Sứ vụ của cha Giorgio Marengo ở Mông Cổ

Sứ vụ của cha Giorgio Marengo ở Mông Cổ

Ở một nơi mà thời tiết khắc nghiệt như thế nhưng đối với cha Giorgio Marengo, một nhà truyền giáo 44 tuổi, linh mục xứ Arvaiheer nói một các xác tín về sự hiện diện của cha ở đây như sau: "Sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn chúng tôi đến đây”. Ngài nói mười hai năm trước, sau khi trải qua một thời gian ở thủ đô, cha và các nhà truyền giáo đã ra đi tìm một nơi mới để mang Phúc Âm đến cho những người mà cha chắc chắn rằng họ chưa được nghe nói về Chúa, hay đã nghe nói về Chúa rồi nhưng không được hướng dẫn chăm sóc.

Các nhà truyền giáo đã khám phá và đến dừng chân tại một khu vực cách thủ đô Ulaanbaatar 500 kilômét. Đây là một vùng mà Kitô giáo chưa được biết và Phật giáo Tây Tạng là tôn giáo duy nhất được thực hành, cùng với tính chất tâm linh mạnh mẽ của Shaman giáo.

Vào năm 2006, các nhà truyền giáo mở cơ sở thứ hai sau Ulaanbaatar. Từ đây phong cảnh ngoạn mục và bầu trời trong xanh của Trung Á cùng đồng hành với cha Marengo và các anh chị em khác. Mỗi khi đi lên núi cầu nguyện cha Marengo thấy một phần đường chân trời bao la hướng về phía sa mạc Gobi và một phần khác những ngọn núi của dãy núi Hangai; chính phong cảnh bao la này đánh thức mạnh mẽ lòng nhiệt thành đem Tin Mừng đến cho người dân ở đây của cha. Lúc đầu, các nhà truyền giáo thuê một nhà trọ rồi chia thành những phòng nhỏ để tiện sử dụng, và sau một năm cha nhận được giấy phép xây dựng một ngôi nhà, cơ sở sản sản xuất và một ngôi nhà thờ.Lúc đầu người dân ở đây thắc mắc về những người nước ngoài này là ai; nhưng rồi với với thời gian cha và các cộng tác viên từ từ hội nhập với cuộc sống của người dân, và mọi người không còn cảm thấy xa lạ với những người ngoại quốc này nữa. Cuộc sống của cha và mọi người bắt đầu bằng giờ cầu nguyện, kinh phụng vụ và sau đó là phục vụ người nghèo.

Bốn năm sau, một nhóm sáu người phụ nữ đầu tiên được rửa tội. Ngày nay số giáo dân là bốn mươi người. Cha Giorgio Marengo và các nhà truyền giáo khác đến từ Tanzaina, Congo và Italia. Mọi người sống ở ngoại ô của làng nơi có 35 nghìn người sinh sống. Giáo hội ở Mông Cổ thực tế có một lịch sử cổ đại, có niên đại 1000 năm, nhưng chỉ cách đây 26 năm, mới có sự hiện diện các cơ sở Công giáo, nhờ sự xuất hiện của ba nhà truyền giáo đầu tiên có nguồn gốc Bỉ vào năm 1992. Thực tế, Giáo hội ở đây vẫn còn là cón số bé nhỏ, có 1.300 người lãnh nhận bí tích Rửa tội tại một đất nước lớn gấp năm lần so với Italy.

Tuy nhiên, cha Marengo luôn tin rằng hoạt động của Thánh Linh hướng dẫn con người. Cha nói: “Chúng ta có thể đóng vai trò như chất xúc tác, nhưng hành trình, con đường được nhận lãnh đến từ ân sủng”. Ngày sứ vụ bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng bằng việc cầu nguyện, chúc tụng, thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, tiếp theo là Kinh Mân Côi và Thánh Lễ với các giáo dân.

Cha chia sẻ về những công việc nhỏ bé, đơn giản nhưng thực tế của công việc mục vụ như sau: “Vào lúc chín giờ, chúng tôi uống trà với những người đến tham dự thánh lễ và chúng tôi bắt đầu với các hoạt động: ở trường mẫu giáo cho trẻ em, sau đó làm việc nơi phòng tắm công cộng và đồng hành với một nhóm người nghiện rượu muốn thoát khỏi cơn nghiền". Ngoài ra vào mùa hè cha còn hướng dẫn mọi người cách trồng rau để người dân có thể tự cung cấp rau xanh cho mình.

Ở đây, vùng thảo nguyên, truyền thống Phật giáo và Shaman rất mạnh mẽ. Để có thể hội nhập với môi trường và hoàn cảnh tôn giáo các nhà truyền giáo đã nỗ lực tìm một con đường đối thoại liên tôn, và điều này đã được thực hiện. Nhà truyền giáo giải thích: “Mặc dù chủ nghĩa vô thần nhưng nền tảng tôn giáo luôn luôn được bắt nguồn từ lương tâm. Cuộc sống được đọc bằng con mắt tâm linh, hiện tượng này không bao giờ chỉ là tự nhiên mà còn liên kết với điều vô hình”.

Về mặt vật chất, các nhà truyền giáo đã cố gắng tìm cách xoay sở để có thể chia sẻ cuộc sống nghèo khó với người dân ở đây. Để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu nhất không đơn giản. Những người dân nghèo phải sống lệ thuộc vào khoản trợ cấp của chính phủ và các khoản viện trợ khác. Có một cái chợ lớn nơi người ta có thể mua bán các loại gia súc như lạc đà, cừu, dê… và những sản phẩm từ gia súc như da, len, sữa…. Mông cổ có 3 triệu dân so với 61 triệu đầu gia súc.

Với hoàn cảnh khó khăn và thời tiết khắc nghiệt như vậy nhưng cha Giorgio Marengo và các nhà truyền giáo luôn xác tín vào sự dẫn dắt quan phòng của Thiên Chúa trên hành trình truyền giáo

Ngọc Yến, Vatican

Đức Thánh Cha gặp gỡ các bạn trẻ và tín hữu thành Lima

Đức Thánh Cha gặp gỡ các bạn trẻ và tín hữu thành Lima

LIMA. ĐTC kêu gọi giới trẻ Peru vượt thắng những khó khăn, những ý tưởng tiêu cực, và tín thác nơi tình yêu Thiên Chúa.

 Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 21-1-2018 tại Quảng trường Quân đội trước tòa TGM Lima, Peru, trước sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu, nhất là người trẻ.

 Bài huấn dụ

 Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC nhắc đến những khó khăn mà các bạn trẻ có thể gặp phải, những ý tưởng tiêu cực có thể tràn tới. Ngài nói:

 ”Có những lúc các bạn có thể nghĩ rằng mình không thể thực hiện được những ước muốn của cuộc đời các bạn, những ước mơ của các bạn. Tất cả chúng ta đều trải qua những tình trạng như thế. Các bạn thân mến, trong những lúc đó, khi mà đức tin dường như bị tắt lịm, các bạn đừng quên rằng Chúa Giêsu ở cạnh các bạn. Đừng coi mình là người đã thất bại rồi, đừng mất hy vọng. Đừng quên các thánh từ trời cao đang đồng hành với chúng ta..

 ĐTC nói tiếp: ”Chúa Giêsu muốn thấy các bạn tiến bước, tiếp tục theo đuổi các lý tưởng và bạn quyết định theo những giáo huấn của Chúa. Ngài sẽ dẫn các bạn trên con đường hạnh phúc thật, một con đường không dễ dàng nhưng làm cho các bạn say mê, một con đường mà các bạn không thể đi một mình, nhưng thành nhóm, trong đó mỗi người có thể cộng tác bằng cách đóng góp phần tốt nhất của mình.

 ĐTC cũng nhắn nhủ các bạn trẻ đừng nản chí: ”Chúa có một dự phóng cho mỗi người trong các bạn, Chúa yêu thương các bạn như thực thể hiện nay của các bạn và ngài có một mơ ước cần thực hiện với mỗi người trong các bạn. Các bạn đừng quên điều này: Chúa không bao giờ nản chí đối với chúng ta. Và nếu các bạn nản chí, thì tôi mời các bạn hãy đọc Thánh Kinh, và nhớ đến những người bạn mà Thiên Chúa đã chọn: Môisê là người nói cà lâm, Abraham là một cụ già, Giêrêmia quá trẻ, Zakêu là một người lùn; các môn đệ, khi Chúa bảo các ông cầu nguyện, thì các ông lại thiếp ngủ đi; Phaolô là một người bách hại các tín hữu Kitô, Phêrô đã chối Chúa… Khi Chúa Giêsu nhìn chúng ta, Chúa không nghĩ chúng ta thiện hảo thế nào, nhưng ngài nghĩ đến tất cả tình yêu mà chúng ta có trong con tim để trao tặng tha nhân và phục vụ họ. Đối với Chúa, đó là điều đáng kể và Chúa luôn nhấn mạnh về điều đó.. Câu hỏi duy nhất là: con có muốn theo Thầy để làm môn đệ của Thầy hay không?

 Kêu gọi hòa bình cho Cộng hòa dân chủ Congo

 Cuối bài huấn dụ trên đây, trước khi đọc kinh Truyền tin, ĐTC còn lên tiếng về tình hình xáo trộn tại Cộng hòa dân chủ Congo bên Phi châu: cảnh sát và quân đội đã đàn áp cuộc biểu tình hôm chúa nhật 21-1 ở thủ đô Kinshasa làm cho 5 người chết và hàng chục người bị thương. Dân chúng biểu tình chống tổng thống Kabila tham quyền cố vị, mặc dù đã kết hai nhiệm kỳ làm tổng thống. ĐTC nói:

 ”Hôm nay tôi được tin rất đáng lo từ Cộng hòa dân chủ Congo: chúng ta hãy nghĩ đến Congo. Trong lúc này, từ quảng trường này, với tất cả các bạn trẻ tại đây, đôi kêu gọi chính quyền, với các giới hữu trách và tất cả mọi người tại nước Congo yêu quí, hãy hết sức dấn thân và cố gắng tối đa để tránh mọi hình thức bạo lực và tìm kiếm những giải pháp thuận lợi cho công ích. Tất cả cùng nhau trong thinh lặng, chúng ta hãy cầu nguyện cho ý chỉ đó, cho các anh chị em chúng ta ở Cộng hòa dân chủ Conggo.

 Sau kinh truyền tin và ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa trưa.

 G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. ĐTC phê bình nước giàu mạnh áp đặt các ”nhân quyền mới” như ”quyền phá thai”, hôn nhân tính, v.v. cho các nước nghèo là một hình thức mới ”thực dân ý thức hệ”.

Trên đây là một trong những vấn đề được ĐTC đề cập đến trong diễn văn dài khi tiếp ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, lúc 10 giờ 30, sáng ngày 8-1-2018, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

 Hiện diện tại buổi tiếp kiến có các đại diện của 183 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ. Trong số này, có 83 đại sứ thường trú ở Roma và 100 vị khác từ các nhiệm sở khác cũng đến Vatican trong dịp này.

Buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm và chúc mừng năm mới tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn. Ngài nhắc đến các vị đại sứ đến từ ngoài Roma với con số gia tăng, và một số hiệp định đã được ký kết trong năm qua giữa Tòa Thánh và một số nước như Cộng hòa dân chủ Congo, Cộng hòa Liên bang Đức, và Liên bang Nga. ĐTC không quên nhắc đến những chuyến viếng thăm ngài thực hiện trong năm vừa qua như Ai Cập, Bồ đào nha, Colombia, Myanmar và Bangladesh.

Nội dung tổng quát

Trong diễn văn dài, ĐTC lần lượt đề cập đến những vấn đề thời sự của thế giới, từ việc kỷ niệm 70 năm công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của LHQ, cho đến hiện tượng nảy sinh những cái gọi là ”các nhân quyền mới” nhiều khi mâu thuẫn với nhau và không luôn luôn giúp thăng tiến các quan hệ thân hữu giữa các quốc gia. Ngài cũng nói về việc giải trừ võ trang, đặc biệt là các võ khí hạt nhân. ĐTC kêu gọi hỗ trợ mọi cố gắng đối thoại ở bán đảo Triều Tiên, và giải quyết hiện tượng số người di dân và tị nạn ngày càng gia tăng.

ĐTC nhắc đến những vùng khó khăn, từ tương quan giữa Israel và Palestine, tình trạng tại Venezuela, Nam Sudan, Cộng hòa dân chủ Congo, Ucraina. Rồi ngài chống lại thái độ sợ hãi trước những người di dân và tị nạn, đồng thời ca ngợi những chính phủ quảng đại đón nhận và giúp đỡ nhiều ngừơi di dân và tị nạn, trong đó có những người Rohingya từ Myanmar chạy sang Bangladesh. Ngài hy vọng trong năm nay LHQ sẽ đạt tới hai hiệp ước hoàn cầu về người di dân và tị nạn, tiến tới sự di cư an toàn, có trật tự và hợp pháp. Sau cùng ĐTC cũng tái khẳng định quyền có công ăn việc làm, nghĩa vụ bảo vệ trái đất như căn nhà chung của chúng ta. Sau đây là một số đoạn nổi bật trong diễn văn của ĐTC trước các vị đại sứ các nước.

Hòa bình

ĐTC nhắc đến kỷ niệm trong năm nay 100 năm chấm dứt thế chiến thứ I. ”Từ những tro tàn của Thế chiến này, người ta có thể rút ra những lời cảnh cáo, nhưng rất tiếc nhân loại không biết hiểu ngay những điều đó, để rồi 20 năm sau lại lâm vào thế chiến thứ hai tàn hại hơn trước.

Lời cảnh giác đầu tiên là: chiến thắng không bao giờ có nghĩa là hạ nhục đối phương bị thất trận. Hòa bình không được xây dựng như một sự khẳng định quyền của kẻ chiến thắng trên kẻ chiến bại. Không phải luật sợ hãi ngăn cản được những gây hấn trong tương lai, nhưng là sức mạnh của lý trí hiền lành thúc đẩy đối thoại và cảm thông lẫn nhau, để chữa lành những dị biệt. Từ đó có lời cảnh giác thứ hai, đó là hòa bình được củng cố khi các nước có thể đối chiếu với nhau trong bầu không khí bình đẳng..

ĐTC nhắc nhở rằng ”Cả các quan hệ giữa các quốc gia, cũng như các quan hệ giữa con người với nhau, phải được điều hành trong sự thật, công lý, trong tình liên đới thực sự và trong tự do”. Điều này bao gồm nguyên tắc theo đó toàn thể các cộng đồng chính trị bình đẳng với nhau về phẩm giá tự nhiên, cũng như sự nhìn nhận các quyền hỗ tương, cùng với sự chu toàn các nghĩa vụ tương ứơng. Để có thái độ như thế, điều tiên quyết là khẳng định phẩm giá của mỗi người; sự khinh rẻ và không nhìn nhận phẩm giá ấy sẽ đưa tới những hành vi man rợ, xúc phạm đến lương tâm của nhân loại.

Kỷ niệm 70 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền

Trong bối cảnh trên đây, ĐTC đề cập đến kỷ niệm 70 năm công bố tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, được LHQ công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948. Ngài nói:

“Đối với Tòa Thánh, nói về các quyền con người, có nghĩa trước tiên là tái đặt lại vị trí trung tâm của con người, trong tư cách được Thiên Chúa muốn và tạo dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa.. Trong nhãn giới Kitô giáo, có một tương quan ý nghĩa giữa sứ điệp Tin Mừng và sự nhìn nhận các quyền con người, trong tinh thần của những người đã soạn thảo Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền'.

”Các quyền ấy rút tiền đề của chúng ta bản tính chung của mỗi người trong nhân loại. Các quyền ấy được tuyên bố để loại bỏ những bức tường chia cách, phân rẽ gia đình nhân loại và tạo điều kiện thuận lợi cho điều mà giáo huấn xã hội Công Giáo gọi là ”sự phát triển nhân bản toàn diện” vì nó nhắm thăng tiến mọi người và toàn diện con người, bao trùm cả toàn thể nhân loại. Trái lại, quan niệm hẹp hòi về con người mở đường cho sự phổ biến bất công, bất bình đẳng và tham nhũng.

ĐTC nhận xét rằng qua dòng thời gian, nhất là theo sau những phong trào xã hội hồi năm 1968, người ta dần dần giải thích các quyền con người và thay đổi chung, đến độ bao gồm nhiều thứ quyền mới nhiều khi trái ngược nhau. Tình trạng này không giúp thăng tiến các quan hệ thân hữu giữa các quốc gia, vì người ta khẳng định những ý niệm gây tranh cãi về các quyền con ngươi, tương phản với văn hóa của nhiều nước, vì thế các nước này cảm thấy không được tôn trọng trong các truyền thống văn hóa xã hội của mình, nhưng các nước ấy lại bị lơ là trước những nhu cầu thực sự mà họ phải đương đầu. Vì thế có nguy cơ là nhân dành cũng những nhân quyền, người ta thiết lập những hình thức mới về sự thực dân hóa ý thức hệ của những kẻ giàu mạnh hơn trên những người yếu nghèo hơn. Đồng thời cần để ý rằng các truyền thống của mỗi dân tộc không thể được nại đến như cái cớ để lơ là nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền căn bản được nói đến trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền.

ĐTC khẳng định rằng ”70 năm sau khi công bố tuyên ngôn nhân quyền ấy, thật là đau lòng mà phải nhận rằng nhiều quyền căn bản ngày nay vẫn còn bị chà đạp. Đứng đầu là quyền sống, quyền được tự do, sự bất khả xâm phảm của mỗi nhân vị. Không những chiến tranh hoặc bạo lực làm thương tổn các quyền ấy nhưng ngày nay còn có những hình thức tinh vi hơn: trước tiên tôi nghĩ đến các trẻ em vô tội bị gạt bỏ trước khi sinh ra; nhiều khi các em không được người ta muốn chì vì các em bị tật hoặc dị hình, hoặc vì sự ích kỷ của người lớn. Tôi nghĩ đến những người già, nhiều khi họ cũng bị gạt bỏ, nhất là nếu họ bệnh tật, bị coi là gánh nặng. Tôi nghĩ đến các phụ nữ, nhiều khi bị bạo hành, nhất là trong gia đình họ. Tôi nghĩ đến bao nhiêu nạn nhân của nạn buôn người, tệ nạn này vi phạm luật cấm mọi hình thức nô lệ. Bao nhiêu người, nhất là để trốn chạy nghèo đói và chiến tranh, đã bị biến thành những món hàng của những kẻ vô lương tâm.

Tôn trọng quyền được săn sóc sức khỏe

ĐTC nói thêm rằng ”bảo vệ quyền sống và sự toàn vẹn thể lý, có nghĩa là bảo vệ quyền được sức khỏe cho bản thân và gia đình. Quyền này bao hàm những điều vượt quá ý hướng ban đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, nhắm khẳng định quyền của mỗi người được săn sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết. Trong viễn tượng này tôi cầu mong rằng trong các diễn đàn quốc tế có thẩm quyền, các vị hữu trách nỗ lực tạo điều kiện để mọi người có thể được hưởng sự săn sóc sức khỏe. Điều quan trọng là cần hiệp lực để có thể có những chính sách có thể đảm bảo với giá phải chăng sự cung cấp các thuốc men thiết yếu cho sự sống còn của những người nghèo, mà không lơ là với việc nghiên cứu và phát triển các phương pháp chữa trị, dù chúng không quan trọng về kinh tế đối với thị trường. Những nghiên cứu và phát triển ấy giữ vai trò chủ yếu trong việc cứu vãn sinh mạng con người.

ĐTC nhận xét rằng liên quan tới bảo vệ sự sống là nỗ lực tích cực xây dựng hòa bình, và từ đó ngài nói đến sự giải giáp toàn diện và sự phát triển toàn diện, hai điều có liên hệ mật thiết với nhau. Đàng khác, sự tìm kiếm hòa bình là điều kiện tiên quyết để phát triển, nó bao hàm sự bài trừ những bất công và loại bỏ một cách ôn hòa những nguyên nhân gây ra bất thuận đưa tới chiến tranh.

Giải trừ võ trang

ĐTC khẳng định rằng ”sự lan tràn võ khí chắc chắn là làm cho những tình trạng xung đột trở nên trầm trọng hơn và bao gồm những tốn phí lớn lao về nhân mạng và vật chất, làm tổn hại cho sự phát triển và tìm kiếm hòa bình lâu dài.”

Ngài nhắc lại sự kiện Tòa Thánh đã ký nhận và phê chuẩn Hiệp ước cấm các võ khí hạt nhân, trong viễn tượng đã được thánh Gioan 23 Giáo Hoàng trình bày trong thông điệp Hòa bình dưới thế, theo đó ”công lý, sự khôn ngoan và tình nhân đạo đòi phải ngưng cuộc chạy đua võ trang, đồng thời cùng nhau giảm bớt các võ khí hiện hữu, nghiêm cấm các võ khí hạt nhân”.

Hỗ trợ sáng kiến đối thoại tại Bán đảo Triều Tiên

Trong viễn tượng trên đây, ĐTC nói: ”Điều rất quan trọng là có thể hỗ trợ mọi cố gắng đối thoại ở bán đảo Triều Tiên, với mục đích tìm ra những con đường mới để vượt lên trên những đối nghịch hiện nay, gia tăng sự tín nhiệm nhau và đảm bảo một tương lai an bình cho dân tộc Đại Hàn và cho toàn thế giới.

Hòa bình tại Syria và Iraq

Cũng vậy, điều quan trọng là tiếp tục những sáng kiến hòa bình khác nhau hiện nay để giúp đỡ Siria, hầu chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, gây ra những đau khổ vô biên cho dân nước này. Mong ước của mọi người là sau bao nhiêu tàn phá, nay đã đến lúc tái thiết. Điều quan trọng hơn việc tái thiết nhà cửa, đó là tái tạo con tim, dệt lại sự tín nhiệm nhau, là tiền đề không thể thiếu được để cho bất kỳ xã hội nào có thể triển nở. Vì thế cần cố gắng làm việc để tạo ra những điều kiện pháp lý, chính trị và an ninh, để phục hồi đời sống xã hội, trong có mỗi công dân Syria, không phân biệt chủng tộc và tôn giáo, có thể tham gia vào việc phát triển đất nước. Trong chiều hướng này, cần phải bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số, trong đó có các tín hữu Kitô, từ bao thể kỷ họ vẫn tích cực góp phần cho lịch sử của Syria.

ĐTC nhấn mạnh rằng điều quan trọng là làm sao giúp hồi hương những người tị nạn Siria ở các nước láng giềng, đặc biệt là Giordani, Liban và Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngài cũng cổ võ ý chí cần thiết cho cuộc đối thoại tại Iraq, để các thành phần chủng tộc và tôn giáo khác nhau có thể tìm lại con đường hòa giải và sống chung hòa bình, cộng tác với nhau. Điều này cũng cần phải thực hiện ở Yemen, và các ni khác trong vùng, cũng như tại Afganistan.

Israel và Palestine

ĐTC nói thêm rằng: Tôi đặc biệt nghĩ đến người Israel và Palestine, sau những căng thẳng trong những tuần lễ gần đây. Tòa Thánh bày tỏ đau buồn vì những người bị thiệt mạng trong các cuộc đụng độ gần đây, và tái tha thiết kêu gọi nghĩ đến các sáng kiến để tránh làm gia tăng sự đối nghịch, đồng thời Tòa Thánh mời gọi cùng dấn thấn tôn trọng các nghị quyết của LHQ liên quan đến qui chế hiện nay của thành Jerusalem, Thành Thánh đố với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo.

Di dân và tị nạn

Đề cập thêm về vấn đề di dân và tị nạn, ĐTC nhận xét rằng: Ngày nay người ta nói nhiều về những người di dân và các cuộc di cư, nhiều khi chỉ nhắm khơi lên sự sợ hãi truyền thống. Không được quên rằng các cuộc di cư vẫn luôn có trong lịch sử nhân loại. Trong truyền thống Do thái Kitô, lịch sử cứu độ chủ yếu là lịch sự các cuộc di cư. Không được quên rằng tự do di chuyển, cũng như tự do rời bỏ quê hương mình, và trở lại đó, thuộc về những quyền căn bản của con người. Vì thế cần phải ra khỏi những lập luận gần đây về vấn đề di cư, và đi từ nhận xét cốt yếu theo đó, những kẻ đứng trước chúng ta, trước tiên là những con người.

ĐTC tái cám ơn những chính quyền quốc gia trong những năm qua đã giúp đỡ nhiều người di dân đến biên giới đất nước liên hệ, trong đó có nhiều nước Á Phi. Ngài nói: ”Tôi vẫn còn nhớ cuộc gặp gỡ tại Dacca với một số người tị nạn thuộc dân tộc Roghingya và tái bày tỏ tâm tình biết ơn đối với chính quyền Bangladesh vì đã giúp đỡ họ trên lãnh thổ của mình”.

G. Trần Đức Anh OP

 

Chứng từ của bà Noella về sự trợ giúp của Đức Mẹ Maria

Chứng từ của bà Noella về sự trợ giúp của Đức Mẹ Maria

Noella Castiglioni là một phụ nữ gốc Congo. Vào năm 21 tuổi, Noella đã kết hôn với Adelio, một tình nguyện viên hoạt động tại Congo trong nhiều năm. Họ đã có với nhau 3 đứa con. Sau đó, đôi vợ chồng trở về Italia sinh sống, nhưng bà Noella và gia đình thường trở lại Congo để cộng tác với chồng, tiếp tục các hoạt động tại đây.

Năm 1995, một sự kiện đau thương đã xảy ra với họ và đã thay đổi cuộc sống của bà và gia đình. Vào tháng 8, trên đường chuẩn bị cho chuyến trở về Italia, họ đã bị tấn công. Chồng của bà Noella, 2 người con và e tình nguyện viên của hiệp hội “Thế giới công bằng” đã bị giết chết thảm thương. Bà Noella đã sống sót cách kỳ diệu, nhưung sau nhiều tháng chữa trị trong bệnh viện, bà đã bị mất lá lách, thận và không thể sử dụng đôi chân; bà phải ngồi xe lăn.

Từ năm 1998, bà theo đoàn hành hương giáo phận đến Lộ đức, nhờ sự giúp đỡ của người bạn Enzo Castelli. Hiện nay, ông Enzo đã qua đời, nhưng có người con trai của ông là anh Ivan giúp đỡ bà. Bà Noella có một niềm tin lớn lao nơi Đức Mẹ, bà luôn tạ ơn Đức Mẹ vì đã nâng đỡ bà.

Đức Mẹ là sức mạnh của bà, sức mạnh mà bà tìm được sau khi xảy ra thảm kịch năm 1995, và cũng chính với sức manh này, bà Noella đã thành lập hội Parsac. Qua hiệp hội này, bà Noella đã hoạt động để giúp cho Congo, ví dụ như xây dựng một trường cho 350 trẻ em, hay một trung tâm cho trẻ câm điếc hay mù lòa, nơi có thể đón tiếp 50 em. Hiện nay bà Noella có một dự án được mở gần thủ đô Kinshasa, đó là trung tâm đón tiếp các trẻ em con của các bà mẹ bị bạo lực tình dục. Ở Congo, những phụ nữ này thường bị bỏ rơi.

Người phụ nữ ngồi xe lăn này có một sức mạnh nội tâm to lớn. Dù cho những thử thách nặng nề bà đã chịu, bà không bao giờ ngừng chiến đâu. Bà nói rằng Đức Mẹ giúp bà, ban cho bà khả năng biến những đau thương xảy ra với bà thành điều tốt. Bà đang giúp đỡ cho rất nhiều người. (Giornale del Popolo 25/08/2017)

Hồng Thủy

Thiên Chúa là Cha, Đấng đổi mới mọi sự

Thiên Chúa là Cha, Đấng đổi mới mọi sự

** Niềm hy vọng kitô dựa trên lòng tin nơi Thiên Chúa là Cha, Đấng luôn luôn tạo dựng các sự mới mẻ trong cuộc sống con người, trong lịch sử và trong vũ trụ. Đấng luôn luôn lo lắng cho con người, muốn cho con người đuợc hạnh phúc và khóc các giọt nước mắt của lòng thương xót và hiền dịu vô biên đối với các con cái mà Ngài giang tay chờ đón trong thành Giêrusalem thiên quốc.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung tại đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa văn bản trích từ chương 21  sách Khải Huyền, viết rằng: “Đấng ngự trên ngai phán: "Này đây Ta đổi mới mọi sự." Rồi Người phán: "Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật." Người lại phán với tôi: "Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải trả tiền. Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta” (Kh 21,5-7).

ĐTC nói: Chúng ta vừa mới nghe Lời Chúa trong sách Khải Huyền nói rằng: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5). Niềm hy vọng kitô dựa trên lòng tin nơi Thiên Chúa là Đấng luôn luôn tạo dựng sự mới mẻ trong cuộc sống con người, tạo dựng sự mới mẻ trong lịch sử và tạo dựng sự mới mẻ trong vũ trụ. Thiên Chúa của chứng ta là Thiên Chúa tạo dựng sự mới mẻ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của các ngạc nhiên. Mới mẻ và ngạc nhiên. ĐTC giải thích thêm:

Thật không phải là kitô bước đi với cái nhìn hướng về phía dưới – như các con heo làm: chúng luôn luôn đi như vậy –  mà không ngẩng mắt nhìn chân trời. Làm như thể tất cả con đường của chúng ta tắt ngấm ở đây, trong vài mét của cuộc du hành, làm như thể trong cuộc sống chúng ta không có mục đích nào và không có bến đậu nào, và chúng ta bị bắt buộc lang thang vô tận, không có lý do nào đối với biết bao mệt nhọc của mình. Điều này không phải là kitô.

** Các trang cuối cùng của Thánh Kinh cho chúng ta thấy chân trời cuối cùng của con đường của tín hữu: đó là thành Giêrusalem trên trời, thành Giêrusalem thiên quốc. Nó được tưởng tượng như là một ngôi lều mênh mông, nơi Thiên Chúa sẽ tiếp đón tất cả mọi người để vĩnh viễn ở với họ (Kh 21,3). Đấy là niềm hy vọng của chúng ta.

Và Thiên Chúa sẽ làm gì, khi sau cùng chúng ta sẽ ở với Ngài? Ngài sẽ dùng sự dịu hiền vô tận đối với chúng ta như một người cha tiếp đón các con của mình đã vất vả khổ đau lâu dài. Thánh Gioan nói tiên tri trong sách Khải Huyền như sau: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại… Thiên Chúa sẽ làm gì? Ngài sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất… Này đây Ta đổi mới mọi sự" (Kh 21,3-4). Thiên Chúa của sự mới mẻ.

Anh chị em hãy thử suy gẫm văn bản này của Thánh Kinh không phải một cách trừu tượng, nhưng sau khi đã đọc một tin tức thời sự, sau khi xem tin tức trên đài truyền hình hay trang nhất của các nhật báo, nơi có biết bao thảm cảnh, nơi người ta đưa các tin buồn khiến cho chúng ta có nguy cơ quen thuộc với chúng. Tôi đã chào vài anh chị em đến từ Barcelona: biết bao tin buồn đến từ đó! Tôi đã chào vài người đến từ Congo, và có biết bao tin buốn đến từ đó! Và có biết bao nhiêu là tin buồn khác! Để chỉ nói lên hai tin từ các anh chị em ở đây…Anh chị em hãy thử nghĩ tới gương mặt của các trẻ em sợ hãi vì chiến tranh, tới tiếng khóc của các bà mẹ, tới các giấc mơ bị gẫy vụn của biết bao nhiêu người trẻ, tới các người tỵ nạn phải đương đầu với các cuộc hành trình kinh khủng, và họ bị khai thác bóc lột hai lần… Rất tiếc cuộc sống cũng là như thế. Đôi khi lại muốn nói rằng cuộc sống nhất là như vậy. Có lẽ thế. Nhưng có một Ngưởi Cha khóc với chúng ta: có một Người Cha khóc các giọt nước mắt của lòng thương xót vô biên đối với các con cái Ngài. Chúng ta có một Người Cha biết khóc, khóc với chúng ta.

Một người Cha chờ đợi chúng ta để an ủi chúng ta, bởi vì Ngài hiểu biết  các khổ đau của chúng ta và đã chuẩn bị cho chúng ta một tương lai khác. Đó là quan điểm vĩ đại của niềm hy vọng kitô, nở rộng trên mọi ngày sống của chúng ta và muốn nâng chúng ta dậy.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Thiên Chúa đã không muốn các cuộc sống của chúng ta vì sai lầm, bằng cách bắt buộc chính Ngài và chúng ta phải sống các đêm đen của âu lo. Trái lại Ngài đã tạo dựng chúng ta vì Ngài muốn chúng ta được hạnh phúc. Ngài là Cha chúng ta, và nếu chúng ta ở đây, bây giờ sống kinh nghiệm một cuộc sống không phải là cuộc sống mà Ngài đã muốn cho chúng ta, thì Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chính Thiên Chúa đang thực thi việc cứu chuộc của Ngài. Ngài làm việc để cứu chuộc chúng ta. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Chúng ta tin và biết rằng cái chết và thù hận không phải là các tiếng nói sau cùng được đọc lên trên parabol cuộc sống là người của chúng ta. Là kitô hữu bao gồm một viễn tượng mới mẻ: một cái nhìn tràn đầy hy vọng. Có ai đó tin rằng cuộc sống giữ lại mọi hạnh phúc của nó trong tuổi thanh xuân và trong quá khứ, và sống là một rơi rụng từ từ. Người khác nữa thì cho rằng các niềm vui của chúng ta chỉ là các điều có thời có lúc, mau qua, và trong cuộc sống con người có khắc ghi sự vô nghĩa. Những người mà trước biết bao tai ương nói: “Cuôc sống không có ý nghĩa. Con đường của chúng ta là một vô nghĩa.” Nhưng là kitô hữu chúng ta không tin điều đó. Trái lại chúng ta tin rằng ở chân trời của con người có một mặt trời chiếu sáng luôn mãi. Chúng ta tin rằng các ngày sống tươi đẹp hơn của chúng ta còn phải tới. Chúng ta là người của mùa xuân hơn là của mùa thu.

Bây giờ tôi thích hỏi anh chị em điều này – mỗi người hãy tự trả lời trong con tim của mình, trong thinh lặng, nhưng hãy trả lời: “Tôi là một người nam, một phụ nữ, một thanh niên, một thiếu nữ của mùa xuân hay của mùa thu? Linh hồn tôi đang ở trong mùa xuân hay trong mùa thu? Mỗi người hãy tự trả lời đi.  Chúng ta nhận ra các mầm giống của một thế giới mới hơn là các lá vàng úa trên cành. Chúng ta không ru ngủ mình trong các nhớ nhung, tiếc nuối và than thở: chúng ta biết rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta được thừa hưởng gia nghiệp của một lời hứa, và là những người không mỏi mệt vun trồng các giấc mơ. Xin anh chị em đừng quên câu hỏi này: “Tôi là một người của mùa xuân hay của mùa thu? Của mùa xuân đang chờ đọi hoa, đang chờ đợi quả, đang chờ đợi mặt trời là Chúa Giêsu, hay của mùa thu luôn luôn với gương mặt cúi gầm xuống dưới đất, cay đắng và như nhiều lần tôi đã nói, với gương mặt của các trái ớt ngâm giấm, đúng không? Vậy đó…

Kitô hữu biết rằng Nước Thiên Chúa và quyền bính tình yêu thương của Ngài đang lớn lên như một cánh đồng lúa, cả khi có có lùng ở giữa. Luôn luôn có các vấn đề, có các bép xép, có các chiến tranh, có các bệnh tật… có các vấn đề. Nhưng hạt lúa lớn lên và sau cùng sự dữ sẽ bị loại trừ. Tương lại không tuỳ thuộc chúng ta, nhưng chúng ta biết rằng Chúa Giêsu Kitô là ơn cao cả nhất  của sự sống: là vòng tay ôm của Thiên Chúa, Đấng chờ đợi chúng ta ở cuối đường, nhưng giờ đây Ngài đồng hành với chúng ta và an ủi chúng ta trên đường đời. Ngài dẫn đưa chúng ta tới ngôi lều vĩ đại của Thiên Chúa với con người (x. Kh 21,3), với biết bao nhiêu các anh chị em khác, và chúng ta sẽ đem tới cho Thiên Chúa kỷ niệm của các ngày sống trên trần gian này.

Và sẽ thật là đẹp khám phá ra trong lúc đó rằng đã không có gì bị mất cả, không có gì bị mất, kể cả một giọt nước mắt: không có gì bị mất, không nụ cười nào và không giọt nước mắt nào bị mất cả. Cho dù cuôc đời chúng ta có dài đi nữa, xem ra nó đã chỉ được sống trong một hơi thở.  Và cuộc tạo dựng đã không ngừng lại ở ngày thứ sáu của sách Sáng Thế, việc tạo dựng đã không kết thúc vào ngày thứ sáu, nhưng đã kéo dài không mệt mỏi, bởi vì Thiên Chúa đã luôn luôn lo lắng cho chúng ta. Cho tới ngày trong đó mọi sự sẽ hoàn tất, trong buổi sáng trong đó các giọt nước mắt sẽ ngưng, trong chính khoảnh khắc, trong đó Thiên Chúa sẽ nói lên lời cuối cùng của phúc lành: “Này đây Ta canh tân mọi sự” (c. 5). Phải, Cha của chúng ta là Thiên Chúa của các sự mới mẻ, và Thiên Chúa của các ngạc nhiên. Và ngày đó chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc, và chúng ta sẽ khóc? Phải, nhưng chúng ta sẽ khóc vì vui sướng.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau đến từ các nước nói tiếng Pháp, cũng như từ Anh quốc, Ấn Độ, Việt Nam, đặc biệt đoàn hành hương của cộng đoàn quốc tế Cardjin (Cardein) nhân kỷ niệm 50 năm ngày ĐHY Joseph Cardjin qua đời. Ngài cầu chúc mọi người quảng đại phục vụ Tin Mừng và làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội.

Với các nhóm nói tiếng Đức ĐTC nói trong các ngày này chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ Maria Nữ Vương trên trời. Chúng ta hãy phó thác cuộc sống cho Mẹ để khi kết thúc con đường trần gian chúng ta cũng đạt đích quê trời như Mẹ.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Tây Ban Nha ĐTC nhắc tới lễ kính thánh Rosa thành Lima, và cầu xin Mẹ Maria trợ giúp kitô hữu duy trì được ánh sáng đức tin và niềm hy vọng giữa các khó khăn và bóng tối cuộc đời.

Với các tín hữu đến từ Libăng, Siria và vùng Trung Đông ngài nhắc lại rằng Thiên Chúa không tạo dựng con người để trở thành mồi cho buồn sầu, âu lo, giòn mỏng và cái chết, nhưng cho cuộc sống hạnh phúc trên quê trời, nơi Ngài sẽ lau sạch mọi nước mắt khổ đau của họ, và sẽ không còn cái chết, mệt nhọc và buồn thương nữa, vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ngài nói thứ Bẩy và Chúa Nhật tới đây nhiều tín hữu sẽ đến hành hương đền thánh Đức Bà Jasna Gora để mừng lễ Đức Bà Czéstochowa và 300 năm đội triều thiên cho ảnh Đức Mẹ. Ước gì dịp lễ gọi là “tiệc cưới Cana Ba Lan” là dịp củng cố việc đào tạo lương tâm và tao trật tự trong cuộc sống cá nhân, gia đình và quốc gia.

Trong các nhóm Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu Phan Sinh thánh Chiara đang họp tổng tu nghị, các chủng sinh tham dự khoá huấn luyện mùa hè lần thứ 25 do tổ chức thánh Philiphê Neri cùng bảo trợ với giáo phận Verona. Ngài cầu chúc các chủng sinh tập sống Tin Mừng ngay từ bây giờ với tinh thần truyền giáo và việc phục vụ người nghèo.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắn nhủ mọi người biết hướng mắt về trời chiêm ngưỡng Mẹ Thiên Chúa, và vun trồng lòng tôn sùng Mẹ với lòng chân thành. ĐTC cũng tỏ tình liên đới với các nạn nhân vụ động đất tại đảo Ischia chiều thứ hai vừa qua. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho những ai đã qua đời, cho các người bị thương, thân nhân và những ai đã bị mất nhà cửa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

LINH TIẾN KHẢI

Đức Thánh Cha kêu gọi ngưng chiến tại Congo

Đức Thánh Cha kêu gọi ngưng chiến tại Congo

KINSHASA. ĐTC kêu gọi các phe lâm chiến ở miền Kasai thuộc Cộng hòa dân chủ Congo hãy ngưng chiến để các nhân viên từ thiện có thể đến cứu trợ dân chúng đang kiệt kệ tại đây.
Trong thánh lễ hôm 29-6-2017, Đức TGM Luis Montemayor, Sứ Thần Tòa Thánh tại Congo, nói rằng ĐTC Phanxicô nhấn mạnh sự cần thiết phải có cuộc ngưng chiến ở miền Kasai. Ngài chỉ thị cho vị đại diện Tòa Thánh ở Hội đồng nhân quyền LHQ tại Geneve, Thụy Sĩ, vận động để có cuộc ngưng chiến tại Kasai hầu cứu trợ dân chúng và bảo vệ các trẻ em”.
Theo chỉ thị của ĐTC, Đại diện Tòa Thánh đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong khóa họp thứ 35 của hội đồng nhân quyền LHQ từ ngày 19 đến 23-6-2017.
Chúa nhật 19-2-2017, trong buổi đọc kinh Truyền Tin ở Roma, ĐTC cho biết ngài đau lòng vì tình trạng dân chúng tại miền Kasai và tố giác sự bất an dân chúng phải chịu đồng thời kêu gọi chính quyền Congo cũng như cộng đồng quốc tế ý thức về thảm trạng này cũng như trách nhiệm đối với dân chúng tại miền Kasai.
Từ tháng 9 năm 2016, miền Kasai bị giao động vì cuộc nổi loạn của phe Kamwina Nsapu, tù trưởng bị giết hồi tháng 8 trước đó trong một cuộc hành quân, sau khi nổi dậy chống chính quyền trung ương của Congo. Bạo lực cho đến nay đã làm cho 3.383 người chết.
Đức TGM Sứ thần Luis Montemayor cũng cho biết chi tiết các cuộc tàn phá tại miền Kasai: Tổng cộng có 5 đại chủng viện, 60 giáo xứ, 34 nhà dòng và 141 trường Công Giáo bị đóng cửa. Thêm vào đó 2 GM là Đức Cha Félicien Mwanama Galumbula, GM giáo phận Luiza, và Đức Cha Pierre – Célestin Tshitoko Mamba, GM giáo phận Luebo, buộc lòng phải tản cư đi nơi khác (Fides 30-6-2017).

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha công bố Sứ Điệp Phục Sinh và ban Phép Lành Urbi et Orbi

Đức Thánh Cha công bố Sứ Điệp Phục Sinh và ban Phép Lành Urbi et Orbi

VATICAN. 16.04.2017. Sau Thánh Lễ Phục Sinh, vào đúng 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha đứng ở bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô để công bố Sứ Điệp Phục Sinh và ban Phép lành Toàn Xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới.

Sứ điệp Phục Sinh

Sau đây là toàn văn Sứ điệp Phục Sinh của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến,
Chúc Mừng Phục Sinh!

Hôm nay trên toàn thế giới, Giáo Hội làm mới lại lời công bố đầy kinh ngạc của các môn đệ đầu tiên. Lời ấy là: “Chúa Giêsu đã phục sinh!” – “Người sống lại thật rồi, đúng như Người đã nói!”.

Lễ Vượt Qua xưa kia là để kỷ niệm ngày dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ, và ở đây, ngày lễ Vượt Qua ấy được trở nên viên mãn nhờ sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Nhờ sự sống lại của Chúa, Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi ách của cái chết, và mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Tất cả chúng ta, khi chúng ta để cho mình bị tội lỗi vây hãm, chúng ta bị rơi vào con đường sai lầm như con chiên lạc. Nhưng Thiên Chúa là Đấng Chăn Chiên đến với chúng ta, tìm chúng ta và cứu chúng ta. Người đã làm tất cả những điều ấy bằng con đường tự hạ, đến độ chịu sỉ nhục và chết trên cây thập tự. Hôm nay chúng ta có thể công bố: “Đấng Mục Tử nhân lành đã phục sinh, Người đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, Người đã đoái thương chết thay cho đoàn chiên, mừng vui lên, Alleluia!” (Sách Lễ Roma, Chúa Nhật IV Phục Sinh, Ca hiệp lễ).

Trong suốt chiều dài lịch sử, Đấng Phục Sinh, Đấng là Mục Tử không biết mệt mỏi đi tìm chúng ta, tìm các anh chị em nơi những sa mạc của thế giới. Và cùng với những dấu thương tích của cuộc Khổ Nạn, dấu tích của tình yêu thương xót, Người đã dẫn dắt chúng ta về con đường của Người, đó là con đường sự sống. Hôm nay cũng thế, Người vác chúng ta trên vai, Người vác trên vai những anh chị em của chúng ta đang chịu biết bao áp bức dưới mọi hình thức.

Đấng Phục Sinh, Đấng Mục Tử lên đường kiếm tìm những ai bị lạc mất trong mê cung của sự cô đơn và cách ly. Người đến gặp họ qua những anh chị em của chúng ta, qua cách đối xử với họ trong tôn trọng và đầy lòng tử tế, bằng cách giúp họ nghe được tiếng của Người, cung giọng của Người là tiếng nói không thể quên được, đó là lời gọi mời trở lại làm bạn với Thiên Chúa.

Người vác lên vai, tất cả những ai là nạn nhân của các hình thức nô lệ cũ và mới, của những lối lao động vô nhân đạo, của những buôn bán bất hợp pháp, của những hình thức bóc lột và bị phân biệt đối xử, của những hình thức nghiện ngập trầm trọng. Người vác lên vai, những đứa trẻ và thanh thiếu niên vô tội bị khai thác bóc lột. Người vác lên vai, những con người chịu tổn thương nặng nề bởi những bạo hành xảy ra trong những bức tường của chính căn nhà họ.

Đấng Phục Sinh, Đấng Mục Tử luôn là bạn đồng hành với những ai buộc phải rời bỏ quê hương xứ sở vì các xung đột vũ trang, vì những cuộc tấn công khủng bố, vì đói kém, vì những chế độ áp bức. Khắp mọi nơi, đối với những người buộc lòng phải trở thành dân nhập cư, Đấng Mục Tử giúp họ gặp được các anh chị em, để họ có thể chia sẻ cho nhau cơm bánh và niềm hy vọng trên hành trình của mình.

Trong những tình huống phức tạp và thường xuyên bất ổn của thế giới ngày nay, nguyện xin Chúa Phục Sinh từng bước hướng dẫn tất cả những ai đang lao tác vì công lý và hòa bình. Xin Người ban lòng can đảm cần thiết cho các nhà lãnh đạo quốc gia, để họ có thể ngăn chặn sự lan tràn của các xung đột, để họ có thể ngăn chặn việc buôn bán vũ khí.

Đặc biệt trong những ngày này, xin Người gìn giữ và chở che tất cả nỗ lực của những ai đang tích cực tham gia vào việc đem lại sự yên ổn và cứu giúp người dân Syria, vì những người dân nơi đây đang là nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng và chết chóc. Từ hôm qua, tin tức mới nhất là lại có thêm cuộc tấn công hèn nhát vào những người tị nạn, làm cho nhiều người bị chết và bị thương. Nguyện xin Người ban hòa bình cho vùng toàn vùng Trung Đông, nơi Đất Thánh cũng như ở Iraq và Yemen.

Nguyện xin Đấng là Mục Tử Nhân Lành luôn gần gũi với người dân Nam Sudan, Sudan, Somalia và Cộng hòa Dân chủ Congo. Họ luôn phải chịu đựng những hậu quả của các hành động thù địch kéo dài, và những nạn đói nghiêm trọng ảnh hưởng trên nhiều vùng châu Phi.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh nâng đỡ nỗ lực của tất cả những ai, đặc biệt ở Châu Mỹ Latinh, đang cam kết bảo đảm lợi ích chung cho cộng đồng, giữa xã hội đang có nhiều căng thẳng chính trị và nhiều khi dẫn đến bạo lực. Nguyện xin những chiếc cầu đối thoại có thể được xây dựng, bằng cách tiếp tục chống lại nạn tham nhũng và đi tìm giải pháp hòa bình, tìm các biện pháp khả thi để giải quyết các tranh chấp, và thúc đẩy thể chế dân chủ trong sự tôn trọng pháp quyền.

Nguyện xin Đấng Mục Tử Nhân Lành đến nâng đỡ người dân Ucraina, vì họ vẫn lầm than trong cuộc xung đột đẫm máu. Xin cho họ tìm được sự hòa hợp và tìm thấy những sáng kiến, để có thể làm giảm bớt những bi kịch đau thương cho mọi người.

Nguyện xin Chúa Phục Sinh tiếp tục ban phúc lành cho lục địa Châu Âu. Xin Người ban niềm hy vọng cho những ai đang trải qua thời khắc khủng hoảng và khó khăn, đặc biệt là tình trạng thất nghiệp cao, nhất là nơi người trẻ.

Anh chị em thân mến, năm nay các tín hữu thuộc mọi Giáo Hội Kitô cùng mừng lễ Phục Sinh với nhau. Với cùng một tiếng nói, từ khắp nơi trên thế giới, chúng ta đồng thanh công bố sứ điệp lớn lao. Đó là: “Chúa sống lại thật rồi, đúng như Người đã nói!” Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã đánh bại bóng tối của tội lỗi và cái chết, xin Người ban cho chúng ta ơn bình an, xin Người ban bình an cho thời đại này.

Chúc Mừng Phục Sinh!

Phép Lành Urbi et Orbi

Đức Hồng Y trưởng đẳng phó tế công bố rằng: Đức Thánh Cha sẽ ban Phép Lành Toàn Xá cho những ai đang hiện diện tại Quảng trường thánh Phêrô, cũng như cho những người đang theo dõi trên các phương tiện truyền thông như truyền thanh truyền hình, hay các phương tiện truyền thông hiện đại khác, với các điều kiện thường lệ, đó là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Sau đó, Đức Thánh Cha đã ban Phép Lành Toàn Xá cho thành Roma và toàn thế giới.

Chúc Mừng Phục Sinh

Sau khi ban phép lành, Đức Thánh Cha ngỏ lời chào thăm và chúc mừng đến mọi người:

Anh chị em thân mến,

Cha muốn gởi lời chúc mừng Phục Sinh đến tất cả anh chị em đang hiện diện nơi đây, đến từ Italia và các quốc gia khác, cũng như tất cả những ai đang hiệp thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau. Cha ước mong rằng lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh có thể làm sống lại niềm hy vọng nơi gia đình và nơi cộng đoàn của anh chị em, đặc biệt là làm sống lại niềm hy vọng của các thế hệ trẻ, là tương lai của Giáo hội và của nhân loại.

Nguyện chúc anh chị em mỗi ngày đều cảm nghiệm được niềm hy vọng của Chúa Phục Sinh, và sẵn sàng chia sẻ với tha nhân niềm vui và hy vọng mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Cũng xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho cha. Cha mừng lễ với anh chị em.

Tứ Quyết SJ

 

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo phận Carpi, bắc Italia

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo phận Carpi, bắc Italia

CARPI. ĐTC viếng thăm giáo phận Carpi từng bị động đất và mời gọi các tín hữu đừng để sầu muộn thất bại đè bẹp, trái lại tín thác và hy vọng nơi Chúa và trỗi dậy, như Ngài đã cho ông Lazzaro sống lại.

Bối cảnh

Một tuần sau chuyến viếng thăm ”lịch sử” tại tổng giáo phận Milano, giáo phận lớn nhất ở Âu Châu, chúa nhật 2-4-2017, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm một giáo phận nhỏ bé chỉ bằng 1 phần 45 so với Milano, đó là giáo phận Carpi, thuộc miền Emilia Romagna. Đây là chuyến viếng thăm thứ 16 của ngài tại Italia kể từ khi làm Giáo Hoàng cách đây 4 năm.

Giáo phận Carpi chỉ có 117 ngàn tín hữu Công Giáo, 39 giáo xứ với 60 LM. Cách đây gần 5 năm, tức là năm 2012, miền này bị động đất nặng làm cho 30 người chết, nhiều nhà cửa, thánh đường bị tàn phá. Hồi đó ĐGH Biển Đức 16 cũng đã viếng thăm giáo phận này và nay ĐTC Phanxicô đến đây để khích lệ niềm hy vọng của các tín hữu và dân chúng.

Đức Cha Francesco Cavina, GM giáo phận Carpi cho biết: ý thức do tầm mức quá bé nhỏ của giáo phận, ngài không hề nghĩ đến việc mời ĐTC đến viếng thăm. Nhưng cách đây ít lâu, chính ĐTC gọi điện và mời ngài về Roma để gặp. Đức Cha kể lại với đài Vatican:

”Trong câu chuyện dài, đến một lúc ĐTC mỉm cười nói: 'Tôi đã quyết định đến thăm giáo phận Carpi của Đức Cha trước lễ Phục sinh!”. May mắn lúc đó tôi ngồi trên ghế, nếu không thì tôi đã té xỉu rồi!. Hết ngạc nhiên, tôi chỉ còn biết cám ơn ĐTC, vì chắc chắn trong cuộc viếng thăm ngài sẽ có dịp thấy tận mắt sự phục hồi nơi lãnh thổ chúng tôi sau trận động đất, đặc biệt là việc mở lại nhà thờ chính tòa hôm 25-3 vừa qua, đúng 1 tuần lễ trước khi ĐTC đến Carpi.

Đức Cha Cavina giải thích thêm rằng: ”Công trình tái thiết trong 5 năm qua rất lớn, và ngày nay tất cả các công ăn việc làm được phục hồi. Trận động đất là làm chúng tôi mất 42 ngàn chỗ làm. Ngày nay, chỉ còn rất ít gia đình còn phải ở nơi tạm thời. Dầu sao việc tái thiết nhà cửa kể như chấm dứt. Điều còn phải làm là một số di tích lịch sử ở phía bắc giáo phận chúng tôi, nơi một số làng. Vì thế chính tôi đã xin ĐTC đến thăm Mirandola, có 24 ngàn dân cư vào ban chiều, để ngài thấy Nhà thờ Đức Mẹ lên trời ở đây còn bị hư hại, chưa sử dụng được.”

 

Thánh Lễ

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC đã cử hành thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi tại Quảng trường Tử Đạo, rồi cuối lễ ngài làm phép 3 viên đá đầu tiên để xây thánh đường mới của giáo xứ thánh Agata, nhà tĩnh tâm thánh Antôn ở Mercadello, và trung tâm bác ái của giáo phận Carpi. Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC.

Lúc quá 8 giờ sáng, ĐTC đã dùng trực thăng để bay từ Vatican đến Carpi, cách đó 346 cây số đường chim bay về hướng bắc. Thành phố này chỉ có 71 ngàn dân cư.

Đến nơi lúc 9 giờ rưỡi, ĐTC đã được giáo quyền và chính quyền địa phương tiếp đón tại sân thể thao và ngài đi xe mui trần tiến về địa điểm hành lễ là nhà thờ chính tòa giáo phận Carpi mới được tái thánh hiến sau trận động đất.

Quảng trường dài trước Thánh Đường đông chật các tín hữu, khoảng 40 ngàn người. Trời có mây nhưng may mắn không mưa. Cạnh lễ đài được dựng trên thềm nhà thờ, có hàng trăm linh mục đồng tế thuộc giáo phận Carpi và những giáo phận phụ cận. Đồng tế với ĐTC cũng có các giám mục thuộc miền Emilia Romagna.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa Giêsu cho ông Lazzaro đã chết 4 ngày được sống lại và rút ra những bài học hy vọng tin tưởng cho các tín hữu ở trong hoàn cảnh đau thương và tuyệt vọng. Ngài nói:

”Chúng ta nhận xét rằng giữa cảnh thất vọng đau buồn chung vì cái chết của Lazzaro, Chúa Giêsu không để cho mình bị buồn sầu chế ngự. Tuy cũng đau buồn, nhưng Ngài yêu cầu mọi người hãy tin tưởng vững vàng; Chúa không khép mình trong than khóc, nhưng Ngài cảm động và lên đường tiến về ngôi mộ. Ngài không để khung cảnh cảm xúc cam chịu chung quanh thu hút Ngài, nhưng tin tưởng cầu nguyện và thưa rằng: ”Lạy Cha, con cảm tạ Cha” (v.41). Thế là trong mầu nhiệm đau khổ, mà tư tưởng và tiến bộ đụng phải như những con ruồi đụng phải tấm kiếng, Chúa Giêsu nêu gương về cách phải cư xử thế nào: đó là không trốn chạy đau khổ là điều thuộc về cuộc sống này, không để mình bị bi quan cầm tù.

Chung quanh ngôi mộ ấy, xảy ra một cuộc gặp gỡ – đụng độ lớn. Một đàng có một sự thất vọng lớn, sự bấp bênh trong đời sống luân lý của chúng ta, phải trải qua lo lắng vì cái chết, thường cảm thấy thất bại, tăm tối nội tâm dường như không thể vượt qua nổi. Linh hồn chúng ta được dựng nên để sống, chịu đau khổ khi cảm thấy rằng sự khao khát vĩnh cửu của mình bị một sự ác xưa kia và tăm tối đè bẹp. Một đàng có sự thất bại của ngôi mộ. Nhưng đàng khác có hy vọng chiến thắng sự chết và sự ác, và có một danh xưng đó là Chúa Giêsu. Chúa không mang lại một chút an sinh hoặc một liều thuốc nào có làm cho cuộc sống chúng ta được kéo dài, nhưng Ngài tuyên bố: ”Tôi là sự sống lại và là sự sống; ai tin tôi, thì dù có chết cũng sẽ sống” (v.25).

Từ những suy tư trên đây, ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, cả chúng ta cũng được mời gọi quyết định xem mình đứng về phía nào. Ta có thể đứng về phía ngôi mộ hoặc đứng về phía Chúa Giêsu. Có người tiếp tục bị kẹt trong những đổ vỡ của cuộc sống, và có những người, như anh chị em, nhờ ơn Chúa giúp, đang gạt qua đổ vỡ và tái thiết trong niềm hy vọng kiên nhẫn".

”Đứng trước những câu hỏi lớn: ”Tại sao” của cuộc sống, chúng ta có hai con đường: hoặc là đứng nhìn những ngôi mộ quá khứ và hiện tại với thái độ tư lự hoài tưởng, hoặc để cho Chúa Giêsu đến gần những ngôi mộ của chúng ta. Đúng vậy, vì mỗi người chúng ta đã có một ngôi mộ nhỏ, một vùng chết chóc trong tâm hồn: một vết thương, một thiệt hại đã chịu hoặc đã làm, một sự oán hận không ngừng, một sự hối hận tái xuất hiện, một tội lỗi không vượt qua được. Ngày hôm nay, chúng ta hãy nhận ra những ngôi mộ của chúng ta và mời Chúa Giêsu tiến vào đó. Thật là điều lạ lùng: chúng ta thường thích ở lại một mình trong những hang động tối tăm của chúng ta, thay vì mời Chúa Giêsu đi vào; chúng ta bị cám dỗ tìm kiếm chính mình, lẩm bẫm và chìm sâu trong lo âu, liếm những vết thương của mình, thay vì đi gặp Chúa, Đấng nói rằng: ”Hãy đến cùng Thầy, hỡi những người mệt mỏi và bị áp bức, và Thầy sẽ bổ dưỡng cho” (Mt 11,28). Chúng ta đừng để mình bị cầm hãm vì cám dỗ muốn ở một mình và không tin tưởng, than khóc vì những gì xảy ra cho chúng ta; chúng ta đừng chiều theo những lý luận sợ hãi vô ích và chẳng dẫn đến đâu, đừng cam chịu lập lại rằng mọi sự bất ổn và không còn như trước đây nữa. Đó là bầu không khí của huyệt mộ; trái lại Chúa muốn mở con đường sự sống, con đường gặp gỡ với ngài, con đường tín thác nơi Ngài, con đường phục sinh tâm hồn”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói:

”Lúc ấy chúng ta nghe những lời Chúa Giêsu nói với Lazzaro cũng được gửi đến mỗi người chúng ta: ”Hãy bước ra ngoài!”; hãy đi ngoài những sầu muộn vô vọng; hãy tháo những băng quấn của sợ hãi cản bước; hãy tháo những giây cột của sự yếu đuối và lo lắng ngăn cản bạn, hãy lập lại rằng Thiên Chúa tháo gỡ các nút chặn.

Khi theo Chúa Giêsu, chúng ta học cách không cột chặt cuộc sống chúng ta quanh những vấn đề vây quanh; chúng ta sẽ luôn có những vấn đề, và khi chúng ta giải quyết xong vấn đề này, thì một vấn đề khác lại nảy sinh. Nhưng chúng ta có thể tìm ra một sự ổn định mới và sự ổn định này chính là Chúa Giêsu, Ngài là sự sống lại và là sự sống; với Chúa, niềm vui ở trong con tim, niềm hy vọng tái sinh, đau thương biến thành an bình, lo sợ biến thành tin tưởng, thử thách biến thành sự dâng hiến yêu thương. Và cho dù những gánh nặng không thiếu, sẽ luôn có bàn tay Chúa nâng nên, Lời Chúa khích lệ và nói với bạn: ”Hãy đi ra ngoài, hãy đến cùng tôi!”

Cả chúng ta, ngày nay cũng như hồi đó, Chúa Giêsu nói: ”Hãy đẩy tảng đá đi!”. Dù quá khứ nặng nề đến đâu, dù tội lỗi nặng thế nào, xấu hổ mạnh ra sao, chúng ta đừng bao giờ khóa chặt lối vào đối với Chúa. Chúng ta hãy đẩy xa tảng đá cản lối không cho Chúa vào nơi chúng ta: đây là thời điểm thuận tiện để loại bỏ tội lỗi của chúng ta, sự quyến luyến của chúng ta đối với những thứ trần tục, sự kiêu ngạo ngăn chặn tâm hồn chúng ta.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Được Chúa Giêsu viếng thăm và giải thoát, chúng ta hãy cầu xin ơn được trở thành chứng nhân sự sống trong thế giới này, một thế giới đang khao khát sự sống, trở thành những chứng nhân khơi dậy và phục hồi niềm hy vọng nơi Thiên Chúa trong các tâm hồn mỏi mệt và bị buồn sầu đè nặng. Lời loan báo của chúng ta là niềm vui của Chúa hằng sống, ngày nay Chúa vẫn còn nói như đã nói với ngôn sứ Ezechiel: ”Này đây, ta mở các ngôi mộ của các ngươi, hỡi dân Ta, Ta sẽ đưa các ngươi ra khỏi các ngôi mộ của các ngươi” (Ez 37,12)

 

Lời kêu gọi

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin cuối thánh lễ, ĐTC nhắc đến lòng kính mến Đức Mẹ của các tín hữu và nhắn nhủ mọi người hãy dâng lên Mẹ những vui buồn, đau khổ và hy vọng của chúng ta. Ngài cám ơn các GM thuộc miền Emilia Romagna, các LM, tu sĩ nam nữ, chính quyền và tất cả những người đã cộng tác đặc biệt vào việc tổ chức cuộc viếng thăm và buổi lễ này.

ĐTC cũng kêu gọi chấm dứt các cuộc xung đột võ trang đẫm máu ở vùng Kasai thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo, làm cho nhiều người chết và dân chúng phải di tản, tài sản của Giáo Hội cũng bị phá hoại và cướp bóc. Ngài cũng bày tỏ lo âu về tình hình ở Venezuela, và Paraguay, và kêu gọi chấm dứt mọi bạo lực, tìm kiếm các giải pháp bằng phương thế hòa bình. ĐTC cũng không quên các nạn nhân vụ đất lở ở tỉnh Mocoa bên Colombia làm cho ít nhất hơn 200 người chết và 220 người bị mất tích.

Sau thánh lễ, khoảng 1 giờ, ĐTC đã đến chủng viện giáo phận để dùng bữa trưa với các GM thuộc 15 giáo phận ở vùng Emilia Romagna, rồi lúc 3 giờ, ngài gặp gỡ các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà nguyện chủng viện.

Sau đó lúc gần 4 giờ chiều, ngài đến đến thị trấn Mirandola ở mạn bắc thuộc giáo phận Carpi, viếng thăm nhà thờ chính tòa địa phương còn bị hư hại vì động đất và chưa sử dụng được. Ngài chào thăm dân chúng tại quảng trường trước thánh đường, rồi lúc 5 giờ, ngài đến giáo xứ thánh Giacomo Roncole, đặt vòng hoa tưởng niệm các nạn nhân động đất, trước khi đáp trực thăng về đến Vatican vào lúc 7 giờ tối cùng ngày.

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha: 19 tháng 2 năm 2017

Kinh Truyền tin với Đức Thánh Cha: 19 tháng 2 năm 2017

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu hãy sống tinh thần tha thứ, cho cả các địch thù và ngài kêu gọi hòa bình cho nhân dân tại Cộng hòa dân chủ Congo, Pakistan và nhiều nơi khác trên thế giới.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 19-2-2017, với 30 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Mathêu (5,38-48) trong đó Chúa Giêsu dạy phải yêu thương cả địch thù. Ngài nói:

1q”Trong Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Mt 5,38-48), – một trong những trang diễn tả rõ nhất ”cuộc cách mạng” Kitô giáo – Chúa Giêsu chỉ cho thấy con đường công chính đích thực nhờ luật tình thương vượt lên trên luật 'ăn miếng trả miếng', ”tức là mắt đền mắt, răng đền răng”. Qui luật cổ xưa đòi phải áp dụng cho những người vi phạm những hình phạt tương đương với những thiệt hại đã gây ra: kẻ nào giết người thì sẽ bị giết, chặt tay chân kẻ nào đã làm cho người khác bị thương, v.v. Chúa Giêsu không yêu cầu các môn đệ của Ngài phải chịu sự ác, trái lại, Ngài dạy họ hãy phản ứng, không phải bằng cách gây ra một điều ác khác, nhưng bằng điều thiện. Chỉ như thế mới có thể phá vỡ xiềng xích sự ác, và thực sự thay đổi tình cảnh. Thực vậy, sự ác là ”trống rỗng” sự thiện, và không thể làm đầy bằng một sự trống rỗng khác, và chỉ có thể bằng một sự đầy tràn, nghĩa là bằng sự thiện. Sự trả thù sẽ không bao giờ đưa tới giải quyết các xung đột.

Đối với Chúa Giêsu, sự từ khước bạo lực cũng có thể bao gồm sự từ bỏ một quyền lợi hợp pháp.. Ngài nêu vài ví dụ: giơ má bên kia, nhường áo của mình hoặc tiền bạc, chấp nhận những hy sinh khác (Xc vv.39-42). Nhưng sự từ bỏ này không có nghĩa là những đòi hỏi của công lý bị làm ngơ không biết đến hoặc bị phản đối; trái lại, tình thương Kitô, được biểu lộ đặc biệt trong sự thương xót, chính là một sự thực hiện công lý ở mức cao độ hơn. Điều mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là cần phải phân biệt rõ ràng giữa công lý và báo thù. Chúng ta được phép đòi hỏi công lý, đó là bổn phận của chúng ta phải thực thi công lý. Nhưng chúng ta không được phép báo thù hoặc thúc giục trả thù một cách nào đó, vì nó biểu lộ oán ghét và thù hận.

Chúa Giêsu không muốn đề nghị một trật tự mới về dân sự, nhưng đúng hơn Ngài đề nghị giới răn yêu thương tha nhân, bao gồm cả sự yêu thương địch thù: ”Các con hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại các con” (v.44). Lời này không có nghĩa là chấp thuận sự ác mà kẻ thù đã làm, nhưng như một lời mời gọi hãy hướng tới một viễn tượng cao hơn, đại đảm, giống như viễn tượng của Chúa Cha trên trời, Đấng ”làm cho mặt trời mọc lên soi cho người xấu và người tốt, và làm cho mưa rơi xuống người công chính và người bất chính” (v.45). Thực vậy, cả kẻ thù cũng là một người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, mặc dù lúc này đây hình ảnh ấy bị lu mờ vì lối cư xử bất xứng.

ĐTC nói thêm rằng: Khi nói về “những kẻ thù”, chúng ta không được nghĩ đến người nào đó khác biệt và xa lạ chúng ta; chúng ta hãy nói về chính mình nữa, chúng ta có thể xung đột với tha nhân, nhiều khi với cả những người thân trong gia đình. Kẻ thù là những người nói xấu chúng ta, vu khống và gây hại cho chúng ta. Với tất cả những người ấy chúng ta được kêu gọi đáp lại bằng sự thiện, sự thiện cũng có chiến lược riêng, được tình thương gợi lên.

Xin Đức Mẹ Maria giúp chúng ta theo Chúa Giêsu trên con đường có nhiều yêu sách này, con đường thực sự đề cao nhân phẩm và làm cho chúng ta sống như con của Cha chúng ta ở trên trời. Xin Mẹ giúp chúng ta thực hành sự kiên nhẫn, đối thoại, tha thứ, và như thế chúng ta trở thành những người kiến tạo hiệp thông và huynh đệ trong cuộc sống hằng ngày.

Viếng thăm giáo xứ

Ban chiều cùng ngày 19-2-2017, ĐTC đã viếng thăm giáo xứ Thánh Maria Josefa Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Ponte di Nona ở mạn đông thành Roma. Đây là giáo xứ thứ 13 ĐTC viếng thăm từ khi được bầu làm GM Roma cách đây gần 4 năm.

Khi đến giáo xứ vào lúc 4 giờ chiều, ĐTC đã lần lượt gặp các trẻ em và thiếu niên thuộc các lớp giáo lý, rồi gặp giới trẻ, các bệnh nhân, các gia đình và các nhân viên ở trung tâm Caritas. Sau đó ngài đã giải tội cho 4 giáo dân trước khi chủ sự thánh lễ đồng tế với ĐHY Giám quản Agostino Vallini, Đức Cha phụ tá khu vực và các LM ở trong vùng.

Giáo xứ ở Ponte di Nona có thánh đường được xây cất gần đây dâng kính thánh nữ Maria Josefa Sancho de Guerra, sáng lập dòng các nữ tỳ Chúa Giêsu Bác Ái, được ĐTC Gioan Phaolô 2 tôn phong hiển thánh ngày 1 tháng 10 Năm Thánh 2000.

Trong số 6,500 gia đình trong giáo xứ với tổng cộng là 20 ngàn dân cư, phần lớn là các đôi vợ chồng trẻ với con cái còn nhỏ và họ sống trong các nhà bình dân. Có 200 em học giáo lý thường xuyên trong giáo xứ.

Ngoài ra, trung tâm Caritas của giáo xứ có 20 người thiện nguyện; họ thường phân phát các thùng thực phẩm cho hơn 200 gia đình nghèo với tổng cộng 600 người. Tỷ lệ dân nghèo ở đây khá cao và nhiều người không có công ăn việc làm. (SD 19-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Giáo hội Mông cổ chuẩn bị kỷ niệm 25 năm tái sinh

Giáo hội Mông cổ chuẩn bị kỷ niệm 25 năm tái sinh

Ulan bato – Hiện nay, có hơn 50 thừa sai và tu sĩ của 14 quốc gia trên thế giới đang truyền giáo tại Mông cổ.

Nói với hãng tin Fides hôm 02/02, cha Prosp Mbumba, thừa sai người Congo, đang truyền giáo tại Mông cổ, nói rằng: các thừa sai dâng tặng chính cuộc sống của họ cho Mông cổ; họ trung thành với ơn gọi gieo trồng mối liên hệ sâu thẳm với Chúa và trao tặng chính mình cho tha nhân. Nhờ sự phục vụ của các thừa sai và tu sĩ, Giáo hội Mông cổ sẽ sớm có thể chính thức có 3 giáo xứ.

Hôm 02/02, ngày lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh và cũng là ngày Đời sống thánh hiến, Đức cha Wenceslao Padilla, giám quản Tông tòa của Ulan bato, đã nói với các tu sĩ hiện diện tại Phủ doãn tông tòa rằng “đó là một cơ hội để suy tư về ơn gọi thánh hiến của chúng ta, để nhìn lại nội tâm của mình và đi lại con đường của mình.

Nữ tu Nirmala, người Ấn độ, thuộc dòng Trái tim vô nhiễm Đức Maria, đã hoạt động tại Mông cổ hơn 10 năm, cũng đã chia sẻ rằng: “Đời sống thánh hiến nghĩa là có mối liên hệ với Chúa, mối liên hệ hàm ý sự dâng hiến bản thân. Mối tương quan với Chúa, đời sống cộng đoàn và sứ vụ ở trọng tâm của đặc sủng của chúng ta, là những yếu tố cấu tạo nên đời thánh hiến.” Chị mời gọi các thừa sai hiện diện ở Mông cổ trung thành sống một cuộc sống xứng đáng với ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận. Chị cũng nhấn mạnh: “Chỉ trong cách thế này, những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô có thể tìm được âm vang trong cuộc sống chúng ta: đời tu cổ võ sự phát triển trong Giáo hội bởi sự thu hút.”

Chị cũng nhắc rằng năm vừa qua Giáo hội tại Mông cổ được mạnh hơn với việc một Linh mục bản xứ được thụ phong Linh mục và năm 2017 này, Giáo hội chuẩn bị mừng 25 năm truyền giáo. Chị cho biết Giáo hội Mông cổ hiện có hơn một ngàn người Mông cổ được rửa tội và hàng trăm dự tòng đến từ 3 giáo xứ và 3 điểm truyền giáo. 3 điểm truyền giáo sẽ được nâng lên thành giáo xứ trong dịp kỷ niệm 25 năm Giáo hội được tái thành lập tại đây. Chị nhận định “đây là dấu hiệu chúc lành của Thiên Chúa, Đấng yêu thương dân tộc Mông cổ.” (Agenzia Fides 3/2/2017)

Hồng Thủy

Lễ nghi đóng Cửa Thánh và thánh lễ kết thúc Năm Lòng Thương Xót

Lễ nghi đóng Cửa Thánh và thánh lễ kết thúc Năm Lòng Thương Xót

dtc-phanxico-dong-cua-thanh-den-tho-thanh-phero-va-thanh-le-be-mac-nam-long-thuong-xot

Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua lễ Chúa Kitô Vua, ĐTC Phanxicô đã chủ sự lễ nghi đóng Cửa Thánh đền thờ thánh Phêrô trước khi dâng thánh lễ kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót tại thềm đền thờ. Cùng đồng tế với ĐTC có hàng trăm vị gồm các Hồng Y và Tân Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và mấy ngàn Linh Mục. Tham dự thánh lễ có ngoại giao đoàn và phái đoàn chính thức của nhiều nưóc, trong đó có  phái đoàn của chính phủ Italia, do tổng thống Matarella hướng dẫn và hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương.

Trước khi bước lên đóng Cửa Thánh ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây: “Ôi lậy Cha thánh thiện và toàn năng trong tình yêu, là Đấng qua Con Cha là Đức Giêsu, sinh bởi Trinh Nữ Maria, đã biểu lộ gương mặt lòng thương xót vô cùng của Cha, xin hãy thương nhìn Giáo Hội Cha tụ họp trong lời cầu nguyện kết thúc Năm Thánh. Tri ân về những ơn thánh đã nhận lãnh và được khích lệ làm chứng cho sự dịu hiền của tình yêu thương xót của Cha trong lời nói và việc làm chúng con đóng Cửa Thánh: xin Thần Linh thánh hóa canh tân niềm hy vọng của chúng con nơi Chúa Kitô Cứu Thế, là cửa luôn luôn rộng mở cho người tìm Cha với con tim chân thành, cửa duy nhất dẫn vào Nước đang đến. Xin dâng lên Cha, là Đấng Tạo Hóa và yêu thương sự sống, qua Chúa Giêsu Kitô là Vua và là Chúa chúng con, trong Chúa Thánh Thần Đấng an ủi, mọi danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen

Các bài sách Thánh đã được đọc bằng tiếng Anh, và tiếng Pháp. Thánh vịnh và Phúc Âm đã được hát bằng tiếng Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc và nêu bật bản chất vương quyền của Chúa Kitô Vua, mà lễ mừng kết thúc năm phụng vụ. Ngài nói:

Vương quyền của Ngài mâu thuẫn: ngai của Ngài là thập giá, triều thiên của Ngài là mạo gai; Ngài không có một vương trượng, nhưng có một cây sậy trong tay; Ngài không mặc y phục sang trọng, nhưng bị lột áo khoác; Ngài không có các nhẫn lóng lánh trên các ngón tay, nhưng tay bị đinh đâm thâu; Ngài không có một kho tàng, nhưng bị bán với 30 đồng bạc. Nước của Chúa Giêsu không thuộc thế gian này, nhưng nơi nó chúng ta tìm được ơn cứu độ và tha thứ. Bởi vì sự cao cả của Vương quốc Ngài không phải là quyền năng theo thế gian, nhưng là tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có khả năng đạt tới và chữa lành mọi sự. Vì tình yêu ấy Chúa Kitô đã hạ mình xuống cho tới chúng ta, đã mặc lấy sự bần cùng nhân loại của chúng ta, đã cảm nhận điều kiện tật nguyền của chúng ta: bất công, phản bội, bỏ rơi; đã sống kinh nghiệm cái chết, bị chôn trong mộ và xuống ngục tổ tông. Qua đó Vua của chúng ta đã đi tới tận cùng các ranh giới của vũ trụ để ôm và cứu rỗi mọi sinh linh. Ngài đã không kết án chúng ta, Ngài cũng không chinh phục chúng ta , ngài đã không bao giờ vi phạm sự tự do cuả chúng ta, nhưng đã mở đường với tình yêu khiêm tốn, tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7). Chỉ có tình yêu đó đã chiến thắng và tiếp tục chiến thắng các thù địch to lớn của chúng ta là tội lỗi cái chết và sự sợ hãi.

Hôm nay chúng ta công bố chiến thắng đặc biệt ấy, qua đó Chúa Kitô đã trở thành vua đời đời, Chúa của lịch sử, chỉ với sự toàn năng của tình yêu, là bản tính của Thiên  Chúa, là chính sự sống của Ngài, và nó sẽ không bao giờ cùng. Chức là Chúa của Ngài biến đổi tội lỗi thành ơn thánh, cái chết thành sự phục sinh, sự sợ hãi thành niềm tin cậy… Nhưng mọi sự ấy sẽ vô ích, nếu chúng ta không chấp nhận Ngài là Chúa của đời mình một cách riêng tư, và không chấp nhận kiểu cai trị của Ngài.

Tiếp tục bài giảng ĐTC đã phân tích thái độ của các nhân vật trong trình thuật Phúc Âm kể lại cái chết của Chúa Kitô Vua: sự xa cách của dân chúng đứng nhìn xem điều xảy ra, không đến gần nữa như họ đã làm khi có nhu cầu được Chúa cứu giúp. Trước các hoàn cảnh cuộc sống hay các chờ mong không hiện thực chúng ta cũng có thể bị cám dỗ  đứng xa vương quyền của Chúa Giêsu, không hoàn toàn chấp nhận gương mù tình yêu khiêm tốn của Ngài, gây âu lo và khó chịu cho cái tôi của chúng ta. Nhưng dân thánh có Chúa Giêsu là Vua được mời gọi đi theo con đường tình yêu cụ thể của Ngài, và mỗi ngày tự hỏi “tình yêu của Chúa đòi hỏi tôi điều, thúc đẩy tôi tới đâu? Tôi trả lời với Chúa Giêsu ra sao với cuộc sống của tôi ?”

Các nhân vật thứ hai là nhóm các thủ lãnh, binh lính và một tên trộm cướp. Họ khiêu khích và cám dỗ Chúa Giêsu hãy tự cứu lấy mình , khước từ cai trị theo kiểu của Thiên  Chúa, làm theo cái luận lý của thế gian xuống khỏi thập giá, đánh bại kẻ thù, tỏ lộ quyền năng cao vươt là Thiên Chúa… Đó là cám dỗ dễ sợ nhất, cám dỗ đầu tiên và cuối cùng trong Phúc Âm. Nhưng trước sự tấn kích ấy Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương, tha thứ, sống thời điểm của sự thử thách theo ý muốn của Thiên Chúa Cha, và xác tín rằng tình yêu sẽ đem lại hoa trái.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: để tiếp nhận vương quyền của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại cám dỗ này, dán chặt cái nhìn vào Chúa bị đóng đanh, để luôn trung thành với Ngài hơn. Có biết bao lần chúng ta cũng tìm các an ninh hấp dẫn thế gian cống hiến cho chúng ta. Có biết bao lần chúng ta bị cám dỗ xuống khỏi thập giá. Sức mạnh lôi cuốn của quyền lực và thành công xem ra là một con đường dễ dãi và mau chóng giúp phổ biến Tin Mừng, và chúng ta mau chóng quên vương quốc của Thiên Chúa hoạt động như thế nào. Áp dung vào Năm Thánh kết thúc ĐTC nói:

Năm Thánh Lòng Thương Xót này mời gọi chúng ta tái khám phá ra trọng tâm, trở về với điều nòng cốt. Thời điểm này mời gọi chúng ta nhìn lên gương mặt của Vua chúng ta, gương mặt rạng ngời trong ngày Phục Sinh, và tái khám phá ra gương mặt tươi trẻ của Giáo Hội, sáng ngời khi tiếp đón, tự do, trung thành, nghèo nàn trong các phương tiện và giầu có trong tình yêu thương truyền giáo. Khi đưa chúng ta vào trong trung tâm của Phúc Âm, lòng thương xót cũng khích lệ chúng ta từ bỏ các thói quen và tập quán có thể ngăn cản viêc phục vụ Nước Thiên Chúa, chỉ tìm hướng tới vương quyền khiêm tốn vĩnh cửu của Chúa Giêsu, chứ không thích ứng với các vương quyền tạm bợ và các quyền bính hay thay đổi của mọi thời đại.

Nhắc tới người trộm lành và lời ông xin Chúa Giêsu nhớ tới ông và câu Chúa trả lời ông sẽ ở trên thiên đàng với Ngài, ĐTC nói: Thiên Chúa nhớ tới chúng ta, vừa khi chúng ta cho ngài khả thể này. Ngài sẵn sàng xóa bỏ hoàn toàn và luôn mãi tội lỗi, bởi vì ký ức của Ngài không ghi nhận sự dữ đã phạm và không luôn mãi chú ý tới các sai lầm phải chịu như ký ức của chúng ta. Thiên Chúa không nhớ tới tội lỗi, nhưng nhớ tới từng người trong chúng ta là con cái được Ngài yêu thương. Và Ngài luôn tin rằng có thể bắt đầu trở lại và đứng lên.

Chúng ta cũng hãy xin ơn có ký ức rộng mở và sống động này. Chúng ta hãy xin được ơn không bao giờ đóng cửa của sự hoà giải và tha thứ, nhưng biết vượt qua sự dữ và các khác biệt, bằng cách mở rộng mọi con đường của niềm hy vọng. Như Thiên Chúa tin tưởng nơi chúng ta, chúng ta cũng được mời gọi trao ban hy vọng, và cho tha nhân cơ may. Bởi vì cả khi Cửa Thánh có đóng, cửa lòng thương xót thật, là Trái Tim Chúa Giêsu, luôn luôn rộng mở. Từ cạnh suờn bị đâm thâu của Chúa Phục Sinh vọt lên lòng thương xót, sự ủi an và niềm hy vọng cho đến tận cùng thời gian.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và nhớ rằng chúng ta đã được mặc lấy các tâm tình của lòng thương xót để trở nên dụng cụ lòng xót thương. Xin Mẹ Maria, là Mẹ dịu hiền của Giáo Hội, Đấng đứng dưới chân thập giá, trông thấy người trộm lành nhận ơn tha thứ của Chúa, và nhận môn đệ của Chúa Giêsu làm con mình, xin Mẹ của lòng thương xót đồng hành với chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ mọi tình trạng, mọi lời cầu hướng tới đôi mắt xót thương của Mẹ và Mẹ sẽ nhận lời.

Vào cuối thánh lễ ĐTC đã cám tạ ơn Chúa vì Năm Thánh Lòng  Thương Xót. Ngài cũng cám ơn các phái đoàn chính thức của các nước tham dự thánh lễ, cách riêng chính quyền Italia và các cơ cấu, về sự cộng tác và dấn thân quảng đại, các lực lượng an ninh trật tự, các nhân viên tiếp đón, các phương tiện truyền thông, các nhân viên y tế và thiện nguyện viên thuộc mọi lứa tuổi, nhất là Hội Đồng Toà Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và các cộng sự viên. ĐTC cũng cám ơn tất cả những người góp phần thiêng liêng cho Năm Thánh được thành công: đặc biệt là các bệnh nhân và người già đã dâng hy sinh, đau khổ, liên lỉ cầu nguyện cho Năm Thánh. Một cách đặc biệt ĐTC cám ơn các nữ tu dòng kín, mà Giáo Hội nhớ tới trong ngày 21 tháng 11. Các chị dành trọn đời cầu nguyện  cho mọi thành phần dân Chúa, và các chị cũng cần tình liên đới tinh thần và vật chất của chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người.

ĐTC đã ký Tông thư “Misericordia et Misera” khích lệ toàn thể Giáo Hội tiếp tục sống lòng thương xót với cùng sự sâu đậm như đã sống trong suốt Năm Thánh ngoại thường này. Sau đó ngài đã trao Tông thư cho ĐHY Tagle, TGM Manila, là một trong các giáo phận đông tín hữu nhất thế giới, ĐC Cushey, TGM Saint Andrrews Edinburg, hai Linh Mục thừa sai lòng thương xót đến từ Cộng hòa dân chủ Congo và Brasil, một phó tế vĩnh viễn và gia đình, hai nữ tu một Mexico và một Nam Hàn; một gia đình Mỹ gồm ba thế hệ; một đôi bạn trẻ đính hôn, hai bà mẹ giáo lý viên; một người tàn tật và một bệnh nhân.

Sau khi chào các HY, GM ĐTC đã lên xe Jeep đi mấy vòng chào các tín hữu và du khách thám dự thánh lễ kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Linh Tiến Khải

Kiên nhẫn chịu đựng các quấy rầy của người khác

Kiên nhẫn chịu đựng các quấy rầy của người khác

kien-nhan-voi-nguoi-khac

Gương sống nhẫn nhục của Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết kiên nhẫn chịu đựng các quấy rầy của người khác. Nó cũng nhắc nhớ chúng ta hai công việc khác của lòng thương xót là cảnh cáo kẻ có tội và dậy bảo người dốt nát.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với khoảng 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp chung sáng thứ tư hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói:

Chúng ta dành bài giáo lý hôm nay cho một công việc của lòng thương xót mà mọi người đều biết rõ, nhưng có lẽ chúng ta không thực thi như đáng lý phải làm: đó là kiên nhẫn chịu đựng những người quấy rầy. Chúng ta tất cả đều rất giỏi trong việc nhận diện ra một người có thể làm phiền chúng ta: xảy ra là khi chúng ta gặp ai đó trên đường, hay khi chúng ta nhận một cú điện thoại… chúng ta nghĩ ngay: “Cho tới bao giờ tôi còn phải nghe các lời than van, các bép xép, các xin xỏ hay các khoe khoang của người này?” Đôi khi cũng xảy ra là những người quấy rầy chúng ta là những người gần chúng ta nhất: giữa các bà con thân thuộc luôn luôn có người nào đó; tại nơi làm việc cũng không thiếu và cả trong lúc tự do cũng không thiếu những người như vậy. Chúng ta phải làm gì với những người quấy rầy  đây? Và cả chúng ta nữa đôi khi chúng ta cũng sách nhiễu người khác. Tại sao trong số các công việc của lòng thương xót lại có cả chuyện này nữa: kiên nhẫn chịu đựng những người quấy rầy?

Trong Thánh Kinh chúng ta thấy rằng chính Thiên Chúa cũng phải dùng lòng thương xót để chịu đựng các than van của dân Ngài. Chẳng hạn trong sách Xuất Hành dân chúng thật là không chịu được: trước đó thì họ khóc lóc vì là nô lệ bên Ai Cập, và Thiên Chúa giải thoát họ; rồi trong sa mạc họ than van vì không có ăn (x.. Xh 16,3) và Thiên Chúa cho họ chim cút và bánh manna (x. 16,13-16); nhưng dù vậy họ không ngừng than van. Ông Môshê làm trung gian giữa Thiên Chúa và dân, và đôi khi cả ông nữa cũng sẽ quấy rầy Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã kiên nhẫn, và như vậy ngài dậy cho ông và dân chúng biết chiều kích nòng cốt này của đức tin.

Và một câu hỏi tự phát đến trong tâm trí chúng ta: chúng ta có bao giờ xét mình xem đôi khi cả chúng ta nữa cũng có thể quấy rầy người khác hay không? Thật là dễ chỉ tay chống lại các tệ hại và thiếu sót của người khác, nhưng chúng ta phải học biết đặt mình trong địa vị của tha nhân.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: trong ba năm của cuộc sống công khai Ngài đã phải kiên nhẫn biết bao nhiêu! Có lần khi đi với các môn đệ, Ngài đã bị bà mẹ của Giacôbê và Gioan chặn lại và xin: “Xin Thầy cho hai đứa con con đây ngồi một người bên phải một người bên trái Thầy  trong vương quốc của Thầy” (Mt 20,21). Bà mẹ tạo địa vị thanh thế cho các con trai mình, nhưng đó là bà mẹ… Cả từ trường hợp này nữa Chúa Giêsu cũng lấy đó làm đề tài dậy cho các môn đệ một giáo huấn nền tảng: vương quốc của Ngài không phải là một vương quốc của quyền bính và không phải là một vương quốc của vinh quang như các vương quốc trần gian, nhưng là việc phục vụ và dâng hiến cho người khác. Chúa Giêsu dậy chúng ta luôn luôn đi tới điểm nòng cốt và nhìn xa hơn để lãnh lấy sứ mệnh của mình với tinh thần trách nhiệm. Ở đây chúng ta  có thể trông thấy lời mời gọi thực thi hai công việc khác của lòng thương xót tinh thần: là răn bảo các kẻ có tội và dậy dỗ kẻ dốt nát. Chúng ta hãy nghĩ tới dấn thân lớn lao có thể làm, khi trợ giúp người ta lớn lên trong đức tin và cuộc sống. Chẳng hạn tôi nghĩ tới các giáo lý viên – trong đó có biết bao bà mẹ và biết bao nhiêu nữ tu – tận hiến thời giờ để dậy dỗ người trẻ các yếu tố nền tảng của đức tin. Thật là mệt nhọc biết bao, khi các trẻ em thích chơi giỡn hơn là lắng nghe giáo lý! ĐTC giải thích thêm như sau:

Đồng hành trong việc kiếm tìm điều nòng cốt thật đẹp và quan trọng, bởi vì nó làm cho chúng ta chia sẻ niềm vui hưởng nếm ý nghĩa cuộc sống. Thường xảy ra là chúng ta gặp gỡ những người chỉ dừng lại trên những điều hời hợt, chóng qua và tầm thường; đôi khi vì họ đã không gặp ai khuyến khích họ tìm kiếm điều gì khác, quý chuộng các kho tàng đích thực. Dậy nhìn vào điều nòng cốt là một trợ giúp định đoạt, đặc biệt trong một thời đại như thời đại chúng ta ngày nay, xem ra đã đánh mất hướng đi và chạy theo những thoả mãn ngắn ngủi. Dậy khám phá ra điều Chúa muốn nơi chúng ta và làm sao chúng ta có thể đáp trả lại có nghĩa là bước đi trên con đường lớn lên trong ơn gọi của mình, trong con đường của niềm vui đích thật.

Và ĐTC kết luận bài huấn dụ như sau: Như thế các lời Chúa Giêsu nói với bà mẹ của Giacôbê và Gioan, rồi với tất cả nhóm các môn đệ, chỉ cho thấy con đường giúp tránh rơi vào sự ghen tương, tham vọng và nịnh bợ, là các cám dỗ luôn luôn rình rập cả các kitô hữu nữa. Đòi buộc khuyên nhủ, cảnh cáo và dậy dỗ không đuợc khiến cho chúng ta cảm thấy mình cao hơn tha nhân, nhưng truớc hết bắt buộc chúng ta đi vào trong chính mình để kiểm thực xem chúng ta có trung thực  với những gì chúng ta yêu cầu người khác sống hay không. Chúng ta đừng quên các lời Chúa Giêsu nói: “Tại sao bạn nhìn thấy cọng rơm trong mắt người anh em, trong khi không nhận ra cái xà trong mắt mình?” (Lc 6,14). Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết sống kiên nhẫn trong việc kiên nhẫn chịu đựng và khuyên nhủ những người khiêm nhường và đơn sơ.

Trong số các đoàn hành hương hiện diện trong buổi tiếp kiến sáng hôm qua cũng có nhiều tín hữu Việt Nam đến từ nhiều nước như Hoà Lan, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ, đặc biệt phái đoàn 48 tín hữu Houston do cha Giuse Vũ Thành hướng dẫn.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt là các thành viên Tổ chức Đông Phương, các linh mục thuộc Liên hiệp tông đồ giáo sĩ giáo phận Agen, do ĐC Herbreteau hướng dẫn, cũng như các tín hữu đến từ Pháp, Bỉ và Cộng hoà dân chủ Congo, ĐTC nói chúng ta sắp kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót, nhưng tôi xin anh chị em đừng đóng cửa tâm lòng, nhưng trái lại luôn kiên nhẫn, khiêm nhường và đơn sơ tiếp đón tha nhân.

 Ngài cũng chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Anh quốc, Ailen, Đan Mạch, Islen, Malta, Nigeria, Indonesia, Canada và Hoa Kỳ và cầu chúc các ngày cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót đem lại cho họ và gia đình họ nhiều ơn lành, niềm vui và hoà bình của  Chúa.

ĐTC chúc các nhóm nói tiếng Đức những ngày hành hương Roma sốt sắng và bổ ích và noi gương Chúa biết sống thương xót.

Chào các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đặc biệt nhóm các linh mục và tín hữu Rio de Janeiro, Vatuporanga và Patos de Minas. ngài khích lệ họ thực thi các công việc của lòng thương xót, đem niềm vui và sự ủi an đến với mọi người để là các chứng nhân tình yêu thương dịu hiền của Thiên Chúa.

Với các nhóm Ba Lan ngài nói cửa Năm Thánh sắp đóng lại, nhưng Thiên Chúa không bao giờ đóng cửa trái tim thương xót của Ngài và dập tắt sự dịu hiền của Ngài với chúng ta.

Chào mấy ngàn tín hữu Hoà Lan cùng 7 Giám Mục toàn nước về Roma hành hương Năm Thánh, ĐTC chúc họ khám phá ra lòng thương xót của Chúa và thực thi các công việc thương xót phần xác cũng như phần hồn đối với tha nhân.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào Liên hiệp các thầy dậy nghề mừng 60 năm thành lập. Ngài cầu chúc liên hiệp tiếp tục góp phần tạo thuận tiện cho những giai tầng yếu đuối nhất có cơ may gia nhập đời sống xã hội và kinh tế. Ngài cũng chào các hiệp hội Hồng thập tự Spoltore, hiệp hội “Cam Giáng Sinh” tỉnh Camisano Vicentino, các nhóm giáo xứ và sinh viên. ĐTC cầu mong Năm Thánh nhắc nhở mọi người biết sống thương xót như Thiên Chúa Cha, vì tình yêu thương khiến cho con người nhân bản và kitô hơn.

Chào người trẻ các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cuới ngài nhắc tháng 11 là tháng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Chúng ta hãy nhớ tới những người làm ơn cho chúng ta và các linh hồn không được ai nhớ cầu nguyện cho, bằng cách xin lễ và dâng lời cầu nguyện và các hy sinh hãm mình cho họ. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ tới linh hồn các nạn nhân động đất miền Trung Italia, cầu nguyện cho họ, cho thân nhân của họ, và tiếp tục liên đới với tất cả những ai đã chịu các thiệt hại do động đất gây ra.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Phục vụ sự sống, dụng cụ của sự hiệp thông và dấu chỉ lòng thương xót

Phục vụ sự sống, dụng cụ của sự hiệp thông và dấu chỉ lòng thương xót

ĐTC Phanxicô chào một trẻ em tàn tật trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 17-8-2016 tại đại thính đường Phaolo VI

** Khi bảo các môn đệ cho dân chúng ăn và làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, Chúa Giêsu cho các môn đệ biết con đường cần đi theo: nuôi dân chúng và giữ họ hiệp nhất, nghĩa là phục vụ sự sống và sự hiệp thông. Mỗi người chúng ta phải là dụng cụ của hiệp thông trong gia đình mình, trong nơi làm việc, trong giáo xứ và các nhóm mình là thành phần, và là dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính dường VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa trình thuật Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo nghe Ngài giảng dậy. Trong trình thuật thánh sử Máttthêu cho biết Chúa Giêsu mới nhận được tin cái chết của Gioan Tẩy Giả, và cùng với một chiếc thuyền ngài qua bờ hồ bên kia để tìm một nơi thanh vắng, để ở một mình (c. 13). Tuy nhiên, dân chúng hiểu và đi bộ tới trước Ngài – Ngài đi thuyền và dân chúng đi bộ – vì thế nên khi xuống thuyền Chúa trông thấy một đám đông lớn, Ngài cảm thương họ và chữa lành các người bệnh tật (c. 14).

Chúa Giêsu đã như vậy đó: luôn luôn với lòng cảm thương, luôn luôn nghĩ tới người khác. Sự cương quyết của dân chúng sợ bị  bỏ rơi một mình, gây ấn tượng. Sau khi Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ đầy đặc  sủng qua đời, dân chúng tín thác nơi Chúa Giêsu, mà Gioan Tẩy Giả đã nói “Đấng đến sau tôi mạnh hơn tôi “ (Mt 3,11). Và như thế dân chúng theo Ngài khắp nơi để lắng nghe Ngài và đem các bệnh nhân tới cho Ngài. Và khi trông thấy điều này Chúa Giêsu cảm động. Chúa Giêsu không lạnh lùng, Ngài không có một trái tim lạnh lẽo. Chúa Giêsu có khả năng cảm động. Một đàng Ngài cảm thấy gắn bó với đám đông dân chúng không muốn Ngài ra đi; đàng khác Ngài cần ở một mình cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Biết bao lần Chúa thức đêm cầu nguyện với Cha Ngài. ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ:

** Cả ngày hôm đó vị Thầy cũng tận hiến mình cho dân chúng.  Sự cảm thương của Ngài không phải là một cảm tình mơ hồ; trái lại Ngài cho thấy tất cả sức mạnh ý chí của Ngài ở gần chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Ngài yêu chúng ta biết bao. Chúa Giêsu yêu chúng ta biết bao. Và Ngài muốn gần gũi chúng ta.

Vào buổi chiều Chúa Giêsu lo cho tất cả dân chúng mệt và đói được ăn. Chúa Giêsu cũng lo lắng cho những ai theo Ngài. Và Ngài muốn lôi cuốn các môn đệ vào việc này. Thật thế, Ngài nói với các vị: “Chính chúng con hãy cho họ ăn đi” (c.16). Và Ngài chứng minh cho các vị thấy rằng ít chiếc bánh và cá họ có, với sức mạnh của đức tin và lời cầu nguyện, có thể được chia sẻ cho tất cả dân chúng. Đó là một phép lạ mà Ngài làm, nhưng là phép lạ của đức tin, của lời cầu nguyện, lòng cảm thương và tình yêu. Như vậy Chúa Giêsu “bẻ bánh và trao cho các môn đệ và các môn đệ trao cho dân chúng” (c.19).  Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao ban và bánh vẫn còn đó: Ngài cầm lấy một lần nữa và các môn đệ cũng đã làm như thế. Chúa đáp ứng các nhu cầu của con người, nhưng muốn cho từng người tham dự vào sự cảm thương của Ngài một cách cụ thể.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Bây giờ chúng ta dừng lại trên cử chỉ chúc lành của Chúa Giêsu: Ngài “cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trởi, đọc lời chúc tụng, bẻ bánh và trao ban chúng” (c. 19). Như ta thấy, chúng cũng chính là các dấu chỉ mà Chúa Giêsu đã làm trong Bữa Ăn chiều cuối cùng; và chúng cũng chính là các dấu chỉ mà mỗi linh mục làm khi cử hành Thánh Thể. Cộng đoàn kitô nảy sinh và tái sinh một cách liên tục từ sự hiệp thông thánh thể này. ĐTC giải thích sự hiệp thông với Chúa Kitô như sau:

** Sống sự hiệp thông với Chúa Kitô như thế hoàn toàn khác với việc thụ động và lạ lùng với cuộc sống thường ngày, trái lại, nó ngày càng tháp nhập chúng ta vào trong tương quan với các con người nam nữ của thời đại chúng ta, để cống hiến cho họ dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót và sự chú ý của Chúa Kitô. Trong khi dưỡng nuôi chúng ta bằng Chúa Kitô, Thánh Thể mà chúng ta cử hành cũng biến đổi chúng ta từ từ thành mình Chúa Kitô và lương thực thiêng liêng cho các anh chị em khác. Chúa Giêsu muốn đến với tất cả, để đem tình yêu của Thiên  Chúa tới cho tất cả mọi người. Vì thế điều này khiến cho mọi tín hữu trở thành người phục vụ lòng thương xót. Như thế Chúa Giêsu trông thấy đám đông, cảm thương, nhân bánh lên nhiều và Ngài làm cùng điều đó với Thánh Thể. Và chúng ta tín hữu nhận bánh này chúng ta được Chúa Giêsu thúc đẩy đem sự phục vụ này tới cho các người khác, với cùng sự cảm thương của Chúa Giêsu. Đó là lộ trình.

Trình thuật hóa bánh và cá ra nhiều kết thúc với ghi nhận rằng tất cả mọi người đã no nê và việc thu các mảnh bánh còn thừa lại (c. 20). Khi vói lòng thương xót và tình yêu Chúa Giêsu ban ơn thánh cho chúng ta, tha các tội lỗi cho chúng ta, ôm chúng ta vào lòng, yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ làm một nửa: nhưng tất cả. Như xảy ra ở đây. Tất cả mọi người đều no nê. Chúa Giêsu làm tràn đầy con tim và cuộc sống chúng ta bằng tình yêu của Ngài, sự tha thứ của Ngài, lòng cảm thương của Ngài. Như thế Chúa Giêsu đã cho phép các môn đệ Ngài thi hành lệnh truyền của Ngài. Trong cách thức này các vị biết con đường phải theo: cho dân chúng ăn và giữ họ hiệp nhất; nghĩa là phục vụ sự sống và sự hiệp thông. Vì thế chúng ta hãy khẩn nài Chusa để Ngài khiến cho Giáo Hội luôn ngày càng có khả năng chu toàn việc phục vụ thánh thiện này, và để cho từng người trong chúng ta  có thể là dụng cụ của hiệp thông trong gia đình mình, trong công việ, trong giáo xứ và trong các nhóm mà mình là thành viên, là một dấu chỉ hữu hình lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng không muốn để ai trong cô đơn và trong đói khát, để cho sự hiệp thông và hoà bình xuống giữa con người, và sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa, bởi vì sự hiệp thông này là sự sống cho tất cả mọi người.

** ĐTC đã chào nhiều nhóm khác nhau. Trong số các nhóm nói tiếng Pháp ngài chào đoàn hành hương giáo phận Gadeloupe do ĐGM sở tại hướng dẫn, cũng như các nhóm đến từ Burkina Faso và Cộng hoà dân chủ Congo. Ngài xin Đức Mẹ hồn xác lên trời bầu cử để mỗi người trở thành dụng cụ của sự hiệp thông và dấu chỉ lòng thương xót của Chúa.

Ngài cũng chào mừng các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Ireland, Thụy Điển, Ghana, Trung Quốc và Hoa Kỳ và cầu mong Năm Thánh là dịp giúp họ lãnh nhận ơn thánh và canh tân tinh thần.

Với các tín hữu nói tiếng Đức Ngài cầu mong mỗi ngươi trở thành dụng cụ của hiệp thông và lòng thương xót Chúa.

Chào các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ĐTC khích lệ mọi người biết liên tục dưỡng nuôi cuộc sống bằng Thánh Thể để trở thành lương thực và dụng cụ hiệp thông trong gia đình, trong nơi làm việc và mọi môi trường cuộc sống.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào các nữ tu dòng thánh Anna, tín hữu các giáo xứ Thánh Maria Cát Minh Manfredonia, nhóm cầu nguyện Borgomanero và Rivolta Adda.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ĐTC nói lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời mà chúng ta mới cử hành mời gọi chúng ta dấn thân bước đi trên thế giới này nhưng mắt luôn hướng nhìn về các kho tàng vĩnh cửu. Ngài khuyên người trẻ biết xây dựng tương lai bằng cách đặt để tiếng Chúa kêu gọi lên hàng đầu. ĐTC chúc các bệnh nhân trong những lúc khổ đau tìm đưọc ủi an nơi sự hiện diện của Mẹ Maria; và các đôi tân hôn biết phản ánh tình yêu vô biên vĩnh cửu của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một hổ nhục cho nhân loại

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một hổ nhục cho nhân loại

ĐTC Phanxicô chào tín hữu và du khách hành hương

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu và là một hổ nhục cho thế giới.

Sự chung sống giữa giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu và là một hổ nhục cho thế giới. ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến chung tín hữu và du khách hành hương năm châu sáng thư tư 2-12-2015.

Như đã biết, ĐTC Phanxicô vừa mới công du ba nước Phi châu Kenya, Uganda và Cộng hòa Trung Phi về, trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với mọi người một số kinh nghiệm và cảm tưởng của ngài. ĐTC đã bầy tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự tiếp đón nồng hậu của các chính quyền dân sự và các Giám Mục, cũng như của tất cả những ai đã cộng tác để cho cuộc viếng thăm diễn ra tốt đẹp. Đề cập tới Kenya là quốc gia đầu tiên của chuyến viếng thăm ĐTC nói:

Kenya là một nước  diễn tả tốt thách đố của thời đại chúng ta: đó là bảo vệ thụ tạo bằng cách cải tổ mẫu phát triển  để nó được công bằng, bao gồm mọi người và có thể chịu đựng nổi. Tất cả những điều này được tìm thấy tại Nairobi, là thành phố lớn nhất vùng Đông Phi châu, nơi chung sống sự giầu có và bần cùng: nhưng đây là một gưong mù gương xấu! Không phải chỉ bên Phi châu thôi, mà cả ở đây bên Âu châu nữa.  Tại khắp mọi nơi. Việc chung sống giữa sự giầu có và bần cùng là một gương mù gương xấu, một hổ nhục cho nhân loại. Và ở Nairobi có trụ sở văn phòng của Liên Hiệp Quốc đặc trách Môi sinh, mà tôi đã viếng thăm. Tại Kenya tôi cũng đã gặp gỡ chính quyền và Ngoại giao đoàn, cũng như dân chúng sống trong khu phố bình dân. Tôi cũng đã gặp gỡ các vị lãnh đạo của các Giáo Hội kitô và các tôn giáo khác, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, và người trẻ, biết bao nhiêu người trẻ! Trong mọi dịp tôi đã đều khích lệ giữ gìn kho tàng lớn của đất nước này là sự phong phú thiên nhiên và tinh thần, được tạo thành bởi các tài nguyên của lòng đất, các thế hệ mới, và các giá trị làm thành sự khôn ngoan của người dân. Trong bối cảnh thời sự một cách thê thảm này tôi đã vui mừng đem đến lời hy vọng của Chúa Giêsu phục sinh: “Anh em hãy vững vàng trong đức tin, đừng sợ hãi!”. Đó đã là khẩu hiệu của chuyến viếng thăm. Một lời được biết bao nhiêu người khiêm tốn và đơn sơ sống mỗi ngày, với phẩm giá cao quý; một lời được làm chứng một cách thê thảm và anh hùng bởi các bạn trẻ của đại học Garissa, bị giết ngày mùng 2 tháng 4  vì là kitô hữu. Máu của họ là hạt giống của hòa bình và tình huynh đệ cho Kenya, cho Phi châu và cho toàn thế giới.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC chia sẻ cảm tưởng của ngài liên quan tới Uganda. Tại Uganda chuyến viếng thăm của tôi xảy ra trong dấu chỉ của các Vị Tử Đạo của đất nước này, mà chân phước Phaolô VI đã tôn phong hiển thánh cách đây 50 năm. Vì vậy khẩu hiệu chuyến viếng thăm đã là: “Các con sẽ là các chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Đây là một khẩu hiệu giả thiết các lời trước đó: “Các con sẽ được sức mạnh của Thánh Thần”, bởi vì chính Thần Khí linh hoạt trái tim và đôi tay của các môn đệ thừa sai. Và toàn chuyến viếng thăm Uganda đã diễn ra trong chứng tá được Chúa Thánh Thần linh hoạt. Đề cập đến chứng tá của các kitô hữu Uganda ĐTC nói:

Trong nghiã rõ ràng chứng tá là việc phục vụ của các giáo lý viên, mà tôi đã cám ơn và khích lệ vì sự dấn thân của họ, thường khi cũng lôi kéo cả gia đình họ.  Chứng tá là chứng tá của tình bác ái, mà tôi đã sờ mó được với bàn tay trong Nhà Bác Ái Nalukolongo, có sự dấn thân của biết bao nhiêu cộng đoàn và hiệp hội, tuy gặp biết bao nhiêu khó khăn, nhưng vẫn giữ được ơn hy vọng, và tìm cách sống theo Tin Mừng chứ không sống theo thế gian, bằng cách đi ngược dòng. Các chứng nhân là các linh mục, các người nam nữ sống đời thánh hiến canh tân từng ngày tiếng “có” hoàn toàn với Chúa Kitô và tươi vui tận hiến cho việc phục vụ dân thánh của Thiên Chúa. Tất cả các hình thái chứng tá đa diện này, được linh hoạt bởi cùng Thánh Thần, là men cho toàn thể xã hội, như được chứng minh bởi công tác hiệu quả của việc chống lại bệnh AIDS bên Uganda, và trong việc tiếp đón các người tỵ nạn.

Thế rồi chặng thứ ba trong chuyến du hành của tôi đã là Cộng hòa Trung Phi: trung tâm địa lý của đại lục. Thật ra, cuộc viếng thăm này đã là việc viếng thăm đầu tiên trong ý muốn của tôi, bởi vì quốc gia này đang tìm ra khỏi một giai đoạn rất khó khăn của xung khắc, bạo lực và biết bao khổ đau nơi người dân. Chính vì thế nên, đi trước một tuần,  tôi đã muốn mở Cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót đầu tiên tại Bangui. Đây là một quốc gia khổ đau biết bao nhiêu. Và điều này như dấu chỉ của đức tin và niềm hy vọng cho dân tộc này, và một cách biểu tượng cho mọi dân tộc phi châu các dân tộc cần được cứu chuộc và an ủi nhất. Lời Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia” (Lc 8,22) đã là khẩu hiệu của chuyến viếng thăm Trung Phi. ĐTC giải thích ý nghĩa cụ thể của lời mời này trong bối cảnh hiện nay của Trung Phi như sau:

Qua bờ bên kia, trong nghĩa dân sự, có nghĩa là bỏ lại đàng sau lưng chiến tranh, các chia rẽ, sự bần cùng, và lựa chọn hoà bình, hòa giải và phát triển. Nhưng điều này giả thiết  một sự vượt qua, xảy ra trong các lương tâm, trong các cung cách hành xử, và trong các ý muốn của con người. Và trên bình diện này phần đóng góp của các cộng đoàn tôn giáo thật định đoạt. Vì vậy tôi đã gặp gỡ các cộng đoàn Tin Lành và Hồi giáo, chia sẻ lời cầu nguyện và dấn thân cho hòa bình. Với các linh mục và các người sống đời thánh hiến, nhưng cũng với người trẻ, chúng tôi đã chia sẻ niềm vui cảm thấy Chúa phục sinh ở trên thuyền với chúng tôi, và chính Ngài hướng dẫn con thuyền sang bờ bên kia. Và sau cùng trong Thánh lễ cuối cùng tại sân vận động Bangui, trong ngày lễ thánh Anrê Tông Đồ, chúng tôi đã canh tân dấn thân theo Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta, sự an bình của chúng ta, Gương mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Thánh lễ cuối cùng này đã thật tuyệt vời: đầy người trẻ, một sân vận động người trẻ! Nhưng hơn phân nửa dân của Cộng hòa Trung Phi là người trẻ vị thành niên, dưới 18 tuổi. Đây là một hứa hẹn để tiến tới!

Tôi muốn nói một lời về các thừa sai. Những người nam nữ đã bỏ tất cả: từ khi còn trẻ họ đã bỏ quê hương để đến đó, để sống một cuộc sống phải làm biết bao nhiêu công việc, đôi khi họ phải ngủ dưới đất… suốt cả đời… Vào một lúc tôi đã tìm thấy tại Bangui một nữ tu già người Ý. Tôi hỏi: “Chị bao nhiêu tuổi”, “Thưa 81”. Không nhiều lắm, già hơn tôi hai tuổi thôi. Chị đi với một bé gái, và bé gái gọi nữ tu 81 tuổi là “bà nội” bằng tiếng Ý. Chị ấy đã sống ở đây khi mới 23-24 tuổi. Suốt cả đời.  Và có biết bao nhiêu nữ tu như chị. Chị nói: “Nhưng mà con không là người ở đây, con từ nước bên cạnh là Congo, con đi canô  qua đây với bé gái này.. “ Các thừa sai là thế: họ rất can đảm”. “Vậy chị làm gì?” “Thưa con là y tá, và con đã học một chút ở đây và trở thành bà đỡ, và con đã cho 3.280 em bé chào đời”. Chị ấy nói với tôi như thế. Tất cả một cuộc đời cho sự sống, cho sự sống của người khác. Và có biết bao nhiêu người như nữ tu này, biết bao nữ tu, biết bao linh mục, biết bao tu sĩ đã đốt cháy cuộc đời mình để loan báo Chúa Giêsu Kitô. Thật là đẹp khi trông thấy như vậy. Thật là đẹp!

Tôi muốn nói một lời với người trẻ. Nhưng có ít người trẻ, vì xem ra việc sinh ra là một xa xỉ phẩm tại Âu châu này: số sinh là zero hay 1%… Tôi xin ngỏ lời với người trẻ: các con hãy nghĩ xem các con làm gì với cuộc đời mình. Các con hãy nghĩ tới nữ tu này và biết bao nữ tu khác như chị, những người đã trao ban cả cuộc đời, và biết bao người đã chết ở đó. Truyền giáo không phải là chiêu dụ tín đồ, bởi vì nữ tu này đã nói với tôi rằng các phụ nữ hồi đến với các chị, vì các chị là nữ tu, là các nữ y tá giỏi, săn sóc họ tốt và không dậy giáo lý để họ theo đạo! Chứng tá. Thế rồi đối với ai muốn, thì các chị dậy giáo lý cho họ. Nhưng mà làm chứng: đó là tinh thần truyền giáo lớn anh hùng của Giáo Hội. Loan báo Chúa Giêsu Kitô với chính cuộc sống của mình! Tôi xin nói với các bạn trẻ: Con hãy nghĩ tới việc làm gì với cuộc đời con. Đây là lúc suy nghĩ và xin Chúa làm cho con cảm thấy ý muốn của Ngài. Nhưng làm ơn đừng loại trừ khả thể trở thành thừa sai, để đem tình yêu thương, nhân tính,và đức tin đến cho các nước khác. Không phải để chiêu dụ tín đồ: không. Điều này những người kiếm tìm một điều khác làm. Đức tin được rao giảng trước hết với chứng tá, và rồi với lời nói. Một cách từ từ.

Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng Chúa vì chuyến hành hương này trên đất Phi châu, và chúng ta hãy để cho mình được hướng dẫn bởi các lời chìa khóa của Chúa: “Các con hãy vững vàng trong đức tin, đừng sợ hãi”, “Các con sẽ là các chứng nhân của Thầy”; “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương Australia và Nam Hàn. Ngài nhắc cho mọi người biết Giáo Hội đã bước vào Mùa Vọng là thời gian của hy vọng mà Chúa đề nghị với chúng ta để có thể tiếp đón Ngài vào trong cuộc sống và thế giới này một cách tốt đẹp hơn. ĐTC cầu chúc mọi người sống Mùa Vọng với nhiều sốt mến, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Đây là thời gian cầu nguyện, canh thức và mở rộng con tim cho Lòng  Thương Xót Chúa, sống bác ái và trợ giúp những người thiếu thốn.

Chào nhóm bạn trẻ “Viva la Gente Hoan hô dân chúng” của phong trào Tổ Ấm mừng kỷ niệm 50 năm thành lập,  ĐTC hy vọng họ tiếp tục ca hát để loan báo tình yêu của Chúa.

Chào các tin hữu Ba Lan ngài cám ơn họ đã tháp tùng chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại Phi châu bằng lời cầu nguyện.

Trong các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào Liên hiệp quốc tế các bề trên tổng quyền, khai mạc dự án Người di cư trên đảo Sicilia; nhân viên của văn phòng chính phủ điều hợp chống nạn tội phạm cho vay nặng lãi và đòi tiền hối lộ để được bảo vệ.

Chào giới trẻ, người bệnh và các đôi tân hôn ĐTC cầu chúc người trẻ được Chúa thúc đẩy trở thành những người thăng tiên đối thoại và cảm thông. Ngài xin Chúa giúp các anh chị em ốm đau biết nhìn lên thập giá Chúa Kitô và học đương đầu với khổ đau trong sự thanh thản. Ngài xin Chúa giúp các cặp vợ chồng mới cưới gia tăng tình yêu và an bình trong cuộc sống đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC tiếp các thành viên Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên

ĐTC tiếp các thành viên Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên

ĐTC tiếp các thành viên Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên

VATICĂNG: ĐTC khích lệ các nhân viên Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên tiếp tục công tác trợ giúp nhằm trao ban hy vọng và tương lai cho các người tỵ nạn trên thế giới.

ĐTC đã đưa ra lời khích lệ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 14 tháng 11 vửa qua, dành cho các nhân viên của Cơ quan nhân kỷ niệm 35 năm thành lập. Ngài đã nhắc lại lý do cha Bề trên tổng quyền Pedro Arrupe cho thành lập Văn phòng. Vì hồi đó có làn sóng người Việt bỏ nước ra đi tìm  tự do, bất chấp mọi hiểm nguy, các vụ tấn công của hải tặc và cái chết trên biển cả vùng Đông Nam Á. Là người đã từng chứng kiến cảnh bom nguyên tử nổ tại Hiroshima và ý thức được các chiều kích trong thảm cảnh xuất hành của người tỵ nạn, cha nhận ra nơi đó một thách đố, mà các tu sĩ dòng Tên không thể không biết tới. Cha muốn cơ quan tới gặp các anh chị em tỵ nạn và đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của họ, bằng cách cung cấp thực phẩm, quần áo, thuốc men, chỗ trú ngụ, đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng, bảo vệ phẩm giá bị thương tích, lắng nghe và an ủi họ.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC ghi nhận hiện tượng di cư tỵ nạn gia tăng mạnh trên thế giới ngày nay. Các đoàn người di cư tỵ nạn khởi hành từ nhiều nước vùng Trung Đông, Phi châu, Á châu và tìm ẩn náu bên Âu châu.  Cao Uỷ tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc ước lượng có khoảng 60 triệu người tỵ nạn trên thế giới. Đây là con số cao nhất kể từ Đệ Nhị Thế Chiến tới nay. Đàng sau các con số này có các con người với một tên tuổi, một gương mặt, một lịch sử và một phẩm giá là con Thiên Chúa không thể bị tha hóa.

Hiện nay Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên hoạt động trong 10 vùng với các dự án tại 45 nước khác nhau, cùng với sự cộng tác của các nữ tu, giáo dân và rất nhiều người tỵ nạn, trung thành với lý tưởng do cha Arrupe đề ra: đó là đồng hành, phục vụ và bảo vệ các quyền của người tỵ nạn. Việc lựa chọn sống giữa người tỵ nạn tại những nơi cần thiết, trong và sau chiến tranh, đã khiến cho tổ chức này nổi tiếng. ĐTC đã đặc biệt nghĩ đến các nhóm sống bên Siria, Afghanistan, Cộng hòa Trung Phi, và vùng đông Cộng hòa  dân chủ Congo. Cơ quan cứu trợ người tỵ nạn của dòng Tên trao ban hy vọng và tương lai cho người tỵ nạn qua việc giáo dục, giúp người tỵ nạn duy trì sống động niềm hy vọng, tin vào tưong lai và có các dự án cho cuộc sống. Không có gì cao đẹp hơn là cống hiến cho các trẻ em phương tiện học hành và phát huy tối đa các năng khiếu của chúng, làm sao để chúng có thể bảo vệ các quyền riêng và chung của cộng đoàn… Rất tiếc là cả các trường học cũng không tránh khỏi các vụ tấn kích của những người gieo rắc bạo lực. Tuy nhiên, việc giáo dục rất quan trọng, vì thế trong Năm Thánh Thương Xót sắp tới cơ quan cứu trợ người tỵ nạn phát động chiến dịch “Giáo dục toàn diện” với khẩu hiệu “Chúng ta hãy huy dộng lòng thương xót” nhằm giúp thêm 100.000 trẻ em có thể đi học, đặc biệt là các trẻ nữ thường bị thiệt thòi nhiều hơn.

ĐTC bầy tỏ lòng biết ơn các ân nhân của cơ quan và khích lệ mọi người tiếp tục công tác giáo dục phát triển này cho người tỵ nạn (SD 14-11-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC CẢNH BÁO CÁC HỆ LỤY TIÊU CỰC CỦA NẠN TÀN PHÁ MÔI SINH

ĐTC CẢNH BÁO CÁC HỆ LỤY TIÊU CỰC CỦA NẠN TÀN PHÁ MÔI SINH

VATICAN: ĐTC Phanxicô khích lệ các giới chức lãnh đạo dân sự toàn thế giới ý thức săn sóc môi sinh và đừng tàn phá thụ tạo, vì các hệ lụy tiêu cực đảo lộn cuộc sống con người.

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến hàng trăm thị trưởng và giới chức lãnh đạo dân sự các thành phố lớn toàn thế giới, tham dự hai hội nghị về các đề tài “Nô lệ mới và các thay đổi khí hậu: dấn thân của các thành phố”, “Sự phong phú, các dân tộc và hành tinh”, do Hàn lâm việc các Khoa học và Khoa học xã hội Tòa Thánh tổ chức. Phát biểu buông trong buổi gặp gỡ mọi người tại phòng Thượng Hội Đồng Giám Mục trong nội thành Vaticăng chiều ngày 21 tháng 7 vùa qua ĐTC khẳng định rằng săn sóc môi sinh  có nghĩa là có một thái độ của môi sinh nhân bản. Không thể tách rời con người khỏi môi sinh, vì môi sinh bao giờ cũng toàn vẹn và liên quan tới con người. Sự quân bình trong tương giao hai chiều ấy vô cùng quan trọng, vì khi thiên nhiên bị khai thác tàn bạo không thương tiếc và bị đối xử tàn tệ, thì nó sẽ nổi loạn chống lại con người. Đó là điều tôi đã đề cập đến trong Thông điệp “Laudato si’”. Nó không phải là một thông điệp “xanh” như có người nói, mà là một thông điệp xã hội. Khi môi sinh không được săn sóc và các thành phố lớn lên qúa khổ, thì sẽ tao ra các khu xóm nghèo ổ chuột ven biên, nơi dân chúng không có cơ may tại đồng quê tìm về sinh sống. Nạn tôn thờ chế độ kỹ thuật ăn cướp công ăn việc làm và tạo ra cảnh thất nghiệp là tệ nạn ngày càng phổ biến hiện nay. Có những nơi có tới 40%, 47%, 50% người trẻ 25 tuổi trở lên thất nghiệp. Tương lai của họ là một bóng ma sinh ra biết bao nhiêu tệ nạn khác: buồn nản, nghiện ngập, tuyệt vọng vì cuộc sống vô nghĩa, tự tử, trở thành du kích quân hay chạy theo một lý tưỏng tiêu cực nào khác. Chế độ kỹ thuật trị, việc sử dụng các hóa chất trong các lãnh vực kỹ nghệ nông nghiệp khiến cho không khí và các nguồn nước bị nhiễm độc gây ra mọi thứ tật bệnh cho con người. Việc tàn phá hai vùng Amazzonia và Congo, là hai lá phổi lớn của thế giới, gây ra hiện tượng phá rừng và nạn di cư. Nạn di cư làm nảy sinh ra tệ nạn làm việc lậu, buôn bán người và nô lệ trong việc khai thác các quặng mỏ, dùng các khoáng chất tẩy lọc gây bệnh giết dân chúng. Bên cạnh đó là nạn khai thác tình dục trẻ em tại các nước có chiến tranh. Và chiến tranh cũng lã yếu tố gây ô nhiễm và tan phá môi sinh vv…

Thiên Chúa truyền cho con người phải săn sóc thiên nhiên. Khi con người không săn sóc thiên nhiên, nhưng chiếm đoạt nó, thì việc không vun trồng nó sẽ hủy diệt con người. ĐTC xin Chúa cho mọi người ý thức đuợc vấn đề tàn phá mà chính con người đang làm, khi không biết săn sóc môi sinh nhân bản và không có ý thức về môi sinh như món quà Thiên  Chúa ban cho, để biến cái không vun trồng ban đầu trở thành việc vun trồng, và dừng lại, để không biến việc vun trồng trở thành không vun trồng (SD 21-7-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican về khai thác quặng mỏ

Cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican về khai thác quặng mỏ

VATICAN. Tham dự cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican từ 17 đến 19-7-2015 có khoảng 30 đại diện các cộng đoàn bị thương tổn vì quặng mỏ, từ Mỹ châu đến Á châu, qua Phi châu. Ngoài ra cũng có đại diện của một số HĐGM, các dòng tu và CIDSE là liên hiệp quốc tế các tổ chức phát triển và liên đới.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, vị chủ tọa cuộc Hội thảo, cho biết sinh hoạt này nhắm phối hợp các sáng kiến khác nhau trên bình diện địa phương để tiến tới một sáng kiến mới trên bình diện quốc tế, nhân danh Tòa Thánh, để có thể đối thoại với các giới lãnh đạo các công ty khai thác quặng mỏ.

Trong cuộc họp báo giới thiệu cuộc hội thảo này với giới báo chí ban sáng cùng ngày 17-7, một số nạn nhân của các hoạt động khai thác quặng mỏ ở Ấn độ, Brazil, Chile và Cộng hòa dân chủ Congo, đã trình bày chứng từ. Chẳng hạn bà Patricia Generoso Thomas, người Brazil, đã giải thích về sự kiện một xí nghiệp quặng mỏ đã làm ô nhiễm nước uống tại thành phố nơi bà sinh sống ở bang Minas Gerais.

Một chứng từ khác của ông Héritier Wembo Nyamo, người Congo, thuật lại sự kiện ông bị quăng vào lửa, bị tra tấn và dọa giết vì đã biểu tình và đòi một môi trường để làm việc sau khi một công ty liên quốc đến khai thác quặng mỏ kim loại đã trục xuất nhiều dân cư trong vùng. Hiện nay ông Nyamo không thể hành nghề tìm vàng nữa. Ông nói ”Tôi có vợ con và một em gái phải nuôi”.

Về phần ĐHY Turkson, ngài tố giác những áp lực, và dọa nạt mà một số tham dự viên đã phải chịu, sau khi xin hộ chiếu. Nhiều người khác bị bạo hành, bị giết hoặc bị trả thù. Tin về những sự kiện đó đã được gởi tới Hội đồng Tòa Thánh. Vì thế, – ĐHY nói – cần phải đón nhận tiếng kêu của những người bị xách nhiễu như thế do những kẻ làm việc mà không theo đuổi một mục tiêu thực sự là nhân bản. Trách nhiệm về những vụ ấy chính là những người đầu tư, các chủ xí nghiệp, ngân hàng chính trị gia và chính quyền của những nước có các quặng mỏ hoặc những nước có trụ sở trung ương của các công ty liên quốc về quặng mỏ. (Apic 17-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội tại Congo tự lập tài chánh

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội tại Congo tự lập tài chánh

ĐTC tiếp các Giám Mục Congo

VATICAN. ĐTC kêu gọi các GM Congo đẩy mạnh tiến trình tự lập tài chánh và quan tâm đến các linh mục du học.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài huấn dụ trao cho 9 GM Cộng hòa Congo, trong buổi tiếp kiến sáng ngày 4-5-2015, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

ĐTC nhắc đến sự kiện một vài giáo phận Congo gặp khó khăn lớn vì thiếu tài nguyên vật chất và tài chánh, khiến cho các mục tử lo âu, vì thế, ngài viết: ”tôi khuyến khích anh em hãy quyết liệt đưa các giáo phận thuộc quyền vào con đường tự lập, dần dần tự túc và thực thi liên đới giữa các giáo phận với nhau tại đất nước anh em, theo truyền thống tốt đẹp từ thời Giáo Hội sơ khai. Anh em cũng cảnh giác đừng để những viện trợ kinh tế dành cho các giáo phận của mình giới hạn tự do của anh em như mục tử và cũng đừng cản trở tự do của Giáo Hội. Giáo Hội phải luôn được tự do loan báo Tin Mừng một cách đáng tin cậy”.

Trong bài huấn dụ, sau khi nhắc nhở các GM quan tâm đến việc thường huấn của các LM là những cộng tác viên đầu tiên của mình, ĐTC viết rằng: ”Tôi mời gọi anh em tiếp tục quan tâm đến những điều kiện gửi các LM thuộc các giáo phận anh em du học và hãy nâng đỡ các vị trong thời gian ở nước ngoài, để tạo điều kiện dễ dàng cho sự trở về nước của các linh mục ấy trong thời gian thích hợp, để thiện ích của Giáo Hội luôn được bảo tồn”.

ĐTC cũng nói đến sự cần thiết của các LM như những mục tử nhiệt thành mà dân Chúa có thể trông cậy, những vị xây dựng bằng chứng tá cuộc sống, nhất là về sự độc thân và tinh thần thanh bần theo Tin Mừng.

Cộng hòa Congo rộng hơn Việt Nam với 342 ngàn cây số vuông, nhưng dân số chỉ có 5 triệu 320 ngàn người, trong đó có khoảng 55% là tín hữu Công Giáo với gần 2 triệu 900 ngàn tín hữu, thuộc 1 tổng giáo phận và 8 giáo phận, do 9 GM coi sóc. 1 phần 3 dân Congo còn theo các đạo cổ truyền ở địa phương. (SD 4-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Những thế hệ bán mẹ bán con

Những thế hệ bán mẹ bán con

Ngày 31 tháng giêng vừa qua ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến các thành viên của Liên đoàn các nông dân Italia viết tắt là Coldiretti, nhân kỷ niệm 70 năm thành lập.

Ngỏ lời trong dịp này ĐTC đã khẳng định rằng đất đai là mẹ của con người, vì khi được trồng tiả với sự cẩn trọng, lòng biết ơn trân quý và chừng mực, đất đai cung cấp lương thực nuôi sống con người. Trong các luống cầy của mẹ đất không chỉ được ấp ủ các hạt giống và loại củ trở thành thực phẩm nuôi sống con ngưòi, nhưng nó còn ấp ủ cả chính gốc rễ của cuộc sống nhân bản nữa. Ý thức đất đai là mẹ còn rất mạnh nơi các dân tộc phi châu, Á châu và châu Mỹ Latinh. Đất không chỉ là mẹ, mà thường khi còn được nâng lên hàng thần linh, hay ít nhất là thực tại thuộc thế giới linh thiêng. Đất, nước, lửa, gió chiếm chỗ quan trọng trong các tôn giáo cổ truyền phi châu. Người dân tôn trọng và kính sợ các yếu tố thiên nhiên ấy, vì biết rằng cuộc sống của mình tùy thuộc các yếu tố đó.

Tuy nhiên, khi con người chỉ tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận, thì nó sẽ bán cả mẹ đất, vì nó chỉ coi mẹ nó là hàng hóa, và hút tỉa mọi nhựa sống của mẹ một cách tàn bạo, nhằm gia tăng lợi nhuận và túi tiền của mình, mà không thèm đếm xỉa gì tới các chu kỳ sinh học của mẹ. Vì thế khi mẹ đất kiệt quệ, không vắt được gì nữa, thì nó vứt bỏ hay bán tống bán tháo đi.

Chính vì mẹ đất nuôi sống con người nên các chính quyền phải biết đề ra các đường lối chính trị thăng tiến một nền nông nghiệp xã hội có gương mặt nhân bản, được làm thành bởi các liên lạc quân bình, vững chắc và sinh động giữa con người và mẹ đất. Không có nhân loại, nếu không có việc trồng tiả đất đai. Không có cuộc sống tốt, nếu không sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người. Do đó cần phải loại bỏ các chướng ngại trừng phạt sinh hoạt nông nghiệp qúy báu như vậy và cần phải lượng dịnh trở lại vài trò và tầm quan trọng của đất đối với cuộc sống con người. Đồng thời phải chú ý không dùng đất đai canh tác nông nghiệp cho các sinh hoạt xem ra đem lại nhiều lợi nhuận hơn, nhưng không bảo đảm lương thực tối thiểu cho dân.

Ngoài ra, theo quan niệm của Kitô giáo, đất đai là của tất cả mọi người và phải được sử dụng để nuôi sống mọi người, làm sao để không xảy ra cảnh nghèo đói. Hệ thống kinh tế thống trị hiện nay loại bỏ rất nhiều người, không cho họ được hưởng thiện ích của đất đai được dành để cho tất cả mọi người. Các chính sách nông nghiệp của các chính quyền đáng lý ra phải liên lỉ chú ý tới thực tại này, nhưng thường khi chúng bị chi phối bởi các thứ lợi nhuận khác nhau của hàng lãnh đạo hay các nhóm xã hội, nên có thể phạm các sai lầm và không thành công trong việc bảo đảm nhu yếu phẩm cho cuộc sống của người dân.

Thêm vào đó việc tuyệt đối hóa các luật lệ thị trường, một nền văn hóa gạt bỏ và phung phí với các mức độ không thể chấp nhận được, cùng với các yêu tố khác gây ra cảnh sống bần cùng và khổ đau cho biết bao nhiêu gia đình trên thế giới hiện nay. Vì thế cần phải suy tư sâu xa trở lại hệ thống sản xuất và phân phối thực phẩm. Cơm bánh nuôi sống con người, trong một nghiã nào đó, cũng tham dự vào sự thánh thiêng của cuộc sống con người nữa, vì thế không thể coi nó chỉ như là một món hàng.

Trước các thay đổi khí hậu, và sự kiện nước và đất bị ô nhiễm, mọi quốc gia trên thế giới cần phải ý thức về sự khẩn thiết giữ gìn môi sinh, bảo vệ thụ tạo cho sự sống còn của nhân loại và thiện ích của các thế hệ đến sau. Do đó cần phải tìm trở lại tình yêu đối với mẹ đất và giữ gìn mẹ đất như Thiên Chúa muốn, vì nó là nguồn sự sống của toàn nhân loại, chứ không được khai thác xả láng và bán đổ bán tháo mẹ đất đi.

Qủa thế, khi chỉ tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận người ta bán mẹ mình. Đây đã là trường hợp xảy ra tại Congo và nhiều nước Phi châu, nơi giới lãnh đạo chính trị bán hàng triệu mẫu đất cho chính quyền cộng sản Trung Quốc và Ấn Độ. Trong các năm qua Trung Quốc đã mua của Congo 9 triệu mẫu đất, để canh tác và sản xuất hoa mầu cung cấp thêm lương thực cho khối 1 tỷ bốn trăm triệu miệng ăn. Ấn Độ và Nam Hàn cũng đổ xô đi mua đất bên Phi châu để canh tác. Còn Nhật Bản thì mua các bất động sản và mua đất lập làng cho người già sang hưu trí bên Australia.

“Bán mẹ” đất đây cũng là trường hợp xảy ra tại Việt Nam, vì giới lãnh đạo cộng sản đã bán đất, bán biển, bán rừng, bán các quặng mỏ và bán nước cho Trung Quốc. Tuy làm gì cũng nhân danh lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng giới tư bản đỏ Việt Nam phản quốc chỉ còn biết tôn thờ thần mỹ kim và lợi nhuận cá nhân phe nhóm, vì thế Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm thầm bán đứt đất mẹ và bán luôn cả 90 triệu con dân Việt Nam cho Trung Quốc. Cụ thể là từ nhiều thập niên qua mỗi năm nhà nước cộng sản Việt Nam đã bán hàng ngàn cô dâu Việt cho Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan. Tại các địa điểm mua cô dâu Việt, người nước ngoài có thể tới ngó nhìn, lựa chọn và trả giá mua phụ nữ Việt như mua súc vật,

Rồi đây vào năm 2020 khi Việt Nam chính thức trở thành một tỉnh của Trung Quốc theo thỏa hiệp bán nước lén lút của Hội nghị Thành Đô, con dân Việt Nam sẽ còn bị ức hiếp, đầy đọa, hán hóa, sống kiếp tôi mọi và trở thành nguồn cung cấp cơ phận cho đàn anh Trung Quốc vĩ đại biết chừng nào mà kể!

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến gần 50 Giám Mục Congo

Đức Thánh Cha tiếp kiến gần 50 Giám Mục Congo

VATICAN. ĐTC khuyến khích các GM Cộng hòa dân chủ Congo đào sâu việc huấn luyện tín hữu và tăng cường giáo dục để chống bạo lực.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-9-2014, dành cho gần 50 GM thuộc 47 giáo phận tại Congo nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài bày tỏ vui mừng vì các cộng đồng Kitô tại Congo đang phát triển nhưng đồng thời cũng nhắc nhở rằng: “Như anh em biết, đối với Giáo Hội, điều cốt yếu không phải là vấn đề số lượng, nhưng là sự gắn bó hoàn toàn không chút dè dặt với Thiên Chúa được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Chất lượng niềm tin nơi Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại, sự hiệp thông thân mật với Chúa, chính là nền tảng sự vững chắc của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng sinh tử là rao giảng Tin Mừng theo chiều sâu. Lòng trung thành với Tin Mừng, Truyền Thống và Giáo Huấn của Hội Thánh chính là những điểm tham chiếu vững chắc bảo đảm sự tinh tuyền của nguồn suống mà anh em đang dẫn đưa Dân Chúa đến” (Lumen Fidei, 36).

ĐTC ghi nhận Giáo Hội tại Congo có rất nhiều người trẻ, và ngài tỏ ra nhạy cảm đối với tình cảnh khó khăn của người trẻ. Ngài nói: ”Tôi biết anh em chia sẻ những cơ cực, vui mừng và hy vọng của người trẻ. Tôi rất kinh hoàng khi nghĩ đến các trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách gia nhập các lực lượng dân quân và bị bó buộc phải giết đồng bào của mình! Vì thế, tôi khuyến khích anh em tăng cường việc mục vụ cho người trẻ… Phương thế hữu hiệu nhất để thắng bạo lực, vượt thắng những chênh lệch và chia rẽ bộ tộc, chính là giúp người trẻ có óc phê bình và đề nghị với họ một tiến trình trưởng thành trong các giá trị Tin Mừng (Xc Evangelii gaudium, 64). Cũng cần tăng cường việc mục vụ trong các đại học cũng như trong các trường Công Giáo và công lập”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng nhắc đến sự băng hoại gia đình ở Congo do chiến tranh và nghèo đói gây ra. Ngài nói: ”Điều không thể thiếu được, đó là đề cao giá trị và khuyến khích tất cả các sáng kiến nhắm củng cố gia đình, là nguồn mạch mọi tình huynh đệ, là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình” (Sứ điệp Hòa bình thế giới, 2014, 1).

ĐTC cũng nói rằng: ”Anh em thân mến trong hàng GM, tôi mời gọi anh em không ngừng hoạt động để thiết lập một nền hòa bình lâu bền và công chính, qua một nền mục vụ đối thoại và hòa giải giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, đồng thời hỗ trợ tiến trình giải giáp, và cổ võ sự cộng tác hữu hiệp với các tôn giáo khác”.
Sau cùng, ĐTC bày tỏ hy vọng các GM Congo sẽ tiếp tục hoạt động để nhạy cảm hóa chính quyền về việc kết thúc các cuộc thương thảo để ký một hiệp định với Tòa Thánh.

Trong số gần 70 triệu dân tại Cộng hòa dân chủ Congo đa số là tín hữu Kitô, trong đó có hơn 52% là tín hữu Công Giáo. Các tín hữu Kitô khác chiếm 30% và có 10% theo Hồi giáo, 10% theo các tôn giáo cổ truyền của Phi châu. (SD 12-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio