Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cha giải tội

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cha giải tội

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội hãy trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa và trở thành người biết lắng nghe.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ sáu 9-3-2018 dành cho 640 LM trẻ, phó tế và chủng sinh ở những năm cuối vừa kết thúc khóa học về tòa trong do Tòa Ân giải tối cao tổ chức.

ĐTC nói: ”Cha giải tội không phải là nguồn mạch lòng thương xót nhưng là một dụng cụ không thể thiếu được của lòng thương xót. Ý thức về điều này sẽ giúp chúng ta thận trọng để tránh nguy cơ trở thành chủ nhân của các lương tâm, nhất là trong tương quan với người trẻ, là những người dễ bị ảnh hưởng. Nhớ mình là và chỉ là dụng của hòa giải chính là điều kiện đầu tiên để có thái độ khiêm tốn lắng nghe Chúa Thánh Linh, Đấng bảo đảm một nỗ lực phân định chân chính”.

Tiếp đến, ”LM phải là người biết lắng nghe những câu hỏi trước khi trả lời. Thật là một thái độ sai lầm khi trả lời trước khi lắng nghe những câu hỏi của người trẻ và nếu cần hãy tìm cách giúp họ nêu lên những câu hỏi đích thực. Cha giải tội được kêu gọi trở thành người lắng nghe: nghe hối nhân và lắng nghe tiếng Chúa Thánh Linh. Khi thực sự lắng nghe người anh em trong cuộc trao đổi trong khuôn khổ bí tích, tức là chúng ta lắng nghe chính Chúa Giêsu, nghèo và khiêm tốn; khi lắng nghe Thánh Linh, chúng ta đặt mình trong tư thế chăm chú vâng phục, chúng ta trở thành những người lắng nghe Lời Chúa và vì thế, chúng ta mang lại một sự phục vụ lớn hơn cho những hối nhân trẻ: chúng ta đặt họ tiếp xúc với chính Chúa Giêsu”.

ĐTC cũng nhắn nhủ các cha giải tội hãy giúp người trẻ biết phân định về ơn gọi của họ. Một người trẻ phải có thể nghe tiếng Chúa hoặc trong lương tâm của họ hoặc qua sự lắng nghe Lời Chúa. Trên con đường quan trọng này, điều quan trọng là người trẻ được nâng đỡ nhờ sự đồng hành khôn ngoan của cha giải tội, khi cần vị ấy có thể trở thành cha linh hướng của người trẻ theo lời họ xin. (Rei 9-3-2018)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Nhà báo Eugenio Scalfari phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Nhà báo Eugenio Scalfari phỏng vấn ĐTC Phanxicô

Ngày mùng 8 tháng 7 vừa qua nhật báo Cộng Hoà La Republica ở Italia đã đăng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho ông Eugenio Scalfari, một nhà báo lão thành không có niềm tin tôn giáo. Thứ năm trước đó chính ĐTC đã điện thoại cho ông. Ông Eugenio hơn ĐTC 13 tuổi. Sau khi hỏi thăm nhau về tình hình sức khoẻ ĐTC khuyên ông nên uống nước nhiều và ăn thức ăn có muối. Hai người hẹn gặp nhau lúc 4 giờ chiều cùng ngày tại nhà trọ thánh nữ Marta. Đề tài chính của buổi nói chuyện xoay quanh Thiên Chúa duy nhất, là Đấng Tạo Hoá duy nhất của vũ hoàn. Đó cũng là luận thuyết nền tảng của triều đại Đức Phanxicô. Kết quả là tình huynh đệ giữa mọi tôn giáo và của các Giáo Hội Kitô, đặc biệt là tình yêu thương đối với người nghèo, người yếu đuổi, bị loại trừ, người bệnh tật, hoà bình và công lý. ĐTC cho ông biết ngài rất lo âu đối với hội nghị thượng đỉnh của khối G20. Ngài nói với ông:

“Tôi sợ rằng có các liên minh khá nguy hiểm giữa các cường quốc  có một quan niệm lệch lạc về thế giới: Mỹ và Nga, Trung Quốc và Bắc Hàn, Putin và Assad trong chiến tranh Siria”.

Hỏi: Thưa ĐTC đâu là nguy hiểm của các liên minh này?

Đáp: Nguy cơ liên quan tới việc di cư. Như ông biết đó, chúng ta có một vấn đề chính, và rất tiếc ngày càng gia tăng trong thế giới hiện nay, đó là vấn đề của người nghèo, người yếu đuối, người bị loại trừ, mà các người di cư là thành phần. Đàng khác, có các quốc gia đa số dân nghèo không đến từ các phong trào di cư, mà bởi các tai ương xã hội, có những nước khác có ít người nghèo, nhưng họ sợ sự xâm lăng của người di cư. Đó là lý do tại sao hội nghị thượng đỉnh của khối G20 khiến tôi lo lắng: nó đánh vào người di cư của các quốc gia phân nửa thế giới, và nó càng đánh mạnh với thời gian qua đi.

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC nghĩ rằng trong xã hội toàn cầu như xã hội chúng ta đang sống, sự di chuuyển của các dân tộc gia tăng, nghèo hay không nghèo cũng thế, có phải vậy không?

Đáp: Chúng ta đừng ảo tưởng: các dân tộc bị thu hút bởi các đại lục và các quốc gia giầu cổ xưa. Nhất là Âu châu. Chế độ thực dân phát xuất từ châu Âu. Có các khía cạnh tích cực trong chế độ thực dân, nhưng cũng có các khía canh tiêu cực. Dầu sao đi nữa Âu châu đã trở thành giầu có hơn, giầu nhất trên toàn thế giới. Vì thế nó sẽ là mục tiêu của các dân tộc di cư.

Hỏi: Cả con nữa cũng đã suy tư nhiều lần về vấn đề này, và con đi tới kết luận rằng không phải chỉ vì thế, mà cũng vì thế Âu châu phải mau chóng chừng nào có thể có một cơ cấu liên bang. Các luật lệ và các thái độ chính trị phát xuất từ đó được quyết định bởi chính quyền liên bang và Quốc hội liên bang, chứ không phải bởi các nước thành viên riêng rẽ. ĐTC cũng đã nhiều lần nêu lên vấn đề này, cả khi phát biểu trước Quốc hội âu châu nữa, có đúng thế không thưa ĐTC?

Đáp: Đúng thế. Tôi đã nhiều lần nêu lên vấn đề này.

Hỏi: Và ĐTC đã được vỗ tay tán đồng nhiều lần kể cả tung hô nữa có đúng vậy không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Nhưng rất tiếc nó có ít ý nghĩa. Các quốc gia chuyển động và ý thức được một sự thực: hoặc là Âu châu trở thành một cộng đồng liên bang hoặc là nó sẽ không còn là gì nữa trên thế giới.  Nhưng bây giờ tôi muốn hỏi ông một câu: đâu là các thành kiến và các khuyết điểm của các nhà báo?

ĐTC trở thành người phỏng vấn. Ông Eugenio đáp: Thưa ĐTC, ĐTC phải biết rành hơn con chứ, bởi vì ngài là một người kiên trì đọc các bài họ viết mà!

ĐTC: Nhưng mà tôi muốn biết từ ông cơ!

Đáp: Vâng, chúng ta hãy để qua một bên các thành kiến, nhưng cũng có các thành kiến và đôi khi chúng cũng rất là đáng chú ý. Các khuyết điểm của các nhà báo: đó là kể lại một sự kiện mà không biết nó thật hay không thật tới mức nào;  vu khống, giải thích sự thật bằng cách khiến cho các tư tưởng của mình thắng thế. Và cả việc lấy các tư tưởng của một người khôn ngoan hơn, chuyên môn hơn làm của mình, bằng cách gán nó cho chính mình.

ĐTC nói:

Điều cuối cùng này tôi đã không bao giờ để ý. Chuyện các nhà báo có các tư tưởng riêng và áp dụng chúng cho thực tại không phải là một khuyết điểm, nhưng tự gán cho mình các tư tưởng của người khác để có được uy tín hơn, điều này chắc chắn là một  khuyết điểm trầm trọng.

Hỏi: Thưa ĐTC, nếu ĐTC cho phép bây giờ con xin hỏi hai điều. Con đã trình bầy vài lần trong các bài viết của con, nhưng con không biết ĐTC nghĩ gì?

Đáp: À, tôi hiểu rồi. Ông muốn nói về Spinoza và Pascal chứ gì. Ông muốn đề nghị trở lại hai đề tài này phải không?

Hỏi: Vâng, con cám ơn ĐTC. Chúng ta hãy bắt đầu với Luân lý đạo đức của Spinoza. ĐTC biết ông ta sinh ra là người Do thái, nhưng không sống đạo Do thái. Ông đã từ hội đường do thái Lisboa sang Hoà Lan. Nhưng trong ít tháng sau khi ông cho đăng vài bài khảo luận, hội đường Do thái tại Amsterdam đã cho đăng tải một bài viết rất gay gắt chống lại ông. Trong vài tháng Giáo Hội công giáo đã tìm cách lôi kéo ông vào niềm tin của mình. Spinoza đã không trả lời, và đã sắp xếp để các bút tích của ông chỉ được công bố sau khi ông qua đời. Nhưng trong khi chờ đợi thì vài người bạn của ông đã nhận được các bản thảo của các cuốn sách ông đang viết.

Đặc biệt là cuốn Luân lý đạo đức được Giáo Hội biết tới, và lập tức ra vạ tuyệt thông cho ông, Lý do là vì Spinoza cho rằng Thiên Chúa hiện diện trong mọi tạo vật sống động: thảo mộc, thú vật, con người. Một tia lửa thiên linh ở khắp mọi nơi. Như vậy Thiên Chúa nội tại trong thế gian, chứ không siêu việt. Chính vì vậy mà ông đã bị vạ tuyệt thông.

Đáp: Vậy chứ ông không thấy thế là đúng hay sao? Thiên Chúa duy nhất của chúng tôi siêu việt. Chúng tôi cũng nói rằng có một tia thiên linh ở khắp mọi nơi, nhưng sự siêu việt là miễn nhiễm. Đó là lý do tai sao ông ta bị vạ tuyệt thông.

Hỏi: Đối với con, nếu con nhớ đúng, xem ra đó đã do dòng Tên yêu cầu. Vào thời chúng ta đang đề cập tới, các tu sĩ dòng Tên đã bị trục xuất khỏi Giáo Hội, rồi lại được thu nhận. Dầu sao đi nữa ĐTC đã không nói cho con biết tại sao phải thu hồi vạ tuyêt thông đó.

Lý do là thế này. ĐTC đã nói với con trong một lần nói chuyện trước  rằng vài ngàn năm nữa loài người chúng ta sẽ tuyệt chủng. Trong trường hợp đó các linh hồn giờ đây được hưởng  hạnh phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa nhưng khác với Chúa sẽ hoà tan với Ngài. Ở thời điểm ấy sẽ không còn có sự cách biệt giữa siêu việt và nội tại nữa. Và vì vậy, khi dự kiến trước biến cố đó, việc ra vạ tuyệt thông ngay từ bây giờ có thể được tuyên bố là đã hết rồi. ĐTC không nghĩ như thế sao?

Đáp: Chúng ta hãy nói rằng có một luận lý trong điều ông đề nghị, nhưng lý do dựa trên một giả thuyết của tôi, nó không có sự chắc chắn nào, và nền thần học của chúng ta  không thấy trước điều đó. Việc giống người của chúng ta biến mất là một giả thuyết tinh tuyền, và vì vậy nó không thể lý giải một vạ tuyệt thông đã được đưa ra để kiểm duyệt  sự nội tại và khẳng định sự siêu việt.

Hỏi: Nếu ĐTC mà làm điều đó thì sẽ bị đa số Giáo Hội chống đối, có đúng thế không?

Đáp: Tôi tin là vậy, nhưng nếu chỉ là chuyện đó và tôi chắc chắn về điều tôi nói về đề tài này, tôi sẽ không nghi ngờ, trái lại nếu tôi lại không chắc chắn và vì vậy tôi sẽ không đương đầu với một trận chiến có thể nghi ngờ trong các lý do và thất bại ngay từ lúc bắt đầu. Bây giờ nêu muốn ông hãy nói về vấn đề thứ hai muốn hỏi tôi.

Hỏi: Vâng đó là vấn đề về ông Pascal. Sau một tuổi trẻ ăn chơi Pascal đã như bất thình lình bị xâm chiếm bởi niềm tin tôn giáo. Ông ta đã rất thông thái, ông đã đọc Montaigne nhiều lần và cả Spinoza, Giansenio, các hồi ký của ĐHY Carlo Borromeo. Nghĩa là ông ta có một nền văn hóa đời và cả tôn giáo nữa. Tới một lúc nào đó niềm tin tôn giáo đánh trúng ông hoàn toàn. Ông gia nhập cộng đoàn Port Royal des Champs, nhưng rồi lại tách rời ra. Ông viết vài tác phẩm trong đó các “Tư tưởng”, một cuốn sách theo con thật tuyệt vời và cũng rất hay trên bình diện tôn giáo. Nhưng rồi ông qua đời. Ông hầu như hấp hối và bà chị đã mang ông về nhà để có thể săn sóc cho ông. Mặc dầu ông muốn chết trong nhà thương giữa những người nghèo. Bác sĩ đã từ chối không cho phép vì ông chỉ còn vài ngày sống và vì việc đem ông đi không thể làm được. Khi đó ông xin đem một người nghèo hấp hối từ một nhà thương dành cho người nghèo về nhà ông với một chiếc giường giống giường của ông. Bà chị tìm cách làm vừa lòng ông, nhưng cái chết đến trước. Riêng cá nhân con thì con nghĩ Pascal đáng được phong chân phước lắm.

Đáp: Ông bạn thân mến của tôi, ông hoàn toàn có lý trong trường hợp này. Tôi cũng nghĩ là Pascal đáng được phong chân phước. Tôi sẽ lo liệu thủ tục cần thiết và hỏi ý kiến của các cơ quan Vaticăng đặc trách các vấn đề này, cùng với xác tín cá nhân và tích cực của tôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có bao giờ nghĩ tới việc viết về một hình ảnh Giáo Hội công nghị không?

Đáp: Không, tại sao tôi lại phải làm điều đó?

Hỏi: Bởi vì nó sẽ có một kết quả khá đảo lộn. ĐTC có muốn con giải thích không?

Đáp: Chắc chắn là ông làm tôi hài lòng rồi. Còn hơn thế nữa xin ông vẽ nó ra cho tôi.

ĐTC đưa giấy bút cho tôi và tôi vẽ. Tôi gạch một đường ngang và nói rằng đây là các Giám Mục mà ĐTC quy tụ về họp Công nghị. Tất cả các vị đều có một tước hiệu như nhau và một nhiệm vụ như nhau: đó là săn sóc các linh hồn được giao phó cho các vị trong giáo phận của các vị. Tôi vạch đường ngang này rồi nói: Nhưng mà ĐTC, thưa ĐTC, là Giám Mục Roma và như thế có quyền tối thượng trong Công nghị, vì ĐTC có nhiệm vụ rút tiả ra các kết luận và đưa ra đường lối chung của hàng Giám Mục. Như thế Giám Mục Roma ở bên trên vạch ngang này, có một vạch dọc lên cho tới tên của ĐTC và nhiệm vụ của ngài. Đàng khác các Giám Mục ở trên hàng ngang cai quản, giáo dục, trợ giúp tín hữu, và vì vậy có một đường từ hàng ngang xuống cho tới điều đại diện dân chúng. ĐTC có trông thấy hình vẽ không? Nó là một Thập Giá đó.

ĐTC nói:

Tư tưởng này thật rất là hay đẹp. Tôi đã không bao giơ có ý tưởng làm một hình vẽ về Giáo Hội Công nghị. Ông đã làm điều đó, tôi rất thích nó.

Trời đã muộn. ĐTC tặng tôi hai cuốn sách kể lại lịch sử của ngài tại Argentina cho tới Công nghị hồng y bầu ngài làm Giáo Hoàng. Một cuốn dầy hàng trăm trang. Chúng tôi ôm hôn nhau. Và ĐTC đã muốn mang hai cuốn sách ra xe cho tôi. Chúng tôi xuống thang máy và ra cửa nhà trọ thánh Marta. Chiếc xe của tôi đã dừng trước cửa. Ông tài xế xuống xe bắt tay chào ĐGH và tìm giúp tôi vào trong xe. ĐTC mời ông tài xế ngồi vào tay lái cho xe nổ máy và nói “Để tôi giúp ông ấy”. Ngài đỡ tôi và giúp tôi vào trong xe và giữ cửa xe mở. Khi tôi đã ngồi trong xe, ngài hỏi tôi có thoải mái không. Tôi trả lời là có. Khi đó ngài mới đóng cửa xe, và lui ra sau một bước chờ cho xe chuyển bánh, Ngài vẫy ta chào tôi cho tới phút chót, trong khi tôi đầy nước mắt vì cảm động. Tôi thường viết rằng ĐTC Phanxicô là một người cách mạng. Ngài nghĩ đến việc phong chân phước cho ông Pascal, ngài nghĩ tới người nghèo, người di cư. Ngài cầu mong một Âu châu liên bang và cuối cùng và không phải cuối cùng ngài giơ tay giúp tôi vào trong xe. Một vị Giáo Hoàng như thế chúng ta đã không bao giờ có! Và những gì ngài đã nói với tôi trong cuộc phỏng vấn cứ vang lên trong đầu tôi.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha xác định tiêu chuẩn cha giải tội tốt

Đức Thánh Cha xác định tiêu chuẩn cha giải tội tốt

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các cha giải tội gắn bó với Chúa Kitô qua kinh nguyện, biết phân định và ý thức rằng tòa giải tội chính là nơi loan báo Tin Mừng.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 17-3-2017 dành cho 700 người gồm các LM trẻ và chủng sinh sắp thụ phong LM tham dự khóa học về bí tích giải tội do Tòa Ân Giải tối cao tổ chức trong những ngày qua. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có ĐHY Chánh Tòa và các chức sắc của Tòa Ân Giải tối cao những như các cha giải tội tại 4 Đại vương cung thánh đường ở Roma.

Trong bài huấn dụ, ĐTC khai triển 3 điều kiện để trở thành cha ”giải tội tốt”:

– Trước tiên phải là người bạn đích thực của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành. Điều này trước tiên có nghĩa là phải vun trồng đời sống cầu nguyện, luôn cầu xin Chúa ơn bác ái mục tử, ơn có khả năng hiểu những vết thương của người khác để chữa lành, ơn khiêm tốn, và luôn xin ơn Thánh Linh là Thánh Thần Phân Định và cảm thương.

– Tiếp đến, cha giải tội tốt là người của Thánh Linh, người biết phân định. Cha giải tội không dạy đạo lý riêng của mình, nhưng luôn luôn thực thi thánh ý Chúa, trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội. Sự phân định là điều cần thiết vì người đến tòa giải tội có thể đến từ những hoàn cảnh rất khác nhau. Cũng có thể họ là người có những xáo trộn về tâm linh và bản chất của tình trạng này cần phải được phân định kỹ lưỡng, để ý tới tất cả những hoàn cảnh cuộc sống, hoàn cảnh Giáo Hội, tự nhiên và siêu nhiên.

– Sau cùng, ĐTC nói, cha giải tội tốt là người ý thức rằng tòa giải tội cũng là nơi thực sự để loan báo Tin Mừng. Thực vậy, không có sự loan báo Tin Mừng nào chân chính hơn là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa từ bi thương xót.

Tòa Giải tội cũng là nơi huấn luyện. Tuy cuộc đối thoại giữa cha giải tội với hối nhân thường ngắn ngủi, nhưng Cha giải tội được kêu gọi phân định xem đâu là điều hữu ích nhất và đâu là điều cần thiết cho hành trình thiêng liêng của anh chị em đến xưng tội. Đôi khi càn phải tái loan báo cho họ những chân lý sơ đẳng nhất của đức tin, những nền tảng của đời sống luân lý, luôn ở trong tương quan với sự thật, sự thiện và thánh ý Chúa. Đây là một công việc phân định sẵn sàng và khôn ngoan, mang lại nhiều lợi ích cho tín hữu. Cha giải tội hằng ngày được kêu gọi đi tới những ”vùng ngoại ô của sự ác và tội lỗi” và hoạt động của ngài thực sự là một ưu tiên mục vụ đích thực.

Khóa học về tòa trong

Khóa học thường niên về tòa lương tâm, cũng gọi là tòa trong, xoay quanh việc giải tội, do Tòa ân giải tối cao tổ chức tại trụ sở của tòa này ở Roma và kéo dài trong 4 ngày qua.

Trong diễn văn khai mạc khóa học, ĐHY Mauro Piacenza đã tổng kết hoạt động trong Năm Thánh Lòng Thương Xót với vô số tín hữu lãnh nhận bí tích hòa giải. ĐHY nhấn mạnh đến sự cần thiết phải huấn luyện các cha giải tội để tránh cho lòng thương xót bị thu hẹp vào một kinh nghiệm tình cảm.

Trong ngày đầu tiên, Đức Ông Krzystof Nykiel, Phó chánh tòa Ân giải tối cao, đã làm sáng tỏ ý niệm về tòa trong, hệ tại tương quan phức tạp giữa tín hữu và Thiên Chúa, trong đó có sự trung gian của Giáo Hội. Giáo Hội không can thiệp trực tiếp, vì tương quan này phải có tính chất tự do, nhưng Giáo Hội giúp đỡ vì thiện ích siêu nhiên của tín hữu. Tòa Ân giải tối cao là cơ quan kỳ cựu nhất của Tòa Thánh được thành lập hồi thế kỷ 13 và phục vụ ơn gọi là phần rỗi các linh hồn. Đây là một tòa án của lòng thương xót, phục vụ các cha giải tội và tín hữu, nhắm đến sự hòa giải với Thiên Chúa. Tòa cũng có thẩm quyền tha các vạ dành quyền giải cho Tòa Thánh (SD 17-3-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Bài suy niệm cuối: 2 cách loan báo mầu nhiệm Phục sinh cho người thời nay?

Bài suy niệm cuối: 2 cách loan báo mầu nhiệm Phục sinh cho người thời nay?

Ariccia – Sáng 10/03, cha Michelini, thuyết giảng viên tuần tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và giáo triều Roma, đã trình bày bài suy niệm cuối cùng về chủ đề “Mồ trống và Phục sinh” theo tin mừng thánh Mátthêu.

Hai cách trình bày mầu nhiệm Phục sinh: con đường học hỏi, giải thích Sách Thánh và con đường bác ái

Trang cuối của tin mừng thánh Mátthêu, nói về sự kiện Chúa Giêsu phục sinh, theo cha Michelini, mạc khải mầu nhiệm Kitô giáo. Đau khổ và cuộc thương khó của Chúa Giêsu không phải là kết thúc tất cả, nhưng là một bắt đầu mới – Phục sinh. Nhưng làm sao trình bày về mầu nhiệm phục sinh cho người thời nay?

Cha Michelini nói về nhân vật chính trong tác phẩm “Metamorfosi” (biến hình) của Franz Kafka, một ngày kia, khi tỉnh dậy, đã biến thành một con côn trùng, chỉ khép kín trong chính mình, lo lắng và không có liên hệ gì với tình cảm gia đình. Làm sao chúng ta loan báo mầu nhiệm Phục sinh cho người như thế? Cần phải khởi đi từ con người Chúa Giêsu và sứ điệp của Người. Cha nói: “Phục sinh cho thấy một điều mới mẻ thực sự của Chúa Kitô so với Chúa Giêsu lịch sử: thân xác Ngài là thân xác sau khi phục sinh, nhưng là sự mới mẻ đã được thấy trước trong các dấu hiệu lịch sử của Chúa Giêsu trước khi phục sinh. Do đó khi chúng ta nghe nói Chúa đã sống lại, chúng ta có thể khởi đi lại từ con người Giêsu, từ con người Giêsu ở Galilê, với sứ điệp giải phóng nhân loại.” Vì thế, một sứ điệp giải phóng nhân loại cho con người ngày nay có thể đến qua 2 cách,  cả 2 đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh và minh họa: sứ vụ văn hóa trong việc đào sâu các bản văn cùng với cách giải thích mới và con đường bác ái.

Chúng ta hãy tìm hiểu để hiểu thêm điều mà các sách Tân ước và Cựu ước muốn nói và để chúng ta có thể giải thích chúng lại qua đời sống Giáo hội, phụng vụ, bài giảng, nhưng cũng qua sự dấn thân văn hóa. Nhưng con đường khác, nếu chúng ta có thể mở cửa phòng nơi mà Gregor Samsa tự khóa mình, là con đường bác ái. Nếu Gregor Samsa nhốt mình trong căn phòng khóa chặt, đó là huyệt mộ, nếu được ai đó trợ giúp, anh có thể tìm lại được nhân tính. Thay vì là côn trùng, có lẽ anh ta có thể nhận ra nét nào đó của thân xác con người của anh ta.”

Theo Tin mừng thánh Mátthêu, sự phục sinh đã được thiên thần loan báo.  Do đó, nói về mộ trống thôi chưa đủ, sự Phục sinh cũng phải được nói, sứ điệp của Chúa Kitô phục sinh phải được loan báo.

Phục Sinh: tha thứ

Nhưng lời của thánh Mátthêu còn cho thấy rõ một khía cạnh khác của Phục sinh, đó là ơn tha thứ. Chúa Giêsu phục sinh muốn gặp 11 môn đệ và gọi họ là “anh em”, nghĩa là Ngài đã tha thứ cho họ vì đã bỏ rơi Ngài. Ngài gặp họ ở Galilê, họ cúi xuống bái lạy nhưng đồng thời nghi ngờ. Tuy nhiên, Ngài đã đến gần họ và trình thuật của thánh Mátthêu kết thúc với những lời: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Cha Michelini kết luận: “Đây đúng thực là cách làm của Thiên Chúa, mà Lời của Ngài có khả năng soi chiếu những giới hạn của chúng ta và biến đổi chúng thành cơ hội.”

Cha của Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta qua lời của Ngài và Con của Người, Đấng mà Tin mừng thánh Mátthêu gọi là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tin mừng thánh Mátthêu kết thúc như thế: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Đây là gia sản lớn nhất mà chúng ta có, dù cho những nghi ngờ và phần xấu xa của chúng ta và tội lỗi chúng ta.”

Sau bài suy niêm cuối cùng, Đức Thánh Cha đã cám ơn cha giảng thuyết về những suy tư trong tuần tĩnh tâm và ngài đã trở về Vatican lúc 11.30  (RV 10/03/2017)

Hồng Thủy

 

Linh mục Luis Dli, cha giải tội giàu lòng thương xót

Linh mục Luis Dli, cha giải tội giàu lòng thương xót

Linh mục giải tội

Có một Linh mục được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến nhiều lần như là mẫu gương của lòng thương xót. Ngài đề cập đến vị Linh mục này lần đầu tiên trong buổi gặp các cha xứ của giáo phận Roma vào ngày 6 tháng 3 năm 2014. Một ít tháng sau, Đức Thánh Cha lại nhắc đến Linh mục này trong bài giảng trong lễ truyền chức Linh mục ngày 11 tháng 5 năm 2014. Ngài lại nói đến cha lần nữa trong cuốn sách thuật lại cuộc phỏng vấn của ngài tựa đề “Tên của Thiên Chúa là Lòng Thương xót”, và trong Thánh lễ với các Linh mục dòng Capuchino vào tháng 2 năm nay, Đức Thánh Cha lại nhắc đến Linh mục này.

Đức Thánh Cha kể: “Tôi nhớ đến một Linh mục giải tội, là một cha dòng Capuchino phục vụ ở Buenos Aires, thủ đô Achentina. Một lần, cha ấy đến gặp và muốn nói chuyện với tôi. Cha ấy nói: ‘con cần sự giúp đỡ của Đức Hồng y (khi ấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang là Hồng y Tổng giám mục tổng giáo phận thủ đô Buenos Aires). Luôn luôn có rất nhiều người đến xưng tội với con; đủ mọi hạng người, những người khiêm nhường cũng như người thiếu khiêm nhường, cũng như nhiều Linh mục…. Con đã tha tội cho rất nhiều người và thỉnh thoảng con lo lắng vì con đã tha quá nhiều’. Chúng tôi đã nói về lòng thương xót và tôi hỏi cha ấy là cha đã làm gì khi cha cảm thấy bối rối như thế. Cha ấy đã trả lời: ‘con đến trước nhà Tạm Thánh Thể trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ của chúng con và con nói với Chúa Giê-su: Chúa ơi xin tha tội cho con vì con đã tha tội quá nhiều. Nhưng chính Chúa đã làm gương xấu cho con!’ Tôi không bao giờ quên câu chuyện này. Khi một Linh mục cảm thấy được sự thương xót này ngày trên chính da thịt mình thì Linh mục ấy có thể trao ban sự thương xót cho người khác”.

Vị Linh mục dòng Capuchino mà Đức Thánh Cha Phanxicô kể đến chính là Cha Luis Dli, 89 tuổi. Cha đã dùng hết thời gian của mình để ngồi tòa giải tội ở trong một khu phố ngoại ô thủ đô Buenos Aires. Trong một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao cha trả lời Đức hồng y Bergoglio như Đức Thánh Cha đã kể, cha Luis trả lời là cha đã rất tin tưởng Đức hồng y Bergoglio và một lần Đức hồng y đã bảo cha: hãy tha thứ! Hãy tha thứ! Điều quan trọng là tha thứ! Và cha đã trả lời Đức hồng y như Đức Thánh Cha đã kể lại. Chúa Giê-su làm gương xấu vì Chúa tha thứ tất cả; Chúa không bao giờ đẩy ai ra xa Ngài. Đức hồng y Bergoglio, là Đức Thánh Cha bây giờ, đã bị ấn tượng với câu trả lời này. Ngài biết cha Luis ngồi giải tội nhiều giờ sáng chiều. Nhiều lần ngài đã khuyên các Linh mục đến xưng tội với cha Luis khi họ gặp những vấn đề. Cha đã lắng nghe họ và đã trở thành bạn với nhiều người trong số họ. Đến với cha họ được lắng nghe và cảm thấy tốt hơn về tinh thần cũng như về mục vụ. Cha Luis chia sẻ thêm: cha cám ơn Đức Thánh Cha đã đặt tin tưởng nơi cha dù cha không xứng đáng. Cha không phải là một Linh mục hay tu sĩ học cao và có bằng cấp, nhưng cuộc sống đã dạy cho cha rất nhiều; cuộc sống đã ghi dấu trên cha vì cha sinh ra trong sự nghèo khó và cha cảm thấy cha nên luôn luôn trao ban lời thương xót, sự giúp đỡ và gần gũi với những ai đến với cha. Không ai phải bỏ đi với ý nghĩ là họ không được hiểu hay họ bị hất hủi khinh bỉ.

Với kinh nghiệm của một Linh mục 89 tuổi đã dành cả cuộc đời để giải tội, Cha Luis khuyên các Linh mục như sau: Tôi không có gì khác để nói ngoài điều Đức Thánh Cha nói, vì tôi cảm và sống nó. Lòng thương xót, sự thông hiểu, dành cuộc đời mình để lắng nghe, hiểu và thử đặt mình trong “đôi giày” của người khác để hiểu những gì đang diễn ra. Chúng ta, các Linh mục không nên giải tội như những vị công chức: “tôi ban cho họ ơn tha tội”, thế là xong, nhưng trái lai, tôi tin là chúng tôi cần tỏ sự gần gũi và đặc biệt đối  xử tốt với họ, vì thường có những người không biết xưng tội là gì. Hãy nói với họ: “đừng sợ! Đừng lo lắng! Tất cả những gì bạn cần làm khi xưng tội là mong muốn được trở nên tốt hơn”. Chúng ta hãy quên họ thường pham tội thế nào hay với ai hay điều gì, vì những điều này dường như đẩy họ ra xa chúng ta. Và công việc của tôi là mang con người đến gần Thiên Chúa, gần Chúa Giê-su hơn.

Còn đối với những tội nhân đến xưng tội, cha Luis thường khuyên họ đừng sợ. Cha thường trình bày hình ảnh người cha nhân từ ôm chầm đứa con hoang đàng. Họ thường hỏi cha là Thiên Chúa sẽ tha thứ cho con không. Cha nói với họ: Thiên Chúa ôm lấy chúng ta, Ngài chăm sóc, yêu thương và đồng hành với bạn. Thiên Chúa đến để tha thứ chứ không để xử phạt. Người từ trời xuống để ở với chúng ta vậy tại sao chúng ta có thể sợ hãi Thiên Chúa! (Vatican Insider 09/05/16)

Hồng Thủy OP

Đức Thánh Cha đơn giản hóa thủ tục xin giải hôn phối

Đức Thánh Cha đơn giản hóa thủ tục xin giải hôn phối

Cuộc họp báo

VATICAN. Hôm 8-9-2015, hai Tự Sắc mới của ĐTC Phanxicô về việc cải tổ thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu, đã được công bố trong cuộc họp báo ở Vatican.

Tự sắc dành cho Giáo hội Công Giáo la tinh mang tựa đề ”Chúa Giêsu là thẩm phán hiền từ” (Mitis Iudex Dominus Iesus) và tự sắc dành cho Giáo Hội Công Giáo Đông phương có tên là ”Chúa Giêsu Từ Bi” (Misericors Iesus).

Đức Ông Pio Vito Pinto, Niên trưởng tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma, Chủ tịch Ủy ban đặc nhiệm cải tổ thủ tục xử án hôn phối, đã chủ tọa cuộc họp báo, và trong số 6 vị khác có ĐHY Francesco Coccopalmerio, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật.

Với luật mới, ĐTC đơn giản hóa và mau lẹ hóa thủ tục xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu.

Trong tự sắc, sau khi nhắc đến qui luật tối hậu của giáo luật là phần rỗi các linh hồn, và hoàn toàn tôn trọng nguyên tắc bất khả phân ly của hôn phối, ĐTC nói đến lý do khiến ngài tiến hành việc cải tổ thủ tục cứu xét việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu, nhất là lời thỉnh cầu của đại đa số các GM trong Thượng HĐGM khóa đặc biệt hồi tháng 10 năm 2014. Việc cải tổ này cũng được thúc đẩy do sự kiện nhiều tín hữu, tuy muốn xin tòa án Giáo Hội cứu xét hôn phối của mình, nhưng vì sự xa xôi về thể lý hoặc luân lý, hoặc những lý do khác, không tiến hành được, vì thế đức bác ái và lòng từ bi đói chính Giáo Hội như người Mẹ đến gần con cái cảm thấy bị tách lìa khỏi Giáo Hội.

ĐTC liệt kể một số tiêu chuẩn cơ bản hướng dẫn công cuộc cải tổ.

1.- Chỉ cần một phán quyết xác nhận hôn phối vô hiệu và không cần phải hai phán quyết hay hai bản án đồng thuận về sự vô hiệu ấy, thì hai người liên hệ mới được lập một hôn phối khác theo phép đạo. Chỉ cần xác tín luân lý của vị thẩm phán thứ I theo luật là đủ.

2.- Vị thẩm phán duy nhất ấy ở dưới trách nhiệm của Đức Giám Mục.

Việc thành lập hoặc bổ nhiệm thẩm phán duy nhất ấy, là giáo sĩ, cho tòa cấp một, thuộc trách nhiệm của Giám mục. Khi thi hành quyền tư pháp của mình, Giám Mục phải đảm bảo làm sao để khỏi có sự tháo thứ.

3.- Chính giám mục là thẩm phán. Để thực hành giáo huấn của công đồng chung Vatican 2 trong lãnh vực quan trọng này, điều hiển nhiên là chính GM trong giáo phận của mình, là chủ chăn và là thủ lãnh, và vì thế ngài cũng là thẩm phán cho các tín hữu được ủy thác cho ngài. Vì thế, điều mong ước là trong các giáo phận lớn cũng như giáo phận nhỏ, chính Giám Mục cung cấp một dấu hiệu về sự hoán cải các cơ cấu Giáo Hội, và đừng ủy thác hoàn toàn cho các văn phòng của tòa Giám mục chức năng xét xử trong vấn đề hôn phối. Điều này đặc biệt có giá trị trong các thủ tục xét xử vắn tắt được thiết định để giải quyết những trường hợp hôn phối bất thành tỏ tường.

4.- Thủ tục cứu xét vắn tắt. Ngoài việc làm cho thủ tục cứu xét mau lẹ, cần có một hình thức cứu xét vắn tắt, thêm vào việc cứu xét các hồ sơ tài liệu hiện hành, cần áp dụng thủ tục này trong trường hợp sự vô hiệu của hôn phối được hỗ trợ bằng những lý lẽ đặc biệt tỏ tường.

ĐTC viết:

”Tôi cũng biết một phán quyết thu vắn có thể gặp nguy cơ làm thương tổn tính chất bất khả phân ly của hôn phối; chính vì thế tôi đã muốn việc xét xử, cứu xét như thế do chính GM làm thẩm phán. Do chức vụ mục tử hiệp thông với Phêrô là người bảo đảm lớn nhất sự hiệp nhất của Công Giáo trong đức tin và kỷ luật.”

5.- Kháng nghị lên tòa án giáo tỉnh.

Nên tái lập việc kháng nghị lên tòa án giáo tỉnh, vì tòa án này, vốn ổn định qua bao thế kỷ, là dấu hiệu nổi bật nói lên công nghị tính trong Giáo Hội.

6.- nghĩa vụ của HĐGM

Các HĐGM, phải được thúc đẩy do mối quan tâm tìm đến những tín hữu bị phân tán, hãy mạnh mẽ cảm thấy nghĩa vụ chia sẻ sự hoán cải cơ cấu Giáo Hội như vừa nói, tuyệt đối tôn trọng quyền của các GM trong việc tổ chức việc xét xử trong giáo phận thuộc quyền.

Việc tái lập sự gần gũi giữa vị thẩm phán và các tín hữu sẽ không thành công nếu HĐGM không nhìn thấy nơi mỗi GM một sự khích lệ đồng thời là một trợ lực để thực hiện việc cải tổ thủ tục cứu xét tuyên bố hôn phối vô hiệu.

Cùng với sự gần gũi của thẩm phán, các HĐGM hãy làm sao để đảm bảo sự miễn phí của thủ tục cứu xét, nhưng cần đảm bảo việc trả thù lao xứng đáng cho các viên chức tòa án, để Giáo Hội, tỏ ra là người Mẹ quảng đại đối với các tín hữu trong một lãnh vực có liên hệ mật thiết đối với phần rỗi các linh hồn, biểu lộ tình yêu nhưng không của Chúa Kitô, nhờ đó tất cả chúng ta được cứu độ.

7.-Kháng nghị lên Tòa Thánh. Dầu sao cần duy trì việc kháng nghị lên tòa án thường lệ của Tòa Thánh nghĩa là tòa Thượng Thẩm Rota, trong niềm tôn trọng nguyên tắc pháp lý rất cổ kính, để củng cố mối liên lạc giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương, nhưng làm sao để trong việc kháng án hay thượng cầu, loại trừ bất kỳ việc lạm dụng luật pháp nào, để khỏi gây thiệt hại cho phần rỗi các linh hồn.

Luật riêng của tòa Thượng Thẩm Rota sẽ được thích ứng sớm hết sức với các tuy luật của việc cứu xét được cải tổ, trong những giới hạn cần thiết.

Tiếp đến, trong tự sắc, ĐTC đã quyết định sửa đổi nhiều khoản luật thuộc cuốn VII, phần III, Thiên I, và chương I, từ các điều số 1671 đến 1691, kể từ ngày 8 tháng 12 năm nay, 2015. Các khoản này hoàn toàn được thay thế bằng các khoản liệt kê trong Tự Sắc của ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Đám cưới vĩ đại

Đám cưới vĩ đại

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.

Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.

Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.

Thưa anh chị em,

Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.

Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là Dân Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài- làm những người khách mời đặc biệt vào dự Tiệc Nước Chúa- Nhưng đến khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ lại từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai- người tốt cũng như kẻ xấu- gặp được ở các ngã đường. Dân Israel đã từ chối lời mời gọi gia nhập Nước Chúa sẽ được thay thế bằng lời các dân tộc khác, cả những người ngoại giáo và tội lỗi, những người thu thuế và các cô gái điếm.

Anh chị em thân mến,

Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mà Chúa Giêsu đã kể lại luôn có giá trị đối với thính giả ngày xưa cũng như ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta một điều kiện- cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do- đó là đáp trả lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.

Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách được mời cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải có áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa Tội, là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải sống đời sống kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.

Dụ ngôn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương người có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dù sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một ước muốn trở lại chân thật, “một chiếc áo trắng Rửa Tội”, “mặc lấy con người mới, được Thiên Chúa tạo dựng và tái sinh trong công chính và thánh thiện”.

Phải, thưa anh chị em, Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.

Anh chị em thân mến,

Thánh lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn “có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau.

Hai nhà nhà thần học người Ba Lan và Pháp được trao giải thưởng Ratzinger

Hai nhà nhà thần học người Ba Lan và Pháp được trao giải thưởng Ratzinger

hai-nha-nha-than-hoc-nguoi-ba-lan-va-phap-duoc-trao-giai-thuong-ratzinger

Đài phát thanh Vatican cho biết, hai người chiến thắng giải thưởng Ratzinger năm 2014 đã được công bố hôm thứ Ba tại phòng Báo chí Tòa Thánh. Cả hai người chiến thắng đều là những học giả đã hoạt động tích cực trong cuộc đối thoại Công giáo-Do Thái.

Người đoạt giải thưởng thứ nhất là bà Anne-Marie Pelletier người Pháp. Bà là giảng viên khoa Thánh Kinh và Chú giải tại chủng viện Notre Dame ở Paris. Bà cũng từng dạy Thánh Kinh tại Học viện châu Âu về Khoa học Tôn giáo.

Bên cạnh đó, bà đã có thời gian phục vụ với vai trò là Phó Chủ tịch của Dịch vụ Thông tin, Tài liệu của người Do Thái và Kitô giáo ở Paris. Bà đã từng tham gia một số cuộc hội thảo được Tòa Thánh tài trợ, và là người dự thính tại Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2001 về vai trò của Giám Mục như là tôi tớ của Tin Mừng.

Đức Hồng Y Camillo Ruini, Chủ tịch Ủy ban Khoa học của Quỹ Ratzinger nói: “Giáo sư Pelletier là một nhân cách quan trọng trong Công giáo đương đại của Pháp.”

Người đoạt giải thứ hai là Đức ông Waldemar Chrostowski. Ngài hiện là tổng biên tập của tạp chí Ba Lan Collectanea Theologica, và từng là Chủ tịch của Hiệp hội học giả Kinh Thánh Ba Lan từ năm 2005. Ngài tham dự trong vai trò một chuyên gia tại trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa và sứ mạng của Giáo Hội năm 2008.

Ngài đã viết nhiều bài báo khoa học, với các lĩnh vực ưu tiên là Cựu Ước, đặc biệt là các sánh Tiên tri. Ngoài ra, Đức ông còn là một chuyên gia văn chương Do Thái trong thời điểm giao thời giữa hai giao ướ, tức khoảng thời gian giữa Thánh Kinh Do Thái cho đến Tân Ước, và là chuyên gia về giáo lý Do Thái cũng như mối quan hệ giữa Do Thái và Kitô giáo.

Đức ông Chrostowski phục vụ trong Thần Học Khoa Học viện Warsaw từ năm 1987. Ngài cũng là thành viên lâu năm của Ủy ban của Hội đồng Giám mục Ba Lan về Đối thoại với Do Thái giáo và Hội đồng các Kitô hữu và người Do Thái ở Ba Lan. Ngài là người Ba Lan đầu tiên giành giải thưởng Ratzinger.

Đức Hồng Y Ruini nói về Đức ông như sau, “ngài đã kết hợp chặt chẽ sự học hỏi nghiêm túc với niềm đam mê Lời Chúa, trong việc phục vụ Giáo Hội và mối quan tâm tới việc đối thoại liên tôn.”

Buổi họp báo cũng đã đưa ra một bản cập nhật về việc chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ tư của Quỹ Ratzinger, sẽ diễn ra ngày từ ngày 23 đến ngày 24 tháng 10 năm 2014, tại Đại học Giáo Hoàng Bolivariana trong Medellín, Colombia. Hội nghị có chủ đề “Tôn trọng sự sống, con đường dẫn tới hòa bình.”

Hoàng Anh

Trích từ Báo Công Giáo