Ý nghĩa các vết sẹo

Ý nghĩa các vết sẹo

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

1.  Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

2.  Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.

Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.

Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…

Chàng trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.

Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:

– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…

Ông lão nói tiếp:

– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.

Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.

Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…

3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.

Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!

Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".

Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.

Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".

Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."

Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.

LM GIUSE Nguyễn Hữu An

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Mở đầu Sứ điệp Phục Sinh 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhắc lại lời thiên thần nói với các bà đến thăm mộ Chúa: “Các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Chúa Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống lại… Các bà hãy đến xem chỗ Người đã nằm” (Mt 28,5-6). Từ đó, ĐTC nhấn mạnh: “Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, là Tin vui tuyệt hảo: Chúa Giê-su, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại! Biến cố này là nền tảng của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta: nếu Chúa Ki-tô không sống lại, Ki-tô giáo chẳng còn ý nghĩa; toàn bộ sứ mệnh của Giáo hội sẽ mất hết động lực, bởi vì Giáo hội đã khởi đầu từ đó và luôn bắt đầu lại từ đó. Sứ điệp mà các Ki-tô hữu mang đến cho thế giới này là: Chúa Giê-su, Tình yêu nhập thể, đã chết trên thập giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa Cha đã cho Người sống lại và đặt Người làm Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giê-su, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót chiến thắng tội lỗi, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự thật chiến thắng dối trá, sự sống chiến thắng sự chết.”

Bao nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ Thiên Chúa Tình Yêu giàu lòng thương xót nhân loại như thế nào. Xin cùng nhìn lại giờ phút cuối cùng trên thập tự giá, Chúa Giê-su đã ban 7 lời cuối thể hiện tình yêu vô lượng của Thiên Chúa. Suy niệm 7 lời cuối của Đức Giê-su, thấy rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận, và vì thế có thể coi đó là 7 DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.

Dấu ấn 1- “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).
 
Lề luật của Do-thái quy định: Luật báo phục tương xứng:Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (x. Đnl 19:21); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Chiếu theo Lề luật đó, thì những kẻ sỉ nhục, nhạo báng, đóng đinh giết Chúa Giê-su, cũng phải chịu sự báo phục tương xứng. Và khi Chúa tử nạn, thì đám người đó cũng phải chết theo.

Bước sang thời Tân Ước, chính Chúa Giê-su cũng cho biết ngày cánh chung (x. Mt 25, 31-46) Con Người sẽ ngự đến, “Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái” (Mt 25, 32-33). Chiếu theo sự phân xử đó, thì chắc chắn đám người đã đóng đinh, sỉ nhục, nhạo báng Đức Giê-su, sẽ phải đứng ở bên trái Người và rất đáng được Đức Vua (Quan Tòa Chung Thẩm) kết án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.” Vậy mà Đức Vua Giê-su trên thánh giá đã không xử như thế, trái lại còn cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Như vậy thì phải hiểu vấn đề như thế nào?

Thực ra Lời tiên báo về ngày tận thế chỉ là lời cảnh báo cho người tín hữu biết mà lo “làm lành, lánh dữ” trước khi đã quá muộn. Chỉ những kẻ cố tình phạm tội mới bị kết án. Lời Chúa xin tha tội cho những kẻ đã đóng đinh Người trên thập giá, đã chứng minh điều đó (“vì chúng không biết việc chúng làm”, tức là không cố ý phạm tội). Cũng chính Đức Giê-su đã khẳng định: ”Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha” (Lc 12, 19). Một cách cụ thể thì Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là vô lượng, vô biên. Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi xúc phạm đến Chúa, nên Người đã ban Thánh Thần soi sáng và thêm sức mạnh để ăn năn sám hối. Tuy nhiên nếu đã biết đó là tội mà còn cố tình phạm tội (tức là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần) thì tất nhiên án phạt thích đáng là không tránh khỏi.

Sách Giáo lý HTCG (số 1864) giải thích rõ: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31; Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ Lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.”

Suy niệm Lời cuối thứ nhất của Đức Giê-su khi bước vào đỉnh điểm của cuộc Thương Khó, thì thấy đó chính là một dấu ấn đậm nét về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Điều đó nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, mọi tội lỗi đã mắc phạm sẽ được tha hết, nếu biết ăn năn dốc lòng chừa. Nhưng cũng đừng vì thế mà ỷ lại rồi khất lần “để đến ngày mai sẽ tính”, bởi ngày Đấng Xét Xử Công Chính sẽ đến như kẻ trộm, “vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). Nhà “phù thủy tin học” Steve Jobs, giám đôc điều hành công ty máy tính Apple, trước khi chết, đã để lại một lời khuyên mà ông vẫn coi là một châm ngôn: “Hãy sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng của cuộc đời”. Ông giải thích: “Nếu bạn sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, đến lúc nào đó bạn sẽ tin tưởng rằng mọi điều bạn làm đã đúng”. Như vậy thì người Ki-tô hữu đừng để đến ngày mai những việc mà hôm nay có thể làm được, nhất là việc sám hối để canh tân con người và đời sống của mình.

Dấu ấn 2- “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).
 
Từ Lời cuối thứ nhất có thể suy ra Lời cuối thứ hai (“Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.” – Lc 23, 43). Đến những kẻ đã đóng đinh và giết Đức Giê-su, mà Người còn xin Chúa Cha tha cho chúng, thì những người tội lỗi đầy mình (như 2 tên trộm) Chúa cũng không chấp tội. Duy chỉ có điều là người phạm tội phải biết ăn năn, nếu muốn được tha tội. Cuộc đối thoại giữa hai tên trộm với nhau và với Chúa Giê-su đã nói rõ về điều này: “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 39-43).

Sự kiện này gợi nhớ lại khi còn đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã bị bọn kinh sư và Pha-ri-sêu phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Họ còn “lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”, khiến “Đức Giê-su đáp lại họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 30-32). Sứ vụ của Đức Giê-su là xuống trần gánh lấy tội lỗi của loài người, chịu khổ hình và chịu chết để giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Duy chỉ có điều loài người tội lỗi có nhìn ra con người thật của mình không và từ đó ăn năn sám hối, như người trộm lành để được hưởng ơn cứu độ. Đó mới thực sự là chân lý, là cứu cánh cho cuộc sống chan đầy tội lỗi của nhân trần.

Thêm một dấu ấn minh chứng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Người tín hữu hãy nhìn cho rõ hình ảnh 2 tên trộm cướp, để thấy được rằng là con người thì ai ai cũng có tội. Vậy thì hãy từ bỏ ngay cái thói kiêu căng hợm hĩnh của tên trộm dữ, mà kiên quyết học theo người trộm lành, dốc một lòng tin tưởng vào Đấng Cứu Độ đã chịu khổ hình vì tội lỗi của nhân loại. Nhiên hậu hãy tha thiết cầu xin Người, như người trộm lành năm xưa: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhớ đến con, xin cứu con khỏi án phạt đời đời, để con được vào Nước của Ngài”.

Dấu ấn 3-“Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ của con” (Ga 19, 27).
 
Người Mẹ nào mà không đau khổ khi mất con, nhất là Người Con đó hoàn toàn vô tội mà bị xử tử bằng khổ hình ô nhục. Hiểu được nỗi đau khổ đó của Đức Mẹ, nên Chúa mới trao phó thánh Gio-an cho Đức Mẹ như một nguồn an ủi cho nỗi đau đứt ruột của Người Mẹ mất đi Người Con duy nhất. Đến như thánh Gio-an và nói chung là các môn đệ, trước khổ nạn thập hình của Thầy, tất cả đều như đám gà con mất mẹ. Đức Giê-su đã trao phó các môn đệ của mình cho Mẹ của Người là để các môn đệ có nơi nương tựa, có người chăm sóc. Đó mới chỉ là nhìn theo nhân sinh quan, nhưng cao hơn một bậc, nhìn theo nhãn quan siêu hình học, thì sẽ thấy Lời trao phó này còn hàm nghĩa sâu rộng hơn nhiều: Đức Giê-su trước khi về cùng Chúa Cha, Người đã lo cho Hội Thánh mà Người thiết lập, và trao phó cho Đức Mẹ giữ gìn chăm sóc. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, trao cho Mẹ thiên chức Mẹ Giáo Hội của Thiên Chúa thì còn gì chuẩn xác hơn?

Nhờ thế, các Tông đồ “đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1, 14). Cho đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì hoa trái của sự cầu nguyện giữa Mẹ và các con đã hiển hiên: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Nếu không nhờ dấu ấn đặc biệt này (trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ), thì thử hỏi chỉ với 12 vị Tông đồ tiên khởi (đã chọn ông Mát-thi-a thay thế Giu-đa It-ca-ri-ốt – Cv 1, 15-26), Giáo Hội có thể phát triển vượt bậc được như ngày nay không?

Khi Đức Giê-su trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ, thì cũng có nghĩa Người muốn cho người tín hữu thấy được chỉ có Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mới đủ sức chở che, dẫn dắt đàn con cái trên hành trình tiến về quê Trời vĩnh cửu. Một cách cụ thể, Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ phải hiểu và thực hành cho được châm ngôn sống: “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Lời Đức Giê-su dạy khi còn rao giảng Tin Mừng: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5); mà muốn đến với Thầy để có thể làm được những việc Thầy trao phó, thì rất cần phải có Cây Cầu Nối, Đấng Trung Gian, đó chính là Đức Mẹ, không thể khác hơn. Hiểu được như vậy thì tại sao người Ki-tô hữu không hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội “rước Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19, 27) như thánh Gio-an thủa xưa?

Dấu ấn 4-“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34).
 
Chúa chịu đựng mọi sự sỉ nhục của đám đông, sự bỏ rơi của các môn đệ và cả sự nhạo cười của những kẻ cùng bị đóng đinh với Ngườị. Trong khi đó, thì lại không thấy Chúa Cha hiện ra như khi Đức Ki-tô chịu phép rửa trên sông Gio-đan (x. Mt 3, 13-17), hay khi Người cầu nguyện trên núi Ta-bo (x. Lc 9, 28-36). Sự kiện này gợi nhớ đến lần cầu nguyện trên núi Cây Dầu (vườn Ghết-sê-ma-ni), Đức Ki-tô cũng đã lo lằng đến độ đổ cả mồ hôi máu ra và cầu xin “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26, 39). Mới chỉ nghĩ tới thôi mà đã lo lắng như thế, thì giờ đây trực tiếp uống “chén đắng” làm sao tránh khỏi ưu phiền tuyệt vọng và vì thế Chúa mới than thở gần như trách móc: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”

Lời than thở này phản ánh đúng thực chất bản tính loài người. Thực vậy, Chúa Giê-su “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người trong chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (Hiến chế “Mục Vụ về Giáo Hội – Gaudium et Spes”, số 22). Có một câu hỏi được đặt ra: “Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người, chịu khổ hình và chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Như vậy thì tại sao Người còn than thở gần như trách móc Chúa Cha như vậy?” Như đã phân tích, Chúa Giê-su Nhập Thể “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người”, nên tới giờ phút lên đến đỉnh điểm của sự cô đơn tuyệt vọng, Người than thở như vậy cũng là lẽ thường tình. Tuy nhiên, ngay sau đó, bản tính Thiên Chúa lại nhắc nhở đến sứ mệnh của Người. Và Đức Giê-su tiếp tục “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8).

Tuy đây là Lời Đức Giê-su than thở cùng Đức Chúa Cha xuất phát từ nhân tính của Người; nhưng nếu nhìn vào thiên tính sẽ thấy Đức Giê-su đã “vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập tự”, thì chẳng lẽ công trình cứu chuộc nhân loại sẽ trở nên vô ích vì bị Chúa Cha “bỏ rơi” sao? Lại thêm một dấu ấn sáng ngời cho Lòng Chúa Thương Xót (Đức Ki-tô đã hấp hối mà vẫn không quên sứ vụ trọng đại mà Chúa Cha trao phó). Người Ki-tô hữu cần khắc sâu trong tâm khảm dấu ân trọng đại này, bởi không thể có sự kiện “Chúa Cha bỏ rơi Người Con” và vì thế Người Con Cả (Trưởng Tử Giê-su) tất nhiên cũng không quên đàn em thơ dại và yếu ớt, nên đã trao phó cho Mẹ Người chăm sóc. Hai dấu ấn 3 và 4 như một hệ luận tất yếu minh nhiên Lòng Chúa Thương Xót.

Dấu ấn 5- “Ta khát!” (Ga 19, 28).
 
Cái khát của Chúa Giê-su là hậu quả đau đớn của cực hình trên thập giá. Khi trình thuật sự kiện này, Thánh sử Gio-an viết: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19, 28). Thánh Gio-an nghĩ rằng cái khát của Chúa Giê-su đã đưa lên tột đỉnh ý nghiã của Kinh Thánh, đúng như Lời Chúa hằng nhấn mạnh: Tất cả mọi việc diễn ra trong công trình cứu độ dều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Lc 4, 21; Ga 19, 24.28.36-37). Thực vậy, Lời Chúa Giê-su đã gợi đến lời than trong Thánh Vịnh 69, trong đó tác giả là người “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân”. Tác giả nói rất rõ bị người đời thóa mạ, ruồng bỏ, đến độ “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69, 22). Sau khi nói “Ta khát” thì quả thực đám đông đã làm đúng như lời Thánh vịnh đã tiên báo: “Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người” (Ga 19, 29).

Đó là nói về tất cả sự kiện diễn ra trên Núi Sọ đều ứng nghiệm Lời Kinh Thánh. Tuy nhiên, ngoài cái khát thể lý ra, Đức Giê-su trước khi chấm dứt sứ vụ tại trần gian để trở về cùng Chúa Cha, thì Người còn một cơn khát tinh thần luôn bốc lửa trong Thánh Tâm Người: Ấy chính là cơn khát lo cho Giáo Hội (mà Người đã khai sinh) được no thỏa hồng ân, vững bước trên hành trình đem hoa trái Tình Yêu Cứu Độ đến cho “mọi loài thụ tạo”. Loài người đã đáp ứng cái khát thể lý của Đức Giê-su bằng giấm chua, mật đắng (sỉ nhục, nhạo cười, đóng đinh, đưa giấm cho Người uống), thì cũng chẳng khác đáp ửng cái khát tinh thần của Chúa bằng tội lỗi ngập đầu và sự chết đời đời.

Lời Chúa “Ta khát” rất cần phải được in dấu ấn thật sâu đậm trong tâm khảm mỗi tín hữu Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã khao khát cho dân Người được hưởng đầy đủ Lòng Chúa Thương Xót trong mọi tình huống cuộc đời trần thế (cả tinh thần lẫn vật chất). Vậy thì xin hãy khao khát được tin nghe và thực hành liên lỉ Lời Chúa, để đáp ứng cơn khát của bản thân cũng như của anh em xa gần.

Dấu ấn 6- “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
 
Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” cho biết công trình của Chúa Giê-su “đã hoàn tất” theo nghĩa không còn gì để làm thêm nữa, đã chấm dứt. Đồng thời cũng hàm chứa ý nghịa là một “chung kết” theo nghĩa là “cùng đích” của tất cả những gì Lời Chúa đã tiên báo: hy vọng của Kinh Thánh về một Đấng Cứu Chuộc đã được đáp ứng tận tình. Rõ ràng sứ vụ Chúa Cha trao phó đã được Chúa Giê-su thực hiện hoàn hảo. Giờ phút cuối cùng trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su đã nói lời này với chính mình, đồng thời cũng cho mọi người biết Người đã hoàn tất sứ vụ. Tuy nhiên, Đức Giê-su có chấm dứt hoàn toàn mối bận tâm về hành trình cứu độ nhân loại hay không, thì lại là chuyện khác.

Thật vậy, sau khi Đức Giê-su phán: “Mọi sự đã hoàn tất”, Thánh sử Gio-an ghi: “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”, trong khi Thánh Mat-thêu ghi: “trút linh hồn”, còn Thánh Lu-ca và Mac-cô đều ghi là “Người tắt thở”. Điều này cho thấy Thánh sử Gio-an – nhờ được Thần Khí mạc khải – đã có ngụ ý riêng: Nếu chỉ là trút hơi thở cuối cùng thì ghi như thánh Mat-thêu, Lu-ca, Mac-cô là đủ; nhưng ở đây thánh Gio-an còn muốn người đọc (các tín hữu) hiểu sâu hơn và xa hơn: Tới giờ phút cuối cùng của cuộc sống trần thế, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giê-su vẫn còn lưu tâm tới điều Người đã truyền (Lời thứ ba): “Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ con” (Ga 19, 27). Mà vì thế nên “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”. Đó chính là: Người đã trao phó Chúa Thánh Linh (Thần Khí) cho Đức Mẹ và Giáo Hội mà Thánh Gio-an là đại diện trong giờ phút cực trọng này.

Một cách cụ thể thì Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” chỉ là nói về sứ vụ của Người nơi trần thế đã xong, nhưng Lòng Thương Xót của Chúa vẫn trải dài trong không gian và thời gian, “trải qua đời nọ tới đời kia” cho đến thiên thu vạn đại. Và như thế, dấu ấn chung cuộc về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ phai lạt, dù cho có thiên binh vạn mã của sự dữ, của Sa-tan cũng không xóa mờ được.

Dấu ấn 7-“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46)
 
Thời điểm nghiêm trọng đã điểm: “Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa.” Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23, 44-46). Lời cuối cùng và cũng là dấu ấn đậm nét nhất của Đức Giê-su trên thánh giá (“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”), chính là một lời kinh nguyện quen thuộc của người Do-thái trích dẫn từ cuốn Thánh Vịnh (xc. Tv 31, số 6). Điều đó cho thấy Chúa Giê-su luôn kết hợp với dân Người, và bày tỏ sự cậy trông nơi Chúa Cha bằng những lời mà tất cả mọi người có thể hiểu được dễ dàng.

Nếu chỉ nhìn vào Đức Giê-su với Lời cuối cùng này thì chỉ thấy lòng thương cảm trào dâng trước cảnh Người Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải chết trong ô nhục, cay đắng vì tội lỗi loài người. Tuy nhiên, mở rộng sụ quan sát ra toàn cảnh Núi Sọ, sẽ thấy ngoài quang cảnh thiên sầu địa thảm ra, còn có một cảnh tượng về con người: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về. Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23, 47-49). Đó là những nhân chứng đầu tiên cho vinh quang Thập Giá. Nói khác hơn đó là những hoa quả đầu mùa của Lòng Chúa Thương Xót tuôn trào nhựa sống từ Cây Nho Giê-su Ki-tô vậy.

Khoảng 10 ngày sau, thì hiện thực diễn ra đúng như Lời hứa trao Thần Khí của Chúa Giê-su: “Vào ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Hoa trái của Cây Nho Giê-su thật sự nở rộ “Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo”. Cộng đoàn tín hữu đầu tiên hình thành “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 2, 41-43). Và cho đến ngày nay thì Giáo hội vì luôn được “tràn đầy ơn Thánh Thần” phát triển vượt bậc tới năm châu bốn biển, cũng là nhờ Đấng Cứu Độ đã “trao Thần Khí” vậy.

KẾT LUẬN
 
Bảy Lời cuối của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá, như bảy dấu ấn về Lòng Thương Xót Chúa dành cho Giáo Hội và nói chung là toàn thể nhân loại. Tuy là Lời Chúa Giê-su dành cho loài người, nhưng phải hiểu đây chính là “ấn tín” Chúa Thánh Thần đóng trên mỗi Ki-tô hữu. Sách Giáo lý HTCG (số 698) đã cho biết định nghĩa về “Ấn tín”: “Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng “xức dầu”. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Ðức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30).

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy cầu xin Đức Giê-su Thiên Chúa cho thông hiểu về những dấu ấn quan trọng này, bởi chính “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, số 105).

Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin cho sứ điệp của Chúa qua bẩy lời cuối cùng trên thập giá, như bảy dấu ấn khắc sâu vào tâm khảm chúng con. Cúi xin Chúa ban Thần Khi cho chúng con để chúng con hiểu rằng chính 7 dấu ấn Lòng Chúa Thương Xót sẽ đem lại cho chúng con niềm hy vọng vững vàng. Ôi! Lạy Chúa! Xin ban đức tin cho chúng con, bởi đức tin chính là niềm hy vọng vào Ơn Cứu Chuộc của Chúa (*). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

JM. LÂM THY ĐVD

Chú thích: (*) xc. Thông điệp “Spe Salvi – Đức Tin là Hy vọng” (số 2)

 

Sứ điệp Lòng Thương xót cho người ngày này

Sứ điệp Lòng Thương xót cho người ngày này

Sứ điệp lòng thương xót cho con người ngày nay mang tính khẩn cấp đặc biệt. Thiên Chúa đã gởi một sứ điệp khẩn cấp đến với thế hệ chúng ta. Người muốn chúng ta đón nhận và thi hành.

Liệu chúng ta có quyền dùng ý chí tự do để sống theo ý mình, không quan tâm đến kế hoạch của Chúa và không đón nhận sứ điệp từ trời này không? Liệu chúng ta có quyền phớt lờ bao lời mời gọi tha thiết và mệnh lệnh của các Đức Thánh Cha, giờ là lúc trở về với lòng Chúa thương xót không? Có phải con người ngày nay đã rất trưởng thành, rất trần tục và rất độc lập đến độ không còn cần đến lòng Chúa thương xót đã được loan báo theo cách thức mới và khẩn cấp qua vị “Tông đồ và Thư ký” của lòng thương xót là nữ tu Faustina không?

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II chỉ thị: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”

• Thánh Nữ Faustina – “Tông Đồ và Thư Ký” của Lòng Chúa Thương Xót

Qua nữ tu Faustina, Chúa cho biết rõ là Ngài muốn lòng thương xót ấy phải được tôn vinh: Hãy ca ngợi và tôn vinh lòng thương xót của Ta (NK, 206); Ta đòi hỏi người ta tôn kính lòng thương xót của Ta (NK, 742) ; Nếu họ không tôn thờ lòng thương xót của Ta, họ sẽ tàn lụi đi (NK, 965); Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ (NK, 998); Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật (NK 1572). Đối với các linh mục công bố và tán dương lòng thương xót của Ta, Ta sẽ ban cho những quyền năng lạ lùng (NK, 1521); Đối với ai loan truyền lòng thương xót của Ta, Ta sẽ bảo vệ họ trong giờ chết (NK, 1540); Ta sẽ xử theo lòng thương xót của Ta vào giờ chết của họ (NK, 379); Danh tánh của họ được ghi trong cuốn sách sự sống này (NK, 689). Người cam đoan rằng: Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta (NK,723).

Loan truyền Tin Mừng Lòng Chúa Thương Xót chính là thực hiện lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16; Lc 24,47; Mt 28,19; Cv 1,8). Đã là lệnh truyền của Chúa thì bất cứ ai, dù thích hay không thích, muốn hay không muốn, cũng phải thi hành. Không thể dựa vào cảm tính của mình, hay nhân danh bất cứ quyền lực nào mà khước từ, ngăn cản, thậm chí chống phá công cuộc loan truyền Lòng Chúa Thương Xót. Đã là lệnh truyền thì ta có bổn phận phải thi hành, khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, như Phaolô quả quyết: “Rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Không tin, không loan truyền Lòng Chúa Thương Xót, tôi đang tự kết án mình, chuốc lấy án phạt vào mình. Thật khốn cho tôi!

Phêrô và Gioan bị các thủ lãnh Do Thái, kỳ mục và kinh sư điệu ra trước Thượng Hội Đồng cấm tuyệt đối hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa, nhưng hai ông đáp lại: “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi : trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,19-20); Phêrô và các tông đồ dù bị nghiêm cấm không được rao giảng Tin Mừng và mạng sống bị đe dọa, chết thì chết, vẫn khẳng khái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Các Tông đồ bị đánh đòn vì loan báo Tin mừng, nhưng “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 40-41).

Cũng như các Tông đồ, Faustina gặp biết bao hiểu lầm, nghi ngờ, chống đối từ chính chị em trong Dòng khi loan báo lòng Chúa Thương Xót. Lúc đó Chúa phải trấn an: “Con được hợp nhất với Cha; con đừng sợ gì cả. Con hãy biết rằng Satan căm ghét con; nó căm hờn mọi linh hồn, nhưng đặc biệt căm thù con, bởi vì con đã giật khỏi quyền thống trị của nó quá nhiều linh hồn” (NK, 412).

“Công cuộc này sẽ giật khỏi nanh vuốt hắn rất nhiều linh hồn, và đó là lý do khiến thần dữ nhiều khi cũng ra sức cám dỗ những người lành ngăn trở công cuộc… Satan căm hờn với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khủng khiếp biết bao! Hắn chống đối với toàn bộ công cuộc này.” (NK,812)

Gamalien là một kinh sư được toàn dân kính trọng, cũng lên tiếng cảnh báo Thượng Hội Đồng: “Tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ để cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa thì quý vị không thể nào phá hủy được; không khéo quý vị lại trở thành những kẻ chống Thiên Chúa” (Cv 5,38-39). Faustina cũng xác tín: “Tôi biết được chính Chúa đang xúc tiến toàn bộ công việc. Chúa đã khởi sự thế nào thì Người sẽ tiếp tục thực hiện như vậy. Càng thấy những khó khăn chồng chất, tôi càng an tâm hơn. Ô, nếu toàn bộ vấn đề này không phục vụ hữu hiệu cho vinh quang Thiên Chúa và lợi ích các linh hồn, thì có lẽ Satan đã không điên cuồng chống đối đến thế. Giờ đây tôi đã biết Satan căm ghét Lòng Thương Xót hơn bất kỳ điều gì khác. Đó là cực hình đáng sợ nhất của nó. Tuy nhiên Lời Chúa sẽ không qua đi ; điều Người phán vẫn sống động; những khó khăn sẽ không thể đè bẹp công cuộc của Thiên Chúa, nhưng làm sáng tỏ công việc của Người mà thôi… ” (NK, 764).

Thánh Phaolô tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa tuyệt mỹ biết bao sau khi thánh nhân nói rằng kế hoạch và khát khao của Thiên Chúa là “mọi người đều được hưởng lòng thương xót”. Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa thật sâu thẳm!…Vì mọi sự đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại, và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen (x. Rm 11,33-36).

“Ta tự thân là lòng thương xót”, Thiên Chúa diễn tả về lòng thương xót của Ngài cho thánh Faustina như thế (NK 281, 300, 1074, 1148, 1273, 1739, 1777). Thánh Gioan nói “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16). Cả hai cách diễn tả bổ sung cho nhau. Thiên Chúa tự thân là tình yêu và khi tình yêu được tuôn đổ trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa, đó là lòng thương xót. Lòng thương xót là tình yêu được tuôn đổ. Đó là tên gọi thứ hai của tình yêu (Gioan Phaolô II, Dives In Misericordia).

Chúa vui thích với danh hiệu “Lòng Thương Xót” (NK, 300), vì nó diễn tả thật tuyệt mỹ Ngài là ai và sự mong chờ tuôn đổ lòng thương xót ấy cho ta. Ngài cũng gọi mình là “Hoàng Đế của Lòng Thương Xót” (NK 1075, 1541), và ám chỉ trái tim đầy thương xót của Ngài (NK 177, 1074, 1152, 1447, 1520, 1588, 1602, 1682, 1728, 1739, 1777).

Tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa là lý do và mục đích chính của đời nữ tu Faustina (NK 835, 1604, 1242). Chị tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa trong mọi lời nói, việc làm và lời cầu nguyện. Đó cũng phải là sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hôm nay.

• Hãy Đi và Làm Nhân Chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, Nguồn Hy Vọng của Mọi Người và của Toàn Thế Giới

Đại Hội Tòa Thánh Thế Giới về Lòng Chúa Thương Xót lần thứ I tổ chức tại Roma từ ngày 2 đến 6 tháng 4-2008 mang dấu ấn của Đức Bênêđictô XVI. Ngài chúc lành và cổ võ sáng kiến quan trọng này trong đời sống Giáo Hội. Đức Bênêđictô XVII đã khai mạc Đại Hội với thánh lễ cầu cho Đức Gioan Phaolô II, một tông đồ vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót, và long trọng trao huấn lệnh trong ngày bế mạc Đại Hội :

“Các bạn thân mến, Đại Hội Tòa Thánh Thế Giới về Lòng Thương Xót lần thứ I kết thúc sáng nay với buổi cử hành thánh thể trong vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Tôi chân thành cảm ơn các vị tổ chức, cách riêng giáo phận Rôma và gởi tới toàn thể các vị tham dự lời chúc mừng điều giờ đây trở thành một mệnh lệnh: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới. Chúa Phục sinh ở cùng các bạn luôn mãi!” (Thông điệp Regina Caeli, 6/6/2008).

Huấn lệnh của Đức Bênêđictô XVI là “Hãy đi và làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa” chứ không phải lòng thương xót của con người chúng ta. Chứng từ lòng thương xót phải xuất phát từ Thiên Chúa, vì ngài khẳng định “Lòng Chúa Thương Xót chính là nguồn hy vọng cho mọi người và cho toàn thế giới”. Việc của ta là tín thác vào lòng thương xót của Ngài, đồng thời biết xót thương tha nhân.

Khi nói đến “mệnh lệnh” hoặc “huấn lệnh” thì nó mang nghĩa là “một lệnh truyền, một chỉ thị, hoặc một huấn thị có thẩm quyền, một hướng dẫn rõ ràng, một giáo huấn, một cho phép”. Do đó những lời của Đức Bênêđictô XVI mang sức mạnh của một mệnh lệnh không chỉ dành cho 4.000 tham dự viên nhưng còn nhắm đến tất cả các tín hữu trên toàn thế giới.

Sứ điệp và hình thức tôn sùng đặc biệt Lòng Chúa Thương Xót mà Đức Giêsu ban cho nữ tu Faustina vào thập niên 1930 được ghi lại trong cuốn “Nhật Ký Lòng Thương Xót Chúa Nơi Linh Hồn Tôi” của thánh Faustina. Sứ điệp này kêu mời ta hãy tín thác vào Chúa Giêsu, hãy đón nhận Lòng Chúa Thương Xót và chia sẻ cho tha nhân. Khi công bố mệnh lệnh: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới, Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh đó một sứ điệp khẩn cấp cho thời đại chúng ta. Đã là một mệnh lệnh khẩn cấp từ ĐTC ban ra thì mọi tín hữu trung thành với Giáo Hội, với ĐTC đều phải thi hành, không có bất cứ lý do gì để khước từ hay chống đối.

Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đi theo sứ điệp này, đặc biệt khi tuyên bố Chúa Nhật thứ II sau Phục Sinh là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa tại lễ phong thánh cho nữ tu Faustina vào ngày 30/4/2000. Để làm nổi bật sự khẩn thiết của sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa cho thời đại hôm nay, ngài nói: “Hôm nay tôi muốn chuyển sứ điệp này vào thiên niên kỷ mới”, và vào ngày 17-8-2002 khi thánh hiến Đền Thờ Quốc Gia Lòng Chúa Thương Xót tại Lagiewniki, Ba Lan, ĐTC cũng phó thác thế giới cho Lòng Chúa Thương Xót và khẳng định: “Xa lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không có nguồn hy vọng cho loài người”. Tương tự, Đức Bênêđictô XVI cũng nhấn mạnh “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là nguồn hy vọng cho mỗi người và toàn thế giới”.

Đức Bênêđictô XVI đi theo sự dẫn bước của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong việc làm nổi bật sứ điệp của Lòng Chúa Thương Xót trong thời đại này. Vào ngày 28/7/2008, trong dịp tôn vinh linh mục Michael Sopocko, là cha giải tội và linh hướng của thánh Faustina, lên bậc Chân phước, ngài nói : “Theo sự hướng dẫn của cha, nữ tu Faustina đã diễn đạt trải nghiệm thần bí và những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu trong cuốn Nhật Ký nổi tiếng. Xin tạ ơn về những cố gắng, về bức ảnh với lời “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa” đã được vẽ và gởi đi cho thế giới. Đầy tớ Chúa đây được biết đến như một linh mục, người thầy và người cổ động cho việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót đầy nhiệt thành… Vị tiền nhiệm yêu quý của tôi, Đức Gioan Phaolô II chắc chắn rất vui mừng trong cuộc phong Chân phước này tại quê nhà. Ngài là người đã giao phó thế giới cho Lòng Chúa Thương Xót. Đó chính là điều tại sao tôi lập lại ước vọng của Ngài: “Chớ gì Thiên Chúa, Đấng Giầu Lòng Thương Xót chúc phúc cho tất cả quý vị”.

Vào ngày 20/4/2005, trong sứ điệp đầu tiên làm Giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI bày tỏ niềm tri ân vì món quà của Lòng Chúa Thương Xót được lãnh nhận nhờ sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II: “Lúc này đây niềm tri ân sâu xa về hồng ân của Lòng Chúa Thương Xót vượt trên tất cả trong trái tim tôi. Tôi coi đây là một đặc ân mà Vị Tiền Nhiệm đáng kính, Đức Gioan Phaolô II đã nhận cho tôi. Tôi dường như cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của ngài đang nắm tay tôi. Tôi như thấy đôi mắt của ngài đang mỉm cười và nghe được trong lúc này lời ngài gọi riêng tôi : Đừng sợ !”

• Lòng Chúa Thương Xót là một Quà Tặng Cho Nhân Loại

Lòng Chúa Thương Xót là một quà tặng cho nhân loại như trong thông điệp Đức Gioan Phaolô II chuẩn bị cho Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa ngày 3/4/2005 trước khi ngài qua đời: “Như là món quà tặng cho nhân loại mà đôi lúc dường như bị hoang mang và lấn át bởi quyền lực sự dữ, bởi ích kỷ và sợ hãi, nhưng Chúa Phục Sinh đã ban tình yêu của Ngài xuống để khỏa lấp, để hòa giải và mở lại trái tim cho tình yêu. Một tình yêu biến đổi cõi lòng và đem lại bình an. Thế giới cần hiểu ra và chấp nhận Lòng Chúa Thương Xót biết bao !”

Khi so sánh lời của Đức Gioan Phaolô II tại Lagiewniki năm 2002: “Lửa của Lòng Thương Xót cần được chuyển đến cho thế giới”, và của Đức Bênêđictô XVI năm 2007: “Trong thời đại hôm nay, nhân loại cần một lời công bố mạnh mẽ và chứng tá về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”, chúng ta thấy hai vị chủ chăn trong Giáo Hội đều có chung một chủ đề và nội dung. Lửa của lòng thương xót là những chứng tá về lòng thương xót rất cần cho thế giới hôm nay.

Ban biên tập của National Catholic Register đã viết trong dịp lễ Lòng Chúa Thương Xót 15/4/2007 như sau :

“Tình yêu đến độ đam mê của Thiên Chúa đối với con người cũng đồng thời là tình yêu tha thứ. Tình yêu đó quá lớn đến nỗi quay lại chống đối với chính Ngài, tình yêu của Ngài chống lại sự công bình của Ngài.

Đây quả là mệnh đề khởi điểm và căn bản về Lòng Chúa Thương Xót – một kiểu tuyên bố mà một người có thể trông đợi được quy về Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, điều đó đã được Đức Bênêđictô XVI viết trong thông điệp đầu tiên: Deus Caritas Est / Thiên Chúa là Tình Yêu.

Bảy năm sau kể từ lần đầu Đức Gioan Phaolô II công bố thành lập Chúa Nhật Lòng Thương Xót, vậy mà nhiều linh mục hãy còn thận trọng về ngày lễ ấy. Tại sao họ còn do dự? Có tư tưởng cho rằng Lòng Chúa Thương Xót chỉ là việc sùng kính riêng của một người Ba Lan, xảy ra vì Đức Gioan Phaolô làm Giáo hoàng, chứ không phải xảy ra cho mọi người.

Đọc những lời của Đức Bênêđictô XVI  về Lòng Chúa Thương Xót phải bỏ ngay đi nhận xét thiển cận đó. Đúng hơn, tính phổ biến của lòng đạo đức này có phần đóng góp của Đức Gioan Phaolô II. Đức Bênêđictô XVI dường như muốn quy chiếu sự vĩ đại của Đức Gioan Phaolô II vào việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót”.

Khi được phóng viên Đài Truyền hình Quốc gia Ba Lan hỏi về “Những khoảnh khắc ấn tượng nhất trong đời Giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II”, Đức Bênêđictô XVI đã nhắc đến một trong số những di sản chính của vị Tiền Nhiệm là “Ngài đã tạo nên một nhận thức mới về sự vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót”.

Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa 15/4/2007, Đức Bênêđictô XVI đã chọn tổ chức sinh nhật của mình dù rằng sinh nhật của ngài là 16/4. Ngài nói: Hãy có đức tin nơi Lòng Chúa Thương Xót! Từng ngày hãy trở nên con cái của Lòng Chúa Thương Xót. Lòng Thương Xót là chiếc áo ánh sáng Chúa đã ban cho ta ngày Rửa Tội. Ta không được phép để ánh sáng này bị dập tắt, trái lại nó phải sáng lên trong ta mỗi ngày để đem Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho trần gian.

Theo ĐTC, trước khi làm chứng nhân cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, ta phải đích thân lãnh nhận quà tặng của Lòng Thương Xót Chúa. Tất cả những ai khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, đều nhận được “Một quà tặng lớn lao của Lòng Chúa Thương Xót”. Hãy để cho ánh sáng của Lòng Thương Xót ngày Rửa Tội “lớn lên trong ta từng ngày” bằng việc thực hành lòng thương xót.

• “Việc Tôn Kính Lòng Chúa Thương Xót là Chiều Kích Toàn Bộ của Đức Tin và Kinh Nguyện Kitô Giáo”

Có nhiều người cho rằng việc sùng kính này chỉ là phong trào “chợt đến chợt đi”, chỉ là việc đạo đức tùy phụ, không làm cũng không sao, nhưng Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong thông điệp Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót 23-4-2006 rằng “Việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót không phải là lòng sùng kính bậc hai, nhưng là chiều kích toàn bộ của đức tin và kinh nguyện Kitô giáo”.

Vào Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót 30-3-2008, ĐTC gởi thông điệp: “Lòng Thương Xót là Hạt Nhân Trung Tâm của Sứ Điệp Tin Mừng; đó là chính thánh danh của Thiên Chúa, là khuôn mặt Ngài tự mạc khải trong Cựu Ước và đầy đủ với Đức Giêsu Kitô, sự nhập thể sáng tạo và tình yêu cứu độ”.

Thánh Faustina ghi lại trong Nhật Ký những lời của Chúa diễn tả nỗi khát khao vĩ đại là chia sẻ lòng thương xót cho các linh hồn. Ngài khao khát các linh hồn (NK 206, 1182, 1521, 1784) và tiếp tục tuôn đổ lòng thương xót (NK 50, 177, 699, 703, 1074, 1159, 1190, 1689, 1784), kêu hét đến mệt lả (NK 177) như ngọn lửa đang cháy bên trong mình (NK 50, 177,186, 1074, 1190, 1521). Nỗi khát khao lớn nhất được dành cho tội nhân (NK 206, 378, 723, 1146, 1275, 1665, 1739, 1784), đặc biệt cho người khốn khổ (NK 723, 1182, 1182, 1273, 1541). Lòng thương cảm của Ngài thì chan chứa (NK 1148, 1190, 1777), với vòng tay mở rộng và chờ đợi (NK 206, 1541, 1728, 1777). Ngài không loại trừ ai (NK 1076, 1182, 1728), chỉ đòi hỏi tin cậy, niềm tin cậy không giới hạn.

Như Mẹ Têresa Calcutta thường nhận xét : cái nghèo nhất là không biết Đức Kitô. Vì thế, ta cần giúp tha nhân tìm kiếm Thiên Chúa trong khuôn mặt đầy Lòng Thương Xót của Đức Kitô. Ta hãy cầu nguyện xin Chúa giúp ta “tiêm nhiễm” Lòng Thương Xót của Chúa.

Nếu ta muốn tỏa lan Lòng Chúa Thương Xót theo lời Đức Thánh Cha và Giáo Hội, Tin Mừng về Lòng Thương Xót này phải trở thành điểm nhắm của ta vì chúng ta không chỉ được kêu gọi để loan báo nhưng còn để sống Lòng Thương Xót ấy. Đức Benedictô mô tả Đức Gioan Phaolô như “tông đồ vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót”, người “đã có trực giác tiên tri về nhu cầu mục vụ khẩn cấp” đối với Lòng Chúa Thương Xót trong thời đại này. Đức Gioan Phaolô II được ca ngợi như vị ngôn sứ của Lòng Chúa Thương Xót bằng chính điều ngài làm.

Ngày 6/4/2008, trong vai trò chủ tịch đại hội, cử hành thánh lễ bế mạc đại hội lòng thương xót tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, Đức hồng y Christoph Schonborn nói: “Quá trình thành công của Kitô giáo không phải là chuyện chiến thắng quân đội hoặc chính trị. Đúng hơn đó là chiến thắng của lòng thương xót sống động. Chỉ trong cách ấy bạn mới có thể thâm tín. Ngôn từ có thể đẹp nhưng cuối cùng vẫn chỉ là ngôn từ. Tuy nhiên, những hành động của lòng thương xót lại là những gì thật hiển nhiên”. Ngài vui mừng kêu lên: “Thật là xúc động khi nhìn thấy Lòng Chúa Thương Xót lan tỏa khắp thế giới”.

Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2005 ở Cologne bên Đức, ĐTC mời gọi họ tới gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô trong và nhờ Giáo Hội, đặc biệt bằng việc đến với Chúa Giêsu Thánh Thể nơi “Nhà Tạm của Lòng Thương Xót”.

Trong lần thăm viếng mục vụ Ba Lan, gặp gỡ 500.000 bạn trẻ ngày 27/5/2006 tại công viên Blonie, ở Kralow, Đức Bênêđictô XVI đã ủy thác “Ngọn Lửa Lòng Thương Xót” cho đám đông giới trẻ tham dự, để họ là “những sứ giả của Tình Yêu và Lòng Chúa Thương Xót trong thế giới” (Diễn văn chung 31/5/2006).

• Thay Lời Kết : Ta cần phải Sống Lòng Thương Xót Mỗi Ngày

Khi nhận được Lòng Thương Xót từ Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi tiến bước vào thế giới như những con người của lòng thương xót và thứ tha. Như Thiên Chúa đã bày tỏ lòng thương xót cho ta thế nào thì ta cũng được gọi để bày tỏ lòng thương xót ấy cho tha nhân, đặc biệt cho những ai tối cần đến. Nếu không, chứng tá cho Lòng Chúa Thương Xót sẽ mất đi độ tin cậy và sự toàn vẹn. Chúa nói với Faustina: “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm, thứ hai – bằng lời nói, thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta. Chính nhờ cách này mà một linh hồn có thể tôn vinh và tôn kính lòng thương xót của Ta.” (NK, 742).

Đức Bênêđictô XVI nhắc nhủ: “Ta cần phải sống lòng thương xót mỗi ngày, đồng thời cho phép Lòng Chúa Thương Xót biến đổi ta nên những người có lòng thương xót. Để rồi thế giới này đến lượt tự nó sẽ được biến đổi bởi sự khải hoàn của Lòng Thương Xót sống động”.

Theo gương thánh Faustina và theo lời kêu gọi của các vị chủ chăn trong Giáo Hội, ta có thể quảng bá việc tôn kính lòng thương xót Chúa, lần chuỗi lòng thương xót, cử hành lễ kính lòng thương xót, dâng những khổ đau của ta làm hy lễ tình yêu cho tha nhân. Ta cũng có thể nên sạch nơi “Tòa Thương Xót” của bí tích Hòa Giải. Ta cũng có thể kêu gọi mọi người đến với lòng thương xót của Chúa, khích lệ tất cả, đặc biệt các tội nhân hãy tin cậy vào lòng thương xót ấy. Ta có thể tham dự Đại Hội Thế Giới về Lòng Thương Xót hoặc giúp tổ chức cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót trong các xứ đạo. Ta có thể làm một tông đồ, một nhân chứng của lòng thương xót bằng chính cuộc sống của ta. Chúa đang kêu mời ta sống chứng tá lòng thương xót từng ngày trong gia đình, trong cộng đoàn, ngoài xã hội, khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, hãy có lòng thương xót đối với tha nhân như Thiên Chúa xót thương ta. Cầu nguyện và tín thác nơi Chúa phải là điều quan trọng khi theo đuổi hoạt động như thế.

Vượt lên trên, ta hãy phấn đấu cho “lòng thương xót sống động của Chúa đi tới khải hoàn” để đáp ứng huấn lệnh của Đức Bênêđictô XVI: Hãy đi và làm nhân chứng cho Lòng Chúa Thương Xót, nguồn hy vọng của mọi người và của toàn thế giới.

Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội Công Giáo Arméni

Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo Hội Công Giáo Arméni

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu Arméni tưởng niệm quá khứ để kín múc nhựa sống mới cho hiện tại, vui tươi loan báo Tin Mừng và làm chứng tá bác ái.

Ngài đưa ra lời mọi gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 9-4-2015, dành cho 20 GM thuộc Thượng Hội đồng Giáo Hội Công Giáo Arméni, dưới sự hướng dẫn của Đức Thượng Phụ Nerses Bedros XIX Tarmouni ở Liban, về Roma để đồng tế thánh lễ với ĐTC vào chúa nhật 12-4 tới đây tại Đền thờ Thánh Phêrô, tưởng niệm 100 năm cuộc diệt chủng Arméni, và tôn phong thánh Gregorio Nazek người Arméni làm Tiến Sĩ Hội Thánh.

Tại buổi tiếp kiến, ĐTC mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho những người con của dân tộc Arméni bị tàn sát cách đây 1 thế kỷ, và xin Chúa chữa lành các vết thương cũng như làm cho sớm có những cử chỉ cụ thể hòa giải và hòa bình giữa các dân nước. Ngài cũng khẳng định rằng ”việc tưởng niệm các nạn nhân cách đây 100 năm đặt chúng ta trước bóng đêm của mầu nhiệm sự ác.. Từ thâm tâm con người có thể bùng lên những sức mạnh đen tối, có khả năng đi tới độ đề ra những kế hoạch nhất loạt tiêu diệt người anh em, coi họ là kẻ thù, thậm chí như là người không có cùng nhân phẩm. Nhưng đối với các tín hữu, câu hỏi về sự ác do con người gây ra cũng đưa tới mầu nhiệm tham phần vào cuộc khổ nạn cứu độ.”

ĐTC nói với các giám mục: ”Những trang đau thương trong lịch sử dân tộc anh em, theo một nghĩa nào đó, kéo dài cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhưng trong mỗi trang đó có một mầm mống sự sống lại của Chúa”. Ngài mời gọi ”mỗi mục tử dấn thân giáo dục các giáo hữu biết đọc thực tại với cái nhìn mới, để mỗi ngày có thể nói rằng: dân tộc của tôi không phải chỉ là dân tộc chịu đau khổ vì Chúa Kitô, nhưng nhất là một dân gồm những người đã sống lại trong Chúa. Vì thế, điều quan trọng là tưởng niệm quá khứ, nhưng là để kín múc từ đó nhựa sống mới để nuôi dưỡng hiện tại bằng lời hân hoan loan báo Tin Mừng và bằng chứng tá bác ái”.

Cuộc diệt chủng làm cho 1 triệu 500 ngàn người Arméni thiệt mạng đã xảy ra vào cuối triều đại của Vua Hồi giáo Abdul Hamid II của Đế quốc Ottoman, rồi dưới thời gọi là ”Những người Thổ Nhĩ Kỳ trẻ”. Năm 1915, sau khi đóng cửa các trường học, thánh đường và bãi bỏ các tổ chức Arméni, một cuộc truy lùng và tàn sát người Arméni đã diễn ra, với những vụ bạo hành, hãm hiếp, hạ nhục, rồi các cuộc phát lưu vào sa mạc, với vô số người Arméni thiệt mạng. Chỉ những người nào chạy sang Nga, Siria và Liban mới thoát nạn.

Đức Tổng Thượng Phụ Karekine, Giáo chủ Giáo Hội Arméni Tông Truyền, – là Giáo Hội có từ năm 301 – sẽ chủ sự lễ tưởng niệm diệt chủng vào ngày 23-4-2015 tới đây, và sẽ phong thánh cho tất cả các nạn nhân cuộc diệt chủng, bị giết vì đức tin và vì đất nước, đồng thời sẽ tuyên bố ngày 24-1 hằng năm sẽ là lễ ”kính các thánh tử đạo cuộc diệt chủng”.

Một ngành của Giáo Hội Arméni Tông Truyền đã trở về hiệp nhất với Tòa Thánh hồi năm 1742 và hiện có khoảng 540 ngàn tín hữu. Công Giáo Arméni cũng chịu thảm trạng diệt chủng chung với dân tộc của mình và đã bị mất đi 156 nhà thờ, 32 tu viện, 148 trường học, 6 chủng viện bị tàn phá, 270 nữ tu và 300 LM bị giết. (SD 9-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lớp Sáu – Bài Học 18 – Hai Bài Quốc Ca

Bài Học 18: Hai Bài Quốc Ca

Quốc Ca Hoa Kỳ


Ồ! Hãy nói lên rằng bạn có nhìn thấy
Bằng ánh sáng mới chớm lúc bình minh
Chúng tôi tự hào hô to điều gì vào lúc tinh sương
(lúc chạng vạng với tia sáng cuối cùng)?


Kìa lá cờ của ai với những sọc rộng và các ngôi sao chói lọi,
Suốt chận chiến đầy nguy hiểm,
Bên trên những tường thành chúng tôi quan sát thấy
Đang tung bay ngạo nghễ (chảy một cách rất can đảm)?


Và ánh lửa đỏ rực của hỏa tiễn,
Và những trái bom nổ tung trên không trung
Minh chứng rằng xuyên suốt đêm
Lá cờ của chúng ta vẫn còn đó.


Ồ hãy nói lên đi, có phải Lá Cờ Hoa Kỳ vẫn tung bay
Trên mảnh đất của những người tự do
Và trên những ngôi nhà của các người can đảm?

 

YNghiCuaHatQuocCaVNCH

Đức Hồng Y Koch: trào lưu bài Do Thái gia tăng tại Âu Châu

Đức Hồng Y Koch: trào lưu bài Do Thái gia tăng tại Âu Châu

ZURICH. ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, bày tỏ lo âu vì trào lưu bài Do thái đang gia tăng tại Âu Châu.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho ”Nhật báo Chúa nhật” (Sonntagszeitung) số ra ngày 5-4-2015 tại Zurich, Thụy Sĩ, ĐHY Koch gọi sự gia tăng làn sóng bài Do thái là một ”tình trạng bi thảm” giữa lúc người ta đang nhìn lại trang sử đen tối về sự ngược đãi và bài người Do thái tại đại lục này. “Hiển nhiên là có nhiều người không học được điều gì từ quá khứ”.

 Đồng thời ĐHY Koch cũng nhấn mạnh rằng việc phê bình chính sách của Israel phải là điều có thể và không được đồng hóa việc phê bình này với xu hướng bài Do thái. ”Nếu người ta không phân biệt như thế thì sẽ cổ võ trào lưu bài Do thái thay vì bài trừ xu hướng này”.

 ĐHY Koch người Thụy Sĩ. Ngài mô tả quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và người Do thái là ”tốt”. Ngoài ra, cũng có nhiều người Do thái coi Giáo Hội Công Giáo là một đối tác đáng tin cậy trong cuộc chiến chống nạn bài Do thái”.

 Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Koch không loại trừ vấn đề có thể cung cấp võ khí để chống lại cái gọi là ”Nhà nước Hồi giáo”, IS. Ngài nói: ”Một vấn đề rất khó khăn đó là phải sử dụng phương thế nào để chống lại những hành động giết người của các dân quân Hồi giáo IS. Người ta cũng phải đồng trách nhiệm nếu chỉ đứng đó mà nhìn”.

 Theo ĐHY, để bảo vệ dân chúng và sự tự vệ chính đáng, người ta không thể loại bỏ trên nguyên tắc việc cung cấp võ khí. Nhưng cần phải làm sao để cứu xét kỹ vấn đề giao võ khí vào tay ai và điều gì sẽ xảy ra sau đó với những võ khí ấy” (KNA 5-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đại hội quốc tế về việc đào tạo các tu sĩ

Đại hội quốc tế về việc đào tạo các tu sĩ

VATICAN: Đại hội quốc tế về việc đào tạo các tu sĩ đã khai diễn tại Roma ngày mùng 7 và kéo dài tới ngày 11 tháng 4 này.

ĐTGM José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký Bộ tu sĩ và các hiệp hội tông đồ, cho biết trong các đề tài được trình bầy có thách đố của thế giới vi tính, công lý, hòa bình, việc bảo vệ thụ tạo là các biên giới mới của việc đào tạo cho cuộc sống thánh hiến trong lòng Giáo Hội và giữa lòng thế giới”. Đào tạo là một trong các ưu tiên của đời thánh hiến. Không thể có lòng trung thành sáng tạo, và khả thể sống hiện tại với lòng say mê và giang tay ôm tương lai vào lòng nếu không có một việc đào tạo có phẩm chất và thích hợp với các nhu cầu ngày nay. Vì thế việc thường huấn rất là quan trọng. Bên cạnh đó là việc dào tạo các nhà đào tạo.

Trong thế giới vi tính ngày nay việc sử dụng thành thạo các kỹ thuật truyền thông mới là một đòi buộc trong công tác rao giảng Tin Mừng, nhưng chúng cũng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trên cuộc sống của các tu sĩ. Cần phải biết tạo ra thế quân bình trong cuộc đời thánh hiến giữa việc cầu nguyện, suy niệm, học hành và các công việc khác trong ngày sống. Các người sống đời thánh hiến phải có ý thức trách nhiệm cao để duy trì căn tính đời thánh hiến của mình.

Tham dự đại hội có 1,500 linh mục tu sĩ và các chuyên viên đến từ nhiều nước trên thế giới (SD 4-4-2015).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Mọi nguời đêu có trách nhiệm đối với các trẻ em

Mọi nguời đêu có trách nhiệm đối với các trẻ em

Mỗi một trẻ em bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, bị bỏ rơi, phải sống ăn mày trên đường phố và với mọi loại phương thế, không được đi học, không được săn sóc sức khỏe, là một tiếng kêu lên Thiên Chúa và tố cáo hệ thống mà người lớn chúng ta đã xây dựng. Chúng ta  làm gì với các lời tuyên bố long trọng về quyền của con người và quyền của các trẻ em, nếu sau đó chúng ta trừng phạt chúng vì các sai lầm của người lớn?  Đừng đổ trên đầu các trẻ em các lỗi lầm của chúng ta!

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư hàng tuần hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ĐTC nói: qua loạt bài giáo lý suy tư về gia đình chúng ta đã khẳng định rằng trẻ em là hoa trái đẹp nhất của phước lành Thiên Chúa Tạo Hóa đã ban cho người nam và người nữ. Nhưng hôm nay, rất tiếc, chúng ta phải đề cập đến các “lịch sử cuộc khổ nạn” mà nhiều trẻ em phải sống.

Biết bao nhiêu trẻ em ngay từ đầu đã bị khước từ, bỏ rơi, ăn cắp tuổi thơ và tương lai. Có người, như để tự biện minh, lại còn dám nói rằng cho chúng chào đời đã là một sai lầm. Thật đáng xấu hổ! Chúng ta đừng đổ trên các trẻ em các lỗi lầm của chúng ta! Các trẻ em không bao giờ là “một sai lầm”. Cái đói khát của các em không phải là một sai lầm, cũng như sự nghèo túng, giòn mỏng, bị bỏ rơi của các em không phải là một sai lầm; lại càng không phải là một sai lầm sự ngu dốt hay bất lực của các em. Nếu có, thì đó lại càng là các lý khiến cho chúng ta phải yêu thương các em với nhiều lòng quảng đại hơn. Chúng ta  làm gì với các lời tuyên bố long trọng về quyền của con người và quyền của các trẻ em, nếu sau đó chúng ta trừng phạt chúng vì các sai lầm của người lớn?

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nhấn mạnh trách nhiệm của mọi người, đặc biệt là của các chính quyền và giới lãnh đạo xã hội, như sau:

Những người có nhiệm vụ cai trị, giáo dục, nhưng tôi nói rằng tất cả mọi người lớn chúng ta, đều có trách nhiệm đối với các trẻ em và mỗi người phải làm tất cả nhũng gì có thể để thay đổi tình trạng này. Bởi vì mỗi một trẻ em bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, bị bỏ rơi, phải sống ăn mày trên đường phố và với mọi loại phương thế, không được đi học, không được săn sóc sức khỏe, là một tiếng kêu lên Thiên Chúa và tố cáo hệ thống mà người lớn chúng ta đã xây dựng. Và rất tiếc các trẻ em này là mồi của các kẻ tội phạm khai thác bóc lột các em cho các vụ buôn bán và thương mại  bất xứng hay huấn luyện các em cho chiến tranh và bạo lực. Nhưng cả trong các nước giầu cũng có biết bao nhiêu trẻ em phải sống các thảm cảnh ghi đậm dấu vết trên các em một cách nặng nề, vì cuộc khủng hoảng gia đình, vì các trống rỗng giáo dục và các điều kiện sống nhiều khi vô nhân. Trong mọi trường hợp, đó là các tuổi thơ bị xúc phạm trên thân xác và trong tâm hồn. Nhưng không có trẻ em nào bị Thiên Chúa Cha trên Trời quên lãng. Không có giọt lệ nào của các em bị mất đi! Cũng như không có trách nhiệm nào, trách nhiệm xã hội của con người, của từng người trong chúng ta, và của các dân nước bị mất đi. Có một lần Chúa Giêsu đã quở trách các môn đệ, bởi vì các ông đuổi các trẻ em được cha mẹ chúng mang tới cho Ngài, để Ngài chúc lành cho chúng. Trình thuật phúc âm thật cảm động: “Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Đức Giêsu nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng. Người đặt tay trên chúng rồi đi khỏi đó” (Mt 19,13-15). Thật đẹp biết bao sự tin tưởng này của các cha mẹ và câu trả lời của Chúa Giêsu! Tôi ước mong cho trang phúc âm này trở thành chuyện bình thường cho tất cả mọi trẻ em biết chừng nào! Có đúng thật là nhờ ơn Chúa, rất thường khi các trẻ em gặp khó khăn trầm trọng tìm được các cha mẹ phi thường, sẵn sàng với mọi hy sinh  và mọi quảng đại. Nhưng không được để cho các cha mẹ này cô đơn một mình lo cho con cái họ. Chúng ta phải đồng hành với sự mệt nhọc của họ, và cũng cống hiến cho họ những giờ phút tươi vui chia sẻ và quên đi ưu phiền, để họ không chỉ bị bận tâm với nhịp sống chữa trị cho con. Trong mọi trường hợp, khi đó là trẻ em, thì không được nghe thấy các công thức bảo vệ loại hợp pháp bàn giấy như :”dù sso đi nữa, chúng tôi không phải là một tổ chức trợ giúp tài chánh”; hay “trong cuộc sống tư, mỗi người tự do làm điều mình muốn”; hoặc “rất tiếc chúng tôi không thể làm gì được”.

Đề cập đến các hệ lụy mà trẻ em phài hứng chịu trong cuộc sống ĐTC nói:

Rất thường khi các hậu quả của cuộc sống bị soi mòn bởi cảnh công việc làm bấp bênh và đồng lương ít ỏi, bởi các giờ giấc không thể chịu đựng nổi, vì các phương tiện di chuyển không hữu hiệu… cũng rơi trên đầu các trẻ em nữa. Nhưng trẻ em cũng phải trả giá cho các kết hiệp hôn nhân không trưởng thành và các vụ chia lià vô trách nhiệm; chúng cũng chịu các hậu qủa nền văn hóa của các quyền chủ quan thái quá, và rồi chúng trở thành những đứa con sớm phát triển. Thường khi chúng bị thấm nhiễm bạo lực mà chúng không hủy bỏ được và dưới mắt người lớn chúng bị bó buộc phải quen với sự suy đồi ấy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Cũng như trong quá khứ, cả trong thời đại ngày nay nữa Giáo Hội dùng tình mẫu tử phục vụ trẻ em và gia đình chúng. Giáo Hội đem đến cho các cha mẹ và trẻ em của thế giới chúng ta phưóc lành của Thiên Chúa, sự dịu dàng hiền mẫu, lời quở trách nghiêm nghị và việc lên án cương quyết. Không đuợc đùa giỡn với các trẻ em!

Anh chị em hãy nghĩ xem: sẽ là một xã hội như thế nào, khi một xã hội quyết định, một lần cho luôn mãi, thiết lập nguyên tắc này: Có đúng thật là chúng tôi bất toàn và phạm nhiều lầm lỗi. Nhưng khi đó là việc các trẻ em chào đời, thì không có hy sinh nào của người lớn bị coi là quá mắc mỏ hay quá lớn lao, miễn là tránh cho một trẻ em nghĩ rằng nó là một sai lầm, nó không có giá trị gì và bị bỏ rơi cho các vết thương của cuộc sống và chuyên quyền của người lớn. Thật đẹp biết bao một xã hội như thế! Tôi nói với xã hội đó rằng các lỗi lầm vô số của nó được thứ tha rất nhiều. Thật thế, được thứ tha rất nhiều.

Chúa phán xử cuộc sống chúng ta, khi nghe điều các thiên thần của các trẻ em tường trình với Ngài, các thiên thần “luôn trông thấy mặt Thiên Chúa Cha trên trời” (Mt 18,10). Chúng ta hãy luôn luôn tự hỏi: Các thiên thần của các trẻ em sẽ tường trình nhừng gì về chúng ta với Thiên Chúa?

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu như Bỉ, Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Áo, Ailen, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croazia; tử Phi châu như Nigeria; từ Á châu như Nhật Bản, và Thái Lan; từ châu Mỹ Latinh như Argentina, Mexico và Brasil,

Trong số các đoàn hành hương cũng có thân nhân của hai tân phó tế Việt Nam, dòng Tên là thầy Giuse Nguyễn Tuân Phục và Tađêô Nguyễn Văn Yên, đến từ Việt Nam, Hoa Kỳ và Canada. Hai thầy mới được ĐHY James Michael Harvey, Linh Mục trưởng Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô ngoại thành, phong Phó tế cùng với 5 thầy khác và tân Linh Mục Michele Papaluca, tất cả thuộc dòng Tên, trong thánh lễ cử hành tại nhà thờ Chúa Giêsu của dòng ở Roma lúc 4 giờ chiều thứ ba mùng 7 tháng 4.

ĐTC đã đặc biệt chào phái đoàn các bạn trẻ thiện nguyện giáo phận  Dubrovnik  bên Croát, do ĐC Mate Uzini hưóng dẫn. Ngài nói: như Giáo Hội là mẹ an ủi biết bao nhiêu người thiếu thốn cần được trợ giúp, các con cũng hãy xây dựng xã hội nơi các con sinh sống với nhiệt huyết tông đồ và tình huynh đệ. Hãy tìm ra chỗ đứng của các con trong Giáo Hội và trong xã hội, và quảng đại dấn thân trong và ngoài gia đình của các con.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đã chào các bạn trẻ tổng giáo phận Milano và giáo phận Cremona, cũng như nhóm Tân Phó Tế dòng Tên và các tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế. Ngài khích lệ các vị  làm chứng cho Chúa Giêsu và trung thành với Giáo Hội.

Chào đông đảo các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Tin Mừng Phục Sinh tiếp tục vang vọng trong con tim từng người, như đã vang vọng trong tim của hai môn đệ trên đường về làng Emmaus. Ngài xin Chúa Kitô phục sinh đáp lại các ưóc vọng hạnh phúc của giới trẻ, an ủi nỗi khổ đau của các bệnh nhân, và giúp các đôi tân hôn sống gắn bó với Chúa Kitô và các giáo huấn của Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC mời gọi cộng đồng quốc tế đừng thờ ơ trước tội phạm bách hại Kitô hữu

ĐTC mời gọi cộng đồng quốc tế đừng thờ ơ trước tội phạm bách hại Kitô hữu

VATICAN: ĐTC Phanxicô cầu mong cộng dồng quốc tế đừng bất động trước tội phạm bách hại các kitô hữu không thể chấp nhận được, vì nó vi phạm các quyền sơ đẳng nhất của con người.

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa ngày thứ hai Tuần Bát Nhật Phục Sinh hôm qua với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại công trường Thánh Phêrô.

Ngài đã đặc biệt chào phái đoàn Phong trào Shalom, kết thúc chặng cuối cùng của cuộc đi bộ liên đới nhằm gây ý thức trong dư luận công cộng liên quan tới các vụ bách hại kitô hữu trên thế giới. ĐTC nói: lộ trình trên các nẻo đường của anh chị em đã kết thúc, nhưng nó phải tiếp tục con đường thiêng liêng cầu nguyện sâu xa, tham dự cụ thể và trợ giúp tỏ tường từ phía tất cả mọi người trong việc bảo vệ và che chở các anh chị em trong đức tin, bị bách hại, đầy ải và giết chết chỉ vì họ là kitô hữu.

Trong bài huấn dụ ngắn trước đó ĐTC đã nhắc lại biến cố các phụ nữ đến mộ trông thấy một thiên thần báo tin Chúa đã sống lại. Trong khi các bà chạy về báo tin cho các môn đệ thì gặp chính Chúa Giêsu dặn các bà nói với các môn đệ rằng hãy về Galilêa và các ông sẽ trông thấy Ngài tại đó. Galilêa là “vùng ngoại biên” nơi Chúa Giêsu đã bắt đầu rao giàng và Tin Mừng Phục Sinh sẽ tái khởi hành từ đó để được loan báo cho mọi người, và mỗi người có thể gặp Ngài, Đấng đã phục sinh, hiện diện và hoạt động trong lịch sử.

“Chúa Kitô đã sống lại” đó là lời loan báo Giáo Hội lập lại ngay từ ngày đầu tiên. Nơi Ngài, trong bí tích Rửa Tội, cả chúng ta nữa cũng sống lại, từ cái chết bước vào sự sống, từ nô lệ tội lỗi bước vào sự tự do của tình yêu thương, Đó là tin vui mà chúng ta đuợc mời gọi đem đến cho tha nhân trong mọi môi trường, dưới sự linh hoạt của Chúa Thánh Thần. Niềm tin nơi sự phục sinh của Chúa Giêsu và niềm hy vọng mà Ngài đã đem đến là ơn đẹp nhất mà kitô hữu có thể và phải cống hiến cho các anh chị em khác. Như thế chúng ta không mệt mỏi lập lại với tất cả và với từng người: “Chúa Kitô đã sống lại!” Chúng ta hãy lập lại điều đó bằng lời nói, nhưng nhất là bằng chứng tá của cuộc sống chúng ta. Tin vui Phục Sinh phải lộ ra trên gương mặt, trong các tâm tình, thái độ sống và đối xử với người khác của chúng ta.  Chúng ta loan báo sự sống lại của Chúa Kitô, khi ánh sáng của Ngài chiếu soi những lúc đen tối nhất của cuộc đời và có thể chia sẻ với người khác; khi chúng ta biết cười với người cười khóc với người khóc; khi chúng ta bước đi bên cạnh người buồn sầu và có nguy cơ đánh mất niềm hy vọng; khi chúng ta kể lại kinh nghiệm đức tin của mình cho ai đang tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc cuộc đời. Tuần Bát Nhật Phục Sinh giúp chúng ta bước vào mầu nhiệm để ơn thánh được in sâu vào con tim và cuộc sống chúng ta. Phục Sinh là biến cố đem lại sự mới mẻ triệt để cho mọi người, cho lịch sử và cho thế giới: nó là chiến thắng của sự sống trên cái chết; nó là lễ của sự thức tỉnh và tái sinh. Chúng ta hãy để cho sự Phục Sinh  chinh phục và biến đổi cuộc sống chúng ta.

Chúng ta hãy xin Đức Mẹ Trinh Nữ, chứng nhân thinh lặng của cái chết và sự sống lại của Con Mẹ, gia tăng niềm vui phục sinh nơi chúng ta. Chúng ta làm điều đó khi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng thay thế cho Kinh Truyền Tin trong mùa phục sinh. Trong kinh này được ngắt nhịp bằng tiếng Alleluia, chúng ta hướng tới Mẹ bằng cách mời Mẹ hãy vui lên, bởi vì Đấng Mẹ đã cưu mang trong lòng đã sống lại như lời đã hứa, và chúng ta tín thác nơi sự bầu cử của Mẹ.

ĐTC đã chúc mọi người Tuần Bát Nhật tươi vui an bình. Ngài nhắn nhủ mọi người mỗi ngày hãy đọc một đoạn Phúc Âm nói về sự Sống Lại để sống sâu đậm và mạnh mẽ mùa Phục Sinh (SD 6-4-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

NHÌN VỚI CẶP MẮT TRONG SẠCH

Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không : “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2). Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo. 

Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.

Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra mộtgóc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.

Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh. Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.

Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.

Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.

Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.

Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại "Ta là sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,24)

Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.

Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.

Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn. ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).

Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.

Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này ?

Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Lễ, buổi đọc sứ điệp Phục Sinh và ban Phép lành Urbi et Orbi

Thánh Lễ, buổi đọc sứ điệp Phục Sinh và ban Phép lành Urbi et Orbi

Lúc 10 giờ 15 sáng Chúa Nhật Phục Sinh hôm qua ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước thềm Đền Thờ Thánh Phêrô, rồi đọc sứ điệp Phục Sinh từ bao lơn chính giữa Đền Thờ và ban phép lành toàn xá “Urbi et Orbi” cho thành Roma và toàn thế giới.

Mặc dù trời mưa lớn đã có mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự thánh lễ.

Bao lơn, ngai của ĐGH, bàn thờ và thềm đền thờ được trang hoàng với 10,000 hoa Tulip mẩu đỏ, hồng, vàng và cam. Năm nay có thêm loại Tulip đỏ Rococo và Pappagallo, cũng như Tulip kép, hoa hồng Matchpoint và Foxtrot mầu kem. Bên cạnh đó có 7,000 cây Thủy tiên  mầu trắng và vàng, đặc biệt là loại Thủy tiên Westward. Ngoài ra còn có các vườn hoa nhỏ với các hoa huệ dạ hương mầu hồng, trắng và xanh, cũng như huệ xạ nhỏ cùng 400 cây thạch thảo, 200 cây hoa cúc, cùng hàng chục loại hoa khác, trong đó có hoa lan trắng và hàng trăm bình hoa tiả. Thềm đền thờ được trang hoàng bằng 8,000 bình hoa thủy tiên. Trong khi bao lơn được trang hoàng với loại Dendrobio nhiều mầu, trong đó có 600 hoa lan gốc Đông Nam Á. Xe vận tại chở hoa đã khởi hành từ Hoà Lan ngày thứ ba Tuần Thánh và đã đến Vaticăng ngày thứ năm Tuần Thánh. Các chuyên viên và nhân viên Vaticăng đã bắt đầu trang hoàng bao lơn và thềm Đền Thờ Thánh Phêrô chiều thứ bẩy và sáng sớm Chúa Nhật.

Truyền thống tặng hoa cho Đức Giáo Hoàng đã nảy sinh từ năm 1985, khi chuyên viên trồng hoa là ông Nic van der Voort được mời sang Roma để trang hoàng hoa nhân dịp lễ phong Chân phước cho cha Titus Brandsma người Hoà Lan. Từ đó mấy anh em ông và các nhà trồng hoa Hoà Lan quyết định tặng và trang hoàng hoa cho Đức Giáo Hoàng vào mỗi dịp lễ Phục Sinh.

Các bài sách Thánh đã được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha và Anh. Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh và tiếng Hy lạp.

Lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng A rập cầu cho ĐTC và các chủ chăn trong Giáo Hội; tiếng Pháp cầu cho các nhà làm luật và hàng lãnh đạo thế giới; tiếng Nga cầu cho các dân tộc bị thử thách vì chiến tranh và chia rẽ; tiếng Đức cầu cho những người bị áp bức bởi hận thù, tội lỗi và nghèo túng; tiếng Hoa cầu cho các tín hữu mới được rửa tội. ĐTC đã cho một số tín hữu rước lễ, trong khi hàng chục linh mục phân phát Mình Thánh Chúa cho tín hữu. Thánh lễ đã kết thúc với bài thánh ca Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng Alleluia. Lúc sau 11 giờ trời tạnh mưa, và đã có thêm hàng chục ngàn tín hữu tuôn đến quảng trường thánh Phêrô. Sau khi thay lễ phục ĐTC đã đi xe díp ra chào tín hữu và du khách hành hương lúc này đã lên tới hơn 70,000 tại quảng trường thánh Phêrô và quảng trường Pio XII. Cảnh reo hò réo gọi ĐTC từ mọi phía lại tái diễn như trong các buổi tiếp kiến chung và các dịp lễ lớn. Lần này xe díp của ĐTC đã ra ngoài ranh giới Vatican để ngài chào tín hữu tụ tập tại quảng trường Pio XII.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã xuất hiện trên bao lơn chính giữa Đền Thờ Thánh Phêrô để đọc sứ điệp Phục Sinh và ban Phép Lành Toàn Xá “Urbi et Orbi” cho thành Roma và toàn thế giới.

Đại diện các binh chủng Italia và đội Cận Vệ Thụy Sĩ đã dàn hàng chào danh dự trước thềm Đền Thờ. Ban quân nhạc đã cử Quốc thiều Vaticăng và Quốc thiều Italia. Mở đầu sứ điệp ĐTC nói:

Anh chị em thân mến. Xin chúc mừng lễ Phục Sinh anh chị em. Chúa Giêsu Kitô đã sống lại! Tình yêu đã chiến thắng hận thù, sự sống đã chiến thắng cái chết, ánh sáng đã xua tan bóng tối! Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương chúng ta, đã lột bỏ vinh quang thiên linh của Ngài; đã dốc đổ chính mình, đã mặc lấy hình hài nô lệ và hạ mình cho đến chết và chết trên thập giá. Ví thế Thiên Chúa đã nâng cao Ngài và đặt làm Chúa của vũ trụ. Đức Giêsu là Chúa!

Với cái chết và sự phục sinh của Ngài Chúa Giêsu đã chỉ cho tất cả chúng ta con đường của sự sống và hạnh phúc: con đường này là sự khiêm nhường bao gồm sự nhục nhã. Đó là con đường dẫn tới vinh quang.  Chỉ những ai hạ mình xuống mới có thể đi đến với “các sự trên cao”, đi đến với Thiên Chúa (x. Cl 3,1-4). Kẻ kiêu căng nhìn “từ trên cao xuống dưới”, người khiêm nhường nhìn “từ dưới lên cao”.

Vào sáng ngày Phục Sinh, khi được các phụ nữ báo tin, Phêrô và Gioan đã chạy ra mộ và tìm thấy mộ mở và trống. Khi đó họ tới gần và “cúi mình” để vào trong mộ. Để bước vào trong mầu nhiệm cần phải “cúi mình”, hạ thấp mình xuống. Chỉ có ai tự hạ mình mới hiểu sự tôn vinh của Chúa Giêsu và có thể theo Người trên con đường của Người.

Thế gian đề nghị áp đặt bằng mọi cách, thi đua, khoe khoang… Nhưng các kitô hữu, nhờ ơn thánh của Chúa Kitô chết và phục sinh, là các mầm mống của một nhân loại khác, trong đó họ tìm sống phục vụ nhau, không kiêu căng ngạo nghễ, nhưng sẵn sàng và biết tôn trọng nhau.

Đây không phải là sự yếu đuối, nhưng là sức mạnh! Ai đem theo trong chính mình sức mạnh của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Ngài, thì không cần dùng bạo lực, nhưng nói và hành động với sức mạnh của chân lý, vẻ đẹp và tình yêu.

ĐTC khích lệ mọi người như sau:

Chúng ta hãy nài xin Chúa Phục Sinh ơn thánh không nhượng bộ kiêu căng dưỡng nuôi bạo lực và chiến tranh, nhưng có lòng can đảm khiêm tốn của sự thứ tha và hòa bình. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu chiến thắng xoa dịu các khổ đau của biết bao nhiêu anh chị em bị bách hại vì Danh Ngài, cũng như của tất cả những người khổ đau một cách bất công vì  hậu quả của biết bao nhiêu xung khắc và bạo lực đang xảy ra. Họ đông lắm!

Tiếp đến ĐTC đã kêu gọi hòa bình cho mọi quốc gia đang có chiến tranh bạo lực, chia rẽ, bất công. Ngài nói:

Trước hết chúng ta xin hoà bình cho đất nước Siria thân yêu và Iraq, để tiếng súng ngưng và để cho sự chung sống tốt lành giữa các nhóm làm thành các quốc gia thân yêu này được tái lập. Xin cộng đồng quốc tế đừng bất động trước thảm cảnh nhân đạo mênh mông bên trong các quốc gia này, và thảm cảnh của biết bao người di cư tỵ nạn.

Chúng ta nài xin hoà bình cho tất cả mọi người dân sống tại Thánh Địa. Ước chi nền văn hóa gặp gỡ có thể gia tăng giữa người Israel và người Palestin, và tiến trình hòa bình tái lập để chấm dứt bao nhiêu năm khổ đau và chia rẽ.

Chúng ta xin hòa bình cho Libia để việc đổ máu vô lý và mọi bạo lực man rợ chấm dứt, và tất cả những người lưu tâm tới số phận của quốc gia hoạt động hầu tạo thuận tiện cho sự hòa giải và để xây dựng một xã hội huynh đệ biết tôn trọng nhân phẩm. Chúng ta cũng cầu mong cho ý chí chung tái tạo hòa bình chiến thắng tại Yemen vì công ích cho toàn dân.

Đồng thời với niềm hy vọng chúng ta cũng phó thác cho Chúa xót thương thỏa hiệp đã đạt được  trong những ngày này tại Lausanne, để nó là một bước tiến hướng tới một thế giới an ninh và huynh đệ hơn.

Chúng ta cũng nài xin từ Chúa Phục Sinh ơn hòa bình cho Nigeria, Nam Sudan, và nhiều miền khác nhau của Sudan và Cộng Hoà Dân chủ Congo. Một lời cầu liên lỉ cũng được dâng lên từ tất cả những người thiện chí cho những ai đã thiệt mạng – tôi nghĩ tới các người trẻ bị giết ngày thứ năm tuần vừa qua trong đại học Garissa bên Kenya – cho biết bao nhiêu người  đã bị bắt cóc, cho những người đã phải bỏ nhà cửa và các người thân thương của mình.

Ước chi sự Phục Sinh của Chúa đem lại ánh sáng cho đất nước Ucraina thân yêu, nhất là cho những ai đã phải chịu các bạo lực của cuộc xung đột trong các tháng qua. Ước chi quốc gia này tìm lại được hòa bình và niềm hy vọng nhờ sự dấn thân của mọi phe liên hệ

Nhắc tới các nạn nhân của mọi hình thức nô lệ ĐTC nói

Chúng ta xin hòa bình và tự do cho tất cả những người nam nữ, đối tượng của các hình thức nô lệ cũ mới từ phía các người và các tổ chức tội phạm. Hòa bình và tự do cho các nạn nhân của những kẻ buôn bán ma túy,  biết bao lần liên minh với các quyền lực đáng lý ra phải bênh vực hòa bình và hòa hợp trong gia đình nhân loại. Và chúng ta xin hòa bình cho thế giới nằm dưới ách của những kẻ buôn bán khí giới, tay nhuốm máu của biết bao nạn nhân.

Cho nhũng người bị gạt bỏ ngoài lề; cho các tù nhân; cho người nghèo và người di cư biết bao lần bị khước từ, đối xử tàn tệ và bị gạt bỏ; cho những người đau yếu; cho các trẻ em, đặc biệt cho các trẻ em bị bạo hành; cho những người hôm nay đang gặp tang chế; cho tất cả những người nam nữ thiện chí ước chi tiếng nói ủi an của Chúa Giêsu “Bình an cho các con” tới với họ (Lc 24,36) “Đùng sợ, Thầy đã sống lại và sẽ luôn mãi ở cùng các con” (Sách Lễ Roma, Ca nhập lễ Phục Sinh ban ngày).

Tiếp đến ĐHY trưởng đẳng phó tế đã công bố ĐTC sẽ ban phép lành toàn xá cho mọi người với các điều kiện theo thông lệ là xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Ngài xin tín hữu cầu nguyện cho ĐTC khang an trường thọ. ĐTC đã đọc công thức ban phép lành toàn xá:

Xin các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là những vị mà chúng tôi dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen.

Nhờ lời chuyển cầu và công nghiệp của Đức Trinh Nữ Maria, của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô cùng toàn thể các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em, và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen.

Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự ủi an của Chúa Thánh Thần, cũng như được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen. Và tiếp theo là phép lành của Đức Thánh Cha. Kính mời quý vị thành tâm lãnh phép lành toàn xá của vị cha chung.

Sau phép lành ĐTC đã chúc mừng lễ Phục Sinh tín hữu hiện diện tại quảng trường đến từ nhiều nước, cũng như tất cả những ai theo dõi buổi đọc sứ điệp phục sinh và phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới trên các phương tiện truyền thông. Ngài nói: xin anh chị em hãy đem về nhà và cho những người thân yêu lời loan báo tươi vui Chúa của sự sống đã phục sinh đem theo Người tình yêu, công lý, sự tôn trọng và ơn tha thứ.

Xin cám ơn anh chị em vì sự hiện diện, lời cầu nguyện và đức tin hăng say của anh chị em. Tôi xin đặc biệt biết ơn về món quà hoa tặng năm nay cũng đến từ Hoà Lan. Xin chúc tất cả anh chị em ngày lễ Phục Sinh tốt lành.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC chủ sự các lễ nghi Vọng Phục Sinh trong Đền Thờ Thánh Phêrô

ĐTC chủ sự các lễ nghi Vọng Phục Sinh trong Đền Thờ Thánh Phêrô

VATICAN: Lúc 8 giờ rưỡi tối hôm qua (4-4) ĐTC Phanxicô đã chủ sự lễ nghi vọng phục sinh trong Đền Thờ Thánh Phêrô.

Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có 40 Hồng Y và Giám Mục và hàng trăm linh mục trước sự hiện diện của khoảng 10,000 tín hữu và du khách hành hương. ĐTC đã làm phép lửa mới trong hành lang tiền đền thờ. Trong thánh lễ ngài đã ban bí tích Rửa Tội cho 10 tân tòng gồm 4 người Ý, 3 người Albania, 1 người Bồ Đào Nha, 1 người Kenya và một bé gái Campuchia 13 tuổi.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa thánh lễ Vọng Phục Sinh và nói: Chúa không ngủ, nhưng tỉnh thức và với quyền năng tình yêu thương, Ngài đã làm cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và khiến cho Đức Giêsu phục sinh từ vực thẳm của cái chết và thế giới bên dưới. Đêm nay là đêm canh thức đối với các nam nữ môn đệ của Chúa Giêsu. Đêm của đớn đau và sợ hãi. Các người nam  đóng kín trong nhà tiệc ly,  nhưng trái lại các phụ nữ, vào sáng sớm sau ngày sabát, đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho xác Đức Giêsu. Con tim họ đầy xúc động và họ tự hỏi: “Chúng ta làm sao vào mộ được? Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ cho chúng ta?” Nhưng này đây dấu chỉ thứ nhất của Biến Cố: hòn đã to đã được dời đi và mộ mở!

“Vào mộ họ trông thấy một thanh niên, ngồi bên phải, mặc áo trắng…” Mc 16,5) Các phụ nữ là những người đầu tiên trông thấy dấu chỉ lớn lao này: đó là ngôi mộ trống, và họ đã là những người đầu tiên bước vào trong.

“Bước vào trong mộ”. Thật tốt cho chúng ta trong đêm canh thức này, dừng lại suy tư về kinh nghiệm của các nữ môn đệ Chúa Giêsu, là kinh nghiệm cũng gọi hỏi chúng ta. Thật vậy, chính vì thế mà chúng ta ở đây để bước vào trong Mầu Nhiệm, mà Thiên Chúa đã hoàn thành với sự canh thức tình yêu của  Ngài. Không thể sống lễ Phục Sinh mà không bước vào trong mầu nhiệm. Đây không phải là một sự kiện trí thức, không phải chỉ là biết, đọc hiểu… Nó còn hơn thế nữa, hơn thế rất nhiều!

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: “Bước vào mầu nhiệm” có nghĩa là có khả năng kinh ngạc, chiêm ngưỡng; có khả năng lắng nghe sự thinh lặng và cảm thấy tiếng thì thầm cùa một sợi dây thinh lặng vang lên, qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta (x. 1 V 19,12). Bước vào trong mầu nhiệm đòi hỏi chúng ta không sợ hãi trước thực tại, không khép kín trong chính mình, không trốn chạy trước điều chúng ta không hiểu, không nhắm mắt trước các vấn đề, không khước từ chúng, không loại bỏ các câu hỏi…

Bước vào trong mầu nhiệm có nghĩa là đi xa hơn các an ninh thoải mái, vượt qúa sự lười biếng và thờ ơ kìm hãm chúng ta, đi kiếm tìm sự thật, vẻ đẹp và tình yêu, tìm ra một ý nghĩa không thấy trước, một câu trả lời không tầm thường cho các vấn nạn khiến cho đức tin, lòng trung thành và lý trí của chúng ta gặp khủng hoảng. Nhưng để bước vào trong mầu nhiệm cần có sự khiêm nhường, khiêm tốn hạ mình, xuống khỏi bệ cao của cái tôi biết bao kiêu căng của chúng ta, khiêm tốn tự lượng định trở lại chính mình, bằng cách nhận biết chúng ta thực sự là ai: là các thụ tạo với các điều tốt lành và các thiếu sót, là những người tội lỗi cần ơn tha thứ. Để có thể bước vào trong mậu nhiệm cần có sự hạ thấp này là sự bất lực, là sự dốc đổ các “thần giá”… là thờ lậy. Không thờ lậy, không thể bước vào trong mầu nhiệm.

Tất cả những điều này các nữ môn đệ Chúa Giêsu dã dậy cho chúng ta. Họ canh thức đêm hôm đó cùng với Mẹ Maria. Và Mẹ là Trinh Nữ – Mẹ đã giúp họ không đánh mất đi niềm tin và niềm hy vọng. Như thế họ đã không là tù nhân của sự sợ hãi và khổ đau, nhưng mới tờ mờ sáng đã đi ra, tay đem theo thuốc thơm và với con tim được xức dầu tình yêu. Họ đi ra và tìm thấy mộ đã mở. Và họ đã vào. Họ canh thức, đi ra và bước vào trong Mầu Nhiệm. Chúng ta cũng hãy học nơi họ canh thức với Thiên Chúa và với Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, để bước vào trong Mầu Nhiệm khiến cho chúng ta từ cái chết bước vào sự sống (SD 4-4-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hí trường Colosseo ở Roma

ĐTC chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hí trường Colosseo ở Roma

ĐTC chủ sự bưởi đi đàng Thánh Giá tại hí trường Colosseo Roma

ROMA: Lúc qúa 9 giờ tối Thứ Sáu Tuần Thánh ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá tại Hí trường Colosseo ở Roma, với sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương.

Kết thúc buổi đi đàng Thánh Giá,  ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây: “Lạy Chúa Kitô chịu đóng đinh và chiến thắng, con đường thập giá là tổng hợp cuộc sống của Chúa, là hình ảnh sự tuân phục ý muốn của Thiên Chúa Cha, là việc hiện thực tình yêu vô biên của Chúa đối với người tội lỗi, là bằng chứng cho sứ mệnh của Chúa và việc vĩnh viễn thành toàn sự mạc khải và lịch sử cứu độ.

Sức nặng của thánh giá Chúa giải thoát chúng con khỏi tất cả mọi gánh nặng. Trong sự vâng phục ý muốn của Thiên Chúa Cha, chúng con nhận ra sự nổi loạn và bất phục tùng của chúng con. Nơi Chúa là Đấng đã bị bán, bị phản bội và bị đóng đinh bởi con người và những kẻ thân thương của Chúa, chúng con trông thấy các phản bội hằng ngày và các bất trung thông thường của chúng con. Trong sự vô tội của Chúa, Chiên Con vô tì tích, chúng con trông thấy tội lỗi của chúng con. Nơi gương mặt bị tạt vả, khạc nhổ và biến dạng của Chúa chúng con trông thấy sự tàn bạo của tội lỗi chúng con. Trong sự tàn ác của Cuộc Khổ Nạn Chúa chúng con trông thấy cái tàn ác của con tim và các hành động của chúng con. Trong cảm nhận bị bỏ rơi của Chúa chúng con trông thấy tất cả những người bị bỏ rơi bởi gia đình, xã hội, sự chú ý và tình liên đới. Trong thân thể bị hiến tế, bị bầm dập xé nát của Chúa chúng con trông thấy thân xác của các anh em chúng con bị bỏ rơi dọc đường, bị biến dạng bởi sự sơ sót và thờ ơ của chúng con. Trong cái khát của Ngài lạy Chúa, chúng con trông thấy cái khát của Chúa Cha từ bi, là Đấng qua Chúa đã muôn ôm vào lòng, tha thứ và cứu vớt toàn nhân loại. Nơi Ngài, lậy Tình Yêu của Thiên Chúa, hôm nay chúng con còn trông thấy các anh em bị bách hại, bị chặt đầu và bị đóng đinh vì tin nơi Chúa, trước mắt chúng con và thường khi với sự thinh lặng đồng lõa của chúng con.

Lạy Chúa, xin in vào trái tim chúng con các tâm tình đức tin, đức cậy và đức mến, các tâm tình khổ đau vì tội lỗi, và đưa chúng con tới chỗ sám hối các tội lỗi chúng con đã đóng đinh Chúa. Xin đưa chúng con từ chỗ hoán cải  bằng lời nói tới sự hoán cải bằng cuộc sống và các việc làm. Xin đưa chúng con tới chỗ giữ gìn trong chúng con một kỷ niệm sống động về gương mặt biến dạng của Chúa để không bao giờ quên giá khổng lồ Chúa đã trả để giải thoát chúng con. Ôi lậy Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin củng cố đức tin trong chúng con để nó đừng sụp đổ trước các cám dỗ. Xin làm sống dậy nơi chúng con niềm hy vọng để nó đừng đi theo các quyến rũ của thế gian. Xin gìn giữ nơi chúng con tình bác ái để nó đừng bị lừa dối bởi gian tham hối lộ và tinh thần thế tục. Xin dạy chúng con biết rằng Thập Giá là con đường dẫn đến sự Phục Sinh. Xin dậy chúng con biết rằng Thứ Sáu Tuần Thánh  là con đường dẫn đến sự Phục Sinh của ánh sáng. Xin dạy chúng con biết rằng Thiên Chúa không bao giờ quên bất cứ ai trong các con cái Ngài, và không bao giờ mệt mỏi tha thứ và ôm chúng con vào vòng tay với lòng thương xót vô biên, nhưng cũng xin dậy chúng con biết không bao giờ mệt mỏi xin ơn tha thứ và tin tưởng nơi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa Cha.

Lạy Linh Hồn Chúa Kitô, xin thánh hóa chúng con. Lạy Thân Xác Chúa Kitô, xin cứu độ chúng con. Lạy Máu Chúa Kitô xin làm cho chúng con say sưa. Lạy Nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Kitô, xin tẩy rửa chúng con.

Lạy cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, xin củng cố chúng con. Ôi, lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin nhận lời chúng con. Trong dấu chúng con trong các vết thương Chúa. Xin đừng để chúng con xa rời Chúa. Xin bảo vệ chúng con khỏi thù địch. Trong giờ chết xin Chúa gọi chúng con. Và xin Chúa ra lệnh cho chúng con đến với Chúa, để chúng con chúc tụng Chúa cùng với các Thánh của Chúa đến muôn muôn đời. Amen.

Sau khi ban phép lành tòa thánh cho mọi người ĐTC nói: Bây giờ chúng ta về nhà với kỷ niệm về Chúa Giêsu, cuộc Khổ Nạn và tình yêu của Ngài. Và cả với niềm hy vọng sự Phục Sinh vinh quang của Ngài nữa (SD 4-42015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC chủ sự lễ nghi phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh trong Đền Thờ Thánh Phêrô

ĐTC chủ sự lễ nghi phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh trong Đền Thờ Thánh Phêrô

VATICAN: Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh hôm qua ĐTC đã chủ sự các lễ nghi tưởng niệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu với nghi thức tôn thờ Thánh Giá Chúa.

Giảng trong buổi cử hành phụng vụ, vị thuyết giảng của Toà Thánh,  cha Raniero Cantalamessa nêu bật hình ảnh của Chúa Giêsu bị đánh đòn, đầu đội mão gai, mình đầy máu và thương tích, một người hoàn toàn bất lực, nguyên mẫu của tất cả mọi nạn nhân của bất công trong lịch sử loài người. Chúa Giêsu hấp hối cho tới tận thế nơi mọi người nam nữ bị tra tấn hành hạ và giết chết. Lời Chúa nói “Các ngươi đã làm cho Ta” không chỉ ám chỉ nhũng người tin nơi Ngài, mà ám chỉ mọi người đói khát, trần truồng, bị ngược đãi, bị nhốt tù. Ở đây chúng ta không nghĩ tới các tệ nạn xã hội tập thể: dói khát, nghèo túng, bất công, khai thác bóc lột người yêu đuối,  có nguy cơ trở thành các phạm trù trừu tượng, chứ không phải con người. Nhưng chúng ta nghĩ tới các nỗi khổ đau của những con người riêng rẽ, có tên tuổi và căn cước, tới các tra tấn được quyết định một cách lạnh lùng và cố ý áp dụng ngay trong lúc này đây cho các con người, kể cả các trẻ em. Có biết bao nhiêu “Này là người” trên thế giới này. Có biết bao tù nhân phải ở trong cùng các điều kiện của Chúa Giêsu trong sân dinh quan Philatô: cô đơn, bị còng tay, bị tra tấn, nạn nhân trong tay của các tên lính cộc cằn thô lỗ, đầy thù hận, buông mình theo mọi loại tàn ác thể lý và tâm lý, vui đùa khi thấy người khác khổ đau. Tiếng kêu “Này là người” không chỉ được áp dụng cho các nạn nhân, nhưng cho cả các lý hình nữa. Nó muốn nói rằng con người có khả năng làm các điều đó. Với sự sợ hãi và run rẩy chúng ta cũng nói: đấy, loài người chúng ta có khả năng làm các điều đó!

Các kitô hữu không phải là các nạn nhân duy nhất của bào lực giết người trên thế giới này, nhưng không thể không biết rằng trong nhiều quốc gia họ là các nạn nhân được chỉ định và ngày càng thường xuyên hơn. Giám Mục Dionigi thành Alessandria đã làm chứng lễ Vượt Qua kitô hữu cử hành dưới thời hoàng đế Decio bắt đạo  như sau: “Họ lưu đầy chúng tôi, và cô đơn giữa mọi người chúng tôi bị bắt bớ và giết chết. Nhưng cả khi đó nữa chúng tôi cũng đã cử hành lễ Phục Sinh. Mỗi nơi chúng tôi đau khổ trở thành một nơi để cử hành lễ; cho dù có là một cánh đồng, một sa mạc, một con tầu, một quán trọ, một nhà tù. Các vị tử đạo toàn thiện cử hành các lễ Phục Sinh, vì được nhận vào lễ hội thiên quốc”. Cũng sẽ như thế đối với nhiều kitô hữu lễ Phục Sinh năm 2015 này!

Tiếp tục bài giảng cha Cantalamessa nói: có người can đảm tố cáo sự thờ ơ gây lo ngại của các cơ cấu quốc tế và của dư luận trước những điều này, bằng cách nhắc nhở rằng trong quá khứ một sự thờ ơ như vậy đã đưa tới đâu. Các cơ cấu và con người của thế giới tây phương có nguy cơ trở thành các Philatô rửa tay phủi bỏ trách nhiệm của mình. Nhưng trong lúc này chúng ta không dược phép tố cáo. Bởi nếu không, chúng ta sẽ phản bội mầu nhiệm chúng ta đang cử hành, Khi chết Chúa Giêsu đã kêu lên “Lậy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thay vì tố cáo các kẻ thù nghịch hay tha thứ cho họ, Chúa Giêsu tín thác cho Thiên Chúa Cha việc báo oán và Ngài bênh vực họ. Gương Ngài đề nghị với các môn đệ là một lòng quảng đại vô biên. Tha thứ với cùng sự cao cả của tâm hồn không chỉ bao gồm một thái độ tiêu cực khước từ muốn sự dữ cho kẻ làm sự dữ, nhưng phải được diễn tả ra bằng một ý muốn làm điều lành cho họ, cầu nguyện cho họ.

Chúa Giêsu đã chiến thắng baọ lực không phải bằng cách chống lại với một bạo lực lớn hơn, nhưng bằng cách chịu đựng nó và lột trần tất cả sự bất công và vô ích của nó… Vấn đề bạo lực bao vây chúng ta, gây gương mù gương xấu cho chúng ta, vì ngày nay nó sáng chế ra các hình thức tàn ác kinh hoàng và mọi rợ mới. Kitô hữu chúng ta phản ứng kinh khiếp trước ý tưởng người ta có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Nhưng tư tưởng của Thiên Chúa là “Chớ giết người”… Diễn văn trên núi đã thay đổi thế giới là diễn văn được công bố giờ đây, một cách lặng lẽ, từ thập giá. Trên núi Sọ Chúa Giêsu đã nói lên tiếng “Không” vĩnh viễn với bạo lực, chống lại nó không chỉ đơn sơ với việc không bạo lực, nhưng còn hơn thế nhiều với sự tha thứ, dịu hiền và tình yêu thương. Các vị tử đạo đích thật của Chúa Kitô không chết với nắm đấm, nhưng với đôi tay chắp vào nhau.

Ôi lậy Chúa, chúng con cầu xin Chúa cho các anh em đức tin của chúng con bị bách hại và cho tất cả các “Này là người” trong lúc này đây trên mặt đất này, các kitô hữu và không kitô hữu. Lậy Mẹ Maria, dưới thập giá Mẹ đã hiệp nhất với Con và thầm thì theo Ngài:  “Lậy Cha, xin tha cho họ”: xin giúp chúng con chiến thắng sự dữ bằng sự thiện, không chỉ trên quang cảnh lớn của thế giới này, nhưng cả trong cuộc sống thường ngày, trong bốn bức tường của gia đình chúng con nữa” (SD 3-4-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Chúa Giêsu luôn yêu thương từng người trong chúng ta cho đến cùng

Chúa Giêsu luôn yêu thương từng người trong chúng ta cho đến cùng

Pope cleaned and kiss kid feet

ROMA: Chúa Giêsu luôn yêu thương từng người trong chúng ta với tên tuổi, vô tận, cho đến cùng, và Ngài dâng hiến mạng sống cho chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ Tiệc Chiều của Chúa cử hành trong nguyện đường nhà tù Rebibbia ở Roma chiều Thứ Năm Tuần Thánh mùng 2 tháng 4. Ngài nói: Trong Phúc Âm chúng ta vừa nghe công bố có một câu diễn tả nòng cốt điều Chúa Giêsu dã làm cho chúng ta tất cả: “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Chúa Giêsu đã và đang yêu thương chúng ta, vô cùng, luôn luôn và cho tới cùng. Tình yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta không có hạn, luôn luôn và ngày càng nhiều hơn. Ngài yêu thương không mệt mỏi. Ngài yêu thương tất cả chúng ta đến trao ban sự sống cho chúng ta; phải, trao ban sự sống cho chúng ta tất cả, trao ban sự sống cho từng người trong chúng ta, và mỗi người có thể nói: Ngài đã trao ban sự sống cho tôi. Mỗi người, cho anh, cho chị, cho bạn, cho tôi, cho từng người với đầy đủ tên gọi. Tình yêu của Ngài là như thế: bản vị riêng rẽ. Tình yêu của Chúa Giêsu không bao giờ gây thất vọng, bởi vì Ngài yêu thương không mệt mỏi, cũng như Ngài không mệt mỏi tha thứ, không mệt mỏi ôm chúng ta vào lòng… Đó là điều đầu tiên tôi muốn nói với anh chị em. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, yêu thương từng người, cho đến cùng. Rồi Ngài đã làm điều này mà các môn đệ đã không hiểu: đó là rửa chân cho các ông. Vào thời đó đây là thói quen, vì khi tới nhà nào chân người ta bẩn vì bụi đường. Hồi đó chưa có đường lót đá. Đó là bụi đường và khi vào nhà thì người ta rửa chân. Nhưng điều này chủ nhà không làm, nhưng là các nô lệ. Đó là công việc của các nô lệ. Và Chúa Giêsu rửa chân cho chúng ta, cho các môn đệ, như nô lệ. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta biết bao đến trở thành nô lệ để phục vụ chúng ta, chữa lành và rửa sạch chúng ta. Và hôm nay trong Thánh Lễ này, Giáo Hội muốn rằng linh muc rửa chân cho 12 người để tưởng niệm Mười Hai Tông Đồ. Nhưng trong tim chúng ta phải xác tín rằng khi Chúa rửa chân cho chúng ta, Ngài rửa chúng ta toàn vẹn, Ngài thanh tẩy chúng ta, Ngài làm cho chúng ta cảm nhận một lần nữa tình yêu thương của Ngài. Trong Thánh Kinh, sách ngôn sứ Isaia  có một câu rất hay đẹp nói: “Một người mẹ có thể quên con mình sao? Nhưng nếu một bà mẹ có quên con mình đi nữa, thì Ta sẽ không bao giờ quên ngươi”. Tình yêu của Thiên  Chúa đối với chúng ta là như thế. Hôm nay tôi sẽ rửa chân cho mười hai người trong anh chị em, nhưng qua họ tôi rửa chân cho tất cả anh chị em, tất cả những người sống tại đây. Anh chị em đại diện cho họ. Nhưng tôi cũng cần được Chúa rửa cho. Vì thế trong Thánh Lễ này xin anh chị em cầu nguyện để Chúa cũng thanh tẩy tôi khỏi các nhơ nhớp của tôi, để tôi trở thành nô lệ của anh chị em hơn, nô lệ hơn trong việc phục vụ con người như Chúa Giêsu đã là.

ĐTC đã rửa chân cho 6 nam tù nhân và 6 nữ tù nhân. Có một nữ tù nhân bế con nhỏ, ĐTC cũng rửa chân cho em và hôn chân em. Nhiều tù nhân đã cảm động không cầm được nước mắt.

Sau thánh lễ nhiều tù nhân túa ra ôm hôn ĐTC. Trước khi tạm biệt họ ĐTC đã cám ơn sự tiếp đón nông hậu của họ, và xin họ cầu nguyện nhiều cho ngài. Tiếp đến ngài mời họ cùng đọc Kinh Lậy Cha và ban phép lành cho họ.

Buổi trưa Thứ Năm Tuần Thánh sau Thánh Lễ làm phép Dầu, ĐTC đã dùng bữa với 10 linh mục giáo phận Roma. Đây là lần thứ ba ĐTC ăn trưa với 9 cha sở và một linh mục bề trên một cộng đoàn tu sĩ. Bữa ăn đã kéo dài một giờ rưỡi tại nhà ĐTGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh (SD 2-4-2015).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Những mệt mỏi của đời linh mục

Những mệt mỏi của đời linh mục

VATICAN: Các linh mục phải biết học hỏi sống mệt mỏi một cách lành mạnh và thánh thiện, trong tâm tình tín thác nơi Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành tối cao.

ĐTC Phanxicô đã đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ làm phép Dầu cử hành lúc 9. 30 sáng Thứ Năm Tuần Thánh hôm qua trong đền thờ thánh Phêrô. Quảng diễn ý nghĩa các bài đọc ngài nói: Sự kiện Thiên Chúa xức dầu thánh hiến chúng ta là các linh mục, bạn hữu của Chúa Giêsu, Con của Ngài, để chúng ta cũng xức dầu cho dân Chúa dẫn đưa chúng ta tới sự mệt mỏi. Chúng ta sống bổn phận đó trong mọi hình thức: từ cái mệt mỏi bình thường của công tác tông đồ hằng ngày cho tới sự mệt mỏi của tật bệnh và cái chết, bao gồm cả việc bị tiêu hao trong sự tử đạo. Sự mệt mỏi đó của đời linh mục giống như hương trầm lặng lẽ bay lên Trời. Sự mệt mỏi của đời linh mục chúng ta bay thẳng tới con tim của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, cũng xảy ra là sức nặng của công việc mục vụ khiến cho chúng ta bị cám dỗ nghỉ ngơi trong bất cứ cách nào. Sự mệt mỏi của chúng ta quý báu trước mắt Chúa Giêsu là Đấng tiếp đón và nâng chúng ta dậy: “Các con hãy đến cùng Thầy khi mệt mỏi và bị áp bức và Thầy sẽ bổ sức cho” (x, Mt 11,28). Khi mệt mỏi mà biết có thể quỳ thờ lậy và nói “Lạy Chúa, đủ rồi” và đầu hàng trước Thiên Chúa Cha, thì chúng ta không ngã gục, nhưng được canh tân và biến đổi. Một trong những chià khóa sự phong phú của đời linh mục là biết nghỉ ngơi khi mệt mỏi.

Tiếp tục bài giảng ĐTC đưa ra mấy câu hỏi giúp các linh mục xét mình: Tôi có biết nghỉ ngơi bằng cách tiếp nhận tình yêu, sự nhưng không và tất cả sự trìu mến mà dân Thiên Chúa ban tặng cho tôi không? Hay sau công việc mục vụ tôi tìm các nghỉ ngơi tinh vi hơn, không phải kiểu nghỉ ngơi của người nghèo, mà các kiểu nghỉ ngơi do xã hội tiêu thụ cống hiến? Chúa Thánh Thần có phải là “sự nghỉ ngơi trong lao nhọc” đối với tôi không, hay chỉ là Đấng khiến tôi làm việc? Tôi có biết xin sự trợ giúp của một linh mục khôn ngoan không? Tôi có biết nghỉ ngơi khỏi chính mình, khỏi việc tự đòi hỏi chính mình, khỏi việc lấy mình làm điểm tham chiếu không?

Nhiệm vụ của linh mục là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo sự giải thoát cho người lao tù, việc chữa lành cho người mù, trả tự do cho người bị áp bức, và công bố năm hồng ân của Chúa. Tất cả các công việc bề ngoài cũng như các công việc đào tạo tín hữu không phải là dễ dàng. Chúng đòi hỏi sự cảm thương, vui với ngưòi vui, khóc với người khóc… vị linh mục là người bị xé nát thành hàng ngàn mảnh nhỏ, bị ngưởi ta ăn. Nhưng các lời “Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống” là những lời mà linh mục của Chúa Giêsu luôn thì thầm, khi săn sóc dân Chúa. Như thế đời linh mục của chúng ta đuợc cho đi trong phục vụ, trong việc gần gũi với dân Chúa khiến chúng ta mệt mỏi.

Tiếp đến ĐTC đề cập đến các mệt nhọc khác nhau trong đời linh mục. Có sự mệt nhọc tốt và lành mạnh, tràn đầy hoa trái và niềm vui, vì nó phát xuất từ công việc mục vụ, từ các sinh hoạt đa diện lo lắng cho dân Chúa. Nó là một ơn thánh nằm trong tầm tay của mọi linh mục. Đó là sự mệt nhọc của vị mục tử có mùi của chiên. Là bạn của Chúa Giêsu Phu Quân,  linh mục không thể có gương mặt chua như giấm, than van, hay tệ hại hơn chán ngán. Có sự mệt nhọc của các thù địch. Ma quỷ và những kẻ theo nó không ngủ, và vì tai chúng không chịu đựng được Lời Chúa nên chúng làm việc không mệt mỏi để dập tắt Lời Chúa và gây lẫn lộn. Ở đây sự mệt mỏi cam go hơn, vì linh mục phải bảo vệ đoàn chiên và tự bảo vệ khỏi sự dữ. Cần xin ơn để tập trung lập hóa sự dữ, không nhổ cỏ lùng, không yêu sách bảo vệ như siêu nhân điều Chúa phải bảo vệ. Tất cả những điều này giúp không xuôi tay trước sự gian ác và chế nhạo của những người gian ác. 

Cũng có sự mệt mỏi với chính mình, là sự mệt mỏi nguy hiểm nhất. Hai sự mệt mỏi trước phát xuất từ việc ra khỏi chính mình để xức dầu và săn sóc dân Chúa. Trái lại sự mệt mỏi này có tính cách tự quy chiếu nhiều hơn: nó là sự thất vọng với chính mình, nó trao ban “ước muốn và không ước muốn”, nó liều chơi tất cả, nhưng lại tiếc nuối củ hành củ tỏi bên Ai Cập. Nó khiến cho chúng ta bỏ tình yêu ban đầu với Chúa. Sự kiện Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ cũng cho thấy Ngài thanh tẩy việc theo Ngài của các linh mục: rửa sạch bụi bặm nhơ nhớp của thế gian bám vào chúng ta trên con đường theo Chúa.

Lúc 17 giờ rưõi chiều hôm qua ĐTC đã chủ sự thánh lễ Tiệc Chiều trong nhà nguyện của nhà tù Rebibbia ở Roma và rửa chân cho 12 tù nhân nam nữ. (SD 2-4-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Noi gương Chúa Giêsu hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa và tha nhân

Noi gương Chúa Giêsu hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa và tha nhân

Nếu chúng ta lên rước lễ mà không thực sự sẵn sàng rửa chân cho nhau, thì chúng ta không nhận biết Thân Mình của Chúa Kitô.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô. Vì chúng ta đang ở trong Tuần Thánh nên ĐTC đã trình bầy về ý nghĩa Tam Nhật Thánh. Ngài nói:

Ngày  Thứ Năm Tuần Thánh. Vào ban chiều với Thánh Lễ “Tiệc Chiều của Chúa” sẽ bắt đầu Tam Nhật Thánh cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, tột đỉnh toàn năm phụng vụ của cuộc sống kitô.

Tam Nhật bắt đầu với việc tưởng niệm Bữa Tiệc cuối cùng. Trong ngày vọng của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu hiến dâng cho Thiên Chúa Cha mình và máu của Ngài dưói hình bánh và rượu, làm của dưõng nuôi các Tông Đồ, và truyền cho các vị lưu truyền việc hiến dâng ấy để tưởng niệm Ngài. Khi nhắc lại việc rửa chân, Phúc Âm của lễ này  diễn tả cùng một ý nghĩa của Thánh Thể dưới một viễn tượng khác. Như một người đầy tớ, Chúa Giêsu rửa chân cho ông Simon Phêrô và mười một môn đệ khác (x. Ga 13,4-5). Với cử chỉ ngôn sứ đó Ngài diễn tả ý nghĩa cuộc sống và cuôc khổ nạn của ngài như việc phục vụ Thiên Chúa và các anh em: “Thật ra Con Người không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mc 10,f45). Điều này cũng xảy ra trong bí tích Rửa Tội, khi ơn thánh Chúa đã rửa chúng ta sạch khỏi tội lỗi và chúng ta được mặc lấy Chúa Kitô (x. Cl 3,10). Điều này cũng xảy ra mỗi khi chúng ta tưởng niệm Chúa trong bí tích Thánh Thể: chúng ta hiệp thông với Chúa Kitô Người Tôi Tớ để vâng lệnh Ngài, lệnh yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34; 15,12). Nếu chúng ta lên rước lễ mà không thực sự sẵn sàng rửa chân cho nhau, thì chúng ta không nhận biết Thân Mình của Chúa Kitô. Đó là việc phục vụ của Chúa Kitô, Đấng  đã tự hiến mình một cách toàn hảo.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh chúng ta suy niệm mầu nhiệm cái chết của Chúa Kitô và thờ lậy Thánh Giá. Trong những lúc cuối cùng của cuộc sống, trước khi phó thần hồn cho Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu nói: “Đã hoàn tất” (Ga 19,30). Lời này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là công trình cứu chuộc đã hoàn tất, rằng Toàn Thánh Kinh đã tìm thấy sự thành toàn trong tình yêu của Chúa Kitô, Chiên Con bị sát tế. Với hiến tế của mình Chúa Giêsu đã biến đổi sự gian ác lớn lao nhất trong tình yêu vĩ đại của Ngài.

Dọc dài các thế kỷ, với chứng tá của mình có những người nam nữ phản ánh một tia sáng của tình yêu toàn thiện, tràn đầy và không nhiễm uế. Tôi thích nhớ tới một chứng nhân anh hùng của thời đại chúng ta ngày nay đó là cha Andrea Santoro, linh mục thuộc giáo phận Roma và là thừa sai bên Thổ Nhĩ Kỳ. Vài ngày trước khi bị ám sát tại Trebisonda bên Thổ Nhĩ Kỳ, cha đã viết: “Tôi ở đây để sống giữa dân này và để cho phép Chúa Giêsu làm điều đó bằng cách cho Ngài mượn thịt xác tôi… Ta chỉ có khả năng cứu rỗi, khi hiến dâng chính thịt xác mình. Phải mang lấy sự dữ của thế giới và chia sẻ sự khổ đau, bằng cách làm cho nó thấm nhập xác thịt mình cho tới tận cùng như Chúa Giêsu đã làm” (A. Polselli, Don Andrea Santoro, le eredità, Città Nuova, Roma 2008, tr. 31). Ước chi thí dụ này và biết bao thí dụ khác nâng đỡ chúng ta trong việc hiến dâng mạng sống mình như món quà của tình yêu tặng cho các anh em khác, noi gương Chúa Giêsu. Và cả ngày nay nữa cũng có biết bao nhiêu người nam nữ, các vị tử đạo thật hiến dâng mạng sống họ với Chúa Giêsu để tuyên xưng đức tin, chỉ vì lý do đó. Đó là một việc phục vụ, phục vụ của chứng tá kitô cho tới đổ máu, việc phục vụ mà Chúa Kitô đã làm cho chúng ta: Ngài đã cứu chúng ta cho tới cùng. Và đó là ý nghĩa của từ “Đã hoàn tất”. Thật đẹp biết bao nếu tất cả chúng ta vào cuối cuộc đời mình với các sai lầm, các tội lỗi và cả các việc lành, với tình yêu của chúng ta đối với tha nhân, chúng ta có thể nói với Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu: “Đã hoàn tất”, không phải với sự toàn vẹn như Người, nhưng nói: “Lậy Chúa, con đã làm tất cả những gì con có thể làm. Đã hoàn tất”. Khi thờ lậy Thập Giá, khi nhìn Chúa Giêsu, chúng ta nghĩ tới tình yêu, việc phục vụ, cuộc sống chúng ta, các kitô hữu  tử đạo, và nghĩ tới cuộc sống mình sẽ ích lợi cho chúng ta. Không ai trong chúng ta biết khi nào điều này sẽ xảy ra, nhưng chúng ta có thể xin ơn thánh có thể nói: “Lậy Cha, con đã làm điều con có thể làm. Đã hoàn tất”.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh là ngày, trong đó Giáo Hội chiêm ngưỡng “việc ngủ nghỉ” của Chúa Kitô trong mồ, sau chiến thắng của thập giá. Trong ngày Thứ Bẩy, một lần nữa Giáo Hội tự đồng hóa với Mẹ Maria: toàn đức tin của Giáo Hội đã được tiếp nhận nơi Mẹ, là người  tin toàn vẹn, đầu tiên. Trong sự tối tăm bao trùm thụ tạo, Mẹ một mình cầm giữ  cho ngọn đuốc đức tin nơi sự sống lại của Chúa Giêsu được cháy sáng, bằng cách hy vọng chống lại mọi hy vọng (x. Rm 4,18).

Trong lễ vọng phục sinh, trong đó lại vang lên lời tung hô Alleluiya, chúng ta cử hành Chúa Kitô Phục Sinh, trung tâm và cùng đích của vũ hoàn và của lịch sử. Chúng ta canh thức đầy hy vọng đợi chờ sự trở lại của Ngài, khi lễ Vuợt Qua sẽ được biểu lộ tràn đầy. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Đôi khi tối tăm của đêm đen xem ra vào thấu tận linh hồn; đôi khi chúng ta nghĩ “không còn làm được gì nữa”, và con tim không tìm ra sức mạnh để yêu thương. Nhưng chính trong sự tối tăm đó Chúa Kitô thắp sáng lên ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa: một ánh sáng phá tan đêm tối và loan báo một khởi đầu. Hòn dá của đớn đau đã được lật qua một bên, nhường chỗ cho niềm hy vọng. Đó chính là mầu nhiệm cao cả của sự phục sinh! Trong đêm thánh này Giáo Hội trao ban cho chúng ta ánh sáng của Đấng Phục Sinh, để nơi chúng ta không còn có sự tiếc nuối nữa nhưng có niềm hy vọng cho những ai rộng mở cho một hiện tại tràn đầy tương lai: Chúa Kitô đã chiến thắng cái chết và chúng ta cùng chiến thắng vời Ngài. Như là kitô hữu chúng ta được mời gọi là những tuần canh trời sáng biết nhận ra các dấu chỉ của Đấng Phục Sinh, như các phụ nữ và các môn đệ đã làm khi chạy tới mộ vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần.

Anh chị em thân mến, trong các ngày Tam Nhật Thánh chúng ta đừng chỉ hạn chế tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa, nhưng cũng hãy bước vào trong mầu nhiệm, và nhận lấy các tâm tình và thái độ của Chúa, như tông đồ Phaolô mời gọi chúng ta. “Anh em  hãy có chính các tâm tình của Chúa Kitô Giêsu” (Fl 2,5). Và khi đó sẽ là lễ Vưọt Qua tốt lành cho chúng ta,

ĐTC đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Tây Âu cũng như các đòn hành hương đến từ các nước Indonesia, Nhật Bản, Hồng Kông, Mêhicô, Equador, Argentina. Ngài chúc mọi người Tam Nhật Thánh sốt sắng và luôn sẵn sàng làm chứng cho tình yêu hy hiến của Chúa Kitô và có cùng các tâm tình của Chúa.

Với các doàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc cho mọi người nhớ mùng 2 tháng 4 là kỷ niệm ngày thánh Gioan Phaolô II qua đời. ĐTC nói: chúng ta nhớ tới ngài như chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô khổ đau, chết và phục sinh. Chúng ta hãy xin ngài bầu cử cho chúng ta, cho các gia đình và Giáo Hội, để ánh sáng phục sinh dãi tỏa trên mọi bóng tối của cuộc sống và khiến cho chúng ta được tràn ngập niềm vui và sự an bình.

Với các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các sinh viên tham dự đại hội sinh viên quốc tế tại Roma, học sinh Học viện thánh Vinh Sơn de Paoli vùng Reggio Emilia nhân kỷ niệm 150 năm hoạt động. Ngài khích lệ họ lớn lên  trong tình bạn với Chúa, “vì điều cần thiết không phải là một cuộc sống thoải mái, mà là một trái tim si tình”. ĐTC cũng chào các tham dự viên cuộc tuần hành quốc tế Montefortiana tỉnh Verona.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ĐTC nhắc cho mọi người nhớ ngày giỗ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài xin người trẻ học đương đầu với cuộc sống với niềm hăng say của thánh nhân; anh chị em đau yếu biết tươi vui vác thánh giá khổ đau  như người, và các đôi tân hôn biết luôn để Thiên Chúa vào trung tâm cuộc đời hôn nhân để có đươc nhiều tình yêu và hạnh phúc hơn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày 11-4-2015: công bố tông sắc về Năm Thánh đặc biệt

Ngày 11-4-2015: công bố tông sắc về Năm Thánh đặc biệt

VATICAN. Tông sắc của ĐTC Phanxicô ấn định Năm Thánh đặc biệt về lòng Thương Xót sẽ được chính thức công bố lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ bẩy 11-4 tới đây tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Trong nghi thức công bố, một vị Công chứng viên Tông Tòa sẽ đọc một số đoạn trong Tông Sắc trước cửa Năm Thánh, sau đó ĐTC sẽ chủ sự Kinh Chiều I Chúa nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, qua đó ngài đặc biệt nhấn mạnh chủ đề cơ bản của Năm Thánh đặc biệt là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Trong Tông Sắc, ĐTC sẽ trình bày tinh thần, ý hướng và những thành quả ngài hy vọng khi ấn định Năm Thánh. Ngài cũng xác định thời điểm, ngày khai mạc và ngày bế mạc Năm Thánh, những diễn tiến chính trong Năm này, từ ngày 8-12 năm nay đến Lễ Chúa Kitô Vua năm tới, 9-11-2016.

Dịp Năm Thánh Đặc Biệt 1933 và 1983, Tông Sắc ấn định được công bố vào lễ Chúa Hiển Linh.

Dịp Đại Năm Thánh 2000, Tông Sắc của thánh Gioan Phaolô 2 đã được công bố sáng chúa nhật thứ I mùa vọng, 29-11-1998, vào đầu thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Trong văn kiện đó, Đức Gioan Phaolô 2, sau khi nói đến ý nghĩa Năm Thánh ngài cũng đề cập đến những yếu tố đặc biệt như việc hành hương, các cửa Năm Thánh, và ân xá.

Kèm theo Tông Sắc, Tòa Ân giải tối cao cũng công bố sắc lệnh về việc lãnh nhận Ân xá trong Năm Thánh (SD 31-3-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha ca ngợi Đức Thượng Phụ Mar Dinkha IV

Đức Thánh Cha ca ngợi Đức Thượng Phụ Mar Dinkha IV

VATICAN. ĐTC Phanxicô ca ngợi những đóng góp của Đức Thượng Phụ Mar Dinkha IV giúp cải tiến quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Assiri Đông phương.

Trên đây là nội dung điện văn chia buồn của ĐTC về sự qua đi của Đức Thượng Phụ Mar Dinkha, Giáo Chủ Giáo Hội Assiri Đông Phương, gửi đến Đức Thượng Phụ nhiếp chính Mar Aprem. Đức Cố Thượng Phụ Dinkha IV qua đời hôm 26-3 vừa qua tại Chicago, Hoa Kỳ, hưởng thọ 80 tuổi sau gần 40 năm cai quản Giáo Hội này và sẽ được an táng ngày 8-4-2015 tới đây.

Trong điện văn, ĐTC viết: ”Thế giới Kitô giáo đã mất một vị lãnh đạo tinh thần quan trọng, một vị chủ chăn can đảm và khôn ngoan, trung thành phục vụ cộng đoàn của ngài trong những thời đại có rất nhiều thách đố. Đức Thượng Phụ Mar Dinkha đã đau khổ rất nhiều vì tình trạng bi thảm ở Trung Đông, nhất là ở Irak và Siria, Ngài quyết liệt lưu ý về số phận của các anh chị em Kitô hữu chúng ta và các nhóm tôn giáo thiểu số khác phải chịu bách hại hằng ngày. Tôi nhớ lại Đức Thượng Phụ đã nói nhiều về vấn đề này trong cuộc viếng thăm gần đây của Ngài tại Roma. Tôi thành tâm cảm tạ Thiên Chúa tối cao vì sự dấn thân lâu dài của Đức Thượng Phụ nhắm cải tiến các quan hệ giữa các tín hữu Kitô và đặc biệt là giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Assiri Đông Phương. Xin Chúa đón nhận Đức Thượng Phụ vào vương quốc của Chúa và ban cho Ngài ơn an nghĩ đời đời và ước gì ký ức về sự phục vụ lâu dài và tận tụy của Ngài dành cho Giáo Hội vẫn sinh động như một thách đố và là một sự gợi hứng cho tất cả chúng ta”.

Đức Thượng Phụ Maar Dinkha IV sinh tại Irak hồi năm 1935 và được bầu làm Thượng Phụ năm 1976 sau khi vị tiền nhiệm là Đức Thượng Phụ Mar Eshai Shimun XXIII bị ám sát tại California.

Các tín hữu Kitô Assiri chia làm 3 ngành: Giáo Hội Assiri Đông phương, Giáo Hội Canđê Babylone và Giáo Hội Chính Thống Siriac. Theo truyền thống, Giáo Hội này do thánh Tôma Tông Đồ thiết lập. Giáo Hội Assiri Đông Phương hiện có khoảng từ 400 đến 500 ngàn tín hữu tại nhiều nước trên thế giới, nhất là Trung Đông.

Đức Mar Dinkha IV nhiều lần gặp gỡ các vị Giáo Hoàng tại Vatican. Tại thành phố Chicago bang Illinois nơi có trụ sở trung ương của Đức Thượng Phụ, Giáo Hội này không có trường học, cũng chẳng có chủng viện, hay đan viện, và hệ thống giáo xứ không đủ để đảm bảo sự sống còn về tinh thần cảu 100 ngàn giáo hữu ở Chicago và vùng phụ cận (RG 28-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Hồng Y Versaldi tân Tổng Trưởng Bộ giáo dục Công Giáo

Đức Hồng Y Versaldi tân Tổng Trưởng Bộ giáo dục Công Giáo

ĐHY Versaldi

VATICAN. Hôm 31-3-2015, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Giuseppe Versaldi làm Tân Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo.

ĐHY Versaldi năm nay 72 tuổi, người miền bắc Italia, nguyên là giáo sư giáo luật và tâm lý ở Đại Học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma, rồi làm GM giáo phận Alessandria và được bổ nhiệm làm Chủ tịch sở kinh tế tài chánh của Tòa Thánh hồi năm 2011. Nay cơ quan này bị nhập vào Văn phòng kinh tế của Tòa Thánh do ĐHY George Pell người Úc làm chủ tịch.

ĐHY Versaldi được bổ nhiệm thay thế ĐHY Zenon Grocholewski người Ba Lan, 76 tuổi (1939), về hưu sau 6 năm giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, là cơ quan đặc trách các Đại học, trường cao đẳng và trường học Công Giáo (SD 31-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio