Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. ĐTC phê bình nước giàu mạnh áp đặt các ”nhân quyền mới” như ”quyền phá thai”, hôn nhân tính, v.v. cho các nước nghèo là một hình thức mới ”thực dân ý thức hệ”.

Trên đây là một trong những vấn đề được ĐTC đề cập đến trong diễn văn dài khi tiếp ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, lúc 10 giờ 30, sáng ngày 8-1-2018, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

 Hiện diện tại buổi tiếp kiến có các đại diện của 183 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ. Trong số này, có 83 đại sứ thường trú ở Roma và 100 vị khác từ các nhiệm sở khác cũng đến Vatican trong dịp này.

Buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm và chúc mừng năm mới tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn. Ngài nhắc đến các vị đại sứ đến từ ngoài Roma với con số gia tăng, và một số hiệp định đã được ký kết trong năm qua giữa Tòa Thánh và một số nước như Cộng hòa dân chủ Congo, Cộng hòa Liên bang Đức, và Liên bang Nga. ĐTC không quên nhắc đến những chuyến viếng thăm ngài thực hiện trong năm vừa qua như Ai Cập, Bồ đào nha, Colombia, Myanmar và Bangladesh.

Nội dung tổng quát

Trong diễn văn dài, ĐTC lần lượt đề cập đến những vấn đề thời sự của thế giới, từ việc kỷ niệm 70 năm công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của LHQ, cho đến hiện tượng nảy sinh những cái gọi là ”các nhân quyền mới” nhiều khi mâu thuẫn với nhau và không luôn luôn giúp thăng tiến các quan hệ thân hữu giữa các quốc gia. Ngài cũng nói về việc giải trừ võ trang, đặc biệt là các võ khí hạt nhân. ĐTC kêu gọi hỗ trợ mọi cố gắng đối thoại ở bán đảo Triều Tiên, và giải quyết hiện tượng số người di dân và tị nạn ngày càng gia tăng.

ĐTC nhắc đến những vùng khó khăn, từ tương quan giữa Israel và Palestine, tình trạng tại Venezuela, Nam Sudan, Cộng hòa dân chủ Congo, Ucraina. Rồi ngài chống lại thái độ sợ hãi trước những người di dân và tị nạn, đồng thời ca ngợi những chính phủ quảng đại đón nhận và giúp đỡ nhiều ngừơi di dân và tị nạn, trong đó có những người Rohingya từ Myanmar chạy sang Bangladesh. Ngài hy vọng trong năm nay LHQ sẽ đạt tới hai hiệp ước hoàn cầu về người di dân và tị nạn, tiến tới sự di cư an toàn, có trật tự và hợp pháp. Sau cùng ĐTC cũng tái khẳng định quyền có công ăn việc làm, nghĩa vụ bảo vệ trái đất như căn nhà chung của chúng ta. Sau đây là một số đoạn nổi bật trong diễn văn của ĐTC trước các vị đại sứ các nước.

Hòa bình

ĐTC nhắc đến kỷ niệm trong năm nay 100 năm chấm dứt thế chiến thứ I. ”Từ những tro tàn của Thế chiến này, người ta có thể rút ra những lời cảnh cáo, nhưng rất tiếc nhân loại không biết hiểu ngay những điều đó, để rồi 20 năm sau lại lâm vào thế chiến thứ hai tàn hại hơn trước.

Lời cảnh giác đầu tiên là: chiến thắng không bao giờ có nghĩa là hạ nhục đối phương bị thất trận. Hòa bình không được xây dựng như một sự khẳng định quyền của kẻ chiến thắng trên kẻ chiến bại. Không phải luật sợ hãi ngăn cản được những gây hấn trong tương lai, nhưng là sức mạnh của lý trí hiền lành thúc đẩy đối thoại và cảm thông lẫn nhau, để chữa lành những dị biệt. Từ đó có lời cảnh giác thứ hai, đó là hòa bình được củng cố khi các nước có thể đối chiếu với nhau trong bầu không khí bình đẳng..

ĐTC nhắc nhở rằng ”Cả các quan hệ giữa các quốc gia, cũng như các quan hệ giữa con người với nhau, phải được điều hành trong sự thật, công lý, trong tình liên đới thực sự và trong tự do”. Điều này bao gồm nguyên tắc theo đó toàn thể các cộng đồng chính trị bình đẳng với nhau về phẩm giá tự nhiên, cũng như sự nhìn nhận các quyền hỗ tương, cùng với sự chu toàn các nghĩa vụ tương ứơng. Để có thái độ như thế, điều tiên quyết là khẳng định phẩm giá của mỗi người; sự khinh rẻ và không nhìn nhận phẩm giá ấy sẽ đưa tới những hành vi man rợ, xúc phạm đến lương tâm của nhân loại.

Kỷ niệm 70 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền

Trong bối cảnh trên đây, ĐTC đề cập đến kỷ niệm 70 năm công bố tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, được LHQ công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948. Ngài nói:

“Đối với Tòa Thánh, nói về các quyền con người, có nghĩa trước tiên là tái đặt lại vị trí trung tâm của con người, trong tư cách được Thiên Chúa muốn và tạo dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa.. Trong nhãn giới Kitô giáo, có một tương quan ý nghĩa giữa sứ điệp Tin Mừng và sự nhìn nhận các quyền con người, trong tinh thần của những người đã soạn thảo Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền'.

”Các quyền ấy rút tiền đề của chúng ta bản tính chung của mỗi người trong nhân loại. Các quyền ấy được tuyên bố để loại bỏ những bức tường chia cách, phân rẽ gia đình nhân loại và tạo điều kiện thuận lợi cho điều mà giáo huấn xã hội Công Giáo gọi là ”sự phát triển nhân bản toàn diện” vì nó nhắm thăng tiến mọi người và toàn diện con người, bao trùm cả toàn thể nhân loại. Trái lại, quan niệm hẹp hòi về con người mở đường cho sự phổ biến bất công, bất bình đẳng và tham nhũng.

ĐTC nhận xét rằng qua dòng thời gian, nhất là theo sau những phong trào xã hội hồi năm 1968, người ta dần dần giải thích các quyền con người và thay đổi chung, đến độ bao gồm nhiều thứ quyền mới nhiều khi trái ngược nhau. Tình trạng này không giúp thăng tiến các quan hệ thân hữu giữa các quốc gia, vì người ta khẳng định những ý niệm gây tranh cãi về các quyền con ngươi, tương phản với văn hóa của nhiều nước, vì thế các nước này cảm thấy không được tôn trọng trong các truyền thống văn hóa xã hội của mình, nhưng các nước ấy lại bị lơ là trước những nhu cầu thực sự mà họ phải đương đầu. Vì thế có nguy cơ là nhân dành cũng những nhân quyền, người ta thiết lập những hình thức mới về sự thực dân hóa ý thức hệ của những kẻ giàu mạnh hơn trên những người yếu nghèo hơn. Đồng thời cần để ý rằng các truyền thống của mỗi dân tộc không thể được nại đến như cái cớ để lơ là nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền căn bản được nói đến trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền.

ĐTC khẳng định rằng ”70 năm sau khi công bố tuyên ngôn nhân quyền ấy, thật là đau lòng mà phải nhận rằng nhiều quyền căn bản ngày nay vẫn còn bị chà đạp. Đứng đầu là quyền sống, quyền được tự do, sự bất khả xâm phảm của mỗi nhân vị. Không những chiến tranh hoặc bạo lực làm thương tổn các quyền ấy nhưng ngày nay còn có những hình thức tinh vi hơn: trước tiên tôi nghĩ đến các trẻ em vô tội bị gạt bỏ trước khi sinh ra; nhiều khi các em không được người ta muốn chì vì các em bị tật hoặc dị hình, hoặc vì sự ích kỷ của người lớn. Tôi nghĩ đến những người già, nhiều khi họ cũng bị gạt bỏ, nhất là nếu họ bệnh tật, bị coi là gánh nặng. Tôi nghĩ đến các phụ nữ, nhiều khi bị bạo hành, nhất là trong gia đình họ. Tôi nghĩ đến bao nhiêu nạn nhân của nạn buôn người, tệ nạn này vi phạm luật cấm mọi hình thức nô lệ. Bao nhiêu người, nhất là để trốn chạy nghèo đói và chiến tranh, đã bị biến thành những món hàng của những kẻ vô lương tâm.

Tôn trọng quyền được săn sóc sức khỏe

ĐTC nói thêm rằng ”bảo vệ quyền sống và sự toàn vẹn thể lý, có nghĩa là bảo vệ quyền được sức khỏe cho bản thân và gia đình. Quyền này bao hàm những điều vượt quá ý hướng ban đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, nhắm khẳng định quyền của mỗi người được săn sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết. Trong viễn tượng này tôi cầu mong rằng trong các diễn đàn quốc tế có thẩm quyền, các vị hữu trách nỗ lực tạo điều kiện để mọi người có thể được hưởng sự săn sóc sức khỏe. Điều quan trọng là cần hiệp lực để có thể có những chính sách có thể đảm bảo với giá phải chăng sự cung cấp các thuốc men thiết yếu cho sự sống còn của những người nghèo, mà không lơ là với việc nghiên cứu và phát triển các phương pháp chữa trị, dù chúng không quan trọng về kinh tế đối với thị trường. Những nghiên cứu và phát triển ấy giữ vai trò chủ yếu trong việc cứu vãn sinh mạng con người.

ĐTC nhận xét rằng liên quan tới bảo vệ sự sống là nỗ lực tích cực xây dựng hòa bình, và từ đó ngài nói đến sự giải giáp toàn diện và sự phát triển toàn diện, hai điều có liên hệ mật thiết với nhau. Đàng khác, sự tìm kiếm hòa bình là điều kiện tiên quyết để phát triển, nó bao hàm sự bài trừ những bất công và loại bỏ một cách ôn hòa những nguyên nhân gây ra bất thuận đưa tới chiến tranh.

Giải trừ võ trang

ĐTC khẳng định rằng ”sự lan tràn võ khí chắc chắn là làm cho những tình trạng xung đột trở nên trầm trọng hơn và bao gồm những tốn phí lớn lao về nhân mạng và vật chất, làm tổn hại cho sự phát triển và tìm kiếm hòa bình lâu dài.”

Ngài nhắc lại sự kiện Tòa Thánh đã ký nhận và phê chuẩn Hiệp ước cấm các võ khí hạt nhân, trong viễn tượng đã được thánh Gioan 23 Giáo Hoàng trình bày trong thông điệp Hòa bình dưới thế, theo đó ”công lý, sự khôn ngoan và tình nhân đạo đòi phải ngưng cuộc chạy đua võ trang, đồng thời cùng nhau giảm bớt các võ khí hiện hữu, nghiêm cấm các võ khí hạt nhân”.

Hỗ trợ sáng kiến đối thoại tại Bán đảo Triều Tiên

Trong viễn tượng trên đây, ĐTC nói: ”Điều rất quan trọng là có thể hỗ trợ mọi cố gắng đối thoại ở bán đảo Triều Tiên, với mục đích tìm ra những con đường mới để vượt lên trên những đối nghịch hiện nay, gia tăng sự tín nhiệm nhau và đảm bảo một tương lai an bình cho dân tộc Đại Hàn và cho toàn thế giới.

Hòa bình tại Syria và Iraq

Cũng vậy, điều quan trọng là tiếp tục những sáng kiến hòa bình khác nhau hiện nay để giúp đỡ Siria, hầu chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, gây ra những đau khổ vô biên cho dân nước này. Mong ước của mọi người là sau bao nhiêu tàn phá, nay đã đến lúc tái thiết. Điều quan trọng hơn việc tái thiết nhà cửa, đó là tái tạo con tim, dệt lại sự tín nhiệm nhau, là tiền đề không thể thiếu được để cho bất kỳ xã hội nào có thể triển nở. Vì thế cần cố gắng làm việc để tạo ra những điều kiện pháp lý, chính trị và an ninh, để phục hồi đời sống xã hội, trong có mỗi công dân Syria, không phân biệt chủng tộc và tôn giáo, có thể tham gia vào việc phát triển đất nước. Trong chiều hướng này, cần phải bảo vệ các nhóm tôn giáo thiểu số, trong đó có các tín hữu Kitô, từ bao thể kỷ họ vẫn tích cực góp phần cho lịch sử của Syria.

ĐTC nhấn mạnh rằng điều quan trọng là làm sao giúp hồi hương những người tị nạn Siria ở các nước láng giềng, đặc biệt là Giordani, Liban và Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngài cũng cổ võ ý chí cần thiết cho cuộc đối thoại tại Iraq, để các thành phần chủng tộc và tôn giáo khác nhau có thể tìm lại con đường hòa giải và sống chung hòa bình, cộng tác với nhau. Điều này cũng cần phải thực hiện ở Yemen, và các ni khác trong vùng, cũng như tại Afganistan.

Israel và Palestine

ĐTC nói thêm rằng: Tôi đặc biệt nghĩ đến người Israel và Palestine, sau những căng thẳng trong những tuần lễ gần đây. Tòa Thánh bày tỏ đau buồn vì những người bị thiệt mạng trong các cuộc đụng độ gần đây, và tái tha thiết kêu gọi nghĩ đến các sáng kiến để tránh làm gia tăng sự đối nghịch, đồng thời Tòa Thánh mời gọi cùng dấn thấn tôn trọng các nghị quyết của LHQ liên quan đến qui chế hiện nay của thành Jerusalem, Thành Thánh đố với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo.

Di dân và tị nạn

Đề cập thêm về vấn đề di dân và tị nạn, ĐTC nhận xét rằng: Ngày nay người ta nói nhiều về những người di dân và các cuộc di cư, nhiều khi chỉ nhắm khơi lên sự sợ hãi truyền thống. Không được quên rằng các cuộc di cư vẫn luôn có trong lịch sử nhân loại. Trong truyền thống Do thái Kitô, lịch sử cứu độ chủ yếu là lịch sự các cuộc di cư. Không được quên rằng tự do di chuyển, cũng như tự do rời bỏ quê hương mình, và trở lại đó, thuộc về những quyền căn bản của con người. Vì thế cần phải ra khỏi những lập luận gần đây về vấn đề di cư, và đi từ nhận xét cốt yếu theo đó, những kẻ đứng trước chúng ta, trước tiên là những con người.

ĐTC tái cám ơn những chính quyền quốc gia trong những năm qua đã giúp đỡ nhiều người di dân đến biên giới đất nước liên hệ, trong đó có nhiều nước Á Phi. Ngài nói: ”Tôi vẫn còn nhớ cuộc gặp gỡ tại Dacca với một số người tị nạn thuộc dân tộc Roghingya và tái bày tỏ tâm tình biết ơn đối với chính quyền Bangladesh vì đã giúp đỡ họ trên lãnh thổ của mình”.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-1-2017 dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC đã nói về đề tài ”an ninh và hòa bình” trên thế giới.

Ngài lên án nạn khủng bố trên thế giới, đề cao tầm quan trọng của tự do tôn giáo, loại trừ những nguyên nhân bất hòa gây ra chiến tranh, giải quyết vấn đề di dân và tị nạn, bảo vệ thiên nhiên như căn nhà chung, lên án nạn buôn bán võ khí, tái lập hòa bình tại Irak, Siria, và Yemen.

Buổi tiếp kiến bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi trước sự hiện diện của đại diện 182 quốc gia và các tổ chức quốc tế.  Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và ngài hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Hồi giáo Mauritanie cách đây 1 tháng. Ngài cũng cám ơn nhiều vị Đại sứ thường trú ở Roma, con số gia tăng trong năm ngoái, và cả các Đại sứ không thường trú. Ngài cũng nhắc đến các cuộc viếng thăm của các vị Quốc trưởng và Thủ tướng tại Tòa Thánh trong năm qua, trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng như việc ký kết nhiều hiệp định thư giữa Tòa Thánh và một số nước.

ĐTC nhắc đến sự kiện cách đây đúng 100 năm thế giới đang ở giữa thế chiến thứ I, năm 1917, cuộc chiến ngày càng trở nên cuộc chiến hoàn cầu. 100 năm sau, nhiều nơi trên thế giới được hưởng an bình lâu dài, tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế và những hình thức an sinh chưa từng có. Nhưng nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống giữa các cuộc xung đột vô nghĩa.

Hòa bình hồng ân của Thiên Chúa và vai trò của tôn giáo

ĐTC nói: ”Vì vậy, tôi muốn dành cuộc gặp gỡ hôm nay để nói về đề tài an ninh và hòa bình, vì trong bầu không khí sợ hãi nói chung đối với hiện tại, và sự bất định, lo âu về tương lai hiện nay, tôi thấy cần nói lên một lời hy vọng, và chỉ cho thấy một viễn tượng hành trình.

Cách đây vài ngày chúng ta đã cử hành Ngày Thế Giới hòa bình lần thứ 50, ngày này đã được vị tiền nhiệm của tôi, Chân phước Phaolô 6 thiết lập [….). Đối với các tín hữu Kitô, hòa hình là một hồng ân của Chúa, được các thiên thần tung hô và ca hát khi Chúa Kitô sinh ra: ”Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dươi thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14). Hòa bình là một thiện ích tích cực, là ”kết quả của trật tự Thiên Chúa in vào xã hội loài người”, và không phải chỉ là sự vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không thể thu hẹp vào việc quân bình hóa các thế lực đối nghịch nhau, đúng hơn nó đòi hỏi sự dấn thân của những người thiện chí nồng nhiệt khao khát một nền công chính ngày càng hoàn hảo hơn.

Trong viễn tượng đó, tôi bày tỏ xác tín mạnh mẽ rằng mỗi biểu hiện tôn giáo đều được kêu gọi thăng tiến hòa bình. Tôi đã có thể cảm nghiệm điều đó một cách ý nghĩa trong Ngày Thế Giới cầu nguyện cho hòa bình, nhóm tại Assisi hồi tháng 9 năm ngoái, trong đó các đại diện tôn giáo họp nhau cùng mang lại tiếng nói cho những người đau khổ, những ngừơi không có tiếng nói, cũng như trong cuộc viếng thăm của tôi tại Đại Hội đường Do thái ở Roma hoặc Đền thờ Hồi giáo ở thành phố Baku.

Chúng ta biết không thiếu những bạo lực vì lý do tôn giáo, đi từ chính Âu châu này, nơi mà những chia rẽ lịch sử giữa các tín hữu Kitô đã kéo dài quá lâu. Trong cuộc viếng thăm mới đây của tôi ở Thụy Điển, tôi đã muốn nhắc nhở nhu cầu cấp thiết phải chữa lành những vết thương quá khứ và đồng hành tiến về những mục tiêu chung. Nơi căn bản của cuộc đồng hành như thế không thể thiếu cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo khác nhau. Đó là một cuộc đối thoại có thể thực hiện và là điều cần thiết, như tôi đã chứng tỏ trong cuộc gặp gỡ tại Cuba với Đức Thượng Phụ Kirill thành Mascơva, cũng như trong các cuộc tông du của tôi tại Armeni, Giorgia, và Azerbaigian, những nơi mà tôi nhận thấy khát vọng chính đáng của dân chúng muốn giải quyết các cuộc xung đột từ lâu đang làm thương tổn sự hòa hợp và hòa bình.

Đồng thời, chúng ta cũng không nên quên nhiều công trình, lấy hứng từ tôn giáo, đang góp phần vào việc xây dựng công ích, qua việc giáo dục, từ thiện, nhất là trong những vùng khó khăn và là nơi diễn ra xung đột. Nhiều khi việc đóng góp ấy được thực hiện tới mức độ hy sinh của các vị tử đạo. Các công trình đó góp phần vào hòa bình và cho thấy cách thức người ta có thể sống cụ thể và làm việc chung với nhau, dù thuộc các dân tộc, văn hóa và truyền thống khác nhau, nếu phẩm giá con người được đặt ở trung tâm mọi hoat động của mình.

Lên án lạm dụng tôn giáo để khủng bố

ĐTC nêu nhận xét: ”Rất tiếc chúng ta thấy rằng ngày nay kinh nghiệm tôn giáo, thay vì cởi mở đối với tha nhân, nhiều khi nó có thể bị lạm dụng để khép kín, gạt ra ngoài lề và gây ra bạo lực. Tôi đặc biệt nghĩ đến nạn khủng bố do trào lưu cực đoan, trong năm qua đã đốn ngã nhiều nạn nhân trên thế giới: tại Afganistan, Bangladesh, Bỉ, Burkina Faso, Ai Cập, Pháp, Đức, Giordani, Irak, Nigeria, Pakistan, Hoa Kỳ, Tunisi và Thổ Nhĩ Kỳ. Những vụ khủng bố ấy là những hành vi hèn nhát, dùng các trẻ em để giết người, như tại Nigeria; tấn công những người đang cầu nguyện, như tại Nhà thờ chính tòa Copte ở Cairo, những người du hành hoặc làm việc, như ở Bruxelles, những người đi dạo ở đường phố như ở Nice và Berlin, hoặc những người đón mừng năm mới như ở Istanbul.

Đó là một sự sát nhân điên rồ, lạm dụng danh Thiên Chúa để gieo chết chóc, trong toan tính khẳng định ý muốn thống trị và quyền lực. Vì thế tôi kêu gọi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo hãy hiệp sức để mạnh mẽ tái khẳng định rằng không bao giờ có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Nạn khủng bố do trào lưu cực đoan là kết quả của một sự lầm than trầm trọng về tinh thần, kèm theo đó có một sự nghèo nàn về mặt xã hội. Nó chỉ có thể hoàn toàn bị đánh bại với sự đóng góp chung của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Các vị lãnh đạo tôn giáo có nhiệm vụ thông truyền các giá trị tôn giáo không chấp nhận sự đối nghịch giữa lòng kính sợ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Các vị lãnh đạo chính trị có nhiệm vụ bảo đảm trong lãnh vực công cộng quyền tự do tôn giáo, nhìn nhận sự đóng góp tích cực và xây dựng mà tự do tôn giáo thi hành trong việc xây dựng xã hội dân sự, trong đó người ta không thể coi như những điều đối nghịch giữa một đàng là sự thuộc về xã hội theo nguyên tắc quyền công dân, và bên kia là chiều kích tinh thần của cuộc sống. Ngoài ra, người cai trị có trách nhiệm tránh tạo nên những hoàn cảnh bị biến thành môi trường thuận tiện cho sự lan tràn chủ nghĩa duy căn cực đoan. Điều này đòi phải có những chính sách xã hội thích hợp để bài trừ nạn nghèo đói, cùng với sự thăng tiến chân thành giá trị của gia đình, như nơi ưu tiên để con người triển nở và cần đầu tư dồi dào vào lãnh vực giáo dục và văn hóa.

 Nghĩa vụ của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền

”Về vấn đề này, tôi quan tâm đón nhận sáng kiến của Hội đồng Âu Châu về chiều kích tôn giáo, đối thoại liên văn hóa, năm ngoái có chủ đề là vai trò của giáo dục trong việc phòng ngừa sự cực đoan hóa, dẫn đến nạn khủng bố và cực đoan bạo lực. Đó là một cơ hội để đào sâu sự đóng góp của hiện tượng tôn giáo và vai trò của giáo dục cho việc bình định hóa xã hội, vốn là điều cần thiết cho sự sống chung trong một xã hội đa văn hóa.

Theo nghĩa đó tôi muốn bày tỏ xác tín này: mỗi chính quyền không thể chỉ giới hạn vào việc bảo đảm an ninh cho các công dân của mình mà thôi – ý niệm này có thể dễ dàng thu hẹp vào một thứ sống yên hàn – nhưng họ còn được kêu gọi cổ võ và thi hành hòa bình. Hòa bình là một nhân đức tích cực, đòi phải có sự dấn thân và cộng tác của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Như Công đồng chung Vatican II đã nhận xét, ”hòa bình không bao giờ là điều đạt được một lần cho tất cả, nhưng là một tòa nhà cần được liên tục xây dựng”, bằng cách bảo vệ thiện ích của con người, tôn trọng phẩm giá của họ. Xây dựng hòa bình trước tiên đòi phải từ bỏ bạo lực khi đòi hỏi các quyền của mình. Tôi đã dành Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới năm nay, 2017, để nói về nguyên tắc đó. Sứ điệp có tựa đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”, trước tiên kêu gọi làm sao để bất bạo động là một đường lối chính trị, dựa trên công pháp và phẩm giá của mỗi người”.

Loại trừ những nguyên nhân cản trở việc xây dựng hòa bình

”Xây dựng hòa bình cũng đòi phải loại trừ những nguyên nhân bất hòa tạo nên chiến tranh, bắt đầu từ những bất công. Thực vậy có một liên hệ mật thiết giữa công lý và hòa bình. Như Thánh Gioan Phaolô 2 đã nhận xét, vì công lý của con người luôn mong manh và bất toàn, có những giới hạn và chịu ảnh hưởng của lòng ích kỷ cá nhân và nhóm, nên công lý ấy phải được thực thi, và bổ túc bằng sự tha thứ chữa lành các vết thương và tái lập sâu xa các quan hệ giữa con người đã bị xáo trộn […]. Tha thứ không hề trái ngịch với công lý, nhưng đúng hơn, nó nhắm đến sự sung mãn của công lý, đến sự yên hàn trong trật tự, chữa lành trong chiều sâu cho các vết thương làm tâm hồn rướm máu. Để đạt được sự chữa lành như thế, công lý và tha thứ đều là những điều thiết yếu”. Những lời này, ngày nay có tính chất thời sự hơn bao giờ hết, đã được sự sẵn sàng đón nhận của một số vị Quốc trưởng và thủ tướng chính phủ đối với lời mời gọi của tôi và đã thực hiện một cử chỉ ân xá đối với các tù nhân. […]

Lòng thương xót

Tôi xác tín rằng đối với nhiều người, Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót là một cơ hội đặc biệt thích hợp để khám phá ảnh hưởng to lớn và tích cực của lòng thương xót như một giá trị xã hội. Mỗi người có thể góp phần tạo nên một nền văn hóa lòng thương xót, dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ tha nhân: một nền văn hóa trong đó không ai nhìn người khác trong sự dửng dưng, và cũng không ngoái nhìn đi nơi khác để không thấy sự đau khổ của những người anh em”. Chỉ như thế chúng ta mới có thể kiến tạo những xã hội cởi mở và hiếu khách đối với người ngoại quốc và đồng thời được an ninh và hòa bình trong quốc nội. Điều này càng cần thiết ngày nay, đang lúc có những làn sóng di dân đông đảo ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người tị nạn và di tản ở một số miền ở Phi châu, Đông Nam Á, và những người chạy trốn khỏi những vùng xung đột ở Trung Đông. (…)

Vấn đề di dân

”Vấn đề di dân là một vấn đề không thể để cho một vài nước lãnh đạm dửng dưng, trong khi những nước khác phải hỗ trợ gánh nặng nhân đạo, nhiều khi với những cố gắng lo lớn và khó khăn nặng nề, để đương đầu với tình trạng cấp thiết dường như vô tận. Tất cả đều phải cảm thấy mình là những người xây dựng và góp phần vào công ích quốc tế, kể cả qua những cử chỉ nhân đạo cụ thể, như những yếu tố thiết yếu hòa bình và phát triển mà các quốc gia và hàng chiều người đang chờ đợi. Vì thế tôi biết ơn các nước quảng đại đón nhận những người ở trong tình trạng ở trong tình trạng cần được giúp đỡ, bắt đầu từ các nước Âu Châu, đặc biệt là Italia, Đức, Hy Lạp và Thụy Điển.

”Tôi vẫn còn giữ ấn tượng mạnh về cuộc viếng thăm tôi đã thực hiện tại đảo Lesvos, cùng với những người anh em của tôi là Đức Thượng Phụ Barlolomaios và Đức TGM Ieronymos; tại đảo đó tôi đã thấy và động chạm đến tình trạng thê thảm của các trại tị nạn, và cũng thấy tình nhân đạo và tinh thần phục vụ của nhiều người dấn thân trợ giúp người tị nạn. Không được quên sự đón tiếp của các nước Âu Châu và Trung Đông, trong đó có Liban, Giordani, Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như sự dấn thân của nhiều nước Phi châu và Á châu. Cả trong cuộc viếng thăm của tôi ở Mêhicô, nơi tôi đã cảm nghiệm niềm vui của dân Mêhicô, tôi đã thấy gần gũi hàng ngàn người di dân từ Trung Mỹ, họ phải chịu những bất công kinh khủng và những nguy hiểm khi tìm cách đạt được một tương lai tốt đẹp hơn, họ là nạn nhân của những vụ bóc lột và là đối tượng buôn bán đáng lên án, một hình thức nô lệ tân thời là nạn buôn người.

Trong phần kế tiếp của bài diễn văn dài, ĐTC tố giác quan niệm thu hẹp về con người, góp phần phổ biến bất chính, sự bất bình đẳng xã hội và hiện tượng tham nhũng… Tệ nạn lạm dụng trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách lao động, hoặc bị lạm dụng như ngài đã viết trong thư gửi các GM nhân ngày lễ các Thánh Anh hài mới đây. Ngoài ra có những ngừơi trẻ đang chịu đau khổ vì chiến tranh và xung đột, như cuộc xung đột thảm khốc tại Siria.

Chống lại tình trạng chiến tranh trên đây, ĐTC kêu gọi bài trừ nạn buôn bán ma túy cũng như sự chạy đua sản xuất và phổ biến các võ khí ngày càng tối tân. Ngài không quên vấn đề bảo vệ môi trường và nói rằng:

Chăm sóc thiên nhiên

”Xây dựng hòa bình cũng có nghĩa là tích cực hoạt động để chăm sóc thiên nhiên. Hiệp định Paris về khí hậu mới bắt đầu có hiệu lực là một dấu chỉ quan trọng về sự dấn thân chung để để lại cho những người đến sau chúng ta một thế giới đẹp đẽ và có thể sống được. Tôi cầu mong nỗ lực đã được thực hiện trong thời gian gần đây để đương đầu với những thay đổi khí hậu ngày càng tìm được sự cộng tác rộng rãi của tất cả mọi người, vì trái đất là nhà chung của chúng ta, và cần để ý rằng những chọn lựa của mỗi người có ảnh hưởng trên cuộc sống của tất cả.

Động đất

”Nhưng một điều hiển nhiên là có những hiện tượng vượt quá khả năng của hoạt động con người. Tôi muốn nói đến nhiều vụ động đất xảy ra tại một số miền trên thế giới. Trước tiên tôi nghĩ đến những vụ động đất ở Ecuador, Italia, và Indonesia, gây ra nhiều nạn nhân, và nhiều người vẫn còn phải sống trong những điều kiện bấp bênh. Tôi đã đích thân viếng thăm một số vùng bị động đất ở miền trung Italia. Tại đây tôi đã nhận thấy những vết thương mà động đất gây ra cho một miền đất phong phú về nghệ thuật và văn hóa, tôi đã có thể chia sẻ đau khổ của bao nhiêu người đồng thời lòng can đảm của họ và quyết tâm tái thiết những gì đã bị phá hủy. Tôi cầu mong rằng tình liên đới đã liên kết nhân dân Italia trong những giờ sau các trận động ấy đất tiếp tục linh hoạt toàn thể đất nước, nhất là trong thời điểm khó khăn của lịch sử. Tòa Thánh và Italia đặc biệt gắn bó với nhau vì những lý do lịch sử văsn hóa và địa lý. Mối liên hệ ấy đặc biệt hiển nhiên trong Năm Thánh và tôi cám ơn tất cả các giới chức chính quyền Italia vì sự giúp đỡ trong việc tổ chức biến cố ấy, và bảo đảm an ninh cho các tín hữu hành hương từ các nơi đến đây.”

G. Trần Đức Anh OP 

Đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho đoàn kết quốc gia ở Indonesia

Đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho đoàn kết quốc gia ở Indonesia

Đức cha Ignatius Suharyo tại Indonesia

Jakarta – Vào ngày 1 tháng 5 vừa qua, Đức cha Ignatius Suharyo, Tổng giám mục của Jakarta đã khởi xướng một chiến dịch cầu nguyện đặc biệt giữa các tín hữu Indonesia, để cầu nguyện cho sự đoàn kết của đất nước. Đức cha nói: “Trong vòng 5 năm tới đây, bằng phong trào này, chúng tôi cổ võ hoạt động của ủy ban mục vụ của các giáo phận, các tổ chức Công giáo và chúng tôi sẽ phổ biến khắp nước lòng sùng kính Mẹ Maria bằng việc lần hạt Mân côi trắng và đỏ (màu cờ của Indonesia).

Hoạt động được bắt đầu trong 65 giáo xứ của tổng giáo phận, với hàng ngàn tín hữu. Ở nhà thờ chánh tòa, đã có hơn 2000 tràng hạt trắng đỏ được phân phát. Cha Sridanto, chủ tịch của ủy ban phụng vụ của tổng giáo phận và là người quảng bá của phong trào, đã tổ chức một buổi tọa đàm trước khoảng 300 Linh mục ở tỉnh Trung Java. Cha khẳng định rằng chuỗi Mân côi là một phần hoạt động của Tổng giáo phận để củng cố tình yêu quê hương đất nước giữa các tín hữu Công giáo: “Màu đỏ là biểu tượng cho ý muốn baỏ vệ sự thật dựa trên đức tin trong Chúa Ba Ngôi; màu trắng nói lên sự thánh thiện”. Ý thức hệ chính thức của Indonesia được xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ, hiện đại, tự do, ngôn luận và tôn giáo, là 5 cột trụ. Những yếu tố này được đưa vào phần mở đầu của Hiến pháp và được tổng thống đầu tiên, Sukarno, mong muốn; chúng đã đi trước sự ra đời của quốc gia. 5 cột trụ dựa trên niềm tin vào một Thiên Chúa, trên sự công bình và văn minh nhân loại, sự đoàn kết của Indonesia, sự dân chủ được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan, và sự công bằng xã hội.

Tổng giáo phận đã đưa ra 5 ý chỉ cầu nguyện để hướng dẫn các tín hữu trong việc đọc kinh Mân côi: cầu cho các anh hùng của quốc gia, cầu cho việc gìn giữ thiên nhiên và đất đai tươi tốt, càu cho sự đoàn kết của dân tộc Indonesia, cầu cho sự khôn ngoan và hướng dẫn của các chính trị gia, cầu cho tất cả những nỗ lực tốt lành được thực hiện để hiện thực hóa thiện ích chung của xã hội.

Lòng yêu mến Đức Mẹ của người dân Indonesia rất mạnh mẽ. Trên khắp nước có nhiều hang đá Đức Mẹ Lộ đức, nơi mà hàng ngàn tín hữu đến cầu nguyện hàng năm, đặc biệt là vào tháng 5 và tháng 10. Tháng 8 vừa qua, tượng Đức Mẹ cao nhất thế giới đã được dựng lên ở miền Trung Java.

(Asia News 6/5/2016

Hồng Thủy OP 

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 11-1-2016, ĐTC đặc biệt lưu ý cộng đồng quốc tế quan tâm và giải quyết hợp lý vấn đề làn sóng người di dân.

ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh, gồm đại diện của 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng (từ 80 lên 86), điều này chứng tỏ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh. ĐTC cũng nhắc đến việc ký kết và phê chuẩn các hiệp định giữa Tòa Thánh và các nước trong năm qua, kể cả hiệp định với Palestine, hiệp định về thuế khóa với Italia và Hoa Kỳ. Ngài cũng nói đến những nét nổi bật trong các cuộc viếng thăm ngài thực hiện trong năm qua tại Philippines, Sri Lanka, Sarajevo, 3 nước Nam Mỹ, Cuba, Hoa Kỳ, LHQ, và 3 nước Phi châu: Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi. Sau cùng ĐTC nói đến việc mở Năm Thánh lòng thương xót. Trong phần kế tiếp, ĐTC đặc biệt nói đến vấn đề di dân trong thế giới ngày nay, nhất là tại Âu Châu, với những vấn đề đi kèm. Ngài nói:

Vấn đề di dân

Quí vị Đại sứ thân mến, một tinh thần cá nhân chủ nghĩa là mảnh đất phì nhiêu làm bành trướng cảm thức dửng dưng lãnh đạm đối với tha nhân, đưa tới thái độ đối xử với họ như một món hàng mua bán, đẩy đưa tới sự không quan tâm gì tới nhân tính của người khác và rốt cục làm cho con người yếu nhược và có tâm trạng ”sống chết mặc bay”. Phải chăng đó chẳng phải là những tâm tình mà nhiều khi chúng ta có đứng trước những người nghèo, người ở ngoài lề, những người rốt cùng trong xã hội sao? Và bao nhiêu người rốt cùng trong các xã hội chúng ta! Trong số những người ấy, tôi nghĩ trước tiên tới những người di dân, với những khó khăn và đau khổ của họ, mà họ phải đương đầu hằng ngày trong việc tìm kiếm một nơi để sống an bình và xứng đáng, nhiều khi cuộc tìm kiếm của họ thật là tuyệt vọng.

Vì thế, hôm nay, tôi muốn dừng lại để cùng với quí vị suy tư về sự cấp thiết trầm trọng của làn sóng di cư mà chúng ta đang gặp, để phân định những nguyên do của nó, hướng đến những giải pháp, chiến thắng thái độ sợ hãi không thể tránh né đi kèm một hiện tượng ồ ạt và rộng lớn như vậy, liên hệ đặc biệt tới Âu Châu trong năm 2015, và cả một số miền ở Á châu và Trung Mỹ.

”Đừng sợ và kinh hãi, vì Chúa là Thiên Chúa của ngươi ở với ngươi, dù ngươi đi đâu” (Gs 1,9). Đó là lời mà Thiên Chúa hứa với Ông Giôsuê và cho thấy Chúa tháp tùng mỗi người dường nào, nhất là người ở trong tình cảnh mong manh như người đang tìm nơi tị nạn ở nước ngoài. Thực vậy, toàn thể Kinh Thánh kể lại cho chúng ta lịch sử nhân loại lữ hành, vì tình trạng di động là điều gắn liền với bản tính con người. Lịch sử loài người được hình thành với bao nhiêu cuộc di dân, nhiều khi diễn ra như một ý thức về quyền tự do chọn lựa, nhưng đôi khi do những hoàn cảnh bên ngoài đòi hỏi. Từ cuộc lưu vong khỏi địa đàng cho đến Abraham tiến về đất hứa; từ trình thuật cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập đến cuộc lưu đày ở Babilon, Kinh Thánh kể lại những cơ cực và đau khổ, ước muốn và hy vọng, giống như tình trạng hàng trăm ngàn người lữ hành ngay nay, với cùng quyết tậm của Môisê đạt tới một miền đất ”chảy sữa và mật” (Xc Xh 3,17), nơi họ có thể sống tự do và an bình.

Vì thế, ngày nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng kêu của Rachele khóc thương con bà không còn nữa (Xc Gr 31,15; Mt 2,18). Đó là tiếng của hàng ngàn người khóc lóc trốn chạy những cuộc chiến tranh khủng khiếp, những cuộc bách hại và vi phạm các quyền con người, hoặc tình trạng bấp bênh về chính trị hay xã hội, nhiều khi làm cho cuộc sống của họ ở quê hương trở nên không thể sống nổi. Đó là tiếng kêu của những người buộc lòng phải trốn chạy để tránh những hành động dã man khôn tả đối với những người vô phương thế tự vệ, như các trẻ em và người khuyết tật, hoặc cuộc tử đạo chỉ vì thuộc về một tôn giáo.

Cũng như hồi đó, nay chúng ta nghe tiếng của Giacop nói với các con ông: ”Hãy đi xuống đó và mua thóc về cho chúng ta để chúng ta có thể sống và không phải chết” (St 42,2). Đó là tiếng của những người trốn chạy lầm than cùng cực, vì không thể nuôi sống gia đình hoặc không được săn sóc sức khỏe, giáo dục, hoặc vì tình trạng sa sút, không có hy vọng cải tiến, hoặc cũng vì những thay đổi khí hậu và điều kiện khí hậu cùng cực. Rất tiếc là, chúng ta biết nạn đói vẫn còn là một trong những tai ương trầm trọng nhất của thế giới chúng ta với hàng triệu trẻ em mỗi năm chết vì đói. Nhưng điều đau buồn là nhận thấy rằng nhiều khi chính những người di dân ấy không được thuộc vào các hệ thống bảo vệ dựa trên căn bản các hiệp định quốc tế.

Chống nền văn hóa gạt bỏ

Làm sao không nhận thấy trong tất cả những điều đó là kết quả của ”nền văn hóa gạt bỏ” gây nguy hiểm cho con người, hy sinh con người cho các thần tượng lợi lộc và tiêu thụ? Điều trầm trọng là chúng ta trở nên quá quen thuộc với những tình trạng nghèo đói và túng thiếu ấy, những thảm trạng của bao nhiêu người và coi chúng là ”những điều bình thường”. Con người không còn được cảm thấy như một giá trị hàng đầu phải tôn trọng và bảo vệ, nhất là nếu họ là người nghèo hoặc khuyết tật, hay nếu họ chưa hữu ích – như những trẻ em chưa sinh ra – hoặc không còn hữu ích nữa, như người già. Chúng ta trở nên vô cảm đối với mọi hình thức phung phí, bắt đầu từ sự phung phí lương thực, là điều thuộc vào số đáng trách nhất, trong khi có nhiều cá nhân và gia đình đang chịu đói và thiếu dinh dưỡng.

Cầu mong Hội nghị về nhân đạo thành công

Tòa Thánh cầu mong Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới đầu tiên về nhân đạo, được LHQ triệu tập vào tháng 5 tới đây , có thể thành công trong khung cảnh đau buồn ngày nay với các cuộc xung đột và tai ương, với ý hướng đặt con người và nhân phẩm ở trọng tâm mọi câu trả lời về nhân đạo. Cần có một sự dấn thân chung để quyết liệt lật ngược nền văn hóa gạt bỏ và xúc phạm đến sự sống con người, để không một ai cảm thấy bị lơ là hoặc quên lãng, và những sinh mạng khác không bị hy sinh vì thiếu tài nguyên, và nhất là vì ý chí chính trị.

Tiếc thay, ngày nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng của Giuda đề nghị bán em mình (Xc St 37,26-27). Đó là sự kiêu hãnh của những kẻ cường quyền lạm dụng người yếu, biến họ thành những đồ vật để phục vụ cho những mục tiêu ích kỷ hoặc những tính toán chiến lược và chính trị. Nơi nào không thể có một sự di trú hợp pháp, thì những người di dân thường buộc lòng phải chọn giải pháp nhờ những kẻ buôn người hoặc buôn lậu, tuy phần lớn đều biết rõ những nguy cơ trong cuộc lữ hành sẽ bị mất của cải, phẩm giá và cả mạng sống nữa. Trong viễn tượng đó, một lần nữa tôi tái kêu gọi chấm dứt nạn buôn người, nạn biến con người thành món hàng, nhất là những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Trong tâm trí chúng ta vẫn luôn ghi đậm hình ảnh những trẻ em bị chết trên biển cả, nạn nhân của sự vô lương tâm của con người và sự độc địa của thiên nhiên. Rồi những người sống sót và đến một quốc gia đón nhận, họ mang những chấn thương sâu đậm về kinh nghiệm ấy, không kể những kinh nghiệm về những kinh hoàng vẫn xảy ra trong chiến tranh và bạo lực.

Như xưa kia, ngày nay người ta cũng nghe Thiên Thần lập lại: ”Hãy trỗi dậy, mang hài nhi và mẹ Người, trốn sang Ai Cập và hãy ở đó cho đến khi Ta sẽ báo lại cho ông” (Mt 2,13). Đó là tiếng nói mà nhiều người di dân nghe thấy, họ là những người sẽ không rời bỏ quê hương nếu không bị bó buộc. Trong số những người ấy có nhiều tín hữu Kitô, ngày càng ồ ạt rời bỏ quê hương trong những năm gần đây, quê hương mà họ đã cư ngụ từ thời đầu của Kitô giáo.

Sau cùng, ngày nay chúng ta cũng nghe tiếng của tác giả thánh vịnh lập lại: ”Trên bờ sông Babilone, ta ngồi ta khóc tưởng nhớ Sion” (Tv 136 [137], 1). Đó là tiếng khóc của những người sẵn sàng trở về quê hương họ nếu có những điều kiện thuận lợi về an ninh và sinh tồn. Nơi đây tôi cũng nghĩ đến các tín hữu Kitô ở Trung Đông, họ mong muốn góp phần như những công dân với đầy đủ danh nghĩa vào thiện ích tinh thần và vật chất của các quốc gia liên hệ.

 Giải quyết nguyên nhân thúc đẩy di cư

Phần lớn những nguyên nhân tạo nên di cư người ta có thể giải quyết từ lâu. Và nhờ đó có thể phòng ngừa bao nhiêu tai ương, hoặc ít là làm dịu bớt những hậu quả tàn ác của chúng. Cả ngày nay, trước khi quá trễ, người ta có thể làm được nhiều điều để chặn đứng những thảm họa và kiến tạo hòa bình. Nhưng điều này có nghĩa là đặt lại vấn đề những thói quen và đường lối thực hành đã có từ lâu, bắt đầu từ những vấn đề liên quan tới việc buôn bán võ khí cho tới vấn đề cung cấp các nguyên liệu và năng lượng, vấn đề đầu tư, các chính sách tài chánh và sự hỗ trợ phát triển, cho tới tệ nạn trầm trọng là tham nhũng. Chúng ta ý thức rằng về vấn đề di cư, cần thiết lập những dự án trung và dài hạn, đi xa hơn những câu trả lời cấp thiết. Các dự án đó một đàng phải thực sự giúp những người nhập cư hội nhập vào những quốc gia tiếp đón, và đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển các nước xuất cư, với những chính sách liên đới, nhưng không đòi các nước này phải theo những chiến lược và chính sách ý thức hệ xa lạ hoặc trái ngược với các nền văn hóa của những dân tộc mà sự viện trợ nhắm tới.

Không quên những tình cảnh thê thảm khác, trong đó tôi đặc biệt nghĩ đến biên giới giữa Mêhicô và Hoa Kỳ, mà tôi sẽ đến gần khi viến gthăm thành phố Ciudad Juárez vào tháng tới đây, tôi muốn đặc biệt nghĩ đến Âu Châu. Thưc vậy, trong năm qua, Âu Châu đã có một làn sóng tị nạn rất lớn – nhiều người tị nạn bị thiệt mạng khi toan tính đi tới Âu Châu – làn sóng ồ ạt này chưa từng có trong lịch sử đại lục này, ít là từ sau thế chiến thứ hai. Nhiều người di dân đến từ Á, Phi, xem Âu Châu là một điểm tham chiếu cho các nguyên tắc như bình đẳng trước pháp luật, và các giá trị được ghi khắc trong chính bản tính của mỗi người, như phẩm giá bất khả xâm phạm và sự bình đẳng của mỗi người, lòng yêu mến tha nhân không phân biệt nguồn gốc hoặc là thành viên của tổ chức nào, tự do lương tâm và tình liên đới với người đồng loại.

Thách đố đối với Âu Châu

“Tuy nhiên những cuộc đổ bộ ồ ạt tới các bờ biển của Âu Châu dường như làm lung lay hệ thống đón tiếp, được kiến tạo với bao vất vả trên những tro tàn của thế chiến thứ hai và vẫn còn là ngọn đèn pha về tình người mà người ta tham chiếu. Đứng trước làn sóng ồ ạt và những vấn đề đi kèm không thể tránh được, đã nảy sinh nhiều vấn nạn về khả năng đón tiếp thực sự và sự thích ứng của những người ấy, đề sự thay đổi sự tháp tùng văn hóa và xã hội của những nước tiếp cư, cũng như sự hoạch định lại một số quân bình về chính trị địa lý của các miền. Một điều không kém phần quan trọng là những lo sợ về an ninh, lo sợ càng được gia tăng trước những đe dọa lan rộng do nạn khủng bố quốc tế. Làn sóng di dân hiện nay dường như đe dọa chính nền tảng của tinh thần nhân bản mà Âu Châu vẫn luôn yêu mến và bảo vệ.

Tuy nhiên, chúng ta không thể đánh mất các giá trị và các nguyên tắc nhân đạo, sự tôn trọng phẩm giá mỗi người, nguyên tắc phụ đới và tình liên đới hỗ tương, dù chúng có thể tạo nên gánh nặng lớn lao khó gánh vác trong một số thời điểm lịch sử. Vì thế, tôi muốn tái khẳng định xác tín theo đó Âu Châu, với sự trợ giúp của gia sản văn hóa và tôn giáo rộng lớn của mình, có những phương thế để bảo vệ vị trí trung tâm của con người và tìm ra sự quân bình đúng đắn giữa hai nghĩa vụ luân lý là bảo vệ các quyền của các công dân và bảo đảm sự trợ giúp cũng như tiếp đón người di dân.

Đồng thời tôi cũng thấy cần phải bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những sáng kiến tạo điều kiện cho sự tiếp đón xứng đáng dành cho con người, trong đó có Quỹ Di dân và Tị nạn thuộc Ngân hàng phát triển của Hội đồng Âu Châu cũng như sự dấn thân của những nước đã chứng tỏ thái độ chia sẻ quảng đại. Trước tiên tôi nghĩ đến các nước láng giềng của Siria, đã tức khắc giúp đỡ và đón nhận, nhất là Liban, nơi mà người tị nạn chiếm tới 1 phần 4 dân số, và nước Giordani đã không khép kín biên giới mặc dù đã đón tiếp hàng trăm ngàn người tị nạn rồi. Cũng vậy không nên quên những cố gắng của các nước đi hàng đầu, đặc biệt là Thổ nhĩ kỳ và Hy Lạp.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với Italia, với quyết tâm cứu vớt nhiều sinh mạng trong Địa Trung Hải, và vẫn còn mang gánh nặng đón tiếp đông đảo người tị nạn trên lãnh thổ của mình. Tôi cầu mong rằng lòng hiếu khách truyền thống và tình liên đới trổi vượt của nhân dân Italia không bị giảm bớt vì những khó khăn không thể tránh được hiện nay, nhưng dưới ánh sáng truyền thống ngàn đời, có thể đón nhận và hội nhập sự đóng góp về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa mà người di dân có thể mang lại.

ĐTC cũng nói rằng: ”Điều quan trọng là các nước đi hàng đầu trong việc đương đầu với tình trạng cấp thiết hiện nay không bị bỏ mặc một mình, và điều quan trọng không kém là khởi sự một cuộc đối thoại thẳng thắn và tôn trọng giữa tất cả các nước liên quan đến vấn đề di dân – các nước nguyên quán, nước chuyển tiếp hoặc nước tiếp đón – để tìm ra những giải pháp mới mẻ và lâu dài với óc sáng tạo táo bạo. ..

Khía cạnh văn hóa và tôn giáo của hiện tượng di dân

Trong việc giải quyết vấn đề di dân, chúng ta cũng không thể bỏ qua các khía cạnh văn hóa đi kèm, bắt đầu từ những khía cạnh tôn giáo. Trào lưu cực đoan và thủ cựu tìm được một môi trường dễ dàng không những không việc lợi dụng tôn giáo để chiếm quyền bính, nhưng cả trong sự trống rỗng các lý tưởng và sự đánh mất căn tính – kể cả căn tính tôn giáo – mà người ta thấy ở Tây Phương. Từ sự trống rỗng ấy nảy sinh sự sợ hãi khiến người ta coi tha nhân như một nguy hiểm và một kẻ thù, co cụm vào mình, bám chặt những lập trường thiên kiến của mình. Vì thế hiện tượng di cư cũng đặt một câu hỏi nghiêm trọng về văn hóa mà ta không thể không trả lời. Vì thế, sự tiếp đón có thể là một cơ hội thích hợp để có sự cảm thông và cởi mở chân trời, cho người được đón tiếp, họ có nhiệm vụ tôn trọng các giá trị, truyền thống và luật lệ của các cộng đồng đón nhận họ, và cho cả những cộng đồng tiếp cư, được kêu gọi đề cao giá trị những gì mà người di dân có thể cống hiến để mưu ích cho toàn thể cộng đoàn. Trong lãnh vực này Tòa Thánh tái quyết tâm dấn thân trong lãnh vực đại kết và liên tôn để thiết lập một cuộc đối thoại chân thành và liên chính, đề cao giá trị của những đặc thù và căn tính của mỗi người, tạo điều kiện cho sự sống chung hòa hợp giữa mọi thành phần xã hội.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

VATICAN. Sáng ngày 31-12-2015, ĐTC đã tiếp kiến 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ về Roma tham dự Đại hội quốc tế lần thứ 40.

6 ngàn người trẻ từ 5 đến 28 tuổi, thuộc các ca đoàn đến từ 18 quốc gia, trong đó có Italia, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Brazil, Ba Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Ai Len và một số nước khác trong đó có Hàn Quốc và Nhật Bản. Họ dự Đại hội từ ngày 28-12-2015 đến 1-1-2016 với chủ đề ”Các em hãy hát lên niềm hy vọng của mình”.

 Đối thoại với các em

Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC đã trả lời một số câu hỏi do 3 em nêu lên.

1. ĐGH nghĩ gì về các bài ca của chúng con? Ngài có thích hát không?

ĐTC cho biết ngài thích nghe hát, nhưng không biết hát, ”tôi như con lừa, vì không biết hát. Tôi cũng không nói hay vì tôi có một khuyết tật về phát âm khi nói”… Tôi có một người ông làm nghề thợ mộc, vẫn luôn hát trong lúc làm việc. Bài ca có tác dụng giáo dục tâm hồn, mang lại ích lợi cho tâm hồn. Ví dụ một bà mẹ muốn cho đứa con nhỏ của mình ngủ, bà không nói với con: một, hai, ba, bốn.. nhưng bà hát ru con.. Đứa bé cảm thấy yên hàn và thiếp ngủ. Thánh Augustino nói một câu rất hay khi bàn về đời sống Kitô: ”Hãy hát và tiến bước”. Đời sống Kitô là một con đường, nhưng không phải con đường buồn sầu, trái lại là con đường vui tươi. Vì thế mà ta hát. Hát và tiến bước!

2. Làm sao mà ĐGH tốt lành như vậy, không bao giờ nổi giận? Đâu là những điều dốc lòng tốt của ĐGH cho năm mới?

ĐTC nhắc lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh niên trong Phúc Âm gọi Ngài là ”Thầy nhân lành”: Chỉ có Thiên Chúa là Đấng nhân lành! Như vậy chúng ta là kẻ xấu hay sao? Không phải vậy, nửa này nửa kia.. Chúng ta vẫn luôn có vết thương của tội nguyên tổ khiến chúng ta không luôn luôn tốt lành..

”Cũng có những lúc cha nổi giận, nhưng không cắn! Đôi khi cha cũng nổi giận khi có người làm điều không tốt.. Nhưng cha dừng lại và suy nghĩ về những lần cha đã làm cho người khác nổi giận. Và cha nghĩ: ”Mình cũng đã làm cho người khác nổi giận, đúng vậy, bao nhiêu lần, vì thế mình không có quyền nổi giận.. Giận dữ là điều làm cho tâm hồn bị nhiễm độc. Bao nhiêu lần cha thấy các trẻ em kinh hãi vì cha mẹ chúng hoặc ở trường người ta trách mắng chúng. Khi một người giận dữ và trách mắng thì họ làm hại, gây tổn thương: Trách mắng người khác cũng như đâm một con dao vào tâm hồn, và đó không phải là điều tốt..

”Có những người mà các con chắc chắn là biết, họ có một tâm hồn cay đắng, luôn cay đắng, họ sống trong giận dữ. Dường như mỗi buổi sáng họ đánh răng bằng dấm, nên mới nổi giận như vậy. Người như thế là người bệnh hoạn..

Về sự dốc lòng trong năm mới, ĐTC cho biết ngài đã đưa ra những điều dốc lòng khi tĩnh tâm, đó là cầu nguyện nhiều hơn. Vì các GM, LM, phải hướng dẫn Dân Chúa trước tiên bằng lời cầu nguyện, đó là việc phục vụ đầu tiên..

3. Khi còn nhỏ, ĐGH mơ ước trở thành gì? Ban tối khi xem Tivi với gia đình, con thấy bao nhiêu là điều đau buồn, thê thảm. Thế giới cứ luôn như vậy sao, cả khi con lớn lên?

– Về câu hỏi thứ nhất, cha kể ra, chắc các con thế nào cũng cười. Khi còn nhỏ, cha thường đi với bà nội, có khi theo mẹ đi chợ để mua đồ. Chợ dọc theo con đường ấy có người bán rau, người bán trái cây, thịt, cá.. Một hôm, ở nhà, cha được hỏi: lớn lên con muốn làm gì? Cha trả lời: con muốn làm ông hàng thịt! Tại sao? Tại vì ở chợ ấy, ông hàng thịt có 3, 4 chỗ để bán thịt, ông cầm dao và cắt thịt rất là nghệ thuật, và tôi thích nhìn ông làm như thế. Bây giờ thì ý tưởng thay đổi rồi.

Về câu thứ hai, nghiêm chỉnh hơn, những tin tức đau buồn ở Tivi. Đúng vậy có bao nhiêu người đau khổ trên thế giới ngày nay, bao nhiêu chiến tranh. Chỉ cần nghĩ đến Trung Đông nơi Chúa Giêsu sinh ra, vẫn còn chiến tranh; chiến tranh ở Ucraina, và nhiều nơi ở Mỹ châu la tinh. Chiến tranh gây ra nghèo đói, đau khổ, bất hạnh. Các con là những thiếu nhi, thiếu niên được ơn Chúa, có thể ca hát. Nhưng có bao nhiêu trẻ em không có gì để ăn, không được cắp sách đến trường, vì chiến tranh, nghèo đói, hoặc vì không có trường học.. có những trẻ em bị bệnh và không được đến nhà thương. Các con hãy cầu nguyện cho các trẻ em ấy. Thế giới có thể cải tiến. Trong thế giới có cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác, có cuộc tranh đấu giữa ma quỉ và Thiên Chúa. Điều này vẫn còn. Một mỗi người trong chúng ta muốn làm một điều xấu, điều xấu ấy là do ma quỉ xúi giục.. Đó là cuộc chiến tranh chống lại sự thật của Thiên Chúa, chống lại sự thật về cuộc sống, chống lại niềm vui.. Cuộc tranh đấu giữa ma quỉ và Thiên Chúa sẽ kéo dài đến tận thế, như Kinh Thánh đã dạy.. Tất cả chúng ta ở trong một chiến trường..

ĐTC kể ra bao nhiêu những hội đoàn hoặc những người âm thầm làm việc thiện, mà báo chí truyền hình không nói tới. Có bao nhiêu gia đình thánh thiện, bao nhiêu cha mẹ giáo dục con cái tốt đẹp. Ma quỉ làm bao nhiêu điều xấu xa, đúng vậy, nhưng Thiên Chúa cũng có bao nhiêu người thánh thiện trên thế giới, những việc làm của họ người ta không thấy trên truyền hình. Tại sao, vì những điều đó không làm tăng số khán thính giả của đài.. Tại sao người ta không thấy trên truyền hình những nữ tu dòng kín dành cuộc đời cầu nguyện cho moi người? Vì điều này chẳng mấy người quan tâm.. Có lẽ người ta quan tâm hơn đến những nữ trang của một hãng quan trọng, những thứ phù vân hào nhoáng. Nhưng chúng ta đừng để mình bị lường gạt.

ĐTC ban phép lành kết thúc cho các em và hẹn gặp lại các em trong thánh lễ sáng ngày Tết Dương Lịch, các em sẽ hát trong thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô (SD 31-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đại hội quốc tế thứ 40 các ca đoàn thiếu nhi nhóm tại Roma

Đại hội quốc tế thứ 40 các ca đoàn thiếu nhi nhóm tại Roma

Đại hội quốc tế lần 40

ROMA. Trong những ngày này, từ 28-12 đến 1-1, Đại hội quốc tế lần thứ 40 của các ca đoàn thiếu nhi đang tiến hành ở Roma với chủ đề: ”Các em hãy hát lên niềm hy vọng của mình”.

Đại hội tiến hành 3 năm một lần. 6 ngàn thiếu nhi thuộc các ca đoàn đến từ 18 quốc gia, trong đó có Italia, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Brazil, Ba Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Ai Len và một số nước khác trong đó có Hàn Quốc và Nhật Bản.

Lúc 3 giờ rưỡi chiều thứ hai 28-12-2015, các ca viên thiếu nhi đã bắt đầu cuộc rước từ Lâu đài Thiên Thần, tiến qua đường Hòa giải, và Quảng trường Thánh Phêrô, trước khi vào Đại thính đường Phaolô 6 để tham dự lễ nghi khai mạc đại hội do Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, chủ sự từ lúc 6 giờ chiều.

Lúc 10 giờ sáng thứ ba 29-12-2015, các ca đoàn thiếu nhi đã tham dự thánh lễ tại nhiều thánh đường ở Roma và sinh hoạt. Ban tối lúc 8 giờ rưỡi, các em trình diễn thánh ca tại nhiều thánh đường.

Thứ tư 30-12, các em tham dự các buổi cầu nguyện cho hòa bình và ban tối tiếp tục trình diễn thánh ca tại các nhà thờ,

Sáng thứ năm 31-12-2015, các ca đoàn sẽ tập dợt thánh lễ bế mạc tại Đại thính đường Phaolô 6 trước khi được ĐTC tiếp kiến lúc 11 giờ tại đây.

Sau cùng, lúc 10 giờ sáng ngày Tết Dương Lịch, các ca đoàn sẽ tham dự thánh lễ bế mạc Đại hội tại Đền thờ Thánh Phêrô do ĐTC Phanxicô cử hành, nhân dịp Ngày Hòa Bình Thế giới. (SD 28-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu thăm Uganda

Đức Thánh Cha bắt đầu thăm Uganda

ĐTC thăm Uganda

ENTEBE. Lúc 5 giờ 15 chiều, ĐTC Phanxicô đã từ Kenya đến Uganda, bắt đầu chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm của ngài tại 3 nước Phi châu.

Uganda nhỏ nhất trong số 3 quốc gia Phi châu ĐTC viếng thăm lần này: với diện tích 241 ngàn cây số vuông, Uganda có 36 triệu 500 ngàn dân cư, trong đó có hơn 80% là tín hữu Kitô, và trong số này 17 triệu là tín hữu Công Giáo, tương đương với 47% dân số, với 540 giáo xứ, 6.900 trung tâm mục vụ, tất cả thuộc 20 giáo phận, do 32 GM coi sóc, với sự phụ giúp của 2.180 LM. Nhân sự của Giáo Hội tại đây cũng gồm có gần 1,450 chủng sinh, 3,700 nữ tu, 567 tu huynh, gần 15,900 giáo lý viên và 100 thừa sai giáo dân. Hồi giáo ở Uganda chỉ chiếm 12% dân số.

Entebe quốc tế trong tiếng Luganda ở địa phương có nghĩa là ”trụ sở” vì đây là trung tâm hành chánh của vị thủ lãnh truyền thống. Hiện nay Entebe có 115 ngàn dân cư tọa lạc bên bờ hồ Victoria và là thủ đô của Uganda cho đến năm 1962, nhường chỗ cho thành phố Kampala khi Uganda được độc lập khỏi người Anh. Dầu vậy Entebe vẫn tiếp tục là nơi có trụ sở của một số bộ và tòa nhà chính phủ.

Thủ đô Kampala của Uganda hiện có hơn 1 triệu 350 ngàn dân cư và tổng giáo phận tại đây có 1 triệu 700 ngàn tín hữu Công giáo, tương đương với 42% dân cư ở địa phương.

Sau 1 giờ 20 phút bay, vượt qua 500 cây số, máy bay chở ĐTC đã đáp xuống phi trường Entebe. Từ trên máy bay bước xuống, ngài đã được tổng thống Yoweri Museveni và Phu nhân cùng với một số quan chức chính quyền và các Giám mục và một nhóm tín hữu tiếp đón bài ca và vũ điệu cổ truyền. 2 em bé đã tặng hoa cho ngài.

21 phát đại bác nổ vang sau khi quốc thiều Vatican và Uganda được trổi lên.

Gặp chính quyền và ngoại giao đoàn

Sau nghi thức đón tiếp đơn sơ, ĐTC đã về tòa nhà chính phủ cách đó 7 cây số về chào thăm tổng thống và gặp gỡ chính quyền cùng với ngoại giao đoàn. Tổng thống Museveni năm nay 71 tuổi, cầm quyền từ 30 năm nay, và đã 4 lần được tái cử, mỗi nhiệm kỳ 5 năm.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Tổng thống Museveni, ĐTC cho biết cuộc viếng thăm của ngài tại Uganda có mục đích trước tiên là để kỷ niệm 50 năm phong thánh cho các vị tử đạo Uganda do vị tiền nhiệm Đức Phaolô 6, cử hành. Nhưng tôi hy vọng sự hiện diện của tôi ở đây cũng là dấu chỉ tình thân hữu, lòng quí chuộng và khích lệ cho mọi người dân đại quốc này.

Các vị tử đạo, Công Giáo cũng như Anh giáo, là những vị anh hùng đích thực của quốc gia. Các vị làm chứng về những nguyên tắc chỉ đạo được diễn tả trong khẩu hiệu của Uganda là ”Vì Thiên Chúa và vì đất nước tôi”. Các vị nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của đức tin, sự liêm chính và sự dấn thân cho công ích. Đó là những điều đã và đang tượng trưng trong đời sống văn hóa, kinh tế và chính trị của đất nước này. Ngoài ra các vị tử đạo cũng nhắc nhở chúng ta rằng mặc dù có những tín ngưỡng và xác tín khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đeu được kêu gọi tìm kiếm sự thật, làm việc cho công lý và sự hòa giải, tôn trọng và bảo vệ nhau, giúp đỡ nhau như những thành phần của một gia đình nhân loại duy nhất.

Những lý tưởng cao cả này là những điều đặc biệt được yêu cầu nơi những người nam nữ như quí vị là những người có nghĩa vụ đảm bảo sự cai trị tốt với những tiêu chuẩn minh bạch, đảm bảo sự phát triển nhân bản toàn diện, sự tham gia rộng rãi của dân chúng vào đời sống quốc gia, cũng như sự phân phối khôn ngoan và công bằng các tài nguyên mà Thiên Chúa rộng ban cho đất nước này”.

ĐTC cũng ca ngợi sự dấn thân của Uganda trong việc đón tiếp người tị nạn ở miền Đông Phi châu, giúp họ tái lập cuộc sống trong an ninh, giúp họ nhận thấy phẩm giá đến từ sự mưu sinh bằng công việc lương thiện. Thế giới chúng ta với những chiến tranh, bạo lực, và những hình thức bất công khác, đang chứng kiến làn sóng di cư chưa từng có của các dân tộc. Cách thức chúng ta đối phó với hiện tượng này bằng chứng cho thấy tình nhân đạo của chúng ta, sự tôn trọng của chúng ta đối với phẩm giá con người, và tình liên đới đối với các anh chị em đang ở trong tình cảnh cần được giúp đỡ.

Sau cùng, ĐTC nói rằng tuy cuộc viếng thăm của tôi ngắn ngủi, nhưng tôi hy vọng có thể khích lệ bao nhiêu nỗ lực âm thầm đang được thực hiện để giúp đỡ những ngừơi nghèo, các bệnh nhân và những người ở trong tình cảnh khó khăn. Qua những dấu hiệu bé nhỏ đó, chúng ta có thể thấy tâm hồn đích thực của một dân tộc..

Giã từ tổng thống và các giới chức chính quyền Uganda, ĐTC đã tới Munyonyo cách đó gần 40 cây số để gặp gỡ các giáo lý viên và giáo chức.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chúa Kitô là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên

Chúa Kitô là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên

Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành chỉ nghĩ tới chuyện dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở đoàn chiên là Giáo Hội

Chúa Kitô mục tử là một vị hướng dẫn sốt sắng chia sẻ cuộc sống của đoàn chiên, không tìm lợi lộc nào khác, không có tham vọng nào khác ngoài tham vọng dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở đoàn chiên. Và Ngài làm tất cả những điều đó với giá cao nhất, giá của hiến tế chính mạng sống mình. Các linh mục giám mục, giáo hoàng cũng phải noi gương ngài sống như thế với đoàn dân Chúa giao phó.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hanh hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật hôm qua là Ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn thiên triệu lần thứ 52.

Trước đó lúc 9 giờ rưỡi sáng ĐTC đã chủ sự thánh lễ truyền chức Linh Mục cho 19 Phó tế thuộc giáo phận Roma, trong đó có 4 thầy thuộc dòng Gia đình các môn đệ. Dòng này do Linh Mục Giovanni Minozzi thành lập năm 1925 tại Amatrice tỉnh Rieti nam Italia, với mục đích dậy chữ cho các binh sĩ, săn sóc trẻ mồ côi nạn nhân của Đệ nhị thế chiến và người nghèo. Năm 1931 dòng đưọc Tòa Thánh chấp nhận và đặt tên là Gia đình các môn đệ. Từ Italia dòng mở các nhà bên châu Brasil và Peru cũng như nhiều nhà tại Italia. Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có ĐHY Giám quản Agostino Vallini, ĐTGM phó Giám Quản và 6 Giám Mục phụ tá. ĐHY Giám Quản đã giới thiệu các ứng viên lên ĐTC.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã dựa trên văn bản lễ nghi truyền chức và các bài đọc khích lệ các tân chức ý thức được sứ mệnh thừa tác sắp nhận lãnh. Đó là sống kết hiệp mật thiết với Chúa, cộng tác với Chúa trong công trình cứu chuộc, qua việc sống và giảng dậy các giáo huấn của Chúa, ban phát các bí tích, hiệp nhất với Giám Mục và cộng tác với các anh em linh mục và các thành phần khác trong cộng đoàn dân Chúa, noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành hy sinh quên mình chăm sóc đoàn chiên Chúa giao phó.

Tiếp đến là nghi thức công khai dấn thân của các ứng viên nói lên ý muốn thi hành chức thừa tác suốt đời trong hàng linh mục như các cộng sự viên trung thành của hàng giám mục trong việc phục vụ dân Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; chu toàn thừa tác lời Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng và dậy dỗ đức tin công giáo một cách xứng đáng và khôn ngoan; sốt sắng và trung thành cử hành  các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo truyền thống của Giáo Hội, đặc biệt trong hiến tế tạ ơn và bí tích hoà giải, để chúc tụng Thiên Chúa và thánh hóa dân kitô; cùng các chủ chăn khẩn nài lòng thương xót Chúa cho dân được giao phó và kiên trì cầu nguyện như Chúa đã truyền dậy; luôn luôn hiệp nhât với Chúa Kitô Thượng Tế, như là lễ vật tinh tuyền dâng lên Thiên Chúa Cha vì chúng ta, bằng cách tự thánh hiến mình cho Thiên Chúa cùng với Người để cứu chuộc mọi người; vâng lời ĐTC và các người kế vị với lòng tôn trọng con thảo và tuân phục.

Sau đó cộng đoàn đã hát kinh cầu các thánh xin triều thần thánh phù hộ cho các ứng viên. ĐTC đã khẩn cầu Chúa Thánh Thấn xuống trên các tiến chức và đặt tay trên đầu từng vị. Tiếp đến là tất cả các Giám Mục và linh mục đồng tế. Rồi ĐTC đọc công thức truyền chức Linh Mục, xức dầu thánh trên lòng bàn tay từng tiến chức, xin Chúa Giêsu Kitô, mà Thiên Chúa Cha đã thánh hiến trong Chúa Thánh Thần và quyền năng, giữ gìn tân chức cho việc thánh hiến dân Người và dâng của lễ. Rồi ĐTC trao điã đựng bánh và chén thánh và dặn dò các tân chúc hãy ý thức điều mình làm, noi gương điều mình cử hành và đồng hình dạng cuộc sống với mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ Dinh Tông Tòa để đoc Kiinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng với tín hữu. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, là Chúa Nhật hôm nay, cũng gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”, hằng năm mời gọi chúng ta tái khám phá ra, với sự kinh ngạc ngày càng mới mẻ, định nghĩa mà Chúa Giêsu đã tự cho mình, khi đọc nó dưới ánh sáng cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. “Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11): các lời này đã được hiện thực một cách tràn đầy, khi Chúa Kitô tự do vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hiến tế mình trên Thập Giá. Khi đó trở thành rõ ràng Người là “mục tử nhân lành” có nghĩa là gì: Người cống hiến sự sống mình như hiến tế cho chúng ta, cho tôi, cho anh, cho chị, cho tất cả chúng ta. Chính vì vậy Người là mục tử nhân lành.

Chúa Kitô là mục tử thật, là Đấng hiện thực mẫu gương cao nhất của tình yêu đối với đoàn chiên: Người tự ý hy sinh mạng sống mình, không ai lấy nó đi được, nhưng Người trao ban nó cho đoàn chiên. Công khai trái ngược với các kẻ chăn giả, Chúa Giêsu tự giới thiện như mục tử thật duy nhất của dân; mục tử gian ác chỉ nghĩ tới mình và khai thác chiên; mục tử nhân lành chỉ nghĩ tới chiên và tự trao ban chính mình. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Khác với kẻ chăn thuê, Chúa Kitô mục tử là một vị hướng dẫn sốt sắng chia sẻ cuộc sống của đoàn chiên, không tìm lợi lộc nào khác, không có tham vọng nào khác ngoài tham vọng dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở chiên. Và tất cả những điều đó Người làm với giá cao nhất, giá của hiến tế chính mạng sống mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong gương mặt của Chúa Giêsu mục tử nhân lành, chúng ta chiêm ngưỡng sự Quan Phòng của Thiên  Chúa, sự ân cần hiền phụ của Người đối với từng người trong chúng ta. Người không để chúng ta cô đơn. Hiệu quả của việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Mục Tử thật và nhân lành là lời reo vang ngạc nhiên cảm động, mà chúng ta tìm thấy trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “Anh em hãy xem Thiên Chúa Cha đã yêu thương chúng ta chừng nào… “ (1 Ga 3,1). Anh chị em hãy coi Thiên Chúa Cha đã yêu thương chúng ta chừng nào!

Thật là một tình yêu gây kinh ngạc và mầu nhiệm, bởi vì khi ban Chúa Giêsu như Mục Tử hiến mạng sống mình cho chúng ta, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta tất cả những gì cao cả và quý báu nhất Ngài có thể ban cho chúng ta! Đó là tình yêu cao cả và tinh tuyền nhất, bởi vì nó không do một sự cần thiết nào, nó không bị điều kiện hóa bởi bất cứ tính toán nào, nó không bị lôi kéo bởi bất cứ ước muốn trao đổi lợi lộc nào. Trước tình yêu đó của Thiên Chúa chúng ta kinh nghiệm được một niềm vui mênh mông và rộng mở cho lòng biết ơn đối với những gì chúng ta đã nhận lãnh một cách nhưng không.

Tuy nhiên, chiêm ngưỡng và cảm tạ thôi không đủ. Cũng cần phải theo Mục Tử Nhân Lành nữa. Đặc biệt là những người có sứ mệnh hướng dẫn trong Giáo Hội – các linh mục, Giám Mục và Giáo Hoàng – được mời gọi nhận lấy không phải tâm thức của người quản trị, nhưng của nguời tôi tớ, noi gương Chúa Giêsu, là Đấng lột bỏ chính mình và đã cứu chuộc chúng ta với lòng thương xót của Người. Cũng được mời gọi có kiểu sống này các tân linh mục của giáo phận Roma mà tôi đã sung sưóng truyền chức cho sáng nay trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Và hai vị sẽ ra cửa sổ này để cám ơn và chào anh chị em.

Ước chi Mẹ Maria Rất Thánh xin cho tôi, cho các Giám Mục và các linh mục trên toàn thế giới được ơn phục vụ dân thánh Chúa qua việc tươi vui rao giảng Tin Mừng, sốt sắng cử hành các Bí Tich và kiên nhẫn dịu hiền trong hướng dẫn mục vụ.

Tiếp đến ĐTC đã cất kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và cùng hai tân linh mục ban phép lành cho mọi người.

Sau Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ĐTC đã tái phân ưu với các dân tộc nạn nhân của trận động đất lớn tại Nepal và các nước phụ cận. Như đã biết trận động đất mạnh tới 8.1 độ Richter, khiến cho 1900 người chết, hàng ngàn người bị thương và mất nhà cửa. ĐTC nói ngài gần gũi các nạn nhân, người bị thương và tất cả những ai đang đau khổ vì tai ương này. Ước chi họ được tình liên đới huynh đệ nâng đỡ  trợ giúp. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ. ĐTC và mọi người đã đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho các anh chị em này.

Ngài cũng mời mọi người hiệp ý cảm tạ Chúa vì hôm qua tại Canada đã có lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Elisa Turgeon, sáng lập dòng các Nữ Tu Đức Bà Mân Côi của thánh Germano: chị là một nữ tu gương mẫu, dành cả đời để cầu nguyện, dậy đỗ và làm việc bác ái trong các trung tâm bé nhỏ của giáo phận, nêu gương sáng trong việc nên thánh và phục vụ tha nhân.

ĐTC không quên chào nhiều nhóm tín hữu đến từ nhiều giáo phận Italia cũng như từ nước ngoài, đặc biệt rất đông tín hữu Ba Lan hành hương Roma nhân kỷ niệm một năm ngày phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói: Ước chi lời mời gọi  “Hãy mở của cho Chúa Kitô” vói giọng nới mạnh mẽ thánh thiện của người luôn vang vọng trong tim anh chị em.

ĐTC đã chúc tất cả một ngày Chúa Nhật tươi vui và xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 12-1-2015, ĐTC Phanxicô đã trình bày lập trường của Tòa Thánh về các vấn đề thời sự quốc tế.

Buổi tiếp kiến diễn ra từ lúc 10 giờ rưỡi, trước sự hiện diện của các đại diện 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ Jean-Claude Michel của Tiểu vương quốc Monaco, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn và lần lượt đề cập đến những vấn đề và những vùng nóng bỏng trên thế giới cũng như khích lệ những sáng kiến hòa bình và phát triển.

Diễn văn ca ĐTC

Ngài nói: ”Hôm nay tôi muốn mạnh mẽ tái gióng lên một từ rất quí giá đối với chúng ta, đó là hòa bình! Từ này đến với chúng ta từ tiếng nói của các thiên thần, loan báo trong đêm Giáng Sinh (Xc Lc 2,14), như hồng ân quí giá của Thiên Chúa và đồng thời tỏ cho chúng ta thấy đó là trách nhiệm bản thân và xã hội mà chúng ta cần phải ân cần và mau mắn thực hiện. Nhưng bên cạnh hòa bình, hang đá máng cỏ cũng kể lại cho chúng ta một thực tại bi thảm: đó là sự phủ nhận. Trong một số hình ảnh về giáng sinh, ở Tây phương cũng như Đông phương, tôi nghĩ đến bức ảnh rạng ngời vẽ trên gỗ của Andrej Rublev – Chúa Hài Đồng không nằm thoải mái trong nôi, nhưng được đặt trong một cái mộ. Hình ảnh ấy muốn liên kết hai lễ chính của Kitô giáo – Giáng Sinh và Phục Sinh, cho thấy bên cạnh sự đón tiếp vui mừng biến cố Chúa giáng sinh, có cả một thảm kịch trong đó Chúa Giêsu bị khinh rẻ và loại bỏ cho đến độ phải chết trên thập giá”.

Nguyên nhân nền văn hóa loại bỏ
ĐTC nhận định rằng các trình thuật về sự giáng sinh của Chúa Giêsu cũng nói về ”con tim chai cứng của nhân loại” khiến họ không đón nhận Chúa Hài Đồng. Ngài cảnh giảc rằng ”Ngày nay cũng có một thái độ phủ nhận nơi chúng ta, làm cho ta không nhìn tha nhân như người anh em cần đón nhận, nhưng để họ ở bên ngoài chân trời cuộc sống chúng ta, biến họ thành một người cạnh tranh, một nhân vật thấp kém cần thống trị. Đó là một não trạng tạo nên nền văn hóa gạt bỏ không tha điều gì và cũng chẳng nể nang ai: từ các thụ tạo, cho tới con người và thậm chí cả Thiên Chúa nữa. Từ đó nảy sinh một nhân loại bị thương tổn và tiếp tục bị xâu xé vì những căng thẳng và xung đột đủ loại”.

ĐTC nhận xét rằng chúng ta có một âm hưởng đau buồn về sự kiện đó trong rất nhiều tin tức thời sự hằng ngày, mới đây nhất là cuộc thảm sát xảy ra ở Paris. Ngài đặc biệt nói đến một nhân vật tàn ác là vua Hêrôđê, khi thấy mình bị Hài Nhi Giêsu đe dọa, liền ra lệnh giết tất cả các trẻ em ở Bethlehem. Từ đó, ĐTC cảm động nhắc đến vụ thảm sát tàn bạo chưa từng có: hơn 100 trẻ em bị tàn sát cách đây hơn 1 tháng tại Pakistan.

Những hình thức nô lệ tân thời
Trong bài diễn văn trước ngoại giao đoàn, ĐTC cũng đề cập đến những thứ nô lệ tân thời, như đã nói tới trong sứ điệp nhân ngày Hòa Bình thế giới 1-1 vừa qua, và ngài tái khẳng định rằng ngày nay, chúng ta thấy con người tự do trở thành nô lệ, khi thì nô lệ thời trang, khi thì nô lệ quyền lực, tiền tài, thậm chí nô lệ những hình thức sai trái về tôn giáo. Hiển nhiên đó là những thứ nô lệ tân thời, nảy sinh từ một con tim hư hỏng, không có khả năng nhìn thấy và làm điều thiện, không theo đuổi hòa bình. ĐTC cảnh giác trước những hậu quả của não trạng ấy và thứ văn hóa nô lệ hóa, đó là sự tiếp tục lan tràn các cuộc xung đột như một thứ thế chiến thực sự, đang diễn ra từng mảnh”.

Xung đột tại Ucraina
Cuộc chiến tranh đầu tiên được ĐTC nhắc đến là tại Ucraina và ngài nhận xét rằng đất nước này đã trở thành một diễn trường thê thảm cho các cuộc xung đột. Ngài cầu mong rằng nhờ đối thoại, người ta củng cố các nỗ lực đang tiến hành để chấm dứt các hành vi thù nghịch, và các phe liên hệ bắt đầu con đường chân thành, tín nhiệm nhau trong tinh thần tôn trọng công pháp quốc tế.

Trung Đông, Irak và Siria
Một phần quan trọng trong diễn văn của ĐTC được dành cho Trung Đông, quê hương của Chúa Giêsu mà ”chúng ta không bao giờ mệt mỏi trong việc khẩn cầu hòa bình cho miền này”. Ngài nhắc lại cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình tại Vatican hồi tháng 6 năm ngoái với sự tham dự của Tổng thống Israel bấy giờ là ông Shimon Peres và thổng thống Palestine Abbas và ngài tái kêu gọi chấm dứt bạo lực, đạt tới một giải pháp giúp người Palestine và Israel rốt cục được sống trong hòa bình, để cụ thể hóa giải pháp 2 quốc gia.

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô nói đến Irak và Siria nơi vẫn còn những cuộc xung đột kéo dài, với những hậu quả thê thảm kể cả về khía cạnh làm cho nạn khủng bố cực đoan lan tràn.

Chủ nghĩa khủng bố phủ nhận con người và Thiên Chúa
Ngài trình này một suy tư về hiện tượng khủng bố bi thảm và khẳng định rằng đó là ”hậu quả của một nền văn hóa loại bỏ được áp dụng cho Thiên Chúa. Thực vậy, trào lưu tôn giáo cực đoan, trước khi nó là một sự loại bỏ con người qua những cuộc thảm sát kinh khủng, thì nó là sự phủ nhận chính Thiên Chúa, coi Chúa chỉ là một cái cớ ý thức hệ. Đứng trước sự gây hấn bất công chống lại cả các tín hữu Kitô và các nhóm chủng tộc và tôn giáo khác trong vùng, cần có một câu trả lời nhất chí, trong khuôn khổ công pháp quốc tế, ngăn chặn sự lan tràn bạo lực, tái lập sự hòa hợp và chữa lành những vết thương sâu đậm mà các cuộc xung đột nối tiếp nhau đã tạo ra.

ĐTC tái kêu gọi cộng đồng quốc tế cũng như mỗi chính phủ hãy có những sáng kiến cụ thể để kiến tạo hòa bình và bênh vực những người đau khổ vì chiến tranh và bách hại. Ngài nhắc lại lá thư đã gửi hồi trước giáng sinh cho các Cộng đồng Kitô ở Trung Đông và nhấn mạnh rằng: ”Một Trung Đông không còn Kitô hữu thì sẽ là một Trung Đông bị biến dạng và què quặt”. Ngoài ra, một lần nữa ngài cầu mong ”các vị lãnh đạo tôn giáo, chính trị, trí thức, đặc biệt là Hồi giáo, lên án bất kỳ sự giải thích tôn giáo một cách cực đoan và duy căn, nhắm biện minh cho những hành vi bạo lực như thế”, và ĐTC cũng lấy làm tiếc vì những hình thức tàn bạo như thế cũng không thiếu ở các nơi khác trên thế giới.

Xung đột tại các nước Phi châu
ĐTC đề cập đến các cuộc xung đột ở Phi châu, và nhận xét rằng nhiều nước Phi châu cũng bị đảo lộn vì chiến tranh, bắt đầu từ Nigeria, nơi vẫn chưa chấm dứt những bạo lực chống lại các thường dân một cách bừa bãi, trong khi hiện tượng bi thảm bắt cóc người tiếp tục gia tăng tại nước này. Ngài tố giác hiện tượng đáng kinh tởm là nạn buôn các trẻ nữ bị bắt cóc để cưỡng bách kết hôn.

ĐTC cũng nghĩ đến nước Libia đang bị sâu xé vị cuộc nội chiến dài dẵng, gây ra những đau khổ khôn tả cho dân chúng và có những hậu quả trầm trọng đối với sự quân bình mong manh trong vùng này. Ngài nghĩ đến Cộng hòa Trung Phi nơi mà người ta phải đau lòng nhận thấy thiện chí của những người đang cố gắng xây dựng hòa bình đang gặp phải sự kháng cự của những hình thức chống đối và những lợi lộc phe phái ích kỷ.
ĐTC bày tỏ lo âu về tình trạng ở Sudan, vùng Sừng ở Phi châu, Cộng hòa dân Chủ Congo nơi mà hàng ngàn người phải đi tị nạn bạo lực. Ngài không quên kêu gọi các vị hữu trách dấn thân hơn để bênh vực hòa giải, hòa bình và phẩm giá con người.

Tội ác hãm hiếp
ĐTC đặc biệt tố giác sự kiện chiến tranh cũng mang theo một tội ác đáng kinh tởm là sự hãm hiếp. Đây là một sự vi phạm rất trầm trọng chống lại phẩm giá của phụ nữ, không những họ bị vi phạm trong thân thể, nhưng cả trong tâm hồn, với chấn thương khó có thể xóa bỏ được. Rất tiếc là nơi nào có chiến tranh thì người ta cũng thấy có quá nhiều phụ nữ phải chịu đau khổ vì bạo hành, do tội ác này.

Bệnh dịch Ebola
Đề cập tới bệnh dịch Ebola, ĐTC nhận xét rằng trong nền văn hóa loại bỏ cũng có một cách người ta đối xử với các bệnh nhân, bị cô lập và gạt ra ngoài lề như những người cùi mà Phúc Âm nói tới. ĐTC định nghĩa các nạn nhân Ebola như những người cùi trong thời đại chúng ta ngày nay, nhất là tại Liberia, Sierra Leone và Guinea, với hơn 6 ngàn người chết. Ngài tái cám ơn các nhân viên y tế, các tu sĩ và những người thiện nguyện chăm sóc các bệnh nhân Ebola đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế đảm bảo một sự trợ giúp nhân đạo thích hợp cho các bệnh nhân và thăng tiến một sự dấn thân chung để loại trừ bệnh dịch.

Những người tị nạn và di dân
Sang đến những người tị nạn và di dân, ĐTC nói: ”trong số những hậu quả của các cuộc xung đột, thường có sự trốn chạy của hàng ngàn người rời bỏ nguyên quán của họ… bao nhiêu người đã bỏ mạng trong những hành trình không xứng đáng với con người, phải chịu đủ thứ hành hạ của những lý hình tham lan tiền bạc. Địa Trung Hải không thể trở thành một đại nghĩa trang”.

ĐTC tố giác sự kiện nhiều người di dân, nhất là tại Mỹ châu, là các trẻ em đi một mình, dễ trở thành mồi cho những nguy hiểm. Các em đang cần được quan tâm, săn sóc và bảo vệ nhiều hơn.

Ngài nhấn mạnh thảm trạng bị từ chối mà bao nhiêu người di dân phải chịu. Họ thường đến những miền đất lạ, không có giấy tờ, cũng chẳng biết ngôn ngữ tại nước ấy. Người di dân thật khó được chấp nhận và khó tìm được công ăn việc làm. ĐTC kêu gọi thay đổi thái độ đối với họ, để đi từ thái độ dửng dưng và sợ hãi sang thái độ chân thành đón nhận tha nhân. Ngài không quên kêu gọi thiết lập những luật lệ thích hợp và sự dấn thân của quốc tế để cứu giúp những người tị nạn và di dân. Ngoài ra, cần chữa trị tận căn hiện tượng này chứ không phải chỉ chữa trị hậu quả mà thôi.

Công ăn vic làm và gia đình
ĐTC đề cập đến vấn đề công ăn việc làm và gia đình. Ngài nói: ”những người lưu vong thầm kín” đang sống trong gia cư của chúng ta: những người già, người tàn tật và người trẻ không tìm được công ăn việc làm. Những người già bị gạt bỏ khi họ bị coi như gánh nặng và sự hiện diện của họ bị coi như một sự phiền phức, trong khi người trẻ bị gạt bỏ khi người ta không giúp họ có công ăn việc làm. ĐTC nói: không có sự nghèo đói nào tệ hơn là thứ nghèo đói không có việc làm và phẩm giá của lao công, hoặc biến lao công thành một hình thức nô lệ. Sự thất nghiệp của người trẻ, cũng như sự bóc lột sức lao động của trẻ vị thành niên là điều trái ngược với phẩm giá con người và xuất phát từ một não trang đặt tiền bạc ở trung tâm và gây hại cho chính con người.

ĐTC Phanxicô tố giác sự kiện nhiều khi gia đình trở thành đối tượng cho sự gạt bỏ vì thứ văn hóa cá nhân chủ nghĩa ngày càng lan tràn, tạo ra sự giảm bớt số sinh, và những luật lệ dành ưu tiên cho những hình thức sống chung khác, thay vì nâng đỡ gia đình một cách thích hợp để mưu cộng tác cho toàn thể xã hội.

Kêu gọi Italia thắng cám dỗ đng đ
ĐTC không quên nhắc đến quốc gia Italia yêu quí, đang phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế như bao nước khác, cuộc khủng hoảng này sinh ra sự thiếu tín nhiệm và tạo điều kiện cho những xung đột xã hội. Những hậu quả của tình trạng đó người ta thấy ở Roma và Italia khi gặp bao nhiêu người sống trong tình trạng cơ cực. ĐTC nhấn mạnh rằng Italia cần phải vượt thắng bầu không khí bất an kéo dài về mặt xã hội, chính trị và kinh tế. Nhân dân Italia đừng chiều theo sự buông xuôi và cám dỗ đụng độ nhau, nhưng tái khám phá những giá trị của sự chú ý đến nhau và liên đới là nền tảng của sự sống chung với nhau và là nguồn mạch sự tín nhiệm người khác và tin tưởng nơi tương lai, nhất là đối với người trẻ.

Viếng thăm Sri Lanka và Philippines
ĐTC cũng nói đến người trẻ khi nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại Hàn Quốc nhân Ngày giới trẻ Á châu và ngài đề cập đến cuộc viếng thăm ngài sắp thực hiện tại Sri Lanka và Philippines. Biến cố này chứng tỏ sự quan tâm và ân cần về mục vụ của ngài khi theo dõi các thăng trầm của Á châu. Ngài cũng tái cầu mong hai nước Triều Tiên anh em mở lại các cuộc đối thoại với nhau.

Thành quả hòa bình
Vào đầu năm mới, ĐTC cho biết ngài không muốn cái nhìn của ngài có sắc thái bi quan và ngài cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân, các cuộc gặp gỡ, đối thoại và nhất là một số thành quả của hòa bình. Trong ý hướng đó, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm của ngài tại Albani, mặc dù có những vết thương phải chịu trong lịch sử gần đây, nhưng nay là một nơi sống chung hòa bình và tôn trọng tín nhiệm lẫn nhau giữa các tín hữu Công giáo, Chính Thống và Hồi giáo. Ngài nhận định rằng niềm tin chân thành nơi Thiên Chúa làm ta cởi mở đối với tha nhân, tạo ra đối thoại và hoạt động cho công ích, trong khi bạo lực luôn nảy sinh từ sự huyền thoại hóa chính tôn giáo của mình, nhiều khi viện cớ những dự án ý thức hệ, nhắm mục tiêu duy nhất là người thống trị người. ĐTC nhắc đến cuộc đối thoại đại kết và liên tôn ở Thổ Nhĩ Kỳ và tinh thần đón tiếp ở Giordani. Ngài cầu mong Liban vượt thắng được những khó khăn hiện nay về chính trị.

Hoa Kỳ và Cuba xích lại gần nhau
Trong số những ví dụ về đối thoại có thể thực sự kiến tạo được những nhịp cầu, ĐTC Phanxicô nhắc đến quyết định mới đây của Hoa Kỳ và Cuba chấm dứt sự im lặng đối với nhau dài hơn một nửa thế kỷ và xích lại gần nhau để mưu ích cho các công dân cả hai nước. Ngoài ra ngài hài lòng chào mừng ý muốn của Hoa Kỳ đóng cửa vĩnh viễn nhà tù ở Guantanamo.

ĐTC nói đến nước Burkina Faso đang dấn thân trong một thời kỳ mới cộng tác và phát triển, và Philippines đã ký một hiệp định chấm dứt những năm căng thẳng tại nước này. Ngài cũng khích lệ cuộc hòa đảm tại Colombia, sự hòa hợp ở Venezuela, và thỏa hiệp chung kết giữa Iran và nhóm các nước gọi là ”5 cộng 1”, về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào những mục tiêu hòa bình.

70 năm thành lập LHQ và hiệp định về khí hậu
Trong phần kết của bài diễn văn, ĐTC nhắc lại rằng cách đây 70 năm LHQ đã được khai sinh từ đống tro tàn của thảm họa kinh khủng là Thế Chiến thứ 2. Ngài nhắc lại bài diễn văn lịch sử của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6 trong cuộc viếng thăm LHQ hồi năm 1965, đó là lời kêu gọi tha thiết: ”Đừng chiến tranh nữa, đừng bao giờ gây chiến nữa”. ĐTC Phanxicô lập lại lời kêu gọi này khi đặc biệt nghĩ đến chương trình phát triển hậu 2015 với những mục tiêu phát triển dài hạn và soạn thảo một Hiệp định mới về khí hậu. Ngài xác tín rằng trong cả các tiến trình đó, một điều kiện không thể thiếu được chính là hòa bình, nảy sinh từ sự hoán cải tâm hồn”.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

 

Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Albania

Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Albania

Phỏng vấn Đức Cha Rrok Mirdita, Tổng Giám Mục Tirana

Sáng ngày 31-7-2014 Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố chương trình chuyến Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm mục vụ Albania vào ngày 21 tháng 9 tới đây.

Lúc 7 giờ 30 sáng Chúa Nhật 21-9-2014 Đức Thánh Cha sẽ rời phi trường Fiumicino để bay sang Tirana và tới phi trường ”Mẹ Têrêxa” lúc 9 giờ. Lúc 9 giờ 30 lễ nghi chào đón sẽ diễn ra tại Dinh tổng thổng trong thủ đô Tirana. Sau khi chào thăm và hội kiến với tổng thống tại ”Thư phòng Xanh”, lúc 10 giờ Đức Thánh Cha gặp gỡ hàng lãnh đạo Albania. Sau đó lúc 11 giờ ngài sẽ cử hành Thánh Lễ và đọc kinh Truyền Tin với tín hữu tại quảng trường Mẹ Têrexa. Lúc 13 giờ 30 ngài dùng bữa trưa với các Giám Mục Albania và đoàn tùy tùng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

Ban chiều lúc 16 giờ Đức Thánh Cha gặp gỡ các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo khác trong đại học công giáo ”Đức Bà Cố vấn”. Lúc 17 giờ ngài chủ sự buổi hát kinh chiều với sự tham dự của các linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và thành viên các phong trào giáo dân trong nhà thờ chính tòa Tirana.

Lúc 18 giờ 30 Đức Thánh Cha gặp gỡ các trẻ em và phái đoàn đại diện các thành viên của các trung tâm bác ái khác trong nhà nguyện trung tâm Betania.

Lúc 19 giờ 45 lễ nghi tiễn biệt sẽ diễn ra tại phi trường quốc tế Mẹ Têrêxa. Máy bay chở Đức Thánh Cha sẽ rời phi trường lúc 20 giờ và về tới phi trường Ciampino của Roma lúc 21 giờ 30.

Cộng hòa Albania rộng gần 29.000 cây số vuông, có hơn 3 triệu dân, gần 59% theo Hồi giáo, hơn 17% theo Kitô giáo và 25,30% không theo tôn giáo nào. Trước thời Đệ Nhị Thế Chiến có 70% dân Albania theo Hồi giáo, 20% theo Chính thống, và 10% theo Công giáo.

Vào cuối thế kỷ thứ IV, khi đế quốc Roma bắt đầu suy yếu, Albania đã là trung tâm của nền văn minh Illirica, và trong nhiều thế kỷ đã là một trong các trung tâm văn hóa và tôn giáo chính của đế quốc Bizantin. Vào thế kỷ XV Albania rơi vào tay đế quốc hồi Ottoman, và nằm dưới sự cai trị của người Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 28 tháng 11 năm 1912 Albania tuyên bố đôc lập khỏi đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, và năm sau đó được thừa nhận trở thành Cộng hòa Albania, sau các cuộc chiến vùng Balcan.

Năm 1939 Albania bị sát nhập vào vương quốc Italia. Trong các năm 1944 đến 1990 Albania đã là một nước cộng sản, có chính sách tự cô lập hóa, theo Stalin và chống việc xét lại. Trong 46 năm phải sống dưới chế độ cộng sản vô thần tín hữu các tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo, đã bị bách hại rất gắt gao và đã có hàng chục ngàn tín hữu tử đạo, trong có đó nhiều giám mục linh mục và tu sĩ nam nữ. Cũng giống như các nước cộng sản khác, nhà nước cộng sản Albania đã thẳng tay đàn áp các kitô hữu, bắt giữ, bỏ tù, tra tấn và tàn sát họ không thương tiếc.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Rrok Mirdita, Tổng Giám Mục Tirana.

Hỏi: Thưa Đức Cha Mirdita, Giáo Hội tại Albania chờ đợi chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô với các tâm tình nào?

Đáp: Chúng tôi chờ đợi chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha với các tâm tình biết ơn. Giáo Hội của chúng tôi đã đâm rễ sâu trên vùng đất Albania này và gắn bó với người dân một cách sâu xa dọc dài lịch sử. Nhưng vì là một Giáo Hội nhỏ bé nó đã luôn luôn hướng nhìn về Roma với lòng trìu mến và sống ơn gọi là Giáo Hôi công giáo. Chính qua sự hiệp thông với Người Kế Vị Thánh Phêrô và lòng trung thành với ngài mà tín hữu của chúng tôi đã sống sự tùy thuộc vào Giáo Hội hoàn vũ, cả trong các lúc, trong đó Người Kế Vị Thánh Phêrô và Giáo Hội hoàn vũ đã bị coi là kẻ thù trên quê hương. Tôi nghĩ tới cuộc bách hại tôn giáo dài dưới chế độ cộng sản, nhưng tÔi cũng nghĩ tới các thời điểm khác của qúa khứ. Giờ đây Người Kế Vị Thánh Phêrô nhìn tới chúng tôi và đến thăm chúng tôi, để củng cố chúng tôi trong lòng tin và để tỏ lòng cảm phục đối với sự tử đạo và khổ đau của các tín hữu công giáo Albania, nhưng không phải chỉ có thế. Giáo Hội tại Albania chờ đợi Đức Thánh Cha với niềm vui và lòng thương mến cùng với tín hữu các tôn giáo khác. Cả những người không tín ngưỡng cũng rất trân trọng vá qúy mến Đức Thánh Cha.

Hỏi: Bách hại tôn giáo là một từ ám chỉ sự chia rẽ và kỳ thị hiện nay. Chỉ cần nghĩ tới tình hình bên Trung Đông, nhưng tại Albania sự bách hại của chế độ vô thần đã củng cố sự hiệp thông giữa các tôn giáo. Chúng ta nhớ rằng bốn cộng đoàn tôn giáo chính là Hồi giáo Suunít, Chính thống, Công giáo và Hồi giáo Bektashi đã chung sống hòa bình với nhau. Chung sống hòa bình là điều có thể giữa các tôn giáo trong cùng một quốc gia không thưa Đức Cha?

Đáp: Tuyệt đối là có thể chứ. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, có người giả thuyết rằng với sự tự do tôn giáo sẽ nảy sinh ra các căng thẳng giữa các tôn giáo, nhưng đã không xảy ra như vậy. Albania cống hiến một mô thức gương mẫu của sự chung sống giữa các tôn giáo với nhau. Tôi không nói rằng chúng tôi đã đạt đến sự hài hòa này mà không có các hy sinh, nhưng các hy sinh hoàn thành dọc dài lịch sử đã cho các hoa trái hòa bình, mà ngày nay tất cả mọi công dân đều được hưởng trong nước. Người Albani đã học đươc dọc dài các thế kỷ rằng có thể hoàn toàn trung thành với tôn giáo của mình, trong sự tôn trọng tràn đầy đối với tôn giáo của người khác. Không thể đẹp lòng Thiên Chúa, nếu vi pham các quyền lợi của các anh chị em khác. Nhưng người ta có thể tôn thờ Thiên Chúa, cả trong lãnh vực công cộng, mà không xâm lấn không gian của người khác. Như thế, Đức Thánh Cha Phanxicô tìm thấy tại Albania một mô thức gương mẫu của sự chung sống hòa bình giữa các tôn giáo.

Hỏi: Hai mươi mốt năm đã qua đi, kể từ chuyến viếng thăm Albania của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Giáo Hội và xã hội Albania đã thay đổi như thế nào thưa Đức Cha?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã như là một sự vuốt ve trên thân xác băn khoăn của Giáo Hội tử đạo Albania. Đó đã là một ngày ánh sáng cho toàn dân nước. Đức Gioan Phaolô II tái lập hàng giáo phẩm và tấn phong 4 Giám Mục đầu tiên. Qua việc khẩn nài Chúa Thánh Thần cho việc phong chức các Giám Mục, mà tôi là một trong bốn vị ấy, cơ cấu giáo hội được tái hồi sinh. Trong hai thập niên qua Giáo Hội Albania đã thay đổi nhiều. Chúng tôi có hàng giáo sĩ bản xứ, các tu sĩ nam nữ người Albani hoạt động bên cạnh biết bao nhiêu thừa sai với lòng quảng đại, nhưng dần dần các thừa sai nhường chỗ cho các thế hệ trẻ Albani.

Chúng tôi cũng có các giáo dân dấn thân trong Giáo Hội và trong xã hội. Như là Giáo Hội chúng tôi điều hành nhiều việc phục vụ trong lãnh vực xã hội, nhưng cũng có nguy cơ trở thành một Giáo Hội thiết định, dừng lại một chỗ. Vì thế chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô đem tới sự tươi mát, lay động chúng tôi khỏi các thói quen, và làm cho chúng tôi sống trở lại sự mới mẻ thường hằng của Tin Mừng. Cả xã hội Albania cũng đã thay đồi nhiều, nhưng có vài thách đố vẫn còn tồn tại, chẳng hạn như nạn gian tham hối lộ, nghèo túng, thất nghiệp, các tổ chức tội phạm và công lý yếu kém.

Hỏi: Chuyến viếng thăm Tirana là chuyền viếng thăm đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lục địa Âu châu. Có thể nói rằng Đức Thánh Cha đã bắt đầu từ một vùng ngoại biên hay không?

Đáp: Nếu người ta hiểu trung tâm là sự giầu có vật chất, thì đúng thế. Albania là một ngoại biên của Âu châu, nhưng đầt nước chúng tôi giầu các giá trị khác. Chúng tôi có người dân trẻ nhất âu châu, mặc dù có các làn sóng di cư, chúng tôi có gia đình còn mạnh mẽ, trong đó người già còn được tôn trọng, được lắng nghe và được phục vụ. Chúng tôi có sự chung sống hòa bình giữa các tôn giáo, và tuy có các chấn thương của chể độ độc tài và nỗi khổ đau của qúa khứ gần đây, nhưng chúng tôi đã không ngã vào trong cạm bẫy của một cuộc đấu tranh giai cấp mới, và chúng tôi đã duy trì được hòa bình xã hội. Có thể nói rằng Đức Thánh Cha Phanxicô bước vào đại lục Âu châu qua việc gặp gỡ với một dân tộc nghèo nàn, đã đau khổ nhiều, nhưng cũng đã đóng góp nhiều cho Âu châu.

(SD 31-7-2014)
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chướng ngại

Chướng ngại

Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.

Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: – Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?

Cụ già thản nhiên đáp:

– Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:

– Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.

Cụ già khiêm tốn hỏi:

– Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?

Anh sinh viên hăng hái trả lời:

– Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.

Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.

Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.

Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.

Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?

Sưu tầm