Người phụ nữ mang đến cho thế giới vẻ đẹp hài hòa

Người phụ nữ mang đến cho thế giới vẻ đẹp hài hòa

Nếu không có phụ nữ, sẽ không có sự hài hòa trong thế giới. Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ. Người nam và người nữ không phải là bằng nhau, cũng không phải là hơn kém nhau; nhưng không phải là người nam mà là chính người nữ mang lại sự hài hòa cho thế giới và làm cho thế giới xinh đẹp. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Nếu không có người phụ nữ, sẽ không có sự hài hòa

Rất nhiều lần chúng ta nói về người phụ nữ theo kiểu: “là phụ nữ thì phải làm cái này”. Nhưng hãy lưu ý rằng, người phụ nữ có thể mang đến điều mà nam giới không thể, đó là vẻ đẹp hài hòa của Đấng Tạo Hóa.

Khi không có phụ nữ, sẽ không có sự hài hòa. Khi nói chuyện, chúng ta nói: nhưng đây là một xã hội với ưu thế mạnh mẽ của nam giới, và thế là? Bỏ quên nữ giới. Ừ thì phụ nữ phải rửa bát quét nhà giặt ủi… Không, không, không. Người phụ nữ đem đến sự hài hòa. Thật không công bằng, không được thiên vị cho bên này hoặc bên kia. Không. Chỉ có người nam thôi, thì không hài hòa, cần có người phụ nữ nữa. Và người phụ nữ dạy cho chúng ta cách trân trọng, cách yêu thương, sự dịu hiền, và làm cho thế giới những điều tuyệt đẹp.

Khai thác phụ nữ, chính là phá vỡ sự hài hòa

Trong câu chuyện Sáng Thế, người đàn ông cảm thấy cô đơn, rồi ông ước mơ, và Thiên Chúa dẫn đến cho ông một người phụ nữ, thế là cả hai vui mừng và nên một xương một thịt. Trong một buổi tiếp kiến, khi chào mọi người, tôi hỏi một cặp vợ chồng kỷ niệm 60 năm ngày cưới rằng: “Ai trong hai người đã kiên nhẫn hơn?”

Họ nhìn tôi, nhìn vào mắt tôi. Tôi không bao giờ quên ánh mắt ấy. Sau đó họ trở lại và nói với tôi, cả hai cùng nói với tôi: Chúng con yêu thương nhau. Sau 60 năm, điều ấy thực sự có nghĩa là một xương một thịt. Và đây chính là điều mà người phụ nữ đem tới: đó là khả năng yêu thương. Đó là sự hài hòa trong thế giới. Nhiều lần, chúng ta nghe thấy rằng: “Không, điều cần thiết cho xã hội này, cho tổ chức này, là ở đây phải có phụ nữ để làm việc này làm việc kia…” Không, không, không, không: các công việc chức năng ấy không phải là mục đích của người nữ. Đúng là người phụ nữ cũng phải làm việc như tất cả chúng ta. Nhưng mục đích chính là: người phụ nữ đem đến sự hài hòa, và không có phụ nữ thì sẽ không có sự hài hòa trong thế giới. Khai thác con người, là một tội ác chống lại nhân loại. Và khi tận dụng lợi thế của người phụ nữ quá mức, thì đó là đang phá hủy vẻ đẹp hài hòa mà Thiên Chúa ban cho thế giới. Khai thác phụ nữ chính là phá hủy.

Thiên Chúa ban cho chúng ta một người nữ tuyệt vời là Mẹ Maria

Đây chính là món quà tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ngài ban cho chúng ta những người phụ nữ. Trong Tin Mừng, chúng ta nghe về những người phụ nữ đầy can đảm và tốt lành. Nhưng còn hơn cả lòng dũng cảm, còn hơn thế nữa: người phụ nữ là vẻ đẹp hài hòa là vẻ đẹp nên thơ. Nếu không có người phụ nữ, thế giới không còn đẹp đẽ, thế giới sẽ mất đi sự hài hòa. Tôi thích nghĩ như thế, bản thân tôi nghĩ như thế. Thiên Chúa đã tạo nên người nữ, vì tất cả chúng ta có chung một người mẹ.

Tứ Quyết SJ

Quà Xuân của Cháu

QUÀ XUÂN CỦA CHÁU
‐BÙI THỊ NHƠN


Bà Năm ngồi trên chiếc ghế nhỏ, bên cạnh chậu hoa cúc vàng trước hiên
nhà. Quyển báo xuân dầy cộm chắc đã làm mỏi đôi tay gầy guộc của Bà, Bà
ngưng đọc, khẽ đặt nó nằm gọn trên hai đầu gối, trang báo vẫn mở, như có lời
hẹn thầm: “ Sẽ đọc tiếp”. Bài thơ Ông Đồ Già của Vũ Đình Liên được đăng lại trên
trang báo xuân này gợi cho bà Năm biết bao nỗi niềm…

 

Công bố Sứ điệp Mùa Chay 2017 của Đức Thánh Cha

Công bố Sứ điệp Mùa Chay 2017 của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong sứ điệp Mùa Chay, ĐTC mời gọi các tín hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa Kitô trong tha nhân, nhất là những người nghèo khổ.

Mùa chay năm nay bắt đầu từ ngày 1-3-2017 tới đây, và sáng ngày 7-2-2017, Đức Ông Dal Toso, Tổng thư ký tại Bộ phục vụ phát triển nhân bản toàn diện, đã họp báo giới thiệu sứ điệp của ĐTC với chủ đề: ”Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”.

Trong Sứ điệp ĐTC đặc biệt quảng diễn dụ ngôn Phúc Âm về người phú hộ hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi một người nghèo khổ là ông Lazzaro ngồi trước cổng nhà ông ta không có gì để ăn (Xc Lc 16,19-31).

ĐTC viết: ”Ông Lazzaro dạy chúng ta rằng tha nhân là một hồng ân. Tương quan đúng đắn với con người hệ tại nhìn nhận giá trị của họ với lòng biết ơn. Cả người nghèo nơi cổng nhà người giầu không phải là một điều cồng kềnh gây phiền toái, nhưng là một lời mời gọi hoán cải và thay đổi cuộc sống.. Mùa chay là mùa thuận tiện để mở cửa cho mỗi người túng thiếu và nhận ra nơi họ khuôn mặt của Chúa Kitô. Mỗi người đến gặp chúng ta là một hồng ân và đáng được tiếp đón, tôn trọng và yêu mến. Lời Chúa giúp chúng ta mở rộng đôi mắt để đón tiếp và yêu mến sự sống, nhất là khi sự sống ấy yếu ớt”.

Khi phân tích thái độ của người phú hộ, ĐTC nhận xét rằng: ”Tiền bạc có thể biến chúng ta và cả thế giới thành nô lệ, phải tuân hành một tiêu chuẩn ích kỷ, không còn chỗ cho tình thương và cản trở hòa bình. Dụ ngôn này tỏ cho chúng ta thấy sự ham hố tiền bạc của người phú hộ làm cho ông ta kiêu hãnh, háo danh, chỉ quan tâm phô trương bề ngoài trong khi trống rỗng trong nội tâm.. Người phú hộ ăn mặc như thể mình là vua, giả bộ cung cách như một vị thần, mà quên mình chỉ là một phàm nhân hay chết.. Vì thế, kết quả của sự quyến luyến tiền bạc là một thứ mù quáng: người giàu không thấy người nghèo đang chịu đói, bị đè bẹp trong tủi nhục!”.

Trong phần kết luận, ĐTC cầu xin Chúa Thánh Linh hướng dẫn các tín hữu trong hành trình mùa chay, thực hiện một con đường hoán cải đích thực, để tái khám phá hồng ân Lời Chúa, để được thanh thẩy khỏi tội lỗi vốn làm cho chúng ta mù qáng, hầu phụng sự Chúa Kitô nơi các anh chị em túng thiếu” (SD 7-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Chia sẻ của Timothy Flanigan về sự quan trọng của đức tin đối với bệnh nhân

Chia sẻ của Timothy Flanigan về sự quan trọng của đức tin đối với bệnh nhân

Timothy Flanigan là một phó tế vĩnh viễn, có 5 người con, sinh sống tại Tiverton, Rhode Island, Hoa kỳ. Ông cũng là một giáo sư bác sĩ chuyên về các bệnh truyền nhiễm tại Brown Medical School. Phần lớn thời gian trong sự nghiệp của mình, bác sĩ Flanigan đã làm việc với các bệnh nhân nhiễm Hiv và mới đây là các bệnh nhân ebola ở Liberia. Flanigan bắt đầu đến Brown Medical School từ năm 1991 để cộng tác vào một mạng lưới chăm sóc chủ yếu cho các người bị nhiễm virus Hiv, đặc biệt là các phụ nữ, những người nghiện ma túy và các cựu tù nhân. Ông cũng phát triển các chương trình giúp các cựu tù nhân bị nhiễm Hiv nối kết với các chăm sóc cộng đồng, giúp điều trị bệnh và cai nghiện.

Việc là một phó tế Công giáo giúp cho các công việc trở nên thuận tiện dễ dàng hơn đối với bác sĩ Flanigan. Ông chia sẻ: “Công việc của tôi là trợ giúp các bệnh nhân. Tôi không muốn truyền đạo cho họ nhưng là giúp họ hiều rằng đức tin có thể giúp ích cho họ.” Theo các báo cáo y khoa về đức tin và y khoa, các bệnh nhận vui thích khi niềm tin của họ được các bác sĩ và bệnh viện nhìn nhận và trợ giúp, nhưng phần lớn các trường y khoa không nói về vấn đề này. Bác sĩ Flanigan cho biết: “Thực tế, các trường y khoa có thể nói về mọi sự, nhưng họ không nói về Thiên Chúa và cầu nguyện. Họ trở nên bực bội khi các vấn đề này được đề cập đến.” Bác sĩ cũng nói thêm là khuynh hướng của các trường y khoa là mô tả tất cả trong ngôn ngữ của tiến trình sinh học của chúng ta, nhưng chúng là là con người với máu thịt hơn chứ không chỉ như thế. Dù cho các trường y khoa không muốn nói về đức tin, nhưng bác sĩ Flanigan không ngại nói về nó. Ông chia sẻ: “Tôi rất thoải mái về việc mình là một phó tế Công giáo. Tôi luôn đề nghị các bệnh nhân của tôi đào sâu đức tin của họ, dù là đạo nào. Chưa từng có ai cảm thấy bị xúc phạm. Tôi luôn tìm cách tiếp cận các bệnh nhân cách cởi mở và không phán đoán.”

Đa số các bệnh nhân của bác sĩ Flanigan là người Công giáo bởi vì ông làm việc tại Rhode Island, một trong số các tiểu bang Công giáo nhất của Hoa kỳ. Ông có thể thấy một số bệnh nhân sống đức tin thật sự ngay cả khi họ đang hấp hối. Ông kể, có một nữ bệnh nhân bị một thứ ung thư không thể giải phẫu và làm cho bà bị nhiễm trùng rất nhiều. Bà ta có một đức tin mạnh mẽ, bà đã nói với ông là bà sẽ ở đó cho đến khi nào mà Chúa muốn. Những lần khác, ông gặp những bệnh nhân bị tha hóa bởi các tôn giáo có tổ chức. Ông đã khuyến khích họ suy nghĩ lại và nói với họ là Thiên Chúa yêu thương họ. Ông cho biết việc co cụm và tha hóa rất là thường gặp trong các bệnh nhân. Có được sự hỗ trợ của một cộng đồng đức tin là một điều tuyệt diệu và không tốn kém gì cả. Ông cũng nói với các bệnh nhân rằng có những lúc tất cả chúng ta đều cô đơn và chúng ta cũng cần có sự trợ giúp.

Trong hai tháng ông sống ở Liberia, giữa cuộc khủng hoảng của nạn dịch ebola, bác sĩ Flanigan nhận thấy đức tin của người dân Liberia là một thực tế vững chắc; họ cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa liên tục không ngừng. Đức tin của họ bị thử thách dữ dội bởi sự lan tràn của dịch bệnh. Các y tá có thể gặp nguy hiểm khi giúp các người bệnh, bởi vì họ thường bị lây bệnh nhưng họ vẫn hàng ngày đến chăm sóc bệnh nhân. Họ là những anh hùng.

Đối với bác sĩ Flanigan, thử thách lớn của thời đại chúng ta không phải là cuộc khủng hoảng hiện đại của đức tin nhưng là cách đối diện với đau khổ. Có một nghích lý trong thế giới chúng ta hiện nay. Chúng ta giỏi giang khi làm cho cuộc sống rất thoải mái, nhưng chúng ta không thể tránh được những khổ đau của trái tim con người. Người ta vẫn tìm đến tự tử; trầm cảm, lo âu vẫn ở trong con người thay vì hạnh phúc. Bác sĩ chía sẻ: “Là thầy thuốc, chúng tôi không ngừng trợ giúp trong những đau đớn và đau khổ của con người. Hoặc là người ta hiều được tình yêu của Chúa chúng ta giữa lúc đua khổ hoặc là, như một số người, chối từ Thiên Chúa. Quan điểm cá nhân của tôi là Thiên Chúa luôn lôi cuốn đến với Người những người đau khổ ngay cả khi họ không có sự hiểu biết về Người.” Ông kể lại trường hợp của một người đồng tính và bị Giáo hội loại bỏ. Anh ta ở trong bệnh viện 6 tuần lễ vì bị lây nhiễm. Trong đau đớn, anh đã chạy đến với Chúa và cùng mẹ đọc kinh Mân Côi hàng ngày. Qua những sự kiện này, bác sĩ Flanigan đã học biết về Chúa Thánh Thần. Theo ông, Chúa Thánh Thần không phải sống chung với những định kiến của chúng ta; Ngài thường hiện diện trong những tình huống mà chúng ta ít chờ đợi. Chính những suy nghĩ này giúp cho bác sĩ luôn tiến bước ngay cả khi cảm thấy mất lòng can đảm. (Aleteia .it 17/01/2017)

Hồng Thủy

Thiên Chúa ban cho chúng ta ba món quà vô cùng quý giá

Thiên Chúa ban cho chúng ta ba món quà vô cùng quý giá

Thiên Chúa là Cha đã ban cho chúng ta ba món quà vô cùng quý giá: một là căn tính làm con của Cha trên Trời, hai là trái đất này cùng công trình sáng tạo, ba là tình yêu mến của Ngài. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Chúng ta là con Thiên Chúa

Trên tất cả, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta “DNA” và thế là Ngài dựng nên một con người, Ngài sáng tạo chúng ta theo hình ảnh Ngài, theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài, giống như Ngài. Khi một người con được sinh ra, thì không thể đảo ngược được nữa: người con ấy đã thành hình, người con ấy đã hiện hữu, đã có đó. Dù ít dù nhiều, người con nhận lấy căn tính của cha.

Nếu người con trở nên tốt đẹp, thì người cha tự hào về con, bằng không thì? Nhưng nếu “xem ra là tốt thì!” Nếu có chút gì đó xấu, thì người cha vẫn nói: “Ồ, thật là tốt đẹp!” vì người cha là người cha. Luôn luôn như thế. Nếu đứa con trở nên tồi tệ, thì người cha bênh đỡ người con, chờ đợi người con… Chúa Giêsu dạy chúng ta về một người cha đợi chờ con cái. Chúa Giêsu ban cho chúng ta căn tính của người làm con: dù là nam hay nữ chúng ta phải nói thêm rằng chúng ta là những người con. Chúng ta giống Thiên Chúa bởi vì chúng ta là con cái Thiên Chúa.

Gìn giữ công trình tạo dựng

Thiên Chúa đã lao tác để làm nên công trình sáng tạo, và Ngài ban công trình ấy cho chúng ta. Ngài ban cho chúng ta công trình sáng tạo để đưa tất cả về cùng Đấng Tạo Hóa. Đừng phá hủy công trình sáng tạo, nhưng hãy làm cho công trình này phát triển, hãy chăm sóc, gìn giữ và làm trổ sinh hoa trái. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta mọi sự.

Thật là hài hước, tôi nghĩ: Thiên Chúa lại không ban cho chúng ta tiền bạc. Chúng ta có tất cả. Vậy ai cho chúng ta tiền bạc? Tôi không biết. Bà ngoại có nói là: sự dữ đến từ những cái túi: tham muốn ham muốn… Chúng ta có thể nghĩ xem ai cho chúng ta tiền bạc… Thiên Chúa ban cho chúng ta công trình tạo dựng để chúng ta bảo tồn và làm sinh hoa kết trái. Đây là một quà tặng của Thiên Chúa. Đỉnh cao của cuộc tạo dựng, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, có nam có nữ, và Thiên Chúa đã dựng nên họ.

Tạ ơn Cha về ba món quà

Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì ba món quà Ngài đã ban cho chúng ta: căn tính làm con Thiên Chúa, quà tặng là công trình sáng tạo, và tình yêu mến của Ngài. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, để chúng ta gìn giữ căn tính làm con Thiên Chúa, để chúng ta lao tác với những tài năng nén bạc được trao phó mà làm sinh hoa kết trái, và để học biết yêu mến mỗi ngày một hơn.

Tứ Quyết SJ

Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Những người cứng nhắc thì sợ tự do mà Thiên Chúa ban, họ sợ yêu mến. Kitô hữu là nô lệ của tình yêu mến, chứ không nô lệ cho lề luật. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

“Chúc tụng Chúa đi!” là lời ca khen của tác giả Thánh Vịnh 103 dâng lên Thiên Chúa vì những kỳ công vĩ đại. Chúa Cha làm nên biết bao điều kỳ diệu với công trình sáng tạo. Chúa Con thực hiện công trình cứu chuộc lạ lùng. Khi một trẻ thơ hỏi Thiên Chúa rằng vì sao Ngài tạo nên thế giới, thì Chúa sẽ nói “vì yêu mến”.

Hãy mở rộng cõi lòng, đừng cậy dựa vào các điều luật

Tại sao Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ này? Đơn giản vì Ngài chia sẻ chính sự toàn hảo của chính Ngài. Và trong cuộc tái tạo, Thiên Chúa sai chính Con Một tới để làm cho những gì đã bị xấu đi  – trở lại đẹp đẽ, những gì sai lỗi – trở về đúng đắn, những gì tệ hại – trở về tốt lành.

Khi Chúa Giêsu nói: “Cha tôi hằng làm việc, thì tôi cũng làm việc”, các luật sĩ cảm thấy chướng tai gai mắt và muốn giết Chúa. Tại sao? Bởi vì họ không thể đón nhận những gì từ Thiên Chúa như là quà tặng. Đối với họ, chỉ có công thẳng mà thôi, vì họ chỉ dựa vào các điều luật. Thay vì mở lòng đón nhận những quà tặng từ Thiên Chúa, họ lại khép kín vào những luật lệ, có lẽ 500 điều luật, có lẽ còn hơn… Họ không biết nhận ơn lành của Thiên Chúa. Có những món quà chỉ nhận được khi có tự do mà thôi. Thế mà họ lại sợ tự do Thiên Chúa ban, họ sợ tình yêu mến.

Kitô hữu làm nô lệ cho tình yêu, chứ không nô lệ cho lề luật

Đó là lý do hôm nay chúng ta ca tụng Chúa Cha: “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng! Con yêu mến Ngài quá đỗi, vì biết bao ơn lành Ngài đã ban. Ngài đã cứu độ con, Ngài đã dựng nên con.” Đó là lời cầu nguyện chúc tụng ngợi khen, đó là lời nguyện của niềm vui sướng. Lời nguyện ấy đem lại cho chúng ta niềm vui của đời sống người Kitô.

Có những Kitô hữu rất buồn chán vì họ đóng cửa tâm hồn, vì họ không bao giờ biết đón nhận quà tặng của Thiên Chúa, vì họ sợ tự do là điều luôn đi kèm cùng quà tặng. Những người như thế chỉ biết có luật lệ và bổn phận, những bổn phận đóng khung. Làm như thế là làm nô lệ cho lề luật, và không có tình yêu mến. Trái lại, khi làm nô lệ cho tình yêu mến, bạn có tự do. Đó là điều thật tuyệt!

Làm thế nào để nhận được ơn cứu độ

Có những người đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và sống như Chúa Giêsu, Con Một Chúa Cha, trong tình yêu mến, trong sự hiền từ và trong tự do. Nhưng cũng có những người nép mình trong cái khung khép kín của những lề luật; họ có vẻ an toàn, càng nhiều luật lệ càng có vẻ an toàn hơn, mà kỳ thực thì không có tự do, không có niềm vui.

Có hai công trình của Thiên Chúa. Đó là công trình sáng tạo và công trình cứu chuộc. Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi lòng mình: Làm thế nào để sống cách tuyệt vời hai công trình kỳ diệu ấy? Nguyện xin Chúa giúp chúng ta hiểu được những điều vĩ đại mà Ngài đã làm khi sáng tạo vũ trụ vì tình yêu mến! Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình yêu của Ngài, để ngày hôm nay chúng ta có thể cùng nhau thưa lên: “Lạy Chúa, Ngài thật tuyệt vời biết bao! Xin tạ ơn Ngài, xin cám ơn Ngài!”

Tứ Quyết SJ

Lễ phong chân phước cho Justus Takayama Ukon ở Osaka, Nhật bản

Lễ phong chân phước cho Justus Takayama Ukon ở Osaka, Nhật bản

Osaka – Sáng nay, 07/02/2017, Đức Hồng y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ Phong thánh, đã chủ sự Thánh lễ phong chân phước cho Justus Takayama Ukon (1552-1615), chân phước tử đạo người Nhật.

Chân phước Ukon, được biết với danh hiệu “samurai của Chúa Kitô”, thuộc dòng dõi quý tộc và là võ sĩ đạo Nhật bản trong thời gian các cuộc bách hại “tôn giáo Tây phương”. Ngài đã chọn con đường bị sỉ nhục và sống lưu vong hơn là từ bỏ đức tin Kitô giáo, chấp nhận mất tất cả tài sản, chức nghiệp, địa vị xã hội, danh dự và sự kính trọng, trở thành người vô gia cư và buộc phải sống lưu vong. Cuối cùng Ukon đã cùng với gia đình và 300 Kitô hữu Nhật bản chạy trốn sang Manila và qua đời ngày 04/02/1615.

Trong bài giảng, sau khi suy tư về sự tử đạo và nền văn minh Kitô giáo của tình yêu, Đức Hồng y Amato đã nhắc nhớ rằng Giáo hội tại Nhật bản đã được chúc lành với chứng tá rạng ngời của nhiều vị tử đạo và chính chân phước Ukon là một chứng nhânphi thường của đức tin Kitô giáo trong những thời gian khó khăn, của chống đối và bách hại.”

Đức Hồng y cũng nhắc lại cuộc đời của tân chân phước và hoạt động của người cỗ vũ Tin mừng không mệ mỏi ở Nhật bản. Đức Hồng y miêu tả các nét nổi bật của chân phước: “Được giáo dục về danh dự và lòng trung thành, một chiến binh thật sự của Chúa Kitô, không phải với các thứ vũ khí mà ngài là chuyên viên, nhưng bằng lời nói và gương mẫu.”

Đức Hồng y kêu gọi, cũng như chân phước Ukon, đừng xem Tin mừng là điều xa lạ với văn hóa Nhật bản. Nhưng như các thừa sai dòng Tên, ngài tránh những tranh cải biện hộ. Ngài sống đức tin của mình và sống đức tin như người Nhật bản, làm cho các truyền thống của nền văn hóa của mình được phát triển.

Đức Hồng y kết luận: “Việc phong chân phước cho Ukon là một hạt giống mà Chúa Quan phòng gieo vãi ở Nhật và trên thế giới. Gương mãu của vị chân phước thúc đẩy tất cả chúng ta sống đời sống đức tin và trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.” (Asia News 07/02/2017)

Hồng Thủy

 

Là ánh sáng và muối ngăn chặn hư thối trong cộng đoàn và xã hội

Là ánh sáng và muối ngăn chặn hư thối trong cộng đoàn và xã hội

Chúng ta tất cả đều được mời gọi là ánh sáng và là muối trong môi trường sống thường ngày, bằng cách kiên trì trong nhiệm vụ làm cho thực tại con người tái sinh trong tinh thần của Tin Mừng, trong viễn tượng của Nước Thiên Chúa, và bằng cách đẩy xa các yếu tố gây ô nhiễm như ích kỷ, ghen tương, nói xấu là những thứ làm hư thối các cộng đoàn của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua, cũng là Chúa Nhật bảo vệ sự sống tại Italia về đề tài “Các ngưởi nam nữ bảo vệ sự sống theo vết chân của thánh Têrêxa Calcutta”

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật trích từ Diễn văn Các Phúc Thật, trong đó Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ thuộc mọi thời đại, bao gồm cả chúng ta nữa, chu toàn sứ mệnh của mình là ánh sáng và là muối giữa trần gian. Ngài nói:

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta là một phản chiếu ánh sáng của Ngài, qua chứng tá của các việc lành. Chúa nói: “Ánh sáng của các con cũng phải rạng ngời trước loài người như thế, để họ trông thấy các việc làm tốt lành của các con và vinh danh Thiên Chúa Cha của các con ở trên trời” (Mt 5,16). Các lời này nhấn mạnh rằng từ các việc lành của mình chúng ta có thể được nhận biết như các môn đệ đích thật của Đấng là Ánh Sáng trần gian, không phải trong lời nói mà từ các việc làm của chúng ta. Thật thế, nhất là cung cách hành xử của chúng ta – trong điều thiện và trong điều ác – để lại một dấu vết nơi tha nhân. Như vậy, chúng ta có một bổn phận và một trách nhiệm đối với ơn đã nhận lãnh: ánh sáng của đức tin ở trong chúng ta qua Chúa Kitô và hoạt động của Chúa Thánh Thần, chúng ta không được giữ nó lại như thể là của riêng mình. Trái lại, chúng ta được mời gọi làm cho nó toả sáng lên trong thế giới, và trao nó cho những người  khác, qua các công việc làm tốt lành. Và thế giới cần tới ánh sáng của Tin Mừng biết bao nhiêu: ánh sáng biến đổi, chữa lành và bảo đảm ơn cứu độ cho ai tiếp nhận nó! Ánh áng này chúng ta phải đem theo với các việc lành của chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Ánh sáng đức tin, trong khi cho đi, không bị tắt, nhưng được củng cố. Trái lại, nó có thể suy giảm, nếu chúng ta không dưỡng nuôi nó với tình yêu thương và các việc bác ái. Như thế, hình ảnh của ánh sáng gặp gỡ hình ảnh của muối.  Thật vậy, trang Tin Mừng nói với chúng ta như là môn đệ của Chúa Kitô rằng chúng ta cũng là “muối của đất” (c. 13). Muối là một yếu tố, ban hương vị, giúp duy trì thực phẩm khỏi hư thối, và vào thời Chúa Giêsu đã không có các tủ lạnh.  ĐTC giải thích thêm như sau:

Vì thế, sứ mệnh của các kitô hữu trong xã hội là trao ban hương vị cho cuộc sống với đức tin và tình yêu thương, mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta, đồng thời  giữ xa các mầm giống gây ô nhiễm của ích kỷ, ghen tuơng, nói xấu nói hành vv. Các mầm giống này làm hư hỏng cuộc sống các cộng đoàn của chúng ta, là các cộng đoàn, trái lại, phải bừng sáng  lên như các nơi của sự tiếp đón, của tình liên đới và của sự hoà giải. Để chu toàn sứ mệnh này chúng ta cần là những người đầu tiên được giải thoát  khỏi sự suy đồi thối nát của các ảnh hưởng thế tục, ngược lại với Chúa Kitô và Tin Mừng; và việc thanh tẩy này không bao giờ kết thúc, nhưng được làm một cách liên tục, được làm mỗi ngày.

Từng người trong chúng ta được mời gọi là ánh sáng và là muối trong môi trường sống thường ngày, bằng cách kiên trì trong nhiệm vụ làm cho thực tại con người tái sinh trong tinh thần của Tin Mừng, trong viễn tượng của Nước Thiên Chúa. Xin sự che chở hiền mẫu của Mẹ Maria Rất Thánh luôn trợ giúp chúng ta, Mẹ là môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu và là mẫu gương của các tín hữu, mỗi ngày sống ơn gọi và sứ mệnh của mình trong  lịch sử. Xin Mẹ của chúng ta giúp chúng ta luôn luôn để cho Chúa thanh tẩy và soi sáng, để tới lượt mình chúng ta trở thành  “muối đất” và “ánh sáng trần gian”.

Tiếp đến DTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới “Ngày bảo vệ sự sống” tại Italia về đề tài “Các người nam nữ bảo vệ sự sống noi gương thánh Terexa Calcutta”. Ngài nói: tôi xin hiệp nhất với các Giám Mục Italia trong việc cầu mong có một hành động can đảm giáo dục bảo vệ sự sống. Mỗi một sự sống đều thánh thiêng. Chúng ta hãy làm cho nền văn hóa sự sống  tiến lên như câu trả lời cho cái luận lý gạt bỏ và cho việc suy giảm dân số. Chúng ta hãy gần gũi và cùng cầu nguyện cho các trẻ em đang ở trong hiểm nguy của việc ngưng mang thai, cũng như cho các người đang ở giai đoạn sau cùng của cuộc sống – mọi sự sống đều thánh thiêng – để đừng có ai bị bỏ cô đơn một mình, và để tình yêu bênh vực ý nghĩa cuộc sống. Chúng ta hãy nhớ tới lời mẹ Têrexa: “Sư sống là vẻ đẹp, bạn hãy hâm mộ nó; sự sống là sự sống, hãy bênh vực nó!” dù là với trẻ em đang lớn lến, hay với người gần chết: mọi sự sống đều thánh thiêng!

Tôi xin chào tất cả những ai đang hoạt động cho sư sống, các giáo sư các đại học Roma, và những ai cộng tác vào việc đào tạo các thế hệ mới, để họ có khả nằng xây dựng một xã hội tiếp đón và xứng đáng với mọi người.

ĐTC cũng chào các tín hữu hành hương, các nhóm giao xứ và hội đoàn đến từ nhiều nước khác nhau trong đó có các tín hữu các giáo phận Vienne, Granada, Melitta, Acquaviva delle Fonti tỉnh Bari, và các sinh viên  Penafiel Bồ Đào Nhà và Badajoz Tây Ban Nha.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp 1,100 doanh nhân ”kinh tế và hiệp thông”

Đức Thánh Cha tiếp 1,100 doanh nhân ”kinh tế và hiệp thông”

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 4-2-2017, ĐTC đã tiếp kiến và khích lệ 1.100 doanh nhân từ 49 quốc gia, đang thực thi nền ”kinh tế và hiệp thông”.

Nền kinh tế này được khởi xướng cách đây 25 năm do chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào ”Focolare” (Tổ Ấm), đứng trước những chênh lệch quá lớn mà chị nhận thấy tại thành phố São Paolo, Brazil. Theo nền kinh tế này, các doanh nhân trở thành những tác nhân hiệp thông: doanh nghiệp không những có thể không phá hủy sự hiệp thông giữa con người với nhau, nhưng còn xây dựng và thăng tiến tình hiệp thông đó.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cập đến 3 đề tài là tiền bạc, nghèo đói và sau cùng là hiệp thông và doanh nghiệp.

– Ngài nhận xét rằng ”tiền bạc là quan trọng nhất là khi không có và lương thực, trường học, tương lai con cái tùy thuộc tiền bạc, nhưng nó trở thành thần tượng khi trở thành cứu cánh. Sự hà tiện là tội tôn thờ thần tượng tiền bạc, vì sự tích trữ tiền bạc cho mình trở thành mục tiêu hoạt động của mình. Khi chế độ tư bản biến việc tìm kiếm lợi tức thành mục tiêu duy nhất của nó, thì nó có nguy cơ trở thành một hình thức thờ phượng.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC đề cao nền kinh tế hiệp thông đặt lợi tức làm của chung. Ngài nói: ”Cách thức tốt nhất và cụ thể nhất để không biến tiền bạc thành thần tượng là chia sẻ nó với tha nhân, nhất là với người nghèo, hoặc giúp người trẻ học hành và làm việc, vượt thắng cám dỗ thần tượng bằng tình hiệp thông. Khi anh chị em chia sẻ và trao tặng những lợi tức của mình, tức là anh chị em đang thực hiện một cử chỉ linh đạo cao độ, qua những cử chỉ anh chị em nói với tiền bạc rằng: mày không phải là Thiên Chúa”.

– ĐTC cũng ca ngợi nỗ lực vượt thắng nghèo đói như một đề tài trung tâm của Phong trào kinh tế hiệp thông. Ngài ghi nhận ngày nay có nhiều sáng kiến và phương thế để khắc phục nghèo đói, kể cả các thứ thuế được đề ra trong tinh thần liên đới. Tinh thần liên đới này bị phủ nhận bằng sự trốn thuế. Hành vi trốn thuế trước tiên là điều bất hợp pháp, và nó cũng là sự phủ nhận qui luật căn bản của cuộc sống, đó là tương trợ nhau.

ĐTC nhận xét rằng chế độ tư bản tiếp tục tạo nên những người bị gạt ra ngoài lề.. Vấn đề luân lý đạo đức chính của chế độ tư bản như thế là tạo ra những người bị gạt bỏ để rồi tìm cách giấu kín họ hoặc săn sóc họ để người ta không còn thấy họ nữa. Một hình thức nghèo trầm trọng của một nền văn minh là không còn nhìn thấy những người nghèo của mình nữa, trước đó người nghèo bị gạt bỏ và rồi bị giấu kín đi.

ĐTC kêu gọi ”không những giúp đỡ người nghèo, cứu chữa những người gặp nạn, nhưng còn phải làm sao để phòng ngừa để họ đừng trở thành nạn nhân. Nhất là cần hành động trước khi con người bị kẻ cướp tấn công và bóc lột, cần bài trừ những cơ cấu tội lỗi tạo ra những kẻ cướp và nạn nhân. Một doanh nhân chỉ là người samaritano nhân lành thì họ thi hành một nửa bổn nhận của mình: họ săn sóc các nạn nhân ngày nay, nhưng không giảm bớt các nạn nhân ngày mai”.

– Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng ”Từ 25 năm nay, anh chị em nói: hiệp thông và doanh nghiệp có thể sống chung và cùng tăng trưởng. Kinh nghiệm của anh chị em hiện nay chỉ giới hạn vào một số nhỏ các doanh nghiệp, rất nhỏ bé, so với đại tư bản trên thế giới. Nhưng cuộc chiến thuộc lãnh vực tinh thần và trong lãnh vực đời cuộc sống không lệ thuộc số nhiều. Một đoàn chiên nhỏ, một đồng tiền, một con chiên, một hạt ngọc trai, muối, men, là những hình ảnh về Nước Trời chúng ta gặp trong các sách Phúc Âm… Không cần đông người để thay đổi cuộc sống chúng ta, chỉ cần muối và men không bị biến chất.. Mỗi khi cá nhân, dân tộc và thậm chí cả Giáo Hội nghĩ đến việc cứu độ trần thế bằng cách gia tăng số lượng, thì họ kiến tạo những cơ cấu quyền lực mà quên đi người nghèo. Chúng ta hãy cứu vãn nền kinh tế chúng ta, bằng cách tiếp tục là muối và men;.. Cần làm sao để không đánh mất nguyên lý tác động, là men của tình hiệp thông, bằng cách chia sẻ” (SD 4-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Chiến dịch quyên góp cho tổ chức bác ái Công giáo của Tổng Giáo phận New York

Chiến dịch quyên góp cho tổ chức bác ái Công giáo của Tổng Giáo phận New York

New York – Tổng Giáo phận New York mở chiến dịch quyên góp 100 triệu đô la để phục vụ và tạo cơ hội cho các trẻ em và gia đình, đặc biệt những người nghèo và dễ thương tổn nhất.

Đức Hồng Y Timothy M. Dolan đã thông báo về chiến dịch này trong một bữa tiệc trưa, được tổ chức tại trung tâm Rockefelle vào ngày 29/01 vừa qua. Chiến dịch này là một phần trong chương trình kỷ niệm 100 năm mạng lứới bác ái Công giáo.

Thống đốc Andrew Cuomo và thị trưởng Bill de Blasio cũng hiện diện tại sự kiện này. Ông Cuomo nói ông sẽ đề xuất kinh phí lớn nhất cho các tổ chức bác ái và các trường Công giáo với 300 triệu đô và ông sẽ tuyên bố ngày 24/04 như ngày bác ái Công giáo tại bang New York, một sự tán thành ngày thành lập của chương trình từ thiện của tổng giáo phận vào năm 1917. Trước đó, ông de Blasio đã tuyên bố ngày bác ái Công giáo tại thành phố New York.

Đức Hồng y nói: “Hội đồng quản trị và tôi cam kết quyên góp 100 triệu đô trong nửa thập kỷ tiếp theo để tài trợ cho các sứ vụ của chúng tôi, các sứ vụ mới và đổi mới.” Ngài cũng nói thêm: “Chúng tôi đang lắng nghe Chúa Giêsu khi chúng tôi ‘ra chỗ nước sâu’ trong năm thứ 100 này.”

Theo Đức Hồng y, từ năm 1917, tổng giáo phận đã "đầu tư rất nhiều mồ hôi, sức lực, tâm trí, tâm hồn và tiền bạc vào việc củng cố gia đình của New York và con em chúng ta." Ngài nói: “Với anh chị em, những người cộng tác yêu quý, chúng ta cố gắng hết sức để không chỉ mang đến sự giúp đỡ của chúng ta, nhưng cả niềm hy vọng. Chúng ta hành động như những người Công giáo, nhưng chúng ta không bao giờ hỏi về tôn giáo của bất cứ ai mà chúng ta trợ giúp, và cũng không áp đặt tôn giáo chúng ta trên họ.”

Trước bữa tiệc trưa, Đức hồng y đã khai mạc năm bách chu niên với Thánh lễ tại nhà thờ chánh tòa thánh Patrick. Ngài nói: “Tổ chức bác ái Công giáo sẽ là những phúc lành bằng hành động.” (CNS 03/02/2017)

Hồng Thủy

Giáo hội Mông cổ chuẩn bị kỷ niệm 25 năm tái sinh

Giáo hội Mông cổ chuẩn bị kỷ niệm 25 năm tái sinh

Ulan bato – Hiện nay, có hơn 50 thừa sai và tu sĩ của 14 quốc gia trên thế giới đang truyền giáo tại Mông cổ.

Nói với hãng tin Fides hôm 02/02, cha Prosp Mbumba, thừa sai người Congo, đang truyền giáo tại Mông cổ, nói rằng: các thừa sai dâng tặng chính cuộc sống của họ cho Mông cổ; họ trung thành với ơn gọi gieo trồng mối liên hệ sâu thẳm với Chúa và trao tặng chính mình cho tha nhân. Nhờ sự phục vụ của các thừa sai và tu sĩ, Giáo hội Mông cổ sẽ sớm có thể chính thức có 3 giáo xứ.

Hôm 02/02, ngày lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh và cũng là ngày Đời sống thánh hiến, Đức cha Wenceslao Padilla, giám quản Tông tòa của Ulan bato, đã nói với các tu sĩ hiện diện tại Phủ doãn tông tòa rằng “đó là một cơ hội để suy tư về ơn gọi thánh hiến của chúng ta, để nhìn lại nội tâm của mình và đi lại con đường của mình.

Nữ tu Nirmala, người Ấn độ, thuộc dòng Trái tim vô nhiễm Đức Maria, đã hoạt động tại Mông cổ hơn 10 năm, cũng đã chia sẻ rằng: “Đời sống thánh hiến nghĩa là có mối liên hệ với Chúa, mối liên hệ hàm ý sự dâng hiến bản thân. Mối tương quan với Chúa, đời sống cộng đoàn và sứ vụ ở trọng tâm của đặc sủng của chúng ta, là những yếu tố cấu tạo nên đời thánh hiến.” Chị mời gọi các thừa sai hiện diện ở Mông cổ trung thành sống một cuộc sống xứng đáng với ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận. Chị cũng nhấn mạnh: “Chỉ trong cách thế này, những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô có thể tìm được âm vang trong cuộc sống chúng ta: đời tu cổ võ sự phát triển trong Giáo hội bởi sự thu hút.”

Chị cũng nhắc rằng năm vừa qua Giáo hội tại Mông cổ được mạnh hơn với việc một Linh mục bản xứ được thụ phong Linh mục và năm 2017 này, Giáo hội chuẩn bị mừng 25 năm truyền giáo. Chị cho biết Giáo hội Mông cổ hiện có hơn một ngàn người Mông cổ được rửa tội và hàng trăm dự tòng đến từ 3 giáo xứ và 3 điểm truyền giáo. 3 điểm truyền giáo sẽ được nâng lên thành giáo xứ trong dịp kỷ niệm 25 năm Giáo hội được tái thành lập tại đây. Chị nhận định “đây là dấu hiệu chúc lành của Thiên Chúa, Đấng yêu thương dân tộc Mông cổ.” (Agenzia Fides 3/2/2017)

Hồng Thủy

Đức Hồng y Tagle: án tử hình không ngăn cản tội ác

Đức Hồng y Tagle: án tử hình không ngăn cản tội ác

Manila – Trong thư gửi các tín hữu Công giáo tổng giáo phận Manila, Đức Hồng y Luis Antonio Tagle mời gọi các tín hữu hãy nói với các nhà lập pháp rằng án tử hình không ngăn cản các tội phạm bạo lực, có thể có khả năng hợp pháp hóa bạo lực và sự sống là một món quà từ Thiên Chúa.

Đề cập đến điều mà cuộc nghiên cứu khắp thế giói đã chỉ ra, Đức Hồng y nói: “Án tử hình không làm ngăn cản các tội phạm bởi vì nó không giải quyết nạn tội phạm tận gốc rễ. Để giúp giải quyết những nguồn gốc tội sự phạm pháp này, Giáo hội và nhà nước cần bảo vệ và củng cố những đơn vị căn bản của xã hội, đó là gia đình.”

Theo Đức Hồng y, gốc rẽ của tội ác bao gồm sự đánh mất các giá trị luân lý, sự bất công, bất bình đẳng và nghèo khổ giữa nhiều yếu tố khác nhau.

Trong lịch sử, Philippines đã áp dụng và đình chỉ án tử hình và Giáo hội kiên quyết phản đối nó. Luật năm 2006 cấm áp dụng án tử hình, nhưng từ khi tổng thống Duterte lên lãnh đạo vào cuối tháng 6, các đồng minh trong Quốc hội của ông đã thúc đẩy áp dụng lại án tử hình.

Hồi tháng 9, chủ tịch Hội đồng Giám mục Philippines đã kêu gọi các nhà lập pháp Công giáo không ủng hộ biện pháp này và kêu gọi các luật sư Công giáo “nghiên cứu vấn đề và phản đối nó” ở tòa án.

Tổng thống Duterte đã vài lần nói rằng ông không quan tâm đến vấn đề án tử hình được xử dụng để ngăn cản tội phạm, nhưng nó nên là cách thế mà các tội phạm phải trả giá cho những gì họ đã làm.

Đức Hồng Y Tagles cảnh giác rằng lối suy nghĩ như thế có thể hợp pháp hóa việc dùng bạo lực để chống lại các việc làm sai trái và có thể làm cho người vô tội gặp nguy hiểm. Ngài nói: “Hình phạt không được áp dụng để trả thù nhưng để sửa đổi người sai phạm và vì thiện ích của xã hội. Một nền văn hóa bạo lực sẽ mất đi tính nhân đạo. Một nền văn hóa của công bằng, chính trực và hy vọng sẽ chữa lành.” (CNS 02/02/2016)

Hồng Thủy

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Hai 2017: Tiếp đón những ai đang cần trợ giúp

Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha – Tháng Hai 2017: Tiếp đón những ai đang cần trợ giúp

VATICAN. Trong tháng hai năm 2017, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi mọi người tiếp đón những ai đang cần trợ giúp, đặc biệt là người nghèo, người tị nạn và những ai đang ở bên lề xã hội. Đức Thánh Cha chia sẻ trong Video rằng:

Chúng ta đang sống trong thành phố, với những tòa nhà cao chọc trời, với các trung tâm mua sắm, và những sàn giao dịch bất động sản kếch xù… nhưng lại bỏ rơi một phần của chính mình tại những vùng ngoại biên.

Các hệ quả của tình trạng này là: phần lớn người dân bị loại trừ và chịu thiệt thòi. Người dân không có công ăn việc làm, không có lựa chọn, không có lối thoát.

Đừng bỏ rơi họ!

Hãy cùng Cha cầu nguyện cho tất cả những ai đang chịu cảnh khốn khó, đặc biệt là những người nghèo, người tị nạn và những ai đang ở bên lề xã hội, để họ có thể được đón nhận và được an ủi trong các cộng đồng của chúng ta.

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Ngày Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. Chiều ngày, 2-2-2017, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh và cũng là Ngày Thế giới về đời sống thánh hiến lần thứ 31, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô và kêu gọi các tu sĩ tránh cám dỗ tìm cách ”sinh tồn”,

Đồng tế với ĐTC có ĐHY João Aviz de Braz, người Brazil, Tổng Trưởng Bộ các dòng tu, Đức TGM Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, dòng Phanxicô, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các LM dòng, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, sau khi bình luận bài ca hy vọng của cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna tín thác nơi lời hứa của Thiên Chúa: Thiên Chúa không đánh lừa, niềm hy vọng nơi Ngài không làm chúng ta thất vọng, Chúa đến gặp gỡ dân Ngài, ĐTC nhận xét rằng:

”Thái độ ấy làm cho chúng ta được phong phú, nhất là giữ gìn chúng ta khỏi một cám dỗ có thể làm cho đời sống thánh hiến của chúng ta trở nên khô cằn, son sẻ, đó là ”cám dỗ sinh tồn”. Đó là một tai ương có thể dần dần lẻn vào và ở lại trong chúng ta. Thái độ sinh tồn làm cho chúng ta phản ứng chống lại thay đổi, sợ sệt, dần dần âm thầm khép kín mình trong nhà, trong các khuôn khổ của mình. Nó phóng dội chúng ta về đằng sau, vào những cử chỉ vinh quang, nhưng thuộc về quá khứ, thay vì khơi lên tinh thần sáng tạo ngôn sứ, xuất phát từ những giấc mơ của các vị sáng lập dòng của chúng ta, nó làm cho chúng ta tìm những con đường tắt để trốn chạy những thách đố đang gõ cửa nơi chúng ta”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Tâm lý sống còn tước đoạt sức mạnh các đoàn sủng của chúng ta vì nó làm cho chúng ta thuần hóa các đoàn sủng ấy, làm cho các đoàn sủng vừa tầm tay chúng ta, nhưng không còn sức mạnh sáng tạo để chúng ta làm bùng lên.. Cám dỗ sinh tồn khiến chúng ta quên đi ơn thánh, làm cho chúng ta trở thành những nhà chuyên nghiệp về thánh thiêng chứ không phải là những người cha, người mẹ, người anh em của niềm hy vọng mà chúng ta được kêu gọi loan báo”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tất cả chúng ta đều ý thức về sự biến đổi đa văn hóa chúng ta đang trải qua, không ai nghi ngờ về điều đó. Vì thế, điều quan trọng là những người thánh hiến phải được tháp nhập với Chúa Giêsu trong cuộc sống, trong trọng tâm của những biến đổi lớn. Sứ mạng, theo mỗi đoàn sủng riêng, là nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được sai đi để trở thành men làm cho khối lượng cụ thể này được dậy men. Dĩ nhiên là có thể có những ”bột” tốt hơn, nhưng Chúa mời gọi chúng ta hãy làm dậy men ở đây và trong lúc này, với những thách đố được đề ra cho chúng ta. Không phải với thái độ tự vệ, để cho sợ hãi thúc đẩy, nhưng là tra tay cầm cầy, tìm cách làm cho hạt giống được tăng trưởng giữa những cỏ lùng cỏ dại.. Đặt Chúa Giêsu ở giữa dân Ngài có nghĩa là có một con tim chiêm niệm, có khả năng nhìn nhận cách thức Chúa bước đi qua những nẻo đường trong thành thị chúng ta, nơi đất nước chúng ta, trong các khu phố của chúng ta. Đặt Chúa Giêsu ở giữa dân ngài có nghĩa là đảm trách và muốn giúp vác đỡ thánh giá của anh chị em chúng ta, muốn động chạm đến các vết thương của Chúa Giêsu trong các vết thương của thế giới, đang bị thương và khao khát, cầu mong được sống lại”…. (SD 2-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Bổ nhiệm Giám Mục tại Viên Chăn, Lào

Bổ nhiệm Giám Mục tại Viên Chăn, Lào

VATICAN. Hôm 2-2-2017, Phòng báo chí Tòa Thánh thông báo ĐTC đã nhận đơn từ chức của Đức Cha Jean Khamsé Vithavong, Đại diện Tông tòa giáo phận Viên Chăn, thủ đô Lào.

 

Ngài bổ nhiệm Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun, Đại diện Tông Tòa Paksé, kiêm nhiệm Giám quản Tông Tòa Viên Chăn.

 

Đức Cha Khamsé Vithavong năm nay 75 tuổi (1942), thuộc dòng Hiến sĩ Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm, OMI, cai quản giáo phận tông tòa Viên Chăn từ 34 năm nay (1983). Giáo phận này chỉ có hơn 15 ngàn tín hữu CG với 1 LM giáo phận, 7 LM dòng, 7 tu huynh và 19 nữ tu.

 

Đức Cha Louis-Marie Ling năm nay 73 tuổi (1944), thuộc tu hội Thánh Ý Thiên Chúa (Voluntas Dei), cai quản giáo phận tông tòa Paksé từ 17 năm nay (2000). Tại tại đây có gần 13 ngàn tín hữu Công Giáo, với 6 LM giáo phận, 1 LM dòng, 12 chủng sinh, 9 tu huynh và 18 nữ tu.

 

Các GM Lào đã cùng các vị lãnh đạo Công Giáo tại Campuchia về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh trong những ngày qua. Các vị đã được ĐTC tiếp kiến hôm thứ năm, 26-1-2017. (SD 2-2-2017)

 

G. Trần Đức Anh OP

Sau khi chết chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa

Sau khi chết chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa

Đứng trước cái chết của chúng ta và của người thân đức tin của chúng ta gặp thử thách bởi các nghi ngờ không biết có sự sống sau cái chết hay không. Nhưng sự phục sinh của Chúa Kitô là lý do khiến cho chúng ta hy vọng và cho chúng ta biết rằng cả sự phục sinh của chúng ta và của những người thân yêu của chúng ta đã qua đời không phải là một cái gì sẽ có thể xảy ra hay không, mà là một thực tại chắc chắn, trong nghĩa nó đã được đâm rễ trong biến cố phục sinh của Chúa Kitô. Như thế hy vọng có nghĩa là học sống trong chờ đợi tìm được sự sống. Vì chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã trình bầy đề tài niềm hy vọng kitô vào sự sống lại mai sau. Ngài nói sau khi tìm hiểu niềm hy vọng trong vài văn bản Thánh Kinh Cựu Ước, giờ đây chúng ta tìm hiểu tầm quan trọng ngoại thường của nhân đức này trong Tân Ước dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô và biến cố phục sinh: đó là đức cậy kitô. Chúng ta kitô hữu, chúng ta là các người nam nữ của niềm hy vọng.

Đây đã là điều rõ ràng ngay trong văn bản đầu tiên của Tân Ước đó là thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Thexalonica. Trong văn bản vừa nghe đọc chúng ta nhận ra tất cả sự tươi mát và vẻ đẹp của lời loan báo kitô đầu tiên. ĐTC nói về cộng đoàn Thêxalônica như sau:

Cộng đoàn Thêxalônica đã là một cộng đoàn trẻ, mới được thành lập ít lâu. Nhưng cho dù có các khó khăn và biết bao thử thách, nó đã đâm rễ sâu trong đức tin của tín hữu, hăng say tươi vui cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu. Khi đó tông đồ Phaolô vui mừng với mọi người, vì những người tái sinh trong lễ Phục Sinh thực sự trở thành “các con cái của ánh sáng và con cái của ban ngày” (Tx 5,5) – thánh nhân gọi họ như vậy – nhờ sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: khi thánh Phaolô viết thư cho họ cộng đoạn Thêxalônica mới được thành lập chỉ cách sự Phục Sinh của Chúa Kitô ít năm; chỉ ít năm sau thôi. Vì thế thánh tông đồ  tìm làm cho họ hiểu tất cả các hiệu qủa mà biến cố duy nhất và định đoạt này – nghĩa là sự phục sinh của Chúa – bao gồm đối với lịch sử  và cuộc sống của từng người.  Cách riêng khó khăn của cộng đoàn đã không phải là thừa nhận sự sống lại của Chúa Giêsu, mọi người đều tin điều ấy, nhưng là tin vào sự phục sinh của những người đã chết. Phải, Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đối với những người chết thì họ hơi gặp khó khăn.

** Trong nghĩa đó, bức thư này thực rất thời sự. Mỗi khi chúng ta đứng trước cái chết của mình hay của một người thân, chúng ta cảm thấy đức tin của mình bị thử thách. Tất cả các nghi ngờ, tất cả sự giòn mòng của chúng ta nổi dậy, và chúng ta tự hỏi: “Mà có thật là có sự sống sau cái chết không? Tôi sẽ còn có thể trông thấy và ôm vào lòng những người tôi đã yêu mến không..? “ Câu hỏi này có một bà đã hỏi tôi cách đây ít ngày trong một buổi tiếp kiến. Bà hỏi: “Con có sẽ gặp các người thân của con không?” Một sự nghi ngờ

Cả chúng ta nữa, trong bối cảnh hiện tại, chúng ta cần trở lại với gốc  rễ và nền tảng đức tin của mình, để ý thức điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Kitô Giêsu, và cái chết của chúng ta có nghĩa là gì. Tất cả chúng ta đều có một chút sợ hãi vì cái không chắc chắn này, phải không? Ở đây lời thánh Phaolô đến. Tôi nhớ có một ông cụ già rất giỏi đã nói với tôi: “Con không sợ cái chết. Con hơi sợ trông thấy nó đến”. Ông sợ điều đó. Đứng trước các sợ hãi và các băn khăn của cộng đoàn, thánh Phaolo mời gọi họ đứng vững vàng như một áo giáp, nhất là trong các thử thách và những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống chúng ta, “niềm hy vọng của sự cứu thoát”. Nó là môt áo giáp. Đó, niềm hy vọng kitô có nghĩa là gì. Khi nói về niềm hy vọng,  chúng ta có thể bị đưa tới chỗ hiểu nó theo nghĩa thông thường của từ này, có nghĩa là quy chiếu về cái gì đẹp đẽ mà chúng ta mong ước, nhưng nó có thể được thực hiện hay không được thực hiện. Chúng ta hy vọng nó xảy ra, nhưng chúng ta hy vọng như một ước mong, phải không? Chẳng hạn ta nói: “Tôi hy vọng ngày mai trời đẹp!; nhưng chúng ta biết rằng ngày hôm sau, trái lại, trời có thể xấu… Niềm hy vọng kitô không như thế.

ĐTC định nghĩa nó như sau.

Niềm hy vọng kitô là sự chờ đợi một cái gì đã được hoàn thành; ở đó có một cái cửa, và tôi hy vọng đi tới cửa đó! Tôi phải làm gì đây? Đi tới cái cửa đó! Tôi chắc chắn là tôi sẽ tới cửa. Niềm hy vọng kitô là như thế: chắc chắn rằng tôi đang tiến bước về cái gì là, chứ không phải là tôi muốn nó là. Đây là niềm hy vọng kitô. Niềm hy vọng kitô là sự chờ đợi một cái gì đã thành toàn và chắc chắn sẽ được thực hiện cho từng người trong chúng ta.

** Như vậy cả sự phục sinh của chúng ta và của những người thân yêu của chúng ta đã qua đời không phải là một cái gì sẽ có thể xảy ra hay không, mà là một thực tại chắc chắn, trong nghĩa nó đã được đâm rễ trong biến cố phục sinh của Chúa Kitô. Như thế hy vọng có nghĩa là học sống trong chờ đợi. Học sống trong chờ đợi và tìm được sự sống. Khi một phụ nữ nhận ra mình mang thai, thì mỗi ngày bà học sống trong sự chờ đợi trông thấy cái nhìn của đứa bé bà sẽ thấy… Cả chúng ta cũng phải sống và học hiểu từ các chờ mong của con người, và sống trong sự chờ đợi nhìn Chúa, tìm thấy Chúa. Điều này không dễ dàng, nhưng ta phải học: sống trong chờ đợi. Hy vọng có nghĩa và đòi hỏi một con tim khiêm tốn, một con tim nghèo nàn. Chỉ người nghèo mới biết chờ đợi. Ai đã tràn đầy chính mình và của cải của mình, thì không biết đặt để sự tin tưởng vào bất cứ ai khác, nếu không phải là nơi chính mình mà thôi.

Thánh Phaolô còn viết thêm: “Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta, dù thức hay ngủ chúng ta cùng sống với Ngài” (Tx 5,10). Các lời này luôn luôn là lý do của niềm an ủi lớn và của an bình. Như vậy, đối với cả các người thân yêu đã từ giã chúng ta, chúng ta được mời gọi cầu nguyện để họ sống trong Chúa Kitô và hiệp thông hoàn toàn với chúng ta. Có một điều đánh động con tim tôi là một kiểu nói của thánh Phaolô luôn luôn hướng tới tín hữu Thêxalônica. Nó khiến cho tôi tràn đầy sự chắc chắn của niềm hy vọng. Ngài nói: “Và như thế chúng ta sẽ luôn ở với Chúa” (1 Tx 4,17).

Một điều thật đẹp: mọi sự qua đi, nhưng sau cái chết chúng ta sẽ luôn luôn ở với Chúa. Đó là sự chắc chắn hoàn toàn của niềm hy vọng, cùng một niềm hy vọng mà rất lâu trước đó đã khiến cho ông Gióp kêu lên: “Tôi biết rằng đấng cứu độ tôi sống… Tôi sẽ trông thấy Ngài, chính tôi, chính mắt tôi sẽ nghiêm ngưỡng Ngài” (G 19,25.27). Và như vậy chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa. Anh chị em có tin điều này không? Tôi xin hỏi anh chị em: Anh chị em có tin điều này không? Để có một chút sức mạnh tôi mời anh chị em cùng tôi lập lại ba lần: “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, Tất cả cùng nhau nào: “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”, “Và như thế chúng ta sẽ luôn mãi ở với Chúa”. Cám ơn anh chị em.

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, trong có có các người trẻ đến từ Pháp. Ngài cũng chào các tín hữu đến từ Nam Hàn và Hoa Kỳ. ĐTC cám ơn ca đoàn thiếu nhi Nam Hàn vì các bài thánh ca chúc tụng Thiên Chúa của các em. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Đức, đặc biệt các học sinh trường Quốc tế Đức tại Dubai, các tín hữu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và nhắn nhủ mọi người xin Chúa củng cố niềm hy vọng nơi sự phục sinh và làm sao học sống trong chờ đợi chắc chắn cuộc gặp gỡ với Chúa và mọi người thân yêu.

Với các nhóm Ba Lan ĐTC nhắc cho biết mùng 2 tháng hai là lễ dâng Chúa trong đền thánh cũng là ngày quốc tế đời thánh hiến. Tôi xin anh chị em nhớ cầu nguyện cho các linh mục và nam nữ tu sĩ các dòng tông đồ và chiêm niệm. Ước chi cuộc sống tận hiến cho Chúa và việc phục vụ đặc sủng của  của các vị đem lại nhiều hoa trái phong phú cho thiện ích của tín hữu và cho sứ mệnh rao truyền Tin Mừng của Giáo Hội.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các thành viên phong trào công giáo thế giới bảo vệ khí hậu. Ngài cám ơn họ về dấn thân săn sóc ngôi nhà chung trong thời đại khủng hoảng xã hội môi sinh này, và tiếp tục trải rộng mạng lưới của họ để các giáo hội địa phương đáp trả tiếng kêu của trái đất và của dân nghèo với lòng cương quyết. Ngài cũng chào các tham dự viên Hội nghị của Liên hiệp linh mục, do “Hiệp hội các công nhân thinh lặng của Thánh Giá” tổ chức, cũng như khách của tổ chức thánh nữ Lucia, và khích lệ mọi người kiên trì trong lời cầu nguyện, là phương thế hữu hiệu trong bệnh tật và khổ đau. Ngoài ra ngài cũng chào các sĩ quan sở tài chánh tỉnh Parma và các thành viên trung tâm tu đức lòng Thương xót do ĐC Rosario Gisana, GM Piazza Armerina, hướng dẫn hành hương Roma đem theo Ảnh Đức Bà Thương Xót, sẽ được trưng bầy trong đền thờ thánh Phêrô cho tín hữu kính viếng.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC mời gọi họ cầu nguyện cho những người sống đời thánh hiến để họ có thể làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và ơn thánh của Tin Mừng trong thế giới.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi ngưòi.

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh lên án khủng bố tại Canada

Tòa Thánh lên án khủng bố tại Canada

VATICAN. Đức Thánh Cha mạnh mẽ lên án vụ khủng bố tai một đền thờ Hồi giáo ở Québec City, Canada, làm cho 6 người thiệt mạng và 19 người bị thương.

Trong điện văn ngày 30-1-2017, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết khi hay tin về vụ khủng bố này, ĐTC Phanxicô Phanxicô phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa những người bị thiệt mạng và hiệp ý qua kinh nguyện với nối đau khổ của những người thân của họ. Ngài bày tỏ thiện cảm sâu xa với những người bị thương và gia đình họ cũng như với tất cả những người góp phần cứu cấp, xin Chúa ban ơn an ủi và nâng đỡ họ trong thử thách.

ĐTC mạnh mẽ tái lên án bạo lực gây ra bao nhiêu đau khổ và cầu xin Thiên Chúa ơn tôn trọng nhau và an bình. Ngài khẩn cầu phúc lành của Chúa trên các gia đình bị thử thách cũng như tất cả những người bị thương tổn vì thảm trạng này, va toàn thể mọi người dân Québec.

Mặt khác, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn cũng bày tỏ đau buồn và lên án vụ khủng bố chống lại các tín hữu Hồi giáo đang cầu nguyện.

Trong thông cáo, Hội đồng Tòa Thánh khẳng định rằng ”Với hành động điên rồ này người ta vi phạm sự thánh thiêng của mạng sống con người, và không tôn trọng một cộng đoàn đang cầu nguyện cũng như nơi thờ phượng.

Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mạnh mẽ lên án hành vi bạo lực chưa từng có này và muốn bày tỏ tình liên đới trọn vẹn với các tín hữu Hồi giáo ở Canada, đồng thời sốt sắng cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình họ”. (SD 30-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Nếu chúng ta kiên trì nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ ngạc nhiên khám phá ra rằng Người luôn quan sát mỗi người chúng ta với lòng yêu thương. Đó là ý tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng Thánh lễ kính thánh Gioan Bosco tại nhà nguyện thánh Marta.

Chúa Giêsu không nhìn đám đông cách chung chung. Ngài nhìn mỗi người

Đức Thánh Cha chú giải đoạn thư gửi tín hữu Do thái, trong đó tác giả mời gọi chúng ta “kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” Ngài cũng giải thích bài Tin Mừng rằng chính Chúa Giêsu nhìn chúng ta và nhận thấy chúng ta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu ở gần chúng ta, “Người luôn ở giữa đám đông.” “Không phải là với những vệ sĩ bảo vệ cho Người, để cho đám đông không thể chạm vào Người. Không! Người ở đó và đám đông bao lấy Người. Mỗi khi Người xuất hiện, có một đám đông lớn. Các chuyên gia thống kê có lẽ có thể xuất bản ‘Sự nổi tiếng của Thầy Giêsu đang giảm đi’… Nhưng Chúa Giêsu tìm kiếm điều khác: Ngài tìm dân chúng. Và dân chúng tìm Ngài: dân chúng dán mắt vào Ngài và Ngài dán mắt vào dân chúng. ‘Đúng, vào dân chúng, vào đám đông’ – ‘không, vào mỗi người!’ Đây là điểm đặc biêt của cái nhìn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không nhìn đám đông chung chung: Ngài nhìn mỗi người.”

Chúa Giêsu quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta

Tin Mừng thánh Marco thuật lại 2 phép lạ. Thứ nhất, Chúa Giêsu chữa người đàn bà bị băng huyết 12 năm trời. Giữa đám đông, bà đã có thể chạm được áo choàng của Ngài. Và Chúa Giêsu đã nhận ra có người chạm vào Ngài. Thứ hai, Chúa Giêsu làm cho bé gái 12 tuổi con ông Giairô sống lại. Người nhận ra cô bé đang đói và yêu cầu cha mẹ cho cô ăn. Đức Thánh Cha nhận xét: “Cái nhìn của Chúa Giêsu đến với điều lớn lao cũng như nhỏ bé. Ngài nhìn ngắm tất cả: nhìn ngắm tất cả chúng ta, nhưng nhìn mỗi người chúng ta. Ngài quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta. Bởi vì Người gần chúng ta. Chúa Giêsu không sợ hãi những điều to lớn nhưng cũng để ý đến những điều nhỏ bé. Chúa Giêsu nhìn chúng ta như thế.”

Sự kinh ngạc khi gặp gỡ Chúa Giêsu

Đức Thánh Cha khẳng định rằng nếu chúng ta chạy “với sự kiên trì và mắt hướng nhìn về Chúa Giêsu”, thì sẽ xảy đến với chúng ta những điều xảy ra với dân chúng sau khi con gái ông Giairo đã sống lại, đó là “họ đầy kinh ngạc.” Ngài giảng giải thêm: “Tôi đi, nhìn ngắm Chúa Giêsu, tôi tiến bước, ngắm nhìn Chúa Giêsu và tôi tìm thấy điều gi? Ngươi đang ngắm nhìn tôi! Điều này làm cho tôi kinh ngạc vô cùng. Sự kinh ngạc khi gặp Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta đừng sợ hãi! Chúng ta không sợ hãi như người đàn bà đi đến sờ vào áo choàng của Người. Chúng ta đừng sợ! Chúng ta chạy trên con đường này. Luôn luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu. Và chúng ta sẽ có sự ngạc nhiên tốt đẹp này, chúng ta sẽ tràn đầy sự ngạc nhiên: chính Chúa Giêsu ngắm nhìn tôi.” (SD 31/01/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha tiếp HĐGM quốc tế thánh Cirilo và Metodio

Đức Thánh Cha tiếp HĐGM quốc tế thánh Cirilo và Metodio

VATICAN. Sáng 30-1-2017, ĐTC đã tiếp kiến 9 GM thuộc HĐGM quốc tế thánh Cirilo và Metodio nhân dịp các vị về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Hội đồng này được ĐGH Gioan Phaolô 2 thành lập năm 2004 và qui tụ các GM thuộc 6 giáo phận ở Cộng hòa Serbi, 2 giáo phận tại Montenegro, 2 tại Macedonia và một miền Giám quản Tông Tòa Kosovo, với số tín hữu Công Giáo tổng cộng là 535 ngàn người, đông nhất tại Cộng hòa Serbi với 430 ngàn, tiếp đó là tại Kosovo 70 ngàn. Cộng hòa Montenegro chỉ có 22 ngàn tín hữu Công giáo, sau cùng là 15 ngàn tín hữu tại Macedonia.

Đây là Hội đồng GM thứ 3 được ĐTC Phanxicô tiếp kiến trong năm nay, sau các Ailen và các GM Lào – Campuchia. Khác với trước kia, sau các cuộc tiếp kiến, không có bài huấn dụ trên giấy tờ của ĐTC dành cho các GM liên hệ. Vì thế, nếu các GM không kể lại trong các cuộc phỏng vấn hoặc họp báo, thì dư luận không được biết về nội dung cuộc trao đổi giữa ĐTC và các Giám Mục.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, hôm 30-1-2017 Đức Cha Ladislav Nemét, GM giáo phận Zrenijanin ở Serbi, cho biết vấn đề làn sóng di dân, hòa giải và tình trạng Giáo Hội trong vùng Balcan thuộc vào số những vấn đề được bàn đến với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh trong cuộc viếng thăm tại Vatican.

Tại Serbi, sự cộng tác và quan hệ đại kết giữa Tòa Thánh và Giáo Hội Chính Thống rất tốt. Nhưng ở bình diện thấp hơn, sự cộng tác gặp khó khăn, tuy có những tiếp xúc cá nhân. Tại Kosovo, việc đối thoại liên tôn quan trọng hơn vì người Công giáo sống giữa đa số dân theo Hồi giáo. Tại Montenegro và Macedonia, có khó khăn giữa các tín hữu Công Giáo thiểu số và Giáo Hội Chính Thống. Chính thống tại hai nước này được thành hình với sự trợ giúp quan trọng của Nhà Nước.

Gần đây, các GM đề nghị Tòa Thánh phân HĐGM 4 nước vùng Balcan, không những vì lý do ngôn ngữ nhưng vì các hệ thống pháp luật của 4 nước rất khác nhau. Tại Serbi, Giáo Hội có quyền giảng dạy giáo lý tại các trường tiểu học và trung học. Tại Montenegro chính phủ đã ký kết hiệp định cơ bản với Tòa Thánh, trong khi tại 3 nước còn lại thì không có như vậy.

Đức Cha Nemét cho biết viễn tượng hòa giải giữa người Croát và Serbi, cũng như giữa người Serbi và Albani (chiếm đa số dân tại Kosovo) vẫn còn rất xa vời. (SD 30-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Ngày quốc tế giới trẻ Panama và Thượng hội đồng thế giới về người trẻ

Ngày quốc tế giới trẻ Panama và Thượng hội đồng thế giới về người trẻ

Ngày quốc tế giới trẻ tại Panama và Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về người trẻ: Phỏng vấn ĐHY Kevin Farrell, Tổng trưởng Bộ giáo dân, gia đình và sự sống, và ĐC Giancarlo Bregantini, TGM Campobasso-Boiano

Ngày 20 tháng giêng vừa qua ĐC José Domingo Ulloa Mendieta, TGM giáo phận Thành phố Panama, đã mở cuộc họp báo và cho biết Ngày Quốc Tế Giới Trẻ  lần thứ 34 sẽ tiến hành tại Thành phố Panama trong các ngày từ 22 đến 27 tháng giêng năm 2019. ĐC cũng nói rằng vì lý do khí hậu tuy thời gian đó không phải là kỳ nghỉ tại nhiều nước, nhưng hy vọng đó không phải chướng ngại cản trở các bạn trẻ tới tham dự để gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, từ tay Mẹ Maria và dưới sự hướng dẫn của Người kế vị thánh Phêrô.

Trước đây ĐTGM đã cho biết là muà hè ở bắc bán cầu là mùa mưa ở Panama.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Kevin Farrell Tổng trưởng Bộ giáo dân, gia đình và sự sống về Ngày quốc tế giới trẻ tại Panama, và ĐC Giancarlo Bregantini, TGM Campobasso-Boiano, về Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ.

Trước hết là ĐHY Farrell. Trong các ngày từ mùng 5 tới mùng 8 tháng 12 năm 2016  ĐHY đã đến Panama tham dự các cuộc họp chuẩn bị.

Hỏi: Thưa ĐHY Farrell, trong các ngày từ 22 đến 27 tháng giêng năm 2019 Ngày quốc tế giới trẻ sẽ diễn ra bên Panama, trong dấu chỉ của Mẹ Maria. Đây có phải là lần đầu tiên Ngày quốc tế giới trẻ có đề tài về Đức Mẹ không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Ngày quốc tế giới trẻ lần tới tại Panama trong các ngày 22 đến 27 tháng giêng năm 2019 sẽ là trong dấu chỉ của Mẹ Maria. Đây là lần đầu tiên lộ trình ba năm của Ngày quốc tế giới trẻ sẽ đạt tột đỉnh với việc cử hành Ngày quốc tế giới trẻ, có đề tài về Đức Mẹ. Mục đích là nhấn mạnh sự hiện diện của Mẹ Thiên Chúa trong cuộc sống của người trẻ, nhất là trong đức tin và lòng sùng mộ của các dân tộc Trung Mỹ.

Hỏi: Các HGĐM Trung Mỹ có mạnh mẽ ủng hộ Ngày quốc tế giới trẻ tại Panama không thưa ĐHY?Và lý do tại sao?

Đáp: Có. Các HĐGM Trung Mỹ châu ủng hộ việc đề nghị Ngày quốc tế giới trẻ tại Panama. Và đây là một nét nổi bật khác nữa của Ngày quốc tế giới trẻ. Và lộ trình chuẩn bị lôi cuốn cả các lực lượng của Giáo Hội cũng như của các xã hội tại Trung Mỹ. Lý do vì Panama có vị thế quan trọng, bởi vì chính tại đây Tin Mừng đã vào Mỹ châu. Và giáo phận La Antiqua đã được thành lập năm 1513 là giáo phận đầu tiên tại Mỹ châu.

Hỏi: Thưa ĐHY, Ngày quốc tế giới trẻ 2019 có là dịp giúp suy tư về hiện tượng di cư tỵ nạn hay không, và sứ điệp của nó có được nới rộng cho cả các tôn giáo khác nữa  không?

Đáp: Ngày quốc tế giới trẻ 2019 sẽ không chỉ là một dịp để kỷ niệm, mà cũng là dip để nhìn vào thực tại, qua ống kính ưu tiên của một nơi chốn là trung tâm của biết bao nhiêu lộ trình di cư từ nam lên bắc. Trong thời gian này là thời gian người ta nói nhiều tới người di cư, điểm hẹn tại Panama được đề nghị như là lúc suy tư về một trong các hiện tuợng với các mặt trái xã hội có ý nghĩa nhất  đối với các người nam nữ của thời đại chúng ta.

Tôi cũng đã tiếp nhận tích cực ý tưởng mời các bạn trẻ thuộc các tôn giáo khác thám dự để nới rộng ý nghĩa và sứ điệp  của Ngày quốc tế giới trẻ. Thực ra đây là điều đã luôn luôn được làm, vì tất cả các bạn trẻ kitô đều được mời gọi tham dự Ngày quốc tế giới trẻ, nhưng trong một thực tại như Trung Mỹ nó lại còn có một ý nghĩa lớn hơn nữa, bởi vì nó có thể là một câu trả lời của Giáo Hội công giáo cho các thách đố được đặt ra, đặc biệt bởi khuynh hướng chiêu dụ tín đồ từ phiá các giáo phái.

Hỏi: Thưa ĐHY, đây là lần đầu tiên Ngày quốc tế giới trẻ được triệu tập vào tháng giêng có phải thế không?

Đáp: Không, đây không phải là lần đầu tiên Ngày quốc tế giới trẻ được triệu tập vào tháng giêng. Nó đã xảy ra một lần với Ngày quốc tế giới trẻ trại Manila, và là Ngày quốc tế giới trẻ có số tham dự kỷ lục nhất. Tôi ý thức được các khó khăn mà giới trẻ âu châu có thể gặp phải, vì họ đang phải học, cũng như người trẻ Hoa Kỳ, nhất là các sinh viên đại học, vì đó là thời gian họ phải dấn thân học tập rất bận rộn. Nhưng trong trường hợp này, đặc biệt có các lý do thời tiết và khí hậu, xét vì tại Panama tháng giêng là tháng có ít mưa nhất.

Tiếp theo đây là bài phỏng vấn ĐC Giancarlo Bregantini, TGM Campobasso-Boiano, về Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ.

Hỏi: Thưa ĐC Bregantini, tiếp theo sau Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về gia đình là Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về người trẻ. Nó có thể là một đà tiến mới cho toàn thể Giáo Hội hay không?

Đáp: Trước hết tôi hy vọng rằng ba vấn đề lớn mà người trẻ đang phải sống hiện nay được tiếp nhận. Thứ nhất là nhu cầu lớn của chức làm cha: cần phải tái chiếm lại gương mặt của Thánh Giuse. Ngài đã được đặt bên cạnh Chúa Giêsu, một Giêsu thiếu niên. Vấn đề thứ hai mà THĐGM này phài tiếp nhận đó là sự bấp bênh của người trẻ, và không phải chỉ ở “bên trong” là các vấn đề liên quan tới đức tin, bởi vì đức tin của người trẻ thường bị khủng hoảng vì họ không có công ăn việc làm. Và sự bấp bênh không chỉ là thất nghiệp, mà cả đối với người trẻ có việc làm không thích hợp nữa. Vấn đề thứ ba đó làTHĐGM phải giúp giới trẻ can đảm  hơn trong các lựa chọn ơn gọi, tái phát huy vẻ đẹp là linh mục tu sĩ, nghĩa là trao ban cho Giáo Hội sự nồng nhiệt, sự hăng say, để có thể có một câu trả lời thích hợp trên bình diện ơn gọi, sau một thời gian phân định dài. Điểm thứ nhất, nguời trẻ xin chúng ta đồng hành với họ; điềm thứ hai phải là sự đồng hành của Chúa Giêsu, là Đấng đã làm việc cho tới năm 30 tuổi và cũng ở trong tình trạng bấp bênh của một xưởng mộc. Điểm thứ ba là sự hăng say: giáo Hội Italia và giáo Hội thế giới phải có nhiệt huyết hơn, sốt sắng hơn, đam mê hơn, phải có khả năng sống Niềm vui Phúc Âm hơn.

Hỏi: Thưa ĐC, trong thư ĐTC gửi cho giới trẻ toàn thế giới, chính trong dịp công bố tài liệu này ĐC đã nhấn mạnh rằng Giáo Hội muốn lắng nghe người trẻ, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Vấn đề là đồng hành với người trẻ, lại càng khó khăn hơn nữa việc ở bên cạnh họ, không để cho họ mất đi. Thế rồi nhất là, như trong các cuộc thảo luận cũng đã có trong các giáo phận, cần thiết là đừng vất đi các năm của sự bấp bênh, nhưng là các năm trong đó chúng ta phải giúp họ  đọc lại Phúc Âm với con mắt của sự bấp bênh. Chẳng hạn các Phúc Thật, dưới ánh sáng của sự bấp bênh, xem ra càng phúc âm hơn. Khi đó sự bấp bênh không còn là tuổi mất đi nữa, nhưng là một tuổi của sự hoán cải của toàn thể Giáo Hội; bởi vi tôi không thể đồng hành với giới trẻ, nếu tôi là linh mục có cuộc sống ổn định: tôi là linh mục trẻ tôi có lương của tôi và bạn là người trẻ làm việc trong một thực tại bấp bênh, bạn không có gì khi chiều đến,  vì họ không trả lương cho bạn… Đó là lý do tại sao để ở bên cạnh người trẻ, để đồng hành với họ, người lớn chúng ta – Giáo Hội – phải hoán cải: giới trẻ là một khiêu khích thánh thiện tích cực đối với chúng ta. Vì thế nó không được là một Thượng Hội Đồng Giám Mục trong đó giới trẻ là “đối tượng”, mà trong đó họ phải là “chủ thể” lôi cuốn cả chúng ta thay đổi. Khi lắng nghe sự bấp bênh của giới trẻ, các linh mục trở thành trung thực hơn, các nữ tu trở thành trung thực hơn, nghèo nàn hơn, các thực tại đan tu trở thành cởi mở hơn. Đó là điều tôi mơ ước cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về giới trẻ.

Hỏi: Thưa ĐC, Giáo Hội thành công tới mức nào trong việc hiểu biết giới trẻ, để lắng nghe họ và để đồng hành với họ? Cũng có một đề tài  về việc canh tân ngôn ngữ nữa, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi. Cần phải học từ ĐTC Phanxicô. Bình thường sức mạnh của ngài không ở trong một thứ ngôn ngữ trau truốt, nhưng ở trong một ngôn ngữ chân thực, trong đó bạn trông thấy điều ngài nói với bạn là điều ngài đã sống, đã nội tâm hoá, đã đau khổ…

Hỏi: ĐC đã luôn luôn rất hiện diện trong cuộc sống của người trẻ. Họ đã trao ban cho ĐC những gì? Giới trẻ có thể trao ban gì cho Giáo Hội?

Đáp: Tôi đã học được từ người trẻ rất nhiều trong các trường học, và đây là một trong các điểm nóng mà chúng ta phải tái chiếm. Nghĩa là các linh mục phải gần gũi học đường. Cần phải chế tạo ra một sự hiện diện mới mẻ. Tại sao bạn lại không thể là một tuyên uý trường học? Nghĩa là một linh mục lưu tâm tới một trường học lớn có 500 học sinh: theo dõi chúng, dành cho chúng mỗi tuần một hai ngày ban sáng – hãy tái khám phá ra sự khôn ngoan của cha Milani, không phải “làm gì” ở trường học nhưng là là “dậy học” như thế nào. Theo tôi đó là một trong các không gian cần phải làm việc. Học đường vẫn còn là môt không gian rộng mở: với các cách thức khác nhau, không phải như là giáo sư của môn tôn giáo nữa, nhưng như là việc đồng hành đào tạo của một linh mục trong vùng theo dõi một trường học.

(Oss. Rom 23.24-1-2017)

Linh Tiến Khải