ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua, ĐTC đã kêu gọi đưa ra mọi biện pháp có thể giúp che chở, bảo vệ và hội nhập các trẻ em di cư. Ngài nói:

Hôm nay cử hành “gày quốc tế người di cư và tỵ nạn” với đề tài “Các người di cư vị thành niên, dễ bị thương tổn và không có tiếng nói.” Các anh em bé nhỏ này của chúng ta, đặc biệt nếu không được tháp tùng, bị phơi bầy cho biết bao nguy hiểm. Họ đông lắm! Cần đưa ra mọi biện pháp có thể để bảo đảm cho các trẻ em vị thành niên di cư sự che chở, bào vệ và cả việc hội nhập các em nữa. ĐTC cũng cám ơn Văn phòng di cư của giáo phận Roma và các nhân viên trong dấn thân tiếp đón và trợ giúp người tỵ nạn. Ngài nhắc đến gương của thánh Francesca Saverio Cabrini bổn mạng người di cư, một nữ tu can đảm tận hiến cuộc đời đem Chúa Giêsu Kitô tới cho những cho người sống xa quê hương và gia đình họ, nêu gương săn sóc người anh em kiều cư là hình ảnh của Chúa Giêsu khổ đau bị khước từ và hạ nhục. Biết bao lần trong Thánh Kinh Chúa đã xin chúng ta tiếp đón các người di cư và ngoại quốc, bằng cách nhắc cho chúng ta biết rằng chúng ta cũng là người kiều cư.

Trước đó trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm Chúa Nhật kể lại biến cố Chúa Giêsu đến xếp hàng như các tội nhân để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả. Ở trung tâm bài Tin Mừng (Ga 1,29-34) có lời của thánh nhân: “Đây là Chiên  Con Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (c. 29). Một lời nói được đi kèm bởi cái nhìn và cử chỉ của bàn tay chỉ Ngài, Đức Giêsu.

Chúng ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh này. Chúng ta đang đứng trên bờ sông Giordan. Thánh Gioan đang làm phép rửa, có biết bao nhiêu người đàn ông đàn bà thuộc đủ mọi lứa tuổi đến sông để nhận phép rửa từ tay người, mà theo nhiều người nhắc nhớ ngôn sứ Elia, vị đại ngôn sứ 9 thế kỷ trước đó đã thanh tẩy dân Israel khỏi việc tôn thờ ngẫu tượng và dẫn đưa họ trở về với niềm tin thật nơi Thiên Chúa của giao ước, Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Igiaac và Giacóp. ĐTC nói:

Gioan rao giảng rằng nước trời đã gần, rằng Đấng Messia đang tự tỏ hiện và cần chuẩn bị , hoán cải và sống công chính; và ông bắt đầu ban phép rửa trên sông Giordan để cho dân chúng một phương thế sám hối cụ thể (x. Mt 3,1-6) Những người này đến để sám hối tội lỗi của họ, để đền tội, để bắt đầu trở lại cuộc sống.

Ông biết, Gioan biết rằng Đấng Messia, Đấng được thánh hiến của Chúa đã đến gần, và dấu chỉ để nhận biết Người sẽ là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người; thật ra Người sẽ đem đến phép rửa thật, phép rửa trong Thánh Thần (x. Ga 1,33).

Và đây, lúc ấy đến: Đức Giêsu trình diện trên bờ sông, giữa dân chúng, giữa những người tội lỗi – như tất cả chúng ta – Đó là cử chỉ công khai đầu tiên của Ngài, điều đầu tiên Ngài làm khi rời nhà ở Nadarét năm 30 tuổi: Ngài đi xuống Giuđêa tới sông Giordan và để cho Gioan làm phép rửa. Chúng ta biết điều gì xảy ra – chúng ta đã cử hành Chúa Nhật vừa qua – Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu trong hình bồ câu và tiếng Thiên Chúa Cha công bố Người là Con yêu dấu (x. Mt 3,16-17). Đó là dấu chỉ Gioan chờ đợi. Chính Ngài! Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Gioan bối rối vì Ngài đã tự biểu lộ một cách không thể nghĩ được: giữa các tội nhân, được rửa như họ, còn hơn thế nữa đuợc rửa vì họ. Nhưng Thần Khí soi sáng cho Gioan và khiến cho ông hiểu rằng như thế được hoàn thành công lý của Thiên Chúa, dấu chỉ ơn cứu độ thành toàn như vậy: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Israel, không phải với quyền năng của thế gian này, nhưng như là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng mang trên mình và cất tội của trần gian.

Và như thế Gioan chỉ Người cho dân chúng và các môn đệ của ông. Vì Gioan có một vòng tròn nhiều môn đệ, đã chọn ông như vị hướng dẫn tinh thần. và chính vài người trong số họ sẽ trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Chúng ta biết rõ tên của họ: Simon sẽ được gọi là Phêrô, Anrê em ông, Giacôbê và em ông là Gioan. Tất cả đều là dân chài; tất cả đều là người Galilê, như Đức Giêsu.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, tại sao chúng ta lại dừng lâu trên cảnh này? Bởi vì nó định đoạt! Nó không phải là một giai thoại. Nó là một sự kiện lịch sử định đoạt! Cảnh này định đoạt đối với đức tin của chúng ta; nó định đoạt đối với cả sứ mệnh của Giáo Hội nữa. Và ĐTC giải thích như sau:

Trong mọi thời đại, Giáo Hội được mời gọi làm điều mà Gioan Tảy Giả đã làm, chỉ Chúa Giêsu cho dân chúng và nói: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất! Ngài là Chúa, khiêm tốn, giữa các tội nhân, nhưng đó là Ngài, là Ngài: không phải một người khác, quyền thế đang đến: không, không, đó là Ngài!

Và đó là các lời mà chúng tôi linh mục lập lại hằng ngày trong Thánh Lễ, khi chúng tôi giới thiệu với dân chúng bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Cử chỉ phụng vụ này diễn tả toàn sứ mệnh của Giáo Hội, không loan báo chính mình. Khốn, khốn khi Giáo Hội loan báo chính mình; thì Giáo Hội mất đi dịa bàn, không biết mình đi đâu.  Giáo Hội loan báo Chúa Kitô; không đem chính mình, nhưng đem Chúa Kitô.  Vì chính Ngài và chỉ có Ngài cứu rỗi dân Ngài khỏi tội lỗi, giải thoát nó và hướng dẫn nó tới đất của sự tự do đích thật.

Xin Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chiên Con Thiên Chúa, giúp chúng ta tin nơi Chúa và theo Người.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

VATICAN. Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine có thể mở lại các cuộc thương thuyết trực tiếp giữa các phe để đạt tới sự chấm dứt bạo lực, đang gây đau khổ không thể chấp nhận được cho các thường dân và tiến tới một giải pháp chính đáng và lâu bền.

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết như trên trong thông cáo công bố sau cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Tổng thống Mahmoud Abbas của Palestine sáng ngày 14-1-2016. Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Abbas đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và ngoại trưởng Paul Gallagher.

Thông cáo cũng viết: ”Để đạt mục tiêu vừa nói, Tòa Thánh cầu mong rằng, với sự hỗ trợ của Cộng đồng quốc tế, có những biện pháp được đề ra để tạo điều kiện cho sự tín nhiệm nhau và góp phần kiến tạo một bầu không khí giúp đưa ra những quyết định can đảm để đạt tới hòa bình. Các vị cũng nhắc đến tầm quan trọng của việc bảo tồn tính chất thánh thiêng của các Nơi Thánh cho các tín hữu thuộc tất cả 3 tôn giáo có chung tổ phụ Abraham. Đặc biệt chú ý đến các cuộc xung đột đang đè nặng trên vùng Trung Đông.”

Trong phần đầu của thông cáo, Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ”qua các cuộc trao đổi thân mật, có đề cao những quan hệ tốt giữa Tòa Thánh và Palestine, quan hệ này được thắt chặt bằng Hiệp Định tổng quát năm 2015, liên quan đến đời sống và hoạt động của Giáo Hội trong xã hội Palestine. Trong bối cảnh đó, hai bên đã nhắc đến đóng góp quan trọng của các tín hữu Công Giáo cho sự thăng tiến phẩm giá con người và giúp đỡ những người túng thiếu nhất, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, y tế và từ thiện”

Tổng thống Abbas đến Roma nhân dịp khánh thành đại sứ quán của Palestine cạnh Tòa Thánh (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người vì họ không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhuận của các xí nghiệp.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 14-1-2017 dành cho 85 tham dự viên quốc tế ”cuộc thảo luận bàn tròn” do Ngân Quỹ hoàn cầu (Globl Foundation) tổ chức tại Roma trong hai ngày 13 và 14-1 vừa qua. Trong số các tham dự viên cũng có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi đề cao khẩu hiệu của Ngân Quỹ Hoàn cầu là ”Cùng nhau chúng ta dấn thân cho công ích của hoàn cầu”, ĐTC khẳng định rằng: ”Thật là điều không thể chấp nhận được, vì vô nhân đạo, một chế độ kinh tế thế giới gạt bỏ người nam, người nữ và trẻ em, vì những người này dường như không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhận của các xí nghiệp và các tổ chức khác. Chính sự gạt bỏ con người như thế là một sự thoái hóa và làm cho bất kỳ chế độ chính trị và kinh tế nào trở nên vô nhân đạo: những người gây ra hoặc cho phép sự gạt bỏ tha nhân – những người tị nạn, các trẻ em bị lạm dụng hoặc bị biến thành nô lệ, những người nghèo chết trên đường vì trời lạnh – thì chính những kẻ ấy trở thành như những chiếc máy vô hồn, họ ngầm chấp nhận nguyên tắc theo đó chính họ, sớm muộn gì cũng sẽ bị gạt bỏ, khi họ không còn hữu ích cho một xã hội đặt thần tiền bạc ở trung tâm”.

ĐTC Phanxicô nhắc lại lập trường của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã từng cảnh giác chống lại nguy cơ lan tràn khắp nơi ý thức hệ duy tư bản, không để ý gì đến hiện tượng gạt con người ra ngoài lề, bóc lột, tha hóa con người, làm ngơ không biết đến bao nhiêu người còn sống trong tình trạng lầm than về vật chất và tinh thần..

Trong bối cảnh đó, ĐTC cũng đề cao bao nhiêu nỗ lực của các cá nhân và các tổ chức tìm cách chữa lành những tai ương do sự hoàn cầu hóa vô trách nhiệm gây ra. Thánh Têrêsa Calcutta là biểu tượng những cố gắng như thế. Mẹ cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết trên vỉa hè, nhìn nhận nơi họ phẩm giá Chúa ban… Mẹ đã lên tiếng nói với những kẻ cường quyền trên trái đất để họ nhìn nhận các tội ác nghèo đói do họ gây ra.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là thái độ đầu tiên có thể đưa tới sự hoàn cầu hóa tình liên đới và sự sộng tác. Trước tiên, mỗi người đừng dửng dưng đối với những vết thương của người nghèo, nhưng học cách cảm thông với những người đang chịu đau khổ vì bách hại, cô đơn, cưỡng bách di tản hoặc vì gia đình bị phân rẽ, cảm thông với những người không được săn sóc sức khỏe, những người chịu đói, lạnh hoặc nóng”.

Ngân Quỹ hoàn cầu (The Global Foundation) được khởi xướng năm 1998 ở Australia, và lan rộng trên thế giới, trẻ thành một diễn đàn đặc biệt trong đó những người thiện chí và có phương thế họp nhau, trao đổi và giúp đáp ứng những thách đố lớn trên thế giới ngày nay, cổ võ một nền kinh tế thịnh vượng chung.. (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới XV

Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới XV

VATICAN. Sáng 13-1-2017, tài liệu chuẩn bị Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 15 đã được công bố trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Công Nghị GM thế giới này sẽ tiến hành vào tháng 10 năm 2018 về chủ đề ”Người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”.

Chủ tọa cuộc họp báo là ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới và vị phụ tá là Đức Cha Fabio Fabene. Ngoài ra cũng có 2 bạn trẻ nam nữ thuộc giáo xứ thánh Thomas More ở Roma.

Tài liệu dài 26 trang, sau phần nhập đề, lần lượt bàn tới trong 3 chương:

– Thứ I là tình trạng giới trẻ trên thế giới ngày nay, một thế giới đang thay đổi mau lẹ. Văn kiện nói về những thế hệ trẻ: họ thuộc về các nhóm nào, những điểm tham chiếu về nhân sự và tổ chức, và người ta đang tiến tới một thế hệ gắn liền với các kỹ thuật truyền thông tân tiến (iperconnessa). Sau cùng Tài liệu nói đề những người trẻ và những chọn lựa.

– Phần thứ II bàn đến đức tin, sự phân định và ơn gọi. Ơn phân định giúp nhận diện, giải thích và chọn lựa. Tiếp đến là những con đường ơn gọi và sứ mạng, sau cùng là sự đồng hành người trẻ.

– Phần thứ III trình bày hoạt động mục vụ: cụ thể là đồng hành với người trẻ theo 3 hành động: đi ra ngoài, nhìn xem, kêu gọi; kế đến là đối tượng nhắm tới: tức là tất cả mọi người trẻ, không trừ một ai, rồi cộng đoàn trách nhiệm, và những nhân vật người trẻ tham chiếu. Rồi tài liệu bàn đến những môi trường người trẻ: đời sống thường nhật, các lãnh vực chuyên biệt mục vụ, thế giới kỹ thuật số. Tài liệu cũng nói về các phương tiện như các ngôn ngữ mục vụ, việc chăm sóc giới dục và những hành trình loan báo Tin Mừng; sự thinh lặng, chiêm niệm và cầu nguyện.

Phần 3 cũng có một thiên bàn về vai trò của Mẹ Maria.

Tài liệu chuẩn bị kết thúc với một bản câu hỏi dài 4 trang được phân thành 3 tiểu đề: thu thập các dữ kiện, đọc tình trạng, và sau cùng là chia sẻ các đường lối thực hành.

Văn kiện này được gửi tới các HĐGM, các Thượng Hội đồng của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, các cơ quan trung ương Tòa Thánh và một số cơ quan khác như Hiệp hội các Bề trên Tổng Quyền dòng nam, để tham khảo ý kiến, dựa theo bản câu hỏi đính kèm. Ngoài ra các bạn trẻ cũng được hỏi ý kiến qua một mạng Internet về những mong đợi và cuộc sống của họ. Các bản trả lời góp ý sẽ được dùng để soạn tài liệu làm việc cho Công nghị của các GM thế giới.

Trong cuộc họp báo, ĐHY Baldisseri giải thích rằng danh từ ”giới trẻ” hay ”người trẻ” trong văn kiện này được hiểu là những người từ 16 đến 29 tuổi, tuy cũng co giãn tùy theo môi trường văn hóa và xã hội. Ngoài ra từ ”ơn gọi” trong văn kiện chuẩn bị, không phải chỉ nói về ơn gọi linh mục hoặc đời sống thánh hiến, nhưng nói về ơn gọi nói chung của người trẻ, ơn gọi yêu thương.

Tài liệu chuẩn bị này không phải là một văn kiện giáo huấn, nhưng chỉ là những dữ kiện gợi ý suy tư, để thu thập ý kiến của các thành phần dân Chúa.

Những câu hỏi dành cho tất cả mọi người, kể cả những người không thuộc Kitô giáo, hoặc không tín ngưỡng, mục đích là để thu thập các ý kiến. (SD 13-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

PARIS. Các GM Pháp và Đức kêu gọi gia tăng giúp đỡ người di dân và tị nạn, nhất là các trẻ vị thành niên.

Trong thông cáo công bố hôm 12-1-2017, nhân ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 103 sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-1 tới đây, các GM Pháp và Đức nhắc đến sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân ngày này, qua đó ngài lưu ý về số phận các trẻ em và người trẻ là những người không được bảo vệ, gấp 3 lần so với những người lớn. Theo thống kê năm 2015, trong số hơn 65 triệu người tị nạn trên thế giới có quá một nửa là trẻ vị thành niên. Riêng tại Liên hiệp Âu châu, năm 2014 chỉ có 23 ngàn người trẻ di dân và tị nạn, năm 2015 sau đó, con số ấy tăng quá gấp 4 lần tức là 100 ngàn. Năm 2016 chắc chắn con số ấy càng gia tăng thê. Các GM Pháp và Đức viết:

”Đứng trước kỷ lục đau buồn ấy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải chiến đấu chống lại những nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Đặc biệt con số đông đảo các thiếu niên tị nạn không có người đi kèm ở Âu Châu đang đề ra cho chúng ta những thách đố hết sức lớn lao”.

Các GM Pháp cũng nhắc lại lời ĐTC khẳng định rằng ”Vì chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô nơi những người bé mọn và dễ bị tổn thương nhất, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể theo khả năng để bảo vệ phẩm giá của những người trẻ di dân và tị nạn.. Nhiều trẻ vị thành niên bị bó buộc phải mại dâm hoặc bị đưa vào vòng kỹ nghệ dâm ô, bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ, hay trong những hình thức tội phạm khác, các em là những người bị bó buộc phải trốn chạy vì xung đột và bách hại”.

HĐGM Pháp và Đức nhận định rằng ”Giáo hội Công giáo tại hai nước này có nhiều tài nguyên để đồng hành với những người trẻ di dân để giúp các em trên con đường đạt tới sự tự lập. Đứng trước thách đố rộng lớn, cần phải nới rộng các đề nghị hiện có và phát triển hơn nữa. Trọng tâm hoạt động được tiến hành theo nguyên tắc: khích lệ mỗi trẻ em phát huy khả năng của mình, đồng thời cũng không được quên trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tư cách là những nước đã ký Hiệp ước Genève, Hiệp ước Liên hiệp Quốc về quyền của các trẻ em và các hiệp ước quốc tế khác, nươc Pháp và Đức nhìn nhận các trẻ vị thành niên di dân có những quyền đặc thù. Vì thế chúng tôi kêu gọi các vị hữu trách chính trị tại hai nước liên hệ chu toàn nghĩa vụ bảo đảm những điều kiện pháp lý và hành chánh, giúp các trẻ vị thành niên có được một đời sống xứng đáng nơi chúng ta. Cần phải tôn trọng quyền được sống tuổi thơ trong mọi hoàn cảnh” (SD 12-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Washington – Đức Hồng y Timothy M. Dolan của New York cho biết, đoạn Kinh thánh ngài chọn để đọc trong lễ nhậm chức của tổng thống Donald J. Trump được lấy từ chương 9 sách Khôn ngoan. Đó là lời cầu nguyện của vua Salomon, xin ơn khôn ngoan để lãnh đạo đất nước theo ý Thiên Chúa.

Đức Hồng y Dolan nói với hãng tin Công giáo Hoa kỳ là ngài luôn cầu nguyện điều này và nói đùa rằng Chúa chưa ban cho ngài điều khấn xin.

Đức Hồng y giải thích rằng qua nhiều thế kỷ, lời cầu nguyện của Salomon đã được dâng lên Chúa. Trong lời cầu nguyện, vua Salomon nhận thức rằng Thiên Chúa tạo dựng con người “để cai quản thế giới trong sự thánh thiện và công bình và để xét xử với trái tim ngay thẳng.” Nhà vua tiếp tục cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan “hằng ngự bên tòa Chúa, và xin đừng đuổi con khỏi các con cái Ngài.”

Vua Salomon cũng khẩn cầu Thiên Chúa ban đức Khôn ngoan “để Người ở cùng và hành động với con, để con có thể biết điều làm đẹp lòng Chúa.” Vua cầu xin để các việc làm của vua sẽ được chấp nhận và vua sẽ phân xử dân Chúa cách chính trực và xứng với ngai vàng của vua cha.

Đức Hồng y Dolan có một phút để đọc lời cầu nguyện này và ngài cho biết một phút là đủ cho ngài. Ngài được yêu cầu gửi lời cầu nguyện mình đã chọn đến cho đội ngũ của ông Trump. Ngài không biết có phải để kiểm soát hay không nhưng đối với ngài điều này là thích hợp.

Đức Hồng y Dolan cùng với 3 vị lãnh đạo các tôn giáo khác sẽ xuất hiện trên bục khi buổi lễ nhậm chức của tổng thống Trump bắt đầu. Ngài cũng biết có những phê bình về việc ngài tham dự vào lễ nhậm chức này và đã nhận được các lời phê bình. Ngài đã trả lời cho những phê bình là nếu bà Hilary Clinton đắc cử và mời ngài, thì ngài cũng sẽ hiện diện như một vinh dự. Đức Hồng y nói thêm: “Chúng tôi là các mục tử và các lãnh đạo tôn giáo trong tổ chức cầu nguyện thánh thiện. Người ta yêu cầu chúng tôi cầu nguyện với họ và cho họ. Điều đó không có nghĩa là chúng tôi vì họ hay chống lại họ. Đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng tôi.”

Đối với Đức Hồng y, lễ nhận chức của một tổng thống mới cũng có thể là cơ hội của hy vọng và canh tân cho đất nước. Ngài nói: “Nhiều người có thể có những nghi ngờ về tổng thống đắc cử và tôi chắc chắn cũng thế, như đối với vị tổng thống sắp tới. Nhưng trong truyền thống vĩ đại của Hoa kỳ, chúng ta nhìn vào thời điểm của vị tổng thống sắp tới như một cơ hội của hy vọng … một cách thế để cho một người một cơ hội và cố gắng để hoàn thành những lời ông ta đã hứa.” (CNS 12/01/2017)

Hồng Thủy

 

Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Giữa tiếng nhạc thánh ca sốt sắng và hương trầm tỏa nghi ngút, trong bầu không khí tràn đầy vẻ thánh thiêng và tôn kính, cha Remzi Diril, được biết với tên “cha Adday”, một tay cầm chén Máu Thánh và dĩa đựng Mình Thánh, từ từ di chuyển đến từng người, trao Thánh Thể cho hết người này đến người kia. Thánh lễ không được cử hành trong một nhà thờ, nhưng là trong một căn hộ chung cư ở Kirsehir, một thành phố nhỏ ở miền Trung Thổ Nhĩ kỳ, nơi người Hồi giáo chiếm đa số.

Là Linh mục duy nhất thuộc Giáo hội Công giáo Canđê hoạt động mục vụ ở Thổ Nhĩ kỳ, cha Adday đã trở thành một Linh mục du hành, một chiến binh đường phố, mỗi năm cha đi hàng ngàn dặm đường để đến các nơi chăm sóc đoàn chiên của mình, cộng đoàn Kitô hữu người Iraq tị nạn ở Thổ Nhĩ kỳ với khoảng 40 ngàn tín hữu. Từ khi được thụ phong Linh mục cách đây 2 năm, cha Adday, 34 tuổi, đã rửa tội cho hơn 200 trẻ em, làm phép hôn phối cho hơn 20 đôi và ban các nghi thức cho hơn 30 người hâp hối. Năm ngoái cha đã chuẩn bị cho hơn 150 em rước lễ lần đầu, còn năm nay con số các em được lãnh nhận Thánh Thể lần đầu cũng đã lên đến hơn 100 em.

Cha Adday thường di chuyển trên các chuyến bay giá rẻ vì Giáo hội không thể hoàn lại tiền vé máy bay cho cha. Chỉ trừ một số ít trường hợp, như khi cha đến cử hành các ngày lễ hội tôn giáo, thì cha hay các gia đình cha thăm viếng sẽ trả tiền vé. Cha đi đến tận các gia đình để thăm hay cử hành các nghi lễ vì như thế sẽ đỡ tốn kém hơn là cả một gia đình 10 người đi đến tận Istanbul, nơi cư ngụ chính của cha.

Thường khi đến một nơi, cha nhờ vào một mạng lưới trợ giúp, họ nối kết cha với các cộng đoàn Kitô hữu Iraq địa phương. Ví dụ, cha bay chuyến bay giá rẻ từ Istanbul đến Nevsehir, một thành phố ở miền trung Thổ Nhĩ kỳ, rồi từ đó cha đi xe buýt thêm gần 100 cây số để đến Kirsehir, nơi cha sẽ gặp gia đình một tín hữu. Cha đã đến đây lần thứ 8, cha nói: “Đây là gia đình của tôi ở Kirsehir. Ở mỗi thành phố, tôi có một gia đình. Đôi khi có hơn một gia đình.” Vợ chồng tín hữu này giữ vai trò liên lạc cho cha Adday. Sau khi đã đón tiếp cha đến căn hộ chung cư của họ và mời cha một ít nước trà và bánh ngọt, họ bắt đầu gọi điện thoại. Họ rất quen thuộc với 225 gia đình người Iraq ở tại thành phố và họ đang nối kết cuộc hành trình của vị Linh mục.

Miền đất Kirsehir này giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Kitô giáo. Các Kitô hữu tiên khởi đã đến đây để trốn tránh cuộc bách hại của đế quốc Roma. Ngày nay, các di tích của các thánh đường do các tín hữu xưa kia xây vẫn còn được viếng thăm. Tuy vậy, không có nhà thờ Công giáo nào hoạt động trong vùng. Do đó, khi cha Adday đến thăm, cha cử hành Thánh lễ tại các gia đình như các Kitô hữu tiên khởi đã làm. Nếu thuê một phòng hội để cử hành Thánh lễ thì sẽ tốn khoảng 900 đô la; số tiền đó tốt hơn là để chi trả cho phí tổn để có thể thăm nhiều gia đình hơn. Thường có khoảng 10 gia đình được mời dự lễ, với khoảng 30 thành viên. Các Thánh lễ tại các nhóm nhỏ mang lại những kinh nghiệm khác với Thánh lễ trong một nhà thờ. Cha Adday chia sẻ: “Thánh lễ tại gia đình giống như một gia đình. Người cha và các con cái chia sẻ vinh quang của Chúa. Nó khác như là  xem một cuốn phim trong một rạp chiếu phim và xem ở gia đình.” Sau Thánh lễ, cha Adday thăm một phụ nữ Iraq bị ung thư. Con gái của bà vừa khóc vừa mở cửa phòng ngủ, lo lắng về sức khỏe của người mẹ. Sức khỏe của bệnh nhân hết sức mỏng manh yếu đuối; cha Adday cầu nguyện một vài phút, rồi cha xức dầu thánh cho bà.

Rất nhiều người trong số những người cha Adday đến thăm, đã sống vài năm trời ở Thô nhĩ kỳ trong khi chờ đợi đơn xin tị nạn đến các nước như Úc, Canada và Hoa kỳ được chấp thuận. Thời gian chờ đợi thường kéo dài và thời gian chờ đợi bấp bênh như thế này sinh ra nhiều vấn đề thể lý cũng như tâm lý đối với họ. Cha Adday hiểu là những người tị nạn này cần sự trợ giúp thiêng liêng. Họ cần một Linh mục. Họ muốn Giáo hội ở với họ. Cha biết là cha không thể giúp cho họ về vật chất nhưng cha có thể cho họ thời gian và niềm hy vọng. Cha nói: “Khi bạn để đàn chiên của bạn ở trên núi, bạn không thể biết điều gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng khi bạn ở với chúng thì khác. Bạn có thể chỉ cho chúng nơi nào có nước, nơi nào là chỗ bình an để trú ngụ. Những người tị nạn giống như những đứa con nhỏ chờ đợi cha của chúng.”

Sau hai ngày một đêm bận rộn ở Kirsehir, cha Adday chuẩn bị trở lại Istanbul. Cha đã cử hành 5 Thánh lễ và thăm viếng nhiều gia đình nhưng cha không cảm thấy mệt mỏi. Cha hy vọng là những lần viếng thăm của cha giúp họ thêm vững mạnh về tinh thần và gần gũi với Giáo hội và đức tin của họ vào Chúa Giêsu được làm mới thêm. Mọi Kitô hữu cần phải làm mới lại đời sống thiêng liêng. Cha cũng hy vọng trao cho ho niềm hy vọng và nhắc nhở họ rằng Chúa làm những phép lạ và do đó họ cần tin tưởng. Cha nói với giáo dân hãy để Chúa làm những công việc cho họ. Người là Cha chúng ta và Người muốn điều tốt nhất cho chúng ta. (CNS 28/11/2016)

Hồng Thủy

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Vatican – Những ngày qua các quốc gia đang hứng chịu những ngày giá rét và thời tiết khắc nghiệt. Nhiều trường hợp chết vì giá lanh của  người vô gia cư đã được ghi nhận ở các nới.

Trước tình hình khó khăn này, từ thứ 7 tuần trước, nghĩa là từ ngày 7/1, nhà thờ thánh Calisto ở khu vực Trastevere, Roma đã mở cửa để cho những người sống trên đường phố không nơi trú ngụ có thể tìm được nơi trú ngụ qua đêm.

Nhà thờ này và các cơ sở phụ thuộc là vùng ngoại giới, tài sản trực thuộc Tòa thánh. Nhà thời là nơi thờ phượng cổ kính, được xây cất xung quanh một giếng nước nơi Đức giáo hoàng Calisto I tử đạo, vào năm 222. Tòa nhà hiện tại được xây cất vào thế kỷ XVII. Nhà thờ này được trao cho cộng đồng thánh Egidio và cộng đồng tổ chức các hoạt động phụng tự và giáo lý, đặc biệt cho những người cao niên và khuyết tật.

Hiện tại có khoảng 30 người, gồm người Italia và ngoại quốc, thường sống ngoài đường phố, được nghỉ đêm trong nhà thờ và trong các nơi liền kề, được sưởi ấm và được cung cấp giường, chăn mền và các dịch vụ vệ sinh. Các khách cư trú này có thể ăn tối từ 19 giờ chiều trở đi tại nhà ăn gần đó ở đường Via Dandolo và do đó có thể đến nhà thờ từ khoảng 20-22 giờ. Họ rời nhà thờ vào khoảng 8 giờ sáng.

Việc đón tiếp những người vô gia cư được giúp đỡ bởi các tình nguyện viên của cộng đồng thánh Egidio; những người này sẽ luân phiên hiện diện suốt trong những giờ nhà thờ mở cửa. Mỗi khách trọ được các tình nguyện viên giúp đỡ, đồng hành trong việc tìm giải pháp cho những nhu cầu vật chất và sưc khỏe của họ. Những ngày sau khi được tiếp đón tại đây họ sẽ tìm kiếm, nếu có thể, nơi có tình trạng tiếp đón ổn định hơn.

Tại Torino, Tổng giáo phận cũng đã tham gia vào việc giúp đỡ nhiều người nghèo khổ cần được giúp đỡ trong những ngày giá lạnh.

Tổng Giáo phận đã quyết định nới rộng “nhà ngủ” ở đường Via Cappel Verde, tại trung tâm lịch sử, dùng một tầng khác của tòa nhà làm nơi ngủ cho những người vô gia cư. Tại đây các khách trọ có thể ăn sáng và ăn tối. Hoạt động này được thực hiện cùng với sự cộng tác của Ser.Mi.G.

Bên cạnh đó, Đức cha Cesare Nosiglia – Tổng Giám mục của Torino đã kêu gọi các giáo xứ và các dòng tu làm hết sức để giúp những người vô gia cư. (ACI 13/01/2017)

Hồng Thủy

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để có thể đi theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, bạn phải bước đi, bạn không được dậm chân tại chỗ với tâm hồn ngồi lỳ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng đứng một chỗ rồi nhìn vào cuộc sống người khác mà xét đoán

Nhiều lần người ta muốn tung hô Chúa làm vua, vì họ nhận thấy Chúa là “nhà chính trị lỗi lạc” nhưng Chúa bỏ họ mà ẩn đi nơi khác. Thế nhưng Chúa vẫn để cho dân chúng đi theo Ngài vì Ngài biết chúng ta đều là những kẻ tội lỗi. Vấn đề lớn nhất là có những người không theo Chúa Giêsu mà lại lỳ ra đó.

Có người cứ đứng đó, đứng ở bên lề đường mà quan sát. Họ ngồi một chỗ mà không nhúc nhích. Có một số kinh sư ngồi đó nhìn, nhìn từ hành lang. Họ không bước đi trong cuộc sống, nên chẳng có gì phải sợ gặp nguy hiểm cả! Họ ở yên một chỗ mà xét đoán người dân. Thậm chí có những lời nặng nề như: Nhìn đám dân ngu muội kìa! Đúng là những kẻ nhẹ dạ cả tin, những kẻ mê tín! Chúng ta cũng bao lần làm như thế, khi đứng nhìn lòng đạo đức bình dân của những người đơn sơ. Tâm thế giáo sĩ trị đã làm cho chúng ta gây hại tới mức nào cho Giáo hội. Những chuyện như thế vẫn còn tiếp diễn.

Để gặp được Chúa Giêsu, cần dám mạo hiểm

Những người hôm nay đến với Chúa Giêsu đã phải làm cuộc đánh liều. Đó là dỡ mái nhà ra, tạo một cái lỗ để có thể thả cái chõng có người bất toại xuống trước mặt Chúa. Họ đã mạo hiểm với chủ nhà, vì chủ nhà có thể kiện họ và họ phải hoàn trả chi phí sửa nhà. Câu chuyện về người phụ nữ bị bệnh 18 năm cũng thế. Bà đã liều khi chạm vào gấu áo Chúa. Bà liều lĩnh vì bà có thể bị xấu hổ vì việc làm ấy. Chúng ta cũng thử nghĩ về người phụ nữ Canaan. Tất cả họ đã liều mạng và đã tìm thấy ơn cứu độ.

Việc đi theo Chúa, không phải là điều dễ dàng, nhưng rất đẹp. Khi đi theo Chúa, luôn có những bất trắc rủi ro. Nhưng rồi chúng ta sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và được Chúa chữa lành. Chúng ta biết mình là kẻ tội lỗi, và để theo Chúa, để gặp Chúa, chúng ta cần can đảm liều lĩnh.

Đừng có một tâm hồn ngồi lỳ trong thất vọng

Đi theo Chúa Giêsu bởi vì chúng ta cần điều gì đó trong việc đi theo Chúa, và điều ấy có nghĩa là theo Chúa trong đức tin. Đây chính là đức tin. Tin tưởng phó thác nơi Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu, nên những kẻ khiêng người bất toại hôm nay mới dám liều dỡ mái nhà tạo cái lỗ, để giúp người bất toại có thể gặp được Chúa. Họ tin Chúa bởi vì Chúa có thể chữa lành cho người bất toại.

Tôi có thể tự hỏi: Lạy Chúa Giêsu, con có tín thác vào Chúa, con có dâng trọn cuộc sống con cho Chúa không? Có những tâm hồn ngồi lỳ ra đó, nhìn xem người khác, nhìn xem cuộc sống. Tâm hồn con có ngồi lỳ ra đó, có đóng cửa trong cay đắng, trong thất vọng không? Hôm nay mỗi người có thể tự hỏi lòng mình những câu hỏi ấy.

Tứ Quyết SJ

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Cuộc sống của chúng ta là một ngày sống, ngày không thể lặp lại. Hôm nay, chúng ta đừng cứng lòng, nhưng hãy mở tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống ngày hôm nay

Tôi nói điều này không phải là để dọa anh chị em, rằng thật đơn giản khi nói: cuộc sống của chúng ta chính là ngày hôm nay: ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi nghĩ thế. Ngày mai sẽ là ngày mai của vĩnh cửu, ngày mai không bao giờ cùng, ngày mai mãi mãi ở bên Chúa. Nếu tôi thực sự sống ngày hôm nay, tôi hỏi Chúa Thánh Thần: Lạy Chúa, con phải sống như thế nào trong ngày hôm nay?

Mở cõi lòng cho Thiên Chúa

Trong trái tim của chúng ta, có cuộc chơi dành cho chính ngày hôm nay. Chúng ta có mở rộng tâm hồn mình cho Chúa không? Tôi thường cảm thấy được đánh động khi nhìn và lắng nghe những bậc cao niên, thường là các linh mục và nữ tu, nói với tôi: “Thưa cha, xin hãy cầu nguyện để con bền đỗ tới cùng.” – “Nhưng các vị đã dâng hiến trọn đời, đã sống mọi ngày trong cuộc đời để phục vụ Chúa rồi, còn sợ gì nữa…?” – “Không, không, con muốn cuộc sống được trọn vẹn, xin hãy cầu nguyện để lòng con mạnh mẽ trong đức tin, và không bị chiều theo những cám dỗ những tội lỗi…”

Tự hỏi lòng mình về ngày hôm nay

Ngày hôm nay không thể lặp lại: cuộc sống là thế. Và tâm hồn, hãy mở cõi lòng, mở cõi lòng mình cho Thiên Chúa, hãy vừng tin, đừng khép tâm hồn, đừng cứng lòng, đừng bị tội lỗi lừa dối. Chúa Giêsu đã từng gặp quá nhiều người đóng cửa tâm hồn: đó là các kinh sư, đó là những người đã kết án Chúa, là những người chuyên gài bẫy Chúa.

Chúng ta trở về nhà chỉ với hai từ này: “ngày hôm nay” và “tâm hồn tôi”. Đây là ngày hôm nay của tôi sao? Ngày hôm nay tôi thế nào? Tôi có sống trong sự hiện diện của Chúa không? Tâm hồn tôi ra sao? Lòng tin của tôi có mạnh mẽ không? Tâm hồn tôi có được dẫn dắt bởi Chúa không? Với câu hỏi về ngày hôm nay và câu hỏi về cõi lòng mình, chúng ta hãy xin Chúa ban những ơn cần thiết cho mỗi người chúng ta. 

Tứ Quyết SJ

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Buổi chiều ngày khai mạc Năm Thánh Lòng thương xót, khí hậu ở thành phố Assisi rất lạnh. Khi Đức cha Domenico Sorrentino, Giám mục của Giáo phận đang trên đường từ nhà thờ thánh Rufino trở về Tòa Giám mục, một nữ tu đã đưa ngài đến chỗ của Yurek, một người Ba lan vô gia cư 60 tuổi. Yurek không có gia đình thân thuộc, ông sống lang thang trên đường phố Assisi từ vài năm nay. Niềm vui của ông là rượu; ông say rượu từ sáng sớm cho đến chiều tối. Tất cả dân thành phố Assisi hầu như đều biết ông, đặc biệt là các nhân viên cứu hộ là những người mà dân chúng thường gọi đến, khi họ thấy ông Yurek say rượu nằm nửa sống nửa chết trên đường phố.

Khi Đức cha Sorrentino tìm thấy Yurek, như mọi ngày, ông đang say rượu, nằm trên đất lạnh lẽo và có nguy cơ là sẽ bị chết cóng vào trời đêm giá rét. Đức cha Sorrentino nhận ra đây là một tình huống khó khăn phức tạp, nhưng ngài không muốn tháo lui, từ chối giúp ông Yurek. Và quả thật, không hề dễ dàng để đưa ông về tòa giám mục. Ban đầu ông Yurek cự tuyệt, từ chối không muốn đi theo Đức cha, vì ông đã quen với đời sống lang thang, làm bạn với rượu chè. Nhưng cuối cùng Đức cha đã thuyết phục được Yurek và đưa ông về tòa giám mục với mình. Sau đó Đức cha đã gửi ông đến trung tâm tiếp nhận của Caritas.

Chính nhờ cuộc gặp gỡ với vị Giám mục này mà cuộc đời của người vô gia cư Yurek được cứu vớt. Thời gian đầu thật là khó khăn để giúp Yurek. Ông ta cứ tiếp tục uống rượu và cơ thể ông ngày thêm suy nhược. Nếu mà người ta cố gắng lấy rượu đi và không cho ông uống nữa thì ông sẽ bỏ đi, vì ông không thể sống mà không được uống rượu. Sau nhiều lần nhập viện và sức khỏe có vấn đề trầm trọng, được các y tá và các nhân viên tình nguyện của Caritas trợ giúp, bệnh nghiện rượu của ông đã chấm dứt. Người ta cũng sợ là ông sẽ bị nghiện lại, nhưng phép lạ đã xảy ra. Từ ngày đó trở đi, ông không còn đụng đến rượu nữa. Mỗi ngày ông thức dậy sớm và bắt đầu quét dọn sạch sẽ ngôi vườn của trung tâm Caritas cách cẩn thận. Trước đó, ngay cả việc vệ sinh cá nhân ông cũng chẳng thèm quan tâm, nhưng bây giờ ông vệ sinh cá nhân và căn phòng của ông luôn luôn sạch sẽ ngăn nắp. Ông cũng đặt hai cái ghế và một cái bàn nhỏ để tiếp đón những người đến thăm ông. Tất cả những người đã biết ông trước đây và bây giờ khi nhìn thấy ông, họ không thể tin vào mắt của mình. Ông bây giờ đã trở thành một người đàn ông khác,sạch sẽ, lịch sự và vui tươi.

Việc cai nghiện thành công và thay đổi cuộc sống của Yurek quả thật là một phép lạ của Năm Thánh Lòng thương xót, như Đức cha Sorrentino nhìn nhận. Ngài mời gọi mọi người cám ơn Chúa về sự cứu sống này. Nhiều bệnh nhân đã đến bệnh viện và trung tâm Caritas, nhưng họ cũng nhận nhiều rủi ro trong việc cai nghiện. Sau câu chuyện cai nghiện thành công và đổi đời  của Yurek, có một bài học luân lý căn bản; đó là chỉ khi được đụng chạm đến sâu thẳm, con người mới có thể đứng dậy và bắt đầu hướng về tương lai. Như cha Stefano Tondelli, phó giám đốc Caritas giáo phận Assisi nhận định: “Có lẽ Yurek cảm thấy được yêu thương, tìm được một chiếc giường để ngã lưng mỗi ngày, những điều này giúp cho ông có động lực để sống, để biết chăm sóc bản thân và thoát khỏi sự tuyệt vọng mà có lẽ đã đẩy ông vào con đường ngập chìm trong rượu chè. Chính Đức cha Sorrentino cũng nhìn nhận răng, ông Yurek là niềm vui Chúa ban cho cộng đoàn, đó là được nhìn thấy hoa trái bé nhỏ nhưng lớn lao của niềm hy vọng tình yêu.

Mới đây ông Yurek đã được Đức cha Sorrentino mời đến ăn trưa cùng với cộng đoàn các nữ tu và cha Tondelli. Như thế, sau 3 thiếu nữ người Nigeria, Đức cha cũng đã mở cánh cổng nhà ngài để đón tiếp người bạn Yurek này. (Aleteia.it  28/11/2016)

Hồng Thủy

 

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Khi tin tưởng vào các thần tượng bằng vật chất, hay do trí óc chúng ta làm ra, khi biến các thực tại hạn hẹp thành tuyệt đối, khi giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng của chúng ta, biến Ngài thành một vị thần giống chúng ta, có thể hiểu được, thấy trước được như các thần tượng vô hồn, là chúng ta đặt hy vọng vào hư vô. Chỉ khi tin tưởng nơi Chúa chúng ta mới trở nên như Ngài, phước lành của Ngài biến đổi chúng ta thành con cái chia sẻ sự sống của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã đề cập tới niềm hy vọng như nhu cầu sơ đẳng của con người: hy vọng vào tương lai, tin tưởng nói sự sống, suy nghĩ tích cực. Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh là thời gian của năm phụng vụ nhằm thức tỉnh nơi dân Thiên Chúa niềm hy vọng. Nhưng thật quan trọng là niềm hy vọng ấy phải đặt để vào điều có thể thực sự giúp chúng ta sống và trao ban ý nghĩa cho cuôc đời mình. Chính vì thế mà Thánh Kinh cảnh báo chúng ta chống lại các niềm hy vọng giả dối, các niềm hy vọng giả dối này mà thế gian trình bầy với chúng ta, bằng cách lột mặt nạ sự vô ích của chúng và chỉ cho thấy cái vô nghĩa của chúng. Và Thánh Kinh làm điều đó bằng nhiều cách thế, nhất là bằng cách tố cáo các thần tượng giả mà con người liên tục bị cám dỗ đặt để niềm tin tưởng của nó, bằng cách biến nó trở thành đối tượng niềm hy vọng của mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đặc biệt các ngôn sứ và các người khôn ngoan nhấn mạnh trên điều ấy, bằng cách đụng chạm tới điểm nhức nhối trên con đường lòng tin của tín hữu. Và ĐTC giải thích như sau:

Bởi vì tin là tín thác nơi Thiên Chúa – ai tin thì tín thác nơi Thiên Chúa – nhưng tới lúc trong đó, khi phải đụng chạm với các khó khăn của cuộc sống, con người cảm nghiệm được sự giòn mỏng của sự tin tưởng của nó và cảm thấy cần có các chắc chắn khác nhau, các chắc chắn cụ thể, có thể sờ mó được. “Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng tình hình hơi xâu một chút, và tôi cần một sự chắc chắn hơi cụ thể môt chút.” Và ở đó, nguy hiểm là ở đó. Và khi đó chúng ta bị cám dỗ tìm cả các an ủi mau qua, xem ra lấp đầy sự trống rỗng của nỗi cô đơn và làm nhẹ bớt cái mệt nhọc của việc tin tưởng.

** Và chúng ta nghĩ có thể tìm chúng trong an ninh. mà nó có thể cho – chẳng hạn – tiền bạc hay trong các liên minh với những người quyền thế; hoặc trong tinh thần thế tục; hay trong các ý thức hệ dối trá. Nhưng chúng ta thích các thần tượng, chúng ta thích các thần tượng biết bao! Có một lần nọ, tại Buenos Aires, tôi phải đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, cách nhau ít nhiều khoảng một ngàn mét. Và tôi đi bộ. Ở giữa hai nhà thờ có một công viên, và trong công viên có rất nhiều các bàn nhỏ, nơi có các thầy bói ngồi; và có rất đông ngưòi xếp hàng dài chờ. Bạn đưa bàn tay cho họ, và họ bắt đầu nói. Nhưng diễn văn luôn luôn giống nhau: có một phụ nữ trong cuộc đời ông, có một bóng đen đang đến, nhưng mọi sự sẽ thành công tốt… Và rồi bạn trả tiền. Điều này có trao ban an ninh cho bạn không? Đó là một sự chắc chắn – xin anh chị em cho phép tôi dùng từ này – của một sự ngu độn – Nhưng đó là một thần tượng: tôi đã đi tới bà thầy bói ông thầy bói, hay tôi đã đi coi bài – Tôi biết là không có ai trong anh chị em làm điều này đúng không? – Tín hữu cười – và tôi đã thành công hơn. Nó làm tôi nhớ tới cuốn phim có tựa đề “Phép lạ tại Milano” của người làm cái đó, thật là thối cái mũi… giá 100 đồng Lire. Họ bắt bạn trả tiền để cho họ ca tụng bạn, trao ban cho bạn một niềm hy vọng giả dối. Đó là thần tượng, và chúng ta gắn bó biết bao với chúng: chúng ta mua các niềm hy vọng giả dối. Và Đấng là niềm hy vọng của sự nhưng không, Đấng đã trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô, một cách nhưng không, đã cho chúng ta sự sống, Đấng ấy thì chúng ta không tin tưởng bao nhiêu…

Đôi khi chúng ta tìm chúng nơi một thần linh có thể cúi gập trước các đòi hỏi của chúng ta, và can thiệp một cách kỳ điệu để biến đổi thực tại, và làm cho nó trở thành như chúng ta muốn; nghĩa là một thần tượng và như là thần tượng nó không thể làm gì hết, bất lực và dối trá.

Có một thánh vịnh tràn đầy khôn ngoan miêu tả cho chúng ta một cách hết sức gợi ý cái giả dối của các thần tượng này, mà thế gian cống hiến cho niềm hy vọng của chúng ta, và con người thuộc mọi thời đại bị cám dỗ đặt tin tưởng nơi chúng. Đó là thánh vịnh 115. Thánh vịnh viết như thế này: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.” (Tv 115,4-8).

Tác giả thánh vịnh trình bầy với chúng ta một cách châm biếm thực tại tuyệt đối phù du của các thần tượng này. Và ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Và chúng ta phải hiểu rằng đây không chỉ là các hình tượng làm bằng kim loại và chất liệu khác, nhưng cũng là các hình tượng mà trí óc chúng ta xây dựng nữa, khi chúng ta tin tưởng nới các thực tại hạn hẹp mà chúng ta biến thành tuyệt đối, hay khi chúng ta giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng về thần linh của chúng ta; một thần linh giống chúng ta, có thể hiểu và tiên liệu, y như các thần tượng mà thánh vịnh nói tới. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chế tạo một thần linh theo hình ảnh của nó, và cũng là một hình ảnh vụng về: không nghe, không cử động và nhất là không thế nói. Nhưng chúng ta lại hài lòng đi tới với các thần tượng hơn là đi tới với Chúa. Chúng ta càng hài lòng hơn với niềm hy vọng phù du trao ban điều giả dối này, thần tượng này hơn là niềm hy vọng vĩ đại chắc chắn mà Chúa ban cho chúng ta…

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: đối chọi với niềm hy vọng nơi một Chúa của sự sống, là Đấng với Lời của Ngài đã tạo dựng nên thế giới và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, người ta tin tưởng nơi các thần tượng câm nín. Các ý thức hệ, với các yêu sách tuyệt đối của chúng, các giầu sang – và đây là một thần tượng lớn – các giầu sang, quyền lực và thành công, sự phù vân, với các ảo tưởng vĩnh cửu và toàn năng của chúng, các giá trị như vẻ đẹp vật lý và sức khỏe, khi chúng trở thành thần tượng cần phải hy sinh mọi sự, tất cả chúng đều là các thực tại làm lẫn lộn tâm trí, và thay vì tạo điều kiện cho sự sống thì nó dẫn đưa tới cái chết.

Thật là xấu xa nghe biết và gây đau đớn cho tâm hồn điều, mà cách đây nhiều năm tôi đã nghe được trong giáo phận kia: có một phụ nữ một phụ nữ giỏi giang, rất đẹp, đẹp lắm, và bà khoe khoang sắc đệp của bà, bà bình luận như thể là chuyện tự nhiên: “Ô, vâng tôi đã phải phá thai, vì gương mặt tôi quan trọng lắm”.Thế đó… Đây là các thần tượng,  chúng đưa bạn tới con đường sai lầm, và không trao ban cho bạn niềm hạnh phúc.

Sứ điệp của thánh vịnh rất rõ ràng: nếu ta đặt tin tưởng nơi các thần tượng, thì ta cũng trở thành như chúng: là các hình ảnh trống rỗng với tay không sờ mó, với chân không bước đi, miệng không thể nói. Ta không còn gì để nói nữa, ta trở thành không có khả năng trợ giúp, thay đổi các sự vật, không có khả năng cười, trao ban chính mình, không có khả năng yêu thương. Và cả chúng ta là các ngưòi của Giáo Hội, chúng ta cũng gặp nguy cơ này khi chúng ta “trần tục hoá chính mình”. Cần phải ở trong thế gian, nhưng bảo vệ chính mình khỏi các ảo tưởng của thế gian là các thần tượng này mà tôi đã nêu trên đây.

Như thánh vịnh tiếp tục, cần phải tín thác và hy vọng nơi Thiên  Chúa, và Thiên  Chúa sẽ chúc phúc. Thánh vinh nói: “Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che. Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa… Ai kính sợ Chúa hãy tin cậy Chúa …Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ chúc phúc” (Tv 115,9-11). Chúa luôn luôn nhớ, cả trong những lúc xấu xa, nhưng Ngài nhớ đến chúng ta. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Và niềm hy vọng không gây thất vọng. Không bao giờ. Không bao giờ gây thất vọng. Các thần tượng luôn luôn gây thất vọng: chúng là các tưởng tượng, chúng không thật.

** Đây là thực tại tuyệt vời của niềm hy vọng: khi tín thác nơi Chúa ta trở thành như Ngài, phúc lành của Ngài biến đổi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con cái Ngài, chía sẻ sự sống của Ngài. Niềm hy vọng nơi Thiên Chúa làm cho chúng ta bước vào trong ánh sáng hoạt động của kỷ niệm của ký ức Ngài chúc lành cho chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Và khi đó có thể vọt lên tiếng Alleluia, chúc tụng Thiên Chúa hằng sống và chân thật, là Đấng vì chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, đã chết trên thập giá và sống lại trong vinh quang. Và nơi vì Thiên Chúa này chúng ta hy vọng, và Thiên Chúa này không phải là một thần tượng, không bao giờ gây thất vọng.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các đại chủng sinh chủng viện Saint Sulpice Issy- les -Moulineaux; các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản; cũng như các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,  và Ba Lan. Ngài nói thế giới cống hiến cho chúng ta biết bao niềm hy vọng giả, thay vì trao ban tin tưởng chúng ăn cắp sự tự do và biến chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Các thần tượng cũng như ma tuý hứa hẹn niềm vui, nhưng lại ăn cướp sự tự do. Vì thế việc chữa lành nô lệ các thần tượng trước hết là nhận biết chúng, quyết định thoát khỏi, can đảm từ bỏ chúng, và nhất là đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thật hằng sống là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói năm nay Ba Lan mừng 100 năm tu huynh Alberto Chmielowski sinh ra.  Tôi khuyến khích anh chị em noi gương vị thánh của lòng thương xót, anh em của những người vô gia cư, dân nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, để đem tình yêu thương, bác ái và niềm hy vọng tới cho mọi người.

ĐTC cũng lưu ý tín hữu đừng để mình bị lừa bởi những kẻ xấu muốn làm tiền họ, vì các vé tham dự tiếp kiến đều hoàn toàn miễn phí.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài đặc biệt chào các linh mục giáo sư các chủng viện, học viện thành viên chi nhánh đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới lễ Chúa chịu phép rửa Chúa Nhật vừa qua. Ngài khích lệ mọi người tái khám phá ra ơn bí tích Rửa Tội đã nhận lãnh, và kín múc từ đó niềm tin nơi Giáo Hội, sức mạnh giúp đối phó với khổ đau bệnh tật và lòng can đảm dấn thân trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải.

Tháng Giêng 2017 – Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha

Tháng Giêng 2017 – Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong tháng giêng năm 2017, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các Kitô hữu cùng nhau phục vụ con người. Đức Thánh Cha chia sẻ trong đoạn Video rằng:

Trong thế giới ngày nay, nhiều Kitô hữu từ các giáo hội khác nhau đã cùng nhau lao tác, để phục vụ những anh chị em cần được trợ giúp, để bảo vệ cuộc sống và phẩm giá con người, để bảo vệ công trình sáng tạo, và để tranh đấu chống lại bất công.

Ước mong cùng nhau tiến bước, cùng nhau cộng tác trong phục vụ và liên đới với những ai yếu đuối nhất và những ai đang đau khổ, ước muốn này là nguồn vui cho tất cả chúng ta.

Hãy hiệp lời của con với lời cầu nguyện của Cha, để mọi người sống đời cầu nguyện và bác ái huynh đệ, để tái lập tình hiệp thông trọn vẹn trong giáo hội, cùng nhau phục vụ con người và đáp lại những thách đố hiện nay của nhân loại.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-1-2017 dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC đã nói về đề tài ”an ninh và hòa bình” trên thế giới.

Ngài lên án nạn khủng bố trên thế giới, đề cao tầm quan trọng của tự do tôn giáo, loại trừ những nguyên nhân bất hòa gây ra chiến tranh, giải quyết vấn đề di dân và tị nạn, bảo vệ thiên nhiên như căn nhà chung, lên án nạn buôn bán võ khí, tái lập hòa bình tại Irak, Siria, và Yemen.

Buổi tiếp kiến bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi trước sự hiện diện của đại diện 182 quốc gia và các tổ chức quốc tế.  Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và ngài hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Hồi giáo Mauritanie cách đây 1 tháng. Ngài cũng cám ơn nhiều vị Đại sứ thường trú ở Roma, con số gia tăng trong năm ngoái, và cả các Đại sứ không thường trú. Ngài cũng nhắc đến các cuộc viếng thăm của các vị Quốc trưởng và Thủ tướng tại Tòa Thánh trong năm qua, trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng như việc ký kết nhiều hiệp định thư giữa Tòa Thánh và một số nước.

ĐTC nhắc đến sự kiện cách đây đúng 100 năm thế giới đang ở giữa thế chiến thứ I, năm 1917, cuộc chiến ngày càng trở nên cuộc chiến hoàn cầu. 100 năm sau, nhiều nơi trên thế giới được hưởng an bình lâu dài, tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế và những hình thức an sinh chưa từng có. Nhưng nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống giữa các cuộc xung đột vô nghĩa.

Hòa bình hồng ân của Thiên Chúa và vai trò của tôn giáo

ĐTC nói: ”Vì vậy, tôi muốn dành cuộc gặp gỡ hôm nay để nói về đề tài an ninh và hòa bình, vì trong bầu không khí sợ hãi nói chung đối với hiện tại, và sự bất định, lo âu về tương lai hiện nay, tôi thấy cần nói lên một lời hy vọng, và chỉ cho thấy một viễn tượng hành trình.

Cách đây vài ngày chúng ta đã cử hành Ngày Thế Giới hòa bình lần thứ 50, ngày này đã được vị tiền nhiệm của tôi, Chân phước Phaolô 6 thiết lập [….). Đối với các tín hữu Kitô, hòa hình là một hồng ân của Chúa, được các thiên thần tung hô và ca hát khi Chúa Kitô sinh ra: ”Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dươi thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14). Hòa bình là một thiện ích tích cực, là ”kết quả của trật tự Thiên Chúa in vào xã hội loài người”, và không phải chỉ là sự vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không thể thu hẹp vào việc quân bình hóa các thế lực đối nghịch nhau, đúng hơn nó đòi hỏi sự dấn thân của những người thiện chí nồng nhiệt khao khát một nền công chính ngày càng hoàn hảo hơn.

Trong viễn tượng đó, tôi bày tỏ xác tín mạnh mẽ rằng mỗi biểu hiện tôn giáo đều được kêu gọi thăng tiến hòa bình. Tôi đã có thể cảm nghiệm điều đó một cách ý nghĩa trong Ngày Thế Giới cầu nguyện cho hòa bình, nhóm tại Assisi hồi tháng 9 năm ngoái, trong đó các đại diện tôn giáo họp nhau cùng mang lại tiếng nói cho những người đau khổ, những ngừơi không có tiếng nói, cũng như trong cuộc viếng thăm của tôi tại Đại Hội đường Do thái ở Roma hoặc Đền thờ Hồi giáo ở thành phố Baku.

Chúng ta biết không thiếu những bạo lực vì lý do tôn giáo, đi từ chính Âu châu này, nơi mà những chia rẽ lịch sử giữa các tín hữu Kitô đã kéo dài quá lâu. Trong cuộc viếng thăm mới đây của tôi ở Thụy Điển, tôi đã muốn nhắc nhở nhu cầu cấp thiết phải chữa lành những vết thương quá khứ và đồng hành tiến về những mục tiêu chung. Nơi căn bản của cuộc đồng hành như thế không thể thiếu cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo khác nhau. Đó là một cuộc đối thoại có thể thực hiện và là điều cần thiết, như tôi đã chứng tỏ trong cuộc gặp gỡ tại Cuba với Đức Thượng Phụ Kirill thành Mascơva, cũng như trong các cuộc tông du của tôi tại Armeni, Giorgia, và Azerbaigian, những nơi mà tôi nhận thấy khát vọng chính đáng của dân chúng muốn giải quyết các cuộc xung đột từ lâu đang làm thương tổn sự hòa hợp và hòa bình.

Đồng thời, chúng ta cũng không nên quên nhiều công trình, lấy hứng từ tôn giáo, đang góp phần vào việc xây dựng công ích, qua việc giáo dục, từ thiện, nhất là trong những vùng khó khăn và là nơi diễn ra xung đột. Nhiều khi việc đóng góp ấy được thực hiện tới mức độ hy sinh của các vị tử đạo. Các công trình đó góp phần vào hòa bình và cho thấy cách thức người ta có thể sống cụ thể và làm việc chung với nhau, dù thuộc các dân tộc, văn hóa và truyền thống khác nhau, nếu phẩm giá con người được đặt ở trung tâm mọi hoat động của mình.

Lên án lạm dụng tôn giáo để khủng bố

ĐTC nêu nhận xét: ”Rất tiếc chúng ta thấy rằng ngày nay kinh nghiệm tôn giáo, thay vì cởi mở đối với tha nhân, nhiều khi nó có thể bị lạm dụng để khép kín, gạt ra ngoài lề và gây ra bạo lực. Tôi đặc biệt nghĩ đến nạn khủng bố do trào lưu cực đoan, trong năm qua đã đốn ngã nhiều nạn nhân trên thế giới: tại Afganistan, Bangladesh, Bỉ, Burkina Faso, Ai Cập, Pháp, Đức, Giordani, Irak, Nigeria, Pakistan, Hoa Kỳ, Tunisi và Thổ Nhĩ Kỳ. Những vụ khủng bố ấy là những hành vi hèn nhát, dùng các trẻ em để giết người, như tại Nigeria; tấn công những người đang cầu nguyện, như tại Nhà thờ chính tòa Copte ở Cairo, những người du hành hoặc làm việc, như ở Bruxelles, những người đi dạo ở đường phố như ở Nice và Berlin, hoặc những người đón mừng năm mới như ở Istanbul.

Đó là một sự sát nhân điên rồ, lạm dụng danh Thiên Chúa để gieo chết chóc, trong toan tính khẳng định ý muốn thống trị và quyền lực. Vì thế tôi kêu gọi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo hãy hiệp sức để mạnh mẽ tái khẳng định rằng không bao giờ có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Nạn khủng bố do trào lưu cực đoan là kết quả của một sự lầm than trầm trọng về tinh thần, kèm theo đó có một sự nghèo nàn về mặt xã hội. Nó chỉ có thể hoàn toàn bị đánh bại với sự đóng góp chung của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Các vị lãnh đạo tôn giáo có nhiệm vụ thông truyền các giá trị tôn giáo không chấp nhận sự đối nghịch giữa lòng kính sợ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Các vị lãnh đạo chính trị có nhiệm vụ bảo đảm trong lãnh vực công cộng quyền tự do tôn giáo, nhìn nhận sự đóng góp tích cực và xây dựng mà tự do tôn giáo thi hành trong việc xây dựng xã hội dân sự, trong đó người ta không thể coi như những điều đối nghịch giữa một đàng là sự thuộc về xã hội theo nguyên tắc quyền công dân, và bên kia là chiều kích tinh thần của cuộc sống. Ngoài ra, người cai trị có trách nhiệm tránh tạo nên những hoàn cảnh bị biến thành môi trường thuận tiện cho sự lan tràn chủ nghĩa duy căn cực đoan. Điều này đòi phải có những chính sách xã hội thích hợp để bài trừ nạn nghèo đói, cùng với sự thăng tiến chân thành giá trị của gia đình, như nơi ưu tiên để con người triển nở và cần đầu tư dồi dào vào lãnh vực giáo dục và văn hóa.

 Nghĩa vụ của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền

”Về vấn đề này, tôi quan tâm đón nhận sáng kiến của Hội đồng Âu Châu về chiều kích tôn giáo, đối thoại liên văn hóa, năm ngoái có chủ đề là vai trò của giáo dục trong việc phòng ngừa sự cực đoan hóa, dẫn đến nạn khủng bố và cực đoan bạo lực. Đó là một cơ hội để đào sâu sự đóng góp của hiện tượng tôn giáo và vai trò của giáo dục cho việc bình định hóa xã hội, vốn là điều cần thiết cho sự sống chung trong một xã hội đa văn hóa.

Theo nghĩa đó tôi muốn bày tỏ xác tín này: mỗi chính quyền không thể chỉ giới hạn vào việc bảo đảm an ninh cho các công dân của mình mà thôi – ý niệm này có thể dễ dàng thu hẹp vào một thứ sống yên hàn – nhưng họ còn được kêu gọi cổ võ và thi hành hòa bình. Hòa bình là một nhân đức tích cực, đòi phải có sự dấn thân và cộng tác của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Như Công đồng chung Vatican II đã nhận xét, ”hòa bình không bao giờ là điều đạt được một lần cho tất cả, nhưng là một tòa nhà cần được liên tục xây dựng”, bằng cách bảo vệ thiện ích của con người, tôn trọng phẩm giá của họ. Xây dựng hòa bình trước tiên đòi phải từ bỏ bạo lực khi đòi hỏi các quyền của mình. Tôi đã dành Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới năm nay, 2017, để nói về nguyên tắc đó. Sứ điệp có tựa đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”, trước tiên kêu gọi làm sao để bất bạo động là một đường lối chính trị, dựa trên công pháp và phẩm giá của mỗi người”.

Loại trừ những nguyên nhân cản trở việc xây dựng hòa bình

”Xây dựng hòa bình cũng đòi phải loại trừ những nguyên nhân bất hòa tạo nên chiến tranh, bắt đầu từ những bất công. Thực vậy có một liên hệ mật thiết giữa công lý và hòa bình. Như Thánh Gioan Phaolô 2 đã nhận xét, vì công lý của con người luôn mong manh và bất toàn, có những giới hạn và chịu ảnh hưởng của lòng ích kỷ cá nhân và nhóm, nên công lý ấy phải được thực thi, và bổ túc bằng sự tha thứ chữa lành các vết thương và tái lập sâu xa các quan hệ giữa con người đã bị xáo trộn […]. Tha thứ không hề trái ngịch với công lý, nhưng đúng hơn, nó nhắm đến sự sung mãn của công lý, đến sự yên hàn trong trật tự, chữa lành trong chiều sâu cho các vết thương làm tâm hồn rướm máu. Để đạt được sự chữa lành như thế, công lý và tha thứ đều là những điều thiết yếu”. Những lời này, ngày nay có tính chất thời sự hơn bao giờ hết, đã được sự sẵn sàng đón nhận của một số vị Quốc trưởng và thủ tướng chính phủ đối với lời mời gọi của tôi và đã thực hiện một cử chỉ ân xá đối với các tù nhân. […]

Lòng thương xót

Tôi xác tín rằng đối với nhiều người, Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót là một cơ hội đặc biệt thích hợp để khám phá ảnh hưởng to lớn và tích cực của lòng thương xót như một giá trị xã hội. Mỗi người có thể góp phần tạo nên một nền văn hóa lòng thương xót, dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ tha nhân: một nền văn hóa trong đó không ai nhìn người khác trong sự dửng dưng, và cũng không ngoái nhìn đi nơi khác để không thấy sự đau khổ của những người anh em”. Chỉ như thế chúng ta mới có thể kiến tạo những xã hội cởi mở và hiếu khách đối với người ngoại quốc và đồng thời được an ninh và hòa bình trong quốc nội. Điều này càng cần thiết ngày nay, đang lúc có những làn sóng di dân đông đảo ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người tị nạn và di tản ở một số miền ở Phi châu, Đông Nam Á, và những người chạy trốn khỏi những vùng xung đột ở Trung Đông. (…)

Vấn đề di dân

”Vấn đề di dân là một vấn đề không thể để cho một vài nước lãnh đạm dửng dưng, trong khi những nước khác phải hỗ trợ gánh nặng nhân đạo, nhiều khi với những cố gắng lo lớn và khó khăn nặng nề, để đương đầu với tình trạng cấp thiết dường như vô tận. Tất cả đều phải cảm thấy mình là những người xây dựng và góp phần vào công ích quốc tế, kể cả qua những cử chỉ nhân đạo cụ thể, như những yếu tố thiết yếu hòa bình và phát triển mà các quốc gia và hàng chiều người đang chờ đợi. Vì thế tôi biết ơn các nước quảng đại đón nhận những người ở trong tình trạng ở trong tình trạng cần được giúp đỡ, bắt đầu từ các nước Âu Châu, đặc biệt là Italia, Đức, Hy Lạp và Thụy Điển.

”Tôi vẫn còn giữ ấn tượng mạnh về cuộc viếng thăm tôi đã thực hiện tại đảo Lesvos, cùng với những người anh em của tôi là Đức Thượng Phụ Barlolomaios và Đức TGM Ieronymos; tại đảo đó tôi đã thấy và động chạm đến tình trạng thê thảm của các trại tị nạn, và cũng thấy tình nhân đạo và tinh thần phục vụ của nhiều người dấn thân trợ giúp người tị nạn. Không được quên sự đón tiếp của các nước Âu Châu và Trung Đông, trong đó có Liban, Giordani, Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như sự dấn thân của nhiều nước Phi châu và Á châu. Cả trong cuộc viếng thăm của tôi ở Mêhicô, nơi tôi đã cảm nghiệm niềm vui của dân Mêhicô, tôi đã thấy gần gũi hàng ngàn người di dân từ Trung Mỹ, họ phải chịu những bất công kinh khủng và những nguy hiểm khi tìm cách đạt được một tương lai tốt đẹp hơn, họ là nạn nhân của những vụ bóc lột và là đối tượng buôn bán đáng lên án, một hình thức nô lệ tân thời là nạn buôn người.

Trong phần kế tiếp của bài diễn văn dài, ĐTC tố giác quan niệm thu hẹp về con người, góp phần phổ biến bất chính, sự bất bình đẳng xã hội và hiện tượng tham nhũng… Tệ nạn lạm dụng trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách lao động, hoặc bị lạm dụng như ngài đã viết trong thư gửi các GM nhân ngày lễ các Thánh Anh hài mới đây. Ngoài ra có những ngừơi trẻ đang chịu đau khổ vì chiến tranh và xung đột, như cuộc xung đột thảm khốc tại Siria.

Chống lại tình trạng chiến tranh trên đây, ĐTC kêu gọi bài trừ nạn buôn bán ma túy cũng như sự chạy đua sản xuất và phổ biến các võ khí ngày càng tối tân. Ngài không quên vấn đề bảo vệ môi trường và nói rằng:

Chăm sóc thiên nhiên

”Xây dựng hòa bình cũng có nghĩa là tích cực hoạt động để chăm sóc thiên nhiên. Hiệp định Paris về khí hậu mới bắt đầu có hiệu lực là một dấu chỉ quan trọng về sự dấn thân chung để để lại cho những người đến sau chúng ta một thế giới đẹp đẽ và có thể sống được. Tôi cầu mong nỗ lực đã được thực hiện trong thời gian gần đây để đương đầu với những thay đổi khí hậu ngày càng tìm được sự cộng tác rộng rãi của tất cả mọi người, vì trái đất là nhà chung của chúng ta, và cần để ý rằng những chọn lựa của mỗi người có ảnh hưởng trên cuộc sống của tất cả.

Động đất

”Nhưng một điều hiển nhiên là có những hiện tượng vượt quá khả năng của hoạt động con người. Tôi muốn nói đến nhiều vụ động đất xảy ra tại một số miền trên thế giới. Trước tiên tôi nghĩ đến những vụ động đất ở Ecuador, Italia, và Indonesia, gây ra nhiều nạn nhân, và nhiều người vẫn còn phải sống trong những điều kiện bấp bênh. Tôi đã đích thân viếng thăm một số vùng bị động đất ở miền trung Italia. Tại đây tôi đã nhận thấy những vết thương mà động đất gây ra cho một miền đất phong phú về nghệ thuật và văn hóa, tôi đã có thể chia sẻ đau khổ của bao nhiêu người đồng thời lòng can đảm của họ và quyết tâm tái thiết những gì đã bị phá hủy. Tôi cầu mong rằng tình liên đới đã liên kết nhân dân Italia trong những giờ sau các trận động ấy đất tiếp tục linh hoạt toàn thể đất nước, nhất là trong thời điểm khó khăn của lịch sử. Tòa Thánh và Italia đặc biệt gắn bó với nhau vì những lý do lịch sử văsn hóa và địa lý. Mối liên hệ ấy đặc biệt hiển nhiên trong Năm Thánh và tôi cám ơn tất cả các giới chức chính quyền Italia vì sự giúp đỡ trong việc tổ chức biến cố ấy, và bảo đảm an ninh cho các tín hữu hành hương từ các nơi đến đây.”

G. Trần Đức Anh OP 

Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã có 6000 Linh mục

Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã có 6000 Linh mục

Seoul – Theo tin địa phương hôm thứ 3, cho đến nay, đã có hơn 6000 người Hàn quốc được lãnh nhận thiên chức Linh mục trong Giáo hội Công giáo.

Trong niên giám năm 2017 mới được phát hành, Hội đồng Giám mục Hàn quốc ghi nhận là cho đến ngày 30/09/2016, số Linh mục được thụ phong là 6021 vị.

Danh sách này bao gồm cả cha Anrê Kim, Linh mục đầu tiên người Hàn quốc và là thánh tử đạo, thường được biết với tên khai sinh là Kim Dae-geon.

Trong tổng số hơn 6000 Linh mục, hiện có 5021 vị vẫn đang hoạt động trong khi 560 vị đã qua đời và 440 vị đã hồi tục. (Asia News 11/01/2017)

Hồng Thủy

Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Phỏng vấn ĐHY Jean Lous Tauran về việc đối thoại với Hồi giáo

Ngày 19 tháng 12 năm vừa qua Anis Amri, một thanh niên người Tunisi, đã đánh cắp một xe vận tải chở hàng, giết tài xế người Ba Lan, rồi lái xe tông vào một chợ Giáng Sinh đầy người đang đi mua sắm ở Breitscheidplatz trong thủ đô Berlin của Cộng Hoà Liên Bang Đức, khiến cho 12 người chết và 56 người bị thương. Sau khi chạy trốn khỏi Đức Anis Amri đã đi xe lửa qua Bỉ, Hoà Lan và Pháp để vào Italia, và đã bị cảnh sát bắn chết tại Sesta San Giovanni, thuộc Milano bắc Italia ngày 22 tháng 12. Amri đã từng bị kết án tù 5 năm tại Italia vì nhiều tội khác nhau. Trước khi thực hiện vụ khủng bố này Anis Amri đã tung lên mạng video anh đang ca tụng nhà nước Hồi IS.

Vụ khủng bố đẫm máu này lại khiến cho nhiều người đặt vấn nạn liên quan tới cuộc đối thoại của Giáo Hội công giáo với Hồi giáo. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn về vấn đề này.

Hỏi: Thưa ĐHY, kiểu khủng bố như đã xảy ra tại Berlin nhắc lại vụ khủng bố tương tự đã xảy ra tại Nice bên Pháp hối tháng 7 năm 2016 và vụ khủng bố tại Rouen. Chúng đã khiến cho nhiều người tại Âu châu khép kín đối với người Hồi. Đấy là chưa kể tới các vụ khủng bố tại Aleppo, và vụ khủng bố mới đây xảy ra tại nhà thờ chính toà Copte trong thủ đô Cairo của Ai Cập. Trước tất cả các vụ khủng bố này còn có thể nói tới đối thoại không thưa ĐHY?

Đáp: Chính vì tình hình này mà cần phải đặc biệt chú ý tới thế giới hồi giáo. Chúng  ta tất cả đều đã bị liên lụy bởi những gì đã xảy ra bên Đức, bên Ai Cập và trước đó nữa là trên quê hương Pháp của tôi.  Nhưng mà cả trong tình trạng đó chúng tôi cũng đã có thể  đánh giá cao việc thức tỉnh căn tính tôn giáo tứ phía đa số người dân Pháp, cũng như tình liên đới, mà các anh chị em Hồi giáo các nước khác đã bầy tỏ với chúng tôi, đặc biệt là sau vụ sát hại vị linh mục cao niên, cha Jacques Hamel. Chúng tôi đau đớn tiếp tục chứng kiến các hành động tàn bạo vô nghĩa chống lại những người vô tội trong cuộc sống thường ngày của họ. Trước các hành động đó, trước thảm cảnh của các người di cư tỵ nạn, trước cuộc khủng hoảng quốc tế, nhất là trước tình trạng xung đột tại Siria, cám dỗ bỏ cuộc rất là lớn. Nhưng chính trong lúc này là lúc phải tiếp tục tin nơi sự đối thoại, là điều nòng cốt đối với toàn thể nhân loại.

Hỏi: Thưa ĐHY làm thế nào để đưa cuộc đối thoại này tiến tới trong cuộc sống thường ngày?

Đáp: Tất cả mọi người đều phải đào sâu niềm tin tôn giáo của mình, và hiểu rằng đối thoại không phải chỉ được dành cho “các chuyên viên”. Nhưng tất cả mọi người đều phải từ bỏ các thái độ nghi ngờ hay tranh cãi bênh vực các lý do của mình. Khi thực thi, trong sự tự do và lòng tôn trọng, quyền lợi của tha nhân, tất cả những gì mà đa số các tôn giáo đều có chung là cầu nguyện, ăn chay, làm phúc bác ái, hành hương, là chúng ta sẽ chứng minh rằng các tín hữu là một yếu tố của hoà bình cho các xã hội loài người. Trong thế giới bấp bênh ngày nay, đối thoại giữa các tôn giáo không phải là một dấu chỉ của sự yếu đuối. Nó tìm ra lý do của nó trong cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại.

Hỏi: Nếu phải tóm tắt với một hình ảnh các kết quả của cuộc đối thoại trong năm 2016, thì ĐHY chọn hình ảnh nào?

Đáp: Chắc chắn là tôi chọn hình ảnh ĐTC Phanxicô gặp gỡ Đại Imam Sceicco Ahmad Muhammad al Tayyib, đến Vaticăng với một phái đoàn cấp cao, trong đó có các giáo sư Abbas Shouman, phó thư ký đại học Hồi Sunnít, và giáo sư Hamdi Zakzouk, giám đốc Trung tâm đối thoại Al Azhar. Đại Imam đã được tôi và ĐC Miguel Angel Ayuso Guixot, thư ký Hội đồng toà thánh đối thoại liên tôn tiếp đón, và  chúng tôi đã tháp tùng đại Imam tới gặp gỡ ĐTC. Trong cuộc hội kiến chúng tôi đã nhấn mạnh trên sự cần thiết các vị lãnh đạo và tín hữu của các tôn giáo lớn cùng nhau dấn thân cho hoà bình trên thế giới, khước từ bạo lực và khủng bố; và chúng tôi cũng đề cập tới tình hình của các kitô hữu và các căng thẳng trong vùng Trung Đông.

Hỏi: ĐTC Phanxicô đã hơn một lần lập lại rằng không được đồng hoá Hồi giáo với bạo lực, có phải không thưa ĐHY?

Đáp: Vâng, nhưng không phải chỉ có thế. Trong chuyến bay từ Ba Lan trở về Roma ngày 31 tháng 7 ĐTC đã trả lời một câu hỏi, và bảo đảm rằng các anh chị em hồi giáo tìm kiếm hoà bình, tìm kiếm gặp gỡ. Và chính Sceicco Al Tayyib, trong một cuộc phỏng vấn dành cho các nhà báo Vaticăng ngay sau cuộc gặp gỡ với ĐTC, đã nhấn mạnh rằng Hồi giáo không liên quan gì tới khủng bố, bởi vì ai giết người là đã hiểu sai các văn bản nền tảng của Hồi giáo; và thật là điều nền tảng các tôn giáo  lớn phải có một nỗ lực chung để đưa ra cho nhân loại một hướng đi mới tiến tới lòng thương xót và hoà bình trong thời đại khủng hoảng trầm trọng này. Như vậy, nếu Đức Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Đại Imam của đại học Al- Azhar  trong chuyến công du Ai Cập trong Năm Thánh 2000, thì Sceicco Al Tayyib đã là Đại Imam đầu tiên viếng thăm ĐTC tại Vaticăng, và luôn luôn trong một Năm Thánh, là Năm Thánh Lòng Thương Xót, tức mười lăm năm sau Năm Thánh 2000.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu đã là hoạt động ngoại giao đi trước và theo sau cuộc gặp gỡ này?

Đáp: Vào tháng hai ĐC Ayuso đã đến Cairo, và tại Cairo ĐC đã được ĐTGM Bruno Musarò,  Sứ Thần Toà Thánh,   tháp tùng tới đại học Al Azhar. ĐC Ayuso đã trao tận tay cho giáo sư Shouman một bức thư của tôi, trong đó tôi bầy tỏ sự sẵn sàng tiếp đón Đại Imam và tháp tùng ông vào gặp ĐTC Phanxicô tại Vaticăng. Sau đó ĐC Ayuso đã sang Cairo hai lần nữa, vào tháng 7 và tháng 10 để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sẽ ghi dấu việc tái đối thoại giữa Hội đồng Toà Thánh  và đại học hồi giáo Cairo, vào cuối tháng 4 năm 2017.

Hỏi: Thưa ĐHY, đâu là các chặng ý nghĩ khác trong các sinh hoạt của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn trong năm 2016?

Đáp: Vào đầu năm  2016 có cuộc gặp gỡ hàng năm tại Genève giữa các nhân viên của Hội Đồng và của Văn phòng đối thoại liên tôn với sự cộng tác của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô  trong “Tuần hòa hợp liên tôn” do Liên Hiệp Quốc thành lập. Vào tháng giêng ĐC Ayuso, Thư ký Hội Đồng, đã sang Abu Dhabi tham dự “Diễn đàn các tư tưởng gia A rập”, tổ chức lần đầu tiên. ĐC đã là thuyết trình viên duy nhất không phải người Hồi giáo, và ĐC đã phát biểu về đề tài “Khuynh hướng cực đoan” phân tích các lý do và các phương thế sửa chữa có thể có. Vào tháng hai tôi đã được ông Khaled Abashed, trưởng phòng Hồi giáo, tháp tùng tham dự Hội nghi đối thoại liên tôn lần thứ 12  triệu tập tại Doha bên Qatar.

Hỏi: Thật là ý nghĩa trong năm 2016 ĐTC đã gặp giới lãnh đạo các tôn giáo khác nhiều lần trước khi chủ sự buổi tiếp kiến chung tín hữu và du khách hành hương năm châu. Các buổi gặp gỡ này đã có ý nghĩa gì thưa ĐHY?

Đáp: Đó đã là các lúc rất quan trọng, trong đó ĐTC đã nói mấy lời tự phát ngắn gọn. Các cung cách và cử chỉ dễ thương của ngài đã để lại nơi tất cả mọi người một kỷ niệm tốt. Các vị thuộc “Học viện hoàng gia đặc trách nghiên cứu liên tôn” tại Amman bên Giordania cũng như ông Haxhi Baba Edmond Bahimaj, thủ lãnh cộng đoàn Bektashi, được ĐGH tiếp kiến tuần sau đó, đã cho tôi biết như vậy. Đây là một huynh đoàn hồi giáo phát xuất từ nhóm Sufi, được thành lập hồi thế kỷ 13 bên Thổ Nhĩ Kỳ, và được phổ biến, nhất là bên Albania. Cùng sự kiện này lại xảy ra ngày mùng 1 tháng 6  với một phái đoàn 35 người, và sau cùng ngày 23 tháng 11 với các người hồi Sunnít Iran  tham dự cuộc hội luận về “Khuynh hướng cực đoan và bạo lực nhân danh tôn giáo”, do Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn tổ chức cùng với tổ chức Văn hoá và tương quan tại Teheran. Ngoài ra trong các ngày mùng 7-8 tháng 9 đã có hội nghị về “Châu Mỹ đối thoại- Ngôi nhà chung của chúng ta”. Do Hội đồng Toà Thánh và Học viện đối thoại liên tôn Buenos Aires cùng tổ chức. Các tham dự viên sau đó đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến. Sau cùng chúng ta cũng không quên buổi tiếp liên tôn do chính ĐTC muốn ngày mùng 3 tháng 11, với sự tham dự của biết bao thân hữu và các tác nhân đối thoại, trong đó có các nhân viên của “Trung tâm quốc tế đối thoại liên tôn” tại Vienne bên Áo, viết tắt là KAICIID. Trung tâm này cũng đã thăng tiến một cuộc hội luận về lòng thương xót  tại Đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma.

Hỏi: Các con số thống kê cho thấy Á châu quan trọng, và ĐTC cũng chú ý theo dõi các biến cố của đại lục này vì tầm quan trọng của cuộc đối thoại với Đông Phương. Có các tương quan nào với Á châu và các nền văn hóa của nó thưa ĐHY?

Đáp: Hồi tháng 5 ĐC Thư ký của Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn đã sang Nhật Bản để tham khảo ý kiến các vị lãnh đạo tôn giáo cấp cao vùng Trung Đông về đề tài quyền công dân, nhằm thăng tiến môt ý thức lớn hơn tại các nước có đa số dân theo Hồi giáo. Trong các cuộc gặp gỡ tại Tokyo cũng đã có việc củng cố các liên lạc Giữa Giáo Hội công giáo và tổ chức Phật giáo Risho Kosei Kai. Vào tháng 10 ĐC Ayuso cũng đã cùng với cha phó thư ký Indunil Kodithuwakku đi sang Singapore, rồi Đài Loan nhân cuộc gặp gỡ kitô lão giáo lần đầu tiên được tổ chức tại đây.

Hỏi: Hội Đồng Toà Thánh đối thoại liên tôn cũng đã gửi các sứ điệp tới các tôn giáo lớn tại Á châu nhân các dịp lễ, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Đúng thế. Nhân lễ Ánh Sáng Vesakh, kỷ niệm các biến cố chính trong cuộc đời Đức Phật, chúng tôi đã gửi sứ điệp về đề tài “Tín hữu kitô và phật giáo cùng nhau thăng tiến giáo dục môi sinh”. Vào tháng 10 chúng tôi đã gửi một sứ điệp cho các tín hữu Ấn giáo tập trung vào tầm quan trọng của gia đình nhân dịp lễ Deepavali có nghĩa là “hàng đèn dầu”, dựa trên một huyền thoại cổ xưa diễn tả chiến thắng của chân lý trên dối trá và của ánh sáng trên tối tăm. Sau cùng vào tháng Ramadan nhằm tháng 6 chúng tôi cũng đã gửi các lời cầu chúc truyền thống tới cộng đoàn hồi giáo.

Hỏi: Một trong những thời điểm chính của năm 2016 vừa qua chắc chắn đã là cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình tại Assisi ngày 20 tháng 9, nhân kỷ niệm lần thứ 36 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời các vị lãnh đạo các tôn giáo lớn tụ tập nhau cầu nguyên cho hoà bình thế giới, Nó đã có ý nghĩa nào thưa ĐHY?

Đáp: Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình hồi năm 1986 đã hướng Giáo Hội tới các tôn giáo không kitô. Mặc dù có giáo huấn của Đức Phaolô VI trong thông điệp “Ecclesiam suam” và của Công Đồng Chung Vaticăng II với tuyên ngôn “Nostra aetate”, các tôn giáo này xem ra vẫn xa vời, nếu không nói là xa lạ. Cuộc gặp gỡ liên tôn cầu nguyện cho hoà bình đã là biểu tượng, là việc thực hiện nhiệm vụ của Giáo Hội trong một thế giới đa tôn giáo. Vì thế không phải vô tình mà chính ĐTC Phanxicô đã muốn tái đề nghị các nội dung  của nó bằng cách đến Assisi tham dự một ngày cầu nguyện cho hoà bình với đề tài “Khát khao hoà bình. Các tôn giáo và các nền văn hoá đối thoại với nhau”.

(Oss. Rom. 21-12-2016)

Linh Tiến Khài

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư, vì Chúa sống như người phục vụ, vì Chúa gần gũi và thương mến mọi người, vì Chúa nói và làm nhất quán. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Có thẩm quyền là nhờ phục vụ mọi người

Chúa Giêsu phục vụ mọi người. Chúa đến để phục vụ. Và điều ấy người dân hiểu rất rõ. Chúa mang lấy tâm tình và thái độ của người phục vụ, và việc phục vụ ấy cho thấy Người là Đấng có uy quyền. Nhưng đối với các tiến sĩ luật thì lại khác. Dân chúng nghe họ nói, tôn trọng họ, nhưng chẳng cảm thấy chút gì là thẩm quyền, là quyền uy từ những lời các vị tiến sĩ luật cả. Bởi lẽ, các tiến sĩ luật nói: chúng tôi là những bậc thầy, chúng tôi có các quy luật, và chúng tôi sẽ dạy các quy luật ấy cho anh em. Chúng tôi ra lệnh và anh em vâng theo. Như thế, chẳng có gì là phục vụ cả. Chúa Giêsu không bao giờ làm ra vẻ như một hoàng tử, nhưng Chúa luôn luôn là người phục vụ mọi người. Và chính từ việc phục vụ này, Chúa trao ban quyền uy của Chúa.

Có thẩm quyền là nhờ gần gũi người dân

Các luật sĩ xa cách người dân, các luật sĩ chẳng thân thiện gì. Chúa Giêsu rất gần gũi người dân, và từ sự gần gũi đó diễn tả uy quyền của Chúa. Có những luật sĩ sống tách biệt, và họ giảng dạy với thẩm quyền giáo sĩ, với tâm thức họ có quyền của một người giáo sĩ, ngay cả theo kiểu tâm thức giáo sĩ trị.

Tôi rất thích đọc về sự gần gũi mà Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI viết trong số 48 của Tông huấn Loan Báo Tin Mừng. Ngài viết: Bạn nhìn thấy sự gần gũi của tâm hồn người chăn chiên: đó chính là uy quyền của vị Giáo Hoàng, sự gần gũi. Trước tiên, cần là người tôi tớ của những tôi tớ trong khiêm tốn: người làm đầu phải là người phục vụ, phục vụ mọi người. Đó là một sự đảo lộn. Thay vì chỉ đạo mọi người thì Chúa Giêsu đã sống như người phục vụ. Thứ nhất chính là phục vụ và thứ hai là sự gần gũi.

Có thẩm quyền là nhờ lời nói đi đôi với việc làm

Có những người không nhất quán, không trước sau như một và tâm tính của họ bị phân mảnh. Họ nói mà chẳng làm, họ nói thế này rồi làm thế khác. Đó là sự mâu thuẫn. Có nhiều lần Chúa Giêsu trách mắng những người như thế là quân đạo đức giả, là kẻ giả hình. Anh em đã hiểu rằng, có những người luôn cảm thấy mình là ông hoàng, luôn mang lấy nơi mình thái độ giáo sĩ trị, và đó chính là thói đạo đức giả, và những điều ấy chẳng có chút gì là thẩm quyền. Còn Chúa Giêsu, Chúa đã phục vụ, đã gần gũi mọi người, không coi thường một ai trong dân, Chúa nói và làm đồng nhất, những điều ấy chính là thẩm quyền là quyền uy của Chúa. Đây chính là thẩm quyền mà dân của Thiên Chúa lắng nghe và cảm thấy.

Tứ Quyết SJ

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Đời sống của người Kitô hữu không cần những gì là khác lạ và khó khăn, nhưng là cuộc sống đơn sơ biết đặt Chúa Giêsu là trung tâm của những chọn lựa hàng ngày. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta, nhân ngày đầu tiên của mùa Thường Niên.

Sau những ngày Giáng Sinh, chúng ta bắt đầu mùa Phụng vụ mới, mùa Thường Niên, nhưng trung tâm của đời sống người Kitô hữu luôn là Chúa Giêsu, vì Người là Lời đầu tiên và vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng là Chủ Tể vũ trụ, là Đấng Cứu Độ thế gian. Ngoài Người ra, không còn Đấng nào khác.

Trung tâm của đời sống chúng ta là chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa đã tỏ mình cho chúng ta, và chúng ta được mời gọi để nhận ra Người trong cuộc sống, trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, để nhận ra Người để nhận biết Người. Nhưng có người trong anh chị em nói: “Thưa cha, con biết cuộc đời các thánh, con biết các cuộc hiện ra và còn hơn thế nữa.” “Đúng thế, các thánh là các thánh, các ngài thật vĩ đại! Không phải tất cả các cuộc hiện ra đều chân thực!” Các thánh thì quan trọng nhưng tâm điểm phải là Chúa Giêsu Kitô. Không có Chúa Giêsu Kitô thì sẽ không có các thánh. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Trung tâm đời sống của tôi có phải là Chúa Giêsu Kitô không? Mối tương quan giữa tôi và Chúa Giêsu là gì? Có ba việc giúp chúng ta nhận thấy chắc chắc rằng, Chúa Giêsu là trung tâm của đời mình.

Nhận biết Chúa Giêsu

Việc thứ nhất là biết Chúa Giêsu để còn nhận ra Người. Nhiều người đã không nhận biết Chúa, giống như các kinh sư, các thượng tế, các luật sĩ, những người phái Xađốc, phái Pharisêu. Thậm chí họ còn kết án Chúa, còn giết Chúa. Chúng ta tự hỏi: Điều gì giúp cho ta có thể nhận biết Chúa Giêsu? Đó là cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, đó là đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục làm việc. Ngài sẽ làm cho những hạt giống nảy mầm và trổ sinh hoa trái.

Thờ lạy Chúa Giêsu

Việc thứ hai là thờ phượng Chúa Giêsu. Đừng chỉ xin Người điều này điều nọ, cũng đừng chỉ cám ơn Người. Thờ phượng Chúa trong thinh lặng, trong khoảng lặng của tâm hồn. Không gì có thể đáng mến đáng quý cho bằng một mình Thiên Chúa.

Có lời cầu nguyện ngắn trong Kinh Sáng Danh “Sáng Danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, nhưng nhiều lần chúng ta đọc như vẹt. Lời cầu nguyện này chính là lòng tôn thờ, tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tôn thờ, cùng với những lời nguyện ngắn, và trong thinh lặng trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta thờ lạy Chúa Giêsu và thân thưa: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng duy nhất, Chúa là khởi thủy và là tận cùng. Con muốn ở với Chúa trong sự sống của Chúa, trong sự vĩnh cửu viên mãn của Chúa. Chúa là Đấng duy nhất.”

Bước theo Chúa Giêsu

Nhiệm vụ thứ ba là bước theo Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Điều ấy có nghĩa là đặt Chúa Giêsu làm trung tâm của đời sống chúng ta.

Đó chính là đời sống của người Kitô hữu. Đời sống ấy rất đơn sơ, nhưng chúng ta cần ân sủng của Chúa Thánh Thần để Ngài khơi lên trong lòng chúng ta ước muốn nhận biết Chúa Giêsu, để thờ lạy Người và bước theo Người. Chúng ta cầu nguyện để có sức mạnh làm điều ấy trong từng ngày của cuộc đời.

Tứ Quyết SJ

Tổng thống Duterte của Philippines thông báo “Tháng Kinh thánh toàn quốc”

Tổng thống Duterte của Philippines thông báo “Tháng Kinh thánh toàn quốc”

Trong tuyên cáo được ký ngày 05/01 vừa qua, tổng thống Duterte tuyên bố rằng “Quốc gia nhìn nhận bản chất tôn giáo của dân Philippines và ảnh hưởng sống động của tôn giáo trong xã hội con người. Thật là đúng đắn và thích hợp khi sự quan tâm của quốc gia tập trung trên tầm quan trọng của việc đọc và học hỏi Kinh thánh, để hình thành các tính cách tinh thần, luân lý và xã hội của công dân.”

Theo ông Duterte, việc ký kết tài liệu là đòi buộc của hiến pháp để phát triển các giá trị đạo đức  và tinh thần của công dân và giúp họ thăng tiến nền luân lý của họ.

Đức ông Ruperto Santos của Balanga nhìn nhận việc này đáng khen ngợi và có tính linh hứng, còn đức ông Robert Mallari Di San Jose thì nói: “Chúng tôi cám ơn tổng thống vì đã đưa ra nhìn nhận đúng về tôn giáo của dân tộc và tầm quan trọng của Kinh Thánh để thăng tiến đất nước. Đức ông Gerardo Alminaza của San Carlos gọi tuyên bố này là một “cơ hội vàng cho các giáo xứ cùng hoạt động với các cơ quan chính quyền trong việc thực hiện năm 2017 như năm của các giáo xứ. (Asia News 11/01/2017)

Hồng Thủy

 

Gần 13 ngàn sinh viên đại học tham dự SEEK 2017 tại San Antonio, Texas

Gần 13 ngàn sinh viên đại học tham dự SEEK 2017 tại San Antonio, Texas

San Antonio, Texas – Seek xuất phát từ câu hỏi của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Tin mừng thánh Gioan chươn 1 câu 38: “Các anh tìm gì?”,  là cuộc gặp gỡ được tổ chức hàng năm, mời gọi các sinh viên khám phá những câu hỏi lớn của đời mình: tôi là ai? Tôi sẽ đi đâu? Tôi tìm kiếm gì trên hành trình?

Từ ngày 3-7/01 vừa qua, gần 13 ngàn sinh viên của 500 học viện khắp Hoa kỳ và trên thế giới đã đến San Antonio, Texas, để tham dự Hội nghị SEEK 2017. Họ đã cùng nhau cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích và học hỏi thêm về đức tin của mình.

Được tổ chức bởi FOCUS (Hiệp hôi sinh viên đại học Công giáo), hội nghị giúp các bạn trẻ có cơ hội cho tình bằng hữu, thờ phượng và các cuộc nói chuyện của các thuyết trình viên Công giáo quốc tế.

Cynthia Lopez, một sinh viên của Northern Arizona University chia sẻ: “Thỉnh thoảng bạn cảm thấy bạn cô đơn trên thế giới, giống như bạn là sinh viên duy nhất cố gắng nên thánh, nhưng nó không giống vậy, hãy nhìn quanh bạn xem. Thật khó để trở nên thánh và thánh thiện ở một đại học đời.” Cô chia sẻ thêm là SEEK 2017 đã dạy cô cách xây dựng một hệ thống hỗ trợ.

Melissa Golus, một sinh viên của Benedictine College ở Atchison, Kansas cũng chia sẻ là SEEK 2017 “đang cho bạn các dụng cụ mà bạn cần biết để trở về học viên, ngay cả nếu bạn là sinh viên duy nhất có đức tin ở đại học, nó cũng ok. Nó tốt khi bạn đi và có thể là mời những người khác gia nhập với bạn.” Golus cũng chia sẻ về sự kỳ diệu khi có quá nhiều người trẻ xung quanh. Cô nói: “Bạn không thấy điều như vậy trên thế giới, giống như, đây là thứ công cụ đưa đến sự thinh lặng bởi vì thật tuyệt diệu khi thấy nhiều người trẻ này mê say Thiên Chúa.”

 Đề tài năm nay của hội nghị SEEK là “Điều đánh động bạn”. Mỗi ngày bắt đầu với Thánh lễ; có hơn 300 Linh mục đồng tế với các Tổng giám mục. Sau đó các sinh viên chia thành các nhóm nam nữ riêng biệt để tham gia vào các trò chơi theo phái tình và học hỏi thêm về nam tính và nữ tính đích thực. Ban chiều, các sinh viên có thể đến thăm các lều ơn gọi và sứ vụ. Họ cũng có thể tham dự các buổi thuyết trình do 35 nhà thuyết trình viên Công giáo nổi tiếng về các đề tài như “Tôi là ai để xét đoán?” hay “Cách thế để trả lời cho chủ nghĩa tương đối với lý luận và tình yêu.”

Jeff Cavins’, một học giả Kinh Thánh có 2 bài nói chuyện tại hội nghị lần này, đó là: “Chúa Giê và các môn đệ thời hiện đại” và “Làm thế nào để đọc Kinh thánh như một môn đệ”. Ông Cavins nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mối liên hệ cá nhân với Chúa Kitô và nhìn thấy Người trong cuộc sống hàng ngày. Ông nói với hãng tin CAN: “Tôi đã bắt đầu nhận ra rằng nhiều người ngày nay không có trong trí họ một hình ảnh về việc là một môn đệ trong cách thực tế nghĩa là gì.” Ông cũng nhận xét rằng một trong những điều mà người trẻ đang thiếu là mối liên hệ cá nhân với Thiên Chúa. Mới đây, ông Cavins cùng với nhà xuất bản Ascénsion làm một chuỗi video tựa đề “Gặp gỡ Lời”. Theo ông, chìa khóa lúc này là đến với thế hệ trẻ này, những người đang đến với hội nghị SEEK. Ông nói: “Họ là những thay đổi của trò chơi. Họ là những người ở đó trên thế giới. Họ không phải là Giáo hội tương lai, họ là Giáo hội.”

Về phần Curtis Martin, vị sáng lập và giám đốc điều hành của FOCUS, ông nhận định môi trường đại học là “nơi được thúc đẩy nhất trong nền văn hóa.” Ông nói: “Nếu bạn muốn thay đổi mọi thứ, bạn cần đi đến đó đầu tiên.” Ông nói thêm rằng: các huynh trưởng, các đôi hôn nhân, giáo viên, Linh mục, các thành phần trẻ tương lai đều đang đi qua đại học của họ bây giờ.

Hiện tại có hơn 550 thừa sai FOCUS toàn thời gian tại 125 học viện tại 38 tiểu bang. Theo ông Martin, ý tưởng “nếu một người tràn đầy lửa yêu mến Chúa Kitô, họ nên đầu tư cuộc sống của họ nơi một ít người khác và chỉ yêu họ và mời gọi họ làm như thế” có thể được thực hiện và thực hiện ở mọi nơi.

Vào tháng 2/1997, Curtis Martin và Scott Hahn tuyên bố việc sáng lập FOCUS trên liveshow của Mẹ Angelica. Mẹ Angelica rất thích với sáng kiến này và đã nói với khán giả góp tặng tiền cho FOCUS. Đêm đó, FOCUS quyên góp được 10 ngàn đô la. Cũng trong thời gian này, Đức Tổng Giám mục Charles Chaput, lúc đó là Tổng giám mục Denver đã mời FOCUS thành lập trụ sở trong giáo phận của ngài.

Hội nghị quốc gia đầu tiên của FOCUS vào năm 1999 chỉ có 25 sinh viên tham dự, nhưng lần này có gần 13 ngàn. Đức Tổng Giám mục Charles Chaput nhận xét điều này vượt ngoài sự tưởng tượng của ngài.

Scott Hahn nhận định rằng chìa khóa của công cuộc Loan báo Tin Mừng mới chính là niềm vui của Tin Mừng, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói. Ông nói: “Tất cả điều các bạn phải làm là vui sướng là người Công giáo vì đó là điều những người khác tìm kiếm. Và trong tiến trình, các bạn thật sự đang triển khai tình bạn. Không chỉ 13 ngàn, nó là hàng trăm ngàn sẽ được 13 ngàn bạn trẻ này tiếp cận.”

Arturo Rodriguez, một sinh viên của đại học Texas cho biết phần yêu thích nhất tại hội nghị lần này đối với anh là chầu Thánh thể vào đêm thứ năm tại phòng chính với 13 ngàn người. Anh nói: “Đó là lần chầu Thánh Thể tốt nhất mà tôi đã từng tham dự.” Trong đêm đó cũng đã có hơn 4000 bạn xưng tội. Rodriguez nói rằng khi anh trở vền nhà, anh sẽ tìm kiếm bất cứ cơ hội nào có ở đại học của anh để anh có thể tham dự hơn vào đức tin của mình. (CAN 10/01/2017)

Hồng Thủy