao nhiêu bệnh tật khác đang lan tràn vì không được săn sóc và vì nghèo túng cùng cực. Xin an ủi những ai hôm nay không thể cử hành lễ Phục sinh với người thân vì bị giật mất khỏi tình yêu thương của họ một cách bất công, cũng như nhiều người, các linh mục tu sĩ và giáo dân bị bắt cóc tại nhiều nơi trên thế giới. Xin an ủi những người đã rời bỏ quê hương để di cư tới các nơi mà họ có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, để sống cuộc đời mình với phẩm giá, và nhiều khi để tự do tuyên xưng đức tin. Đức Thánh nói thêm trong lời cầu dâng lên Chúa phục sinh:

Lạy Chúa Giêsu vinh hiển, chúng con xin Chúa chấm dứt mọi chiến tranh, mọi thù nghịch lớn nhỏ, cũ mới! Chúng con đặc biệt khẩn nài Chúa cho dân nước Siria thân yêu để tất cả những ai phải khổ đau vì các hậu qủa của cuộc xung đột có thể nhận được các trợ giúp nhân đạo cần thiết, và để các phe phái liên hệ không sử dụng bạo lực để giao rắc chết chóc nữa, nhất là chống lại người dân vô tội, nhưng táo bạo thương thuyết hòa bình, được chờ đợi qúa lâu rồi! Chúng con xin Chúa an ủi các nạn nhân của các cuộc chiến huynh đệ tương tàn bên Irak, và nâng đỡ các niềm hy vọng được dấy lên bởi việc tái thương thuyết giữa người Israel và người Palestin. Chúng con nài xin Chúa chấm dứt các xung đột tại Cộng hòa Trung Phi và và ngưng các vụ khủng bố trong vài vùng của nước Nigeria và các bạo lực bên Nam Sudan. Chúng con xin cho các tâm hồn hướng tới sự hòa giải và hòa hợp huynh đệ bên Venezuela. Vì sự Phục Sinh của Chúa, mà năm nay chúng con cùng nhau cử hành với các Giáo Hội theo lịch Giuliano, chúng con xin Chúa soi sáng và gợi hứng cho các sáng kiến hòa giải bên Ukraine, để tất cả các phe phái liên hệ, được cộng đoàn quốc tế trợ giúp, làm tất cả mọi nỗ lực hầu ngăn cản bạo lực và xây dựng tương lai đất nước trong tinh thần hiệp nhất và đối thoại. Cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất, lậy Chúa, chúng con cầu xin: Chúa là Đấng đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, xin ban cho chúng con hòa bình của Chúa! ”Chúa đã sống lai. Hãy đến và xem! Anh chị em thân mến, xin chúc mừng lễ Phục Sinh anh chị em.

Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, đẳng trưởng phó tế đã báo cho mọi người biết Đức Thánh Cha ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới, cho tất cả những ai theo dõi lễ nghi trên đài phát thanh truyền hình. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha trường thọ để dẫn dắt Giáo Hội và ban hòa bình và hiệp nhất cho Giáo Hội và toàn thế giới.

Đức Thánh Cha đã đọc công thức ban phép lành toàn xá: xin hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô mà chúng ta tin tưởng nơi quyền năng của các vị, bầu cử cho chúng ta bên Chúa, nhờ lời cầu bầu của Đức Thánh Trinh Nữ Maria, tổng lãnh thiên thần Micae, thánh Gioan Tẩy Giả, các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót và tha thứ tội lỗi cho tín hữu và xin Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa họ tới cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nói thêm: Xin Thiên Chúa toàn năng và từ bi ban cho anh chị em ơn toàn xá, tha thứ mọi tội lỗi của anh chị em, ban cho anh chị em một thời gian sám hối đích thật và phong phú, một con tim luôn sẵn sàng và sửa đổi cuộc sống, ơn thánh và sự ủi an của Chúa Thánh Thần và sự kiên trì sau cùng trong các việc thiện.
Tiếp đến Đức Thánh Chã ban phép lành cho mọi người.

Sau phép lành toàn xá Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến. một lần nữa tôi xin chúc lễ Phục Sinh tốt lành tất cả anh chị em đến từ nhiều nơi trên thế giới hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài cũng gửi lời mừng lễ tới tất cả những ai theo dõi buổi đọc sứ điệp qua các phương tiện truyền thông. Xin anh chị em đem lời loan báo tới các gia đình và cộng đoàn của anh chị em tin vui Chúa Kitô, sự bình an và niếm hy vọng của chúng ta, đã sống lại. Xin cám ơn sự hiện diện, lời cầu nguyện và chứng tá đức tin của anh chị em. Ngài cũng cám ơn các hiệp hội trồng hoa Hòa Lan đã tặng các hoa rất đẹp cho buổi lễ, rồi nói: xin chúc tất cả mọi người một lễ Phục Sinh tươi vui an lành.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Niềm tin tín thác

Niềm tin tín thác

Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.

Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.

Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".

Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.

Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,

Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.

Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.

* * *

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.

Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".

LM Tạ Duy Tuyền

Ngọn đèn đức tin

Ngọn đèn đức tin

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

“BẢN TÍNH KHÓ DỜI”

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại. Nhưng cả làng Vũ Ðại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giê-su. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giê-su. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cám dỗ

Cám dỗ

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỷ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỷ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết.” (St 3,2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỷ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.

Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thoả mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thoả mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỷ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (x. St 3,6). Hậu quả của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.” (St 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thoả mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói “đào vi thượng sách” là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỷ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét và lòng ước muốn dâm dục.

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thoả mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: “Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: ‘Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’” (Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỷ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỷ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.

Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỷ: “Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.’” (Mt 4,10). Ma quỷ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỷ. Trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào Lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng giòn, ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô Tông đồ trong thở gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào Mùa Chay, khi vào toà cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.

Truyện minh hoạ: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong toà cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (x. Rm 5,19). Chúa đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho Thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

Dụ ngôn hạt muối

Dụ ngôn hạt muối

Hạt muối Bé nói với hạt muối To: “Em đến chia tay chị, em sắp được hòa trong đại dương”. Muối To trố mắt: “Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế. Em muốn thì em cứ làm, chị không điên!“.

Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh khỉnh. Thu hoạch, nông dân gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh trắng kia được đội lên đầu, hay bê bên lưng rồi đóng vào bao sạch đẹp… Lần đầu tiên nó thấy mình bị xúc phạm!

Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho nó vào nồi cám heo. Phải hóa thân phục vụ cho lũ heo dơ bẩn này ư? Nó tủi nhục ê chề! Lòng kiêu hãnh không cho phép nó “tế thân” cho lũ heo hạ tiện. Nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi trăm độ cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó.

Khi rửa máng heo, người ta phát hiện nó, và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường lộ. Người người qua lại đạp lên nó!

Hạt muối là để hòa tan. Hạt Muối phải chịu tan biến chính mình mới thể hiện giá trị đích thực của hạt muối. Muối đã lạt và không còn khả năng hòa tan thì cũng bị quên lãng hay vứt bỏ ta đường cho người qua lại dẫm đạp mà thôi!

Con người không được sống cho chính mình. Con người phải biết dấn thân, hòa nhập với xã hội mới thể hiện vai trò giá trị của mình trong cộng đồng. Nhân loại cũng bỏ rơi những con người lười biếng, vô dụng, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Muối đã lạt thì vứt đi. Con người lạt tình người, lạt trách nhiệm sẽ trở nên vô dụng và bị bị lãng quên.

Chúa Giê-su mời gọi người tín hữu phải biết hòa tan trong cuộc đời. Như hạt muối hòa tan trong môi trường để ướp mặn cuộc đời. Như ánh sáng hòa tan trong không gian để xua tan bóng tối. Muối và ánh sáng đều phải chịu tan biến mới sinh ích cho con người. Là người ky-tô hữu cũng phải hòa tan cuộc đời mình trong dòng chảy tình yêu để mang lại sức sống cho con người.

Chính Chúa Giê-su đã chấp nhận hòa tan chính mình trong dòng chảy của cuộc đời. Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người. Ngài đã sống để dâng hiến và phục vụ con người trong yêu thương hết mình như thánh Gioan đã nói: “Ngài đã yêu thì yêu cho đến cùng”. Đỉnh cao của hòa tan là chấp nhận tiêu hao chính mình “như hạt lúa chịu mục nát để sinh nhiều bông trái”.

Năm nay Giáo hội mời gọi chúng ta “Phúc âm hóa” là dịp nhắc lại vai trò của người tín hữu giữa dòng đời. Là người tín hữu phải đem muối Phúc âm thẩm thấu vào trong thế gian. Là người tín hữu phải đem ánh sáng của Phúc âm dẫn dắt con người hôm nay đi trong chân lý. Thế nhưng, ở đâu dó vẫn có những tín hữu thiếu gia vị của tình yêu, thiếu cả gương sáng gây ô uế môi trường và gây gương xấu cho tha nhân. Ở đâu đó vẫn có những nhóm giáo dân thường co cụm chính mình mà ít cởi mở, thân thiện với tha nhân. Đó là lý do mà Giáo hội không thực sự có gía trị trong cộng đồng nhân loại. Làm sao Giáo hội có thể phúc âm hóa môi trường khi mà người tín hữu để muối đã lạt qua cách sống đạo hời hợt, đôi khi còn thiếu gia vị của tình yêu? Làm sao mà Giáo hội có thể Phúc âm hóa khi mà chính người ky-tô hữu vẫn còn làm gương xấu của gian dâm, của cờ bạc, rượu chè…

Ước gì đời sống của chúng ta luôn là lời ngợi ca và tôn vinh Chúa. Một đời sống thấm nhuần lời Chúa để đem tin mừng thẩm thấu vào trong thế gian. Một đời sống công bình bác ái như những ngọn đèn hải đăng thắp sáng trong bóng đêm của xã hội đầy bất công và hận thù. Một cuộc sống đi vào lòng nhân thế để phủ đầy ánh sáng của Phúc âm và hơi ấm của Tin mừng.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn hoàn thành đời mình như muối mặn, như ánh sáng hòa tan cho thế gian sức nóng và tràn ngập ánh sáng của Tin mừng. Amen.

LM. Jos Tạ Duy Tuyền

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương, diễn tả tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa

Thánh Thể là bí tích của tình yêu thương làm nảy sinh ra lộ trình của đức tin, sự hiệp thông và chứng tá kitô. Cùng với bí tích Rửa Tội và Thêm Sức nó làm thành suối nguồn cuộc sống của chính Giáo Hội.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 5-2-2014.

Tham dự buổi tiếp kiến cũng có 90 Giám Mục Ba Lan đang viếng mộ các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Sáng thứ tư 5-2-2014 trời Roma mưa khá lớn, nhưng nhiều tín hữu vẫn can đảm mặc áo mưa hay che dù kiên nhẫn tham dự buổi tiếp kiến. Nhiều người chạy vào trú dưới hai cánh hành lang của quảng trường và từ đó theo dõi buổi tiếp kiến trên hai màn truyền hình khổng lồ. Nhưng khi thấy xe díp của Đức Giáo Hoàng đi qua các lối chính chào dân chúng, họ lại chạy ra.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha trình bầy giáo lý về Bí tích Thánh Thể, là bí tích trung tâm của ”việc khai tâm kitô”. Đức Thánh Cha nói: điều chúng ta trông thấy khi tụ tập nhau cử hành bí tích Thánh Thể, khiến cho chúng ta trực giác được điều chúng ta sắp sống. Và ngài giải thích ý nghĩa các yếu tố của việc cử hành như sau:

Ở trung tâm không gian dành cho viỆc cử hành có bàn thờ, là một cái bàn phủ khăn, và điều này khiến chúng ta nghĩ tới một bữa tiệc. Trên bàn có thánh giá ám chỉ rằng trên bàn thờ đó được cử hành hiến tế của Chúa Kitô: chính Người là lương thực thiêng liêng mà chúng ta nhận dưới hình bánh và rượu. Bên cạnh bàn thờ có giá sách, nghĩa là nơi công bố Lời Chúa: điều này ám chỉ rằng chúng ta tụ họp nhau ở đây để lắng nghe Chúa nói qua Thánh Kinh, và như thế lương thực mà chúng ta lãnh nhận cũng là Lời Người.

Lời và Bánh trong Thánh Lễ trở thành một, như trong Bữa Tiệc Ly, khi tất cả các lời của Chúa Giêsu, tất cả các dấu chỉ Người đã làm, được cô đọng trong cử chỉ bẻ bánh và dâng chén, diễn tả trước hiến tế thập giá, và trong các lời: ”Các con hãy cầm lấy, hãy ăn, này là Mình Thầy… Hãy cầm lấy, hãy uống, này là Máu Thầy”. Cử chỉ của Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Tiệc Ly là lời tạ ơn tột cùng Thiên Chúa Cha vì tình yêu của Người, vì lòng thương xót của Người. ”Tạ ơn” trong tiếng Hy lạp gọi là ”Eucharistia”. Đó, tại sao từ Eucaristia tóm tắt tất cả cử chỉ ấy, là cử chỉ của Thiên Chúa và cũng là của con người, cử chỉ của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là Người thật.

Như vậy, việc cử hành Thánh Thể hơn là một bữa tiệc thường: đó là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, mầu nhiệm chính của ơn cứu độ. ”Tưởng niệm” không chỉ có nghĩa là nhớ lại, mà muốn nói rằng mỗi khi chúng ta cử hành Bí Tích này là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm về Bí tích Thánh Thể như sau:

Bí tích Thánh Thể là tột đỉnh hành động cứu độ của Thiên Chúa: thật thế, khi trở thành bánh bẻ ra cho chúng ta, Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta tất cả lòng xót thương và tình yêu của Người, đến độ canh tân con tim, cuộc sống, và kiểu tương quan của chúng ta với Người và các anh chị em khác.

Chính vì thế mà bình thường khi chúng ta tới gần Bí tích này, chúng ta nói ”lãnh nhận sự hiệp thông”, “làm sự hiệp thông”. Trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, sự tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể khiến cho chúng ta đồng hình đạng với Chúa Kitô trong cách thế duy nhất và sâu xa, bằng cách làm cho chúng ta hưởng nếm trước ngay từ bây giờ sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa Cha, là đặc tích của bữa tiệc thiên quốc, nơi cùng với tất cả các Thánh chúng ta sẽ có niềm vui không thể tưởng tượng nổi chiêm ngưỡng Thiên Chúa mặt giáp mặt.

Anh chị em rất thân mến, chúng ta sẽ không bao giờ cảm tạ Chúa đủ vì ơn Người ban cho chúng ta với bí tích Thánh Thể. Đó là một ơn thật lớn lao và vì thế thật là quan trọng đi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, đi lễ không phải chỉ để cầu nguyện, mà để nhận sự Hiệp Thông, nhận lấy bánh là Mình của Chúa Giêsu Kitô, cứu rỗi chúng ta, tha tội cho chúng ta, kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa Cha. Thật là đẹp, khi làm điều này. Và mỗi Chúa Nhật chúng ta hãy đi Lễ, bởi vì đó chính là ngày sống lại của Chúa. Vì vậy Chúa Nhật quan trọng đối với chúng ta đến thế. Và với bí tích Thánh Thể chúng ta cảm thấy sự tùy thuộc vào Giáo Hội, vào dân Chúa, vào thân mình của Chúa, vào Chúa Giêsu Kitô. Và chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiếp nhận tất cả giá trị và sự phong phú của nó. Như thế, chúng ta hãy xin cho Bí tích này có thể tiếp tục duy trì sống động sự hiện diện của Người trong Giáo Hội và nhào nặn các cộng đoàn của chúng ta trong tình bác ái và sự hiệp thông, theo con tim của Thiên Chúa Cha. Và điều này được thực hiện trong suốt cuộc sống, nhưng nó được bắt đầu với việc rước lễ lần đầu. Thật là quan trọng việc các trẻ em chuẩn bị tốt cho việc Rước Lễ lần đầu, và ước chi đừng có trẻ em nào không làm điều đó, bởi vì đó là bước đầu tiên của việc thuộc về Chúa Giêsu Kitô một cách mạnh mẽ, sau bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu hiện diện tại quảng trường và chúc mọi người những ngày hành hương tươi vui. Chào các tín hữu và các Giám Mục Ba Lan Đức Thánh Cha nói: Anh em thân mến xin hãy chuyển lời chào thăm của tôi tới các linh mục, tu sĩ, giáo dân nam nữ và toàn dân Ba Lan. Tôi bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của tôi cho anh em và những người Chúa trao phó cho sự săn sóc của anh em. Xin anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi. Xin Chúa chúc lành cho anh em và Giáo Hội tại Ba Lan.

Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng chào một nhóm Giám Muc tham dự một cuộc họp do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức, và các linh mục đang tham dự tuần hội học về việc đào tạo nhân bản các ứng viên linh mục, do Đại học giáo hoàng Thánh Giá tổ chức. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ thánh Phêrô là dịp canh tân dấn thân truyền giáo và loan báo Tin Mừng, cách riêng cho những người rốt hết và những người nghèo.

Ngài cũng chào các sĩ quan và binh sĩ Lữ đoàn Sassari và hiệp hội các khách sạn. Ban quân nhạc của Lữ đoàn đã trình tấu nhiều bài tạo bầu khí tươi vui hùng tráng cho buổi tiếp kiến.

Chào các người đau yếu Đức Thánh Cha nói vì trời mưa nên họ tụ tập trong đại thính đường Phaolô VI và ngài đã gặp họ trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến. Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ nhớ thánh nữ Agata trinh nữ tử đạo. Ngài cầu mong nhân đức anh hùng của thánh nữ giúp các bạn trẻ hiểu tầm quan trọng sự trong sạch của đức khiết tịnh. Ngài xin thánh nữ giúp các anh chị em đau yếu chấp nhân thánh giá trong sự kết hiệp thiêng liêng với Thánh Tâm Chúa Kitô. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới hiểu biết vai trò của nữ giới trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày mồng 03 Tết – Có làm mới có ăn

Ngày mồng 03 Tết – Có làm mới có ăn

Ngày đầu năm mới, chúng ta hướng về Đấng tạo thành để tạ ơn về một năm “mưa trời ân phúc” đã ban xuống cho trần gian. Chúng ta cũng phó dâng một năm mới cho lòng thương xót của Chúa.

Cuộc sống luôn đòi chúng ta chọn lựa. Chọn lựa để vươn lên. Chọn lựa để vượt ra khỏi những gì bình thường mà chọn cách sống khác hơn. Có chọn lựa nên có đổi thay. Chính những cái đổi thay khiến người ta ngại chọn lựa bởi phải sống khác hơn. Người ta vẫn cứ “an phận thủ thường” là chắc ăn.

Chuyện kể rằng: có hai con vật lừa và ngựa sống với nhau. Một ngày kia, có một tay cao bồi xuất hiện và hỏi hai con vật: “Trong hai ngươi, ai là kẻ muốn theo ta đi thám hiểm thế giới. Ta không hứa hẹn một cuộc sống no đủ như ở cái chuồng bé tẹo này. Nhưng ta hứa hẹn một cuộc sống đầy thú vị vì được làm chủ chính mình. Và nếu cố gắng đủ, thì có thể sẽ có được một cuộc sống dư giả gấp nhiều lần cuộc sống này.”

Con lừa – một trong hai con vật – liền kêu lên: “Ôi, tôi không đi đâu. Dại gì mà đánh đổi cuộc sống an toàn và ổn định này, để lấy một tương lai không biết trước chứ. Hay là ông muốn dụ tôi đi để có người cho ông cưỡi, có người để chết chung với ông? Tôi không có ngu đâu nhé”.

Con ngựa – con vật còn lại – thì rất háo hức trả lời: “Tôi! Tôi! Tôi muốn đi và muốn khám phá. Tôi chán cuộc sống gò bó và tẻ nhạt này lắm rồi.” Nói xong, nó theo người cao bồi bước ra khỏi cái chuồng nhỏ và đi mãi, đi mãi về phái chân trời.

Một ngày nọ, khi đã già, con lừa gặp lại con ngựa khi nó quay trở về cái chuồng nhỏ. Mừng rỡ, con lừa reo lên:

        – A, anh ngựa, anh đã về đấy ư. Lâu quá rồi nhỉ, chúng ta đã già cả rồi.

        – Đúng vậy, chúng ta già hết cả rồi. Tôi cũng đã mệt mỏi nên không muốn phiêu lưu nữa nên quyết định về thăm anh. Cuộc sống anh thế nào rồi? – Ngựa hỏi

        – Cũng vẫn vậy thôi. Làm việc chăm chỉ và được no đủ. Nhưng tôi đã già rồi, nên cũng không còn làm được nhiều nữa. Cũng may ông chủ thương tình nên vẫn cho tôi ăn. – Lừa nói – Vậy còn những chuyến phiêu lưu của anh thì sao?

        – Ồ, nó thật thú vị. Tôi đã được đi đến những miền đất lạ, nơi nắng cháy và khô cằn. Tôi đã băng qua những vùng chiến sự và những miền thiên tai hoành hành, có lúc tưởng chết đi được. Nhưng sau những cố gắng, tôi cũng được nếm trải sự hạnh phúc khi được tự do chạy trên cánh đồng đầy cỏ ngọt và được học hỏi những điều kì lạ. – Ngựa kể với một niềm tự hào.

Thực ra, con ngựa và con lừa đều phải đi. Con ngựa thì đi quanh thế giới. Con lừa thì chỉ quanh quẩn cái cối xay. Con ngựa thì tự do và có trách nhiệm về bản thân mình. Con lừa thì bị cột chặt vào cối xay và cũng chẳng có trách nhiệm gì về mình vì thiếu tự do. Con lừa an phận nên sống vật vờ, sống nhờ lương thực người khác ban cho. Con ngựa luôn sống cho chính mình để được hưởng thành quả do chính mình làm nên.

Cha ông ta vẫn nói “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Con lừa vì không dám thay đổi, không cầu tiến, an phận nên chỉ sống nhờ lòng thương xót hay bố thí của người khác. Còn con ngựa biết vươn lên, biết sống có trách nhiệm với chính mình nên nó được hưởng niềm vui do chính công sức lao động của nó làm ra.

Cuộc đời con người cũng chỉ có của ăn của để khi biết vượt ra khỏi sự lười biếng để dấn thân vào cuộc sống kiếm tìm miếng cơm manh áo. Không có cuộc kiếm tìm nào mà không đòi phải hy sinh, phải nỗ lực. Một cuộc kiếm tìm càng khó, càng đòi nhiều công sức thì thành quả càng to lớn và giá trị. Và giá trị của một con người cũng hệ tại ở việc mình đã làm, đã cống hiến gì cho gia đình, cho xã hội. Con người càng cống hiến nhiều càng có giá trị trong gia đình và xã hội.

Bên cạnh sự nỗ lực bản thân, niềm tin ky-tô giáo còn mời gọi chúng ta tin vào sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa luôn hoạch định cho cuộc đời chúng ta, nhưng liệu chúng ta có dám mạo hiểm bước theo Chúa hay không? Sự thành công của chúng ta còn tùy thuộc vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cha ông ta cũng bảo “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Lời Chúa cũng từng nhắc nhở chúng ta: “Nếu Chúa chẳng xây nhà , thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.

Thế nên, ngày đầu năm mới chúng ta hướng về Đấng tạo thành để tạ ơn về một năm “mưa trời ân phúc” đã ban xuống cho trần gian. Chúng ta cũng phó dâng một năm mới cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa là Đấng đầy quyền năng và đầy lòng thương xót chúc lành cho một năm mới với bao dự định, công việc được toàn vẹn như ý. Xin Chúa Xuân ở lại nơi từng gia đình để niềm vui được kéo dài vô tận trong suốt ngày sống. Amen

LM Jos Tạ Duy Truyền

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Ngày Mồng hai Tết: Sống Chữ Hiếu

Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương.

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba”. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: “Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao?”. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện”.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: “Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.

Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ

Phong sắc hồng hào tâm thể khang an

Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng

Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ

Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể

Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây

Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây

Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay

Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp  yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.

Xin Chúa làm chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen

LM Jos. Tạ Duy Truyền

Đức Thánh Cha phê bình những tín hữu tách rời khỏi Giáo Hội

Thánh Cha phê bình những tín hữu tách rời khỏi Giáo Hội

VATICAN. ĐTC Phanxicô phê bình lập trường của những tín hữu nói mình tin Chúa Kitô nhưng phải phủ nhận Giáo Hội.

Trong bài giảng thánh lễ sáng 30-1-2014 tại Nguyện đường nhà trọ thánh Martha ở nội thành Vatican, ĐTC đã diễn giải bài đọc thứ I nói về vua David, người thân thưa với Chúa như con nói chuyện với cha, một người có cảm thức mạnh mẽ mình thuộc về Dân Chúa. Từ đó, ĐTC giải thích ý nghĩa việc thuộc về Giáo Hội, sự đồng cảm của chúng ta với Giáo Hội và trong Giáo Hội. Ngài nói:

”Kitô hữu không phải là người đã chịu phép rửa tội rồi đi theo con đường riêng của mình. Thành quả đầu tiên của bí tích rửa tội là làm cho chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về Dân Chúa. Không thể hiểu được một Kitô hữu mà không thuộc về Giáo Hội. Vì thế, Đức Phaolô 6 vị Đại Giáo Hoàng Phaolô 6 đã nói rằng có một sự tách biệt vô lý, đó là yêu mến Chúa Kitô mà không yêu mến Giáo Hội; nghe Chúa Kitô mà không nghe Giáo Hội, ở với Chúa Kitô mà lại ở ngoài lề Giáo Hội. Đó là điều không thể có được. Chúng ta lãnh nhận sứ điệp Tin Mừng trong Giáo Hội và chúng ta thực thi sự thánh thiện trong Giáo Hội, con đường của chúng ta ở trong Giáo Hội, chẳng vậy thì đó chỉ là một sự tưởng tượng, một sự phân cách vô nghĩa lý”.

ĐTC nhấn mạnh tới 3 cột trụ của sự thuộc về Giáo Hội, đồng cảm với Giáo Hội, đó là: khiêm nhường, trung thành và cầu nguyện cho Giáo Hội. Ngài giải thích rằng:

”Một người không khiêm nhường, thì không thể đồng cảm với Giáo Hội. Đó là điều chúng ta thấy nơi vua David. Người nói: ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con là ai, nhà con là gì đâu?” Với ý thức rằng lịch sử cứu độ không bắt đầu với tôi và sẽ không chấm dứt khi tôi chết đi.. Cũng vậy, lịch sử Giáo Hội bắt đầu trước chúng ta, và sẽ tiếp tục sau chúng ta. Khiêm nhường là ý thức rằng chúng ta là một phần nhỏ của một đại dân tộc, đang tiến bước trên con đường của Chúa”.

Cột trụ thứ hai là trung thành, gắn liền với lòng vâng phục. ”Trung thành với Giáo Hội, với giáo huấn của Giáo Hội, trung thành với đạo lý của Hội Thánh và bảo tồn giáo lý ấy. Đức Phaolô 6 nhắc nhở rằng chúng ta lãnh nhận sứ điệp Tin Mừng như một hồng ân và chúng ta phải thông truyền sứ điệp ấy như một hồng ân, một món quà, chứ không phải như một cái gì của chúng ta. Trung thành trong sự thông truyền đạo lý của Hội Thánh. Tin Mừng không phải là của chúng ta, nhưng là của Chúa Giêsu, và chúng ta không được trở thành chủ nhân ông của Tin Mừng, chủ nhân của đạo lý đã nhận lãnh để sử dụng theo ý riêng của chúng ta”.

Sau cùng, cột trụ thứ ba là cầu nguyện cho Giáo Hội. ĐTC nói: ”Trong thánh lễ hằng ngày, chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội, cho Hội Thánh ở mọi nơi trên thế giới. Đó là một việc phục vụ đặc biệt”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Xin Chúa giúp chúng ta tiến bước trên con đường này, để đào sâu cảm thức chúng ta thuộc về Giáo Hội, đồng cảm với Giáo Hội”. (SD 30-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

 Tất niên 2013: Tại sao phải tạ ơn Chúa

Trong những ngày cuối năm, chúng ta thấy nhiều công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, cũng như các tổ chức đạo – đời, thường ngồi lại với nhau để tổng kết cuối năm, nhằm phát huy cái ưu và khắc phục cái khuyết; đồng thời cũng là dịp để nói lên lời tri ân lẫn nhau.

Hôm nay, người Công Giáo chúng ta cũng quây quần bên nhau, để hồi tâm lại để dâng lên lời tri ân Thiên Chúa.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác mà chúng ta đã lãnh nhận được trong suốt cả năm qua. Tuy nhiên, chúng ta cũng tạ ơn Chúa ngay cả những điều không hợp với ý ta nữa, nhưng nhờ hồng ân đức tin, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là tình yêu. Người luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta mỗi ngày. Cuối cùng, tạ ơn Chúa vì nhờ lời tạ ơn mà chúng ta

1. Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Người ban

“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107, 1). Lời mời gọi đó hướng chúng ta về Thiên Chúa là chủ tể của mọi sự mọi loài. Người là khởi nguyên và cùng đích, Người ban cho chúng ta hơi thở và sự sống. Thật vậy, mỗi ngày sống qua đi, khi đêm về và ban mai thức dạy, ta thấy biết bao nhiêu ơn lành mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Sách Aica diễn tả thật sâu xa ý nghĩa này khi nói: “Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!” (Ac 3, 23). Và như thế, chúng ta chỉ có thể cất cao lời ca tạ ơn Chúa mà thôi, bởi vì: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga, 1, 16). Như vậy: “Ở đâu và lúc nào […] cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn” (Cv 24, 3). Thật vậy, “Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban!” (2 Cr 9,15); “Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 65,12).

Tuy nhiên, việc tạ ơn Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ nhận được nhưng ơn hữu hình: mắt thấy, tai nghe, tay sờ thấy, nhưng trong Thiên Ý nhiệm mầu, chúng ta cũng còn phải tạ ơn Chúa ngay cả những điều ta không thấy và trái với ý muốn của ta nữa.

Tại sao vậy?

2. Tạ ơn Chúa vì những điều ta không thấy và không được như ý

Là những người có niềm tin, chúng ta phải xác tín rằng, Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6,26) Còn tại sao chúng ta xin mà không được là vì: có nhiều người trong chúng ta xin Chúa những điều trái khuấy như: xin cho con buôn gian bán lận, đánh cờ bạc, cá độ bóng đá… hoặc xin Chúa cho con đêm nay đi cướp hay ăn chộm được thành công… xin những điều như thế thì Thiên Chúa lẽ nào Người ban cho ta được. Thánh Giacôbê nhắc nhở như sau: "Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4, 3). Những người như thế, thánh Phaolô cũng nói: “Vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội” (Rm 1, 21).

Như vậy, với Thiên Chúa, Người luôn ban những ơn cần thiết để ta được cứu rỗi, Người không ban những điều nguy hại đến phần hồn của chúng ta, mặc dù chúng ta nài nỉ xin Người. Như vậy, chúng ta tin tưởng rằng, Thiên Chúa không thể làm trái với bản chất của Người. Vì: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 7-11).

Nhưng đôi khi, Thiên Chúa không những không ban ơn, Người lại còn sửa dạy để cho chúng ta trở nên tốt hơn nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả thật chí lý: “Chính sự vật Chúa dùng để trừng phạt chúng, lại nên ân huệ cho dân Ngài” (Kn 11,13). Thế nên, chúng ta không thể không tạ ơn Chúa vì Người đã thương yêu chúng ta một cách đặc biệt hơn hết mọi người cha trần gian. Người biết được điều gì nên và không nên ban, vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Người vì những ơn chúng ta nhận ra cũng như những ơn chúng ta chưa nhận ra.

Thật vậy, ngay trong nghĩa cử tạ ơn của chúng ta, Thiên Chúa cũng sẽ ban một cách đại lượng gấp ngàn lần tạ ơn của chúng ta, ơn đó là ơn cứu độ.

3. Tạ ơn Chúa sẽ đem lại ơn cứu độ

Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu, nên Người đâu cần đến lời ca tụng của chính loài thụ tạo do chính Người dựng nên. Bởi vì điều đó là điều dư thừa đối với Người, tuy nhiên, khi chúng ta tạ ơn Người thì hệ quả ngược lại. Thật thế, Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma đã diễn tả: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”. Đức Giêsu cũng đã nói: "Tôi nói cho các ngươi hay: phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi" (Lc 19, 26). Vì thế, “ơn lại thêm ơn” nên việc tạ ơn Chúa là việc cần để được cứu độ.

4 Sự thật về lòng biết ơn nơi con người

Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều khi chúng ta quên mất nghĩa cử tạ ơn mà thường thì chỉ tập trung vào việc xin ơn mà thôi. Có khi hứa với Chúa đủ điều, nhưng khi xong việc là sẵn sàng cố tình quên đi những lời thề nguyền với Chúa hôm nào!

Tôi vẫn nhớ một người thân quen kể lại cho tôi nghe như sau: sau biến cố năm 1975, nhiều người Việt Nam chúng ta đã rời quê hương để đi định cư tại các nước khác. Cuộc ra đi của đồng bào ta lúc đó ai cũng biết là rất khó khăn. Vì thế, có nhiều người khi từ giã gia đình đã nói thế này: “Con ra đi lần này, một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con”. Tuy nhiên, không ít người đã đi an toàn và cuộc sống của họ giờ đây sung túc.

Nhưng điều muốn nói ở đây là: người ta thường cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con ra đi lần này được an toàn, khi đến nơi thuận tiện hơn, con sẽ trung thành với Chúa, sẽ thờ phượng Chúa và sẽ giữ đạo thật tốt”. Trải qua những năm qua, khi đã an cư và lạc nghiệp, số người quên đi lời khấn nguyện năm nào ngày càng nhiều. Bỏ lễ Chúa Nhật, không thờ phượng Chúa hay nguội lạnh khô khan là hiện tượng phổ biến của đồng bào ta tại một số nước phát triển hiện nay.

Suy tư đến đây, tôi nhớ lại, có một lần tôi có đọc một bài viết của Đức Cha Bùi Tuần với tựa đề “Tôi rất thích chó”, trong tác phẩm: “Nói với chính mình”. Ngài chia sẻ: tôi có một con chó, mỗi khi tôi gọi nó, nó mừng tôi, mỗi khi tôi cho nó uống nước hay cục xương, nó mừng tôi và, mỗi khi tôi đi đâu về, nó cũng ngo ngoe cái đuôi để mừng tôi. Mặc dù nó không có khái niệm về hai chữ ‘biết ơn’, nhưng khi nó mừng như vậy, tôi hiểu ý là nó muốn nói lời cám ơn tôi. Và ngài kết luận: thật buồn thay vì có nhiều người không biết ơn bằng chó, mà thậm chí còn lấy oán để đền ơn nữa. Thật vậy, tục ngữ Việt Nam ta có câu:

Trách ai được cá/ quên nơm,
Được chim bẻ ná, quên ơn vội thù.
Trách ai tham đó/ bỏ đăng
Thấy lê/ quên lựu, thấy trăng/ quên đèn.


Vẫn còn đó không ít những người vô ơn như 9 người phung cùi được Đức Giêsu chữa lành, đến nỗi Chúa Giêsu cũng phải than phiền: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,17-18).

Dịp tất niên sau một năm, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria như một mẫu gương tuyệt vời về lòng biết ơn. Khi Mẹ được Thiên Chúa đoái thương, tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ đã cất cao bài ca Magnificat để cảm tạ Chúa Cha đã thương đến Mẹ, thương đến nhân loại.

Vì thế, cùng với Mẹ, chúng ta hãy hồi tâm để ngược dòng thời gian hầu nhận ra biết bao hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban xuống tràn ngập tâm hồn chúng ta. Thật vậy: "…Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu", nên “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?" (Tv 115, 12).

Lạy Chúa, trong suốt một năm đã qua, chúng con nhận lãnh biết bao ơn lành của Chúa, những ơn con nhận ra cũng như những ơn con không nhận ra, nhưng tình thương và lòng nhân hậu của Chúa luôn ấp ủ chúng con. Xin Chúa đón nhận nơi chúng con lòng biết ơn chân thành, và cũng xin tha thứ cho những lần chúng con bội nghĩa vong ân. Xin cho chúng con được an vui, hạnh phúc và nhiều ân lộc của Chúa trong năm mới sắp tới. Amen.

Jos. Vinct. Ngọc Biển