5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

5-9: Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta

Mother Teresa Calcuta

Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta (Agnes Gonxhe Bojaxhiu) chào đời ngày 26-8-1910 tại Skopje thuộc Cộng Hòa Macedonia trong một gia đình trung lưu người Albania đến từ Kosovo. Thời xuân trẻ, mẹ gia nhập dòng Đức Trinh Nữ MARIA cũng được gọi là dòng Các Nữ Tu Loreto bên Ái-nhĩ-lan với tên dòng là Mary Teresa. Mẹ được gởi đi truyền giáo bên Ấn Độ và đặt chân đến Calcutta ngày 6-1-1929. Tại đây mẹ vừa dạy học vừa làm hiệu trưởng một trường học. Trong khung cảnh đói khổ của người dân Ấn, năm 1946, mẹ dấn thân làm việc tông đồ giữa người nghèo tại Calcutta và năm 1948 mẹ thành lập hội dòng Nữ Thừa Sai Bác Ái. 15 năm sau, ngành nam của hội dòng chào đời với tên Tu Huynh Thừa Sai Bác Ái. Năm 1979 mẹ nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình và qua đời ngày 5-9-1997 tại Calcutta. Mẹ được Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

 Sau đây xin giới thiệu chứng từ của Đức Hồng Y Angelo Comastri, Quản Đốc đền thờ Thánh Phêrô, về Chân Phước mẹ Têrêxa Calcutta.

 Từ lúc còn trẻ, tôi có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêxa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

 – Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

 – Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?

 Mẹ Têrêxa liền nắm chặt hai bàn tay tôi rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

 – Con à, nếu không có THIÊN CHÚA hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà THIÊN CHÚA đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!

 Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó. Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa .. Năm 1979, mẹ Têrêxa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay THIÊN CHÚA. Mẹ Têrêxa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi. Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn. Biết rõ thế nên không ai nỡ trách sao mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!

 Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Têrêxa Calcutta dừng lại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các Nữ Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêxa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:

 – Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?

 Mẹ Têrêxa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

 – Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu THIÊN CHÚA. Thế thôi!!! Anh cho là quá ít sao???

 Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng .. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêxa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

 – Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?

 – Dạ rồi! chàng ký giả đáp.

 – Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con cái chưa?

 – Thưa mẹ, ba đứa!

 – Tốt lắm! Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!

 Năm 1988 mẹ Têrêxa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma. Năm ấy tôi là Cha Sở của họ đạo.

 Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ. Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ MARIA. Bầu trời trong xanh. Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười. Mẹ Têrêxa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:

 – Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp. Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp!

 Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau. Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Têrêxa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Têrêxa nói:

 – Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!

 Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

 – Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!

 Nhưng mẹ Têrêxa quyết liệt trả lời:

 – Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!

 Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:

 – Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!

 Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Têrêxa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa.

 Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái. Mẹ giải thích:

 – Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu. Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU! Những con tim thật trong sạch!

 Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Têrêxa đến đảo Isola d'Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện. Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo .. Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:

 – Thưa Cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con. Con có cảm tưởng chính THIÊN CHÚA đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này!

 Quay sang mẹ Têrêxa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói. Mẹ Têrêxa nhẹ nhàng đáp:

 – Xin Cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, THIÊN CHÚA vẫn nhìn ông. Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài! THIÊN CHÚA lÀ TÌNH YÊU!

 Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Têrêxa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Têrêxa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!

 … Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán cùng các môn đệ rằng: ”Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: ”Hãy đến, hỡi những kẻ CHA Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn, Ta khát, các con đã cho uống, Ta là khách lạ, các con đã tiếp rước, Ta mình trần, các con đã cho mặc, Ta đau yếu, các con đã viếng thăm. Ta bị tù đày, các con đã đến với Ta”. Khi ấy, người lành đáp lại rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng thăm Chúa đâu?” Vua đáp lại: ”Quả thật, Ta bảo các con: những gì các con đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các con đã làm cho chính Ta vậy” (Matthêu 25,31-40).

 (”Tertium Millennium”, Agenzia d'Informazione, n.3, Settembre/1997, trang 3-4).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đức tin trưởng thành

Đức tin trưởng thành

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.

Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.

Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.

Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.

“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).

Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.

Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.

Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.

Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!

Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.

Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.

Yêu như Chúa yêu

Yêu như Chúa yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.

Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

Toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 30

Toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 30

Sẽ được cử hành vào Chúa nhật Lễ Lá 29-3-2015

”Phúc cho ai có tâm hồn thanh sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5.8)

Các bạn trẻ thân mến,

Chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành thiêng liêng hướng về Cracovia, nơi sẽ diễn ra Ngày Quốc Tế giới trẻ lần tới vào tháng 7 năm 2016. Chúng ta đã chọn các Mối Phúc Thật của Tin Mừng như chỉ nam hướng dẫn hành trình của chúng ta. Năm ngoái chúng ta đã suy tư về Mối Phúc tinh thần thanh bần, được tháp nhập vào bối cảnh rộng lớn hơn của ”Bài giảng trên núi”. Chúng ta đã cùng nhau khám phá ý nghĩa cách mạng của các Mối Phúc và lời kêu gọi mạnh mẽ của Chúa Giêsu gửi đến chúng ta, mời gọi chúng ta can đảm trong cuộc phiêu lưu tìm kiếm hạnh phúc. Năm nay, chúng ta suy tư về Mối Phúc thứ sáu: ”Phúc cho ai có tâm hồn thanh sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).

1. Ước muốn hạnh phúc

Từ ”phúc” hoặc ”hạnh phúc” xuất hiện 9 lần trong phần thứ nhất bài giảng của Chúa Giêsu (Xc Mt 5,1-12). Nó như một điệp ca nhắc nhớ chúng ta về lời kêu gọi của Chúa hãy cùng nhau tiến bước với Ngài trong hành trình là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực, mặc dù có đủ thứ thách đố.

Đúng vậy, hỡi các bạn trẻ thân mến, con người thuộc mọi thời đại và lứa tuổi đều tìm kiếm hạnh phúc. Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn mỗi người nam nữ một ước muốn không thể đè nén được, ước muốn hạnh phúc, sung mãn. Các bạn chẳng cảm thấy tâm hồn mình khắc khoải và liên tục tìm kiếm một điều thiện hảo có thể thỏa mãn khát vọng vô biên của các bạn sao?

Những chương đầu tiên trong sách Sáng Thế trình bày cho chúng ta hạnh phúc tuyệt vời mà chúng ta được kêu gọi tiến tới và hạnh phúc ấy hệ tại được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, với tha nhân, với thiên nhiên, với chính mình. Được tự do đến với Chúa, sống thân mật và hưởng kiến Ngài, đó là điều vốn có trong dự án của Thiên Chúa dành cho nhân loại ngay từ đầu và làm cho ánh sáng thần linh thấm nhập mọi quan hệ của con người bằng chân lý và sự trong sáng. Trong trạng thái tinh tuyền nguyên thủy, không có những ”mặt nạ”, những cuộc lẩn tránh, những lý do để ẩn nấp nhau. Tất cả đều thanh khiết và minh bạch.

Khi người nam người nữ chiều theo cám dỗ và phá vỡ quan hệ hiệp thông tín thác với Thiên Chúa, thì tội lỗi đi vào lịch sử nhân loại (Xc St 3). Người ta nhận thấy ngay hậu quả của tội lỗi cả trong những quan hệ với bản thân, với tha nhân và với thiên nhiên. Thật là bi thảm dường nào! Sự thanh khiết nguyên thủy như bị ô nhiễm. Từ lúc đó trở đi con người không còn có thể trực tiếp đến cùng Thiên Chúa nữa. Thay vào đó là xu hướng trốn tránh, người nam và người nữ phải che đậy sự trần truồng của mình. Vì thiếu ánh sáng đến từ sự ngắm nhìn CHúa, nên họ nhìn thực tại chung quanh một cách lệch lạc, thiển cận. ”Địa bàn” nội tâm trước kia hướng dẫn họ trong sự tìm kiếm hạnh phúc nay bị mất điểm tham chiếu và những tiếng gọi của quyền lực, sở hữu và ham mê lạc thú với bất kỳ giá nào đưa họ vào vực thẳm sầu muộn và lo âu.

Trong các thánh vịnh, chúng ta thấy tiếng kêu của nhân loại từ thẳm sâu của tâm hồn vọng đến Thiên Chúa: ”Lạy Chúa, ai sẽ làm cho chúng con thấy điều thiện, nếu ánh sáng tôn nhan Chúa không còn ở nơi chúng con nữa?” (Tv 4,7). Chúa Cha, với lòng từ nhân vô biên, đã đáp lại lời khẩn cầu này và sai Con của Ngài đến. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa mặc lấy khuôn mặt nhân trần. Qua sự nhập thể, cuộc sống, chết đi và sống lại của Chúa Con, Thiên Chúa cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi và mở ra cho chúng ta những chân trời mới, cho đến bấy giờ là điều không ta thể nghĩ tới được.

Và thế là, hỡi các bạn trẻ thân mến, trong Chúa Kitô những ước mơ thiện hảo và hạnh phúc của các bạn được thành tựu viên mãn. Chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn những mong đợi của các bạn, những mong đợi này bao nhiêu lần đã bị thất vọng vì những lời hứa hẹn giả dối của trần thế. Như thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã nói: ”Chính Chúa là vẻ đẹp thu hút các bạn dường nào; chính Ngài khiêu khích các bạn bằng khát vọng biến cuộc đời các bạn thành cái gì cao cả” (Đêm canh thức cầu nguyện tại Tor Vergata, 19-8-2000: Insegnamenti XXIII/2, [2000], 212)

2. Phúc cho những tâm hồn thanh sạch…

Bây giờ chúng ta tìm cách đào sâu để xem Mối Phúc này tiến qua tâm hồn thanh sạch như thế nào. Trước tiên chúng ta cần hiểu ý nghĩa từ ”thanh sạch” theo Kinh Thánh. Theo Văn hóa Do thái, con tim là trung tâm các tình cảm, các tư tưởng và ý hướng của con người. Nếu Kinh Thánh dạy chúng ta rằng Thiên Chúa không nhìn vẻ bề ngoài, nhưng nhìn con tim (Xc 1 Sm 16,7), thì chúng ta cũng có thể nói rằng chính từ con tim mà chúng ta có thể thấy Thiên Chúa. Sở dĩ như vậy vì con tim tóm gọn trọn vẹn con người, cả xác lẫn hồn, trong khả năng yêu và được yêu.

Trái lại về định nghĩa từ ”thanh sạch”, thánh sử Mathêu dùng từ Hy lạp 'katharos' cơ bản có nghĩa là ”sạch sẽ, tinh tuyền, không có những chất ô nhiễm”. Trong Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu gạt bỏ một quan niệm về sự tinh tuyền theo nghi thức gắn liền với bên ngoại, cấm mọi tiếp xúc với những sự vật và con người (trong số này có những người phong cùi và người ngoại kiều), bị coi là ô uế. Với những người biệt phái – giống như bao nhiêu người Do thái thời ấy, họ không ăn nếu trước đó không thực hiện nghi thức thanh tẩy và họ tuân giữ nhiều truyền thống gắn liền với việc rửa các đồ vật, Chúa Giêsu nói dứt khoát rằng: ”Không có gì từ bên ngoài con người, khi vào bên trong làm cho con người trở nên ô uế. Nhưng chính những điều xuất ra từ con người làm cho họ ô uế. Thực vậy, từ bên trong, nghĩa là từ tâm hồn con người, phát xuất những dự tính xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, ham hố, gian ác, lường gạt, tháo thứ, ghen tương, vu khống, kiêu hãnh, điên rồ” (Mc 7,15.21-22).

Vậy hạnh phúc nảy sinh từ con tim thanh sạch hệ tại điều gì? Đi từ danh sách những điều ác làm cho con người trở nên ô uế mà Chúa Giêsu liệt kê, chúng ta thấy rằng vấn đề này liên hệ trước tiên tới lãnh vực các tương quan của chúng ta. Mỗi người chúng ta phải học cách phân định điều gì có thể làm cho con tim của mình bị ”ô nhiễm”, học cách tạo cho mình một lương tâm ngay chính và nhạy cảm, có khả năng ”nhận ra thánh ý Chúa, điều gì là tốt, làm đẹp lòng Chúa và hoàn hảo” (Rm 12,2). Nếu cần có một sự chú ý lành mạnh đối với việc bảo tồn thiên nhiên, không khí trong lành, nước và lương thực thanh khiết, thì chúng càng cần phải bảo tồn sự thanh khiết của những gì mà chúng ta quí chuộng nhất: đó là con tim và những liên hệ của chúng ta. Nền ”sinh thái học nhân bản” sẽ giúp chúng ta hít thở không khí trong lành đến từ những điều đẹp đẽ, từ tình yêu chân thực, từ sự thánh thiện.
Có lần tôi đã đặt cho các bạn câu hỏi: ”Kho tàng của bạn ở đâu? Bạn đặt con tim của mình trên kho tàng nào? (Xc Cuộc phỏng vấn với vài bạn trẻ người Bỉ, 31-3-2014). Đúng vậy, con tim chúng ta có thể gắn bó với những kho tàng đích thực hoặc giả dối, nó có thể tìm được nơi an nghỉ đích thực hoặc bị ngái ngủ, trở nên lười biếng và bị mê sảng. Thiện ích quí giá nhất mà chúng ta có thể có được trong đời chính là quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Các bạn có xác tín về điều đó hay không? Các bạn có ý thức về giá trị khôn lường của các bạn trước mặt Chúa hay không? Các bạn có biết mình được Chúa yêu thương và đón nhận một cách vô điều kiện, như các bạn đang hiện hữu hay không? Khi nhận thức này bị suy giảm, thì con người trở thành một ẩn ngữ không thể hiểu được, vì chính sự ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương vô điều kiện mang lại ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Các bạn có cuộc nói chuyện của Chúa Giêsu với chàng thanh niên giàu có hay không (Xc Mc 10,17-22)? Thánh sử Marcô nhận xét rằng Chúa chăm chú nhìn anh ta và Ngài yêu thương anh (Xc c.21), rồi Ngài mời gọi anh hãy đi theo Ngài để tìm được kho tàng đích thực. Các bạn trẻ thân mến, tôi cầu chúc các bạn được cái nhìn của Chúa Kitô, đầy tình yêu thương, tháp tùng các bạn trong suốt cuộc đời.

Tuổi trẻ là thời kỳ trong đó nảy sinh sự phong phú về tình cảm hiện diện trong tâm hồn các bạn, ước muốn sâu xa, mong được một tình yêu chân thật, đẹp đẽ và cao cả. Bao nhiêu sức mạnh ở trong khả năng yêu thương và được yêu! Các bạn đừng để cho giá trị quí báu này bị biến thái, hủy hoại hoặc bị ô uế. Điều này xảy ra khi trong quan hệ của chúng ta có sự lợi dụng tha nhân vào những mục tiêu ích kỷ, đôi khi coi tha nhân như một đồ vật để thỏa mãn lạc thú mà thôi. Con tim bị thương tổn và sầu muộn sau những kinh nghiệm tiêu cực như thế. ”Tôi xin các bạn đừng sợ tình yêu chân thực, tình yêu mà Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã dạy chúng ta như sau: ”Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13,4-8.

Khi mời gọi các bạn tái khám phá vẻ đẹp của ơn gọi con người sống tình yêu, tôi nhắn nhủ các bạn hãy nổi lên chống lại xu hướng lan tràn tầm thường hóa tình yêu, nhất là khi người ta tìm cách thu hẹp tình yêu vào khía cạnh tính dục, loại bỏ mọi đặc tính thiết yếu của vẻ đẹp, sự hiệp thông, chung thủy và trách nhiệm. Các bạn trẻ thân mến, ”trong thứ văn hóa tạm bợ, tương đối, nhiều người rao giảng rằng điều quan trọng là hưởng thụ trong lúc này, và không bõ công dấnthân trọn đời, đưa ra những chọn lựa chung kết, mãi mãi, vì ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Trái lại, tôi xin các bạn hãy trở thành những nhà cách mạng, tôi xin các bạn hãy đi ngược dòng; đúng vậy, theo nghĩa đó tôi xin các bạn hãy nổi lên chống lại thứ văn hóa tạm bợ, xét cho cùng, thứ văn hóa này tin rằng các bạn không có khả năng yêu thương thực sự. Tôi tín thác nơi các bạn trẻ và cầu nguyện cho các bạn. Hãy can đảm đi ngược dòng. Và hãy can đảm sống hạnh phúc” (Gặp gỡ các bạn thiện nguyện tại Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Rio, 28-7-2013).

Các bạn trẻ là những người thám hiểm tài ba! Nếu các bạn dấn thân khám phá giáo huấn phong phú của Giáo Hội trong lãnh vực này, các bạn sẽ thấy Kitô giáo không hệ tại một mớ những điều cấm đoán bóp nghẹt ước muốn hạnh phúc của chúng ta, nhưng là một dự phóng cuộc sống có khả năng làm cho con tim chúng ta say mê!

3… vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa

Trong con tim của mỗi người nam nữ luôn vang vọng lời mời gọi của Chúa: ”Các con hãy tìm thánh nhan Ta!” (Tv 27,8). Đồng thời chúng ta luôn phải đối đầu với thân phận nghèo nàn của chúng ta là người tội lỗi. Ví dụ chúng ta đọc thấy trong sách Thánh Vịnh: ”Ai có thể lên núi Chúa? Ai có thể ở nơi thánh? Thưa đó là người có bàn tay vô tội và con tim trong trắng” (Tv 24,3-4). Nhưng chúng ta không nên sợ hãi hoặc nản chí: trong Kinh Thánh, và trong lịch sử mỗi người, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa luôn đi bước đầu. Chính Ngài thanh tẩy chúng ta để chúng ta có thể được nhận vào trước nhan thánh Ngài.

Ngôn Sứ Isaia, khi nhận được lời mời gọi của Chúa nói nhân danh Ngài, Ông kinh hãi và nói: ”Ôi, khốn thay cho tôi! Tôi bị hư mất rồi, vì tôi là người có môi miệng ô uế” (Is 6,5). Nhưng Chúa đã thay tẩy ông, và sai một thiên thần đến chạm vào miệng ông và nói: ”Lỗi ngươi đã biến mất, và tội ngươi đã được đền bù” (c.7). Trong Tân Ước trên hồ Gennesaret, khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên và làm phép lạ mẻ cá lạ lùng, Simon Phêrô sấp mình xuống dưới chân Chúa và nói: ”Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Chúa trả lời ngay: ”Đừng sợ; từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người” (c.10). Và khi một trong các môn đệ Chúa Giêsu hỏi Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và vậy là đủ cho chúng con rồi”, Thầy đáp: ”Ai thấy Thầy, thì cũng thấy Cha Thầy” (Ga 14,8-9).

Vì thế, lời Chúa mời gọi gặp Ngài cũng được gửi đến mỗi người trong các bạn, dù bạn ở nơi nào và hoàn cảnh nào nào đi nữa. Chỉ cần ”quyết định để cho Chúa gặp bạn, không ngừng tìm kiếm Chúa mỗi ngày. Không có lý do để ai có thể nghĩ rằng lời mời gọi đó không phải là cho mình” (Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm, 3). Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, cần được Chúa thanh tẩy. Nhưng chỉ cần một bước tiến nhỏ hướng về Chúa Giêsu để khám phá thấy rằng Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta với vòng tay rộng mở, đặc biệt là trong bí tích Hòa Giải, là cơ hội ưu tiên để gặp gỡ lòng từ bi Chúa thanh tẩy và tái tạo con tim chúng ta.

Đúng vậy, các bạn trẻ thân mến, Chúa muốn gặp gỡ chúng ta, để cho chúng ta thấy Ngài. ”Nhưng bằng cách nào?” – các bạn có thể hỏi tôi như vậy. Cả thánh nữ Têrêsa Avila, sinh tại Tây Ban Nha cách đây đúng 500 năm, khi còn nhỏ đã nói với cha mẹ: ”Con muốn thấy Thiên Chúa”. Rồi thánh nữ đã khám phá con đường cầu nguyện ”như một tương quan thân hữu thân mật với Đấng mà chúng ta cảm thấy được Ngài yêu thương” (Sách sự sống, 8,5). Vì thế, tôi hỏi các bạn: các bạn có cầu nguyện không? Các bạn có biết mình có thể nói với Chúa Giêsu, nói với Chúa Cha, với Chúa Thánh Linh, như thể nói với một người bạn thân tín nhất hay không! Các bạn hãy thử làm như vậy đi, một cách đơn sơ. Các bạn sẽ khám phá điều mà một nông dân ở làng Ars xưa kia đã nói với Thánh Cha Sở trong làng: khi con cầu nguyện trước Nhà Tạm Mình Thánh Chúa, ”con nhìn Chúa và Chúa nhìn con” (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 2715).

Một lần nữa tôi mời gọi các bạn hãy gặp gỡ Chúa bằng cách siêng năng đọc Kinh Thánh. Nếu các bạn chưa có thói quen thì hãy bắt đầu bằng các sách Tin Mừng. Hãy đọc mỗi ngày một đoạn. Hãy để cho Lời Chúa nói với con tim các bạn, soi sáng bước đi của các bạn (Xc Tv 119,105). Các bạn hãy khám phá thấy rằng chúng ta cũng có thể ”thấy” Thiên Chúa cả nơi khuôn mặt của những người anh em, nhất là những người bị lãng quên nhất: những người nghèo, người đói khát, người nước ngoài, các bệnh nhân và những người bị cầm tù (Xc Mt 25,31-46). Các bạn có bao giờ cảm nghiệm điều đó chưa? Các bạn trẻ quí mến, để đi vào tiêu chuẩn của Nước Thiên Chúa, cần nhìn nhận mình là người nghèo với người nghèo. Một con tim tinh tuyền nhất thiết cũng phải là một con tim từ bỏ, biết hạ mình xuống và chia sẻ cuộc sống của mình với những người túng thiếu nhất.

”Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện, qua việc đọc Kinh Thánh và đời sống huynh đệ sẽ giúp các bạn biết Chúa và bản thân mình rõ hơn. Như đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmaus (Xc Lc 24,13-35), tiếng Chúa Giêsu làm cho con tim chúng ta nồng cháy và mắt các bạn sẽ mở ra để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta, và qua đó khám phá dự phóng tình thương mà Chúa dành cho cuộc sống chúng ta.

Một số người trong các bạn đang hoặc sẽ cảm thấy tiếng Chúa gọi sống đời hôn nhân, thành lập một gia đình. Ngày ngay nhiều người nghĩ rằng ơn gọi này là ”lỗi thời”, nhưng không phải như vậy! chính vì lý do đó, toàn thể cộng đồng Giáo hội đang sống thời kỳ đặc biệt suy tư về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới ngày nay. Ngoài ra, tôi mời gọi các bạn hãy cứu xét ơn gọi sống đời thánh hiến hoặc linh mục. Thật là đẹp dường nào khi thấy các bạn trẻ đón nhận ơn gọi hiến thân trọn vẹn cho Chúa Kitô và phục vụ Giáo Hội của Người! Với tâm hồn thanh khiết các bạn hãy tự hỏi và đừng sợ điều mà Thiên Chúa yêu cầu các bạn! Từ lời thưa ”xin vâng' đối với tiêng gọi của Chúa, các bạn sẽ trở thành những hạt giống mới mang lại niềm hy vọng trong Giáo hội và xã hội. Các bạn đừng quên: thánh ý Chúa là hạnh phúc của chúng ta!

4. Hành trình tiến về Cracovia

”Phúc cho ai có tâm hồn thanh sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).

Các bạn trẻ thân mến, như các bạn thấy, Mối Phúc này có liên hệ mật thiết tới cuộc sống của các bạn và là một bảo đảm hạnh phúc của các bạn. Vì thế tôi lập lại một lần nữa: hãy có can đảm sống hạnh phúc!
Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay dẫn tới giai đoạn cuối cùng trong hành trình chuẩn bị tiến về cuộc hẹn lớn trên thế giới của các người trẻ tại Cracovia, vào năm 2016. Cách đây đúng 30 năm thánh Gioan Phaolô 2 đã thiết lập trong Giáo Hội những Ngày Quốc Tế giới trẻ. Cuộc lữ hành này của giới trẻ qua các đại lục dưới sự hướng dẫn của Người kế vị thánh Phêrô thực sự là một sáng kiến do sự quan phòng của Chúa và có tính chất ngôn sứ. Chúng ta cùng nhau cảm tạ Chúa vì những thành quả quí giá mà Ngày Quốc Tế này đã mang lại trong cuộc sống của bao nhiêu người trẻ trên trái đất! Bao nhiêu khám phá quan trọng, nhất là khám phá Chúa Kitô là Đường, là Sự thật và là Sự Sống, và khám phá Giáo Hội như một đại gia đình hiếu khách! Bao nhiêu thay đổi trong cuộc sống, bao nhiêu chọn lựa ơngọi đã nảy sinh từ những Ngày Quốc Tế giới trẻ! Xin Thánh Giáo Hoàng, bổn mạng các Ngày Quốc Tế giới trẻ, phù hộ cuộc lữ hành của chúng ta tiến về Cracovia. Và xin cái nhìn từ mẫu của Đức Mẹ Maria, Đấng Đầy Ơn Phúc, tuyệt đẹp và tinh tuyền, tháp tùng chúng ta trong hành trình này.

Vatican ngày 31 tháng 1 năm 2015
Lễ Thánh Gioan Bosco
Phanxicô Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh O.P, chuyển ý từ bản tiếng Ý

 

Muốn và có thể

Muốn và có thể

(Trích trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta. Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: “Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn”.

Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ. Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu người ấy cũng phải la to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46). Bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống mà như chết.

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt. Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài. Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh: “Nếu Thầy có thể làm được gì…” (Mc 9,22).

Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh. Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.

Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn.” Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.

Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh. Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế. Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.

Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật. Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.

Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.

Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường, được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi. Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.

Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871, người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.

Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong: những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập, những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh… Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình, vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.

Gợi Ý Chia Sẻ

Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?

Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”

Công nghị phong 20 Hồng Y và xác định lễ phong 4 hiển thánh

Công nghị phong 20 Hồng Y và xác định lễ phong 4 hiển thánh

VATICAN. Sáng ngày 14-2-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự công nghị tấn phong 20 Hồng Y mới, trong đó có ĐHY Nguyễn Văn Nhơn, đồng thời xác định sẽ tôn phong 4 thánh nữ vào ngày 17-5-2015.

Đây là công nghị lần thứ 2 ĐTC Phanxicô chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô để tấn phong Hồng y Lần đầu tiên ngày 22-2 năm 2014 để phong 19 Hồng Y và lần này 20 vị thuộc 18 quốc tịch.

Mass to 20 new cardinals

Giống như năm ngoái, hiện diện tại buổi lễ cũng có Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, đáp lời mời của ĐTC Phanxicô. Ngài ngồi cạnh các Hồng Y đẳng Giám Mục và Thượng Phụ. Tiếp đến có 145 Hồng y, khoảng 100 giám mục và 8 ngàn tín hữu, trong đó có thân nhân, bạn hữu và giáo hữu của các tiến chức Hồng Y. Đặc biệt đến từ Việt Nam có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc của Giáo phận Sàigòn, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Đức Cha Vũ Huy Chương GM giáo phận Đàlạt, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, GM Cao Bằng Lạng Sơn, Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, GM Vinh. Ngoài ra có các cha quản hạt giáo phận Hà Nội, thân nhân, cộng tác viên và giáo hữu của Đức Tân Hồng Y Việt Nam, tổng cộng khoảng 60 người, không kể đông đảo LM, tu sĩ và chủng sinh Việt Nam ở Roma.

Có một tiến chức Hồng Y xin kiếu không đến dự công nghị được vì tuổi cao sức yếu, đó là ĐHY José de Jesus Pimiento Rodriguez, 96 tuổi, nên đã xin nhận Mũ Đỏ tại gia.

19 tiến chức Hồng y ngồi hai bên bàn thờ chính, trong khi các Hồng y và các GM ngồi phía trước bàn thờ. Trong số các tân Hồng Y có 15 vị dưới 80 tuổi và đến từ 14 quốc gia, gồm 5 vị người Âu, 3 vị Á châu, 3 vị Mỹ la tinh, 2 từ Phi châu và 2 vị từ Úc châu. 2 tiến chức Hồng Y Phi châu đến từ Etiopia và Capo Verde, hai vị người Úc đến từ New Zealand và quần đảo Tonga, 3 vị Á châu là người Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, 3 vị Mỹ châu la tinh đến từ Mêhicô, Urugay và Panamá.

ĐTC đội mũ cho các tân Hồng Y

Ngoài ra, trong số các tân Hồng Y có 4 vị thuộc các dòng tu, gồm 2 vị Don Bosco, 1 vị dòng thánh Vinh Sơn Phaolô và một vị dòng thánh Augustino nhặt phép. Toàn Hồng y đoàn có 13 HY cử tri thuộc các dòng tu, trong đó đông nhất là 4 vị thuộc dòng Don Bosco.

Vị Hồng y duy nhất được ĐTC bổ nhiệm cho giáo triều Roma lần này là ĐHY Dominique Mamberti, sinh tại Maroc cách đây 63 năm, nhưng nguyên quán tại đảo Corse bên Pháp. Năm 2006 sau 4 năm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Sudan, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm ngoại trưởng Tòa Thánh. Hồi tháng 11-2014 ĐTC Phanxicô chọn ngài làm Chủ tịch Tối cao Pháp Viện của Tòa Thánh.

Riêng Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ngài đứng thứ 6 trong danh sách các vị được tấn phong lần này. Năm nay ngài 77 tuổi (1-4-1938), thụ phong linh mục ngày 21-12-1967 thuộc lớp đầu tiên của Giáo Hoàng Chủng viện thánh Piô 10 Đà Lạt và 24 năm sau, được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991, và trở thành GM chính tòa 3 năm sau đó (23-3-1994). Cách đây 5 năm (22-4-2010) ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội, và chỉ 11 ngày sau đó, 13-5-2010, ngài trở thành TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

New Carninal included Nguyễn văn Nhơn             Tân Hồng Y Nguyễn văn Nhơn bắt tay chào mừng các vị Hồng Y khác

Cũng như hầu hết các Hồng Y khác trong đợt ngày, Đức TGM Nguyễn Văn Nhơn không hề được Tòa Thánh báo trước việc chọn ngài làm Hồng Y, và ngài chỉ được Đức TGM Girelli, Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam, chính thức báo tin việc bổ nhiệm này 1 giờ sau khi ĐTC công bố danh tánh các tiến chức Hồng Y trong buổi đọc kinh Tuyền Tin trưa chúa nhật 4-1 vừa qua tại Vatican.

Lễ phong Hồng Y được cử hành dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa. Khi tiến lên bàn thờ chính, ĐTC đã đến chào Đức nguyên Giáo Hoàng rồi tiến tới trước Mộ Thánh Phêrô cúi mình, thinh lặng cầu nguyện.

Sau lời chào phụng vụ của ĐTC, ĐHY Dominique Mamberti, vị đứng đầu danh sách các tiến chức đã đại diện mọi người chào mừng và cám ơn ĐTC, đồng thời cũng chào thăm vị Tiền Nhiệm của ngài đang hiện diện.

Tiếp đến, sau lời nguyện của ĐTC, cộng đoàn đã nghe đọc đoạn thư thứ nhất của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Corinto, đoạn thứ 12 và 13 (12,31-13,13), đề cao vai trò của đức bác ái: dù thông thạo mọi sự, dù làm những công trình to lớn hay bao công việc khác, nếu không có bác ái thì cũng vô ích…

Trong bài huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn bài Thánh Thư vừa đọc và đề cao tầm quan trọng của đức bác ái trong đời sống các vị được giao phó trọng trách trong Giáo Hội.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh em Hồng Y thân mến,
Tước Hồng Y chắc chắn là một địa vị nhưng không phải là địa vị vinh dự. Nguyên danh từ Cardinale đã cho thấy điều đó, từ này gợi lại từ ”cardine”, bản lề; vì thế đây không phải là một cái gì phụ thuộc, trang trí, làm cho người ta nghĩ đến một huy chương danh dự, nhưng là một bản lề, một điểm tựa và sự chuyển động thiết yếu đối với đời sống của cộng đoàn. Anh em là ”những bản lề” và được tháp nhập vào Giáo phận Roma, là giáo phận chủ trì cộng đoàn hiệp thông bác ái hoàn vũ” (LG 13, Xc Ignatio Ant., Ad Rom. Prologo).

Trong Giáo Hội mỗi chức vị chủ tịch đều xuất phát từ đức bác ái, phải được thực thi trong tình bác ái và có mục đích là bác ái. Cả trong lãnh vực này, Giáo Hội ở Roma thi hành một vai trò gương mẫu: về cách thức chủ trì trong tình bác ái, để mỗi Giáo Hội địa phương được kêu gọi chủ trì trong tình bác ái nơi khuôn khổ của mình.
Vì thế, tôi nghĩ rằng ”bài ca đức ái” trong thư thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi các tín hữu thành Corinto là lời hướng dẫn buổi cử hành này và sứ vụ của anh em, đặc biệt đối với những người trong anh em hôm nay gia nhập Hồng y đoàn. Và để cho chúng ta được hướng dẫn như thế thật là tốt, bắt đầu từ tôi và anh em cùng tôi. Chúng ta được hướng dẫn bằng những lời linh hứng của thánh Phaolô Tông Đồ, đặc biệt khi thánh nhân liệt kê những đặc tính của đức bác ái. Ước gì Mẹ Maria giúp chúng ta trong sự lắng nghe này. Mẹ đã trao tặng cho thế giới Đấng là ”Con đường tuyệt hảo nhất” (Xc 1 Cr 12,31) là Chúa Giêsu, là Đức Bác Ái nhập thể; ước gì Mẹ giúp chúng ta đón nhận Lời này và luôn tiến bước trên Con đường là Chúa Giêsu. Xin Mẹ giúp chúng ta với thái độ khiêm tốn và dịu dàng của Mẹ, vì đức bác ái, hồng ân của Thiên Chúa, tăng trưởng tại nơi nào có khiêm tốn và dịu dàng.

Nhất là thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đức bác ái thì ”đi đảm” và ”từ nhân”. Hễ trách nhiệm càng rộng lớn trong việc phục vụ Giáo Hội, thì con tim càng phải mở rộng, nở lớn theo mức độ của con tim Chúa Kitô. Đại đảm, theo một nghĩa nào đó, cũng đồng nghĩa với đặc tính công giáo: nghĩa là biết yêu thương vô biên, nhưng đồng thời trung thành với những hoàn cảnh đặc thù và với những cử chỉ cụ thể. Yêu thương những gì là cao cả nhưng không lơ là những gì là bé nhỏ; yêu những điều bé nhỏ trong chân trời của những điều lớn, bởi lẽ ”không nản chí vì những công trình vĩ đi, nhưng dấn thân vào những việc bé nhỏ nhất, đó thc là điều thần linh” (Non coerceri a maximo, contineri tamen a minimo divinum est). Biết yêu thương bằng những cử chỉ từ nhân. Từ nhân là ý hướng cương quyết và bền bỉ, luôn luôn muốn điều thiện và cho tất cả mọi người, kể cả những người không thích chúng ta.
Rồi Thánh Tông Đồ nói rằng, đức bác ái ”không ghen tương, không háo danh, không tự kiêu tự đại”. Đây thực là một phép lạ của đức bác ái, vì con người chúng ta, tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi trong cuộc sống, chúng ta có xu hướng ghen tương và kiêu ngạo do bản tính của chúng ta đã bị thương tổn vì tội lỗi. Và cả những địa vị trong Giáo Hội cũng không được miễn nhiễm khỏi cám dỗ này. Nhưng chính vì thế, anh em thân mến, sức mạnh thần linh của đức bác ái có thể càng nổi bật trong chúng ta, sức mạnh biến đổi con tim, đến độ không còn là bạn sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong bạn. Và Chúa Giêsu là tất cả tình yêu.

Ngoài ra, đức bác ái ”không thiếu sự tôn trọng, không tìm tư lợi”. Hai đặc điểm này cho thấy ai sống trong đức bác ái thì không qui hướng vào mình. Ai tự qui hướng vào mình thì chắc chắn là điều tôn trọng và thường họ không nhận thấy điều đó, vì ”tôn trọng” chính là khả năng để ý đến người khác, đến phẩm giá, hoàn cảnh và những nhu cầu của họ. Ai tự tập trung vào mình thì chắc chắn sẽ tìm tư lợi, và dường như họ thấy đó là điều bình thường, hầu như là điều bắt buộc. ”Lợi lộc” ấy cũng có thể được bọc bằng những bộ áo cao thượng, nhưng bên dưới đó vẫn luôn luôn là tư lợi. Trái lại đức bác ái làm cho bạn không tự tập trung vào mình và đặt bạn ở nơi trung tâm đích thực là một mình Chúa Kitô. Và như thế, bạn có thể là một người tôn trọng và quan tâm đến thiện ích của tha nhân.

Thánh Phaolô nói: ”Đức bác ái không thịnh nộ, không đ ý đến điều ác phải chịu”. Đối với người mục tử sống tiếp xúc với dân chúng, không thiếu những dịp để nổi giận. Và chúng ta càng có nguy cơ nổi giận trong những quan hệ với các anh em của mình, vì trong thực tế chúng ta ít có lý do để chữa mình. Cả trong trường hợp này, đức bác ái, và chỉ có đức bác ái mới giải thoát chúng ta. Giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ phản ứng theo sự thúc đẩy của bản năng, nói và làm những điều sai lầm, và nhất là đức bác ái giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ tử vong của sự giận dữ bị dồn nén, ”bị âm ỉ” bên trong, khiến bạn để ý đến những điều ác mà bạn phải chịu. Không, điều này không thể chấp nhận được nơi con người của Giáo Hội. Người ta có thể tha thứ sự nổi giận nhất thời rồi nguội đi ngay, nhưng đối với sự oán hận thì không. Xin Chúa giúp chúng ta tránh thoát và giải phóng chúng ta khỏi những điều ấy.

Thánh Phaolô nói thêm rằng đức bác ái ”không vui mừng vì điều bất công nhưng vui mừng vì chân lý”. Ai được kêu gọi thi hành công tác phục vụ là cai quản trong Giáo Hội thì phải có một ý thức mạnh mẽ về công lý, đến độ thấy rằng không thể chấp nhận bất kỳ điều bất công nào, cả điều bất công có lợi cho bản thân hoặc cho Giáo Hội. Và đồng thời, ”vui mừng vì chân lý”: thật là một thành ngữ đẹp dường nào! Người của Thiên Chúa là người được chân lý thu hút và tìm thấy chân lý trọn vẹn trong Lời và trong Thân Mình của Chúa Giêsu Kitô. Chúa là nguồn mạch niềm vui vô tận cho chúng ta. Ước gì Dân Chúa luôn có thể tìm thấy nơi chúng ta sự quyết liệt tố giác bất công và vui mừng phục vụ chân lý.

Sau cùng, đức bác ái ”tha thứ tất cả, tin tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Ở đây trong 4 lời này có chứa đựng một chương trình đời sống thiêng liêng và mục vụ. Tình yêu được Chúa Thánh Linh đổ vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống và trở thành thế này: thành người có khả năng luôn luôn tha thứ; luôn luôn tin tưởng, vì đầy tràn niềm tin nơi Thiên Chúa; có khả năng luôn luôn mang lại hy vọng vì tràn đầy hy vọng nơi Thiên Chúa; trở thành những người biết kiên nhẫn chịu đựng mọi tình trạng, mọi người anh chị em, trong niềm kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương chịu đựng gánh nặng của tất cả tội lỗi chúng ta”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em thân mến, tất cả những điều ấy không đến từ chúng ta, nhưng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương và Ngài thi hành mọi điều ấy, nếu chúng ta ngoan ngoãn đối với tác động của Thánh Linh của Ngài. Vì vậy chúng ta phải trở thành ”người được tháp nhập và ngoan ngoãn”. Hễ chúng ta càng được tháp nhập vào Giáo Hội ở Roma, thì chúng ta càng phải trở nên ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để đức bác ái có thể mang lại hình thái và ý nghĩa cho tất cả những gì chúng ta sống và làm. Được nhập tịch vào Giáo Hội chủ trì trong đức bác ái, ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh là Đấng đổ tràn tâm hồn chúng ta tình yêu của Thiên Chúa (Xc Rm 5,5). Amen

Nghi thức phong Hồng Y

Sau bài huấn dụ, ĐTC bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng y mới. Ngài nói:

”Anh chị em rất thân mến, chúng tôi sắp thi hành một hành vi trọng đại và vui mừng trong thánh vụ của chúng tôi. Hành vi này có liên hệ trước tiên tới Giáo Hội tại Roma, nhưng cũng liên quan tới toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi sắp gọi một số người anh em gia nhập Hồng Y đoàn, để các vị được hiệp nhất với Tòa thánh Phêrô bằng một mối dây bền chặt hơn, trở nên thành phần của hàng giáo sĩ Roma, và cộng tác mật thiết hơn với sứ vụ tông đồ của chúng tôi.”

”Mang mặc phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc âm của ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất. Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Hội Thánh Roma.”

Đến đây, ĐTC lần lượt xướng tên 20 hồng y mới, cộng đoàn nhiệt liệt vỗ tay chào mừng khi tên mỗi vị được nhắc đến. ĐTC ấn định 3 vị tân Hồng y thuộc đẳng phó tế, 17 vị còn lại là các Hồng y thuộc đẳng Linh Mục, hầu hết là những vị đang coi sóc các giáo phận ở các nơi.

Nhà thờ hiệu tòa được ĐTC chỉ định cho ĐHY Phêrô Nguyễn Văn Nhơn là nhà thờ giáo xứ thánh Tômaso Tông Đồ ở khu ngoại ô phía Đông Nam Roma cách trung tâm chừng 30 cây số. Giáo xứ này được thành lập cách đây 51 năm, thánh đường mới của giáo xứ được khánh thành cách đây 2 năm và hồi năm ngoái đã được ĐTC Phanxicô viếng thăm. Trong những năm gần đây dân số giáo xứ gia tăng mạnh gồm hơn 6 ngàn gia đình với trên 20 ngàn dân. Phần lớn dân cư tại đây thuộc giai cấp trung lưu và thượng trung lưu.

Tiếp tục nghi thức, theo lời mời gọi của ĐTC, các tiến chức Hồng Y tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn luôn tuân phục Tòa Thánh và Thánh Phêrô nơi bản thân ĐTC Phanxicô và các đấng kế vị ngài được bầu lên hợp pháp; luôn bảo tồn bằng lời nói và hành động tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo; không bao giờ tiết lộ cho người nào những gì đã được ủy thác để gìn giữ, mà sự tiết lộ điều ấy có thể gây hại hoặc làm ô danh Hội Thánh; hết sức chuyên cần và trung tín thi hành các công tác được kêu gọi thi hành trong việc phục vụ Giáo Hội, theo các quy tắc luật định.

Kế đến, từng Hồng Y lần lượt tiến lên quì trước mặt ĐTC để ngài đội mũ đỏ Hồng Y, với lời nhắn nhủ:

”Để ngợi khen Thiên Chúa Toàn Năng và mang lại vinh dự cho Tòa Thánh, ĐHY hãy nhận mũ đỏ này như dấu chỉ phẩm vị Hồng Y, có nghĩa là ĐHY phải sẵn sàng cư xử can đảm, cho đến độ đổ máu đào, để làm tăng trưởng Đức Tin Kitô giáo, cho hòa bình và yên hàn của Dân Chúa, cho tự do và sự mở rộng Giáo Hội Roma Thánh”.
Và khi trao nhẫn, ngài nói:

”Đức Hồng Y hãy nhận chiếc nhẫn từ tay của Phêrô, và Đức Hồng Y hãy biết rằng nhờ yêu mến vị Thủ lãnh các thánh tông đồ mà lòng yêu mến Giáo hội của ĐHY được kiện cường”.

Sau cùng ĐTC trao sắc chỉ về việc phong Hồng Y cũng như việc chỉ định tước hiệu thánh đường của tân chức.
Sau khi lãnh mũ và sắc phong các Tân Hồng Y trao đổi cử chỉ bình an với ĐTC các vị đến chào các Hồng Y cũ rồi lên ngồi trên 19 chiếc ghế dành cho các vị phía tay trái của ĐTC, đối diện với hàng ghế của các Hồng Y cũ.
Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC xin cho các tôi tớ Chúa là các tân Hồng Y khi kiên trì xây dựng Giáo Hội, chiếu tỏa rạng ngời với đức tin toàn vẹn và tâm trí tinh tuyền.

Công nghị phong thánh

Phần thứ 2 của Công nghị là việc phong hiển thánh cho 3 nữ chân phước: 1 vị người Pháp và 2 vị người Palestine:
Mở đầu, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh Giáo Hội cùng với các Hồng Y và GM tụ họp nơi đây xin ĐTC ghi tên 3 vị chân phước vào sổ bộ các thánh trong tương lai gần đây, đó là Jeanne Emilie de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh Baouardy và Maria Alfonsa Danil Ghattas.

Rồi ĐHY tóm lược tiểu sử của 3 vị nữ chân phước:

– Đứng đầu là chân phước Jeanne Emilie de Villeneuve, sáng lập dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thành phố Castres, miền nam Pháp, sinh năm 1811 và qua đời năm 1854 lúc 43 tuổi đời. Năm 1836, khi được 25 tuổi, chị thành lập một cộng đoàn nữ tu với danh hiệu ”Các nữ tu xanh ở Castres”: giữa thời cách mạng công nghệ, chị và hai người bạn đồng chí hướng chăm sóc các phụ nữ nghèo khổ, các nữ công nhân, bệnh nhân và phụ nữ mại dâm, trong một căn nhà ở Castres. Dòng này hiện có hơn 600 nữ tu thuộc 120 cộng đoàn, hoạt động trong lãnh vực giáo dục, y tế, và xã hội tại nhiều nước Phi châu, Âu Châu, Mỹ la tinh và Á châu Thái Bình Dương.
– Thứ hai là chân phước Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh, tục danh là Maria Baouardy, nữ đan sĩ dòng Cát Minh nhặt phép, người Palestine. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, khi lên 13 tuổi Maria bị chú ruột ép cho một người họ hàng theo phong tục thời ấy, nhưng Maria quyết liệt từ khước vì muốn dâng mình cho Chúa. Chị là một nhà thần bí, với nhiều thị kiến. Chị qua đời năm 1878 tại Đan viện ở Bethlehem lúc 32 tuổi.

– Sau cùng là chân phước Maria Alphonsa Danil Ghattas, người Palestine, sinh tại Jerusalem năm 1843 và qua đời năm 1927, thọ 84 tuổi. Chị cũng là một nhà thần bí và đã sáng lập dòng nữ Đa Minh Mân Côi tại Thánh Địa. Chị được phong chân phước tại Nazareth ngày 22-11 năm 2009 (SD 6-2-2015)

Và ĐHY Amato kết luận rằng: Vì vậy, để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho toàn Giáo Hội, con nồng nhiệt xin ĐTC, dùng quyền Tông Đồ, quyết định phong hiển thánh cho các vị chân phước này, và xác định ngày long trọng ghi tên các vị vào sổ bộ các thánh.

ĐTC nói:
”Chúng tôi đã được ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cho biết tất cả những gì cần thiết đã được hoàn thành tốt đẹp tại Bộ, để các chân phước Jeanne Emilie de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh Baouardy và Maria Alfonsina Danil Ghattas được ghi vào sổ bộ các thánh. Nhưng anh em đáng kính, trước khi cử hành công nghị này, qua giấy tờ, anh em đã bày tỏ riêng ý kiến của anh em và tuyên bố các vị chân phước này đáng được đề nghị như mẫu gương cho toàn thể Giáo Hội, đặc biệt trong hoàn cảnh thời nay. Anh em đáng kính, tôi vui mừng vì anh em nghĩ rằng 3 vị chân phước đáng được đề nghị cho toàn thể Giáo Hội tôn kính. Vì thế, với quyền của Thiên Chúa toàn năng, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và quyền của chúng tôi, chúng tôi quyết định rằng, cùng với chân phước Maria Cristina Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, mà việc phong thánh đã được quyết định trong công nghị Hồng Y năm ngoái, ba chân phước Jeanne de Villeneuve, Maria Chúa Giêsu chịu đóng đanh và Maria Alfonsina Danil Ghattas sẽ được ghi vào sổ bộ các thánh ngày 17 tháng 5 năm 2015.

Công nghị kéo dài 1 giờ 25 phút và kế thúc lúc 12 giờ 25.

Viếng thăm chúc mừng các tân Hồng Y

Theo chương trình, chiều hôm qua, từ lúc 4 giờ rưỡi, các tân hồng y được nhiều người thân, bạn hữu và quan khách đến chúc mừng tại các địa điểm được chỉ định cho mỗi vị: 4 tân Hồng y thuộc giáo triều ở trong dinh Giáo Hoàng, và 15 vị còn lại tại nhiều địa điểm trong khu vực Đại thính đường Phaolô 6.

Với việc bổ nhiệm này, con số thành viên Hồng Y đoàn là 227 vị, trong đó có 125 Hồng Y cử tri dưới 80 tuổi, tức là vượt quá con số 120 Hồng Y cử tri được luật ấn định. số những nước có HY cử tri được bổ nhiệm lần này có những quốc gia chưa hề có Hồng y bao giờ như Capo Verde, Tonga, Myanmar, Uruguay, Panamá. Đây là một dấu chỉ ĐGH rất tự do trong việc bổ nhiệm, không câu nệ truyền thống. Với việc bổ nhiệm HY cho những nước bé nhỏ hoặc ít tín hữu Công Giáo như Capo Verde, Tonga và Myanmar, ngài muốn mang lại vị thế quan trọng hơn cho những nước nhỏ thường bị quên lãng.

Trong Hồng y đoàn mới, Âu Châu vẫn đứng đầu với 119 Hồng y, trong đó có 57 Hồng y cử tri, Bắc Mỹ 27 vị trong đó có 18 HY cử tri, Nam Mỹ có 26 vị trong đó 12 vị dưới 80 tuổi. Nhưng với việc bổ nhiệm mới, tỷ số này suy giảm từ 60 xuống còn 56,8% Hồng Y đoàn.

Á châu chỉ có 22 Hồng Y, trong đó có 14 HY cử tri, Phi châu 21 Hồng y trong đó có 15 vị dưới 80 tuổi. Hai đại lục này có số tín hữu Công Giáo tăng nhanh nhất.

Sau cùng là Châu Đại Dương có 5 Hồng Y kể cả 2 tiến chức mới được tuyên bố bổ nhiệm, trong đó có 3 HY cử tri.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam

Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam

ROMA. Sáng ngày 26-1-2015, Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đã về đến Roma bằng an sau một tuần lễ viếng thăm khẩn trương tại Việt Nam, từ bắc chí nam.

Tháp tùng Đức Hồng Y trên đường về có Linh Mục Inhaxio Hồ Văn Xuân, Tổng đại diện Giáo Phận Sàigon.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Roberto Piermarini, Trưởng các ban tin tức của Đài Vatican, Đức Hồng Y Filoni đã bày tỏ sự hài lòng rất lớn về chuyến viếng thăm ngài thực hiện tại Việt Nam.

H. Cuộc viếng thăm ca Đức Hồng Y có âm vang nào từ phía Giáo Hội tại Việt Nam?

Đ. Giáo Hội địa phương không những đón tiếp tôi rất tốt đẹp nhưng còn vượt quá tất cả những mong đợi của tôi. Dĩ nhiên với các Giám Mục tôi đã có một cuộc gặp rỡ rất huynh đệ, cuộc gặp gỡ rất đẹp với các linh mục, các nữ tu, các chủng sinh. Tại Việt Nam chúng ta có một Giáo Hội thật phong phú về ơn gọi – cả nam lẫn nữ – và tôi thấy các linh mục làm việc tốt đẹp và dấn thân trong rất nhiều hoạt động, một số hoạt động ấy tôi có dịp viếng thăm trong các giáo phận khác nhau. Rồi từ phía các tín hữu: tôi nói rằng lòng quí mến của các tín hữu Việt Nam phần nào giống như sóng thần (tsunami). Trước hết họ có một ý thức rất đặc biệt mình là Kitô hữu, một lòng đạo đức thật đáng khen và một lòng quí mến nồng nhiệt mà họ biểu lộ dào dạt một cách tự nhiên. Điều này cũng là nhân cách tiêu biểu của các tín hữu việt Nam, họ cảm thấy rất gần gũi và kính mến các linh mục, các Giám Mục, và hiển nhiên là trong trường hợp này, đối với Tổng trưởng Bộ truyền giào, và nhất là họ có một lòng quí mến sâu đậm đối với Đức Thánh Cha như nhiều lần họ bày tỏ. Vì thế, đó thực là một Giáo Hội hết sức sinh động, dấn thân, ngày qua ngày đáp ứng được những mong đợi, cả về mặt xã hội và nhân bản của đất nước. Tôi phải nói rằng đối với tôi, Việt Nam là một sự khám phá, mặc dù tôi đã có nhiều dịp được biết và đọc. Tôi cũng muốn nói lên một sự đánh giá cao về những gì đã và đang được Giáo Hội tại Việt Nam thực hiện.

H. Thưa Đức Hồng Y, có một sự đáp ứng, những phản ứng nào trong các cuộc nói chuyện ở cấp cao nhất đối với chính quyền Hà Nội hay không?

Đ. Tôi phải nói rằng tất cả các báo chí địa phương, tiếng Việt cũng như tiếng Anh, đã đăng tải, kể cả ở trang nhất, ngoài hình ảnh, cuộc gặp gỡ, và đánh giá cao sự cộng tác hiện có, sự cảm thông tốt đẹp giữa Giáo Hội Công Giáo, Tòa Thánh và dĩ nhiên là chính quyền địa phương. Và rồi tôi đích thân cảm nghiệm thấy điều đó trong các cuộc gặp gỡ mà tôi có dịp thực hiện: ngoài cuộc gặp gỡ ở cấp cao nhất với Ban tôn giáo chính phủ, tôi đã được mời gặp thủ tướng và ông bí thư đảng cộng sản ở Hà Nội. Thậm chí, khi tôi giã từ, Ông Phó trưởng ban tôn giáo đã đến Hà Nội tiễn chào tôi ở sân bay. Vì thế, ở mọi cấp, tôi thấy có sự quan tâm rất nhiều và tôi cũng muốn nói lên sự hài lòng, vì họ rất hài lòng về các cuộc gặp gỡ mà chúng tôi đã có, như vị đại diện Tòa Thánh không thường trú, Đức TGiám Mục Girelli đã có dịp thấy; như Đức Tổng Giám Mục Chủ tịch Hội đồng Giám Mục đã tháp tùng tôi và các Giám Mục khác hiện diện tại những cuộc gặp gỡ ấy. Vì thế tôi có thể nói rằng cả trên bình diện truyền thông – không kể báo chí – cả truyền hình cũng đã nhiều lần chiếu các cuộc gặp gỡ ấy, như họ đã nói với tôi.

H. Thưa Đức Hồng Y Filoni, xét về những giới hạn mà Giáo Hội Việt Nam còn gặp phải, cuộc viếng thăm mục vụ của Đức Hồng Y mở ra hy vọng nào?

Đ. Những giới hạn không thuộc lãnh vực đức tin và không nhắm chống lại đức tin: – như họ đã nói với tôi -, nhiều khi những giới hạn đó là những vấn đề đặc thù, một cách nào đó cần tìm ra một cuộc đối thoại đúng. Tôi muốn nói rằng những viễn tượng ở đây là viễn tượng truyền giáo: Việt Nam là một xã hội đang thay đổi mau lẹ trên bình diện kinh tế, xã hội, nhưng vẫn còn gắn liền theo truyền thống với những giá trị thuộc thế giới Phật giáo, Khổng giáo, những giá trị truyền thống của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc loan báo Tin Mừng cần tìm ra những hình thức, hội nhập làm sao để Tin Mừng có thể được hiểu và chấp nhận. Cũng có vấn đề các nhóm dân thiểu số, nơi mà chúng tôi có được những điều hài lòng về phương diện truyền giáo: ví dụ trong Giáo phận Hưng Hóa, khi viếng thăm một giáo xứ (Hòa Bình) tôi đã được thấy hơn 200 người chịu phép rửa tội, hầu hết là người dân tộc; và cả trong cuộc gặp gỡ ở Đà Nẵng, kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận, hơn 50 người dân tộc người lớn được rửa tội. Vì thế có một công việc có thể được thực hiện tốt đẹp nơi những người dân tộc. Tôi cũng đã thấy bao nhiêu nữ tu là người dân tộc và đây là điều mới mẻ mà dĩ nhiên trước đó tôi chưa được biết và sự kiện ấy giải thích một cách nào đó hoạt động mục vụ của những người đến từ môi trường những người dân tộc phục vụ cho những người dân tộc. Chúng tôi chưa có các linh mục trong lãnh vực này, nhưng có một sự dấn thân từ phía tất cả mọi người làm sao để có thể tìm ra những ơn gọi linh mục làm việc tốt cả trong môi trường những người dân tộc.

H. Cuộc viếng thăm ca Đức Hồng Y diễn ra sau cuộc viếng thăm lần thứ hai của ĐGH ti Á châu: đâu là những viễn tưng được mở ra cho việc loan báo Tin Mừng tại Á châu, thưa Đức Hồng Y?

Đ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng tại Á châu – giống như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 nay là thánh, đã đặc biệt quan tâm, làm sao để ngàn năm này phải được dành cho việc loan báo Tin Mừng tại Á châu, với một quyết tâm xứng với đại lục to lớn này. Vì thế cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng, tại Sri Lanka cũng như tại Philippines, nói lên một sự chú ý đặc biệt của ĐGH Phanxicô đối với đại lục này. Do đó chúng tôi hy vọng và cầu mong – chính các tín hữu Công Giáo cũng nói như vậy: bao nhiêu lần họ với với tôi: ”Xin Đức Hồng Y xin Đức Thánh Cha đến thăm chúng con. Không phải ngài chỉ bay trên Việt Nam chúng con, nhưng còn xuống thăm chúng con nữa”. Đây là điều thật đẹp vì hiển nhiên họ cảm thấy rằng Đức Giáo Hoàng mang theo mình một đà tiến truyền giáo mà tôi tin rằng tại đại lục này có thể tìm được một không gian rộng lớn”

G. Trần Đức Anh, O.P, chuyển ý

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Trên chuyến bay dài gần 15 tiếng từ Manila về Roma, ĐTC đã mở cuộc họp báo dài hơn 1 tiếng đồng hồ với 76 ký giả tháp tùng, để tổng kết chuyến viếng thăm tại Philippines và ngài cũng đề cập đến nhiều vấn đề thời sự: từ nạn tham nhũng trong các tổ chức dân sự và Giáo Hội đến vấn đề ”thực dân hóa gia đình về ý thức hệ”, từ lý thuyết về giống (Gender theory) cho đến vấn đề ngừa thai. Ngài cũng nói đến một loạt những cuộc tông du có thể thực hiện trong năm nay, 2015.

– Trả lời câu hỏi: ”Dân Philippines đã học được nhiều từ các sứ điệp của ĐTC. Vậy ĐTC đã học đưc điều gì nơi dân Philippines? Ngài đáp:

”Những cử chỉ.. những cử chỉ làm cho tôi cảm động. Không phải những cử chỉ theo nghi thức, nhưng là những cử chỉ xuất phát từ con tim, hầu như những cử chỉ ấy làm rơi lệ (ĐGH rướm lệ). Đức tin, tình yêu, gia đình, tương lai, nơi cử chỉ của những người cha nâng bổng các đứa con của họ.. như thể họ nói: đây là kho báu của tôi, đây là tương lai của tôi và làm việc và chịu đau khổ vì kho báu này thật là điều bõ công”. Một cử chỉ độc đáo, xuất phát từ con tim.

Điều thứ hai làm tôi xúc động nhiều: lòng nhiệt thành không giả bộ, niềm vui, sự hân hoan, khả năng mừng lễ. Dù dưới trời mưa. Một trong những người trong ban nghi lễ phụng vụ nói với tôi là rất cảm động, vì thấy những người giúp lễ ở Tacloban, dưới trời mưa, vẫn không bao giờ mất nụ cười. Một niềm vui không giả dối, không phải là một nụ cười gượng gạo, nhưng đó là một nụ cười đàng sau đó có cuộc sống bình thường, có những đau khổ, các vấn đề. Những người mẹ mang những đứa con bệnh tật.. Bao nhiêu trẻ em tàn tật, với những tật nguyền có thể gây ấn tượng, họ không giấu kín con của họ, họ mang đến để ĐGH chúc lành: đây là con tôi, bé tàn tật như thế, nhưng đó là con tôi. Tất cả những bà mẹ làm điều ấy, nhưng cách họ làm khiến tôi xúc động. Một cử chỉ của tình mẫu tử, phụ tử… Philippines là một dân tộc biết chịu đau khổ và có khả năng trỗi dậy, tiếp tục tiến bước. Hôm qua (18-1-2015), trong cuộc nói chuyện với thân phụ cô Krystel, thiếu nữ thiện nguyện bị thiệt mạng ở Tacloban, tôi cảm thấy được khích lệ vì điều mà ông nói: ”Cháu đã chết trong lúc phục vụ”. Ông tìm những lời để diễn tả sự chấp nhận tình trạng bị mất con như vậy”.

Những cử chỉ đã đánh động sâu xa con tim của ĐGH Phanxicô cũng là những cử chỉ của các nạn nhân sống sót sau cuồng phong ở Tacloban. Ngài nói: ”Khi nhìn thấy toàn thể dân Chúa cầu nguyện sau thiên tai ấy, tôi cảm thấy như bị tiêu diệt, hầu như không nói nên lời nữa”.

– Và thực sự khi gợi lại điều ấy, ĐGH vẫn còn cảm thấy xúc động, nhưng giọng nói của ngài thay đổi khi một ký giả hỏi ngài: đâu là những cuộc viếng thăm ngài d định thực hiện trong những tháng tới đây. Như thói quen, ngài chỉ trả lời lướt qua, và cho biết đây chỉ là những dự án đang ở trong vòng cứu xét:

”Tôi chỉ trả lời như giả thuyết. Chương trình dự tính là đến thăm Cộng hòa Trung Phi và Uganda. Hai nước trong năm nay. Tôi nghĩ là cuộc viếng thăm sẽ diễn ra vào khoảng cuối năm, vì lý do thời tiết, làm sao để thời tiết không bị mưa làm cho cuộc viếng thăm trở nên khó khăn hơn. Cuộc viếng thăm này hơi bị trể, vì có vấn đề bệnh dịch Ebola. Thật là trách nhiệm lớn khi tổp chức các cuộc tập họp lớn vì có nguy cơ bị lây bệnh. Tại hai nước vừa nói không có vấn đề”.

ĐTC cũng cho biết ngài có thể thăm 3 nước Mỹ châu la tinh, dự kiến cho năm nay – vẫn còn ở trong vòng dự định – đó là Ecuador, Bolovia và Paraguay. ”Rồi năm tới (2016), nếu Chúa muốn, tôi muốn thăm Chile, Argentina và Uguray, nhưng chưa dự kiến gì cả.”

Vì lý do thực tiễn trong việc tổ chức (cần thêm 2 ngày), ĐTC loại bỏ giả thuyết ngài sẽ đến California để phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra O.F.M. Lễ tôn phong sẽ diễn ra trong Đền thánh quốc gia ở Washington. Cũng vì lý do tương tự, không có vấn đề từ Mêhicô đi vào Hoa Kỳ, tuy rằng cử chỉ đó có thể có giá trị ”huynh đệ” đối với những người nhập cư. ”Đi vào Hoa Kỳ từ biên giới Mêhicô sẽ là một điều đẹp như một dấu chỉ huynh đệ, nhưng bạn biết rằng đi Mêhicô mà không đến viếng Đức Mẹ (Guadalupe) thì sẽ là một thảm trạng, ”một chiến tranh sẽ bùng nổ!.. Tôi nghĩ tôi sẽ thăm 3 thành phố Hoa Kỳ thôi.”

ĐTC cũng cho biết ngài không đến El Salvador để phong chân phước cho Đức Cha Oscar Romero (TGM San Salvador).

– Trả lời câu hỏi về việc nhiều lần ngài tố giác nạn tham ô hối lộ, ĐTC tái khẳng định rằng đó là một điều ác, một hành động xấu xa có những hậu quả tai hại, đó là một ”vấn đề thế giới” thường ẩn nấp dễ dàng trng các tổ chức, các cơ quan, không kể nơi mỗi cá nhân, và tệ nạn này thường tạo nên nạn nhân nhiều nhất nơi người nghèo. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi những kẻ thối nát thuộc về Giáo Hội và ở trong Giáo Hội. ĐGH Phanxicô kể lại một giai thoại khi ngài còn làm GM ở Buenos Aires, khi hai quan chức chính phủ đến gặp và đề nghị sẽ chuyển một ngân khoản lớn (400.000 USD) cho những ”Villas miserias” (những khu phố nghèo) mà ngài thành lập, với điều kiện là ngài phải lấy một nửa số tiền đó bỏ vào ngân hàng để trao cho họ. Ngài đã nói với họ những lời này:

”Quí vị biết là chúng tôi trong các giáo hạt không có tài khoản ở ngân hàng; quí vị phải gửi tiền ở tòa Giám Mục với giấy chứng nhận”. Họ đáp: ”Ồ chúng con không biết như vậy”. Rồi họ ra đi.. Tham nhũng thật là điều dễ làm. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này: tội lỗi thì có, tham nhũng thì không! Không bao giờ được tham nhũng. Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ cho những tín hữu Công Giáo ấy, gây gương mù vì sự tham nhũng của họ. Đó cũng là một tai ương trong Giáo Hội, nhưng cũng có bao nhiêu vị thánh, những vị thánh tội nhân, nhưng không tham nhũng.. Nhưng chúng ta cũng hãy nhìn sang phía bên kia, Giáo Hội Thánh Thiện”.

– Một ký giả Italia đã nhắc đến tấm gương cách đây 40 năm một vị Hồng Y (Léger) đã từ bỏ mọi sự đi đến ở nơi người cùi và phục vụ họ. ĐHY ấy là người duy nhất. Tại sao rất khó noi gương phục vụ người nghèo, kể cả đối với các Hồng Y?

ĐTC đáp: ”Về sự thanh bần, tôi nghĩ là Giáo Hội ngày càng phải nêu gương hơn về vấn đề này, từ khước mọi thứ trần tục. Đối với chúng tôi, những người được thánh hiến, các giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân có lòng tin thực sự, thì sự đe dọa trầm trọng nhất chính là tinh thần trần tục. Thật là điều đau buồn dường nào khi thấy một người thánh hiến, một người của Giáo Hội, một nữ tu, có tinh thần thế gian trần tục như vậy. Thật là xấu! Đó không phải là con đường của Chúa Giêsu, nhưng là của một tổ chức phi chính phủ (ONG) gọi là Giáo Hội. Đó không phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu, nhưng là con đường của ONG”.

– Hai ký giả xin ĐGH làm sáng tỏ hai nhận xét mà ngài đã nói trong cuộc họp báo trên đường từ Colombo, Sri Lanka, đến Manila. Một câu hỏi về 'cú đm' cho người dám xúc phạm đến mẹ ngài – như từ vài ngày nay, báo chí vẫn đăng như một tựa đề -, nghĩa là ”đâu là những giới hạn của tự do ngôn luận. ĐGH tái khẳng định rằng ”trên lý thuyết” tất cả đều đồng ý về việc giơ má bên kia trong trường hợp bị khiêu khích, nhưng thực tế chúng ta là những con người và vì thế sự xúc phạm lập đi lập lại có thể tạo nên một phản ứng sai lầm. Vì thế, ĐGH quả quyết, có thái độ thận trọng, đó không phải là một điều xấu.

– Trả lời câu hỏi về thành ngữ mà ĐGH sử dụng, ”thực dân ý thức hệ”, ngài kể lại một sự kiện cách đây 20 năm, một bà bộ trưởng giáo dục đã yêu cầu (các tổ chức quốc tế) cho vay mượn một ngân khoản lớn để thiết lập những trường học cho người nghèo ở vùng nông thôn. Các tổ chức ấy cho mượn tiền với điều kiện là phải du nhập vào trường học một cuốn sách giáo khoa dạy lý thuyết về giống. Bà bộ trưởng ấy cần tiền và đó là điều kiện.. Bà trả lời là đồng ý, nhưng bà cũng ”khôn ngoan”, bà cho soạn một cuốn sách thứ II, có chiều hướng khác, và cho phân phát cùng với cuộc sách thứ I về lý thuyết giống.

ĐTC nhận xét: ”Đó thực là một sự thực dân hóa ý thức hệ: họ đi vào một dân tộc với một ý tưởng chẳng có liên hệ gì với dân chúng; đúng vậy, nó có liên hệ với những nhóm dân, nhưng không phải với nhân dân, và người ta thực dân hóa nhân dân với một ý tưởng thay đổi hoặc muốn thay đổi một não trạng hoặc một cơ cấu (…). Dầu sao đó không phải là điều mới mẻ. Các chế độ độc tài trong thế kỷ trước cũng đã làm như vậy. Họ đề ra các lý thuyết của họ. Các bạn hãy nghĩ đến ”Balilla”, đến giới trẻ Hitler. Họ đã thực dân hóa dân chúng và muốn làm như vậy. Bao nhiêu là đau khổ. Các dân tộc không được đánh mất tự do của mình”.

– Một đề tài khác được đề cập đến trong cuộc họp báo là vấn đề ngừa thai. Ký giả hỏi:

ĐTC đã nói về bao nhiêu trẻ em và niềm vui của ngài, nhưng theo các cuc thăm dò, phần lớn dân Philippines nghĩ rằng sự tăng trưởng quá lớn về dân số là một trong những lý do tạo nên nghèo đói ti nước này. Bình thường một phụ nữ sinh hơn 3 đứa con. Lập trường của Giáo hội về vấn đề ngừa thai là một trong những điều mà nhiều ngưi không đồng ý với Giáo Hội.” ĐTC đáp:

”Tôi nghĩ rằng con số 3 người con cho mỗi gia đình mà bạn nói, theo những điều mà các chuyên gia nói, là con số quan trọng để duy trì dân số. Khi xuống dưới mức đó thì người ta rơi vào thái cực khác, đó là điều đang xảy ra ở Italia, nơi mà tôi nghe nói – không biết có đúng không, – vào năm 2024 sẽ không đủ tiền để trả lương hưu.. Chìa khóa để trả lời – Giáo hội sử dụng và tôi cũng sử dụng – đó là sinh sản có trách nhiệm và mỗi người trong cuộc đối thoại với mục tử của mình tìm cách thực hiện việc làm cha làm mẹ trách nhiệm. Thí dụ mà tôi đã vừa nhắc đến là người phụ nữ đang mang thai đứa con thứ 8 và bà đã có 7 người con sinh bằng giải phẫu (parto cesareo). Làm như thế là vô trách nhiệm. Bà nói: ”Không, nhưng con tin tưởng nơi Thiên Chúa..”. Đúng vậy, Thiên Chúa ban cho bà các phương tiện, nhưng xin lỗi, có người nghĩ rằng để là tín hữu Công Giáo tốt, thì chúng ta phải như ”thỏ”. Phải sinh sản có trách nhiệm: vì thế trong Giáo Hội có những nhóm hôn nhân, những chuyên gia trong vấn đề này, và có các vị mục tử và tôi biết có bao nhiêu lối thoát hợp pháp, giúp trong vấn đề này. Một điều khác: đối với những người nghèo nhất, con cái là một kho tàng, dĩ nhiên là phải thận trọng, nhưng người con chính là một khó tàng. Sinh sản có trách nhiệm, nhưng cũng phải nhìn đến lòng quảng đại của người cha và người mẹ nhìn thấy nơi con cái họ là một kho tàng”.

ĐTC cũng nhắc đến thông điệp ”Humanae vitae” của Đức Phaolô 6, một vị ngôn sứ, chứ không phải là một vị Giáo Hoàng ”khép kín”. Ngài nói:

”Đức Phaolô 6 nhìn chủ thuyết tân Malthus (cho rằng nghèo đói là do dân số quá đông gây ra) đang lan tràn bấy giờ. Chủ thuyết ấy tìm cách kiểm soát nhân loại từ phía các cường quốc.

– Về lời ngài kêu gọi các nước Hồi giáo có lập trường chống lại các nhóm khủng bố, ĐTC nói là ngài tin tưởng rằng với thời gian, nhiều ”người tốt” trong thế giới Hồi giáo sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Ngài cũng minh xác về việc không tiếp kiến Đc Đạt Lai Lạt Ma, vì ”thói quen trong nghi thức ngoại giao của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh” không đón tiếp các vị Quốc Trưởng hoặc các vị ở cấp tương đương như vậy, khi các vị ấy đến Roma để tham dự một cuộc gặp gỡ quốc tế. ”Trong những ngày hội nghị thượng đỉnh FAO ở Roma, tôi không tiếp vị quốc trưởng nào. Không phải tôi không tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma vì sợ Trung Quốc. Ngài đã xin được tiếp kiến – và chúng tôi có quan hệ – nhưng lý do ở đây không phải là từ khước một nhân vật hoặc vì sợ Trung Quốc. Chúng tôi cởi mở và muốn có hòa bình với tất cả mọi người. Vậy quan hệ với Trung Quốc thế nào? Chính Phủ Trung Quốc thông thạo và cả chúng tôi cũng thông thạo và chúng tôi tiến hành sự việc từng bước một, cũng như sự việc tiến hành trong lịch sử. Chúng tôi không biết, nhưng họ biết rằng tôi sẵn sàng tiếp kiến hoặc đi tới Trung Quốc. Họ biết điều đó”.

Vào cuối cuộc họp báo, ĐTC đã chúc mừng sinh nhật bà Valentina Alazraki, ký giả truyền hình của Mexico, niên trưởng các ký giả tháp tùng ngài trên các chuyến bay. Ngài tặng quà riêng cho bà và cũng tặng bà và tất cả các ký giả tháp tùng một bánh ngọt lớn để mừng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.

1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
 
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsutự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsuđã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsulà “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).

Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).

Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.

2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội

Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.

Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).

Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).

Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).

a. Được tha thứ tội lỗi
 
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha : nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.

Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như : đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối… và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).

b. “Trở nên thụ tạo mới”
 
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).

Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:

– Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.
– Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.
– Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.

Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.

Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động… để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).

Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh :được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).

3. Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân – Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.

Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).

Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).

“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Grêriô Nadien, Bài giảng 40,3-4).

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.

Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.

Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.

Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
 
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Các sinh họat năm 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Các sinh họat năm 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Phỏng vấn Linh Mục Federico Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh

Ngày 17 tháng 12 vừa qua phóng viên Sergio Centoganti chương trình Ý ngữ Đài Vaticăng đã phỏng vấn Linh Mục Federico Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, về các sinh hoạt của Đức Thánh Cha Phanxicô trong năm 2014. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn này.

Hỏi: Thưa cha, năm 2014 đã là một năm rất bận rộn của Đức Thánh Cha Phanxicô. Xin cha cho biết tổng kết, bắt đầu từ 5 chuyến công du quốc tế tại Thánh Địa, Nam Hàn, Albania, Quốc hội Âu châu Strasbourg và Thổ Nhĩ Kỳ.

Đáp: Vâng, có rất nhiều điều để nói. Trước hết tôi muốn nhắc rằng thật là đẹp việc Đức Thánh Cha có thể viếng thăm Thánh Địa như các vị tiền nhiệm của ngài, bởi vì đó luôn luôn là trở về với cội nguồn đức tin của chúng ta, trở về với gốc rễ của Kitô giáo, trở về các nơi của Lich sử cứu độ, và điều này có một sức mạnh biểu tượng và tinh thần tuyệt diệu. Tôi nhớ những lúc trong đó Đức Thánh Cha đã cảm động đứng bên bợ sông Giordan, tại nơi Chúa chịu phép rửa, tại Mộ Thánh vv… Như thế chúng là các điều nền tảng đối với đức tin của chúng ta và thật là đúng đắn khi Đức Thánh Cha nhân danh tất cả chúng ta trờ lại các nơi này để nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta từ đâu đến và nhớ mầu nhiệm cuộc gặp gỡ của Chúa Kitô với nhân loại. Nhưng cũng có biết bao nhiêu khía cạnh khác nữa mà các chuyến công du đã đụng chạm tới. Tôi muốn nhắc tới khía cạnh đại kết trong cuộc gặp gỡ tại Giêrusalem, cũng như tại Costantinopoli với Đức Thương Phụ Bartolomaios. Nó nói lên tình bạn sâu xa và tương quan cá nhân mà Đức Phanxicô đã thiết lập với vị thứ nhất trong các Thượng Phụ của Giáo Hội chính thống, và nó là dấu chỉ hy vọng cho con đường đại kết tương lai của chúng ta.

Biên giới Á châu cũng rất quan trọng: trong năm nay Đức Thánh Cha đã công du Nam Hàn và trong vài tuần nữa ngài sẽ viếng thăm Sri Lanka và Philippines. Vị tiền nhiệm của ngài đã không thể viếng thăm Á châu. Các chuyến công du lớn này diễn tả sự chú ý mới của Giáo Hội đối với phần nhân loại trội nhất ngày nay cũng như trong tương lại, về phương diện dân số cũng như về phương diện các chiều kích và sức sinh động sự hiện diện gây ấn tượng của nó, và riêng đối với Giáo Hội, thì nó là một cánh đồng truyền giáo mênh mông, một môi trường loan báo Tin Mừng trong các hoàn cảnh văn hóa, xã hôi, chính trị rất khác nhau, thường là khó khăn. Như thế Á châu là một trong những biên giới của Giáo Hội thời nay. Và Đức Thánh Cha chỉ cho chúng ta thấy điều đó với các chuyến công du rất hứng khởi của ngài.

Cũng không nên quên chiều kích âu châu. Đã có chuyến viếng thăm rất ngắn bên Albania, tuy nhiên cũng ý nghĩa vì sự kiện Đức Thánh Cha ước mong khởi hành từ các vùng ngoại biên để đi tới trung tâm của đại lục. Thế nhưng ngài cũng tới Strasbourg: một chuyến viếng thăm rất ngắn nhưng nền tảng, bởi nó đã cho ngài dịp ngỏ lời với Âu châu, với các nước âu châu và lục địa này, một bài diễn văn sâu rộng, một bài diễn văn có cấu trúc hoàn toàn với biết bao nhiều viễn tượng, mà trong một cách thế nào đó đã rất được chờ đợi đối với một vị Giáo Hoàng đến từ ngoài Âu châu. Và giờ đây nó là một điểm tham chiếu cho biết bao nhiêu can thiệp khác mà Đức Thánh Cha có thể làm đối với các dân tộc riêng rẽ hay trong biết bao hoàn cảnh liên quan tới đji lục âu châu của chúng ta. Tôi muốn nhắc đến một đặc điểm nhỏ cùa các chuyến viếng thăm này đó là chiều kích của sự tử đạo, tại Nam Hàn nơi Lịch sử Giáo Hội mang đặc thái của sự tử đạo, cũng như tại Albania, nơi sự tử đạo trong các thời gian mới đây dưới chế độ công sản, đã rất là mạnh mẽ, cũng như trại Viễn Đông nơi sự tử đạo đang là một thực tại với biết bao nhiêu vấn đề xảy ra, Đức Thánh Cha gặp gỡ thực tại này và nhắc cho chúng ta biết tính cách thời suẹ của chiều kích này trong cuộc sống Giáo Hội mọi thời đại, kể cả thời đại chúng ta nữa.

Hỏi: Liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, cũng có khía cạnh liên tôn rất quan trọng nữa có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đúng thế. Trong số các chiều kích của triều đại giáo hoàng năm nay có chiều kích đối thoại liên tôn cũng quan trọng và tại Thổ Nhĩ Kỳ nó đã tìm ra một sự hành động được tiếp tục thí dụ cả trong chuyến viếng thăm Albania và trong các dịp khác nữa. Xem ra Đức Giáo Hoàng cũng rất ý thức được tình hình của Hối giáo trong thế giới tân tiến ngày nay và tìm các con đường cho một tương quan xây ưụng, cả trong đối thoại, trong nghĩa đầy là điều có thể, dĩ nhiên bằng cách tránh các qúa đáng và lên án mọi quá đáng của việc sử dụng niềm tin tôn giáo một các bạo lực.

Hỏi: Thủa cha chúng ta cũng không thể quên các biến cố lớn của lễ phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II cũng như việc phong Chân phước cho Đúc Phaolô VI…

Đáp: Phải, tôi tin rằng mẫu số chung của các biến cố vĩ đại này là tính cách thời sự của Công Đồng Chung Vaticăng II, là trung tâm cuộc sống của ba vị Giáo Hoàng này. Vì Đức Giaon XXIII đã triêu tập Công Đồng, Dức Phaolô VI đã dẫn đưa nó tói chỗ thành toàn, đã kết thúc và bắt đầu thực hiện nó và Đức Gioan Phaolô II đã dành suốt triều đại của ngài để thực hiện Công Đồng Chung Vaticăng II. Như vậy ba gương mặt Giáo Hoàng này, ngoài giá trị chứng tá kitô và nhân bản ngoại thường của các vị, các vị được gắn liền với biến cố canh tân Giáo Hội trong thời đại chúng ta, với cuộc đối thoại với thời đại và nền văn hóa ngày nay, với việc loan báo Tin Mừng cho thời nay do một Giáo Hội được canh tân theo tinh thần của Công Đồng Chung Vaticăng II. Nhue vạy, xem ra hai biến cỗ vĩ đại này – lễ phong thánh và phong chân phước – cũng ghi dấu hướng đi trong triều đại của Đức Phanxicô theo dấu vết các vị tiền nhiệm, trong khung cảnh to lớn của Công Đồng Chung Vatcăng và việc thực hiện nó trong thời đại ngày nay.

Hỏi: Năm 2014 cũng có Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình, đã dấy lên các tranh luận sống động cả trong thế giới công giáo nữa thưa cha…

Đáp: Vâng. Tôi tin rằng công tác mục vụ lớn của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình với lộ trình được chia thành các chặng khác nhau, từ Hội nghị của các Hồng Y cho tới hội nghị ngoại thường và hội nghị bình thường của các Giám Mục, mà chúng ta còn đang chờ, cho tới việc lôi cuốn cộng đoàn Giáo Hội vào cuộc, công việc này là một trong các công việc mục vụ được Đức Thánh Cha Phanxicô đề ra. Có lẽ nó chính yếu trong nghĩa nó thực sự đề cập đến cuộc sống của mọi người: cuộc sống của tín hữu cũng như cuộc sống của tất cả mọi người thời dại chúng ta, bởi vì nó là đề tài liên quan tới gia đình, tới việc rao truyền Tin Mừng cho thực tại gia đình; nó là cái gì liên quan tới thiện ích, trung tâm cuộc sống của từng người nam nữ trong thời đại chúng ta. Đây là một cuộc đầu tư rất can đảm, bời vì Đức Giáo Hoàng cũng đã để trên bàn các đề tài khó, và tế nhị, nhưng đó chính là điều thực sự cần thiết. Một cách đúng đắn người ta cũng nhắc nhớ rằng các vị Giáo Hoàng trước cũng thế vào đầu triều đại của các ngài, các đã chọn đề tài gia đình như là đề tài làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục và là đề tài quan trọng trong sứ mệnh mục vụ của các ngài. Như thế, chúng ta thấy rằng việc đi thằng vào trong con tim, vào trong thế giới của cuộc sống để tìm loan báo Tin Mừng và trao ban một con đường tốt cho cuộc sống tinh thần và nhân bản cho con người thời nay, là một cái gì vô cũng cấp bách. Và chúng ta chân thành cầu chúc Đức Thánh Cha Phanxicô thành công dẫn đưa Giáo Hội tới một suy tư về các đề tài thưc sự nền tảng liên quan tới gia đình, mà không bị lo ra bởi các đề tài tuy cũng quan trọng, nhưng có tính cách ngoài lề hay có thể gây ra các tranh cãi mà không tiếp nhận được đâu là các điểm nòng cốt nhất, bởi vì quan trong nhất đối với tất cả mọi người: đề tài về gia đình và sống làm sao như kitô hữu chiều kích nền tảng này của cuộc sống.

Hỏi: Thưa cha, ngoài đề tài gia đình, còn có nhiều đề tài khác nữa mà Đức Thánh Cha Phanxicô hay đề cập đến, chằng hạn như hòa bình, công lý, người nghèo, những người bị khai thác bóc lột, nạn nô lệ, các kitô hữu bị bách hại vv….

Đáp: Ngay từ đầu triều đại của mình Đức Thánh Cha đã nói với chúng ta là ngài muốn nhớ đến người nghèo và các vùng ngoại biên, nhớ đến tất cả những người đau khổ, bỏi vì họ có quyền được chúng ta chú ý, có quyền được hưởng tình liên đới và sự chia sẻ của chúng ta đối với các vấn đề của họ. Và điều này chúng ta nhận thấy la nó trở lại thường xuyên. Năm nay chúng ta có tình trạng thê thảm của vùng Trung Đông, với biết bao nhiêu người – kitô giáo và không kitô giáo – đã phải bỏ nhà cửa trốn chạy và phải sống trong điều kiện của người tỵ nạn với rất nhiều đau khổ; hay bị bách hại và trực tiếp trở thành nạn nhân của bạo lực. Và điều này luôn luôn trở lại trong các lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, trong sự lưu tâm của ngài, cả trong lá thư gửi các kitô hữu vùng Trung Đông ngày 23 tháng 12, hai ngày trước lễ Giáng Sinh. Nhưng cũng có các đề tài khác trở lại thường xuyên và Giáo Hội tập trung nhiều chú ý trên các đề tài đó. Chúng ta hãy lấy các đề tài trong Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi cho ngày hòa bình thế giới năm nay chống lại các tệ nạn nô lệ mới, và đã có nhiều sáng kiến được để ra do Hàn Lâm Viện các Khoa Học của Toà Thánh, do các nữ tu chống lại nạn buôn người, chống lại biết bao nhiêu hình thức bạo lực khác và chống lại nạn nô lệ trong thời đại ngày nay… Đức Thánh Cha đã huy động toàn Giáo Hội và các người thiện chí trên các chiến tuyến này.

Hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc cải tổ mà Đức Thánh Cha muốn thực hiện thưa cha? Chúng ta cũng nghĩ đến diễn văn quan trọng mà ngài đã nói mới đây với các nhân viên trung ương Tòa Thánh.

Đáp: Ngay từ đầu triều đại của ngài Đức Thánh Cha đã đưa ra một dự án cải tổ các co quan Trung Ương Tòa Thánh, cần phải hiểu cho rõ, vì nó chỉ đơn sơ là một phần của một chương trình canh tân Giáo Hội rộng rãi hơn rất nhiều, mà ngài đã trình bầy trong Tông huấn “Niêm Vui Phúc Âm”: chương trình của Giáo Hội đi ra, của Giáo Hội truyên giáo, của toàn Giáo Hội dấn thân rao truyêfn Tin Mừng, mà các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh là người phục vụ, là một dụng cụ giúp Giáo Hội trong sứ mạng của mình. Công việc suy tư về sự cải cách Trung Ương Tòa Thánh này cũng có tính cách cơ cấu, tiếp tục với tính cách đều đặn của nó, với các tiết nhịp dĩ nhiên là khá dài, với việc suy tư và tham khảo ý kiến. Nhưng điều xem ra rất quan trọng cần ghi nhận đó là đối với Đức Thánh Cha trọng tâm của mọi cuộc cải cách là nội tại:: các cuộc canh cải khởi hành từ con tim. Chúng ta cũng hãy nhơ Chúa Giêsu đã nói rằng: “Những diều tốt và những điều xấu phát xuất từ con tim”. Chính đó là nơi phải khởi hành để canh tân và để chữa lành khi có các điều không phù hợp. Khi đó cả các diễn văn Đức Thánh Cha đã nói trước lễ Giáng Sinh, với các nhân viên Trung Ương Tòa Thánh cũng như với các nhân viên Vaticăng, diễn văn kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục cho chúng ta biết ngài cai quản Giáo Hội như thế nào kể cả với sự phân định tinh thần để chữa lành trong chiều sâu các thái độ của chúng ta, dể khiến cho chúng ta trung thành triệt để hơn với Tin Mừng. Và như thế chúng ta có thể thi hành tất cả việc phục vụ của mình một cách tốt đẹp hơn, thực thi sinh hoạt rao truyền Tin Mừng hay phục vụ Giáo Hội một cách tốt đẹp hơn. Đó, cải cách là một đề tài trường cửu trong cuộc sống kitô – đề tài hoán cải của kitô hữu – và nó phải là cái gì sâu xa, không hời hợt bề ngoài, không chỉ có tính cách tổ chức.

Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói rằng các vấn đề trước hết không chỉ có tính cách phối hợp và tổ chức – cả khi các điều này trợ giúp – nhưng cũng là các vấn đề nội tâm và sâu xa hơn. Theo tôi các diễn văn lớn này đã nêu bật một cách rất tốt trong thứ loại, trong định hướng của chúng sự lưu tâm ưu tiên này của Đức Thánh Cha nhằm chữa lành con tim trong chiều sâu. Tất cả các vấn đề hay các bất cập mà chúng ta có thể đang sống, đôi khi không chỉ có một chiều kích có tính cách cơ cấu mà cũng có một chiều kích liên quan tới các thái độ sống nữa, các thái độ thích đáng, có khả năng lắng nghe, có khả năng đối thoại, sẵn sàng phục vụ, thanh tẩy nội tâm… đây là các chiều kích mà Đức Thánh Cha lưu tâm và chúng là các chiều kích mà Đức Thánh Cha thường đề cập đến trong các bài giảng thánh lễ mỗi sáng trong nhà trọ thánh Marta. Trong đó biểu lộ tính cách bậc thầy tu đức của ngài, tính cách là người hướng đạo tinh thần theo truyền thống Linh thao của thánh Ignazio. Như thế tôi tin rằng thật quan trọng hiểu biết điều này: đó là mỗi một hình thái đích thực là vấn đề của trưòng cửu trong cuộc sống giáo hội, phải tìm ra điểm khởi hành thực sự của nó, là chiều sâu của con tim, được canh tân dưới ánh sáng Tin Mừng. Đó là điều Đức Thánh Cha nói với chúng ta và nói thường xuyên.

Hỏi: Sau cùng thưa cha, cha có lời nào định tính các sinh hoạt trong năm 2014 này của Đức Thánh Cha Phanxicô hay không?

Đáp: Các lời Đức Thánh Cha dùng và chúng đánh động thì nhiều lắm, vì thế có thể chọn trong biết bao nhiêu lời. Có một lời mà với thời gian qua đi tôi tin rằng nó ngày càng giúp hiểu biết và trông thấy ý nghĩa nòng cốt của nó hơn đó là nền văn hóa gặp gỡ. Nghĩa là Đức Thánh Cha Phanxicô có một thái độ riêng, một kiểu tương quan với những người khác như là một người gặp gỡ một người dấn thân cuộc sống và con người của ngài một cách sâu đậm đến độ làm cho người khác, người đối thoại cũng dấn thân. Và khi đó người ta có thể gặp gỡ nhau một cách sâu đậm và cũng có thể đưa ra các sáng kiến và các cuộc đối thoại mới, có khi đã bị chặn lại, với một tương quan đã ở trên bình diện hời hợt hay hình thức bề ngoài hơn. Tôi cũng nghĩ tới điều này liên quan một chút tới kiểu tương quan của Đức Thánh Cha với các nhân vật lớn.

Chúng ta đã nhắc tới cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Bartolomaios: đó đã là mọt cuộc gặp gỡ cá nhân, một tình bạn đích thật. Và điều này khiến chúng ta nghĩ rằng cả phong trào đại kết cũng có thể có các bước tiến tới trong đó cuộc gặp gỡ cá nhân giữa các con người thúc đầy và giúp tiến tới cả trong chiều kích cần thiết của cuộc đối thoại thần học, của cuộc gặp gỡ các tư tưởng, các nghiên cứu, tuy không hoàn toàn rốt ráo. Cũng cần có cuộg gặp gỡ giữa các con người trong đức tin và trong ý chí muốn tiếp tục con đường dẫn tới sự hiệp nhất của Giáo Hội, theo ý muốn của Chúa Kitô. Và trong một nghĩa nào đó cả dấu chỉ hy vọng mới đây của các tương quan giữa Hoa Kỳ và Cuba, trong đó hai vị lãnh đạo đã cám ơn Đức Thánh Cha về bức thư ngài viết cho họ. Nó nói lên rằng trong chiều kích này của các liên lạc quốc tế với các nhân vật lớn trên thế giới – cả với các vị lãnh đạo không phải chỉ của các tôn giáo, mà của cả các dân tộc nữa – Đức Giáo Hoàng đã có kiểu tiếp cận của ngài rất là cá nhân nhưng lôi cuốn vào cuộc, biểu lộ dặc sủng của ngài, một khả năng đi tới con tim cuả người khác và mời gọi họ bước đi, bước đi cho thiện ích của nhân loại. Đó, đối với tôi xem ra là điều gì đó rất quý báu, rất quan trọng và cũng là đặc điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đàng sau kiểu nói “nền văn hóa gặp gỡ” mà ban đầu tôi đã hơi đánh giá thấp một chút, trái lại tôi tìm thấy dịnh hướng đi tới với người khác trong biết bao nhiêu chiều kích tôn giáo cũng như tu đức, đại kết và chính trị cũng là một chiều kích khác diễn tả một đặc thái của Đức Giao Hoan này

LinhTiến Khải – Vatican Radio

Khiêm nhường đón nhận.

Khiêm nhường đón nhận

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?

2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?

3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?

4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tôi tớ

Tôi tớ

Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?

Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.

Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:

Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.

Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.

Sưu tầm

Kitô hữu, bạn là ai?

Kitô hữu, bạn là ai?

(Trích trong: “Niềm Vui Chia Sẻ”)

Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.

Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”

Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.

Giấc mơ hay hiện thực

Giấc mơ hay hiện thực

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.

Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.

Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.

Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.

Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?”.

Câu hỏi trên đây có lẽ cũng có thể được nêu lên cho mỗi người chúng ta trước tiếng hô của Gioan Tẩy Giả: “Có tiếng hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thường thì chúng ta cứ chọn bên phải mà đi, chứ mấy ai lại thích đi bên trái. Cái ảo tưởng về sự tốt lành của mình luôn luôn bám sát chúng ta như hình với bóng. Lòng tự cao tự đại thường mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta như chìm sâu mãi vào một giấc mơ hãi hùng.

“Anh em hãy tỉnh cơn mê, đêm đã tàn, ngày đang đến”. Lời ấy của thánh Phaolô muốn thôi thúc chúng ta thành khẩn nhìn lại giá trị đích thực của đời mình. Tôi có thực sự xứng đáng đứng bên phải trong ngày phán xét cuối cùng không? Hay đó chỉ là một giấc mơ hãi hùng?

Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Dọn đường cho Ngài đến thực hiện một cuộc giải phóng mới, không phải giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập hay khỏi nơi lưu đầy Babylon, mà là khỏi tội lỗi, trở về với Thiên Chúa. Vì vậy, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy sám hối. Ông đã dùng phép rửa như một dấu hiệu của lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận Chúa Kitô, đồng thời như một dấu hiệu tiên báo một phép rửa hoàn hảo hơn -Phép rửa của Chúa Giêsu: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Ngài, Ngài sẽ làm Phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.

Gioan không chỉ rao giảng sám hối mà còn sống tinh thần sám hối, không chỉ thức tỉnh dân chúng trước biến cố đang xảy đến mà còn lay tỉnh chính mình trước công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa: cách ăn mặc của Gioan nói lên tâm tư và phong cách sám hối. Thực vậy, lối sống đơn giản và khổ chế của Gioan – mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng – chứng tỏ ông đã thoát khỏi những ràng buộc phiền toái của xã hội Do Thái và những bận tâm quá đáng về vật chất để quy hướng cuộc sống vào việc chào đón và rao giảng về Đấng Cứu Thế. Ông đã làm chứng về Đấng Cứu Thế và chờ đợi Ngài đến bằng một đời sống khổ hạnh và tỉnh thức.

Đời người là một Mùa Vọng dài hướng về ngày Chúa đến lại. Mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả, và toàn thể Giáo Hội có sứ mạng tiền hô. Người tín hữu hôm nay, khi nhắc đến mầu nhiệm Chúa đến, phải có tâm tư và thái độ sống thế nào để dọn đường cho những anh chị em chung quanh biết đón chờ Chúa? Chúng ta đã gia tăng cầu nguyện, hoán cải đời sống để dọn đường Chúa đến, để chuẩn bị cho Chúa tỏ mình ra chưa?

Lòng sám hối đích thực không nằm ở nơi những tình cảm tốt đẹp, những sáo ngữ hấp dẫn, những nghi thức rầm rộ bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể: sửa lại cho thẳng những lối đi quanh co tăm tối của con tim, bạt xuống cho bằng các đồi núi kiêu căng của tâm trí, lấp đầy hố thẳm nghèo đói Lời Chúa của tâm hồn.

Thánh Phêrô trong thư của ngài đã cho thấy lòng sám hối không phải là một thái độ nhất thời, mà là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu trong suốt giai đoạn chờ Ngày của Chúa. Ngài nhắn nhủ: “Anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng nên tinh tuyền, không chi đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa” (2Pr 3,14). Lời nhắn nhủ đó là những lời kêu gọi các tín hữu sám hối để tạo nên cho mình một thái độ tương xứng cần thiết.

Hiển nhiên là lời kêu gọi sám hối trong Phụng Vụ Chúa Nhật 2 Mùa Vọng này không thể chỉ được giới hạn trong việc xét mình ăn năn và xưng tội để có được một tâm hồn trong sạch xứng đáng cho Chúa ngự, vào thánh lễ đêm Giáng Sinh. Sám hối là một thái độ sống của người Kitô hữu. Sám hối là một sự đổi mới, một sự đổi mới toàn diện: trong tư tưởng, trong sự chọn lựa, trong hành động. Sự đổi mới này không chỉ diễn ra một lần là đủ, mà là một đổi mới liên tục. Người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ con người cũ, lối sống theo lòng ích kỷ, tham lam, tàn bạo, không đếm xỉa đến quyền lợi của người khác, để sống theo con người mới với lòng yêu thương, với tình liên đới với người chung quanh, ở trong gia đình, trong trường lớp, trong cơ quan, xí nghiệp… Người Kitô hữu vẫn tin rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện không chỉ nơi thâm sâu thầm kín của từng con người mà còn ngang qua lịch sử trong xã hội con người.

Tiếng hô của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa là một tiếng gọi mang đầy hy vọng và niềm vui: “Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì Người sắp đến rồi!”. Hãy thay đổi bộ mặt trái đất này cho loài người được sống ấm no hạnh phúc, để cho Trời Mới Đất Mới xuất hiện, trong đó công lý và hòa bình sẽ ngự trị và mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Lớp Sáu – Bài Học #6 – “Sống Chữ Hiếu”

Xem => "Bài Học -06 – Sống Chữ Hiếu"

Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương.

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba”. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: “Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao?”. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện”.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang? Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: “Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.

SongChuHieu

ViSaoSongTronChuHieu

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư 29-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng…Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng ”Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: ”Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như từ Nigeria, Ấn Độ, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình và Ba Tây.

Nhắc tới ngày lễ các Thánh Nam Nữ ngày mùng 1 tháng 11 sắp tới, Đức Thánh Cha xin các tín hữu Ba Lan cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người nam nữ đã biết cộng tác với ơn thánh Chúa và có can đảm làm chứng cho đức tin, đức cậy và đức mến trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy học hỏi nơi họ để trở nên thánh trong thời đại chúng ta.

Ngài khuyến khích các bạn trẻ biết noi gương các Thánh, người đau yếu biết dâng các khổ đau để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những ai cần hoán cải, và các cặp vợ chồng mới cưới lo lắng cho sự trưởng thành của đức tin trong cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Trả về

Trả về

Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
 
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
 
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
 
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
 
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
 
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
 
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
 
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. 
 
Sưu tầm

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ hai 13-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đã nhóm phiên khoáng đại thứ 11 để nghe bản Tường trình đúc kết ý kiến của các nghị phụ phát biểu trong tuần qua.

Trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ, ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã đọc bản tường trình đúc kết các ý kiến chính trong các bài phát biểu và suy tư của 180 nghị phụ trong tuần đầu của Công nghị GM thế giới. Văn bản này được dùng làm căn bản cho cho việc soạn Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM này.

Bản tường trình đề ra 3 đường hướng chỉ đạo, đó là lắng nghe bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó các gia đình ngày nay đang sống; sau đó là đối chiếu với những viễn tượng mục vụ cần đề ra và nhất là nhìn lên Chúa Kitô, lắng nghe Tin Mừng của Chúa về gia đình.

– Gia đình là thực tại ”quan trọng và quí giá”, ”là nguồn vui mừng và cũng là nơi có thử thách, những tình cảm sâu và và những quan hệ nhiều khi bị thương tổn, là trường dạy về lòng nhân đạo. Trước tiên cần lắng nghe gia đình trong toàn bộ phức tạp của thực tại này. Chủ nghĩa cá nhân thái quá, thử thách lớn về cô đơn, tình cảm tự kỷ gắn liền với những tình cảm mong manh, ”ác mộng” vì công ăn việc làm bấp bênh, cùng với chiến tranh, nạn khủng bố, di cư, ngày càng làm cho tình trạng nhiều gia đình bị suy thoái. Chính trong bối cảnh đó, Giáo Hội phải mang lại hy vọng và ý nghĩa cho đời sống con người ngày nay, giúp họ ngày càng hiểu biết giáo lý đức tin nhưng đồng thời cũng đề nghị với họ lòng từ bi Chúa”.

Tiếp đến là hướng nhìn lên Chúa Kitô, Đấng tái khẳng định sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, nhưng cũng cho phép đọc giao ước hôn phối trong sự liên tục và mới mẻ. Nguyên tắc ở đây phải là nguyên tắc tiệm tiến đối với các đôi vợ chồng bị thất bại tronog hôn nhân, trong một viễn tượng bao gồm đối với những hình thức bất toàn của thực tại hôn phối”.

– Bản tường trình được ĐHY Erdoe tuyên đọc cũng đề cập đến những tờng hợp mục vụ khẩn cấp nhất, cần ủy thác việc cụ thể hóa trong các Giáo Hội địa phương, luôn luôn ở trong tình hiệp thông với ĐTC. Trước hết có việc loan báo Tin Mừng gia đình cần thực hiện, không phải để lên án, nhưng là chữa lành sự dòn mỏng của con người. ”Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm chung của toàn thể Dân Chúa, mỗi người theo sứ vụ và đoàn sủng riêng. Nếu không có chứng tá vui mừng của các đôi vợ chồng và của các gia đình, thì việc loan báo, cho dù là đúng đắn, cũng có nguy cơ không được hiểu hoặc bị chìm đắm trong biển cả những lời nói vốn là đặc tính của xã hội chúng ta. Các gia đình Công Giáo được kêu gọi trở thành những chủ thể tích cực trong việc mục vụ gia đình”.

– Bản tường trình nhấn mạnh rằng việc chuẩn bị hôn nhân Kitô là điều thiết yếu, vì hôn nhân này không phải chỉ là một truyền thống văn hóa hoặc một đòi hỏi xã hội, nhưng là một quyết định theo ơn gọi. Không nhắm làm cho chu kỳ huấn luyện trở nên phúc tạp, mục đích nhắm tới ở đây là đi vào chiều sâu, chứ không giới hạn vào những đường hướng tổng quát, trái lại cũng cần canh tân việc đào tạo linh mục về vấn đề gia đình, nhờ sự can dự của chính các gia đình. Các nghị phụ cùng đề nghị phải tháp tùng các gia đình sau khi hết hôn, là thời kỳ sinh tử và tế nhị, trong đó các đôi vợ chồng chín mùi sự ý thức về bí tích, ý nghĩa và những thách đố về bí tích này.

Đồng thời Giáo Hội cũng phải khích lệ và nâng đỡ các giáo dân dân thân trong lãnh vực văn hóa, chính trị và trong xã hội, để không quên tố giác những yếu tố ngăn cản đời sống gia đình chân thực, vạch rõ nhưng kỳ thị, nghèo đói, loại trừ và bạo lực.

– Về những người ly thân, ly dị và ly dị tái hôn, ĐHY Erdoe nhấn mạnh rằng 'không phải là điều khôn ngoan khi nghĩ đến những giải pháp độc nhất, theo tiêu chuẩn 'hoặc phải có tất cả hoặc không được gì hết'; vì thế phải tiếp tục cuộc đối thoại trong các Giáo Hội địa phương, trong niềm tôn trọng và yêu mến đối với mỗi gia đình bị thương tổn, nghĩ ngay đến người vợ hoặc chồng bị bỏ rơi một cách bất công, tránh những thái độ kỳ thị và phải bảo vệ các trẻ em. ”Điều quan trọng là chấp nhận một cách lương thiện và xây dựng những hậu quả của việc ly thân hoặc ly dị đối với con cái: con cái không thể trở thành một ”đồ vật” để tranh giành, và cần phải tìm kiếm những hình thức tốt đẹp nhất để con cái có thể vượt thắng chấn thương do sự phân rẽ gia đình và có thể tăng trưởng bao nhiêu có thể trong thanh thản”.

– Về việc cứu xét nhanh chóng các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐHY Erdoe nhắc lại những đề nghị đã được các nghị phụ đề ra trong khóa họop: nghĩa là không cần phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, xác định thể thức hành chánh ở cấp giáo phận để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, khởi sự việc xét xử đơn giản trong trong những vụ hôn phối vô hiệu tỏ tường, đặc biệt chú ý đến đức tin của những người kết hôn để nhận xét xem bí tích hôn phối của họ có thành sự hay không. Tất cả những điều đó đòi nhân viên giáo sĩ và giáo dân tại tòa án hôn phối được chuẩn bị thích hợp, và các GM địa phương có trách nhiệm nhiều hơn”.

– Về việc cho những tín hữu ly dị tái hôn đưc rước lễ, vị Tổng tường trình viên liệt kê những đề nghị chính được trình bày trong Thượng HĐGM như: duy trì kỷ luật hiện hành, thực hiện một sự cởi mở nhiều hơn đối với những trường hợp đặc biệt, bất khả phân ly mà không gây ra những bất công hoặc đau khổ mới; hoặc chọn con đường thống hối: cần thực hiện hành trình này dưới trách nhiệm của GM giáo phận, trước khi được lãnh nhận các bí tích.

Vấn đề ớc lễ thiêng liêng vẫn còn bị bỏ ngỏ, và các nghị phụ kêu gọi đào sâu hơn về thần học, cũng vậy cần suy tư sâu hơn về các cuộc hôn nhân hỗn hợp và những vấn đề hệ trọng liên quan tới kỷ luật khác của các Giáo Hội Chính Thống về hôn phối.

– Về những ngưi đồng tính luyến ái, trong Thượng HĐGM, có các nghị phụ nhấn mạnh rằng những người đồng tính luyến ái là những người có năng khiếu và chất lượng có thể cống hiến cho cộng đoàn Kitô: Giáo Hội phải trở thành căn nhà đón tiếp họ; nhưng Giáo Hội vẫn quyết liệt không chấp nhận sự kết hiệp đồng tính luyến ái và những sức ép của cac tổ chức quốc tế đặt điều kiện một quốc gia phải ban hành các qui luật chịu ảnh hưởng của ý thức hệ gender, giới tính, thì mới được nhận viện trợ tài chánh… Giáo Hội cũng đặc biệt chú ý đến các trẻ em sống với các cặp đồng phái, và tái khẳng định rằng cần đặt lên hàng đầu những yêu sách và quyền lợi của các trẻ em.

– Phần cuối của bản tường trình có đề cập đến các đề tài của thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người) do Đức Phaolô 6 ban hành năm 1968, và tập trung vào vấn đề cởi mở đối với sự sống, và định nghĩa sự cởi mở này như một ”đòi hỏi nội tại của tình yêu vợ chồng”.

– Nhiều nghị phụ nhấn mạnh sự cần thiết phải có một ngôn ngữ thực tế cụ thể, biết giải thích vẻ đẹp và chân lý cởi mở đón nhận hồng ân con cái, và nhờ sự giáo dục thích hợp về các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên, và sự đả thông hài hòa và ý thức giữa đôi vợ chồng trong mọi chiều kích.

ĐHY Erdoe không quên ghi nhận rằng cuộc đối thoại trong Thượng HĐGM diễn ra trong bầu không khí tự do và lắng nghe nhau. Ngài cho biết những suy tư trình bày trên đây chưa phải là quyết định, vì hành trình của Thượng HĐGM sẽ được tiếp nối trong khóa họp thường lệ nhóm vào tháng 10 năm tới, 2015, cũng về đề tài gia đình.

Sau bài tường trình của ĐHY Erdoe, các nghị phụ được 10 phút giải lao trước khi trao đổi ý kiến về bài này. Rồi ban chiều, từ lúc 4 giờ rưỡi, các nghị phụ nhóm họp và thảo luận trong các nhóm nhỏ theo các sinh ngữ khác nhau (SD 13-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đám cưới vĩ đại

Đám cưới vĩ đại

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.

Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.

Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.

Thưa anh chị em,

Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.

Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là Dân Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài- làm những người khách mời đặc biệt vào dự Tiệc Nước Chúa- Nhưng đến khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ lại từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai- người tốt cũng như kẻ xấu- gặp được ở các ngã đường. Dân Israel đã từ chối lời mời gọi gia nhập Nước Chúa sẽ được thay thế bằng lời các dân tộc khác, cả những người ngoại giáo và tội lỗi, những người thu thuế và các cô gái điếm.

Anh chị em thân mến,

Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mà Chúa Giêsu đã kể lại luôn có giá trị đối với thính giả ngày xưa cũng như ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta một điều kiện- cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do- đó là đáp trả lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.

Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách được mời cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải có áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa Tội, là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải sống đời sống kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.

Dụ ngôn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương người có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dù sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một ước muốn trở lại chân thật, “một chiếc áo trắng Rửa Tội”, “mặc lấy con người mới, được Thiên Chúa tạo dựng và tái sinh trong công chính và thánh thiện”.

Phải, thưa anh chị em, Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.

Anh chị em thân mến,

Thánh lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn “có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau.

Thái độ vâng phục

Thái độ vâng phục

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.

Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về "Cuộc Đời Của Mình", Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:

Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.

Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.

Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.

Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".

Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Veritas Radio