Chính thống Nga đoạn giao với Chính Thống Constantinople

Chính thống Nga đoạn giao với Chính Thống Constantinople

Trên đây là quyết định của Thánh Hội đồng Giáo Hội Chính Thống Nga sau khóa họp hôm 15-10-2018 tại Minsk thủ đô Cộng hòa Bạch Nga cũng gọi là Belarus. Đây là lần đầu tiên từ hơn 300 năm nay, sự hiệp thông này bị gián đoạn.

 Phê bình tòa Thượng Phụ Constantinople

 Trong khóa họp Hội đồng đã bàn về vấn đề tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople ở Thổ Nhĩ Kỳ đang xúc tiến việc công nhận quyền tự quản độc lập của Giáo Hội Chính Thống tại Ucraina. Chính Thống Nga gọi việc làm này là xen lấn vào lãnh thổ của Chính Thống Nga. Giáo Hội này vẫn coi Ucraina và một số lãnh thổ cựu Liên Xô là lãnh thổ của mình theo giáo luật và không để các Giáo Hội như ở Ucraina được độc lập tự quản.

 Chính Thống Nga đã đưa ra các biện pháp đe dọa trước

 Trong thời gian trước đây, tòa Thượng Phụ Chính Thống Mascơva đã cấm các GM của mình không được cử hành hoặc tham dự thánh lễ chung với các chức sắc của Chính Thống Constantinople, không được tham dự các hội nghị do đại diện của Chính Thống Constantinople chủ tọa.

 Tuyên bố trong một buổi lễ hôm 13-10-2018 tại thành phố Minsk, Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Nga nói rằng Thánh Hội đồng của Giáo Hội này muốn trấn an xã hội Ucraina, củng cố đời sống đạo tại nước này và đồng thời bảo vệ Giáo Hội chống lại những cuộc tấn công và đàn áp có thể xảy ra.

 Trong khi đó, Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ tòa Thượng Phụ Chính Thống Mascơva, trên đài truyền hình Nga, đã trách cứ Đức thượng Phụ Bartolomaios của Chính Thống Contanstinople phải chịu trách nhiệm về sự phân rẽ Giáo Hội Chính Thống tại Ucraina khi công nhận những người lãnh đạo Chính Thống tại Kiev và qua đó hợp thức hóa cuộc ly giáo từ hơn 25 năm nay tại Ucraina. ”Sự kiện này khiến chúng tôi không thể hiệp nhất với Giáo Hội Chính Thống Constantinople.”

 Đức TGM Hilarion cũng cảnh cáo rằng: ”Nếu tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople còn tiếp tục các hành động trái với giáo luật thì Chính Thống Nga buộc lòng phải đoạn giao hoàn toàn với Chính Thống Constantinople”.

 Cộng đoàn Chính thống tại Ucraina

 Tại Ucraina, 70% dân chúng theo Chính Thống giáo, một nửa thuộc quyền Tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga. 2 cộng đoàn Chính Thống khác đang tiến hành dự án thành lập một Giáo Hội Chính Thống Ucraina thống nhất và sẽ được Đức Thượng Phụ Bartolomaios, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople công nhận quyền tự quản độc lập (tomos).

Chính Thống Nga có khoảng 90 triệu tín hữu, còn tại Thổ Nhĩ kỳ chỉ có khoảng 4 ngàn tín hữu Chính Thống. Tuy nhiên, thuộc quyền Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantiple có nhiều cộng đoàn ở các nước và Đức Thượng Phụ Bartolomaios I ở Istanbul là vị đứng đầu trong số các vị Thượng Phụ và thủ lãnh 14 Giáo Hội Chính Thống trên thế giới. (Tổng hợp 15-10-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 29-10-2017

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 29-10-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh truyền tin trưa chúa nhật 29-10-2017 với hơn 30 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC kêu gọi các tín hữu sống trọn giới răn mến Chúa yêu người.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu (22,34-40) chúa nhật thứ 30 thường niên năm A, trong đó Chúa Giêsu trả lời câu hỏi do một người Biệt Phái nêu lên: đâu là giới luật quan trọng nhất.

Huấn dụ của ĐTC

ĐTC nói: ”Chúa nhật này, Phụng vụ trình bày cho chúng ta một đoạn ngắn của Tin Mừng, nhưng rất quan trọng (Xc Mt 22,34-40). Thánh Sử Matthêu kể lại rằng những người Biệt Phái họp nhau để thử thách Chúa Giêsu. Một người trong họ, tiến sĩ luật, nêu câu hỏi với Ngài: ”Thưa Thầy, trong Luật, đâu là giới răn quan trọng nhất” (v. 36). Đó là một câu hỏi cạm bẫy, vì trong Luật Môisê có nói đến hơn 600 giới luật. Trong tất cả những luật đó, làm sao phân biệt giới răn quan trọng nhất. Nhưng Chúa Giêsu không chút do dự và trả lời: ”Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết tâm trí ngươi” và ngài thêm: 'Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình” (v.37.39)”

 ”Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải là điều hiển nhiên mà có, vì trong nhiều giới răn của luật Do thái, quan trọng nhất là 10 giới răn, được Thiên Chúa trực tiếp thông truyền cho Môise, như những điều kiện của giao ước giữa Chúa với dân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho thấy rằng nếu không có lòng mến Chúa và yêu ngừơi, thì không có sự trung thành đích thực với giao ước với Thiên Chúa. Bạn có thể làm bao nhiêu điều tốt lành, thực thi các giới răn, nhưng nếu bạn không có tình yêu, thì việc làm ấy không hữu ích.

 Một đoạn văn khác trong sách Xuất Hành, gọi là ”Luật giao ước” đã xác nhận điều đó, trong phần này có nói rằng ta không thể ở trong Giao ước với Chúa mà lại ngược đãi những người được Chúa đặc biệt bảo vệ: đó là góa phụ, cô nhi và người ngoại quốc, người di dân, tức là những người cô độc và dễ bị tổn thương nhất (Xc Xh 22,20-21). Khi trả lời cho những người Biệt Phái chất vấn ngài, Chúa Giêsu cũng tìm cách giúp họ đặt thứ tự trong đời sống đạo của họ, tái lập điều thực sự quan trọng và điều kém quan trọng hơn. Ngài nói: ”Toàn thể Luật và các Ngôn Sứ tùy thuộc hai giới răn này” (Mt 22,40). Đó là những giới răn quan trọng nhất, các giới răn khác tùy thuộc hai giới răn đó. Và Chúa Giêsu đã sống như thế: bằng cách rao giảng và thi hành những gì thực sự là quan trọng và thiết yếu, nghĩa là tình thương. Tình thương mang lại đà tiến và sự phong phú cho đời sống và hành trình đức tin: không có tình thương, thì cuộc sống cũng như đức tin sẽ trở nên khô cằn, son sẻ.

Điều mà Chúa Giêsu đề nghị trong trang Tin Mừng này là một lý tưởng tuyệt vời, đáp ứng ước mong chân thực nhất của tâm hồn chúng ta. Thực vậy, chúng ta được dựng nên để yêu mến và được mến yêu. Thiên Chúa là Tình Thương, đã tạo dựng chúng ta để cho chúng ta được tham dự cuộc sống của Ngài, để được Ngài yêu mến và yêu mến Ngài, và cùng với Ngài yêu mến tất cả những người khác. Đó là ”giấc mơ” của Thiên Chúa về con người. Và để thực hiện điều đó, chúng ta cần ơn thánh của Chúa, chúng ta cần nhận được nơi mình khả năng yêu mến đến từ chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu hiến mình cho chúng ta trong Thánh Thể chính vì điều đó. Trong Thánh Thể chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa, nghĩa là chúng ta đón nhận Chúa Giêu qua biểu hiện tột đỉnh tình thương của Chúa, khi Ngài hiến mình cho Chúa Cha để cứu độ chúng ta”.

Và ĐTC kết luận rằng: “Nguyện xin Đức Mẹ giúp chúng ta đón nhận vào trong cuộc sống của chúng ta ”giới răn cao cả”, mến Chúa yêu người. Thực vậy, tuy chúng ta đã biết giới răn này từ khi còn nhỏ, nhưng không bao giờ chúng ta ngưng trở về với giới răn này và thực hành nó trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống chúng ta”

Chào thăm

Sau khi ban phép lành, ĐTC nhắc đến lễ phong chân phước hôm thứ bẩy 28-10 vừa qua tại thành phố Caxias do Sul bên Brazil cho cha Giovanni Schiavo thuộc dòng thánh Giuse Murialdo. ”Người sinh tại vùng Vicenza vào đầu thế kỷ 20, và khi còn là một linh mục trẻ, cha được gửi sang Brazil, tại đây cha đã nhiệt thành hoạt động phục vụ dân Chúa và huấn luyện các tu sĩ nam nữ. Ước gì tấm gương của cha giúp chúng ta sống trọn vẹn lòng gắn bó của chúng ta với Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài”.

ĐTC ngỏ lời chào thăm đông đảo các tín hữu hành hương đến từ Italia và nhiều nước khác, đặc biệt từ Ai len, Áo, Đức. Ngài cũng nhắc đến các tham dự viên Hội nghị vế các tu hội đời Italia, mà ngài khích lệ trong việc làm chứng tá Tin Mừng trong thế giới, hiệp hội những ngừơi hiến máu ở Orta Nova, tỉnh Foggia, nam Italia.

Sau cùng, ĐTC chào cộng đoàn ngừơi Togo Phi châu ở Italia và cộng đoàn người Venezuela với ảnh Đức Mẹ Chiquinquira, Chinita. Chúng ta hãy phó thác cho Đức Mẹ những hy vọng và mong đợi hợp pháp của hai quốc gia dân tộc này.

G. Trần Đức Anh OP

Kỷ niệm 100 năm thư ĐGH Biển Đức XV gửi hàng lãnh đạo các quôc gia lâm chiến

Kỷ niệm 100 năm thư ĐGH Biển Đức XV gửi hàng lãnh đạo các quôc gia lâm chiến

Cách đây 100 năm ngày mùng 1 tháng 8 năm 1917 ĐGH Biển Đức XV đã gửi quốc trưởng các nước tham gia Đệ nhất thế chiến một bức thư tựa đề “Thư gửi các vị lãnh đạo các dân tộc lâm chiến”, trong đó ngài mạnh mẽ lên án chiến tranh và định nghĩa thế chiến thứ nhất là “một tai ương vô ích”. Đây là một tài liệu quan trọng nhất trong số các tài liệu công bố trong hơn bốn năm chiến tranh máu lửa tàn khốc, khiến cho hơn 16 triệu người chết, trong đó có khoảng 9 triệu binh sĩ của mọi nước tham chiến và hơn 20 triệu người bị thương và tàn tật suốt đời.

Chính trong bầu khí chiến tranh ấy, Đức Biển Đức XV đã được bầu làm Giáo Hoàng ngày mùng 3 tháng 9 năm 1914, một tháng sau khi Đệ nhất thế chiến bùng nổ, sau ba ngày họp mật nghị với sự tham dự các Hồng Y chia thành hai phe rõ rệt: một bên là 6 Hồng  Y người Pháp, 2 vị người Anh, 1 vị người Ai len và 1 vị người Bỉ; bên kia là 4 vị người Áo Hungari và 2 vị người Đức.

Trong bầu khí cuồng loạn của chủ thuyết duy quốc gia đầu độc tâm trí của các vị lãnh đạo chính trị, nhà văn, nhà thơ và giới trí thức thời bấy giờ, các lời kêu gọi ngưng chiến của Đức Biển Đức XV chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.

Và chính việc Toà Thánh chọn lựa thái độ không thiên vị giữa các phe phái lâm chiến như con đường chính của Giáo Hội hồi thế kỷ thứ XIX đã khiến cho Toà Thánh Vaticăng bị cô lập hóa một cách thê thảm và bị chống đối, tuy ngày nay nó được xem như là một lập trường khôn ngoan và nhìn xa thấy rộng. Đức Biển Đức XV và ĐHY Pietro Gasparri, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, đã làm tất cả những gì có thể để giữ cho Italia đứng ngoài vòng, không tham gia thế chiến. Nhưng không phải chỉ có các giới chức chính trị, xã hội và trí thức, mà cả các HĐGM, hàng giáo sĩ, tu  sĩ và giáo dân thời bấy giờ, cũng đều ủng hộ các chính quyền của mình tham chiến. Ngay trong hàng ngũ các Hồng Y cũng xảy ra chia rẽ.

** Lập trường không thiên vị đã khiến cho Đức Biển Đức XV mạnh mẽ lên án thế chiến thứ nhất, và trong sứ điệp gửi ngày 28 tháng 7 năm 1915 nhân kỷ niệm một năm thế chiến thứ nhất bùng nổ, ngài gọi nó là “cuộc tàn sát rùng rợn từ một năm qua đã lấy mất danh dự của Âu châu”. Đây cũng là những lời ngài sẽ lập lại hai năm sau đó. Với một trực giác ngôn sứ Đức Biển Đức XV khẳng định rằng chiến tranh sẽ là “sự tự tử của Âu châu”. Đây là kiểu nói ngài đã sử dụng nhiều lần, như trong thư gửi ĐHY Pompilj ngày mùng 4 tháng 3 năm 1916, và trong thư gửi ĐHY Pietro Gasparri ngày mùng 5 tháng 5 năm 1917, cũng như trong diễn văn đọc trước Hồng Y đoàn ngày 24 tháng 12 năm 1917.

Tương lai sẽ chứng minh cho sự thật này, khi Âu châu bắt đầu xuống dốc, mất đi vai trò trung tâm của mình, trước sự đi lên của các dân tộc khác, và thế đứng bá quyền của Mỹ. Nhưng xem ra đã chỉ có Toà Thánh là nhận ra ngay lập tức sức lan tràn không thể kiểm soát nổi của sự say mê duy quốc gia quá khích này. Đã không có ai chú ý tới các nhục nhã mà các quốc gia lâm chiến áp đặt lên nhau, gây ra các thù hận và oán ghét, trước sau gì cũng sẽ bùng nổ trong các xung đột mới. Sự nhục nhã mà nước Đức đã gây ra cho Pháp  trong năm 1870 đã là một bài học không dậy được ai hết. Nhưng đây là điều Đức Biển Đức XV đã nhận ra và cảnh cáo một cách khôn ngoan trong Tông huấn công bố ngày 28 tháng 7 năm 1915 khi viết: “Các quốc gia không chết: bị hạ nhục và đàn áp, chúng run rẩy mang ách được áp đặt trên chúng, bằng cách chuẩn bị sự phản công, và bằng cách thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một gia tài của thù hận và báo oán”. Ước muốn rửa hận ấy tiêm độc dược vào lòng xã hội và bầu khí chung của Âu châu, và trong vài trường hợp lan tràn xa hơn đệ nhị thế chiến.

Toà Thánh đã làm hết cách để giữ cho Italia ở ngoài vòng chiến, bằng cách gửi Đức Ông Eugenio Pacelli, Sứ thần tương lai bên Đức, sang Vienne để thuyết phục hoàng đế nước  Áo nhượng vùng Trentino cho Italia, nhưng mọi sự hoàn toàn vô ích. Áo không muốn nhượng, và Italia muốn chiến tranh. Đường lối chính trị hoà bình của Toà Thánh và của Đức Biển Đức XV thất bại. Các nỗ lực của Toà Thánh gia tăng trong năm 1917, khi Hoa Kỳ gia nhập thế chiến, Nga hoàng từ chức, và chế độ quân phiệt Đức quốc thắng thế tại Berlin, các vụng về của hoàng đế Carlo I, các dấu hiệu mệt mỏi và suy sụp của đạo  binh các nước lâm chiến, và các hiểm nguy của khuynh hướng xã hội chủ nghĩa triệt để đã khiến cho Đức Biển Đức XV và ĐHY Gasparri từ chỗ làm trung gian thinh lặng bước sang đề nghị hoà bình cụ thể. Đây là lý do của bức thư “gửi hàng lãnh đạo các quốc gia lâm chiến” được gửi một cách trực tiếp hay gián tiếp qua ngã ngoại giao  tới mọi chính quyền các nước tham gia đệ nhất thế chiến.

** Sau đây là nội dung bức thư Đức Biển Đức XV công bố ngày 1 tháng 8 năm 1917, tức cách đây đúng 100 năm.

Mở đầu thư ĐGH Biển Đức XV nêu bật đường hướng chính trị “hoàn toàn không thiên vị” của Toà Thánh và của Giáo Hội công giáo, ngay từ khi thế chiến bắt đầu, phù hợp với địa vị là cha chung của mọi người và yêu thương mọi con cái như  nhau “không phân biệt quốc tịch cũng như tôn giáo”. Ngài cũng nhắc lại mọi sáng kiến đã đưa ra giúp hoà giải các phe lâm chiến sau 3 năm chết chóc đẫm máu và tàn phá, khiến cho Âu châu có nguy cơ đi tới một cuộc tự tử đích thật” . Tuy đã không bỏ qua khả thể nào, và không ngừng khích lệ các dân tộc và các chính quyền lâm chiến tái trở lại là anh em với nhau, nhưng rất tiếc tất cả mọi cố gắng của Toà Thánh đã vô ích. Ngay cuối năm thứ nhất Toà Thánh đã tha thiết khích lệ và kêu gọi cũng như đề ra con đường phải theo  để đạt tới một nền hoà bình ổn định và xứng đáng cho tất cả mọi người, nhưng rất tiếc lời kêu gọi đã không được lắng nghe: chiến tranh đã tiếp diễn thêm hai năm nữa với tất cả các kinh hoàng của nó: lan tràn ra trên đất liền, trên biển khơi, và cả trên không trung nữa, khiến cho các thành phố, làng mạc và dân chúng vô tội phải sống cảnh tang thương và chết chóc. Chẳng lẽ thế giới văn minh này phải trở thành cánh đồng chết hay sao? Chẳng lẽ Âu châu vinh quang tươi nở phong phú lại bị đảo lộn bởi một sự điên loạn đại đồng biến thành vực thẳm và đi tới một việc tự tử đích thật hay sao?

 

Không vì các đường lối chính trị đặc biệt nào, cũng không phải vì sự gợi ý hay lợi lộc của các phe phái lâm chiến nào, nhưng chỉ vì ý thức bổn phận của vị cha chung của các tín hữu, Toà Thánh lại lên tiếng kêu gọi hoà bình và lập lại lời kêu gọi nồng nhiệt các vị nắm trong tay vận mệnh các quốc gia dân tộc, đưa ra các đề nghị cụ thể hơn và mời gọi các chính quyền và dân tộc lâm chiến thỏa hiệp với nhau trên các điểm sau đây để đạt một nền hoà bình công bằng và lâu dài.

Điểm nền tảng là phải thay thế sức mạnh vật chất của vũ khí bằng sức mạnh luân lý của quyền lợi. Vì thế cần có một thoả hiệp công bằng giữa tất cả mọi phiá  trong việc giảm thiểu đồng loạt các vũ khí, theo các điều lệ và bảo đảm cần thiết định trong mức độ cần thiết, nhằm duy trì trật tự công cộng trong từng quốc gia, bằng cách chấp nhận cơ cấu trọng tài có nhiệm vụ bảo hoà theo các điều lệ cần cùng nhau đưa ra và các trừng phạt chống lại quốc gia nào vi phạm và đặt để các vấn đề quốc tế cho sự phân xử hay chấp nhận quyết định của việc phân xử đó.

Ngoài ra cần phải tái mở các đường giao thông và bảo đảm việc tự do đi lại của các dân tộc. Điều này sẽ loại trừ nhiều lý do xung khắc và mở ra cho mọi người các nguồn phong phú và tiến bộ mới.

Liên quan tới các thiệt hai và chi phí chiến tranh cần có điều lệ tổng quát tha nợ hoàn toàn cho nhau. Điều này được biện minh bởi các lợi ích vô biên của việc giải trừ võ trang. Nhất là thật vô lý tiếp tục cuộc tàn sát chỉ vì các lý do thuộc trật tự kinh tế. Tuy nhiên, các thoả hiệp hoà bình này với các lợi thế vô cùng phát sinh từ đó sẽ không thể thực hiện được, nếu không trả lại cho nhau các vùng đất đã chiếm hiện nay. Từ phía Đức phải rút lui toàn bộ khỏi nước Bỉ, bảo đảm sự độc lập hoàn toàn của nó trên bình diện chính trị, quân sự và kinh tế trước bất cứ cường quốc nào khác, cũng như rút lui khỏi đất Pháp. Từ phiá đối lập cũng phải trả lại cho Đức các vùng đất của họ. Liên quan tới các vấn đề tranh chấp đất đai giữa Italia và Áo, giữa Đức và Pháp, vì các lợi ích to lớn của một nền hoà bình lâu dài, các phiá liên hệ cần duyệt xét với tinh thần hoà giải, chú ý tới các khát vọng của các dân tộc, trong mức độ công bằng và có thể, và phối hợp các lợi lộc riêng với các lợi lộc chung của gia đình nhân loại.

Tinh thần bình đẳng và công bằng đó cũng phải hướng dẫn việc xem xét tất cả các vấn đề đất đai và chính trị khác liên quan tới Armenia, các quốc gia vùng Balcan và các nước thuộc vương quốc Ba Lan xưa kia, mà các truyền thống lịch sử cao quý và các khổ đau phải chịu đặc biệt trong cuộc chiến này, phải có được cảm tình của các quốc gia khác.

** Kết luận thư gửi hàng lãnh đạo các quốc gia lâm chiến Đức Biển Đức XV khẳng đinh rằng đó là các nền tảng quan trọng đối với tương lại của các dân tộc. Chúng cho phép không lập lại các xung khắc tương tự nữa, và chuẩn bị giải pháp cho vấn đề kinh tế vô cùng quan trọng đối với tương lai và hạnh phúc vật chất của tất cả mọi quốc gia lâm chiến. Toà Thánh hy vọng rằng các đề nghị này sẽ được chấp thuận để chấm dứt mau chóng chừng nào có thể các chống đối kinh khủng này, mà mỗi ngày qua đi đều cho thấy nó là một tai ương vô ích. Ngoài ra tất cả đều thừa nhận  rằng danh dự của quân đội được cứu thoát phía bên này cũng như phía bên kia. Vì thế xin hãy lắng nghe lời cầu xin của chúng tôi, xin hãy tiếp nhận lời mời gọi hiền phụ mà chúng tôi gửi tới quý vị nhân danh Chúa Cứu Thế, Hoàng Tử Hoà Bình. Xin hãy nghĩ tới trách nhiệm vô cùng nặng nề của quý vị trước mặt Thiên  Chúa và loài người. Từ các quyết định của quý vị tuỳ thuộc sự thanh bình và niềm vui của biết bao nhiêu gia đình, cuộc sống của hàng ngàn người trẻ, và chính hạnh phúc của các dân tộc mà quý vị có quyền tuyệt đối mang lại. Xin Chúa gợi hứng cho quý vị có các quyết định phù hợp với ý muốn rất thánh của Ngài, và khiến cho quý vị xứng đáng với lời khen ngợi của hiện tại và bảo đảm cho quý vị tên gọi là những người tạo dựng hoà bình bên các thế hệ tương lai.

Về phần chúng tôi, trong khi sốt sắng hiệp nhất trong lời cầu nguyện và trong hãm mình với mọi linh hồn tín hữu ngưỡng vọng hoà bình, chúng tôi khẩn nài Thiên Chúa ban cho quý vị ánh sáng và cố vấn.

Nhưng rất tiếc mọi lời kêu gọi và  nỗ lực của Đức Biển Đức XV và Toà Thánh đã không đem lại kết quả nào. Đệ nhất thế chiến đã tiếp tục với các hậu quả thê thảm của nó trên các dân tộc kitô Âu châu. Những đổ vỡ, chết chóc, tàn phá thương đau đã hằn sâu trong con tim của các dân tộc lâm chiến, và sẽ là các lý do của thế chiến thứ hai, khiến cho hơn 71 triệu người chết trong đó có hơn 22,5 triệu binh sĩ, và hơn 48, 5 triệu thường dân.

Với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ nhiều năm qua, với các tai ương thiên nhiên và nạn khủng bố phá hoại cũng như khuynh hướng ái quốc quá khích và cuộc nổi dậy của hằng trăm nhóm phiến quân hồi vũ trang đó đây trên thế giới, với bầu khí căng thẳng giữa các quốc gia, đặc biệt là giấc mộng chế tạo các vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn, các tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc, Hoà Kỳ, Nhật Bản, Úc Ấn Độ và các quốc gia vùng Đông Nam Á, các trừng phạt của Mỹ và Liên Hiệp Âu châu đối với Liên Bang Nga, chúng ta bắt buộc phải tự hỏi liệu thế giới có thoát khỏi Đệ Tam Thế Chiến và chiến tranh nguyên tử hay không?

Linh Tiến Khải

Tổng thống Hàn quốc cho phép viện trợ nhân đạo cho Bắc hàn

Tổng thống Hàn quốc cho phép viện trợ nhân đạo cho Bắc hàn

Seoul – Đức cha Hyginus Kim Hee-joong, đặc sứ của tổng thống Moon Jae-in, đến Vatican kỷ niệm 70 năm quan hệ ngoại giao giữa Hàn quốc và Tòa thánh đã trở về nước và báo cáo với tổng thống các tin tức về cuộc yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hôm thứ tư, 24/05, trong cuộc yết kiên, Đức cha Kim đã trao cho Đức Thánh Cha Phanxicô lá thư của tổng thống Hàn quốc, trong đó tổng thống khẳng định ý muốn đối thoại với Bắc hàn bất chấp những hành động khiêu khích liên tục của ông Kim Jong-un, lãnh đạo Bắc hàn. Ông cũng xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho Nam hàn để những liên hệ với cộng sản Bắc hàn được tốt hơn.

Đức cha Kim cho biết Đức Thánh Cha bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đối với Hàn Quốc và Giáo Hội tại nước này. Đức Thánh Cha mời tổng thống Hàn quốc sang thăm Vatican, là nơi mà ông sẽ luôn được chào đón.

Tổng thống Moon đã dấn thân cho việc mở lại kênh ngoại giao với Bắc hàn. Trong cuộc tìm kiếm đối thoại với Bình Nhưỡng, tổng thống đã quyết định đảm bảo sự hợp tác của các tổ chức nhân đạo và tôn giáo, cho phép họ thực hiện các dự án viện trợ miền Bắc.

Các liên lạc trái phép với Bắc hàn hoặc các cuộc thăm viếng có thể bị phạt tù. Tuy nhiên, những ngày này, Bộ trưởng Bộ Thống nhất Hàn quốc đã bật đèn xanh cho các dự án viện trợ nhân đạo đầu tiên. Điều duy nhất giới hạn là các dự án cứu trợ nhân đạo này không thể không tôn trọng các biện pháp trừng phạt quốc tế chống lại Bắc hàn. (Asia News 30/05/2017)

Hồng Thủy

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

Đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật 22.01.2017: Hãy theo Tôi!

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 22.01.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giê-su để cộng tác với Người trong sứ mạng cứu độ, nhất là đem Tin Mừng đến những vùng ngoại biên. Đức Thánh Cha nói:

Hôm nay Tin Mừng (x. Mt 4,12-23) kể lại cho chúng ta về khởi đầu việc rao giảng của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê. Người rời khỏi ngôi làng Na-za-ret và đến ở thành Ca-phac-na-um. Đây là một thành trung tâm quan trọng thuộc miền duyên hải, là nơi sinh sống của hầu hết là người ngoại, và là điểm giao nhau giữa Địa Trung Hải và miền Lưỡng Hà. Khi Chúa chọn lựa như thế, có nghĩa là Người không chỉ rao giảng cho người đồng hương của mình, mà Người còn rao giảng cho biết bao người khác nữa tại Galilê “miền đất của dân ngoại” (x. Mt 2,15 và Is 8,23). Nếu nhìn từ thủ đô Giê-ru-sa-lem thì Galilê là vùng ngoại vi và là vùng đất người ta sống pha trộn với đầy những người ngoại đạo, những người không thuộc về dân It-ra-en. Từ Galilê người ta đã chẳng mong đợi gì nhiều từ lịch sử cứu độ. Thế mà chính từ đây lại bừng lên “ánh sáng”: ánh sáng ấy chính là Chúa Kitô. Ánh sáng ấy tỏa lan khởi đi từ vùng ngoại vi.

Sứ điệp của Chúa Giê-su chính là loan báo Nước Trời (Mt 4,17). Vương quốc này không phải là việc thiết lập một quyền lực chính trị mới, nhưng là hoàn tất giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Đó chính là thiết lập nền hòa bình và công lý. Để thực hiện giao ước với Thiên Chúa, mọi người được mời gọi để biến đổi tâm trí và cuộc sống. Điều này rất quan trọng: biến đổi không chỉ có nghĩa là thay đổi cách sống mà còn là thay đổi cách nghĩ. Đó là cuộc biến đổi tâm trí. Đây không phải là chuyện thay đổi theo kiểu thay áo, mà là thay đổi thói quen.

Điều làm nên sự khác biệt giữa Chúa Giê-su và Gio-an Tẩy Giả chính là phong cách và phương pháp. Chúa Giê-su chọn lựa cách thế của một ngôn sứ luôn rảo bước. Chúa không chờ đợi người ta đến với mình, nhưng Chúa chủ động đến gặp họ. Chúa luôn luôn rảo bước trên những con đường. Sứ vụ đầu tiên là Chúa đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê và tiếp xúc với dân chúng, đặc biệt là các ngư dân. Chúa không chỉ loan báo về Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Chúa còn đi tìm bạn đồng hành trên con đường thực thi sứ mạng cứu độ. Ở đó, Chúa đã gặp hai bộ anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Chúa gọi các ông rằng: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Tiếng gọi đã chạm tới họ trong cái đời thường của cuộc sống: Chúa đã tỏ mình cho chúng ta không phải trong những chuyện giật gân hoặc đặc biệt nhưng chính trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ở đó chúng ta tìm thấy Chúa và ở đó Chúa tỏ hiện chính Ngài cho chúng ta, và chúng ta cảm nhận được tình yêu của Ngài trong trái tim chúng ta. Ở đó có cuộc đối thoại với Chúa trong chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Ở đó Chúa biển đổi tâm hồn chúng ta.

Hôm ấy, bốn người ngư phủ đã đáp lại ngay lập tức và rất sẵn sàng. Tin Mừng kể lại: “Lập tức, họ bỏ chài lưới và đi theo Người” (Mt 4,20). Chúng ta biết rằng họ là các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả và nhờ lời chứng của Gio-an mà họ bắt đầu tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a (x. Ga 1,35-42).

Chúng ta, những Kitô hữu thời nay, vui mừng loan báo và làm chứng cho đức tin của chúng ta, vì đã có những người môn đệ đầu tiên ấy với đầy can đảm và khiêm tốn mà quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su. Khó mà tưởng tượng được, chính bên bờ hồ ở vùng đất Ga-li-lê mà cộng đoàn đầu tiên của các môn đệ Chúa Kitô được sinh ra. Suy tư về sự khởi đầu này sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta trong việc đem Lời Chúa, tình yêu và sự dịu hiền của Chúa đến mọi hoàn cảnh, cho dù là khó khăn vất vả. Đó là đem Lởi Chúa đến tất cả các vùng ngoại vi! Mọi hoàn cảnh cuộc sống đều là mảnh đất để hạt giống Tin Mừng có thể gieo vãi, và để mang lại ơn cứu độ.

Xin Mẹ Maria cầu thay nguyện giúp chúng ta để chúng ta có thể đáp lại lời mời gọi của Chúa Giê-su, đó chính là dấn thân vào việc phục vụ Nước Thiên Chúa.

Tứ Quyết SJ

Thông cáo chung sau khóa họp thứ sáu Tòa Thánh và Việt Nam

Thông cáo chung sau khóa họp thứ sáu Tòa Thánh và Việt Nam

khoa-hop-thu-6-cua-phai-doan-toa-thanh-va-viet-nam

VATICAN. Chiều ngày 26-10-2016, phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam đã kết thúc khóa họp thứ 6 của Nhóm Làm Việc Chung (Tổ Công Tác chung) sau 3 ngày tiến hành tại Vatican.

Thông cáo chung phổ biến sau đó khẳng định rằng:

”Thực thi thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ thứ 5 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh tại Hà Nội (tháng 9-2014), cuộc gặp gỡ thứ 6 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã diễn ra tại Vatican từ ngày 24 đến 26-10-2016. Cuộc gặp gỡ do hai vị đồng chủ tọa là Ông Bùi Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao thường trực của Bộ ngoại giao, trưởng phái đoàn Việt Nam, và Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng phái đoàn Tòa Thánh.

Hai bên đã trao đổi sâu rộng quan điểm về quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, kể cả những vấn đề liên quan đến Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.

Phía Việt Nam tái khẳng định sự cải tiến liên tục và cụ thể trên bình diện lập pháp và chính trị liên hệ tới sự thăng tiến và bảo vệ tự do tín ngưỡng và tôn giáo của các công dân, cũng như sự khuyến khích và liên tục tạo điều kiện dễ dàng cho sự dấn thân tích cực của Giáo Hội Công Giáo trong chính nghĩa quốc gia phát triển xã hội và kinh tế.

Tòa Thánh, khi tái khẳng định tự do của Giáo Hội trong việc thi hành sự mạng của mình để mưu ích cho toàn thể xã hội, đã bày tỏ sự hài lòng với chính phủ Việt Nam vì đã quan tâm đến các nhu cầu của Giáo Hội Công Giáo, như việc khánh thành Học Viện Công Giáo mới đây và giúp tổ chức các buổi lễ và các biến cố quan trọng của Giáo Hội.

Hai bên thỏa thuận rằng Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam sẽ tiếp tục lấy hứng từ giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến việc thực hành ”sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” và đồng thời là các tín hữu Công Giáo tốt và công dân tốt. Trong khi tái khẳng định rằng ĐGH Phanxicô nồng nhiệt quan tân đến sự phát triển các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, Tòa Thánh cầu mong cộng đồng Công Giáo có thể tiếp tục cống hiến sự đóng giúp quí giá bằng cách cộng tác với các tác nhân khác trong xã hội Việt Nam, và phù hợp với luật pháp liên hệ, để phát triển đất nước và thăng tiến công ích.

Hai bên nhìn nhận sự tiến bộ trong quan hệ Việt Nam – Tòa Thánh, kể cả những tiếp tục và tham khảo đều đặn, trao đổi các phái đoàn cấp cao, và những cuộc viếng thăm thường xuyên tại Việt Nam của Đại diện Tòa Thánh và Đặc Phái Viên không thường trú, Đức TGM Leopoldo Girelli.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong bầu không khí thân mật, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau.

Hai bên thỏa thuận duy trì một cuộc đối thoại xây dựng, trong một tinh thần thiện chí với mục đích gia tăng sự cảm thông lẫn nhau và thăng tiến thêm các quan hệ giữa hai bên. Hai bên đã đồng ý triệu tập cuộc gặp gỡ thứ 7 của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh tại Hà Nội. Ngày gặp gỡ sẽ được thỏa thuận qua đường ngoại giao.

Trước khi lên đường trở về Việt Nam, phái đoàn Việt Nam đã viếng thăm ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin, và Đức TGM Ngoại trưởng Paul Gallagher. Phái đoàn Việt Nam cũng viếng thăm một vài tổ chức tôn giáo của Tòa Thánh.

 (Trần Đức Anh OP chuyển ý) 

Khóa họp thứ 6 của Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

Khóa họp thứ 6 của Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam

khoa-hop-thu-6-cua-phai-doan-toa-thanh-va-viet-nam

VATICAN. Phái đoàn Nhà cầm quyền Việt Nam sẽ đến Vatican để làm việc với Phái đoàn Tòa Thánh từ ngày 24 đến 26-10-2016.

Trong thông cáo công bố hôm 22-10-2016 tại Vatican, Ông Greg Burke, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết:

”Như thỏa thuận, trong những ngày 24 đến 26-10 tới đây, sẽ diễn ra tại Vatican cuộc gặp gỡ thứ 6 của Nhóm Làm Việc (Tổ Công Tác) giữa Tòa Thánh và Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt nam, để phát triển và đào sâu các quan hệ song phương. Phái đoàn Tòa Thánh sẽ do Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ trưởng ngoại giao, làm trưởng đoàn; Phái đoàn Việt Nam sẽ do Ông Bùi Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao hướng dẫn”.

G. Trần Đức Anh OP 

Chương trình chuyến công du của ĐTC tại Georgia và Azerbaigian

Chương trình chuyến công du của ĐTC tại Georgia và Azerbaigian

ĐTC chào các trẻ em Pháp nghèo hành hương Roma

VATICAN: Sáng hôm 11 tháng 7 năm 2016 qua Toà Thánh đã công bố chương trình chuyến viếng thăm mục vụ Cộng hòa Giorgia và Azerbaigian của ĐTC trong các ngày từ 30 tháng 9 tới mùng 2 tháng 10.

Lúc 9 giờ sáng thứ sáu 30 tháng 9 ĐTC ra phi trường Fiumicino lấy máy bay sang thủ đô Tbilisi của Giorgia. Sau lễ nghi tiếp đón ĐTC viếng thăm xã giao tổng thống cộng hoà Giorgia rồi gặp gỡ các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao  đoàn trong sân dinh tổng thống. Tiếp đến ĐTC gặp gỡ Đức Catholicos Elia II Thượng Phụ toàn Giorgia trong Toà Thượng Phụ, rồi gặp gỡ cộng đoàn Assiro canđê rong nhà thờ công giáo thánh Simon thợ nhuộm.

Thứ bẩy mùng 1 tháng 10 ĐTC dâng thánh lễ tại vận động trường Meskhi, rồi gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ trong nhà thờ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tiếp theo đó ĐTC gặp gỡ các nhân viên các trung tâm bác ái, các bệnh nhân và người tàn tật trước sân trung tâm bác ái của các tu sĩ dòng Camilliani, rồi ngài viếng thăm nhà thờ chính toà Svietyskhoveli Mskheta.

Ngày Chúa Nhật mùng 2 tháng 10 lúc 8 giờ sáng ĐTC từ giã cộng hoà Georgia để bay sang Baku thủ đô cộng hoà Azerbaigian. Sau lễ nghi tiếp đón ĐTC chủ sự thánh lễ trong nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội của Trung tâm dòng Salesien, rồi dùng bữa trưa với cộng đoàn. Vào ban chiều ngài viếng thăm tổng thống và gặp gỡ các giới chức chính quyền trong trung tâm “Heydar Aliyev”. Tiếp đến ngài gặp Sceicco của người Hồi vùng Caucase tại đền thờ “Heydar Aliyev”, rồi gặp gỡ ĐGM chính thống Baku và vi chủ tịch công đoàn Do thái. Sau đó ĐTC ra phi trường lấy máy bay trở về Roma (SD 11-7-2016)

Linh Tiến Khải

Linh đạo phu thê và gia đình theo Tông huấn Niềm Vui Yêu Thương

Linh đạo phu thê và gia đình theo Tông huấn Niềm Vui Yêu Thương

Joy of love 2

Trong chương IX, là chương cuối cùng của Tông huấn “Niềm Vui Yêu Thương”, ĐTC Phanxicô khai triển đề tài “Linh đạo  hay nền tu đức phu thê và gia đình”, các số từ 313 tới 325.

Mở đầu ĐTC viết: Tình bác ái có nhiều sắc thái khác nhau, tuỳ theo tình trạng cuộc sống mỗi người đã được mời gọi. Liên quan tới việc tông đồ của giáo dân, cách đây vài thập niên Công Đồng Chung Vatican II  đã nêu bật nền tu đức hay linh đạo phát xuất từ gia đình. Công Đồng khẳng định rằng “linh đạo của giáo dân phải có một diện mạo đặc biệt”, cả từ “tình trạng của hôn nhân và của gia đình” nữa và các lo lắng của gia đình không được là một cái gì  xa lạ với kiểu sống thiêng liêng của chúng. Vì thế, thật đáng công dừng lại một chút để miêu tả vài đặc thái nền tảng của linh đạo chuyên biệt này được phát triển trong năng động  các tương quan của cuộc sống gia đình (s. 313).

Linh đạo của sự hiệp thông siêu nhiên  

Chúng ta đã luôn luôn nói tới việc Thiên Chúa ở trong trái tim người sống trong ơn thánh Ngài. Ngày nay chúng ta cũng có thể nói rằng Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ của sự hiệp thông hôn nhân. Cũng như Ngài ở trong các lời chúc tụng của dân Ngài (x. Tv 22,4), Thiên Chúa sống một cách thân tình trong tình yêu phu thê làm vinh danh Ngài (s. 314).

Sự hiện diện của Chúa sống trong gia đình là sự hiện diện thực sự và cụ thể, với tất cả các khổ đau, chiến đấu, niềm vui và các dự tính thường ngày. Khi người ta sống trong gia đình, nơi khó mà có thể giả bộ và nói dối, chúng ta không thể cho thấy một mặt nạ. Nếu tình yêu linh hoạt sự chân thành ấy, Chúa ngự ở đó với niềm vui và sự bình an của Ngài. Linh đạo của tình yêu gia đình đuợc làm thành bởi hàng ngàn cử chỉ thực sự và cụ thể. Trong sự khác biệt của các ơn và các cuộc gặp gỡ khiến cho sự hiệp thông chín mùi ấy, Thiên Chúa có chỗ riêng của Ngài. Sự tận hiến này hiệp nhất các giá trị nhân bản và các gia trị thiên linh, bởi vì nó tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Một cách vĩnh viễn linh đạo hôn nhân là một nền tu đức  của mối dây được tình yêu của Thiên Chúa ở trong đó (s. 315).

Một sự hiệp thông gia đình được sống tốt đẹp là một lộ trình thánh hóa trong cuộc sống thường ngày và của sự trưởng thành thần bí, một phương thế  giúp kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Thật vậy, các nhu cầu huynh đệ và cộng đoàn của đời sống gia đình là một dịp để luôn luôn mở rộng con tim, và điều này khiến cho cuộc gặp gỡ với Chúa luôn luôn tràn đầy hơn. Lời Chúa nói với chúng ta rằng “ai ghét anh em mình thì bước đi trong tối tăm” (1 Ga 2,11), “ở trong sự chết” (1 Ga 3,14), và “đã không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8). Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Biển Đức XVI đã nói rằng “nhắm mắt trước người lân cận cũng là nhắm mắt trước Thiên Chúa”, và rằng tình yêu nói cho cùng là ánh sáng duy nhất luôn luôn chiếu soi trở lại một thế giới tối tăm. Chỉ nếu chúng ta yêu nhau, Thiên Chúa mới ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài toàn hảo nơi chúng ta” (1 Ga 4,12). Vì bản vị con người có một chiều kích cấu trúc xã hội bẩm sinh, và vì kiểu diễn tả đầu tiên và nguyên thuỷ của chiều kích xã hội của con người là cặp vợ chồng và gia đình, linh đạo được nhập thể trong sự hiệp thông gia đình. Vì thế, những người có các ước mong thiêng liêng sâu thẳm không được cảm thấy rằng gia đình làm cho họ xa rời việc lớn lên trong cuộc sống của Thần Khí, nhưng nó là một lộ trình, mà Chúa dùng để đem họ tới các đỉnh cao của sự kết hiệp thần bí (s. 316).

Hiệp nhất trong lời cầu dưới ánh sáng của lễ Phục Sinh 

Nếu gia đình thành công trong việc tập trung nơi Chúa Kitô, thì Chúa hiệp nhất và soi sáng toàn cuộc sống gia đình. Các khổ đau được kinh nghiệm trong hiệp thông với Thập Giá của Chúa, và việc ôm lấy Ngài cho phép chịu đựng những lúc tệ hại hơn. Trong các ngày cay đắng của gia đình có một sự hiệp nhất với Chúa Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh được một sự đổ vỡ. Các gia đình đạt tới sự thánh thiện của chúng qua cuộc sống hôn nhân từ từ với ơn của Chúa Thánh Thần, cả bằng cách tham dự vào mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô, là mầu nhiệm biến đổi các khó khăn và khổ đau thành của lễ tình yêu. Đàng khác, các lúc tươi vui, nghỉ ngơi hay mừng lễ, và cả tính dục được sống như một tham dự vào cuộc sống tràn đầy của sự Phục Sinh. Với các cử chỉ khác nhau thường ngày các cặp vợ chồng trao ban hình thái cho không gian đối thần, trong đó có thể sống kinh nghiệm sự hiện diện thần bí của Chúa phục sinh (s. 317).

Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu tiên giúp diễn tả và củng cố niềm tin phục sinh này. Mỗi ngày có thể tìm ra vài phút để hiệp nhất trước mặt Chúa hằng sống, nói với Ngài các điều khiến cho chúng ta âu lo, cầu nguyện cho các nhu cầu gia đình, cầu nguyện cho ai đó đang phải trải qua một lúc khó khăn, xin Ngài trợ giúp để yêu thương, cảm tạ Ngài vì sự sống và những điều tốt lành, xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta với áo choàng của Mẹ. Với các lời đơn sơ, lúc cầu nguyện này có thể đem lại rất nhiều thiện ích cho gia đình. Các diễn tả lòng đạo đức bình dân khác nhau là một kho tàng tu đức đối với nhiều gia đình.

Con đường cộng đoàn của lời cầu nguyện đạt tột đỉnh trong việc cùng tham dự bí tích Thánh Thể, đặc biệt trong bối cảnh của ngày nghỉ Chúa Nhật. Chúa Giêsu gõ cửa gia đình để chia sẻ với nó Bữa Tiệc Chiều. Ở đó các cặp vợ chồng luôn luôn có thể đóng ấn giao ước phục sinh đã kết hiệp họ với nhau và phản ánh Giao Ước, mà Thiên Chúa đã đóng ấn với nhân loại trên Thập Giá. Thánh Thể là bí tích của Giao Ước Mới, trong đó hiện thực hành động cứu độ của Chúa Kitô. Như vậy được ghi nhận các mối dây ràng buộc sâu đậm hiện hữu giữa cuộc sống hôn nhân và Thánh Thể. Lương thực Thánh Thể là sức mạnh và kích thích giúp sống giao ước hôn nhân mỗi ngày như “Giáo hội tại gia” (s. 318).

Linh đạo của tình yêu triệt để và tự do – Trong hôn nhân người ta cũng sống ý thức hoàn toàn tùy thuộc một người duy nhất. Các cặp vợ chồng chấp nhận thách đố và ngưỡng vọng cùng nhau già đi và tự tiêu hao, và như thế họ phản ánh lòng trung thành của Thiên Chúa. Quyết định vững vàng này ghi dấu một kiểu sống, là một đòi buộc nội tâm của khế ước tình yêu phu  thê, bởi vì người không quyết định yêu thương luôn mãi, thì cũng khó mà có thể yêu thương một cách chân thành dù chỉ một ngày. Nhưng điều này không có ý nghĩa thiêng liêng, nếu đó chỉ là một luật được sống với sự chịu trận. Nó là một sự tuỳ thuộc của con tim, ở nơi chỉ Thiên Chúa trông thấy (x. Mt 5,28).

Mỗi sáng khi thức dậy, chúng ta canh tân trước Thiên Chúa quyết định này của lòng trung thành, cho dù có gì xảy ra trong cuộc sống đi nữa. Và mỗi người khi đi ngủ, chờ đợi thức dậy để tiếp tục cuộc phiêu lưu này, bằng cách tín thác nơi sự trợ giúp của Chúa. Như thế, mỗi một người phối ngẫu là dấu chỉ và dụng cụ sự gần gũi của Chúa cho người khác. Chúa là Đấng không bao giờ bỏ chúng ta cô đơn: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế” (Mt 28,20) (s. 319).

Có một điểm, trong đó tình yêu lứa đôi đạt sự giải thoát tột đỉnh và trở thành một không gian  của sự tự lập lành mạnh: đó là khi mỗi người khám phá ra rằng người kia không phải là của mình, nhưng có một chủ nhân quan trọng hơn rất nhiều, là Chúa duy nhất của họ. Không ai có thể yêu sách chiếm hữu sự thân tình cá nhân nhất và bí ẩn nhất của người được yêu, và chỉ có Ngài có thể chiếm chỗ trung tâm cuộc sống của họ. Đồng thời nguyên lý của sự thực tế tinh thần khiến cho người phối ngẫu không yêu sách người khác phải thoả mãn các đòi hỏi của mình một cách hoàn toàn. Con đường thiêng liêng của từng người – như Dietrich Bonhoeffer đã chỉ cho thấy – cần phải giúp họ tháo gỡ ảo tưởng của người khác, thôi chờ đợi từ người đó điều chỉ là riêng tư của tình yêu Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi một sự lột bỏ nội tâm. Khoảng không gian triệt để, mà mỗi người phối ngẫu dành cho tương quan cá nhân của mình với Thiên Chúa, không chỉ cho phép chữa lành các vết thương của cuộc chung sống, mà cũng cho phép tìm ra trong tình yêu của Thiên Chúa ý nghĩa cuộc đời mình nữa. Chúng ta cần khẩn nài hoạt động của Chúa Thánh Thần mỗi ngày để sự có thể có được sự tự do nội tâm này. (s. 320).

Sau khi khai triển các tiểu đề: linh đạo của sự hiệp thông siêu nhiên, hiệp nhất trong lời cầu nguyện dưới ánh sáng phục sinh và linh đạo của tình yêu triệt để và tự do, ĐTC Phanxicô đề cập tới linh đạo của việc săn sóc, ủi an và kích thích trong cuộc sống hôn nhân và gia đình.

Ngài viết: Các đôi vợ chồng kitô là những cộng sự viên của ơn thánh và là các chứng nhân của đức tin đối với nhau, đối với con cái và tất cả các thành phần khác trong gia đình. Chính vì thế mà gia đình luôn luôn là “nhà thương gần nhất”. Chúng ta hãy săn sóc nhau, nâng đỡ nhau, khích lệ nhau và hãy sống tất cả những điều đó như là phần của linh đạo gia đình. Cuộc sống lứa đôi là một sự tham dự vào công trình phong phú của Thiên Chúa, và mỗi một người là một khiêu khích của Thần Khí đối với người khác. Tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả qua các lời nói sống động và cụ thể, qua đó người nam và người nữ nói lên tình yêu phu thê của họ với nhau. Như vậy, với nhau cả hai là các phản ánh tình yêu của Thiên Chúa, củng cố với lời nói, cái nhìn, sự trợ giúp, vuốt ve và vòng tay ôm. Do đó, muốn thành lập một gia đình là có can đảm làm thành phần giấc mơ của Thiên Chúa, can đảm mơ tưởng với Ngài, can đảm xây dựng với Ngài, can đảm cùng Ngài bước vào lịch sử này, xây dựng một thế giới, trong đó không có ai cảm thấy cô đơn (s. 321).

Tuy nhiên, cuộc sống gia đình là một “đồng cỏ” nhân từ. Mỗi người cẩn thận vẽ và viết trong cuộc sống của người khác: “Thư của chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết trong tâm hồn chúng tôi… không phải với mực, mà với Thần Khí của Thiên Chúa.” (2 Cr 3,2-3). Mỗi một người là một “kẻ chài lưới người” (Lc 5,10), thả lưới nhân danh Chúa Giêsu (x, Lc 5,5) đối với các người khác, hay một nông phu làm việc trong thửa đất tươi mát là những người thân của mình, bằng cách khích lệ điều tốt nhất của họ.

Sự phong phú hôn nhân bao gồm việc thăng tiến, vì yêu một người là chờ đợi từ họ một cái gì đó không thể định nghĩa được, không thể thấy trước được; đồng thời cống hiến cho họ, trong một cách thế nào đó,  phương tiện giúp đáp trả lại sự chờ đợi ấy. Điều này là một việc phụng tự đối với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Đấng đã gieo vãi nhiều điều tốt lành nơi các người khác trong niềm hy vọng rằng chúng ta làm cho chúng lớn lên (s. 322).

Thật là một kinh nghiệm thiêng liêng chiêm ngắm một người thân với đôi mắt của Thiên Chúa, và nhận ra Chúa Kitô nơi họ. Điều này đòi hỏi một sự sẵn sàng nhưng không, cho phép đánh giá cao phẩm giá của họ. Ta có thể hiện diện một cách tràn đầy trước người khác, nếu ta tự trao ban chính mình mà không hỏi tại sao, bằng cách quên đi tất cả mọi sự chung quanh. Như thế người được yêu xứng đáng với tất cả sự chú ý. Chúa Giêsu đã là một mẫu gương, bởi vì khi có ai đó đến gần nói chuyện với Ngài, Ngài nhìn họ với tình yêu mến (x. Mc 10,21). Trước sự hiện diện của Ngài không có ai cảm thấy mình bị lơ là, bởi vì các lời nói và cử chỉ của Chúa diễn tả câu hỏi này: “Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?” (Mc 10,51). Đây là điều ta sống trong cuộc sống thường ngày của gia đình. Trong đó chúng ta nhớ rằng người sống với chúng ta đáng được tất cả, vì họ có một phẩm giá vô tận, vì họ là đối tượng tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha. Như thế nở hoa sự dịu hiền, đến độ khơi dậy nơi người khác niềm vui cảm thấy mình được yêu. Nó đặc biệt biểu lộ trong việc êm dịu chú ý tới các hạn hẹp của người khác, đặc biệt khi chúng nổi lên một cách hiển nhiên (s. 323).

Dưới sự thúc đẩy của Thần Khí, hạt nhân gia đình không chỉ đón nhận sự sống bằng cách sinh ra nó trong lòng mình, nhưng rộng mở, ra khỏi chính mình để đổ trên thiện ích của các người khác, để săn sóc họ và kiếm tìm hạnh phúc của họ. Sự rộng mở này được diễn tả một cách đặc biệt trong việc hiếu khách, được Lời Chúa khích lệ một cách gợi cảm như sau: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết.” (Dt 13,2). Khi gia đình tiếp đón và gặp gỡ các người khác, đặc biệt là các người nghèo và bị bỏ rơi, nó là biểu tượng, chứng tá, sự tham dự vào chức làm mẹ của Giáo Hội.

Tình yêu xã hội, phản ánh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thực ra là  điều kết hiệp ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mệnh của nó bên ngoài chính nó, vì nó khiến cho lời rao giảng hiện diện với tất cả các đòi buộc cộng đồng của nó. Gia đình sống linh đạo đặc biệt của nó đồng thời bằng cách là một Giáo Hội tại gia và một tế bào sinh động hầu biến đổi thế giới (s. 324).

Các lời của Thầy (x, Mat 22,30) và các lời của thánh Phaolô (x. 1 Cr 7,29-31) liên quan tới hôn nhân, không phải vô tình mà được lồng vào trong chiều kích cuối cùng vĩnh viễn của cuộc sống chúng ta, mà chúng ta cần tái chiếm. Trong cách thế đó các cặp vợ chồng sẽ có thể nhận biết ý nghĩa con đường họ đang đi. Thật thế, như chúng ta đã nhắc tới nhiều lần trong Tông huấn, không có gia đình nào là một thực tại toàn thiện, và được chế tạo một lần cho luôn mãi, nhưng nó đòi hỏi một sự phát triển từ từ của khả năng yêu thương. Có một tiếng gọi liên lỉ đến từ sự hiệp thông tràn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự hiệp nhất tuyệt vời giữa Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài, từ cộng đoàn xinh đẹp là gia đình Nagiarét  và từ tình huynh đệ không tì ố hiện diện giữa các thánh trên trời. Tuy nhiên, chiêm ngắm sự tràn đầy mà chúng ta chưa đạt tới cũng cho phép chúng ta thôi đòi hỏi từ các tương quan liên bản vị một sự hoàn thiện, một sự trong sáng của các ý hướng  và một sự trung thực, mà chúng ta chỉ có thể tìm thấy trong Nước vĩnh cửu. Ngoài ra, nó ngăn cản chúng ta phán đoán với sự nghiêm ngặt những người sống trong các điều kiện của sự giòn mỏng lớn. Chúng ta tất cả được mời gọi duy trì sống động việc hướng tới một cái gì vượt quá chính mình và các hạn hẹp của mình, và mỗi một gia đình phải sống trong kích thích liên lỉ đó. Hỡi các gia đình, chúng ta hãy bước đi, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! Điều được hứa cho chúng ta luôn luôn hơn thế. Chúng ta đừng mất đi niềm hy vọng vì các hạn hẹp của chúng ta, nhưng cũng đừng khước từ kiếm tìm tình yêu và hiệp thông tràn đầy đã được hứa ban cho chúng ta.

Lời cầu nguyện với Thánh Gia 

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, nơi Chúa, Mẹ và Cha Thánh chúng con chiêm ngưỡng ánh quang rạng ngời của tình yêu chân chính, chúng con xin tín thác mình cho Ba Đấng.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin cũng làm cho các gia đình của chúng con trở thành nơi của sự hiệp thông và các nhà tiệc ly cầu nguyện, các trường học đích thật của Tin Mừng và các Giáo Hội nhỏ tại gia.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin cho trong các gia đình đừng bao giờ có các vụ bạo lực, khép kín và chia rẽ nữa; xin cho bất cứ ai bị thương tích hay bị gương mù gương xấu được mau ủi an và chữa lành.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin làm cho tất cả chúng con ý thức về tính cách thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình, của vẻ đẹp của nó trong chương trình của Thiên Chúa.

Lạy Giêsu Maria Giuse, xin lắng nghe chúng con và khấng nhận lời van nài của chúng con. Amen

Linh Tiến Khải

 

Xin cho các cơ mày đối thoại giữa đức tin Kitô và các dân tộc Á châu gia tăng

Xin cho các cơ mày đối thoại giữa đức tin Kitô và các dân tộc Á châu gia tăng

Trong tháng hai này ĐTC Phanxicô mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới cầu xin cho các cơ may đối thoại và gặp gỡ giữa đức tin kitô và các dân tộc Á châu gia tăng.

Trong 100 năm qua số tín hữu kitô trên thế giới giảm tại Âu châu nhưng gia tăng tại Á châu, từ 4% lên 13% và tại Phi châu, từ 2% lên 23% cũng như tại Châu Mỹ Latinh số kitô hữu gia tăng 10%. Hiện nay trên thế giới số kitô hữu được 2 tỷ, và Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới.

Riêng Giáo Hội Công Giáo từ năm 2005 tới 2013 có số giáo dân gia tăng 12% từ 1 tỷ 115 triệu lên 1 tỷ 254 triệu, nghĩa là gia tăng 139 triệu. Trong cùng thời gian đó dân số địa cầu từ 6 tỷ 463 triệu lên 7 tỷ 94 triệu người. Như thế số tín hữu công giáo trên toàn cầu từ 17,3% tăng lên 17,7%.

 Trong năm 2013 số tín hữu công giáo âu châu được 287 triệu gia tăng 6,5 triệu so với năm 2005. Trong khi số tín hữu công giáo tại Phi châu hồi năm 2005 là 153 triệu đã lên tới 206 triệu trong năm 2013, tức gia tăng 34%. Số tín hữu công giáo từ 17,1% tăng lên 19%.

Tại châu Mỹ số tín hữu công giáo tăng 10,5% và chiếm 63% tổng số dân, trong khi tại Á châu số tín hữu công giáo từ 2,9% trong năm 2005 tăng lên 3,2% trong năm 2013. Như thế số tín hữu công giáo Á châu nói riêng và số kitô hữu nói chung vẫn là thiểu số.

Ngày 17 tháng 8 năm 2014 trong chuyến viếng thăm Nam Hàn ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ các Giám Mục thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu, gồm 19 HDGM thuộc 27 nước và 9 thành viên liên kết không có HĐGM. Ngỏ lời chào ĐTC ĐHY Oswald Gracias, TGM Bom bay, chủ tịch Liên HĐGM Á châu đã nêu bật rằng 60% dân số toàn cầu sống tại Á châu. Á châu là một đại lục trẻ, trong đó đa số các dân tộc đều trẻ trung. Vì thế trong nhiều cách thế Á châu là nền tảng đối với tương lai của thế giới và tương lai của Giáo Hội. Tuy bản chất người dân Á châu là tôn giáo, nhưng bản chất ấy đang bị đe dọa trầm trọng bởi tinh thần tục hóa và duy vật. Tuy tâm hồn người dân Á châu coi sự sống là thánh thiêng, nhưng các đe dọa sự sống gia tăng. Tuy người dân á châu tìm kiếm và đánh gia cao cộng đoàn, nhưng ý thức này đang bị đe dọa bởi chủ thuyết cá nhân. Ngày Giới Trẻ Á châu đã cho thấy người trẻ Nam Hàn sinh động và hăng say chừng nào. Đại Hàn là một vùng đất, trong đó các giáo dân đã có một vai trò đặc biệt trong việc rao truyền Tin Mừng, và vì thế Đại hàn trở thành một mô thức cho nhiều Giáo Hội khác. Các Giám Mục Á châu cương quyết dấn thân làm cho con người của Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài ngày càng được hiểu biết, yêu mến và tin theo hơn. Các Giám Mục sẽ làm điều đó với lời nói, cuộc sống và công việc làm.

Ngỏ lời với các Giám Mục tại đền thánh Haemi, nơi 132 vị tử đạo Nam Hàn đã chết để làm chứng cho Chúa hồi thế kỷ XVIII, ĐTC Phanxicô đã khích lệ các Giáo Hội Á châu linh động và có óc sáng tạo trong việc làm chứng tá cho Tin Mừng, qua nỗ lực đối thoại và cởi mở đối với tất cả mọi người. Đây là thách đố lớn, vì trước hết nó đòi hỏi các kitô hữu Á châu ý thức sâu xa về căn tính của chính mình, có khả năng rộng mở tâm trí, có khả năng đặt mình vào trong tình trạng của người khác để hiểu họ và chân thành tiếp đón những người mà chúng ta nói chuyện với. Nếu chúng ta muốn thông truyền một cách tự do, cởi mở và hiệu quả với người khác, chúng ta phải biết rõ mình là ai, điều mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta và điều Chúa xin chúng ta. Và để cuộc đối thoại không trở thành cuộc độc thoại, các kitô hữu phải rộng mở tâm trí để chấp nhận các cá nhân và các nền văn hóa khác, mà không sợ hãi, vì sợ hãi là kẻ thù của các rộng mở.

 

Tuy nhiên, vì là những người tội lỗi tín hữu có thể gặp nhiều chướng ngại cản ngăn việc thực hiện chứng tá này. Trước hết là ánh sáng loé mắt của khuynh  hướng tương đối hóa làm lu mờ ánh quang chân lý và suy yếu căn tính kitô. Thứ hai là khuynh hướng hời hợt bề ngoài, chạy theo các mốt thời thượng, các thứ vô ích ít giá trị và các lo ra, thay vì tập trung vào những gì thực sự quý báu. Đây là cám dỗ thường xuyên của nền văn hoá để cao cái phù du mau qua và cống hiến nhiều nơi giải trí và chạy trốn thực tại. Nếu không đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô và các chân lý, kitô hữu có nguy cơ bị gẫy gập, biến việc thực thi nhân đức thành duy hình thức, và biến việc đối thoại trở thành một hình thức thương thuyết hay thoả hiệp về những bất đồng. Cám dỗ thứ ba mà kitô hữu có thể gặp phải là cái an ninh bề ngoài nấp sau các câu trả lời dễ dàng, có sẵn, các luật lệ hay điều khoản. Trái lại, việc đối thoại đòi buộc phải đi ra khỏi chính mình, tìm cách làm cho người khác hiểu mình, làm nảy sinh ra chứng tá và sứ mệnh. Trong nghĩa này đức tin khiến cho chúng ta có khả năng vừa can đảm vừa khiêm tốn trong chứng tá hy vọng và yêu thương. Căn tính kitô của chúng ta là vĩnh viễn dấn thân chỉ thờ lậy Thiên Chúa, yêu thương nhau, phục vụ nhau và qua gương sống cho thấy chúng ta tin gì và hy vọng gì, và ai là Đấng chúng ta đặt lòng tin tưởng. Đó là điều mà chúng ta được mời gọi chia sẻ môt cách chân thành, liêm chính, không kiêu căng, qua việc đối thoại của cuộc sống thường ngày, đối  thoại của tình bác ái và trong tất cả các dịp có thể. Căn tính kitô phong phú, vì nó liên tục nảy sinh và được dưỡng nuôi bằng ơn thánh cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa và các thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nó đem lại hoa trái của công lý, lòng nhân hậu và hoà bình. Căn tính kitô đó được thể hiện trong các chương trình mục vụ cho giới trẻ, trong việc phục vụ người nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, và trong các nỗ lực vun trồng ơn gọi linh mục tu sĩ.

Trong cuộc đối thoại thách đố lớn là đặt mình vào trong tình trạng của người khác để hiểu điều họ muốn thông truyền nhưng không nói ra bằng lời, liên quan tới các kinh nghiệm, các khó khăn, niềm hy vọng, các ước mong thầm kín trong tim của họ. Chúng ta phải có cái nhìn thiêng liêng và kinh nghiệm cá nhân để nhìn các người khác như anh chị em, và lắng nghe vượt ngoài các lời nói và hành động điều con tim họ ước mong thông truyền cho chúng ta. Trong nghĩa này việc đối thoại đòi hỏi phải có một tinh thần chiêm niệm đích thực: tinh thần chiêm niệm, cởi mở và tiếp đón tha nhân. Khả năng đặt mình vào trong tình trạng của người khác khiến cho chúng ta có khả năng đối thoại một cách nhân bản, trong đó các lới nói, các tư tưởng và các vấn nạn vọt lên từ một kinh nghiệm của tình huynh đệ và tính nhân bản chia sẻ… Việc dấn thân đối thoại được xây nền trên chính cái luận lý việc nhập thể của Chúa Giêsu: trong Ngài chính Thiên Chúa đã trở thành một người trong chúng ta, đã chia sẻ cuộc sống của chúng ta và đã nói thứ ngôn ngữ của chúng ta. Khi nhìn vào đại lục Á châu với diện tích đất đai rộng rãi, với các nền văn hóa và các truyền thống cổ xưa, chúng ta ý thức được rằng trong chương trình của Thiên Chúa, các cộng đoàn kitô của anh em thực sự là một đoàn chiên nhỏ, nhưng được giao phó cho sứ mệnh đem ánh sáng Tin Mừng cho tới tận cùng bờ cõi trái đất.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng hai  này hiệp ý với ĐTC và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho các cơ may đối thoại và gặp gỡ giữa đức tin kitô và các dân tộc Á châu gia tăng.

(Ý chỉ truyền giáo tháng 2-2016)

Linh Tiến Khải

Đức Hồng Y Reinhard Marx bị cấm đến giáo phận Vinh: Tuyên truyền ngược thực tế?

Đức Hồng Y Reinhard Marx bị cấm đến giáo phận Vinh: Tuyên truyền ngược thực tế?

Đức Hồng Y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức

Đức Hồng Y Reinhard Marx, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đã bị chính quyền Việt Nam từ chối không cho phép đi thăm Giáo phận Vinh trong chuyến thăm Việt Nam hồi tuần rồi mà không giải thích lý do. Sự kiện mới nhất liên quan đến mối bang giao quốc tế một lần nữa làm dấy lên quan ngại về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Chuyến thăm Việt Nam của Đoàn Hội đồng Giám mục Đức diễn ra từ ngày 9 – 16/1, theo lời mời của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Trong buổi tiếp Đoàn Hội đồng Giám mục Đức hôm 11/1, ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được VTV dẫn lời nói “trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện để đồng bào Công giáo có điều kiện tham gia phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng mong muốn Đức Hồng Y Reinhard Marx, người đứng đầu Đoàn Hội đồng Giám mục Đức, “có tiếng nói” nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa Việt Nam và CHLB Đức cũng như Tòa thánh Vatican.

Theo đề nghị trong văn thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 23/12/2015, Đoàn Hội đồng Giám mục Đức sẽ đến thăm một số giáo phận tại Việt Nam, trong đó có Giáo phận Vinh. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã đưa ra công văn không chấp nhận cho Đoàn Hội đồng Giám mục Đức đến thăm giáo phận này mà không nêu rõ lý do.

Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh, nhận xét về vụ việc:

“Trên nguyên tắc hay trên tuyên truyền, Nhà nước hay thông tin chính thức thì nói Việt Nam có tự do tôn giáo, nhưng những chuyện nho nhỏ trên thực tế nhiều khi lại cho người dân thấy là phải chăng có điều ngược lại?”.

Trong thư gửi cho Ban Tôn giáo Chính phủ – Bộ Nội vụ Việt Nam, Tòa Giám mục Vinh đã yêu cầu cơ quan này giải thích rõ lý do từ chối, đồng thời nhắc nhở về việc tôn trong quyền tự do tôn giáo mà Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã ghi nhận. Nhưng cho đến nay, Tòa giám mục Vinh vẫn chưa nhận được câu trả lời nào từ Ban Tôn giáo Chính phủ.

Giáo phận Vinh từ trước tới nay vốn bị xem là một trong những “điểm nóng” tôn giáo tại Việt Nam.

Trong thời gian qua, nhiều vụ cưỡng chế đất đại của các giáo xứ trong Giáo phận Vinh do chính quyền địa phương thực hiện đã gặp phải sự phản kháng dữ dội của các giáo dân. Đây cũng là nơi có nhiều giáo dân Công giáo thường xuyên bị tấn công và đàn áp vì phát biểu chính kiến hay nói lên sự thật.

Gần đây nhất là vào ngày 31/12/2015, Linh mục Đặng Hữu Nam của Giáo xứ Phú Yên đã bị một nhóm côn đồ hành hung trên đường trở về nhà xứ sau khi đi khám bệnh, trước sự chứng kiến của công an. Linh mục Đặng Hữu Nam là người đã từng lên tiếng đòi công lý cho 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt và bỏ tù, hay việc bảo vệ đất đai của Giáo hội Công giáo, ủng hộ các hoạt động nhân quyền.

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican gần đây được đánh giá là có nhiều cải thiện. Chính quyền Việt Nam lần đầu tiên cho phép Giáo hội Công giáo mở Học viện Công giáo sau nhiều năm cấm đoán. Các giới chức Việt Nam gần đây cũng đến Vatican để tăng cường quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề trên thực tế đã gây trở ngại không ít cho sự tiến triển trong mối quan hệ này.

Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài 8 ngày, Đức Hồng Y Marx khẳng định: “Không một tổ chức chính trị hay kinh tế nào có thể xâm hại tự do tôn giáo”.

Vị Hồng Y người Đức cũng đã có cuộc gặp với các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm ở SàiGòn, nơi nhà cầm quyền cũng đang cưỡng chế giải tỏa các trường học của nhà dòng để làm đường đi cho các dự án xây dựng hiện nay, mà không có sự đền bù thỏa đáng.

Đức Hồng Y Reinhard Marx năm nay 63 tuổi, là một trong 9 thành viên của Ủy ban cải cách, cố vấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ông cũng là điều phối viên của Hội đồng Kinh tế Tòa thánh và là Chủ tịch Ủy ban các Giám mục thuộc Cộng đồng châu Âu.

Khánh An-VOA

Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Pope at opening mass of the Synod

Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình và Kinh Truyền Tin

Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 4-10-2015 ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ đồng tế trọng thể khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về gia đình trong Đền Thờ Thánh Phêrô.

Cùng đồng tế có 314 vị gồm các Nghị Phụ và các cộng sự viên, trong đó có 71 Hồng Y, 7 Thượng Phụ, 2 Tổng Giám Mục Trưởng, 72 Tổng Giám Mục, 102 Giám Mục và 58 Linh Mục. Tham dự thánh lễ có khoảng 10,000 tín hữu và du khách hành hương. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc trong các thứ tiếng Tầu, Tây Ban Nha, A rập, Bồ Đào Nha và Swahili: cầu cho Giáo Hội biết chiêm ngắm và giữ gìn công trình sáng tạo của Thiên Chúa; cho các nghị phụ được Chúa Thánh Thần soi sáng trợ lực trong nhiệm vụ hướng dẫn tín hữu theo Chúa Kitô; cho các nhà lập pháp và giới lãnh đạo biết thăng tiến công ích, công lý và hòa bình; cho giới trẻ và những người đính hôn khám phá ra vẻ đẹp của sự nhưng không, lòng trung thành và sẵn sàng hy sinh và tha thứ; cho các gia đình bị thử thách đau khổ đuợc ơn thánh Chúa an ủi, được các anh chị em khác và các cơ cấu trợ giúp. Đã có 70 linh mục và phó tế giúp ĐTC cho tín hữu rước lễ.

Cộng đoàn đã hát kinh cầu các Thánh xin các vị bầu cử cho Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra tốt đẹp như ý Chúa muốn.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ 27 thường niên năm B, tập trung trên ba đề tài: thảm cảnh sự cô đơn của con người, tình yêu giữa người nam và người nữ, và gia đình. ĐTC nói: Trong vuờn Địa Đàng Thiên Chúa để cho Adam đặt tên cho mọi thụ tạo, nhưng con người cảm thấy cô đơn, vì không tìm ra một sự trợ giúp tương xứng với mình (St 2,20). Sự cô đơn là thảm cảnh của biết bao nhiêu người ngày nay: người già bị bỏ rơi bởi cả con cái và những người thân trong gia đình; những người goá bụa; biết bao nhiêu người bị chồng hay vợ bỏ rơi; biết bao nhiêu người cảm thấy cô đơn, không được hiểu biết và lắng nghe; những người di cư tỵ nạn chạy trốn chiến tranh và bách hại; biết bao ngưởi trẻ, nạn nhân của nền văn hóa tiêu thụ, dùng rồi vất bỏ và của nền văn hóa loại trừ. ĐTC nhận xét thế giới ngày nay như sau:

Ngày nay, người ta sống sự mâu thuẫn của một thế giới toàn cầu hóa, trong đó chúng ta trông thấy biết  bao chỗ ở xa hoa và các nhà chọc trời, nhưng càng ít hơi ấm của mái nhà và gia đình; biết bao nhiêu dự án tham vọng, nhưng ít thời giờ để sống điều đã được thực hiện; biết bao nhiêu phương tiện giải trí tân tiến vượt  bực, nhưng càng nhiều sự trống rỗng trong con tim hơn; biết bao nhiêu thú vui, nhưng ít tình yêu; biết bao nhiêu tự do, nhưng ít tự lập. Càng ngày càng có nhiều người cảm thấy cô đơn, nhưng cũng có người khép kín trong ích kỷ, trong buồn chán, trong bạo lực tàn phá, hay trong nô lệ thú vui và thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta cũng sống kinh nghiệm của Adam xưa kia: biết bao nhiêu quyền lực bị đi kèm bởi biết bao nhiêu cô đơn và dễ mang thương tích. Và gia đình là hình ảnh phán chiếu thực tại đó. Người ta luôn ngày càng ít nghiêm chỉnh hơn trong  việc tiếp tục một tương quan tình yêu vững chắc và phong phú: trong lúc khỏe mạnh cũng như trong bệnh tật, trong lúc giầu có cũng như khi nghèo túng, trong may mắn cũng như trong rủi ro. Tình yêu bền bỉ, trung thành, ý thức, ổn định và phong phú ngày càng bị chế nhạo hơn, và bị coi như đổ cổ. Xem ra các xã hội tân tiến lại là các xã hội có số sinh thấp và có nhiều vụ phá thai, ly dị, tử tử và ô nhiễm môi sinh và xã hội hơn.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: “Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một sự trợ giúp tương xứng vói nó” (St 2,18). Các lời này của Chúa chứng minh cho thấy không có gì khiến cho trái tim của một người hạnh phúc như một trái tim giống trái tim của nó. Chúng cũng chứng minh rằng Thiên Chúa đã không tạo dựng con người để nó sống trong buồn chán hay ở một mình, nhưng để nó sống hạnh phúc, chia sẻ con đường của mình với một người khác bổ túc cho nó, để nó sống kinh nghiệm tình yêu tuyệt vời: nghĩa là để được yêu và để thấy tình yêu của mình phong phú nơi con cái, như nói trong thánh vịnh (Tv 128). Trả lời câu hỏi bẫy sập liên quan tới luật ly dị được đưa ra, Chúa Giêsu  đưa tất cả trở về nguồn gốc việc tạo dựng, để dậy rằng Thiên  Chúa chúc phúc cho tình yêu nhân loại, chính Ngài kết hiệp các con tim trong sự hiệp nhất và bất khả phân ly. Điều này có nghĩa là tình yêu hôn nhân không chỉ là sống với nhau, nhưng là yêu nhau luôn mãi.

“Như thế con người không thể phân rẽ điều Thiên Chúa đã kết hợp”. Đây là một khích lệ tín hữu thắng vượt mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa và vụ luật lệ, che dấu một sự ích kỷ hà tiện và một nỗi sợ hãi  gắn bó với ý nghĩa đích thực của lứa đôi và tính dục nhân bản trong chương trình của Thiên Chúa.  Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng sự điên dại của tình yêu nhưng không phục sinh của Chúa Giêsu mới có thể hiểu được sự điên dại tình yêu hôn nhân nhưng không duy nhất cho tới chết.

ĐTC ghi nhận rằng con người ngày nay tuy thường chế nhạo chương trình ấy của Thiên  Chúa, nhưng lại cảm thấy bị lôi cuốn hấp dẫn bởi mọi tình yêu chân thật, vững vàng, phong phú, trung thành và vĩnh cửu. Nó chạy theo các tình yêu tạm bợ, các thú vui xác thịt, nhưng mơ ước tình yêu đích thật, và ước mong tận hiến hoàn toàn. Các thú vui bị cấm hết hấp dẫn khi được phép.

Tiếp đến ĐTC đã khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội và hôn nhân này Giáo Hội được mời gọi  sống sứ mệnh của mình trong sự trung thành, trong chân lý và bác ái. Trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu bảo vệ tình yêu trung tín, và khích lệ các gia đình sống hôn nhân biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa; bảo vệ sự thánh thiêng của mọi sự sống; bảo vệ sự hiệp nhất và tính bất khả phân ly của hôn nhân. Sống sứ mệnh trong chân lý, không chạy theo các mốt mau qua và các ý kiến thống trị. Sống sứ mệnh trong bác ái không chỉ tay phán xử người khác, nhưng trung thành với bản chất là mẹ, tìm săn sóc  các cặp vợ chồng bị thương tích với dầu tiếp đón và thương xót; là bệnh xá chiến trường, với cánh cửa luôn luôn rộng mở tiếp đón bất cứ ai gõ cửa xin trợ giúp và nâng đỡ; đi ra khỏi chuồng chiên hướng tới những người khác với tình yêu chân thành để đồng hành với nhân loại bị thương tích và dẫn nó tới suối nguồn ơn cứu độ. “Phải luôn luôn lên án và chống lại sự sai lầm và sự dữ, nhưng người té ngã hay sai lầm  phải được thông cảm và yêu thương. Chúng ta phải yêu thương thời đại chúng ta và trợ giúp con người thời đại chúng ta”, như Thánh Gioan Phaolô II đã nói (Diễn văn nói với Phong trào Công Giáo Tiến Hành Italia, 30-12-1978: Giáo huấn I (1978),450)

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với 50,000 ngàn tín hữu và du khách hành hương. Đề cập tới công việc của các Nghị Phụ trong ba tuần nhóm họp Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ 14 ĐTC nói

Chúng tôi sẽ hướng cái nhìn dán chặt vào Chúa Giêsu để, dựa trên nền tảng giáo huấn chân lý và thương xót của Chúa, nhận ra các con đường thích hợp nhất cho dấn thân của Giáo Hội với và cho các gia đình, để chương trình ban đầu của Đấng Tạo Hóa đối với người nam và người nữ có thể hiện thực trong tất cả vẻ đẹp và sức mạnh của nó trong thế giới ngày nay.

Khi bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ và trở nên một thịt xác duy nhất, một sự sống duy nhất các cặp vợ chồng thông truyền sự sống cho các con người mới, trở thành cha mẹ và tham dự vào công trình và quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, và người ta chia sẻ công trinh của Ngài khi yêu thương với Ngài và như Ngài. Tình yêu mà Thiên Chúa đổ vào trong lòng chúng ta cũng là tình yêu được ban cho các cặp vợ chồng trong bí tích hôn nhân. Nó là tình yêu nuôi dưỡng tương quan của họ  trong những lúc  vui buồn sưóng khổ, thanh thản và khó khăn. Nó là tình yêu dấy lên ước muốn có con cái, chờ đợi, tiếp đón, nuôi nấng giao dục  chúng. Nó cũng chính là tình yêu mà Chúa Giêsu bầy tỏ cho các trẻ em.

ĐTC đã mời gọi mọi người cầu nguyện cho tất cả những người làm cha mẹ và các nhà giáo dục trên toàn thế giới để họ là các dụng cụ của sự tiếp đón và tình yêu của Chúa Giêsu. Ngài đặc biệt nghĩ tới các trẻ em đói khát, bị bỏ rơi, bị khai thác bóc lột, bị bó buộc tham chiến, bị khước từ. Thật là đau lòng trông thấy các hình ảnh trẻ em bất hạnh với cái nhìn lạc lõng, chạy trốn nghèo đói và xung khắc gõ cửa nhà và con tim của chúng  ta khẩn cầu trợ giúp. Xin  Chúa giúp chúng tra đừng là xã hội chiến lũy,  nhưng là xã hội gia đình có khả năng tiếp đón với các luật lệ thích hợp.

ĐTC cũng xin mọi người cầu nguyện cho các công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục để Chúa Thánh Thần khiến cho các Nghị Phụ ngoan ngoãn đối với các linh hứng của Ngài, qua lời bầu cử của Đức Bà Pompei mà hôm qua tại đền thánh tín hữu đọc lời kinh Khẩn nài Đức Bà Mân Côi. Ngài cũng chia buồn và cầu nguyện cho các nạn đất lở chôn vùi một làng bên Guatemala và nạn nhân bão lụt tại Côte D’ Azur của Pháp.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi linh mục Schoenstatt giúp các gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi linh mục Schoenstatt giúp các gia đình

ĐTC và các linh mục 09-04-2015

VATICAN. ĐTC kêu gọi các LM thuộc Tu hội Schoenstatt chăm sóc các gia đình và dành nhiều thời giờ hơn cho việc giải tội nhân dịp Năm Thánh Lòng thương xót.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 3-9-2015 dành cho 50 tham dự viên tổng tu nghị của tu hội, dưới sự hướng dẫn của Cha Juan Pblo Catoggio người Argentina, tân bề trên Tổng Quyền.

Trong bài huấn dụ, ĐTC diễn giải ý nghĩa và nhắn nhủ các LM của tu hội Schoenstatt tăng cường việc chiêm niệm và đời sống phụng vụ, phục vụ đồng hành với tha nhân và sống tình huynh đệ linh mục. Rồi ngài chân thành xin các LM Schoenstatt: trước tiên hãy tháp tùng và chăm sóc các gia đình để họ sống một cách thánh thiện giao ước tình yêu và sự sống, nhất là những gia đình đang trải qua những lúc khủng hoảng hoặc khó khăn. Tiếp đến, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp đến, hãy dành nhiều giờ cho bí tích hòa giải. Ước gì trong các cộng đoàn của tu hội, anh em hãy trở thành những chứng nhân về lòng thương xót và dịu hiền của Thiên Chúa”.

Phong trào Schoenstatt do cha Josef Kentenich (1885-1968) người Đức sáng lập năm 1914 và đến năm 1965 thì tu hội đời các LM Schoenstatt được chính thức thành lập tại giáo phận Fulda bên Đức, rồi được Tòa Thánh công nhận năm 1988. (SD 3-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Một gia đình yêu mến Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thành phố

Một gia đình yêu mến Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thành phố

Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thánh phố

Trong cuộc sống kitô, các tương quan gia đình được biến đổi và nới rộng, như là cha mẹ thiêng liêng và anh chị em với nhau, và đặc biệt đối với những người cần trợ giúp, chúng ta đem tình yêu của Thiên Chúa Cha tới cho thế giới. Như thế chúng ta trở thành một phước lành, một dấu chỉ của hy vọng cho việc canh tân mọi tương quan xã hội. Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm cả một thành phố. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp của các gia đình.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư mùng 2 tháng 9 hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài đia đình và việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói: trong đoạn cuối của lộ trình giáo lý chúng ta duyệt xét kiểu gia đình sống trách nhiệm thông truyền đức tin bên trong và bên ngoài như thế nào. Trước tiên là vài kiểu diễn tả của Tin Mừng xem ra chống lại các dây liên lạc của gia đình và việc theo Chúa Giêsu. Chẳng hạn  các lời mạnh mẽ mà tất cả chúng ta đều biết và đã nghe: “ Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. (Mt 10,37-38). ĐTC giải thích lời Chúa nói như sau:

Dĩ nhiên với điều này Chúa Giêsu không muốn xóa bỏ điều răn thứ tư, là điều răn lớn nhất đối với con người. Ba điều răn đầu là trong tương quan với Thiên Chúa, điều răn thứ tư này liên quan tới con người. Và chúng ta cũng không thể nghĩ rằng, sau khi đã làm phép lạ đầu tiên cho đôi tân hôn làng Cana, sau khi đã thánh hiến mối dây hôn nhân giữa một nguời nam và một ngưòi nữ, sau khi đã trả lại cho cuộc sống gia đình các con trai con gái, Chúa lại đòi hỏi chúng ta phải vô cảm đối với các mối dây liên lạc ấy! Đây không phải là lời giải thích. Trái lại, khi Chúa Giêsu khẳng định quyền tối thượng của niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài không tìm ra so sánh nào khác ý nghĩa hơn các trìu mến gia đình. Và đàng khác, bên trong kinh nghiệm lòng tin và tình yêu của Thiên Chúa chính các liên hệ gia đình ấy được biến đổi, được tràn đầy một ý nghĩa lớn hơn và có khả năng vượt qua chính mình, để tạo dựng một chức làm cha làm mẹ rộng rãi hơn và tiếp nhận  như anh chị em những người sống ngoài lề mọi thứ tương quan.  Một ngày kia khi có người nói có mẹ và anh em Thầy tìm Thầy Chúa  Giêsu chỉ các môn đệ  Người và nói: “Đây là mẹ và là anh em tôi! Bởi vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh em, là chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3,34.35),

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sư khôn ngoan của các trìu mến không mua được, cũng không bán được, chúng là của hồi môn tốt nhất của thiên tài gia đình. Chính trong gia đình chúng ta học lớn lên trong bầu khí khôn ngoan của các trìu mến. Văn phạm của chúng người ta học được ở đó, nếu không sẽ khó mà học được nó. Đó chính là ngôn ngữ qua đó Thiên  Chúa làm cho tất cả mọi người hiểu mình.

Lời mời gọi đặt để các tưong quan gia đình trong lãnh vực vâng phục của đức tin và giao ước với Chúa không hạ nhục chúng, trái lại, che chở chúng và cởi trói chúng khỏi sự ích kỷ, giữ gìn chúng khỏi suy đồi, cứu chúng an toàn cho cuộc sống không chết. Việc luân lưu của một kiểu gia đình trong các tương quan nhân bản là một phước lành đối với các dân tộc: nó đem lại niềm hy vọng trên trái đất. Khi các yêu thương gia đình để cho mình trở về với chứng tá của Tin Mừng, chúng sẽ có khả năng làm những điều không thể tưởng tuợng nổi, khiến cho chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay các công trình Thiên Chúa, các công trình mà Thiên Chúa hoàn thành trong lịch sử, như các công trình Chúa Giêsu đã làm cho các người nam nữ, trẻ em mà Ngài đã gặp. Chỉ một nụ cười giật được một cách lạ lùng từ sự thất vọng của một trẻ em bị bỏ rơi, làm cho nó bắt đầu sống trở lại, giải thích hành động của Thiên Chúa trong thế giói hơn là hàng ngàn khảo luận thần học. Chỉ một người nam và một người nữ, có khả năng liều mình và hy sinh cho một đứa con của người khác, và không phải chỉ là cho con riêng mình, giải thích cho chúng ta biết các điều của tình yêu hơn nhiều nhà khoa học không hiểu chúng nữa. Và ở đâu có các yêu thương gia đình này, ở đó nảy sinh ra các cử chỉ này từ con tim, và chúng hùng hồn hơn các lời nói. Cử chỉ của tình yêu… Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Gia đình đáp trả lại lời kêu mời của Thiên Chúa trả lại việc cai quản thế giới cho giao ước của người nam và người nữ với Thiên Chúa. Anh chị em hãy nghĩ tới sự phát triển này của chứng tá ngày nay. ĐTC giải thích tư tưởng của ngài như sau:

Chúng ta hãy tưởng tượng rằng bánh lái  của lịch sử, của xã hội, của kinh tế, của chính trị, sau cùng được trao cho giao ước của người nam và người nữ, để họ cai quản nó với cái nhìn hướng tới thế hệ tưong lai. Các đề tài trái đất  và nhà ở, kinh tế và công ăn việc làm sẽ chơi một điệu nhạc rất khác!

Nếu bắt đầu từ Giáo Hội chúng ta trao ban trở lại sự chủ động cho gia đình lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa, chúng tra sẽ trở thành rượu ngon của tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ làm dậy men của Thiên Chúa!

Thật vậy, giao ưóc của gia đình với Thiên Chúa ngày nay được mời gọi chống lại sự sa mạc hóa của thành thị tân tiến. Nhưng các thành phố của chúng ta đã trở thành sa mạc vì thiếu tình yêu, vì thiếu nụ cuời. Biết bao nhiêu giải trí, biết bao nhiêu điều làm mất thì giờ, để làm cho cười, nhưng thiếu tình yêu. Nụ cười của một gia đình có khả năng chiến thắng sự sa mạc hóa các thành thị của chúng ta. Và đây là chiến thắng của tình yêu gia đình. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp này của các gia đình. Dự án cái tháp Babel xây dựng các nhà chọc trời không có sự sống. Thần Khí của Thiên  Chúa trái lại, làm nở hoa sa mạc (x, Is 32,15) Chúng ta phải ra khỏi các tháp ngà và các căn phòng bọc sắt của những người ưu  tú, để giao du với các căn nhà và các khoảng trống rộng mở cho các đám đông, rộng mở cho tình yêu của gia đình.

Sự hiệp thông của các đặc sủng – các đặc sủng được ban cho Bí tích hôn nhân và các đặc sủng được ban cho sự thánh hiến vì Nước  Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến tới trên con đường này, chúng ta đừng mất hy vọng. Nơi đâu có một gia đình sống tình yêu thương, gia đình đó có khả năng sưởi ấm con tim của tất cả một thành phố với chứng tá tình yêu của nó.

Xin anh chị em hãy cầu nguyện  cho tôi, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để có khả năng nhận biết và chịu đựng được các viếng thăm của Thiên Chúa. Thần Khí sẽ đem tới các xáo trộn tươi vui trong các gia đình kitô và thành phố của con người sẽ ra khỏi sự trầm cảm của nó!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương , đặc biệt đoàn hành hương đến từ Senegal có ĐC Paul Mamba GM Ziguinchor tháp tùng,  cũng như đoàn hành hương của Tổng Giáo Phận Libreville. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước Nigeria, Nhật Bản, Malaysia, cũng như đoàn hành hương giáo phận Innsbruck do ĐC Manfred Scheuer hướng dẫn hành hương Roma nhân kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các đại chủng sinh tham dự trại hè về nâng đỡ kinh tế cho Giáo Hội, các trẻ em mới lãnh phép Thêm Sức giáo phận Lucca do ĐC Castellani hướng dẫn.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gregorio Cả. Ngài cầu mong sự cao cả luân lý của thánh nhân giúp các bạn trẻ can đảm lựa chọn sự thiện; sự mạnh mẽ của thánh nhân nâng đỡ các người đau yếu vác thánh giá kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Kitô;  và sự gắn bó với Giáo Hội của thánh nhân trợ giúp các đôi tân hôn hiệp nhất trong tình yêu gia đình.

Buổi gặp gỡ đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

“Này là Máu Ta”

“Này là Máu Ta”

Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống, máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu ước.

Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi.

Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao ước cũ hay là Cựu ước.

Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.

Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.

Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.

Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.

Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục vụ đồng loại.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?

2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?

3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?

4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Mình Máu Thánh Chúa

Mình Máu Thánh Chúa

Dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và được đào luyện để trở thành dân riêng của Chúa. Một thứ giao kèo đã được thực hiện giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Thiên Chúa ban cho họ một lề luật quy định thái độ và cách sống của họ đối với Chúa, và của mọi người đối với nhau. Người Do Thái đã đồng thanh thề hứa xin thi hành mọi lời Chúa đã phán. Maisen lập bàn thờ và toàn dân cử hành nghi lễ ký kết giao ước với Thiên Chúa. Người ta giết bê để làm lễ tế. Máu bê một nửa được rưới trên bàn thờ, một nửa được rảy trên dân.

Ở đây lễ ký kết giao ước đã được thực hiện bằng máu bê. Và trong lịch sử của dân Chúa, giao ước này đã không được tuân giữ từ phía dân Ngài. Nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lòng yêu thương của Ngài. Và Ngài đã thực hiện một giao ước mới.

Nhưng lần này, giao ước được thiết lập không phải trong một nghi lễ, mà là bằng một cuộc sống. Lễ vật giao hoà không phải là chiên bò hay máu của chúng, mà là chính Con Thiên Chúa làm người, đã sống giữa con người, để mạc khải tình thương của Chúa đối với con người và cuối cùng đã đổ đến giọt máu cuối cùng không phải trên bàn thờ mà trên thập giá.

Tin Mừng của thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, lễ kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Nhưng chúng ta lại cũng có thể thấy được rằng cảnh tượng diễn ra không còn ở trong một nghi lễ mà là ở trong chính cuộc sống. Hay nói cách khác trong chính việc cử hành lễ Vượt Qua này, cái ý nghĩa thâm sâu nhất, cái nội dung đích thực của mọi nghi lễ được cử hành đang trở thành hiện thực.

Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống biến cố Vượt Qua, đang sống cuộc giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Cử chỉ của Chúa Giêsu, hãy cầm lấy bánh, hãy cầm lấy rượu, mang ý nghĩa là Mình Máu Ngài, nói lên cái chết của Ngài, một cái chết cho nhiều người mà đại diện là 12 môn đệ, đồng bàn với Ngài, nhưng cũng là những người sẽ chối Chúa, sẽ bỏ Chúa để thoát thân, những con người tội lỗi, yếu đuối như bao con người tội lỗi và yếu đuối khác. Nhưng với bữa tiệc ly trở thành tiệc Thánh Thể này, khi trao cho các môn đệ Mình Máu Ngài, Chúa Giêsu tự báo cho các môn đệ ơn tha thứ, ơn cứu thoát. Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa, các môn đệ lãnh nhận cho mình cuộc hy sinh của Chúa Giêsu và ơn cứu rỗi được dành cho con người.

Chính vì vậy mà sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nghĩa là sau khi các môn đệ đã có những cử chỉ bất trung, các ông vẫn có thể đồng bàn với Người. Sự đồng bàn ở đây có ý nghĩa của một sự giao hoà. Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử, đã không ngừng lặp lại cử chỉ này như Chúa Giêsu đã truyền dạy để tưởng nhớ đến Ngài. Nhưng không phải chỉ là một sự tưởng nhớ trong tưởng tượng, trong tình cảm, mà là trong chính cuộc sống bằng cách sống trọn vẹn ý nghĩa, nội dụng của nghi lễ mình làm.

Việc cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau trong nhà thờ để cử hành thánh lễ phải là điểm khởi đầu và kết thúc của một giai đoạn dấn thân. Nghĩa là thánh lễ được cử hành trong nhà thờ cần phải được nối tiếp trong cuộc sống và cuộc sống cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ chứ không được tách thánh lễ ra khỏi cuộc sống. Bởi đó chúng ta thực sự kéo dài thánh lễ trong cuộc sống bằng cách thực thi bái ái yêu thương hay chưa. Đồng thời chúng ta có biết gom góp những hy sinh của cuộc sống để dâng tiến trong thánh lễ hay chưa.

Sưu tầm

Cần trả lại danh dự cho hôn nhân và gia đình

Cần trả lại danh dự cho hôn nhân và gia đình

Cần trả lại cho hôn nhân và gia đình chỗ đứng danh dự

Cần trả lại cho hôn nhân và gia đình chỗ đứng danh dự. Sự kiện xã hội không đánh giá cao khế ước ổn định và truyền sinh của người nam và người nữ chắc chắn là một mất mát lớn đối với tất cả mọi người. Kitô hữu được mời gọi dấn thân say mê giữ gìn giao ước này của người nam và người nữ, cả khi họ là những người tội lỗi và bị thương tích, lẫn lộn và bị hạ nhục, mất tin tưởng và không chắc chắn.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40,000 tín hữa và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói trong bài giáo lý trước ngài đã suy tư về việc tạo dựng con người theo trình thuật chương thứ nhất sách Sáng Thế khẳng định rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh Ngài: “theo hình ảnh Ngài Thiên Chúa tạo dựng nên họ; nam nữ Ngài tạo dựng nên họ” (St 1,27). Trong bài giáo lý này ngài muốn suy tư về trình thuật thứ hai trong chương hai sách Sáng Thế. Ở đây sau khi tạo dựng trời và đất, Thiên Chúa “nắn ra con người với bụi đất và thổi sinh khí vào lỗ mũi con người và con người trở thành một sinh linh. Rồi Thiên Chúa đặt con người vào trong một ngôi vườn rất xinh đẹp để con người vun trồng và giữ gìn nó” (St 2, 15).

Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh ứng toàn Thánh Kinh, trong một lúc chỉ gợi lên hình ảnh của người nam, không có người nữ. Và Người gợi lên tư tưởng của Thiên Chúa, hầu như là tâm tình của Thiên Chúa là Đấng nhìn con người, quan sát Ađam một mình trong vườn: ông đẹp, đế vương… nhưng cô đơn. Và Thiên Chúa thấy rằng điều này không tốt: nó như là một sự thiếu thốn hiệp thông, một sự thiếu thốn cái tràn đầy. “Thiên Chúa nói: Không tốt và thêm: “Ta muốn làm cho con một sự trợ giúp tương xứng với con” (St 2,18).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Khi đó Thiên Chúa giới thiệu với con người mọi thú vật: con người cho mỗi thú vật một tên – và đây là một hình ảnh khác của quyền làm chủ của con người trên thụ tạo – nhưng con người không tìm thấy nơi bất cứ thú vật nào người khác giống nó. Sau cùng khi Thiên Chúa giới thiệu người nữ, người nam vui sướng nhận ra rằng thụ tạo đó và chỉ có nàng thôi, là phần của mình “xương từ xương tôi, thịt từ thịt tôi” (St 2,23). Sau cùng có một sự phản chiếu, một sự hỗ tương. Và khi một người – đây là một thí dụ giúp hiểu điều này – khi một người muốn giơ tay ra cho một người khác, thì phải có người khác trước mặt: nếu một người giơ tay ra và không có gì, không có ai, thì bàn tay ở đó, vì thiếu sự hỗ tương. Con người cũng thế, nó thiếu cái gì đó để đi tới sự toàn vẹn, nó thiếu sự hỗ tương. Và ĐTC định nghĩa người nữ như sau:

.Người nữ không phải là một “lập lại” của người nam; nhưng đến trực tiếp từ cử chỉ tạo dựng của Thiên Chúa. Thật ra hình ảnh “chiếc xương sườn” không diễn tả sự thấp kém hay sự lệ thuộc, nhưng trái lại, nó diễn tả rằng người nam và người nữ có cùng bản thể và bổ túc cho nhau. Họ cũng có sự hỗ tương này. Và sự kiện đó là – luôn luôn trong dụ ngôn – Thiên Chúa nắn ra người nữ trong khi người nam ngủ, nó nhấn mạnh rằng người nữ không phải là một thụ tạo của con người, nhưng là của Thiên Chúa. Nó cũng gợi lên một điều khác: để tìm người nữ và chúng ta có thể nói rằng để tìm thấy tình yêu nơi người nữ, để tìm ra người nữ, người nam phải mơ nàng trước và rồi tìm ra nàng.

Sự tin tưởng của Thiên Chúa đối với người nam và người nữ, mà Ngài giao phó trái đất cho họ, thật quảng đại, trực tiếp và trọn vẹn. Nhưng này đây kẻ dữ đưa vào trong tâm trí họ sự nghi ngờ, không tin và mất tin tưởng. Và sau cùng nó đi tới chỗ bất phục tùng lệnh truyền che chở họ. Họ rơi vào trong sự mê sảng của sự toàn năng làm ô nhiễm mọi sự và phá hủy sư hài hòa. Tất cả chúng ta nữa đã cảm thấy trong chính mình điều này biết bao lần. ĐTC quảng diễn thêm biến cố phạm tội của con người như sau:

Tội lỗi làm nảy sinh ra sự nghi ngờ và chia rẽ giữa người nam và người nữ. Tương quan của họ sẽ bị giăng bẫy bởi hàng ngàn hình thức thực hiện sai trái chức vụ và bắt phục tùng, rủ rê lừa dối và chuyên quyền hạ nhục nhau cho tới các hình thức thê thảm và bạo lực nhất. Lịch sử mang đầy các dấu vết của chúng. Chẳng hạn chúng ta hãy nghĩ tới các thái qúa tiêu cực của các nền văn hóa theo chế độ phụ hệ. Chúng ta hãy nghĩ tới nhiều hình thức đề cao nam giới, trong đó nữ giới bị coi như hạng hai. Chúng ta hãy nghĩ tới việc lèo lái và buôn bán thân xác nữ giới trong nền văn hóa truyền thông ngày nay. Nhưng chúng ta cũng hãy nghĩ tới nạn dịch mớí đây liên quan tới sự mất tin tưởng, chủ thuyết nghi ngờ, và cả thù nghịch đang lan tràn trong nền văn hóa của chúng ta – đặc biệt bắt đầu một thái độ nghi ngờ có thể hiểu được của các chị em phụ nữ – đối với một khế ước giữa ngưòi nam và người nữ có khả năng tinh luyện sự hiệp thông thân tình và giữ gìn phẩm giá của sự khác biệt.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Nếu chúng ta không tìm ra một phản ứng của sự thiện cảm đối với giao ước này, có khả năng che chở  các thế hệ mới khỏi sự mất tin tưởng và sự thờ ơ, thì con cháu chúng ta sẽ chào đời ngày càng bị mất gốc ngay từ trong lòng mẹ. Sự kiện xã hội không đánh giá cao khế ước ổn định và truyền sinh của người nam và người nữ chắc chắn là một mất mát lớn đối với tất cả mọi người. Chúng ta phải đưa hôn nhân và gia đình trở về chỗ danh dự của chúng. Và Thánh Kinh nói một điều hay đẹp: người nam tìm thấy người nữ. họ gặp gỡ nhau, và người nam phải bỏ điều gì đó để tìm thấy người nữ một cách trọn vẹn. Và vì thế người nam bỏ cha mẹ mình để đến với người nữ. Thật là đẹp! Điều này có nghĩa là bắt đầu một lộ trình. Người nam là tất cả cho người nữ và người nữ là tất cả cho người nam.

Như thế, việc giữ gìn giao ước này của người nam và người nữ, cả khi họ có là những người tội lỗi và bị thương tích, lẫn lộn và bị hạ nhục, mất tin tưởng và bị thương đi nữa, đối với tất cả chúng ta là một ơn gọi dấn thân say mê trong điều kiện ngày nay. Chính trình thuật về việc tạo dựng và tội lỗi, vào đoạn cuối của nó, trao ban cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: “Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ mình các áo quần bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Đó là một hình ảnh sự dịu dàng của Thiên Chúa đối với cặp vợ chồng tội lỗi khiến cho chúng ta ngạc nhiên há miệng. Đó là một hình ảnh của sự giữ gìn hiền phụ đối với cặp vợ chồng. Chính Thiên Chúa lo lắng và che chở kỳ công của Ngài.

ĐTC đã chào nhiều nhóm hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ là Canada và Hoa Kỳ, cũng như các nhóm và Tây âu, đặc biệt nhiều nhóm đến từ Pháp, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ai len, Phần Lan, Na Uy. Cũng có các nhóm đến từ Nam Phi, Australia, Trung quốc, Nhật Bản, hay từ châu Mỹ Latinh như Argentina, Mexico và Brasil.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói ngày hôm nay Giáo Hội cử hành lễ kính thánh Adalberto tử đạo cách đây hơn 1000 năm. Thánh nhân đã trở thành nền tảng của Giáo Hội và quốc gia Ba Lan. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng người là “một vị gợi hứng khôn sánh cho những ai xây dựng một Âu châu được canh tân trong lòng trung thành với các căn cội văn hóa và tôn giáo của mình.” Xin Thánh bổn mạng từ trời cao che chở và củng cố anh chị em trong đức tin và bầu cử cho quê hương anh chị em được hòa bình và phát triển thịnh vượng.

Với các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các nữ tu trẻ tham dự đại hội đào tạo của Liên hiệp các dòng nữ Italia, các tu sĩ dòng Thánh Tâm và các đại chủng sinh nhiều giáo phận Italia. ĐTC cầu chúc mọi người biết tươi vui làm chứng cho ơn gọi đã nhận lãnh và dấn thân rao truyền Tin Mừng.

Ngài cũng nhắc cho mọi người biết hôm qua là “Ngày bảo vệ Trái dất” và khích lệ mọi người biết nhìn thế giới với đôi mắt của Thiên Chúa Tạo Hóa. Trái đất là môi sinh và là ngôi vườn cần vun trồng. Uớc gì tương quan giữa con người với thiên nhiên không được hướng dẫn bởi lòng tham, việc lèo lái và khai thác, nhưng duy trì sự hài hòa thiên linh giữa các thụ tạo và thiên nhiên trong cái luận lý của sự tôn trọng và săn sóc để trái đất phục vụ mọi người kể cả các thế hệ tương lai.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắn nhủ mọi người biết noi gương Mẹ Maria sống Mùa Phục Sinh này bằng cách lắng nghe Lời Chúa và thực thi bác ái yêu thương, sống tươi vui như các môn đệ của Chúa Kitô phục sinh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Hồng Y Koch: trào lưu bài Do Thái gia tăng tại Âu Châu

Đức Hồng Y Koch: trào lưu bài Do Thái gia tăng tại Âu Châu

ZURICH. ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, bày tỏ lo âu vì trào lưu bài Do thái đang gia tăng tại Âu Châu.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho ”Nhật báo Chúa nhật” (Sonntagszeitung) số ra ngày 5-4-2015 tại Zurich, Thụy Sĩ, ĐHY Koch gọi sự gia tăng làn sóng bài Do thái là một ”tình trạng bi thảm” giữa lúc người ta đang nhìn lại trang sử đen tối về sự ngược đãi và bài người Do thái tại đại lục này. “Hiển nhiên là có nhiều người không học được điều gì từ quá khứ”.

 Đồng thời ĐHY Koch cũng nhấn mạnh rằng việc phê bình chính sách của Israel phải là điều có thể và không được đồng hóa việc phê bình này với xu hướng bài Do thái. ”Nếu người ta không phân biệt như thế thì sẽ cổ võ trào lưu bài Do thái thay vì bài trừ xu hướng này”.

 ĐHY Koch người Thụy Sĩ. Ngài mô tả quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và người Do thái là ”tốt”. Ngoài ra, cũng có nhiều người Do thái coi Giáo Hội Công Giáo là một đối tác đáng tin cậy trong cuộc chiến chống nạn bài Do thái”.

 Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Koch không loại trừ vấn đề có thể cung cấp võ khí để chống lại cái gọi là ”Nhà nước Hồi giáo”, IS. Ngài nói: ”Một vấn đề rất khó khăn đó là phải sử dụng phương thế nào để chống lại những hành động giết người của các dân quân Hồi giáo IS. Người ta cũng phải đồng trách nhiệm nếu chỉ đứng đó mà nhìn”.

 Theo ĐHY, để bảo vệ dân chúng và sự tự vệ chính đáng, người ta không thể loại bỏ trên nguyên tắc việc cung cấp võ khí. Nhưng cần phải làm sao để cứu xét kỹ vấn đề giao võ khí vào tay ai và điều gì sẽ xảy ra sau đó với những võ khí ấy” (KNA 5-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Giáo Hội không bao giờ bỏ rơi nhưng luôn săn sóc và chữa lành gia đình

Giáo Hội không bao giờ bỏ rơi nhưng luôn săn sóc và chữa lành gia đình

Giáo Hội là mẹ không bao giờ bỏ rơi gia đình, cả khi nó bị ngã qụy, mang thương tích và bị hành nhục trong biết bao nhiêu cách thế đi nữa. Cả khi nó rơi vào tội lỗi hay xa rời Giáo Hội, Giáo Hội sẽ luôn luôn làm tất cả dể tìm săn sóc và chữa lành, và mời gọi gia đình hoán cải và hoà giải gia đình với Chúa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 20,000 tín hữu và du khách hanh hương tham dự buổi tiếp kiên chung sáng thứ tư hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô. Chào mọi người ĐTC nói chúc anh chj em một ngày tốt, nhưng ngày hôm nay trời không đẹp lắm vì mưa. Ngài cũng mời mọi người vỗ tay chào các anh chị em bệnh nhân theo dõi buổi tiếp kiến trong đại thính đường Phaolô VI. Nghe tiếng vỗ tay yếu ớt ĐTC nói tay phải cầm dù thì khó vỗ tay lắm.

Như đã biết, hôm qua Giáo Hội cử hành lễ trọng Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. ĐTC tạm ngưng loạt bài giáo lý về gia đình để nói về ngày lễ này, nhưng trong một hình thái hơi đặc biệt của lời cầu nguyện. Ngài nói:

Thật vậy, ngày 25 tháng 3 Giáo Hội long trọng cử hành lễ Truyền Tin, khai mào mầu nhiệm Nhập Thể. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel viếng thăm thiếu nữ khiêm hạ thành Nagiarét và báo cho biết nàng sẽ thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Với lời loan báo đó Chúa soi sáng và củng cố đức tin của Đức Maria, cũng như người sẽ làm với chồng nàng là ông Giuse, để cho Đức Giêsu có thể sinh ra trong một gia đình nhân loại. Đây là điều rất hay đẹp: một cách sâu xa dường nào nó cho chúng ta thấy mầu nhiệm Nhập Thể như Thiên  Chúa đã muốn, không chỉ bao gồm  việc thụ thai trong lòng mẹ, nhưng cũng cho thấy việc tiếp đón trong một gia đình đích thật nữa. Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em chiêm ngắm vẻ đẹp của mối dây này, của sự chiếu cố của Thiên Chúa. Và chúng ta có thể cùng nhau làm nó bằng cách cùng nhau đọc Kinh Kính Mừng, là lời kinh trong phần đầu lấy lại các lời của Thiên Thần chào Đức Trinh Nữ. ĐTC và mọi người đã đọc Kinh Kính Mừng.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói khiá cạnh thứ hai là trong ngày lễ Truyền Tin nhiều nước trên thế giới cử hành Ngày cho sự sống. Chính vì thế cách đây 20 năm Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ký Thông điệp “Tin Mừng sự sống”. Để kỷ niệm biến cố này hôm nay tại quảng trường thánh Phêrô hiện diện nhiều thành viên các Phong trào bảo vệ sự sống. Trong Thông điệp Tin Mừng sự sống gia đình chiếm một chỗ trung tâm, trong nghĩa nó là cung lòng sự sống con người. Lời của vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi nhắc cho chúng ta nhớ rằng cặp vợ chồng được Thiên Chúa chúc phúc ngay từ đầu để làm thành một cộng đoàn tình yêu và sự sống, được giao phó cho sứ mệnh truyền sinh. Khi cử hành bí tích Hôn Phối, các cặp vợ chống kitô tự khiến cho mình sẵn sàng vinh danh phước lành đó trong suốt cuộc đời, với ơn thánh của Chúa Kitô. Về phía mình, Giáo Hội long trọng dấn thân  săn sóc gia đình nảy sinh từ đó, như là món qùa Thiên Chúa ban cho chính sự sống của nó, trong số phận tốt cũng như xấu: mối đây giữa Giáo Hội và gia đình là thánh thiêng và bất khả xâm phạm. ĐTC khẳng định thêm như sau:

Giáo Hội là mẹ không bao giờ bỏ rơi gia đình, cả khi nó bị ngã qụy, mang thương tích và bị hành nhục trong biết bao nhiêu cách thế đi nữa. Cả khi nó rơi vào tội lỗi hay xa rời Giáo Hội, Giáo Hội sẽ luôn luôn làm tất cả dể tìm săn sóc và chữa lành, và mời gọi gia đình hoán cải và hoà giải gia đình với Chúa.

Nếu đó là nhiệm vụ, thì rõ ràng là Giáo Hội  cần biết bao nhiêu lời cầu nguyện để có thể chu toàn sứ mệnh này trong mọi thời đại. Một lời cầu nguyện tràn đầy tình yêu đối với gia đình và sự sống. Một lời cầu nguyện biết vui với người vui, đau khổ với người đau khổ.

Vì thế cùng với các cộng sự viên của tôi chúng tôi đã nghĩ tới việc hôm nay đề nghị canh tân lời cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình. Chúng ta hãy phát động dấn thân này cho tới tháng 10 tới đây, khi sẽ diễn ra Thượng Hội Đồng Giám Mục bình thường dành cho gia đình. Tôi muốn rằng lời cầu nguyện này, cũng như toàn lộ trình của Thượng Hội Đồng Giám Mục, được linh hoạt bởi lòng từ bi của Mục Tử Nhân Lành đối với đoàn chiên, một cách đặc biệt các người và các gia đình, mà vì nhiều lý do đang “mệt mỏi, kiệt sức, như chiên không có người chăn” (Mt 9,36) Như vậy, được ơn thánh Chúa nâng đỡ và linh hoạt , Giáo Hội sẽ còn có thể  dấn thân hơn và hiệp nhất hơn trong chứng tá sự thật và tình yêu của Thiên Chúa và của lòng thương xót Ngài đối với các gia đình trên thế giới, không loại trừ gia đình nào, bên trong cũng như bên ngoài ràn chiên.

ĐTC nơi thêm trong bài huấn dụ: Tôi xin anh chị em đừng thiếu lời cầu nguyện của mình cho ý chỉ đó. Tất cả mọi người: Giáo Hoàng, các Hồng Y, Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, tất cả chúng ta đều được mời gọi cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng Giám Mục. Cần lời cầu nguyện chứ không cần các bép xép! Tôi mời cầu nguyện cả các người cảm thấy xa vắng hay không còn có thói quen cầu nguyện nữa. Lời cầu này cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình là thiện ích cho tất cả mọi người. Tôi biết là sáng nay đã được phát cho anh chị em một ảnh nhỏ, chắc hơi bị ươt một chút, mà anh chị em có trên tay. Tôi xin mời anh chị em giữ nó và đem nó theo trong mình, như thế trong các tháng tới anh chị em có thể năng đọc lời kinh này với sự nài nỉ thánh thiện, như Chúa Giêsu đã xin chúng ta. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau đọc lời cầu ấy:

“Lậy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, nơi các Ngài chúng con chiêm ngưỡng ánh quang của tình yêu chân thật, chúng con hưóng lên các Ngài với lòng cậy tin.

Ôi Thánh Gia Nagiarét, xin cũng hãy làm cho các gia đình của chúng con trở thành các nơi hiệp thông và các nhà tiệc ly cầu nguyện, các trường học Tin Mừng đích thực và các Giáo Hội tại gia nhỏ.

Lậy Thánh Gia Nagiarét, xin đừng bao giờ có kinh nghiệm bạo lực, khép kín và chia rẽ trong gia đình nữa: ước chi ai đã bị tổn thương hay bị gương mù gương xấu mau chóng biết hòa giải và chữa lành.

Lậy Thánh Gia Nagiarét, xin cho Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới có thể thức tỉnh nơi mọi người ý thức về tính cách thánh thiêng, bất khả xâm phạm của gia đình và vẻ đẹp của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Lậy Chúa Giêsu Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin hãy lắng nghe và nhận lời van nài của chúng con. Amen”.

ĐTC đã chào các tín hữu đến từ các nưóc Bắc Mỹ và Tây Âu, cũng như các doàn hành hương Qatar, Indonesia, Australia, Uruguay, Colombia, Argentina và Mêhicô. Ngài xin mọi người nhớ cầu nguyện nhiều cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình sẽ diễn ra vào tháng 10 năm nay. ĐTC cầu chúc chuyến hành hương về Roma củng cố đức tin và cuộc sống gia đình họ.

Ngỏ lời với đông đảo các đoàn hành hương Ý ĐTC đặc biệt chào Phong trào bảo vệ sự sống, các hiệp hội “Cùng Mẹ Maria bênh vực sự sống”, và “Hồng ân sự sống”, phong trào Cầu vồng Thánh Maria Sầu Bi”, ca đoàn nhà thờ chính toà Padova, đại diện câu lạc bộ “Các khu xóm đẹp nhất Italia” và các Câu lạc bộ sinh viên Italia.

ĐTC cũng chào các công nhân tỉnh Vibo Valentia đang phải sống giai đoạn kinh tế khó khăn. Hiệp ý với các can thiệp của ĐC Luigi Renzo, GM địa phương ngài bầy tỏ âu lo và sự gần gũi với các vấn đề của họ. ĐTC kêu gọi các giới hữu trách để cho luận lý của tình liên đới và công bằng chiến thắng cái luận lý của lợi nhuận. Con người và phẩm giá của nó phải là trung tâm của mọi vấn đề, đặc biệt vấn đề công ăn việc làm. Khi không có công ăn việc làm để có của nuôi thân, con người cũng mất đi phẩm giá của mình. Rất tiếc đây là thảm cảnh của thời đại chúng ta, đặc biệt là của người trẻ. Không có việc làm họ không có viễn tượng tương lai và có thể dễ dàng trở thành mồi ngon của các tổ chức tội phạm.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói trong Ngày lễ Truyền Tin chúng ta nhận ra trong mầu nhiệm này chương trình của Thiên Chúa làm cho chúng ta chia sẻ sự sống bất tử của Ngài và thái độ sẵn sàng quảng đại của Mẹ Maria tiếp nhận lời loan báo của thiên thần với lòng tin. ĐTC cầu chúc mọi người noi gương Mẹ Maria lớn lên trong thái độ sẵn sàng quảng đại đó đối với Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Guơng mặt và sự hiện diện của ngưỏi cha trong gia đình rất quan trọng đối với sự quân bình của con cái

Guơng mặt và sự hiện diện của ngưỏi cha trong gia đình rất quan trọng đối với sự quân bình của con cái

** Sự vắng bóng gương mặt của người cha trong cuộc sống của trẻ em và người trẻ tạo ra các thiếu sót và vết thương có thể rất trầm trọng. Xưa kia trong gia đình ngự trị khuynh hướng độc đoán, hay đàn áp: cha mẹ coi con cái như đầy tớ. Ngày nay xã hội xem ra là một xã hội mồ côi không cha, vì người cha vắng bóng trong cuộc sống của con cái.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ thứ tư hàng tuần trong đại thính dường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ ĐTC suy tư về gương mặt của người cha trong gia đình. Ngài nói:

Hôm nay chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi từ “cha”. Đó là một từ kitô hữu chúng ta yêu thích hơn mọi từ khác, bởi vì đó là tên mà Chúa Giêsu dã đậy chúng ta gọi Thiên Chúa. Ý nghĩa của từ này đã nhận được một sự sâu sắc mới chính từ kiểu Chúa Giêsu dùng để hướng về Thiên Chúa và biểu lộ tương quan đặc biệt của Người với Thiên Chúa. Mầu nhiệm sự thân tình của Thiên Chúa Cha, Con và Thần Khí do Chúa Giêsu mạc khải , là trung tâm đức tin kitô của chúng ta.

Cha là một từ phổ quát ai cũng biết. Nó ám chỉ một tương quan nền tảng mà thực tế cổ xưa như lịch sử con người. Tuy nhiên, ngày nay người ta đã đi tới chỗ khẳng định rằng xã hội chúng ta là một “xã hội không cha”. Nói cách khác, đặc biệt trong nền văn hóa tây phương, gương mặt của người cha một cách biểu tượng vắng bóng, bị biến mất, bị lấy mất. Ban đầu sự kiện được nhận thức như là một sự giải phóng: giải phóng khỏi người cha – chủ nhân, khỏi người cha như người đại diện cho luật lệ, bị áp đặt từ bên ngoài, khỏi người cha như kẻ kiểm soát hạnh phúc của con cái và như là chướng ngại vật của sự thoát ly và tự chủ của người trẻ. Thật thế, đôi khi trong các gia đình của chúng ta trong quá khứ đã ngự trị khuynh hướng độc đoán, trong vài trường hợp cả sự đàn áp nữa: cha mẹ đối xử với con cái như đầy tớ, không tôn trọng các đòi hỏi cá nhân sự trưởng thành của chúng; các người cha không trợ giúp con cái bước đi trên con đường của chúng trong tự do và lãnh các trách nhiệm riêng để xây dựng tương lai của chúng và của xã hội.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Và như thường xảy ra là người ta đi từ thái cực này sang thái cực khác. Vấn dề của chúng ta ngày nay xem ra không là sư hiện diện xâm lấn của các người cha, nhưng là sự vắng bóng, sự trốn tránh của người cha. Đôi khi các người cha tập trung nơi chính mình và việc hiện thực cá nhân mình tới độ quên cả gia đình. Và họ để trẻ em và người trê con cái họ một mình. Như là Giám Mục Buenos Aires tôi đã nhận ra cảm giác mồ côi mà người trẻ ngày nay sống. Giờ đây trong suy tư chung này về gia đình, tôi muốn nói với tất cả mọi cộng đoàn kitô rằng chúng ta phải chú ý nhiều hơn nữa: Sự vắng bóng gương mặt của người cha trong cuộc sống của trẻ em và người trẻ tạo ra các thiếu sót và vết thương có thể rất trầm trọng.

Và qủa thế, các lệch lạc của trẻ em và thanh thiếu niên một phần lớn có thể tìm ra trong sự thiếu sót này, thiếu sót các gương sống và các hướng dẫn uy tín trong cuộc sống thường ngày của chúng. Ý thức về sự mồ côi mà nhiều người trẻ sống sâu đậm hơn là chúng ta tưởng nghĩ. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Chúng mồ côi trong gia đình, bởi vì các người cha thường vắng mặt, không ở nhà, cả trong thể lý nữa, nhưng nhất là bởi vì khi ờ nhà, họ lại không hành xử như là cha, họ không chu toàn nhiệm vụ giáo dục và không trao ban cho con cái các nguyên tắc, các giá trị, các luật sống mà chúng cần như cơm bánh, với gương sống đi kèm lời nói của họ. Phẩm chất giáo dục của sự hiện diện của người cha lại càng cần thiết hơn nữa, khi người cha bị bó buộc phải làm việc xa nhà. Đôi khi xem ra các người cha không biết rõ phải chiếm chỗ nào trong gia đình và phải giáo dục con cái ra sao. Và khi đó, trong sự nghi ngờ họ vắng mặt, họ rút lui và lơ là trách nhiệm của mình, có khi là trốn chạy vào trong một tương quan “ngang hàng” với con cái.

** Nhưng xã hội dân sự, với các cơ cấu của mình, cũng có trách nhiệm đối với người trẻ, một trách nhiệm, mà đôi khi nó lơ là hay thi hành dở. Thường khi xã hội cũng để người trẻ mồ côi và không đề nghị với họ một viễn tượng thật. Như thế giới trẻ bị mồ côi không có các con đường chắn chắn để đi, mồ côi không có các thầy dậy để tin cậy, mồ côi các lý tưởng sưởi ấm con tim, mồ côi các giá trị và các niềm hy vọng nâng đỡ họ thường ngày. Họ được lấp đầy bởi các thần tượng, nhưng người ta ăn cắp trái tim của họ; họ bị đầy tới chỗ mơ tưởng các cuộc giải trí và lạc thú, nhưng người ta không cho giới trẻ công việc làm; họ bị ảo tưởng với thần tiền bạc và người ta khước từ trao ban cho họ các điều phong phú thực sự.

Do đó thật là tốt cho tất cả mọi người, cha và con cái, nghe trở lại lời Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Ga 14,18). Thật vậy, chính Ngài là Đường phải theo, là Thầy phải lắng nghe, là niềm Hy vọng rằng thế giới có thể thay đổi, tình yêu chiến thắng hận thù, có thể có một tương lai của tình huynh đệ, hòa bình cho tất cả mọi người.

Thứ tư tới chúng ta sẽ tiếp tục đề tại này bằng cách đưa ra ánh sáng vẻ đẹp của chức làm cha và chức làm mẹ, vẻ đẹp và trách nhiệm của việc làm cha mẹ.

** ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau trong đó các vị giám đốc các đền thánh Pháp và các bạn trẻ hai giáo phận Lille và Paris; các sinh viên Anh quốc và Hoa Kỳ; các đoàn hành hương Tây Ban Nha, Chile, Argentina, các sinh viên đại học Thánh Giuse Coimbra Bồ Đào Nha và tín hữu tổng giáo phận Brasilia thủ đô Brasil; cũng như tín hữu Ba Lan.

Trong số các nhóm Italia có nhóm các Tu sĩ Hèn Mọn Phanxicô đang tham dự khóa đào tạo các Bề Trên Cả; các linh mục tham dự đại hội của các Người thợ thinh lặng của Thánh Giá; các nghệ sĩ của đoàn xiệc Merano. Ngài cầu chúc chuyến hành hương Roma giúp mọi người canh tân chứng tá kitô tươi vui trong gia đình và trong xã hội. Vài nghệ sĩ đã biểu diễn một số màn hấp dẫn giúp vui khiến mọi ngưởi nhất là các trẻ em rất thích thú.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kính nhớ thánh Toma thành Aquino, tiến sĩ Giáo Hội. Ngài cầu mong gương tận tụy học hỏi của thánh nhân giúp ngưởi trẻ đầu tư trí thông minh và ý chi cho việc phục vụ Tin Mừng. ĐTC cầu chúc đức tin của thánh Toma giúp các bệnh nhân biết hướng về Chúa trong khổ đau thử thách. Và ngài xin sự hiền dịu của thánh nhân chỉ cho các đôi tân hôn kiểu tương giao giữa các vợ chồng trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio