ĐTC Phanxicô gặp các thiếu nhi của Phòng Khám bệnh thánh Martha

ĐTC Phanxicô gặp các thiếu nhi của Phòng Khám bệnh thánh Martha

Sáng Chúa nhật 16/12, tại đại thính đường Phaolô VI, ĐTC Phanxicô đã gặp các thiếu nhi và các nhân viên của Phòng Khám bệnh thánh Marta. ĐTC đã chúc mừng Giáng sinh mọi người và các em bé đã mừng sinh nhật ĐTC.

“Làm việc với các trẻ em thật không dễ dàng” nhưng nó dạy chúng ta rằng “để hiểu được thực tại cuộc sống, cần hạ mình xuống, giống như chúng ta cúi xuống để hôn một em bé. Các trẻ em dạy chúng ta điều này. Những người kiêu căng tự mãn không thể hiểu được cuộc sống vì họ không thể hạ mình xuống.”

Đó là lời chia sẻ của ĐTC Phanxicô với các nữ tu dòng thánh Vinh sơn, với các tình nguyện viên của Phòng Khám bệnh thánh Marta, cũng như với cha mẹ và các em bé được cơ sở này trợ giúp.

Khả năng hạ mình xuống

Trong lời cám ơn các bác sĩ cũng như các nữ tu làm việc tại Phòng Khám bệnh thánh Marta, ĐTC nhận xét rằng chúng ta nói nhiều điều với các trẻ em nhưng lời dạy quan trọng nhất là hạ mình xuống.  ĐTC nói: Cúi xuống, hạ mình xuống, hãy khiêm nhường và như thế bạn học hiểu cuộc sống và hiểu con người. Và tất cả anh chị em có khả năng hạ mình xuống: cám ơn anh chị em nhiều về điều này.”

Bánh ngọt mừng sinh nhật ĐTC

Khi đi vào đại thính đường Phaolô VI, ĐTC đã chào từng em một của Phòng Khám bệnh và ngồi xuống trên bậc thềm với các em.

Các em đã đón tiếp ĐTC với những bài hát chúc mừng, một bài vũ Giáng sinh và một chiếc bánh lớn mừng sinh nhật thứ 83 của ĐTC vào ngày 17/12 hôm nay. ĐTC đã nói đùa rằng hy vọng là không có ai bị bội thực vì chiếc bánh to như thế.

ĐTC mời gọi mọi người tự hỏi xem Mẹ Maria sẽ làm gì nếu Chúa Giêsu Hài đồng, trong thời gian Giáng sinh, bị cảm cúm hay bị lạnh. Ngài nói: “Cha không chắc là ở Nazarét hay Ai cập có phòng khám bệnh hay không, nhưng cha chắc chắn rằng nếu Đức Mẹ ở Roma thì Mẹ sẽ đưa Chúa vào Phòng khám bệnh này, chắc chắn như thế.”

ĐTC đã nghe một vài em thiếu nhi và hai bà mẹ đến từ Pêru và Marốc trình bày chứng từ. Sau đó ngài đã mừng lễ Giáng sinh tất cả mọi người, tặng cho các em những chiếc vớ đầy những viên kẹo sôcôla nhỏ và chào các gia đình và các nhân viên trước khi từ giã họ.

Phòng Khám bệnh thánh Marta là cơ sở chăm sóc các trẻ sơ sinh đau bệnh. Cơ sở này cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em cho trẻ em gặp khó khăn, từ khắp nơi trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo.

Hồng Thủy, Vatican

Hồng y McCarrick không còn là Hồng y nữa!

Hồng y McCarrick không còn là Hồng y nữa!


Sáng ngày 28/07, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết là chiều ngày 27/07, ĐTC đã nhận được thư của ĐHY Theodore McCarrick xin từ chức Hồng y. Thông cáo viết tiếp: “ĐGH Phanxicô đã nhận đơn từ chức từ ĐHY và đã ra lệnh cho ngài ngưng thực thi bất kỳ sứ vụ công khai nào, cùng với việc buộc ngài phải ở lại trong một ngôi nhà sẽ được chỉ định cho ngài, để sống một cuộc đời cầu nguyện và sám hối, cho đến khi các cáo buộc chống lại ngài được làm rõ theo tiến trình thông thường của giáo luật.”
Những cáo buộc đáng tin và có nền tảng
Hồi tháng trước, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, theo chỉ thị của ĐGH Phanxicô, đã yêu cầu ĐHY McCarrick không thực thị bất cứ sứ vụ linh mục nào cách công khai. Quyết định được đưa ra sau khi Ủy ban của tổng giáo phận New York kết luận rằng những cáo buộc chống lại ĐHY McCarrich, cáo buộc ngài lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, là đáng tin và có nền tảng. ĐHY McCarrick đã chấp nhận quyết định dù nói rằng mình vô tội.
ĐHY O’Malley yêu cầu có thủ tục rõ ràng đối với các hành xử không thích hợp của linh mục, tu sĩ và hồng y
ĐHY Sean Patrick O’Malley, Tổng giám mục Boston và cũng là chủ tích Ủy ban Giáo hoàng bảo vệ trẻ vị thành niên, bức xúc trước những tin tức liên quan đến ĐHY McCarrick, trong đó có cáo buộc về các hành xử không thích hợp với cả người lớn nữa. ĐHY O’Malley khẳng định rằng những hành động này không thể chấp nhận về luân lý và không thích hợp với vai trò của linh mục, giám mục hay hồng y.
ĐHY O’Malley nói rằng những trường hợp này và những trường hợp khác giống như thế đòi hỏi điều khác hơn là những lời xin lỗi. Ngài lưu ý rằng khi có các cáo buộc chống lại một Giám mục hay một Hồng y, thì có một sự thiếu sót lớn trong chính sách của Giáo Hội liên quan tới cung cách hành xử và việc lạm dụng tính dục. Giáo Hội Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách “không khoan nhượng” liên quan tới việc lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên từ phía các linh mục, nhưng cần có các thủ tục rõ ràng hơn đối với các trường hợp liên lụy tới các Giám Mục. Vì thế Giáo Hội cần có môt chính sách mạnh mẽ toàn diện để đối phó với các vụ vi phạm lời khấn độc thân từ phía các Giám Mục trong các vụ tội phạm lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và trong các vụ liên quan tới người lớn. Một cách cụ thể cần có các thủ tục trong sáng và trung thực để bảo đảm công lý cho các nạn nhân và trả lời cho sự phẫn nộ chính đáng của tín hữu.
Với việc ĐHY McCarrick từ chức, Hồng y đoàn còn 224 vi, trong đó có 124 Hồng y cử tri và 100 Hồng y trên 80 tuổi không có quyền bỏ phiếu.

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha qui định thủ tục cứu xét vắn tắt giải hôn phối

Đức Thánh Cha qui định thủ tục cứu xét vắn tắt giải hôn phối

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 25-11-2017 dành cho các tham dự viên khóa học do Tòa Thượng Thẩm Rota tổ chức, ĐTC qui định thủ tục vắn tắt ”giải” hôn phối do Giám mục Giáo phận thi hành.

 

 Trong tự sắc công bố ngày 8-9-2015 với tựa đề ”Chúa Giêsu là thẩm phán hiền từ” (Mitis Iudex Dominus Iesus) đơn giản hóa thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐTC đã qui định một thủ tục cứu xét vắn tắt (processo breviore) trong trường hợp sự vô hiệu của hôn phối được chứng tỏ bằng những lý lẽ thật là tỏ tường. Trong trường hợp này, ĐGM ban sắc lệnh tuyên bố hôn nhân đó là vô hiệu. ĐTC viết:

 

 ”Tôi cũng biết một phán quyết thu vắn có thể gặp nguy cơ làm thương tổn tính chất bất khả phân ly của hôn phối; chính vì thế tôi đã muốn việc xét xử, cứu xét như thế do chính GM làm thẩm phán. Do chức vụ mục tử hiệp thông, ngài cùng với Phêrô là người bảo đảm lớn nhất sự hiệp nhất của Công Giáo trong đức tin và kỷ luật.”

 

 Trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc nhở các tham dự viên khóa học về đặc tính ”công nghị” của các thủ tục mới do ngài ban hành, như kết quả của Thượng HĐGM thế giới về gia đình, nhắm củng cố gia đình, nhưng đồng thời cũng chứng tỏ lòng thương xót đối với những người đau khổ vì hôn nhân thất bại, mang lại cho họ sự an ủi mục vụ, ĐTC, trong tư cách là GM Roma và là người kế vị Thánh Phêrô, đặc biệt xác định một số khía cạnh cơ bản liên quan đến vai trò của Giám Mục giáo phận, với tư cách là thẩm phán, trong thủ tục ngắn giải hôn phối. Ngài liệt kê 9 điểm:

 

 1. Giám mục giáo phận, do chức vụ chủ chăn, là thẩm phán đích thân và duy nhất trong thủ tục cứu xét vắn tắt.

 

 2. Vì thế vai trò của Giám mục-giáo phận-phẩm phán là điều chủ yếu, là nguyên lý cấu thành và là yếu tố nổi bật của toàn thể thủ tục vắn tắt được Tự Sắc ấn định.

 

 3. Trong thủ tục vắn tắt, cần có hai điều kiện không thể tách rời nhau để có hiệu lực (ad validitatem): chức giám mục và là thủ lãnh một cộng đoàn giáo phận của các tín hữu (Xc GL 381,2). Nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không thể có thủ tục cứu xét vắn tắt. Nếu thiếu như thế, thì đơn xin phải được cứu xét theo thủ tục bình thường.

 

 4. Thẩm quyền riêng và đích thân của Giám mục giáo phận, trong các tiêu chuẩn cơ bản của thủ tục vắn tắt, là điều thăm chiếu trực tiếp Giáo Hội học của Công đồng chung Vatican 2, nhắc cho chúng ta rằng chỉ Giám Mục, do việc chịu chức, có trọn vẹn quyền bính, và sự trọn vẹn này trở thành hiện thực qua giáo vụ (missio canonica) được trao phó.

 

 5. Thủ tục vắn tắt không phải là một chọn lựa mà Giám mục giáo phận có thể tùy tiện chọn, nhưng là một nghĩa vụ bắt buộc của ngài do việc chịu chức và do giáo vụ đã nhận lãnh. Chỉ có ngài mới có thẩm quyền trong 3 giai đoạn của thủ tục vắn tắt:

 

 – Đơn xin luôn luôn phải đệ lên Giám mục giáo phận

 

 – Việc điều tra: (..) Giám mục thực hiện cuộc điều tra ”luôn luôn có sự trợ giúp của vị Đại diện tư pháp hoặc của một người điều tra khác, kể cả giáo dân, của người trợ giúp, và luôn luôn có sự hiện diện của vị bảo hệ (difensore del vincolo). Nếu Giám Mục không có giáo sĩ hoặc giáo dân chuyên về giáo luật trợ giúp, thì đức bác ái, vốn là điều nổi bật trong chức vụ Giám Mục, của một GM lân cận có thể giúp ngài trong thời gian cần thiết. Ngoài ra, tôi nhắc lại rằng thủ tục vắn tắt thường phải được kết thúc trong một phiên cứu xét mà thôi, trong đó phải có điều kiện không thể thiếu được, đó là sự hiển nhiên của các sự kiện chứng tỏ hôn phối vô hiệu, và kiểm điểm sự đồng ý kết hôn của họ.

 

 – Quyết định: luôn luôn và chỉ Giám mục giáo phận mới có thể tuyên bố phán quyết trước mặt Chúa.

 

 6. Việc ủy thác toàn bộ thủ tục vắn tắt cho tòa án liên giáo phận (là tòa án lân cận, hoặc tòa án của nhiều giáo phận) có thể làm biến thái và biến Giám Mục là người cha, thủ lãnh và thẩm phán của các tín hữu thuộc quyền, thành một người chỉ ký phán quyết mà thôi.

 

 7. Lòng thương xót, một trong những tiêu chuẩn cơ bản đảm bảo phần rỗi, đòi Giám mục giáo phận phải thực hiện sớm bao nhiêu có thể thủ tục vắn tắt; trong trường hợp ngài thấy chưa sẵn sàng trong lúc này để thực hiện, thì phải đưa vụ này ra cứu xét theo thủ tục bình thường, thủ tục này cần phải được tiến hành với sự ân cần cần thiết.

 

 8. Sự gần gũi và miễn phí, như tôi đã nhiều lần lập lại, là hai hạt ngọc trai mà những người nghèo đang cần, những người nghèo mà Giáo Hội yêu thương trên mọi sự.

 

 9. Về thẩm quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh hoặc của GGM được chỉ định trong khoản giáo luật mới 1687, trong trường hợp khiếu nại chống lại phán quyết thuận trong thủ tục vắn tắt, điều được xác định là: luật mới ban cho vị Niên Trưởng tòa Thượng Thẩm Rota quyền quyết định mới và vì thế đó là quyền cốt yếu về việc bác bỏ hoặc chấp nhận việc khiếu nại.

 

“Để kết luận, tôi muốn tái khẳng định rõ ràng rằng điều đó xảy ra mà không cần xin phép của một thẩm quyền cấp cao hơn, tức là Tối Cao Pháp Viện của Tòa Thánh” (Rei 25-11-2017)

 

 G. Trần Đức Anh OP

 

 

Giáo hội Ba lan đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho thế giới

Giáo hội Ba lan đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho thế giới

Ít nhất một triệu tín hữu Công giáo tham dự chương trình “đại” cầu nguyện trải dài 2000 dặm biên giới đất liền và hải phận nối liền với 8 nước của Ba lan.

Hội đồng Giám mục Ba lan đã kêu gọi các thành phần trong Giáo hội tham gia vào chương trình đọc kinh Mân Côi kéo dài một tiếng trên các biên giới của họ để cứu thế giới khỏi tội lỗi và kỷ niệm biến cố châu Âu được cứu khỏi cuộc xâm lược của Hồi giáo hồi thế kỷ 16.

Thông cáo của Hội đồng Giám mục Ba lan cho biết: “Mục đích là giờ đọc kinh Mân côi cầu nguyện cho Ba lan và toàn thế giới bởi những người được chọn dọc theo biên giới của chúng ta. Chúng tôi kêu gọi mọi tín hữu ủng hộ sáng kiến này đông đảo và cho tất cả chúng ta – giáo sĩ, các tu sĩ và giáo dân – cùng nhau cầu nguyện.”

Chương trình “Kinh Mân Côi trên các biên giới” vào ngày 07/10 đánh dấu việc cử hành 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima và là cách thế đặc biệt thực hành lời mời gọi sám hối Đức Trinh nữ Maria đã truyền cho sơ Lucia và các em họ của mình.

Ban tổ chức cho biết có 319 nhà thờ và 22 giáo phận được sử dụng làm các điểm tập họp. Trang web của ban tổ chức cho biết: “Chúng tôi muốn xin ơn tha thứ và đền tội cho tất cả các xúc phạm và chống đối xúc phạm đến Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ Maria và xin Mẹ Thiên Chúa can thiệp để cứu Ba lan và thế giới. Nếu kinh Mân côi được một triệu người Ba lan cầu nguyện thì không chỉ có thể thay đổi các sự kiện nhưng còn mở các trái tim cho các hoạt động ân sủng của Chúa.” (The Tablet 25/09/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha hành hương kính Đức Mẹ Fatima

Đức Thánh Cha hành hương kính Đức Mẹ Fatima

FATIMA. Chiều ngày 12-5-2017, ĐTC Phanxicô đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với 3 mục đồng tại đây: Lucia dos Santos, Phanxicô và Giacinta Marto.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 19 của ĐTC tại nước ngoài, và Bồ đào nha là nước thứ 28 được ngài thăm viếng. Nhưng đây là lần đầu tiên, chuyến viếng thăm của ngài hoàn toàn là một cuộc hành hương, không có những hoạt động chính thức, nhưng chỉ có lời cầu nguyện dâng lên Đức Mẹ Fatima và bài giảng Thánh Lễ, cùng với hai lời chào các tín hữu: một trước khi bắt đầu đọc kinh Mân Côi tối hôm qua và một lời chào các bệnh nhân cuối thánh lễ phong thánh sáng thứ bẩy 13-5-2017.

Như ĐTC tỏ lộ trong sứ điệp Video gửi nhân dân Bồ đào nha tối thứ tư, 10-5 vừa qua, ngài đã nhận được nhiều lời mời của giáo quyền và các giới chức ở Bồ đào nha, mong ngài đến thăm địa phương của họ, nhưng ngài không thể nhận lời, và ĐTC cũng cám ơn sự cảm thông của chính quyền Bồ đào nha trước quyết định của ngài giới hạn lần đến Bồ đào nha này vào cuộc hành hương thuần túy.

Trên chuyến bay dài hơn 3 tiếng đồng hồ từ lúc 2 giờ 20 phút chiều từ Roma, như thường lệ, ĐTC đã chào thăm 69 ký giả cùng đi với ngài và tóm tắt chủ đích chuyến đi của ngài lần này: ”Đây là một cuộc lữ hành cầu nguyện, một cuộc gặp gỡ với Chúa và với Mẹ Thánh của Thiên Chúa”. Rồi ngài lần lượt bắt tay từng ký giả đồng hành.

 

Căn cứ không quân Monte Real

Khi đến phi trường căn cứ không quân Monte Real của Bồ đào nha, lúc 4 giờ 20 chiều 12-5, ĐTC đã được tổng thống Marcelo Rebelo de Souza tiếp đón tận chân thang máy bay và hai vị hội kiến trong 10 phút trước khi ngài đến viếng Nhà nguyện của căn cứ.

Cuộc tiếp đón đơn sơ nhưng rất nồng nhiệt, dọc đường ngài không quên ôm hôn và chúc lành cho mấy em bé, cũng như thăm hỏi những người bệnh thân nhân của các binh sĩ. Trước khi rời nhà nguyện, ĐTC đã ghi vào sổ vàng lưu niệm của căn cứ hàng chữ: ”Tôi phó thác nhân viên của Căn Cứ không quân và thân nhân họ cho Đức Mẹ Fatima, cầu xin Mẹ canh giữ cho họ được an toàn vào bảo vệ họ như những người trung thành phục vụ công ích và hòa bình”.

 

Tại Quảng trường Đền Thánh Fatima

Trong khi đó Quảng trường Fatima đã đông chật: hàng trăm ngàn tín hữu đã có mặt tại đây, cầu nguyện, ca hát chờ đợi ĐTC. Ngài đến đây sau 20 phút bay trực thăng từ căn cứ không quân, và đi xe mui trần đến thẳng Nhà Nguyện Đức Mẹ hiện ra. Ngài đặt bó hoa dưới chân tượng Đức Mẹ.

Những tiếng reo hò vui mừng của các tín hữu im bặt khi ĐTC im lặng cầu nguyện 10 phút trước tượng ảnh Đức Mẹ Fatima, rồi ngài bắt đầu kinh nguyện phó thác bản thân, các tín hữu, Giáo Hội và toàn thế giới cho sự phù hộ của Mẹ Thiên Chúa.

Tiếp nối truyền thống của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, ĐTC dâng kính Đức Mẹ một bình nhỏ bằng bạc trên đó có hoa hồng bằng vàng 24 carat, đặt dưới chân tượng.

 

Kinh Mân Côi

ĐTC trở lại Nhà nguyện Đức Mẹ hiện ra lúc 9 giờ rưỡi tối để chủ sự buổi làm phép nến và đọc kinh Mân Côi với hơn 300 ngàn tín hữu hiện diện, tay cầm nến sáng lung linh.

Trong lời chào các tín hữu, ĐTC cho biết ngài mang tất cả các tín hữu trong tim, nhất là những người túng quẫn nhất. Và nhân dịp này, ngài cũng muốn đánh tan những quan niệm không phù hợp với tinh thần tin Mừng về Đức Mẹ. Ngài nói:

”Chúng ta chọn Đức Maria nào? Đức Trinh Nữ Maria của Tin Mừng, được Giáo Hội cầu nguyện tôn kính, hay là một Maria do sự nhạy cảm chủ quan phác họa ra, coi là người ngăn chặn cánh tay công lý của Thiên Chúa sẵn sàng trừng phạt: coi Mẹ Maria tốt lành hơn Chúa Kitô, Chúa Kitô bị coi như một thẩm phán không xót thương? Coi Mẹ Maria có lòng thương xót hơn Chiên Con bị sát tế vì chúng ta?

”Người ta phạm một điều bất công lớn xúc phạm đến Thiên Chúa và ơn thánh của Người, khi quả quyết trước tiên rằng tội lỗi bị án lệnh của Chúa trừng phạt, mà không nêu rõ như Tin Mừng dạy: các tội lỗi ấy đã được lòng thương xót của Chúa tha thứ! Chúng ta phải đặt lòng thương xót lên trên sự phán xét và dầu sao đi nữa, sự phán xét của Thiên Chúa luôn được thực hiện dưới ánh sáng lòng thương xót của Người, vì Chúa Giêsu đã gánh lấy những hậu quả tội lỗi chúng ta cùng với hình phạt đi kèm. Chúa không phủ nhận tội, nhưng Ngài đã trả giá cho chúng ta trên Thánh Giá..”.

Sau kinh Mân Côi, ĐTC đã rời quảng trường trở về nhà trọ ”Nhà Đức Mẹ Camêlo”. Ngài ngồi cạnh tài xế, chứ không đứng chào mọi người, có lẽ vì không muốn các tín hữu chia trí trong bầu không khí cầu nguyện chung bấy giờ. Bầu không khí trong đó diễn ra thánh lễ liền sau đó do ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cử hành. Trời có gió lạnh và mưa nhẹ.

Nhiều tín hữu ở lại khu vực Đền thánh để qua đêm, vì nhà trọ của họ ở quá xa, hàng trăm cây số.

 

Giuse Trần Đức Anh

Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

 

Thứ bẩy 29-4-2017 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Ai Cập. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: ban sáng ngài chủ sự thánh lễ  cho tín hữu tại vận động trường của lực lượng phòng không, và ban chiều ĐTC gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại đại chủng viện toà Thượng Phụ công giáo Copte, truớc khi ra phi trường trở về Roma. Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC.

Lúc  8 giờ 50 ĐTC rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe đến Sân vận động của lực lượng phòng không cách đó 19 cây số. Sân vận động này cũng còn gọi là “Sân vận động ngày 30 tháng 6”, là một phần trong làng thể thao của Không quân Ai Cập, đuợc xây cất và điều khiển bởi Bộ Quốc Phòng Ai Cập, nhằm mục đích ghi nhớ các chiến công của không quân Ai Cập trong cuộc chiến chống lại Israel hồi năm 1970. Đây cũng là nơi diễn ra các trận tranh tài bóng đá hạng A của Ai Cập. Hồi năm 2015 nó cũng là nơi xảy ra các cuộc đụng độ giữa các người hâm mộ bóng đá và cảnh sát khiến cho 22 người thiệt mạng. Sân vận động có chỗ cho 30.000 người. Khán đài và bàn thờ được dựng trên sân cỏ, hai bên có hai lều cho ca đoàn dàn nhạc và các phóng viên truyền hình. Phía trước hai bên khán đài dành cho mấy trăm linh mục đồng tế. Chính giữa trước khán đài là chỗ dành cho các quan khách, trong  đó có ghế cho tổng thống Abd Al-Fattah Al- Sisi và chính quyền Ai Cập cũng như các đại sứ các nước. Tín hữu đã mang theo nhiêu biểu ngữ chào mừng ĐTC và phất cờ Toà Thánh và bong bóng hai mầu vàng trắng. Cũng có bong bóng kết như tràng hạt được thả lên khi ĐTC tiến vào sân vận động.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ sáng giờ địa phương và được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, A rập, Anh, Pháp và Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ III mùa Phục Sinh và nói:

** Bình an cho anh chị em. Hôm nay Phúc Âm Chúa Nhật thứ 3 mùa Phục Sinh nói với chúng ta về lộ trình của hai môn đệ làng Emmaus rời bỏ Giêrusalem. Một Tin Mừng có thể được tóm gọn trong ba từ: chết, phục sinh và sự sống.

Truớc hết là từ chết. Hai môn đệ trở về cuộc sống thường ngày của họ, tràn đầy vỡ mộng và tuyệt vọng. Vị Thầy đã chết, và vì thế hy vọng thật là vô ích. Họ bị mất hướng, vỡ mộng và thất vọng. Con đường của họ là một việc trở lại đàng sau; nó là một xa rời kinh nghiệm đớn đau của Đấng Bị Đóng Đanh.  Cuộc khủng hoảng của Thập Giá, còn tệ hơn thế nữa “gương mù” và “sự điên dại” của Thập Giá (x. 1 Cr 1,18; 2,2) xem ra đã chôn vùi mọi hy vọng của họ, đem mọi khát vọng của họ vào mồ.

Họ không thể tin rằng Thầy và Đấng Cứu Thế, Đấng đã cho các kẻ chết sống lại và chữa lành người bệnh tật, lại có thể kết thúc bị treo trên thập giá hổ nhục. Họ đã không thể hiểu rằng Thiên Chúa Toàn Năng đã không thể cứu Người khỏi một cái chết hổ nhục như vậy. Thập giá Chúa Kitô đã là thập giá của các tư tưởng của họ về Thiên Chúa; cái chết của Chúa Kitô đã là một cái chết  của những gì họ đã tưởng tượng là Thiên Chúa. Thật vậy, họ đã là những người đã chết trong sự hiểu biết hạn hẹp của họ.

Biết bao lần con người tự đủ cho chính mình, khước từ thắng vượt tư tưởng cuả họ về Thiên Chúa, về một vì thiên chúa được tạo dựng theo hình ảnh và giống con người! Biết bao lần ta thất vọng, khước từ tin rằng sự toàn năng của Thiên Chúa không phải là sự toàn năng của sức mạnh, của quyền bính, nhưng chỉ là sự toàn năng của tình yêu, của tha thứ và sự sống!

Các môn đệ đã nhận biết Chúa Giêsu “trong việc bẻ bánh”, trong Thánh Thể. Nếu chúng ta không để cho bức màn che mờ đôi mắt chúng ta bị xé ra, nếu chúng ta không để cho con tim chai cứng và các thành kiến của chúng ta bị bẻ gẫy, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra gương mặt của Thiên Chúa.

Thứ hai là từ Sống lại.  Trong cái tối tăm của đêm đen nhất, trong sự tuyệt vọng đảo lộn nhất, Chúa Giêsu đến gần các ông và bước đi trên con đường của họ để họ có thể khám phá ra rằng Ngài là « đường, là sự thật và là sự sống » (Ga 14,6). Chúa Giêsu biến đổi nỗi thất vọng của họ thành sự sống, để khi niềm hy vong của con người biến mất,  bắt đầu sáng lên niềm hy vọng của Thiên Chúa : « Điều không thể trước mắt loài người , thì có thể đối với Thiên  Chúa » (x. Lc 18, 27 ; 1,37).

ĐTC khẳng định : khi con người đụng tới tận đáy của thất bại và sự bất lực, khi nó lột bỏ sự vỡ mộng là người tốt nhất, là tự đủ, là trung tâm thế giới, thì khi đó Thiên Chúa giơ tay ra cho nó để biến đổi đêm đen của nó thành rạng đông, sự buồn sầu của nó thành niềm vui, cái chết của nó thành sự sống lại, con đường đi tháo lui của nó thành việc trở lại Giêrusalem, nghĩa là trở lại với sự sống và chiến thắng của Thập Giá (x. Dt 11,34).

** Thật vậy, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh hai môn đệ trở lại tràn đầy niềm vui, lòng tin tưởng và hăng say, sẵn sàng làm chứng. Đấng Phục Sinh đã khiến cho họ sống lại từ trong nấm mồ của sự không tin và buồn sầu của họ. Khi gặp Đấng Bị Đóng Đanh Phục Sinh họ đã tìm thấy lời giải thích và sự thành toàn của Thánh Kinh, Lề Luật và các Ngôn Sứ ; họ đã tìm ra ý nghĩa sự thất bại bề ngoài của Thập Giá.

Ai không đi qua kinh nghiệm của Thập Giá cho tới sự thật của Sự Sống Lại, thì tự kết án mình sống tuyệt vọng. Thật thế  chúng ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa mà không truớc hết đóng đinh các tư tưởng hạn hẹp về một vì thiên chúa phản ánh sự hiểu biết của chúng ta  về sự toàn năng và quyền bính của Ngài.

Thứ ba là từ sự sống : Việc gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh đã biến đổi cuộc sống của hai môn đệ, bởi vì sự găp gỡ Đấng Phục Sinh biến đổi mọi cuộc sống và khiến cho mọi khô cằn được phong phú. Thật vậy, sự Phục Sinh không phải là một niềm tin nảy sinh trong Giáo Hội, nhưng Giáo Hội đã nảy sinh từ niềm tin vào Sự Phục Sinh. Thánh Phaolô nói : « Nếu Chúa Kitô đã không chết, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng » (1 Cr 15,14). Đấng Phục Sinh biến mất khỏi mắt họ, để dậy chúng ta rằng chúng ta không thể giữ Chúa Giêsu trong sự hữu hình lịch sử của Ngài : « Phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin !» (Ga 20,29 ; x. 20,17) Giáo Hội phải biết và tin rằng Ngài sống với mình và làm cho mình sinh động trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh và trong các Bí Tích. Các môn đệ làng Emmaus đã hiểu điều này và họ trở lại Giêrusalem để chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác : « Chúng tôi đã trông thấy Chúa… Phải, Ngài đã sống lại thật ! » (x. Lc 24,43). Rút tiả từ kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus ĐTC nói : Kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus dậy chúng ta rằng làm đầy các nơi thờ tự thật vô ích, nếu con tim chúng ta trống rỗng sự kính sợ Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài ; cầu nguyện thật vô ích, nếu lời cầu hướng tới Chúa của chúng ta không biến thành tình yêu thương đôi với người anh em ; thật vô ích biết bao nhiêu đạo hạnh, nếu nó không được linh hoạt bởi đức tin và tình bác ái ; thật vô ích lo lắng cho vẻ bề ngoài, bởi vì Thiên Chúa nhìn linh hồn và trái tim con người (1 Sm 16,17) và Ngài ghét sự giả hình (x. Lc 11,37-54 ; Cv 5,3-4). Đối với Thiên Chúa, không tin tốt hơn là một tín hữu giả, một người giả hình ! ĐTC định nghĩa niềm tin đích thực như sau : Đức tin đích thật là đức tin khiến cho chúng ta bác ái hơn, thương xót hơn, liêm chính hơn và nhân bản hơn ; chính nó linh hoạt trái tim và đưa nó tới chỗ yêu thương hết mọi người, không phân biệt và không thiên tư ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ trông thấy nơi người khác, không phải một kẻ thù cần đánh bại, nhưng một người anh em cần yêu thương, phục vụ và trợ giúp ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ phổ biến, bảo vệ và sống nền văn hoá gặp gỡ, đối thoại, tôn trọng và huynh đệ ; nó đưa chúng ta tới sự can đảm tha thứ cho ai xúc phạm tới chúng ta, giơ tay ra cho một người bị ngã ; cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ đói ăn, thăm viếng người bị tù, trợ giúp trẻ mồi côi, cho kẻ khát uống, cứu giúp người già cả và cần dược trợ giúp (Mt 25,31-45). Lòng tin đích thực là lòng tin đưa chúng ta tới chỗ bảo vệ các quyền của người khác, với cùng sức mạnh và lòng hăng say mà chúng ta dùng để bảo vệ các quyền của chúng ta. Thật ra, càng lớn lên trong đức tin và sự hiểu biết bao nhiêu, thì lại càng lớn lên trong sự khiêm nhường và ý thức mình bé nhỏ bấy nhiêu.

** Anh chị em thân mến, Thiên Chúa chỉ ưa thích đức tin được tuyên xưng với cuộc sống, bởi vì sự triệt để duy nhất được chấp nhận đối với các tín hữu là sự triệt để của tình bác ái ! Bất cứ loại triệt để nào không đến từ Thiên Chúa thì không đẹp lòng Ngài !.

Giờ đây, như các môn đệ làng Emmaus anh chị em hãy trở lại Giêrusalem của anh chị em, là cuộc sống thường ngày, các gia đình, công việc làm và quê hương yêu dấu của anh chị em, tràn đầy tươi vui, can đảm và niềm tin. Đừng sợ hãi mở rộng con tim cho ánh sáng của Chúa Phục Sinh và hãy để cho Ngài biến đổi sự không chắc chắn của anh chị em thành sức mạnh tích cực cho anh chị em và cho người khác. Đừng sợ hãi yêu thương tất cả mọi người, bạn cũng như thù, bởi vì sức mạnh và kho tàng của tín hữu là  trong tình yêu sống động. Xin Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Gia đã sống trong vùng đất được chúc phúc này, soi sáng con tim và chúc lành cho anh chị em và đất nước Ai Cập thân yêu, là quốc gia, từ bình minh của Kitô giáo, đã tiếp nhận việc rao truyền Tin Mừng của thánh sử Mạccô và tạo thành lịch sử của nhiều vị tử đạo và một đoàn ngũ các thánh nam nữ ! Al Massih Kam Bilhakika kam ! Chúa Kitô đã phục sinh Ngài đã sống lại thật !

Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Trước khi ĐTC ban phép lành cuối lễ cho mọi người, Đức Ibrahim Isaac Sidrak, Thượng Phụ công giáo Copte Alessandria, đã nhân danh Giáo Hội và toàn dân Ai Cập ngỏ lời tri ân ĐTC đã nhận lời mời viếng thăm Ai Cập. Chuyến viếng thăm diễn tả khẩu hiệu được chọn « Vị Giáo Hoàng của hoà bình trong đất nước Ai Cập hoà bình ». Đó là một sứ điệp cho thế giới và xác nhận bản chất của Ai Cập là yêu thương hoà bình và liên tục cố gắng khẳng định hoà bình trong vùng Trung Đông và trên toàn thế giới. Nó cũng xác nhận sự sẵn sàng chung sống giữa các tín hữu của các niềm tin khác nhau,  và khả năng hấp thụ các nền văn hóa khác nhau. Ai Cập, chiếc nôi của các tôn giáo, là quê hương tiếp đón các ngôn sứ và Thánh Gia ẩn trốn kiếm tìm an ninh. Đức thượng phụ cũng nhắc tới tên gọi Phanxicô và Năm Thánh Lòng  Thương Xót đã được Giáo Hội Ai Cập sống sâu đậm, đặc biệt qua Công Nghị hồi tháng 2 năm nay. Giáo Hội Ai Cập hiệp nhất trong truyền thống của mình tư tưởng thần học của Đông Phương và Tây Phương,  và rộng mở cho các nền văn hóa khác nhau. Điều này khiến cho nó được phong phú trong cuộc sống tinh thần, trong đức tin và phụng vụ, cũng như trong việc biểu lộ Giáo Hội Tông Truyền.

Đức Thượng Phụ cũng không quên cám ơn tổng thống Al Sisi đã có sáng kiến mời ĐTC viếng thăm Ai Cập, và làm mọi sự để giúp cho chuyến viếng thăm đuợc thực hiện thành công.

ĐTC đã tặng Đức Thượng Phụ một chén thánh, và Đức Thượng Phụ tặng ĐTC một bức khắc bằng gỗ quý. Sau khi ban phép lành cuối lễ cho tín hữu và từ giã mọi người, ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa với các Giám Mục và đoàn tuỳ tùng, rồi nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến đại chủng viện để chủ sự buổi cầu nguyện và gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

** Lúc 14 giờ 45 giờ địa phương ĐTC đã đi xe đến đại chủng viện công giáo copte cách đó 17 cây số để chủ sự buổi cầu nguyện có sự tham dự của hàng giáo sĩ, tu sĩ và các chủng sinh. Đại chủng viện thánh Lêo Cả của Toà Thượng Phụ công giáo Copte nằm trong khu phố Maadi ở ngoại ô mạn nam thủ đô Cairô. Đây là nơi đa số các ứng viên linh mục tương lai được đào tạo.

ĐTC đã được  Đức Thượng Phụ , Linh Mục Giám đốc và phó giám đốc đại chủng viện, tiếp đón tại cửa chính đại chủng viện. Có 10 tu sĩ nam nữ Bề trên giám tỉnh các dòng hiện diện tại Ai Cập chào mừng ĐTC. Sau đó ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các linh mục và 30 chủng sinh và trao đổi quà tặng. Tiếp đến mọi người tiến ra sân thể thao, nơi có 1.500 người gồm các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh hiện diện.

Ngỏ lời chào mừng ĐTC Linh Mục Toma Adly, giám đốc đại chủng viện, nói biến cố ĐTC thăm đại chủng viện biểu tượng cho sự thánh hiến giống như biến cố Chúa Giêsu đã hiện ra với hai tông đồ trên đường về làng Emmaus. Ngài xin ĐTC cầu nguyện cho các chủng sinh các tu sĩ và cho các vị có trách nhiệm đào tạo họ.

Sau đó mọi ngươi hát thánh vịnh 121: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Giavê, là Đấng đựng nên cả đất trời…”. Tiếp đến mọi người nghe tuyên đọc Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5 ghi lại giáo huấn của Chúa Giêsu: “Các con là ánh sáng thế gian…”

7 cám dỗ người sống đồi thánh hiến cần mạnh mẽ chống trả

Ngỏ lời với các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh ĐTC cám ơn họ về chứng tá, và tất cả những điều thiện ích họ thực hiện mỗi ngày trong các hoàn cảnh khó khăn. ĐTC khích lệ mọi người tin tưởng, làm chứng tá cho sự thật, gieo vãi và vun trồng mà không chờ đợi được gặt hái. Giữa biết bao nhiêu lý do khiến nản lòng và biết bao ngôn sứ của tàn phá kết án, giữa biết bao tiếng nói tiêu cực và tuyệt vọng các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là một sức mạnh tích cực, là ánh sáng và muối của xã hội Ai Cập, là đầu máy kéo con tầu đi tới đích. Họ là những người gieo vãi hy vọng, xây dựng các cây cầu, và là những người làm việc cho đối thoại và hoà hợp.

Nhưng điều này chỉ có thể nếu họ không nhượng bộ 7 loại cám đỗ sau đây: Thứ nhất, đừng để cho mình bị sự tuyệt vọng và bi quan yếm thế lôi cuốn, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân lành hướng dẫn đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi và suối nưóc mát, luôn tràn đầy sáng kiến và óc sáng tạo, biết ủi an ngay cả khi con tim mình bị thương tích, khổ đau vì con cái vô ơn. Lòng trung thành của chúng ta với Chúa không bào giò được tuỳ thuộc lòng biết ơn của con người.

Thứ hai, đừng liên tục than van, đổ lỗi cho người khác, cho các thiếu sót của các bề trên, cho các điều kiện của giáo hội hay xã hội, và thiếu tinh thần trách nhiệm. Trái lại, phải biết biến đổi mọi chướng ngại thành cơ may, chứ không phải biến mỗi khó khăn thành lời tố cáo. Ai lúc nào cũng than và là người không muốn làm việc.

Thứ ba, đừng bép xép và ganh tỵ gây thương tích cho người khác, thay vì trợ giúp người bé nhỏ lớn lên và vui mừng vì các thành công của các anh chị em khác. Ganh tỵ là một bệnh ung thư dần mòn giết chết cơ thể.

** Thứ bốn, đừng so sánh mình với người khác. Khác biệt diễn tả sự phong phú. Mỗi người là  duy nhất. So sánh khiến ta rơi vào thù hận hay kiêu căng, lười biếng và bị tê liệt. Phải biết tập sống sự khác biệt tình tình, các đặc sủng và ý kiến, trong lắng nghe và ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần.

Thư năm là cám dỗ của “chủ trương Pharaô”, nghiã là cứng lòng và khép kín đối với Chúa, cảm thấy mình cao hơn người khác, vênh vang đòi được phục vụ thay vì phục vụ.

Thư sáu là cám dỗ của cá nhân chủ nghĩa, như ngạn ngữ Ai cập có nói: “Tôi, và sau tôi là lụt hồng thuỷ”, chỉ biết nghĩ đến mình thay vì nghĩ tới tha nhân, và không hề xấu hổ. Giáo Hội là cộng đoàn và ơn cứu rỗi của một chi thể gắn liền với sự thánh thiện của tất cả mọi người.

Cám dỗ thứ bẩy là bước đi mà không có địa bàn và mục đích. Đánh mất đi căn tính của mình, “không là thịt cũng không là cá”. Sống với con tim chia rẽ và tinh thần thế tục, quên đi tình yêu đầu đời của mình. Không có căn tính rõ ràng người sống đời thánh hiến bước đi mà không có định hướng, thay vì hướng dẫn người khác thì bị lạc đường. Căn tính thật của các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là con cái Giáo Hội Ai Cập, có các gốc rễ cao quý cổ xưa, thành phần của Giáo Hội hoàn vũ, như một cây đâm rễ sâu duới đất và lớn lên trời.

Chống lại các cám dỗ này không dễ. Nhưng nếu đâm rễ sâu, ở lại trong Chúa Giêsu thì có thể chiến thắng chúng. Càng đâm rễ sâu trong Chúa, chúng ta càng sống động và phong phú. ĐTC đặc biệt đề cao cuộc sống đan tu, là kho tàng vô giá mà Giáo Hội Ai Cập đã cống hiến cho Giáo Hội. Ngài khích lệ các đan sĩ kín múc từ gương của thánh Phaolô ẩn tu, thánh Antonio và các Thánh Giáo Phụ sa mạc và các đan sĩ. ĐTC xin Thánh Gia che chở và chúc lành cho hàng giáo sĩ tu sĩ và chủng sinh và tín hữu toàn Giáo Hội tại Ai Cập, giúp họ chu toàn sứ mệnh là ánh sáng và muối men tại đây. Ngài xin Chúa ban cho họ nhiều hoa trái của Thánh Linh

Sau khi ban phép lành ĐTC từ giã mọi người để đi xe ra phi trường quốc tế Cairo cách đó 40 cây số đáp máy bay trở về Roma.

Lễ nghi giã biệt đã diễn ra tại phi trường lúc 16 giờ 45 giờ địa phương. Tổng thống Al Sisi đã tiếp đón ĐTC tại cửa vào khu vực dành cho thượng khách và vào phòng danh dự đàm đạo với ngài một lúc. ĐTC đã duyệt qua hàng chào danh dự, rồi chào từ biệt tổng thống trước khi lên thang máy bay.

Máy bay đã cất cách rời phi trường thủ đô Cairô của Ai Cập lúc sau 17 giờ và về tới Roma sau 3 giờ 30 phút bay. Từ phi trường Ciampino ĐTC đã đi xe về Vaticăng, kết thúc chuyến viếng thăm mục vụ Ai Cập hai ngày.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha sẽ đến Fatima như một người hành hương

Đức Thánh Cha sẽ đến Fatima như một người hành hương

FATIMA. LM Carlos Cabecinhas, Giám đốc Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, cho biết ĐTC Phanxicô sẽ đến Fatima như một người ”hành hương”, cầu nguyện với các tín hữu hành hương tại đây.

Cha Cabecinhas đã được HĐGM Bồ đào nha bổ nhiệm làm Tổng điều hợp viên cuộc viếng thăm của ĐTC tại Fatima trong hai ngày 12 và 13-5 tới đây, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ bắt đầu hiện ra tại đây ngày 13-5 năm 1917 với 3 mục đồng.

Hôm 10-2-2017, cha nói với với báo chí rằng chương trình chi tiết chuyến viếng thăm của ĐTC sẽ được công bố 2 tháng trước khi cuộc viếng thăm diễn ra. Ban tổ chức sẽ tôn trọng ý muốn rõ ràng của ngài và dành ưu tiên cho chiều kích tinh thần. Cha cho biết công việc tổ chức cùng với chính phủ Bồ đào nha đang tiến hành. ĐTC sẽ tới phi trường Monte Real và thẳng Fatima chứ không khởi sự từ thủ đô Lisboa.

Cũng liên quan đến Fatima, nữ tu Angelo Coelho, Phó thỉnh nguyện viên án phong chân phước cho chị Lucia, cho biết đã hoàn tất bộ hồ sơ dài 15 ngàn trang về Chị Lucia (1907-2005) để gửi về Bộ Phong Thánh ở Roma xin cứu xét.

Các tập hồ sơ gồm tất cả các bút tích, thư từ của chỉ Lucia, cũng như chứng từ của các nhân chứng về đời sống và các nhân đức của chị Lucia một trong 3 mục đồng đã được Đức Mẹ hiện ra năm 1917 và qua đời năm 2005 thọ 98 tuổi. Cuộc điều tra ở cấp giáo phận đã được khởi sự hồi năm 2008 sau khi ĐTC Biển Đức 16 chuẩn chước và cho mở án phong cho chị Lucia sớm hơn 2 năm, so với thời hạn phải đợi ít là 5 năm sau khi qua đời (Ecclesia 12-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha 29-01-2017

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha 29-01-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng 45 ngàn tín hữu trưa chúa nhật 29-1-2017, ĐTC giải thích và mời gọi mọi người sống tinh thần các Mối Phúc Thật.

Trong số các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô, có 3 ngàn thiếu nhi và thiếu niên thuộc Phong trào Công Giáo tiến hành ở Roma, họp thành đoàn ”lữ hành hòa bình” cùng với cha mẹ và các thầy cô của các em. Có hai em, một nam một nữ, đại diện các em, được lên đứng cạnh ĐTC tại cửa sổ của ở dinh Tông Tòa.

Bài huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng về 8 mối Phúc Thật được đọc lên trong phụng vụ thánh lễ chúa nhật hôm qua. Ngài nói:

”Phụng vụ chúa nhật này cho chúng ta suy niệm về các Mối Phúc (Xc Mt 5,1-12a), mở ra bài giảng trên núi, là Đại Hiến Chương của Tân Ước. Chúa Giêsu biểu lộ thánh ý Thiên Chúa muốn dẫn đưa nhân loại đến hạnh phúc. Sứ điệp này đã hiện diện trong các bài giảng của các ngôn sứ: Thiên Chúa gần gũi người nghèo và người bị áp bức, và Ngài giải thoát họ khỏi những kẻ ngược đãi. Nhưng trong bài giảng này, Chúa Giêsu theo một con đường đặc biệt: Ngài bắt đầu bằng từ ”phúc”, nghĩa là hạnh phúc; và tiếp tục với những chỉ dẫn về điều kiện để được phúc như vậy; và Chúa kết luận với một lời hứa. Lý do của mối phúc, tức là hạnh phúc không hệ tại điều kiện được yêu cầu – người có tinh thần thanh bần, người sầu muộn, đói khát sự công chính, bị bách hại – nhưng hệ tại lời hứa theo sau đó, cần đón nhận trong đức tin như một hồng ân của Thiên Chúa. Khởi hành từ một hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh để cởi mở đón nhận hồng ân của Thiên Chúa và đạt tới một thế giới mới, là nước được Chúa Giêsu loan báo. Đó không phải là một tiến trình tự động, nhưng là một hành trình cuộc sống theo Chúa, nhờ đó, thực tại bất hạnh và sầu muộn được nhìn trong một nhãn giới mới và được cảm nghiệm theo sự hoán cải của người thực hiện. Ta không thể là người có phúc nếu không hoán cải để có khả năng quí chuộng và sống những hồng ân của Thiên Chúa.

ĐTC nói tiếp:

”Tôi dừng lại ở đây nơi mối phúc thứ I: ”Phúc cho ai có tinh thần thanh bần, vì nước trời là của họ” (v.4). Người nghèo khó trong tinh thần là người đã đón nhận những tâm tình và thái độ của những người nghèo, họ không nổi loạn trong thân phận của họ, nhưng biết khiêm tốn, ngoan ngoãn, sẵn sàng đối với ơn của Chúa. Hạnh phúc của người có tinh thần thanh bần có hai chiều kích: trước tiên là đối với của cải, tiếp đến là đối với Thiên Chúa. Họ có thái độ điều độ đối với của cải vật chất: không nhất thiết phải từ bỏ chúng, nhưng có khả năng niếm hưởng điều thiết yếu, chia sẻ, có khả năng canh tân mỗi ngày thái độ kinh ngạc vì sự tốt lành của sự vật, không trở nên nặng nề trong sự ham hố tiêu thụ đen tối. Đối với Thiên Chúa, họ chúc tụng và biết ơn vì thế giới là một phúc lành và nơi nguồn gốc của thế giới này có tình yêu sáng tạo của Chúa Cha. Nhưng họ cũng cởi mở đối với Chúa, ngoan ngoãn đón nhận chủ quyền của Chúa, Đấng đã muốn thế giới cho tất cả mọi ngươi trong thân thận nhỏ bé và giới hạn của họ.

Người có tinh thần thanh bần là Kitô hữu không tín thác nơi bản thân, nơi những của cải giàu sang vật chất, không ngoan cố theo ý kiến riêng của mình, nhưng tôn trọng lắng nghe và vui lòng đón nhận quyết định của người khác. Nếu trong các cộng đoàn của chúng ta có nhiều người có tinh thần thanh bần, thì sẽ bớt có chia rẽ, đối nghịch và tranh luận! Sự khiêm tốn, cũng như đức bác ái, là một nhân đức thiết yếu để sống chung trong các cộng đoàn Kitô. Những người nghèo, theo nghĩa này của Tin Mừng, xuất hiện như những người giữ cho mục tiêu Nước Trời được luôn sinh động, họ cho thấy Nước Trời đã có mầm mống trong cộng đoàn huynh đệ, dành ưu tiên cho sự chia sẻ những gì mình sở hữu.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Xin Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương và là hoa trái đầu mùa của những người có tinh thần thanh bần, vì Mẹ hoàn toàn ngoan ngoãn đối với thánh ý Chúa, giúp chúng ta phó thác cho Thiên Chúa, giàu lòng xót thương, để Người ban cho chúng ta đầy tràn các hồng ân của Người, nhất là được dồi dào ơn tha thứ.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành, ĐTC nhắc nhở mọi người về Ngày Thế giới các bệnh nhân cùi. Ngài nói: ”Bệnh này tuy đã giảm bớt, nhưng vẫn còn bị coi là thuộc loại bệnh đáng sợ nhất và xảy ra nơi những người nghèo nhất và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Điều quan trọng là chiến đấu chống bệnh này, và chống cả nạn kỳ thị đối với các bệnh nhân. Tôi khuyến khích tất cả những người dấn thân cứu giúp và giúp các cựu bệnh nhân tái hội nhập vào xã hội và chúng ta cầu nguyện cho họ.”

ĐTC chào thăm tất cả các tín hữu hành hương từ Italia và các nước khác, các hiệp hội và các nhóm. Ngài tái bày tỏ sự gần gũi với dân chúng ở miền trung Italia đang còn chịu đau khổ vì hậu quả các trận động đất và những điều kiện khí hậu khó khăn. Ngài nói: 'Ước gì không thiếu sự nâng đỡ của các tổ chức và tình liên đới chung đói với các anh chị em chúng ta.'

Sau cùng ĐTC ngỏ lời với các em Công giáo tiến hành, thuộc các giáo xứ và các trường Công giáo ở Roma, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Giám quản hợp thành đoàn lữ hành hòa bình đến đây với khẩu hiệu ”Được bao bọc bằng hòa bình”. Ngài cám ơn các em và mời mọi người nghe sứ điệp hòa bình do hai thiếu nhi, một nam và một nữ, tuyên đọc, trước khi hai em thả hai con chim bồ câu bay đi.

G. Trần Đức Anh OP

 

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

Tương quan với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống

dtc-phanxico-nhan-nuoc-ngot-tin-huu-bieu-trong-buoi-tiep-kien-sang-thu-tu-19-10-2016

Trên thế giới ngày này có biết bao nhiêu người đói khát, không có thực phẩm và nước uống. Trợ giúp họ là một bổn phận luân lý, vì nó diễn tả các quyền nền tảng đại đồng của con người. Tương quan của chúng ta vói Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống.

ĐTC đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 19-10-2016.

Trong bài huấn ĐTC đã bắt đầu khai triển các việc thương xót đối với thân xác, trước hết là “cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống”. ĐTC nói:: Một trong các hậu quả của  cái gọi là “thoải mái” là việc dẫn đưa con người tới chỗ khép kín trong chính mình, thờ ơ với các đòi hỏi của tha nhân. Người ta làm mọi cách để lừa dối chúng bằng cách giới thiệu các mô thức sống phù du, biến mất sau vài năm, làm như thể cuộc sống của chúng ta là một mốt thởi thượng cần chạy theo và thay đổi theo mùa. Không phải thế. Cần tiếp nhận thực tại như nó là, và thường khi nó khiến chúng ta gặp các tình trạng cần cấp bách trợ giúp. Chính vì thế mà trong các công việc của lòng thương xót có  nhắc tới sự đói khát: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Ngày này có nhiều người đói khát lắm.

Biết bao lần các phương tiện truyền thông cho chúng ta biết tin tức liên quan tới các dân tộc khổ đau vì thiếu thực phẩm và nước uống, với các hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt đối với các trẻ em.

Trước vài tin tức và đặc biệt là trước vài hình ảnh, dư luận công cộng cảm động và thỉnh thoảng phát động các chiến dịch trợ giúp để kích thích tình liên đới. Các đóng góp quảng đại và nhờ đó có thể góp phần thoa dịu phần nào nỗi khổ đau của biết bao người. Hình thức bác ái này quan trọng, nhưng nó không liên lụy một cách trực tiếp. Trái lại, khi ra ngoài đường chúng ta gặp một người cần sự trợ giúp, hay khi có một người nghèo đến gõ cửa nhà chúng ta, thì rất khác, bởi vì tôi không đứng trước một hình ảnh, mà chính tôi bị liên lụy. Không còn có khoảng cách nào giữa tôi và người đàn ông hay người đàn bà đó nữa, nhưng tôi cảm thấy mình bị gọi hỏi. Sự nghèo khó trừu tượng không gọi hỏi chúng ta, nhưng khiến cho chúng ta suy tư, làm cho chúng ta than van; nhưng khi bạn trông thấy sự nghèo túng trên thịt xác một người nam, một người nữ, một trẻ em, điều này gọi hỏi bạn! Và vì thế cái thói quen mà chúng ta có là chạy trốn trước nguời nghèo, không tới gần họ, hay tô son đánh phấn một chút thực tại của các người nghèo với các thói quen của mốt thởi thượng biến mất. Bởi khi làm như thế là chúng ta xa rời thực tại đó. Trái lại, ở đây không còn có khoảng cách nào nữa giữa tôi và người nghèo khi tôi gặp họ.

Trong các trường hợp này, tôi phản ứng ra sao? Quay mặt nhìn đi nơi khác hay bỏ qua? Hay tôi dừng lại nói chuyện và lo lắng cho tình trạng của người ấy? Và nếu bạn làm điều này, thì sẽ không thiếu ai đó nói: “Ông này điên, nói chuyện với một người nghèo!”

Tôi có xem mình có thể tiếp đón người ấy một cách nào đó, hay tìm cách tự giải thoát một cách mau chóng nhất hay không? Nhưng có lẽ người ấy chỉ xin điều cần thiết thôi: một cái gì đó để ăn hay để uống. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút: có biết bao lần chúng ta đọc Kinh Lậy Cha, nhưng không thực sự chú ý tới các lời: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong Thánh Kinh, có một thánh vịnh nói rằng Thiên Chúa là Đấng “ban lương thực cho mọi sinh vật” (Tv 136,25). Kinh nghiệm đói rất gay go. Ai đã sống trong thời chiến tranh hay đói kém thì biết nó. Tuy nhiên, kinh nghiệm này lập lại mỗi ngày bên cạnh sự trù phú và phung phí thực phẩm. Các lời của tông đồ Giacôbê vẫn còn luôn luôn thời sự: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-17): họ không có khả năng làm  các công việc, sống bác ái, sống tình yêu.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Luôn luôn có ai đó đói khát và cần đền tôi. Tôi không thể nhường trách nhiệm cho ai khác. Người nghèo này cần đến tôi, cần sự giúp đỡ của tôi, cần lời nói của tôi, cần sự dấn thân của tôi. Chúng ta tất cả đều bị liên lụy trong điềy này. Đó cũng là giáo huấn của trang Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu khi trông thấy biết bao dân chúng  theo ngài từ nhiều giờ, nên xin các môn đệ: “Chúng ta có thể mua bánh ở đâu để họ có thể ăn?” (Ga 6,5). Và các môn đệ trả lời: “Không thể được, tốt hơn nên cho họ đi…”. Trái lại Chúa Giêsu nói với các ông: “Không. Các con hãy cho họ ăn đi” (Mc 14,16). Ngài khiến họ đưa cho Ngài ít chiếc bánh và cá họ có, chúc lành, bẻ ra và đưa cho các ông phân phát cho mọi người. Và ĐTC nói:

Đây là một bài học rất quan trọng cho chúng ta. Nó nói với chúng ta rằng sự ít ỏi mà chúng ta có, nếu chúng ta giao phó trong tay của Chúa Giêsu và chia sẻ nó với lòng tin, thì nó trở thành một sự giầu có tràn đầy.

Trong Thông điệp “Bác ái trong Chân lý” ĐTC Biển Đức XVI khẳng đinh rằng: “Cho kẻ đói ăn là một lệnh truyền luân lý đối với Giáo Hội, … Quyền có thực phẩm, cũng như có nước uống có một vai trò quan trọng đối với việc đạt các quyền khác… Vì thế cần chín mùi một ý thức liên đới duy trì thực phẩm và có nước uống như các quyền đại đồng của tất cả mọi người, không phân biệt, cũng không  kỳ thị” (s. 27). Chúng ta đừng quên các lời của Chúa Giêsu: “Thầy là bánh sự sống” (Ga 6,35), và “Ai khát hãy đến cùng Thầy” (Ga 7,37). Chúng là một khiêu khích đối với tất cả chúng ta là tín hữu, các lời này, một khiêu khích thừa nhận rằng tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đi ngang qua việc cho kẻ đói ăn cho kẻ khát uống, một Thiên Chúa đã mạc khải nơi Đức Giêsu gương mặt thương xót của Ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

ĐTC đã chào nhiều phái đoàn khác nhau.

Trong số các phái đoàn đến từ các nước  Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, ĐTC đã đặc biệt chào các linh mục giáo phận Orléans do ĐC Jacques Blaquart hướng dẫn. Ngài cũng chào các phái đoàn đến từ Anh quốc, Scotland, Ireland, Đan Mạch,  Phần Lan, Hoà Lan, Malta, Ghana,  Uganda, Nam Phi, Indonesia, Philippines, Nhật Bản,  Trung quốc, Singapore và Hoa Kỳ.

Trong các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào đặc biệt ca đoàn nhà thờ chính toà giáo phận Mainz, đông đảo bạn trẻ, các trẻ em giúp lễ và học sinh trường trung học Damme. Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu các giáo xứ Mogi Guaçu và Pereiras. ĐTC cầu chúc cuộc hành hương Roma trong Năm Thánh giúp họ sống ý thức Giáo Hội đại đồng và hăng say làm chứng tá cho lòng thương xót Chúa.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ĐTC nhắc tới lễ nhớ chân phước linh mục Popieluszko, tuyên uý Công đoàn Độc lập Liên Đới đã bị mật vụ Ba Lan bắt cóc và giết chết. Ngài là người đã đứng mũi chịu sào bệnh vực các công nhân và gia đình họ, bằng cách yêu cầu công lý, các điều kiện sống xứng đáng, tự do dân sự và tôn giáo cho họ. Khẩu hiểu mục vụ của ngài là lời thánh Phaolô nói với tín hữu Roma: “Đừng để cho sự dữ chiến thắng, nhưng hãy chiến thắng sự dữ với sự thiện” (Rm 12,21). ĐTC nói: Ước chi các lời này hôm nay đối với anh chị em và tất cả mọi gia đình và toàn dân Ba Lan là một thách đố giúp xây dựng trật tự xã hội công bằng trong việc kiếm tìm sự thiện phúc âm trong cuộc sống thường ngày.

Trong số các nhóm Hoà Lan ĐTC đặc biệt chào các chủng sinh tổng giáo phận Utrecht và các giáo phận Rotterdem và Breda, cũng như đại diện Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô Hoà Lan.

Trong số các đoàn hành hương Italia ngài chào tín hữu giáo phận Caltagirone do ĐC Calogeri Peri hướng dẫn về hành hương Roma nhân kỷ niệm 200 thành lập giáo phận; các trẻ em chịu phép Thêm Sức giáo phận Faenza-Modighiana, các tham sự viên khoá hội học do Đại học Thánh Giá tổ chức; giới trẻ Công giáo tiến hành giáo phận Brindisi-Ostuni;  các nữ tu Thánh Gioan Tẩy Giả về Roma dự lễ phong thánh Đấng sáng lập là cha Alfonso Maria Fusco; các sĩ quan trường huấn luyện Modena; và các thành viên của nhiều hiệp hội, trong đó có hiệp hội người tàn tật.

Nhắc tới lễ nhớ thánh Phaolô Thánh Giá sáng lập viên dòng các cha dòng Khổ Nạn hôm qua, ĐTC cầu chúc các bạn trẻ biết suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa để học biết tình yêu cao cả Chúa dành cho nhân loại; các người bệnh biết vác thánh giá kết hiệp với Chúa Kitô để được vơi nhẹ trong thử thách; và các cặp vợ chồng mới cưới biết dành thời giờ cầu nguyện để cuộc sống hôn nhân trở thành con đường hoàn thiện kitô. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

 

Đức Thánh Cha chủ sự canh thức Thánh Mẫu nhân dịp Năm Thánh

Đức Thánh Cha chủ sự canh thức Thánh Mẫu nhân dịp Năm Thánh

Đức Thánh Cha chủ sự canh thức Thánh Mẫu

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria, lắng nghe Lời Chúa, và đưa vào hành động cụ thể.

Đây là lời kêu gọi của ĐTC trong bài giảng tại buổi canh thức, đọc kinh Mân Côi, nhân dịp Ngày Năm Thánh dành cho các Hội đoàn và phong trào Thánh Mẫu, cử hành lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ bẩy, 8-10-2016, tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Đầu buổi canh thức, bức ảnh Đức Maria là phần rỗi của dân Roma đã được rước lên lễ đài, trên thềm Đền thờ Thánh Phêrô. Sau đó ĐTC và mọi người đã đọc và suy niệm mầu nhiệm mùa Mừng của kinh Mân Côi.

Trong bài suy niệm kết thúc, ĐTC đề cao ”Kinh Mân Côi, dưới nhiều khía cạnh, là một tổng hợp lịch sử lòng thương xót của Thiên Chúa được biến thành lịch sử ơn cứu độ cho tất cả những ai để cho mình được ơn thánh biến đổi. Các mầu nhiệm diễn ra trước chúng ta là những cử chỉ cụ thể trong đó hoạt động của Thiên Chúa được triển khai đói với chúng ta. Qua kinh nguyện và sự suy niệm cuộc đời sống Chúa Giêsu Kitô, chúng ta thấy lại khuôn mặt từ bi thương xót của Chúa đến gặp chúng ta trong những nhu cầu khác nhau của cuộc sống. Mẹ Maria đồng đành với chúng ta trong hành trình này, chỉ cho chúng ta thấy Con của Mẹ chiếu tỏa chính lòng thương xót của Chúa Cha”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Kinh Mân Côi không đưa chúng ta ra xa những bận tâm hằng ngày; trái lại, kinh này đòi chúng ta hãy hội nhập vào trong lịch sử hằng ngày để biến đón nhận những dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô giữa chúng ta. Mỗi lần chúng ta chiêm ngắm trong một lúc một mầu nhiệm trong đời sống của Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi nhìn nhận cách thức Thiên Chúa đi vào cuộc sống của chúng ta, để rồi đón nhận và theo Chúa. Như thế chúng ta khám phá ra con đường đưa chúng ta đi theo Chúa Kitô trong việc phục vụ anh chị em.”

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu thế nào là môn đệ của Chúa Kitô. Tuy được chọn từ đời đời để làm Mẹ, Mẹ Maria đã học cách trở nên môn đệ của Chúa. Hành động đầu tiên của Mẹ là đặt mình trong tư thế lắng nghe. Mẹ đã vâng phục khi được Sứ thần truyền tin và đã mở rộng tâm hồn đón nhận mầu nhiệm làm Mẹ Thiên Chúa…

”Nhưng lắng nghe mà thôi thì vẫn chưa đủ. – ĐTC nóii – Đó là bước đầu tiên, nhưng sau đó sự lắng nghe cần phải được diễn tả qua hành động cụ thể. Thực vậy, người môn đệ dành cuộc sống của mình để phục vụ Tin Mừng. Và vì thế, Mẹ Maria đã lên đường ngay đến nhà bà Elisabeth để giúp bà trong cảnh thai nghén (Xc Lc 1,39-56).. Trong mỗi giai đoạn của cuộc sống, Mẹ Maria đã diễn tả sự phong phú của lòng Chúa thương xót, đến gặp mỗi người trong những nhu cầu thường nhật.” (SD 8-10-2016)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Giáo Hội và đất nước Mexico chờ đón ĐTC Phanxicô

Giáo Hội và đất nước Mexico chờ đón ĐTC Phanxicô

Logo ĐTC viếng thăm Mexico

Trong các ngày từ 12 tới 18 tháng hai này ĐTC Phanxicô sẽ viếng thăm Mexico. Trong những ngày vừa qua HĐGM nước này đã cho biết sẽ phân phát 900,000 vé cho tín hữu tham dự các thánh lễ và các buổi gặp gỡ với ĐTC. Hiện nay Giáo Hội Mêxicô cần 160,000 thiện nguyện viên giúp tổ chức chuyến viếng thăm mục vụ này.

Từ Mexico phát xuất từ chữ Mexico là tên thổ dân Aztech gọi thủ đô của họ, và nó có nghĩa là “nơi thần chiến tranh Mexitli hay Mextli sống”. Trong quá khứ đây là vùng đất đã có nhiều nền văn minh kế tiếp nhau hiện hữu. Cách đây 11,000 năm đây là vùng đất có các dân tộc gốc á châu sinh sống về nghề săn bắn và hái trái cây. Nông nghiệp đã chỉ phát triển vào khoảng năm 9,000 trước công nguyên, việc trồng bắp đã chỉ bắt đầu vào năm 5,000 trước công nguyên, và các đồ gốm chỉ xuất hiện vào khoảng năm 2,500 trước công nguyên. Trong khi các nhóm dân tại miền bắc tiếp tục sống về săn bắn và hái trái, các nhóm sống ở miền nam đã nhờ nông nghiệp biến thành các xã hội tiến triển hơn.

Từ thế kỷ XII trước công nguyên cho tới khi người Tây Ban Nha xâm lăng Mêxicô đã là quê hương của các nền văn minh nổi tiếng như của người Olmechi (1.200-500 trước công nguyên); nền văn minh Teotihuacán (100 trước công nguyên tới 659 sau công nguyên); nền văn minh Zapotechi (200-700); nền văn minh Maya (200-900); nền văn minh Toltechi (1.000-1.200); nền văn minh Aztechi (1.200-1.500).

Năm 1517 ngưòi Tây Ban Nha do Francisco Hernandez de Cordoba chỉ huy từ Cuba đến bán đảo Yucatán. Năm 1518 Diego Velazquez de Cuéllar gửi 4 chiếc tầu do người cháu là Juan de Grijalva chỉ huy. Năm 1519 chuyến viễn chinh thứ ba do Hernan Cortez chỉ huy gặp bến tại Cozumel. Ban đầu người Tây Ban Nha được hoàng đế Montezuma của đế quốc Aztechi tiếp đón nồng hậu, nhưng sau đó họ bị người Tây Ban Nha tiêu diệt. Hai lãnh tụ cuối cùng của người Aztechi là Cuitláhuac, bị chết vì bệnh đậu mùa và Cuautémoc bị các bộ tộc thổ dân khác bỏ rơi và bị người Tây Ban Nha bắt và giết chết năm 1521. Mùa thu năm 1521 đế quốc Aztech sụp đổ. Sau hai năm rưỡi bị bao vây bởi  quân của người Tây Ban Nha đa số gốc Tlaxcalteca, thủ đô Tenochtitlán bị chiếm và chỉ nội trong vòng một năm người Tây Ban Nha kiểm soát toàn nước. Các vương quốc độc lập xin thần phục, và năm năm sau đó toàn dân Mexico nằm dưới ách cai trị của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, các nhóm thổ dân du mục vẫn tiếp tục kháng chiến, hầu như cho tới thế kỷ XX, khi người Yaquin thương lượng việc ân xá với quân đội Mehico.

Người Tây Ban Nha tới Mexico đem theo các nhà truyền giáo nổi tiếng như các linh mục tu sĩ  Vasco de Quiroga, Motolinía, Martin de Valencia, Bernardino de Sahagún, Diego de Landa, Junipero Serra, Sebastian de Aparicio và Bartolomé de Las Casas. Các vị đã hết sức bênh vực quyền của các thổ dân.

Sau khi Tenochtitlán thất thủ Hernan Cortes chiếm quyền, tự xưng là Tổng chỉ huy, và bắt đầu chinh phục một đế quốc rộng lớn bao gồm cả vùng California, Arizona, New Mexico và Texas ngày nay. Một số thành phố được thành lập như thành phố Mexico xây trên các đổ nát của Tenochtitlán, Guadalajara, Pueblà, Monterrey và Querétago. Từ năm 1535 có một phó vương cai trị Mexico. Trong thời gian này mẫu quốc Tây Ban Nha được phồn thịnh nhờ các mỏ vàng và bạc, và nông nghiệp trồng mía và cà phê của Mêxicô. Số các thổ dân giảm 80% vì các bệnh dịch và các vụ tàn sát. Khi người âu châu tới đây số các thổ dân là 20 triệu vào năm 1650 chỉ còn lại hơn 1 triệu. Ba thế kỷ thực dân 1521-1821 đã biến Mexico trở thành một quốc gia latinh, tây ban nha, công giáo và lai giống như chúng ta thấy ngày nay.

Vào đầu thế kỷ XIX có các cuộc nổi loạn khắp nơi bên Châu Mỹ Latinh trong đó có Mexico. Năm 1809 người hùng độc lập Melchor de Talamantes qua đời. Ngày 16 tháng 9 năm 1810 linh mục gốc Creol Miguel Hidalgo y Costilla chỉ huy một đạo binh gồm dân làng Dolores Hidalgo trong bang Guanajuato và các thổ dân chống lại chính quyền Tây Ban Nha đánh chiếm thành phố. Phong trào độc lập lan rộng. Người Creol tức các người da trắng nắm nền kinh tế địa phương liên minh với người lai giống và các thổ dân chống lại người Gachupines, tức người Tây Ban Nha sinh sống trong các thành thị và nắm quyền bính chính trị. Tuyên ngôn độc lập được ký lần thứ nhất năm 1813 và sau cùng ngày 28 tháng 9 năm 1821. Hiến pháp chào đời năm 1824.  Từ khi được thành lập như là quốc gia liên bang Mexico có tên gọi chính thức là các Bang hiệp nhất Mêxicô, cả khi Hiến Pháp năm 1824 dùng cả hai kiểu gọi. Hiến Pháp năm 1857 chính thức sử dụng tên gọi Cộng hoà Mexico, nhưng cũng dùng tên các Bang hiệp nhất Mexico.

Sau khi Texas tuyên bố độc lập và bị Hoa Kỳ sát nhập năm 1846, Mexico đòi lại vùng đất giữa Rio Grande và Rio Nueces. Thế là chiến tranh bùng nổ giữa Hoà Kỳ và Mexico và kéo dài cho tới năm 1848. Năm 1847 Hoa Kỳ chiếm thành phố Mexico. Cuộc chiến chấm dứt với thỏa hiệp Guadalupe Hildago. Mêxicô phải thừa nhận Rio Grande như biên giới với Texas. Ngoài ra còn phải nhượng cho Hoa Kỳ 40% đất đai của mình rộng khoàng  2 triệu cây số vuông bao gồm các tiểu bang California, New Mexico, Arizzona, Nevada, Utah và phần lớn Colorado và Wyoming.

Vào đầu thế kỷ XIX tình trạng bất công xã hội làm nảy sinh ra nhiều cuộc nổi loạn và nội chiến, và bạo lực kéo dài cho tới năm 1930. Trong các năm 1926-1929 chính quyền thi hành chính sách bách hại, tịch thu tài sản của Giáo Hội, đóng cửa các trường học, giải tán các dòng tu, ngăn cản ngươi trẻ đi tu, tước đọat quyền bỏ phiếu của các linh mục tu sĩ, và bắt bỏ tù các cha mẹ rửa tội cho con, hay những người trẻ nào muốn sống đời tu trì. Đã có nhiều tu sĩ nam nữ và giáo dân bị giết vì đức tin. Thế giới công giáo ban đầu chỉ biểu tình phàn đối với các vụ thu thập chữ ký, sau đó thành lập “Liên minh quốc gia bào vệ tự do tôn giáo”. Sau khi thấy chính quyền công khai bách hại Giáo Hội, một số tín hữu bắt đầu chiến đấu võ trang với khẩu hiệu “Hoan hô Chúa Kitô Vua”. Chính quyền thẳng tay đàn áp những người chống đối. Năm 1929 khi thấy không thành công, chính quyền ký một thỏa hiệp với Giáo Hội thừa nhận tự do tôn giáo, nhưng nhiều chiến sĩ không chấp nhận và tiếp tục chiến đấu 10 năm sau đó. Về phiá mình chính quyền đã không bao giờ tôn trọng các cam kết và vẫn tiếp tục xử tử tất các các thành phần chống đối. Và các luật bài giáo sĩ vẫn hiệu lực. 

Hiện nay Cộng hòa Mexico rộng hơn 1 triệu 970 cây số vuông, đứng hàng thứ 14 trên thế giới, có hơn 117 triệu dân và là quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha đông người nhất. Sau Brasil Mêhicô cũng là quốc gia châu Mỹ Latinh đông dân nhất, gồm 60% người lai giống, con cháu của người âu châu, nhất là của người Tây Ban Nha, và các thổ dân. Người Amerindi thuộc nhiều vương quốc thổ dân như Maya xưa kia,  chiếm 20%. Có 16% dân gốc âu châu nhất là Tây Ban Nha, nhưng cũng có người Italia, Pháp, Đức, Ba Lan, Nga và Anh. Số còn lại gồm các người Da đen, Do thái, A rập, Thổ nhĩ kỳ, Tầu và Nhật. Cũng có các người đến từ nhiều nước châu Mỹ Latinh khác như Argentina, Guatemala, Colombia, Cuba và Perù. Họ là những người tỵ nạn trốn chạy các cuộc nội chiến và các chế độ độc tài của thập niên 1980. Trong thế kỷ XIX các cộng đoàn gốc âu châu và á châu là các cộng đoàn tiêu biểu nhất, nhưng trong thế kỷ XX các cộng đoàn gốc Hoa Kỳ và châu Mỹ Latinh nổi bật nhất. Mêhicô là nước có nhiều công dân Hoa Kỳ sống ngoài nước nhất. Lý do là vì các liên lạc thương mại ngày càng quan trọng hơn giữa hai nước, đặc biệt là sau các thỏa hiệp tự do thương mại Mexico ký kết với Hoa Kỳ và Canada viết tắt là NAFTA, bắt đầu có hiệu lực từ năm 1994. Ngoài ra người Mỹ coi Mexico là nơi nghỉ ngơi lý tưởng giúp tránh cuộc sống xô bồ cuồng nhiệt, đặc biệt tại San Miguel và các nơi khác trong vịnh California. Ngày xưa Mexico có 200 chủng tộc thổ dân  khác nhau, nhưng nay chỉ còn lại 62, có gốc gác từ thời tiền thực dân. Từ tiểu bang Sinaloa cho tới tiểu bang  Chiapas có 10 triệu thổ dân sinh sống.

Trên bình diện tín ngưỡng 83,9% dân Mexico theo Công Giáo, tín hữu Tin Lành chiếm 7.6%, các tôn giáo khác chiếm 2..5% và có .4,6% không theo tôn giáo nào. Một số người Amerindi tuy tuyên bố theo Công Giáo nhưng trên thực tế họ thực hành một tôn giáo pha trộn Kitô giáo với vài yếu tố của các tín ngưỡng cổ truyền của người Aztech và Maya. Trong khi giáo phái tin lành Mormon đang lan tràn trong các thành phố chính vùng biên giới đông bắc. Do thái giáo đã hiện diện tại Mexico từ bao thế kỷ qua và hiện có khoảng 100 ngàn tín hữu. Còn có một tín ngưỡng ít được biết đến nhưng phổ biến tại Mexico, cũng như tại Trung Mỹ Latinh và miền nam Hoa Kỳ đó là Sự chết thánh.

Từ nhiều thập niên qua số tín hữu công giáo giảm sút từ 98.21% trong năm 1950 xuống 88% năm 2000, và hiện nay là 83.9%.

Trên bình diện ngôn ngữ không có thứ tiếng nào được chỉ định là tiếng nói chính. Tuy nhiên, tiếng Tây Ban Nha và các thứ thổ ngữ tại Mexico cũng như của các nhóm dân da đỏ khác sinh sống tại Mexico được thừa nhận. Tiếng Tây Ban Nha là tiếng nói được sử dụng trong các sinh hoạt chính thức vì được mọi người sử dụng. Tuy nhiên có 7% tổng số dân nói một thứ tiếng Amerindia. Chính quyền Mexico thừa nhận 62 thổ ngữ Amerindie, trong đó có hai thổ ngữ đông người nói nhất là Nahuatl và Maya, mỗi thổ ngữ có khoảng 1.5 triệu người sử dụng. Chính quyền Mexico đã phát huy các chương trình song ngữ Tây Ban Nha và một thổ ngữ tại các vùng quê thổ dân. Trong các thành phố lớn tiếng Anh cũng thông dụng và đang trở thành ngôn ngữ được giởi trẻ sử dụng và được dậy trong các trường tư.

Xã hội Mexico hiện đang phải đương đầu với nhiều vấn đề, trong đó có nạn gian tham hối lộ, bất công xã hội, bạo lực, các tổ chức tội phạm buôn bán ma tuý, buôn người. Các giới chức chính quyền thường vào hùa với các tổ chức đa quốc ăn cướp đất đai của các thổ dân, để khai thác các quặng mỏ, gây ô nhiễm môi sinh  và đẩy các thổ dân vào cảnh sống bần cùng vì không còn đất đai canh tác. Điển hình là vụ thổ dân Chimalapas cùng với nhiều tổ chức phi chính quyền đã yêu cầu chính quyền Mexico can thiệp để cứu vãn môi sinh trong vùng Santa Maria và San Miguel rộng 600 ngàn héc ta, là đất của thổ dân Zoque, chống lại các doanh thương và các tổ chức đốn gỗ từ bang Chiapas và Veracruz đang xâm lấn vùng này. Đây là vùng sinh sống của 146 loài động vật có vú, 140 loại bò sát, 316 loại chim và 900 loại bướm khác nhau. ĐC Arturro Lona Reyes, nguyên giám mục Tehuantepec, sống trong vùng rừng này giữa thổ dân Chimalapas, đã nhiều lần than phiền về sự thờ ơ của chính quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của các thổ dân. ĐC nói “chính quyền chỉ can thiệp sau khi đã xảy ra các vụ đổ máu, và chỉ đến đốt nến cho người đã chết”.

Trong thông cáo công bố ngày 28 tháng giêng HĐGM Mêxicô cho biết cuộc gặp gỡ của ĐTC với các cộng đoàn thổ dân ngày 15 tháng hai tại San Cristobal de las Casas là việc viếng thăm toàn cộng đoàn giáo hội thổ dân và người lai giống, cả khi ưu tiên cho các thổ dân thường bị lãng quên. ĐGH không đến để ủng hộ nhóm xã hội nào cả, nhưng để xây các cây cầu và đạp đổ các bức tường ngăn cách, khích lệ việc hội nhập nhân bản và kitô, của người giầu và người nghèo, của những người sống đức tin một cách truyền thống hơn và của những người lãnh nhận nó với chiều kích xã hội gắn liền. Giáo phận San Cristobal de las Casas là một trong những giáo phận nghèo và bị gạt bỏ ngoải lề nhất Mêxicô, tuy có cố gắng của chính quyền, các tổ chức xã hội, các doanh thương liên đới và chính các thổ dân nhằm cải thiện các điều kiện sống của dân chúng đặc biệt trong lãnh vực y tế, giáo dục, nhà cửa và điện nước. Tuy có việc thừa nhận Mexico là một quốc gia đa văn hóa năm 1992, và việc cải cách Hiến Pháp năm 2001, nhưng 62 bộ lạc thổ dân gồm 11 triệu người vẫn chưa có một tổ chức chính trị, chưa có đất đai và cuộc sống và nền văn hóa của họ chưa được chú ý đủ. Các Giám Mục hy vọng chuyến viếng thăm của ĐTC huy động được tình liên đới của mọi người đối với thực tại sống khó khăn của các cộng đoàn thổ dân.

Ngày 26 tháng giêng Tổng giáo phận thủ đô Mexico cũng ra thông cáo mạnh mẽ khẳng định rằng “các thổ dân cần công lý và việc thừa nhận các quyền lợi của họ. Họ phải sống trong cảnh bần cùng và bị khinh miệt. Các giới chức chính quyền lợi dụng họ để mưu lợi và có các đường lối chính trị nhằm duy trì các kỳ thị, vi phạm quyền con người và thái độ cha chú, sử dụng họ cho các mục đích kiếm phiếu.”

Trong cuộc họp mục vụ tại Ciudad Altamirano, các Giám Mục các giáo phận Chilapa-Chilpancingo, Acapulco, Tlapa và Ciudad Altamirano khẳng định rằng “bang Guerrero và nước Mêxicô sẽ luôn luôn có bầu khí bạo lực vì cảnh bất công khiến cho người dân tuyệt vọng nổi loạn sử dụng bạo lực”. Ngày 19 trước đó đã có nhiều vụ báo thù khiến cho 10 người chết.

Ngoài ra, sự kiện chính quyền Mexico thừa nhận hôn nhân của các cặp đồng phái và cho phéo phá thai trong 12 tuần đầu cũng là những thách đố luân lý đối với Giáo Hội.

LinhTiến Khải – Vatican Radio

Di hài Thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

Di hài Thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

Di hài thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

ROMA. Di hài hai vị thánh nổi bật về sứ vụ giải tội sẽ được đưa về Roma cho các tín hữu kính viếng nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Đó là Cha Thánh Piô (1877-1968) và thánh Leopoldo Mandic (1866-1942) gốc Croát, cả hai đều thuộc dòng Phanxicô Capuchino. Theo ý muốn của ĐTC, di hài hai vị thánh sẽ được đưa về Đền thờ Thánh Phêrô, trong dịp ngài cử hành thánh lễ đồng tế trọng thể vào ngày thứ tư lễ tro, 10-2 tới đây, với các thừa sai Lòng Thương Xót.

Di hài hai thánh sẽ được di chuyển khoảng 400 cây số từ thành Padova bắc Italia và từ San Giovanni Rotondo nam Italia về Vương cung thánh đường thánh Lorenzo chiều ngày 3 tháng 2 tới đây. Thánh đường này được giao cho các cha dòng Capuchino coi sóc. Chiều ngày 5-2, di hài hai thánh sẽ được rước về Đền thờ Thánh Phêrô

Sáng thứ bẩy, 6-2, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC sẽ tiếp kiến chung các tín hữu thuộc gần 2,500 nhóm cầu nguyện của Cha Piô, các nhân viên Bệnh viện “Nhà Thoa dịu đau khổ” do Cha Thánh Piô thành lập, cùng với các tín hữu thuộc tổng giáo phận Manfredonia – Veste – San Giovanni Rotondo, nơi thánh nhân đã sinh sống và hoạt động.

Sáng thứ ba 9-2, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế với các tu sĩ Capuchino toàn thế giới, một dòng hiện có hơn 10,600 tu sĩ.

Thứ tư lễ tro 10-2, trong thánh lễ đồng tế trọng thể tại Đền thờ thánh Phêrô, ĐTC sẽ ủy thác cho khoảng 1 ngàn vị Thừa sai lòng Thương Xót sứ mạng trở thành ”dấu chỉ lòng thương yêu từ mẫu của Giáo Hội đối với Dân Chúa.. Các thừa sai này sẽ được các GM sai đi các nơi trong các giáo phận thuộc quyền để linh hoạt dân Chúa và thi hành các sáng kiến liên quan đến Lòng Thương Xót, giải tội, giải vạ.

Sáng thứ năm 11-2, sau thánh lễ do Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, chủ sự, di hài hai vị thánh sẽ được đưa về nơi an nghỉ của các ngài. (SD 4-1-2016)

G. Trần Đức Anh OP, Vatican Radio

ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Gíáo viếng thăm Bangladesh

ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Gíáo viếng thăm Bangladesh

ĐHY Fernando Filoni

RAJSHAHI: Trong các ngày 9-13 tháng 9 ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưỏng Bộ Truyền Giáo viếng thăm mục vụ Bangladesh, nhân dịp giáo phận Rajshahi mừng 25 năm thành lập.

Giáo phận Rajshahi được thành lập ngày 21 tháng 5 năm 1990. Linh Mục Dilip Costa, giám đốc Hiệp hội truyền giáo quốc gia cho biết giáo phận có 64 ngàn tín hữu trên tổng số 18 triệu dân, 65% thuộc chủng tộc Adivasi, đa số sống bên lề xã hội và tại các vùng quê, 35% thuộc chủng tộc Bengala. ĐHY sẽ chủ sự các thánh lễ và gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh cũng như giáo dân.

Cha Costa cũng cho biết công tác truyền giáo tại đây đã do các thừa sai Hội truyền giáo nước ngoài Milano, gọi tắt là PIME, bắt đầu hồi đầu thế kỷ XX. Rajshahi là thành phố lớn thứ tư sau Dhaka, Chittagong và Khulna. Cách đây 40 năm nữ tu Silvia Gallina, bề trên các nữ tu dòng Đức Maria Bé Thơ từ Andharkhota đã đến Rajshahi để phân phát phẩm vật cứu trợ và săn sóc người bệnh. Sau đó chị cùng hai nữ tu khác ở lại luôn trong vùng. Cộng đoàn kitô từ từ thành hình từ đó. Hiện nay giáo phận có 16 giáo xứ, mỗi giáo xứ đều có trường tiểu học, và các trường trung học thu nhận học sinh thuộc mọi tôn giáo không phân biệt ai. Giáo dục và phát triển nhân bản thuộc công cuộc rao truyền Tin Mừng và là một ưu tiên trong hoạt động của giáo phận. Các sáng kiến phát triển khác trong lãnh vực kinh tế, nông nghiệp và chăn nuôi do các dòng tu, hiệp hội và tổ chức công giáo đảm trách qua các dự án cho vay vốn nhỏ (FIDES 8-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày 18-6-2015: công bố Thông điệp mới của Đức Thánh Cha

Ngày 18-6-2015: công bố Thông điệp mới của Đức Thánh Cha

VATICAN. Thông điệp mới của ĐTC Phanxicô về việc bảo vệ môi sinh sẽ được công bố trong cuộc họp báo ngày thứ năm, 18-6-2015, tới đây tại Vatican.

Thông điệp mang tựa đề ”Laudato sí, sulla cura della casa comune” (Chúc tụng Chúa, về việc săn sóc căn nhà chung).

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo tại Hội trường Thượng HĐGM thế giới ở nội thành Vatican có ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Đức TGM John Zizioulas, của giáo phận Pergamo, đại diện tòa Thượng Phụ chung và Giáo Hội Chính Thống, Giáo sư John Schellnhuber, Sáng lập viên kiêm Giám đốc Viện Postdam nghiên cứu về ảnh hưởng khí hậu.

Văn bản Thông điệp sẽ được phổ biến bằng các thứ tiếng: Ý, Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha (trên giấy và dưới dạng điện tử).

Mặt khác, trong cuộc họp 9 Hồng y cố vấn của ĐTC sáng ngày 10-6-2015, Cha Michael Czerny, thuộc Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã thông báo cho các Hồng Y về việc chuẩn bị công bố thông điệp về việc bảo vệ môi sinh.

Theo ý muốn của ĐTC, trong thời gian qua, đã có một số điện thư (email) được gửi đến các vị Bản quyền trên thế giới kèm theo lá thư của ĐHY Turkson, để thông báo về việc sắp công bố Thông điệp, và chuyển một số tài liệu liên quan đến giáo huấn từ trước đến nay của ĐTC Phanxicô về việc bảo vệ môi sinh và gợi ý cho các vị để giải thích, phản ứng và bình luận về Thông điệp mới của ĐTC. Việc công bố này được coi là một biến cố quan trọng trong đời sống Giáo Hội hoàn vũ, trong niềm hiệp thông với ĐTC (SD 10-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Giáo Hội phải ”nói thẳng nói thật”

Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Giáo Hội phải ”nói thẳng nói thật”

VATICAN. Giáo hội phải có can đảm nói thẳng trong tự do.

Đó là lời ĐTC Phanxicô khẳng định trong bài giảng thánh lễ sáng ngày 13-4-2015, tại Nguyện đường Nhà trọ thánh Marta ở Roma. Ngài chú giải bài đọc thứ nhất trong phụng vụ ngày lễ về lời quả quyết của thánh Phêrô và Gioan sau khi bị cầm tù và bị những thượng tế đe dọa, cấm cản không cho các vị nói nhân dân Chúa Giêsu. ĐTC nói:

”Ngày nay sứ điệp của Giáo hội cũng là sứ điệp của hành trình thảng thắn, con đường can đảm theo tinh thần Kitô. Như Kinh Thánh đã nói: hai môn đệ đơn sơ, ít học, đã có can đảm. Lời để dịch từ can đảm, chính là thẳng thắn, nói tự do, không sợ nói sự thật.”

ĐTC cũng giải thích rằng ”chính sự can đảm loan báo như thế là điều phân biệt chúng ta với những kẻ chiêu dụ tín đồ. Chúng ta không quảng cáo, để thu thập thêm những người gia nhập hội tinh thần của chúng ta. Điều mà Kitô hữu làm, chính là loan báo một cách can đảm, loan báo Chúa Giêsu Kitô nhờ Thánh Linh.. Chính Thánh Linh ban sức mạnh cho những người đơn sơ, ít học, như Phêrô và Gioan, sức mạnh can đảm loan báo Chúa Kitô cho đến chứng tá cuối cùng, là cuộc tử đạo” (SD 13-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gửi 200 gia đình đi truyền giáo

Đức Thánh Cha gửi 200 gia đình đi truyền giáo

VATICAN. Sáng ngày 6-3-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 7 ngàn thành viên Con đường Tân Dự tòng và gửi thêm 31 đoàn truyền giáo cho dân ngoại, tổng cộng là 200 gia đình với 600 người con.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô 6 có hơn 20 HY và GM thuộc các giáo phận nơi có các thành viên Con đường Tân Dự Tòng, cùng với 2 người sáng lập là Ông Kiko Arguello, bà Carmen Hernández và Cha linh hướng, Mario Pezzi.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhìn nhận Con đường Tân Dự Tòng là một thiện ích lớn lao trong Giáo Hội. Ngài cám ơn và đề cao tinh thần truyền giáo của các thành viên Con đường này. Nhiều gia đình sẵn sàng từ bỏ mọi sự, cùng với con cái ra đi truyền giáo, theo lời mời gọi của các GM. Mỗi đoàn truyền giáo gồm có 1 LM và 4 hoặc 5 gia đình. Họ đến sống tại những vùng đã xa rời đức tin Kitô hoặc chưa được nghe loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến độ đã hiến Con của Ngài để ban cho chúng ta ơn được hiến mạng cho tha nhân.

ĐTC nói: ”Thế giới ngày nay rất cần sứ điệp cao cả này. Bao nhiêu cô đơn, bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu xa cách Thiên Chúa tại bao nhiêu khu vực ngoại ô của Âu Châu và Mỹ châu, cũng như tại bao nhiêu thành thị ở Á châu! Con người ngày nay ở mọi góc trời, rất cần được nghe biết Thiên Chúa yêu thương họ và tình yêu là điều có thể! Nhờ các gia đình thừa sai của anh chị em, các cộng đồng Kitô có nghĩa vụ thiết yếu là làm cho sứ điệp ấy trở nên cụ thể, hữu hình”.

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã làm phép các thánh giá mà các gia đình thừa sai cầm trong tay, rồi ngài trao các thánh giá cho 33 LM quì gối để lãnh nhận. Các vị tháp tùng các gia đình trong các đoàn thừa sai mới.

Con đường Tân Dự Tòng được thành lập năm 1967 do Ông Kiko Arguello và Bà Carmen Hernández tại Madrid, Tây Ban Nha. Trong năm 2015 này có 21 ngàn cộng đoàn tại 124 quốc gia 5 châu, thuộc gần 1,500 giáo phận trong hơn 6,300 giáo xứ.

Con đường này cũng có 103 đại chủng viện giáo phận thừa sai Mẹ Đấng Cứu Chuộc với hơn 2,300 đại chủng sinh giáo phận đang chuẩn bị tiến lên chức linh mục; hơn 2,200 linh mục giáo phận đã xuất thân từ các đại chủng viện đó, hơn 1,100 gia đình với 4,600 con cái đang hiện diện ở 5 châu.

Ngoài ra có 96 đoàn truyền giáo cho dân ngoại với 487 gia đình và 2087 người con, đông nhất là 58 đoàn tại Âu Châu, 9 tại Mỹ châu, 25 tại Á châu, 1 tại Phi châu và 3 tại Úc châu.

Trong buổi tiếp kiến 8 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng ngày 1-2 năm 2014, có 414 gia đình được ĐTC Phanxicô sai đi hoạt động trong đó có 174 gia đình shuộc 40 đoàn truyền giáo cho dân ngoại, thêm vào số 52 cứ điểm đã hiện hữu. (SD 6-3-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tôn phong hiển thánh đầu tiên của Sri Lanka

Đức Thánh Cha tôn phong hiển thánh đầu tiên của Sri Lanka

COLOMBO. Sáng ngày 14-1-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự lễ tôn phong cha Joseph Vaz, tông đồ tại đảo Tích Lan, lên bậc hiển thánh, trước sự hiện diện của hơn nửa triệu tín hữu tại thủ đô Colombo của Sri Lanka.

Lúc 7 giờ rưỡi, ĐTC đã rời tòa sứ thần Tòa Thánh để ra công viên Galle Face Green cách đó 2 cây số rưỡi. Công viên này ở trung tâm khu vực tài chánh của thủ đô Colombo, trải dài 5 cây số dọc theo bờ biển. Cũng tại nơi đây, cách đây 20 năm, ngày 21-1 năm 1995, Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã chủ sự thánh lễ trọng thể lúc 10 giờ sáng trước sự hiện diện của 300 ngàn tín hữu, để tôn phong Cha Joseph Vaz lên bậc chân phước.

Đến công viên, ĐTC Phanxicô đã dùng xe díp tiến qua các lối để để chào thăm hơn 500 ngàn tín hữu tụ tập tại đây. Nhiều người phải đứng ở ngoài vòng đai công việc. Họ từ các nơi trên toàn quốc về đây, cả những vùng xa xăm ở miền bắc Sri Lanka với đa số dân là người Tamil. Hàng ngàn người đã đến đây từ chiều hôm trước và ngủ đêm tại chỗ để sẵn sàng dự lễ.

Chính phủ cũng giúp đỡ các tín hữu bằng cách cho hằng trăm xe bus của Nhà Nước đến các giáo xứ để chở những tín hữu muốn tham dự về thủ đô Colombo. Thêm vào đó, theo lệnh của bộ trưởng giao thông Sri Lanka, có 22 chuyến xe lửa đặc biệt và giá vé được giảm bớt 50% để tạo điều kiện cho các tín hữu có thể về thủ đô Colombo. Trong số hàng trăm ngàn người tham dự thánh lễ, đặc biệt có 1 ngàn tín hữu từ giáo phận Goa bên Ấn độ là giáo phận nguyên quán của thánh Joseph Vaz. Ngoài ra, chính quyền cũng huy động 28 ngàn nhân viên cảnh sát và an ninh để giữ trật tự trong những ngày ĐTC viếng thăm.

Đến gần nhà thánh, trước khi mặc áo lễ, để cử hành thánh lễ, ĐTC đã được ông đô trưởng thành Colombo chào đón và trao tặng chìa khóa của thành phố.

Trước lễ đài, ĐTC đã được một đoàn vũ của Sri Lanka, gồm cả nam lẫn nữa, chào đón qua những điệu vũ cổ truyền. Họ cũng trình diễn các vũ điệu trong một số phần của thánh lễ.

Trước lễ đài cũng có chỗ danh dự có mái che cho tân tổng thống Serena, một phật tử.

Đồng tế với ĐTC không những có 20 GM Sri Lanka, các vị thuộc đoàn tùy tùng, nhưng có thêm 4 HY từ Ấn độ, hàng chục GM thuộc các nước Á châu, kể cả Việt Nam, 1.100 linh mục. Ngoài ra có cả LM Cosme Jose Costa, 76 tuổi, thuộc giáo phận Goa bên Ấn độ, là người đã được phép lạ của thánh Joseph Vaz hồi năm 1938, khi mẹ ngài mang thai cha đến tháng thứ 7 bà bị băng huyết trầm trọng, nhưng cha Costa đã chào đời bình an nhờ mẹ và những người thân cầu xin cha Vaz cứu giúp.

Trong số các ca viên thuộc các ca đoàn đảm trách phần thánh ca, đặc biệt có nhiều bạn trẻ nghèo, được chọn từ các giáo phận trên toàn quốc.

Trong nghi thức phong hiển thánh, sau bài ca xin ơn Chúa Thánh Thần, Đức Cha Joseph Vianney Fernando, GM Kandy nơi cha Joseph Vaz qua đời, đã xin ĐTC cử hành việc phong hiển thánh cho cha. Rồi Đức Cha Sebastião do Rosarío Ferrão, TGM giáo phận Goa bên Ấn độ, đã tóm lược tiểu sử của cha:

Tiểu sử thánh Joseph Vaz

Cha Joseph Vaz sinh năm 1651 tại làng Benaulim thuộc lãnh thổ giáo phận Goa bên Ấn Độ, song thân là người Bồ đào nha. Tốt nghiệp trung học, Joseph Vaz gia nhập chủng viện và năm 1676, và năm 25 tuổi, thầy Vaz thụ phong linh mục.

Trong những năm đầu, tân linh mục chưa nhận được bài sai đặc biệt nào, nên đã xin về hoạt động mục vụ tại Sancoale, nơi gia đình song thân sinh sống. Nhờ khiếu giảng thuyết và lòng nhiệt thành hoạt động tông đồ, nhất là ban phát bí tích hòa giải, chẳng bao lâu sau, danh tiếng của vị linh mục trẻ lan rộng. Cha Vaz còn mở một trường dạy tiếng la tinh ở Sancoale để giúp đỡ các bạn trẻ muốn đi tu.

Một năm sau ngày chịu chức, cha Vaz dâng một thánh lễ trọng thể tại nhà thờ Đức Bà phù Trợ ở Sancoale, trong đó, cha long trọng dâng hiến đời mình làm tôi tớ của Mẹ Maria. Hiện nay, bức thư do chính cha viết trong dịp đó vẫn còn được lưu giữ. Cha Vaz cũng quy tụ một nhóm linh mục khao khát sống đời khổ hạnh thành một hội dòng được Đức Giám Mục sở tại chấp thuận và chuẩn y luật dòng, đồng thời cha được bầu lên làm bề trên tiên khởi của dòng mang tên là giảng thuyết của thánh Philiphê Neri.

Cũng trong thời gian này, cha Vaz được tin Giáo Hội Công Giáo tại Tích Lan không có người chăm sóc từ 50 năm trước đó, nghĩa là từ ngày quân Hòa Lan theo phái Tin Lành cải cách chiếm đóng vùng này. Lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy cha Vaz từ bỏ nhiệm vụ bề trên để xin đi truyền giáo tại Tích Lan, mặc dù nhà cầm quyền Hòa Lan cấm cách. Giả dạng một người hành khất, cha Vaz mấy lần tìm cách lén vào lãnh thổ Tích Lan nhưng mãi đến dịp lễ Phục Sinh năm 1867, cha mới lên được con tàu đưa sang bán đảo Jaffna, tây bắc Tích Lan, thành lũy kiên cố của quân đội Hòa Lan thực dân. Được một gia đình Công Giáo tiếp đón và chở che, cha bắt đầu tìm kiếm và thu thập các tín hữu Công Giáo. Chính quyền thực dân Hòa Lan đánh hơi thấy sự lạ giữa cộng đồng Công Giáo, nên ra sức lùng bắt vị linh mục này. Mấy lần cha bị chặn xét, nhưng nhờ tài cải trang, cha được họ thả cho đi. Sự hiện diện của cha tại Jaffna trở thành một nguy hiểm đe dọa cả tính mạng của cha lẫn gia đình thân quyến của người dám chứa chấp cha. Vì thế cha buộc lòng phải dời sang Sillalai, một thị trấn toàn người Công Giáo phụ cận Jaffna. Từ đó cha mở rộng hoạt động mục vụ sang các thị trấn gần đó.

Mùa Giáng Sinh năm 1689, viên tư lệnh quân đội Hòa Lan âu lo vì sức sống đạo của tín hữu Công Giáo đang được phục hồi nên quyết lòng lùng bắt cha Vaz, nhưng không thành công. Từ Sillalai, cha Vaz sang thành Puttalam, nơi có hơn 1000 tín hữu từ hơn 50 năm chưa bao giờ được thấy linh mục nào. Cha đến vương quốc Kandy trong vùng Puttalam, với hy vọng xin quốc vương tại đây cho phép tự do đi lại thăm viếng các tín hữu nơi đây. Nhưng vì lời dèm pha của một người Hòa Lan theo Tin Lành Cải Cách, nên cha Vaz cùng hai người Công Giáo khác bị bắt giam. Cha lợi dụng ngay thời gian bị giam cầm để học tiếng bản xứ và soạn thảo một cuốn từ điển tiếng địa phương.
Khi thấy hạnh kiểm tốt của người tù, bọn cai tù cũng nới tay thả lỏng việc kiểm soát. Năm 1692, cha đã được vua Kandy là Wimaladharmasuriya, một phật tử, cho phép dựng một căn lều trong vườn rau của nhà giam để dâng lễ Giáng Sinh. Ít lâu sau, căn lều này đã được biến đổi thành một nhà thờ dâng kính Đức Mẹ để cầu xin ơn trở lại cho người ngoại đạo.

Dù bị cầm tù, cha Vaz vẫn âm thầm hoạt động mục vụ cho các tín hữu tìm đến thăm cha. Một sự kiện lạ thường đã chấm dứt thời gian cầm tù của cha: lúc ấy, nước Kandy lâm nạn hạn hán nặng nề. Các nhà sư Phật giáo lập đàn theo lời yêu cầu của nhà vua để cầu mưa nhưng không được kết quả nào. Vua Kandy nhờ đến cha Vaz. Cha xin nhà vua cho dựng một lễ đài với một Thánh Giá giữa quảng trường, rồi cha quỳ xuống cầu nguyện. Trời mưa xuống thật và lại mưa nhiều nữa, nhưng cha và lễ đài vẫn khô ráo không bị ướt chút nào. Sau biến cố lạ lùng này, vua Kandy trả tự do và cho phép cha Vaz được tự do giảng đạo mọi nơi.

Những năm sau đó, cha Vaz đã tận dụng tự do để tổ chức và củng cố hệ thống truyền giáo tại Kandy và nhiều vùng phụ cận, bất chấp hiểm nguy rình rập. Cha được dòng giảng thuyết Thánh Philiphê Neri trợ lực và được Đức Giám Mục Cochin chỉ định làm giám quản vùng Tích Lan. Cha liên tiếp kinh lược các vùng truyền giáo không biết mỏi mệt, mặc dù sức khỏe ngày càng hao mòn. Trong chuyến đi sau cùng, cha bị ngã xe và mang thương tích trầm trọng. Về đến Kandy, bệnh tình của cha trở nặng thêm. Sau khi nhận lãnh bí tích xức dầu bệnh nhân, cha cầu nguyện cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vào giữa đêm khuya ngày 16 tháng giêng năm 1711, thọ 59 tuổi. Vua Kandy đã đích thân gửi lời chia buồn với các cha thuộc hội dòng do cha thành lập trước đây. Tín hữu khắp nơi tuốn về Kandy viếng xác cha suốt ba ngày trước khi cử hành tang lễ.

Cha Joseph Vaz được Đức Gioan Phaolô 2 tôn phong chân phước trước sự hiện diện của 300 ngàn tín hữu. Đêm trước đó đã có 30 ngàn người đến địa điểm hành lễ, họ ca hát, đánh trống, canh thức cầu nguyện và ngủ lại tại chỗ để dự lễ hôm sau. Trong số các tín hữu ấy có 2 ngàn người Tamil từ khu vực do phiến quân kiểm soát ở miền bắc, đã vượt mọi nguy hiểm về thủ đô dự lễ, ngoài ra còn có 800 tín hữu đến từ Ấn độ. Đồng tế thánh lễ hôm ấy 2 có 110 vị gồm 2 HY, 30 GM và gần 80 linh mục.

Sau khi tiểu sử cha Vaz được trình bày, mọi người đã hát kinh cầu các thánh, và ĐTC Phanxicô đọc công thức tuyên bố ghi tên chân phước Joseph Vaz vào sổ bổ các thánh của Giáo Hội và truyền cho toàn thể Giáo hội tôn kính thánh nhân.

Cộng đoàn vỗ tay rất lâu và ca đoàn hân hoan hát mừng vị tân hiển thánh, vị thánh đầu tiên của Giáo Hội tại Sri Lanka, trong khi thầy phó tế rước thánh tích của cha Vaz lên bàn thờ.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi nhắc đến hoạt động của thánh Joseph Vaz, ĐTC đã rút ra những bài học cụ thể cho các tín hữu ngày nay. Ngài nói:

”Cũng như vô số các thừa sai khác trong lịch sử Giáo Hội, thánh Joseph Vaz đã đáp lại mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh truyền hãy làm cho mọi dân nước thành môn đệ của Chúa (Xc Mt 28,19). Bằng lời nói, và quan trọng hơn nữa là bằng gương sống, thánh nhân đã dẫn đưa dân chúng tại đất nước này đến niềm tin, làm cho chúng ta được ”thừa hưởng gia nghiệp giữa các thánh của Chúa” (Xc Cv 20,32).

ĐTC nói: ”Nơi thánh Joseph chúng ta thấy một dấu chỉ mạnh mẽ về lòng nhân từ và tình yêu thương của Thiên Chúa đối với các dân tộc ở Sri Lanka. Nhưng chúng ta cũng thấy nơi thánh nhân một thách đố, đó là làm sao để kiên trì trên con đường Tin Mừng, tăng trưởng trong sự thánh thiện, và làm chứng cho sứ điệp hòa giải của Tin Mừng mà Ngài đã tận hiến trọn cuộc đời.

”Là một linh mục thuộc dòng giảng thuyết ở quê hương Goa, thánh Joseph Vaz đến đất nước này do lòng nhiệt thành truyền giáo và lòng yêu thương lớn lao đối với các dân tộc tại đây thúc đẩy. Vì bấy giờ có cuộc bách hại tôn giáo, thánh nhân hóa trang như người hành khất, chu toàn nghĩa vụ linh mục nơi các cuộc gặp gỡ bí mật với các tín hữu, thường là vào ban đêm. Ngài cố gắng mang lại sức mạnh tinh thần và luân lý cho các tín hữu Công Giáo bị vây bủa. Cha đặc biệt mong ước phục vụ những người bệnh tật và đau khổ. Việc phục vụ của cha dành cho những người đau yếu được nhà vua rất quí chuộng trong thời kỳ dịch đậu mùa ở Kandy đến độ vua cho phép cha được tự do hơn trong việc làm mục vụ. Từ Kandy, cha có thể đi tới các nơi khác trong đảo. Cha hăng say thi hành công tác truyền giáo, và qua đời vì kiệt lực lúc 59 tuổi, được dân chúng kính trọng vì sự thánh thiện.
ĐTC nhận xét rằng ”Thánh Joseph Vaz tiếp tục là một mẫu gương và là thày dạy vì nhiều lý do, nhưng tôi muốn tập trung vào 3 điều.

– Thứ nhất, thánh nhân là một linh mục gương mẫu. Tại đây hôm nay có nhiều linh mục tu sĩ nam nữ, giống như thánh Joseph Vaz, đã được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Tôi khuyến khích mỗi người trong anh chị em hãy nhìn lên thánh Joseph Vaz như người hướng đạo chắc chắn. Thánh nhân dạy chúng ta cách thức đi tới những vùng ngoại ô, làm cho Chúa Giêsu Kitô được biết đến và yêu mến ở mọi nơi. Ngài cũng nêu gương về sự kiên nhẫn chịu đau khổ vì chính nghĩa Tin Mừng, vâng phục các Bề trên, chăm sóc yêu mến Giáo Hội của Thiên Chúa (Xc Cv 20,28). Cũng như chúng ta, thánh Joseph Vaz đã sống trong một thời đại có những biến chuyện mau lẹ và sâu rộng; các tín hữu Công Giáo chỉ là một thiểu số, và thường bị chia rẽ nội bộ; đôi khi có những đố kỵ, nhiều khi có những bách hại từ bên ngoài. Nhưng vì thánh nhân luôn kết hiệp trong kinh nguyện với Chúa chịu đóng đanh, ngài có thể trở nên hình ảnh sống sống cho mọi người về lòng từ bi và tình yêu thương hòa giải của Thiên Chúa.

– ”Thứ hai, thánh Joseph Vaz tỏ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự vượt thắng những chia rẽ tôn giáo trong việc phụng sự hòa bình. Tình yêu không chia sẻ của thánh nhân đối với Chúa mở cho ngài tình yêu đối với tha nhân; ngài phục vụ những người túng thiếu, bất kỳ là ai và ở nơi nào. Tấm gương của thánh nhân tiếp tục soi sáng cho Giáo Hội tại Sri Lanka ngày nay. Giáo Hội vui mừng và quảng đại phục vụ mọi thành phần trong xã hội. Giáo Hội không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, bộ tộc, giai tầng xã hội hay tôn giáo trong công tác phục vụ ở trường học, nhà thương, bệnh xá, và nhiều công tác từ thiện khác. Điều duy nhất mà Giáo Hội yêu cầu là được tự do thi hành sứ vụ của mình. Tự do tôn giáo là một nhân quyền căn bản. Mỗi người phải được tự do, một mình hoặc hiệp với người khác, tìm kiếm chân lý và công khai bày tỏ những xác tín tôn giáo của mình, không bị dọa nạt hoặc sức ép từ bên ngoài. Như cuộc sống của thánh Joseph Vaz dạy chúng ta, việc phụng tự chân thành đối với Thiên Chúa mang lại hoa trái, không phải trong sự kỳ thị, oán thù hay bạo lực, nhưng trong sự tôn trọng tính chất thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, dấn thân phục vụ an sinh của tất cả mọi ngừơi trong tinh thần yêu thương.

– Sau cùng, thánh Joseph Vaz nêu gương cho chúng ta cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo. Thánh nhân đến Tích Lan để phục vụ cộng đồng Công Giáo, trong tình bác ái theo tinh thần Phúc Âm, ngài tìm đến với mọi người. Từ bỏ quê hương, gia đình, và môi trường quen thuộc thoải mái, ngài đáp lại tiếng gọi hãy ra đi để nói về Chúa Kitô tại bất kỳ nơi nào ngài được dẫn đến. Thánh Joseph Vaz biết cách trình bày chân lý và vẻ đẹp của Tin Mừng trong một môi trường đa tôn giáo, trong niềm tôn trọng, với lòng tận tụy, kiên trì và khiêm tốn. Đó cũng là con đường của các môn đệ Chúa Giêsu ngày nay. Chúng ta được kêu gọi ra đi với cùng một lòng nhiệt thành, cùng một lòng can đảm như thánh Joseph Vaz, nhưng cũng với sự nhạy cảm của ngài, tôn trọng tha nhân, ước muốn chia sẻ với họ lời ân phúc (Xc Cv 20,32) có năng lực thăng tiến họ. Chúng ta được kêu gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Chúa.

Và ĐTC kết luận rằng: ”noi gương thánh Joseph Vaz, tôi cầu nguyện để các tín hữu Kitô tại nước này được củng cố trong đức tin và đóng góp nhiều hơn nữa cho hòa bình, công lý và hòa giải trong xã hội Sri Lanka. Đó là điều mà Chúa Kitô yêu cầu anh chị em. Đó là điều mà thánh Joseph Vaz dạy anh chị em. Đó là điều mà Giáo Hội đang cần nơi anh chị em. Tôi phó thác tất cả anh chị em cho vị thánh mới của chúng ta, để trong niềm hiệp thông với Giáo Hội trên toàn thế giới, anh chị em có thể hát bài ca mới chúc tụng Chúa và cao rao vinh quang Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất. Vì Chúa thật là cao cả, và phải được chúc tụng đời đời (Xc Tv 96,1-4). Amen.

Quà tặng

Cuối thánh lễ, ĐHY Malcom Ranjith, TGM Colobom sở tại, đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC về món quà quí giá là lễ tôn phong vị thánh đầu tiên của Giáo Hội tại Sri Lanka. ĐHY cũng trao cho ĐTC một ngân phiếu 70 ngàn mỹ kim do các tín hữu đóng góp cho các hoạt động bác ái của ngài. ĐHY nói: ”Chúng con là một Giáo hội nghèo, nhưng chúng con cũng xin ĐTC nhận món quà này cho các công tác bác ái”.

Về phần ĐTC, ngài tặng cho Giáo Hội tại Sri Lanka bản sao bằng đồng sắc chỉ của vua Keerthi Sri Rajasinghe của nước Kandy tuyên bố không cấm những người dân Singalais muốn theo Kitô giáo và cho phép tất cả các mục tử cùng dòng được rao giảng cho những người sinh tại Sri Lanka và phật tử muốn theo Kitô giáo.

Thánh lễ kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ trong bầu không khí nồng nhiệt. Bấy giờ là 11 giờ sáng, giờ địa phương. ĐTC trở về tòa Sứ thần để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi, để chuẩn bị viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Madhu vào ban chiều.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

ĐTC TIẾP KIẾN PHÁI ĐOÀN CỦA GIÁO HỘI LUTHER ĐỨC

ĐTC TIẾP KIẾN PHÁI ĐOÀN CỦA GIÁO HỘI LUTHER ĐỨC

VATICAN: ĐTC khích lệ tiếp tục dấn thân trên con đường đại kết giữa Giáo Hội công giáo và Giáo Hội Luther.

Ngài đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp phái đoàn Luther và Ủy ban đối thoại đại kết của Hội Đồng Giám Mục Đức tại Vaticăng sáng hôm qua (18-12). Nhắc tới các tiến bộ đạt được sau 50 năm đối thoại làm nền vững chắc cho tình bạn chân thành được sống trong đức in và tinh thần tu đức, ĐTC ghi nhận còn có nhiều khó khăn thần học liên quan tới đức tin liên quan tới các giải thích khác biệt về Giáo Hội và sự hiệp nhất, nhưng có sự cộng tác và chung sống huynh đệ giữa hai Giáo Hội. Tài liệu “Ut unum sint” của Đức Gioan Phaolô II cũng như “Tuyên ngôn chung về giáo lý của sự công chính hóa” ký kết giữa Liên hiệp Luther thế giới và Hội đồng Tòa Thánh thăng tiến hiệp nhất các tín hữu kitô, tại Augsburg cách đây 15 năm là các mốc quan trọng trên con đường đại kết giúp tin tưởng tiếp tục lộ trình đối thoại, và tập trung vào các bước sắp tới. ĐTC chúc mừng Ủy ban đối thoại song phương của HĐGM và Giáo Hội Luther Đức đã kế thúc tài liệu về “Thiên Chúa và phẩm giá con người”. Các vấn đề liên quan tới phẩm giá con người từ lúc bắt đầu cho tới lúc chết tự nhiên, cũng như các vấn đề liên quan tới gia đình, hôn nhân, tính dục đều rất thời sự và cần được nói đến. ĐTC cầu mong dịp mừng kỷ niệm chung 500 năm cải cách 2017 sẽ là dịp cầu nguyện chung xin Chúa Giêsu tha thứ cho các lỗi lầm đã có đối với nhau và khích lệ hai Giáo Hội có các bước tiếp theo tiến về hiệp nhất (SD 18-12-2014).
Linh Tiến Khải