Tường trình kết quả hội thảo 14 nhóm tại Thượng HĐGM

Tường trình kết quả hội thảo 14 nhóm tại Thượng HĐGM

Có 4 nhóm tiếng Anh, 3 nhóm tiếng Pháp và 3 nhóm tiếng Ý, 2 nhóm tiếng Tây Ban Nha, 1 nhóm Bồ đào nha và 1 nhóm tiếng Đức.

 Các ý tưởng được nhấn mạnh nhiều nhất là cần có một Giáo Hội cảm thông, đối thoại, tránh thái độ tự tham chiếu cũng như những thành kiến, và Giáo Hội cần đáng tin cậy nhờ chứng tá.

 Đề cao giá trị của người trẻ

 Các nghị phụ nhấn mạnh rằng cần đề cao giá trị của người trẻ; sự tham gia tích cực của họ vào đời sống Giáo Hội cần được thăng tiến và tái đẩy mạnh, cần làm cho sự dấn thân của họ mang lại thành quả, trong tinh thần công nghị đích thực, để họ trở thành những người giữ vai chính với tinh thần trách nhiệm, và trở thành những người loan báo Tin Mừng cho những người đồng lứa tuổi.

 Giáo Hội cần giúp người trẻ hy vọng

 Các nghị phụ cũng khẳng định rằng cần vui mừng cống hiến cho người trẻ những lý do để sống và hy vọng, tránh thái độ luân lý dạy đời và cần chứng tỏ rằng cuộc sống là lời đáp lại ơn gọi Chúa dành cho mỗi người chúng ta; xét cho cùng, cuộc sống là tươi đẹp vì có một ý nghĩa. Người trẻ có khả năng đưa ra những quyết định, tuy nhiên cũng cần giúp họ tới những quyết định dài hạn.

 Cảnh giác về nền văn hóa kỹ thuật số (digital)

 Nhiều nhóm nghị phụ đề cập đến nền văn hóa kỹ thuật số đang tràn ngập cuộc sống của người trẻ, phong phú về những điểm sáng, những cũng có những bóng tối, gia tăng cảm tưởng cô đơn, với nguy cơ làm cho người trẻ bị bó buộc đối với thứ năm hóa màn hình, một bệnh tinh thần về kỹ thuật số, khiến người trẻ không có khả năng tập trung và hiểu những văn bản phức tạp, một sự di cư tiềm thể, đưa người trẻ vào một thế giới hoàn toàn là của họ, kết quả của sự tưởng tượng. Trong bối cảnh đó, sự hiện diện của Giáo Hội là điều thiết yếu để đồng hành với người trẻ, dạy họ rằng cần sử dụng mạng, chứ đừng để mạng sử dụng mình. Cũng không nên quên rằng bao nhiêu người trẻ không nối mạng và thường họ sống tại những vùng quê không có Internet.

 Cần tái tạo sự tín nhiệm Giáo Hội sau xì căng đan lạm dụng

 Một đề tài khác được nhiều nhóm nghị phụ cứu xét là xì căng đan lạm dụng tính dục, làm thương tổn uy tín của Giáo Hội. Cần đương đầu với gương mù này một cách sâu rộng để phục hồi lòng tín nhiệm của tín hữu, nhưng không nên quên những gì Giáo Hội đã làm để ngăn chặn và phòng ngừa những tội ác ấy, tránh những thiếu sót thê thảm sau này. Một điều quan trọng khác là giúp đỡ những nạn nhân của các vụ lạm dụng, để họ tìm được con đường tha thứ và hòa giải. Cần có thể thông tin về vấn đề tính dục, trình bày trong sáng, nhưng không bỏ qua ngôn ngữ thần học.

 Các HĐGM liên hệ cần dân thân vào vấn đề di dân

 Về vấn đề di dân: các nhóm nghị phụ quan tâm đến vấn đề này và nhấn mạnh rằng cần có sự dấn thân của các HĐGM liên hệ. Cần bênh vực chính nghĩa của người di dân trên bình diện quốc tế, kiến tạo những con đường hợp pháp và an ninh, và điều quan trọng là cổ võ những cơ hội tại các nước xuất cư và tiếp cư. Không được quên những người di cư nội địa tại mỗi nước, cũng như những người bị bách hại và ngược đãi tại nhiều vùng trên thế giới.

  Quan tâm tới việc huấn luyện người trẻ

 Một số nhóm nghị phụ nhắc đến vấn đề huấn luyện cho người trẻ, và điều này cũng nằm trong thách đố mục vụ gia đình thích hợp, giúp thông truyền đức tin giữa các thể hệ khác nhau. Ngày nay gia đình đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng, do cơ cấu bị giải trừ và sự suy yếu của vai trò người cha. Nói chung, nhiều khi có những người lớn ấu trĩ và cá nhân chủ nghĩa, không giúp người trẻ nhận thức Tin Mừng. Trái lại, trách nhiệm của mỗi tín hữu là đồng hành với người trẻ để họ gặp gỡ với Chúa Giêsu, vì tuổi trẻ xây dựng bản thân trên căn bản những gì họ đã nhận lãnh từ gia đình. Vì thế Giáo Hội là ”gia đình của các gia đình”, phải cống hiến cho ngừơi trẻ kinh nghiệm đích thưc về gia đình, trong đó họ cảm thấy được đón nhận, yêu thương, chăm sóc và đồng hành trong sự tăng trưởng, phát triển toàn diện và thực hiện những giấc mơ và hy vọng của họ”. (Rei 9-10-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu cho người di dân

VATICAN. ĐTC phê bình thái độ ”khép kín đối với những người cũng có quyền được an ninh và điều kiện sống xứng đáng như chúng ta. Sự khép kín đó xây dựng các bức tường, thực sự hay tưởng tượng, thay vì xây cầu.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua, 6-7-2018 tại Đền thờ Thánh Phêrô, để cầu cho những người di dân và những người cứu cấp, nhân dịp kỷ niệm 5 năm cuộc viếng thăm lịch sử của ngài tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia, ngày 8-7 năm 2013, nơi các thuyền và tàu của người di dân thường cập bến trên đường từ Phi châu tìm vào Âu Châu.

Trong số những người hiện diện trong thánh lễ cũng có khoảng 200 người tị nạn và thiện nguyện. Khoảng 15 điều hợp viên các miền thuộc phân bộ di dân và tị nạn trong Bộ Phát Triển nhân bản toàn diện, một số thành viên của hải quân tuần duyên Italia, tổ chức bác sĩ không biên giới và tổ chức thiện nguyện ”Save the Children” (Hãy cứu các trẻ em). Phần thánh ca do các nữ tu nam nữ thuộc Huynh Đoàn Đan tu Jerusalem ở Roma.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY John Ribat, và 10 GM, cùng với 20 LM, trong đó có 2 vị Phó Tổng thư ký thay ĐTC đặc trách về di dân và tị nạn, thuộc Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đó là cha Fabio Baggio dòng Scalabrini ngừơi Ý và cha Michael Czerny, dòng Tên người Canada.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC nhận xét rằng trong số những người bé nhỏ bị tiêu diệt như ngôn sứ Amos đã tố giác trong bài đọc thứ I (Am 8,4.11), nạn nhân của nền văn hóa loại bỏ, cũng có những người di dân và tị nạn tiếp tục gõ cửa các quốc gia sung túc hơn. ĐTC nhắc rằng cách đây 5 năm tại đảo Lampedusa, ngài đã trích dẫn lời Chúa hỏi Cain: ”Em ngươi ở đâu? Máu của em ngươi đã kêu thấu tới Ta”. Đây không phải là câu hỏi được gửi đến những ngừơi khác, nhưng là câu được gửi đến tôi, đến bạn, và mỗi người trong chúng ta. Rất tiếc những câu trả lời cho tiếng gọi đó, tuy quảng đại, nhưng không đủ, và ngày nay chúng ta lại thương khóc hàng ngàn người chết”.

Dựa vào bài Tin Mừng, ĐTC khẳng định rằng Chúa hứa giải phóng mọi người bị áp bức trên thế giới, nhưng Chúa cần chúng ta để làm cho lời hứa ấy được ứng nghiệm. Chúa cần đôi mắt của chúng ta để thấy những nhu cầu của anh chị em. Ngài cần đôi tay của chúng ta để cứu giúp. Chúa cần tiếng nói của chúng ta để tố giác những bất công diễn ra trong thinh lặng nhiều khi đồng lõa của nhiều người”.

Và ĐTC xác quyết rằng ”đứng trước những thách đố di dân ngày nay, câu trả lời duy nhất hữu lý là câu trả lời liên đới và thương xót; một câu trả lời không quá tính toán, nhưng đòi một sự phân phối công bằng các trách nhiệm, một sự thẩm định lương thiện và thành thực về những giải pháp khác và một sự quản trị thận trọng.. Nền chính trị đúng đắn trù định những giải pháp thích hợp để bảo đảm an ninh, tôn trọng các quyền và phẩm giá của mọi người, biết nhìn đến thiện ích của đất nước mình và để ý đến thiện ích của các nước khác, trong một thế giới ngày càng liên quan với nhau”.

Cầu cho di dân và tị nạn

Trong thánh lễ, một số lời nguyện phổ quát đã được xướng lên, trong đó có lời cầu xin Chúa chúc lành cho những người cứu giúp thuyền nhân trên Địa Trung Hải và xin Chúa gia tăng nơi mỗi người lòng can đảm nói lên sự thật và tôn trọng mỗi sinh mạng con người.

Cộng đoàn cũng cầu nguyện cho những người thiệt mạng, những người sống sót và những người trợ giúp họ.

Trong lời nguyện kết thúc, ĐTC cầu xin Thiên Chúa là ”Cha tất cả mọi người, đối với Chúa không có ai là người ngoại quốc, không ai bị loại trừ khỏi tình phụ tử của Chúa, xin Chúa yêu thương nhìn đến những người tị nạn, di dân, các nạn nhân bị chia cách, các trẻ em bị bỏ rơi và vô phương thế tự vệ, để tất cả mọi người được sự nồng ấm của một gia cư và một tổ quốc, và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con một trái tim quảng đại và nhạy cảm đối với những người nghèo khổ và bị áp bức”.

Thánh lễ cầu nguyện do ĐTC chủ sự mang một ý nghĩa đặc biệt giữa lúc liên đảng mới lên cầm quyền tại Italia quyết định đóng cửa các hải cảng không đón nhận các tàu vớt thuyền nhân, một số nước khác ở Âu Châu đóng cửa biên giới không nhận người di dân và tị nạn, và Liên hiệp Âu Châu gặp khó khăn trong việc tìm ra một chính sách thống nhất đối với người di dân và tị nạn. (Rei 6-7-2018)

Giuse Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp Ủy Hội Công Giáo quốc tế về di dân

Đức Thánh Cha tiếp Ủy Hội Công Giáo quốc tế về di dân

VATICAN. ĐTC khích lệ Ủy Hội Công Giáo quốc tế về di dân tiếp tục sứ mạng bênh đỡ những người di dân và tị nạn, giúp giải thoát những người bị biến thành nô lệ.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm qua, 8-3, dành cho 130 thành viên Ủy hội Công Giáo quốc tế về di dân (International Catholic Migration) tham dự khóa họp toàn thể tại Roma trong những ngày này, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Njue, TGM giáo phận Nairobi, Kenya.

Cơ quan này được thành lập năm 1951 và hiện có trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ. Ủy hội có sứ mạng bênh vực những người di dân, tị nạn, những người tản cư nội địa, nạn nhân của nạn buôn người, những người di dân, không phân biệt tín ngưỡng, chủng tộc và quốc tịch. Thành viên của Ủy hội là các đại diện của các HĐGM trên thế giới.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nói: ”Tôi cầu mong Ủy Hội của anh chị em tiếp tục công tác linh hoạt các Giáo Hội địa phương xả thân cứu giúp những người bị bó buộc phải rời bỏ quê hương, và quá nhiều khi họ là những nạn nhân bị lường gạt, bạo hành, và lạm dụng đủ loại. Nhờ kinh nghiệm khôn lường, thu thập được sau bao nhiêu năm làm việc, Ủy hội có thể trợ giúp quí giá cho các HĐGM và các giáo dân đang tìm cách tổ chức hữu hiệu hơn để đáp ứng thách đố của thời đại này”.

ĐTC cũng ca ngợi sự tham gia của Ủy hội Công giáo quốc tế về di dân vào tiến trình do cộng đồng quốc tế khởi xướng nhắm tiến tới một hiệp ước hoàn cầu về người tị nạn, và một hiệp ước khác nhắm tới một sự di cư chắc chắn, có thứ tự và hợp pháp. ĐTC nói: Công việc chưa kết thúc. Cùng nhau chúng ta phải khuyến khích các nước thỏa thuận với nhau về những câu trả lời thích hợp và hữu hiệu nhất đối với những thách đố do các hiện tượng di cư đề ra. Chúng ta có thể thi hành điều đó dựa trên các nguyên tắc căn bản của đạo lý xã hội Công Giáo. Chúng ta cũng phải làm sao để những hiệp định đó được thực thi đúng đắn, qua những quyết tâm cụ thể và được nhiều người chia sẻ” (Rei 8-3-2018).

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi các Đại Học Công Giáo giúp di dân

Đức Thánh Cha kêu gọi các Đại Học Công Giáo giúp di dân

VATICAN. ĐTC kêu gọi các Đại học Công Giáo góp phần giải quyết hiện tượng di dân trên thế giới ngày nay.

 

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 4-11-2017 dành cho 230 tham dự viên hội nghị quốc tế về đề tài: ”Người tị nạn và di dân trong một thế giới hoàn cầu hóa: trách nhiệm và câu trả lời của các đại học”.

 

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đề cao vai trò của các đại học Công Giáo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và thăng tiến xã hội liên quan đến hiện tượng di dân.

 

– Trước tiên, ngài kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu về những nguyên nhân xa gây ra hiện tượng bó buộc phải xuất cư, và đề ra những giải pháp có thể thực hành được. Ngoài ra cũng cần suy tư về những phản ứng tiêu cực, kỳ thị và bài người nước ngoài, mà việc đón nhận người di dân đang khơi lên tại những nước có truyền thống Kitô kỳ cựu để đề ra những hành trình huấn luyện lương tâm. Trong chiều hướng này, cần đề cao giá trị nhiều đóng góp mà người di dân và tị nạn mang lại cho các xã hội đón tiếp họ.

 

– Về lãnh vực giảng huấn, ĐTC cầu mong các đại học Công Giáo chấp nhận những chương trình nhắm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục người tị nạn ở nhiều cấp độ, hoặc qua các lớp hàm thụ cho những ngừơi sống tại các trại và trung tâm tiếp cư, hoặc qua việc cấp học bổng cho người di dân và tị nạn.

 

– Sau cùng, trong lãnh vực thăng tiến xã hội, ĐTC đề cao vai trò của các đại học Công Giáo như một lương tâm phê bình đối với những hình thức quyền bính chính trị, kinh tế và văn hóa. Về điểm này, Phân bộ di dân và tị nạn thuộc Bộ phục vụ Phát triển nhân bản toàn diện đã đề nghị 20 điểm hành động như một đóng góp cho tiến trình đưa tới sự đón nhận của Cộng đồng quốc tế các hiệp ước hoàn cầu, trong đó có một hiệp ước về người di dân, và một về người tị nạn trong lục cá nguyệt thứ hai của năm tới, 2018.

 

Cũng trong lãnh vực này, các Đại học Công Giáo có thể cổ võ các sinh viên tham gia các chương trình thiện nguyện, trợ giúp người tị nạn, những người xin tị nạn và những người di dân mới nhập cư. (Rei 4-11-2017)

 

G. Trần Đức Anh OP 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp và hội nhập di dân và tỵ nạn

Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp và hội nhập di dân và tỵ nạn

VATICAN. ĐTC cổ võ các thành thị và làng xã Italia trong việc tiếp đón và hội nhập nhưng người di dân.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 30-9-2017 dành cho 300 thành viên Hiệp hội toàn quốc các thành thị và làng xã Italia. ĐTC nói:

”Tôi hiểu sự khó chịu của nhiều người dân tại các đơn vị của quí vị đứng trước làn sóng nhập cư ồ ạt của những người di dân và tỵ nạn. Sự khó chịu này có thể được giải thích là do sự sợ hãi bẩm sinh đối với ”người lạ”, sự sợ hãi ấy càng gia tăng do những vết thương vì khủng hoảng kinh tế, vì sự thiếu chuẩn bị của các cộng đoàn địa phương, vì sự không thích hợp của nhiều biện pháp được đưa ra trong bầu không khí khẩn cấp”

Theo ĐTC, ”sự khó chịu đó có thể được khắc phục nhờ sự cống hiến những những không gian gặp gỡ và hiểu biết lẫn nhau. Cần chào đón tất cả những sáng kiến thăng tiến văn hóa gặp gỡ, trao đổi cho nhau những phong phú về nghệ thuật và văn hóa, sự hiểu biết những nơi chốn và các cộng đoàn nguyên quán của những người mới đến”.

ĐTC cũng bày tỏ vui mừng vì tại nhiều đơn vị hành chánh có sự vị thị trưởng, xã trưởng hiện diện trong buổi tiếp kiến, có những đường lối tốt để tiếp đón và hội nhập những người di dân, với những kết quả đáng khích lệ và phổ biến rộng rãi sang các nơi khác” (Rei 30-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

Đức Thánh Cha lo âu vì thái độ chống người di dân

VATICAN. ĐTC bày tỏ lo âu và đau buồn vì những dấu hiệu bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài ở nhiều miền của Âu Châu, kể cả trong các cộng đoàn Công Giáo.

Ngài nói lên lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-9-2019 dành các vị Giám đốc toàn quốc về mục vụ di dân và tị nạn thuộc các nước Âu Châu về Roma tham dự cuộc gặp gỡ do Liên HĐGM Âu Châu tổ chức.

ĐTC nhận xét rằng thái độ bất bao dung, kỳ thị và bài người nước ngoài thường do sự nghi kỵ và sợ hãi người khác, sợ cái gì khác biệt và người ngoại quốc. Ngài nói: ”Điều làm tôi càng bận tâm hơn nữa là nhận xét đau buồn khi thấy các cộng đoàn Công Giáo chúng ta ở Âu Châu cũng không tránh được những phản ứng tự vệ và loại bỏ, được biện minh bằng một thứ ”nghĩa vụ luân lý” phải bảo tồn căn tính văn hóa và tôn giáo nguyên thủy.”

Bác bỏ lập luận đó, ĐTC nói: ”Giáo Hội phổ biến trong mọi đại lục là nhờ sự ”di cư” của các thừa sai xác tín về đặc tính hoàn vũ sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, nhắm đến mọi người nam nữ thuộc mọi nền văn hóa. Trong lịch sử Giáo hội không thiếu những cám dỗ của chủ trương loại người khác và bảo vệ thành trì văn hóa, nhưng Chúa Thánh Linh luôn giúp chúng ta khắc phục những cám dỗ ấy, bảo đảm một sự liên tục cởi mở đối với người khác, sự cởi mở ấy được coi như một cơ hội cụ thể để tăng trưởng và được phong phú”.

ĐTC đề cao những khía cạnh tích cực của làn sóng nhập cư vào Âu Châu như cơ hội để thực thi đặc tính Công Giáo, phát triển tinh thần đại kết và liên tôn cũng như là cơ hội để loan báo Tin Mừng” (Rei 22-9-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến di dân

Đức Thánh Cha kêu gọi đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến di dân

VATICAN. ĐTC tái kêu gọi đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập người di dân và tị nạn.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-2-2017 dành cho 250 tham dự viên Diễn đàn quốc tế về chủ đề ”Hội nhập và phát triển: từ phản ứng đến hành động”.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức TGM Silvano Tomasi, cựu quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức LHQ ở Genève, và tiến sĩ Hans-Gert Poettering người Đức, nguyên chủ tịch Nghị viện Âu Châu, ĐTC nhắc đến hiện tượng rộng lớn di dân và tị nạn trên thế giới ngày nay, và ngài tóm tắt thái độ mà cộng đồng chính trị, xã hội dân sự và Giáo Hội cần có trước những thách đố cấp thiết do hiện tượng này đề ra, đó là: đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập những người di dân và tị nạn.

ĐTC nói: ”Đối với những người trốn chạy chiến tranh và bách hại kinh khủng, nhiều khi bị rơi vào nanh vuốt của các tổ chức tội phạm vô lương tâm, cần mở những hành lang nhân đạo có thể đi qua và an toàn. Một sự tiếp đón trong tinh thần trách nhiệm và xứng đáng dành cho các anh chị em này bắt đầu trước hết bằng cách thu xếp cho họ những không gian thích hợp và xứng đáng”.

ĐTC cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ những người di dân tị nạn dễ bị tổn thương nhất chống lại sự khai thác, bóc lột, lạm dụng và bạo hành.. đồng thời giúp thăng tiến các quyền lợi của họ như những nhân vị, bảo đảm cho họ những điều kiện cần thiết. Ngài nhắc nhở rằng sự thăng tiến nhân bản cho người di dân và gia đình họ bắt đầu từ những cộng đoàn nguyên quán. Tại đó ngoài quyền xuất cư, còn phải bảo đảm cho họ quyền không phải xuất cư, nghĩa là quyền tìm được nơi quê hương của mình những điều kiện để có cuộc sống xứng đáng.

Sau cùng, ĐTC nói: ”cần giúp những người di dân và tị nạn hội nhập vào xã hội nơi họ được đón tiếp. Hội nhập không có nghĩa là đồng hóa hoặc bị xáp nhập, nhưng là một tiến trình hai chiều, dựa trên sự nhìn nhận hỗ tương sự phong phú về văn hóa của tha nhân, đồng thời tránh nguy cơ sống co cụm như trong những ghetto.

ĐTC cũng khẳng định rằng liên kết 4 động từ nói trên, ngày nay chính là một nghĩa vụ đối với các anh chị em chúng ta vì những lý do khác nhau, phải rời quê hương của họ. Đó là nghĩa vụ theo đức công bằng, văn minh và liên đới.

 Ngài nói: ”không còn có thể bênh vực những chênh lệch không thể chấp nhận được về kinh tế, ngăn cản việc thực thi nguyên tắc mọi của tài nguyên trái đất là để dùng chung cho tất cả mọi người… Không thể chấp nhận một nhóm nhỏ kiểm soát tái nguyên của nửa thế giới.”

ĐTC nói: ”Đứng trước những thảm trạng ghi đậm trên cuộc sống của bao nhiêu người di dân và tị nạn – chiến tranh, bách hại, lạm dụng, bạo lực, chết chóc – chúng ta không thể không có những tâm tình cảm thông tự nhiên và liên đới. ”Em ngươi ở đâu?” (Xc St 4,9): câu hỏi này Thiên Chúa đặt ra cho con người từ thủa n nguyên thủy, có liên quan tới chúng ta, đặc biệt là đối với những anh chị em di dân.. ”Đó không phải là câu hỏi được gửi tới những người khác, nhưng là câu hỏi được gửi tôi cho tôi, cho anh, và cho mỗi người chúng ta” (SD 21-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha kêu gọi chống buôn lậu di dân và buôn người

Đức Thánh Cha kêu gọi chống buôn lậu di dân và buôn người

VATICAN. ĐTC kêu gọi các giới chức an ninh Italia chống nạn buôn người và nạn buôn lậu người di dân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 23-1-2017 dành cơ quan lãnh đạo toàn quốc Italia chống nạn mafia và chống khủng bố.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi công việc quan trọng của cơ quan này và nói rằng: ”Xã hội cần được chữa trị khỏi nạn tham nhũng, tống tiền, buôn bán ma túy và võ khí bất hợp pháp, cũng như khỏi nạn buôn người, trong đó có các trẻ em bị biến thành nô lệ. Đó thực là những tai ương xã hội, đồng thời cũng là những thách đố hoàn cầu mà cộng đồng quốc tế được kêu gọi quyết liệt đương đầu”.

”Tôi khuyên anh chị em đặc biệt dành mọi nỗ lực để chống lại nạn buôn người và buôn lậu di dân: đây là những tội ác rất trầm trọng đánh vào những người yếu thế nhất trong những người yếu. Về vấn đề này, cần gia tăng hoạt động bảo vệ các nạn nhân, dự trù trợ giúp pháp luật và xã hội cho các anh chị em chúng ta đang tìm kiến an bình và tương lai. Bao nhiều người rời bỏ quê hương để trốn chạy chiến tranh, bạo lực và bách hại, họ có quyền tìm được một sự tiếp đón thích hợp và một sự bảo vệ thích đáng nơi những quốc gia tự định nghĩa là văn minh”.

ĐTC không quên đề cao vai trò quan trọng của việc giáo dục các thế hệ trẻ trong nỗ lực chống lại nạn mafia. Để đạt tới mục tiêu này, các tổ chức giáo dục khác nhau, trong đó có các gia đình, học đường, các cộng đoàn Kitô, các tổ chức thể thao và văn hóa, được kêu gọi giúp dân chúng và con người ý thức về luân lý đạo đức và luật pháp, nhắm đến những mẫu gương cuộc sống lương thiện, an bình, liên đới, dần dần giúp chiến thắng sự ác và dọn đường cho sự thiện” (SD 23-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

PARIS. Các GM Pháp và Đức kêu gọi gia tăng giúp đỡ người di dân và tị nạn, nhất là các trẻ vị thành niên.

Trong thông cáo công bố hôm 12-1-2017, nhân ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 103 sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-1 tới đây, các GM Pháp và Đức nhắc đến sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân ngày này, qua đó ngài lưu ý về số phận các trẻ em và người trẻ là những người không được bảo vệ, gấp 3 lần so với những người lớn. Theo thống kê năm 2015, trong số hơn 65 triệu người tị nạn trên thế giới có quá một nửa là trẻ vị thành niên. Riêng tại Liên hiệp Âu châu, năm 2014 chỉ có 23 ngàn người trẻ di dân và tị nạn, năm 2015 sau đó, con số ấy tăng quá gấp 4 lần tức là 100 ngàn. Năm 2016 chắc chắn con số ấy càng gia tăng thê. Các GM Pháp và Đức viết:

”Đứng trước kỷ lục đau buồn ấy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải chiến đấu chống lại những nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Đặc biệt con số đông đảo các thiếu niên tị nạn không có người đi kèm ở Âu Châu đang đề ra cho chúng ta những thách đố hết sức lớn lao”.

Các GM Pháp cũng nhắc lại lời ĐTC khẳng định rằng ”Vì chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô nơi những người bé mọn và dễ bị tổn thương nhất, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể theo khả năng để bảo vệ phẩm giá của những người trẻ di dân và tị nạn.. Nhiều trẻ vị thành niên bị bó buộc phải mại dâm hoặc bị đưa vào vòng kỹ nghệ dâm ô, bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ, hay trong những hình thức tội phạm khác, các em là những người bị bó buộc phải trốn chạy vì xung đột và bách hại”.

HĐGM Pháp và Đức nhận định rằng ”Giáo hội Công giáo tại hai nước này có nhiều tài nguyên để đồng hành với những người trẻ di dân để giúp các em trên con đường đạt tới sự tự lập. Đứng trước thách đố rộng lớn, cần phải nới rộng các đề nghị hiện có và phát triển hơn nữa. Trọng tâm hoạt động được tiến hành theo nguyên tắc: khích lệ mỗi trẻ em phát huy khả năng của mình, đồng thời cũng không được quên trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tư cách là những nước đã ký Hiệp ước Genève, Hiệp ước Liên hiệp Quốc về quyền của các trẻ em và các hiệp ước quốc tế khác, nươc Pháp và Đức nhìn nhận các trẻ vị thành niên di dân có những quyền đặc thù. Vì thế chúng tôi kêu gọi các vị hữu trách chính trị tại hai nước liên hệ chu toàn nghĩa vụ bảo đảm những điều kiện pháp lý và hành chánh, giúp các trẻ vị thành niên có được một đời sống xứng đáng nơi chúng ta. Cần phải tôn trọng quyền được sống tuổi thơ trong mọi hoàn cảnh” (SD 12-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-1-2017 dành cho Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, ĐTC đã nói về đề tài ”an ninh và hòa bình” trên thế giới.

Ngài lên án nạn khủng bố trên thế giới, đề cao tầm quan trọng của tự do tôn giáo, loại trừ những nguyên nhân bất hòa gây ra chiến tranh, giải quyết vấn đề di dân và tị nạn, bảo vệ thiên nhiên như căn nhà chung, lên án nạn buôn bán võ khí, tái lập hòa bình tại Irak, Siria, và Yemen.

Buổi tiếp kiến bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi trước sự hiện diện của đại diện 182 quốc gia và các tổ chức quốc tế.  Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và ngài hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Hồi giáo Mauritanie cách đây 1 tháng. Ngài cũng cám ơn nhiều vị Đại sứ thường trú ở Roma, con số gia tăng trong năm ngoái, và cả các Đại sứ không thường trú. Ngài cũng nhắc đến các cuộc viếng thăm của các vị Quốc trưởng và Thủ tướng tại Tòa Thánh trong năm qua, trùng vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng như việc ký kết nhiều hiệp định thư giữa Tòa Thánh và một số nước.

ĐTC nhắc đến sự kiện cách đây đúng 100 năm thế giới đang ở giữa thế chiến thứ I, năm 1917, cuộc chiến ngày càng trở nên cuộc chiến hoàn cầu. 100 năm sau, nhiều nơi trên thế giới được hưởng an bình lâu dài, tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế và những hình thức an sinh chưa từng có. Nhưng nhiều nơi trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống giữa các cuộc xung đột vô nghĩa.

Hòa bình hồng ân của Thiên Chúa và vai trò của tôn giáo

ĐTC nói: ”Vì vậy, tôi muốn dành cuộc gặp gỡ hôm nay để nói về đề tài an ninh và hòa bình, vì trong bầu không khí sợ hãi nói chung đối với hiện tại, và sự bất định, lo âu về tương lai hiện nay, tôi thấy cần nói lên một lời hy vọng, và chỉ cho thấy một viễn tượng hành trình.

Cách đây vài ngày chúng ta đã cử hành Ngày Thế Giới hòa bình lần thứ 50, ngày này đã được vị tiền nhiệm của tôi, Chân phước Phaolô 6 thiết lập [….). Đối với các tín hữu Kitô, hòa hình là một hồng ân của Chúa, được các thiên thần tung hô và ca hát khi Chúa Kitô sinh ra: ”Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dươi thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14). Hòa bình là một thiện ích tích cực, là ”kết quả của trật tự Thiên Chúa in vào xã hội loài người”, và không phải chỉ là sự vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không thể thu hẹp vào việc quân bình hóa các thế lực đối nghịch nhau, đúng hơn nó đòi hỏi sự dấn thân của những người thiện chí nồng nhiệt khao khát một nền công chính ngày càng hoàn hảo hơn.

Trong viễn tượng đó, tôi bày tỏ xác tín mạnh mẽ rằng mỗi biểu hiện tôn giáo đều được kêu gọi thăng tiến hòa bình. Tôi đã có thể cảm nghiệm điều đó một cách ý nghĩa trong Ngày Thế Giới cầu nguyện cho hòa bình, nhóm tại Assisi hồi tháng 9 năm ngoái, trong đó các đại diện tôn giáo họp nhau cùng mang lại tiếng nói cho những người đau khổ, những ngừơi không có tiếng nói, cũng như trong cuộc viếng thăm của tôi tại Đại Hội đường Do thái ở Roma hoặc Đền thờ Hồi giáo ở thành phố Baku.

Chúng ta biết không thiếu những bạo lực vì lý do tôn giáo, đi từ chính Âu châu này, nơi mà những chia rẽ lịch sử giữa các tín hữu Kitô đã kéo dài quá lâu. Trong cuộc viếng thăm mới đây của tôi ở Thụy Điển, tôi đã muốn nhắc nhở nhu cầu cấp thiết phải chữa lành những vết thương quá khứ và đồng hành tiến về những mục tiêu chung. Nơi căn bản của cuộc đồng hành như thế không thể thiếu cuộc đối thoại chân thành giữa các tôn giáo khác nhau. Đó là một cuộc đối thoại có thể thực hiện và là điều cần thiết, như tôi đã chứng tỏ trong cuộc gặp gỡ tại Cuba với Đức Thượng Phụ Kirill thành Mascơva, cũng như trong các cuộc tông du của tôi tại Armeni, Giorgia, và Azerbaigian, những nơi mà tôi nhận thấy khát vọng chính đáng của dân chúng muốn giải quyết các cuộc xung đột từ lâu đang làm thương tổn sự hòa hợp và hòa bình.

Đồng thời, chúng ta cũng không nên quên nhiều công trình, lấy hứng từ tôn giáo, đang góp phần vào việc xây dựng công ích, qua việc giáo dục, từ thiện, nhất là trong những vùng khó khăn và là nơi diễn ra xung đột. Nhiều khi việc đóng góp ấy được thực hiện tới mức độ hy sinh của các vị tử đạo. Các công trình đó góp phần vào hòa bình và cho thấy cách thức người ta có thể sống cụ thể và làm việc chung với nhau, dù thuộc các dân tộc, văn hóa và truyền thống khác nhau, nếu phẩm giá con người được đặt ở trung tâm mọi hoat động của mình.

Lên án lạm dụng tôn giáo để khủng bố

ĐTC nêu nhận xét: ”Rất tiếc chúng ta thấy rằng ngày nay kinh nghiệm tôn giáo, thay vì cởi mở đối với tha nhân, nhiều khi nó có thể bị lạm dụng để khép kín, gạt ra ngoài lề và gây ra bạo lực. Tôi đặc biệt nghĩ đến nạn khủng bố do trào lưu cực đoan, trong năm qua đã đốn ngã nhiều nạn nhân trên thế giới: tại Afganistan, Bangladesh, Bỉ, Burkina Faso, Ai Cập, Pháp, Đức, Giordani, Irak, Nigeria, Pakistan, Hoa Kỳ, Tunisi và Thổ Nhĩ Kỳ. Những vụ khủng bố ấy là những hành vi hèn nhát, dùng các trẻ em để giết người, như tại Nigeria; tấn công những người đang cầu nguyện, như tại Nhà thờ chính tòa Copte ở Cairo, những người du hành hoặc làm việc, như ở Bruxelles, những người đi dạo ở đường phố như ở Nice và Berlin, hoặc những người đón mừng năm mới như ở Istanbul.

Đó là một sự sát nhân điên rồ, lạm dụng danh Thiên Chúa để gieo chết chóc, trong toan tính khẳng định ý muốn thống trị và quyền lực. Vì thế tôi kêu gọi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo hãy hiệp sức để mạnh mẽ tái khẳng định rằng không bao giờ có thể giết người nhân danh Thiên Chúa. Nạn khủng bố do trào lưu cực đoan là kết quả của một sự lầm than trầm trọng về tinh thần, kèm theo đó có một sự nghèo nàn về mặt xã hội. Nó chỉ có thể hoàn toàn bị đánh bại với sự đóng góp chung của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Các vị lãnh đạo tôn giáo có nhiệm vụ thông truyền các giá trị tôn giáo không chấp nhận sự đối nghịch giữa lòng kính sợ Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Các vị lãnh đạo chính trị có nhiệm vụ bảo đảm trong lãnh vực công cộng quyền tự do tôn giáo, nhìn nhận sự đóng góp tích cực và xây dựng mà tự do tôn giáo thi hành trong việc xây dựng xã hội dân sự, trong đó người ta không thể coi như những điều đối nghịch giữa một đàng là sự thuộc về xã hội theo nguyên tắc quyền công dân, và bên kia là chiều kích tinh thần của cuộc sống. Ngoài ra, người cai trị có trách nhiệm tránh tạo nên những hoàn cảnh bị biến thành môi trường thuận tiện cho sự lan tràn chủ nghĩa duy căn cực đoan. Điều này đòi phải có những chính sách xã hội thích hợp để bài trừ nạn nghèo đói, cùng với sự thăng tiến chân thành giá trị của gia đình, như nơi ưu tiên để con người triển nở và cần đầu tư dồi dào vào lãnh vực giáo dục và văn hóa.

 Nghĩa vụ của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền

”Về vấn đề này, tôi quan tâm đón nhận sáng kiến của Hội đồng Âu Châu về chiều kích tôn giáo, đối thoại liên văn hóa, năm ngoái có chủ đề là vai trò của giáo dục trong việc phòng ngừa sự cực đoan hóa, dẫn đến nạn khủng bố và cực đoan bạo lực. Đó là một cơ hội để đào sâu sự đóng góp của hiện tượng tôn giáo và vai trò của giáo dục cho việc bình định hóa xã hội, vốn là điều cần thiết cho sự sống chung trong một xã hội đa văn hóa.

Theo nghĩa đó tôi muốn bày tỏ xác tín này: mỗi chính quyền không thể chỉ giới hạn vào việc bảo đảm an ninh cho các công dân của mình mà thôi – ý niệm này có thể dễ dàng thu hẹp vào một thứ sống yên hàn – nhưng họ còn được kêu gọi cổ võ và thi hành hòa bình. Hòa bình là một nhân đức tích cực, đòi phải có sự dấn thân và cộng tác của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể xã hội. Như Công đồng chung Vatican II đã nhận xét, ”hòa bình không bao giờ là điều đạt được một lần cho tất cả, nhưng là một tòa nhà cần được liên tục xây dựng”, bằng cách bảo vệ thiện ích của con người, tôn trọng phẩm giá của họ. Xây dựng hòa bình trước tiên đòi phải từ bỏ bạo lực khi đòi hỏi các quyền của mình. Tôi đã dành Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới năm nay, 2017, để nói về nguyên tắc đó. Sứ điệp có tựa đề là ”Bất bạo động: một đường lối chính sách hòa bình”, trước tiên kêu gọi làm sao để bất bạo động là một đường lối chính trị, dựa trên công pháp và phẩm giá của mỗi người”.

Loại trừ những nguyên nhân cản trở việc xây dựng hòa bình

”Xây dựng hòa bình cũng đòi phải loại trừ những nguyên nhân bất hòa tạo nên chiến tranh, bắt đầu từ những bất công. Thực vậy có một liên hệ mật thiết giữa công lý và hòa bình. Như Thánh Gioan Phaolô 2 đã nhận xét, vì công lý của con người luôn mong manh và bất toàn, có những giới hạn và chịu ảnh hưởng của lòng ích kỷ cá nhân và nhóm, nên công lý ấy phải được thực thi, và bổ túc bằng sự tha thứ chữa lành các vết thương và tái lập sâu xa các quan hệ giữa con người đã bị xáo trộn […]. Tha thứ không hề trái ngịch với công lý, nhưng đúng hơn, nó nhắm đến sự sung mãn của công lý, đến sự yên hàn trong trật tự, chữa lành trong chiều sâu cho các vết thương làm tâm hồn rướm máu. Để đạt được sự chữa lành như thế, công lý và tha thứ đều là những điều thiết yếu”. Những lời này, ngày nay có tính chất thời sự hơn bao giờ hết, đã được sự sẵn sàng đón nhận của một số vị Quốc trưởng và thủ tướng chính phủ đối với lời mời gọi của tôi và đã thực hiện một cử chỉ ân xá đối với các tù nhân. […]

Lòng thương xót

Tôi xác tín rằng đối với nhiều người, Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót là một cơ hội đặc biệt thích hợp để khám phá ảnh hưởng to lớn và tích cực của lòng thương xót như một giá trị xã hội. Mỗi người có thể góp phần tạo nên một nền văn hóa lòng thương xót, dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ tha nhân: một nền văn hóa trong đó không ai nhìn người khác trong sự dửng dưng, và cũng không ngoái nhìn đi nơi khác để không thấy sự đau khổ của những người anh em”. Chỉ như thế chúng ta mới có thể kiến tạo những xã hội cởi mở và hiếu khách đối với người ngoại quốc và đồng thời được an ninh và hòa bình trong quốc nội. Điều này càng cần thiết ngày nay, đang lúc có những làn sóng di dân đông đảo ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người tị nạn và di tản ở một số miền ở Phi châu, Đông Nam Á, và những người chạy trốn khỏi những vùng xung đột ở Trung Đông. (…)

Vấn đề di dân

”Vấn đề di dân là một vấn đề không thể để cho một vài nước lãnh đạm dửng dưng, trong khi những nước khác phải hỗ trợ gánh nặng nhân đạo, nhiều khi với những cố gắng lo lớn và khó khăn nặng nề, để đương đầu với tình trạng cấp thiết dường như vô tận. Tất cả đều phải cảm thấy mình là những người xây dựng và góp phần vào công ích quốc tế, kể cả qua những cử chỉ nhân đạo cụ thể, như những yếu tố thiết yếu hòa bình và phát triển mà các quốc gia và hàng chiều người đang chờ đợi. Vì thế tôi biết ơn các nước quảng đại đón nhận những người ở trong tình trạng ở trong tình trạng cần được giúp đỡ, bắt đầu từ các nước Âu Châu, đặc biệt là Italia, Đức, Hy Lạp và Thụy Điển.

”Tôi vẫn còn giữ ấn tượng mạnh về cuộc viếng thăm tôi đã thực hiện tại đảo Lesvos, cùng với những người anh em của tôi là Đức Thượng Phụ Barlolomaios và Đức TGM Ieronymos; tại đảo đó tôi đã thấy và động chạm đến tình trạng thê thảm của các trại tị nạn, và cũng thấy tình nhân đạo và tinh thần phục vụ của nhiều người dấn thân trợ giúp người tị nạn. Không được quên sự đón tiếp của các nước Âu Châu và Trung Đông, trong đó có Liban, Giordani, Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như sự dấn thân của nhiều nước Phi châu và Á châu. Cả trong cuộc viếng thăm của tôi ở Mêhicô, nơi tôi đã cảm nghiệm niềm vui của dân Mêhicô, tôi đã thấy gần gũi hàng ngàn người di dân từ Trung Mỹ, họ phải chịu những bất công kinh khủng và những nguy hiểm khi tìm cách đạt được một tương lai tốt đẹp hơn, họ là nạn nhân của những vụ bóc lột và là đối tượng buôn bán đáng lên án, một hình thức nô lệ tân thời là nạn buôn người.

Trong phần kế tiếp của bài diễn văn dài, ĐTC tố giác quan niệm thu hẹp về con người, góp phần phổ biến bất chính, sự bất bình đẳng xã hội và hiện tượng tham nhũng… Tệ nạn lạm dụng trẻ em và người trẻ bị cưỡng bách lao động, hoặc bị lạm dụng như ngài đã viết trong thư gửi các GM nhân ngày lễ các Thánh Anh hài mới đây. Ngoài ra có những ngừơi trẻ đang chịu đau khổ vì chiến tranh và xung đột, như cuộc xung đột thảm khốc tại Siria.

Chống lại tình trạng chiến tranh trên đây, ĐTC kêu gọi bài trừ nạn buôn bán ma túy cũng như sự chạy đua sản xuất và phổ biến các võ khí ngày càng tối tân. Ngài không quên vấn đề bảo vệ môi trường và nói rằng:

Chăm sóc thiên nhiên

”Xây dựng hòa bình cũng có nghĩa là tích cực hoạt động để chăm sóc thiên nhiên. Hiệp định Paris về khí hậu mới bắt đầu có hiệu lực là một dấu chỉ quan trọng về sự dấn thân chung để để lại cho những người đến sau chúng ta một thế giới đẹp đẽ và có thể sống được. Tôi cầu mong nỗ lực đã được thực hiện trong thời gian gần đây để đương đầu với những thay đổi khí hậu ngày càng tìm được sự cộng tác rộng rãi của tất cả mọi người, vì trái đất là nhà chung của chúng ta, và cần để ý rằng những chọn lựa của mỗi người có ảnh hưởng trên cuộc sống của tất cả.

Động đất

”Nhưng một điều hiển nhiên là có những hiện tượng vượt quá khả năng của hoạt động con người. Tôi muốn nói đến nhiều vụ động đất xảy ra tại một số miền trên thế giới. Trước tiên tôi nghĩ đến những vụ động đất ở Ecuador, Italia, và Indonesia, gây ra nhiều nạn nhân, và nhiều người vẫn còn phải sống trong những điều kiện bấp bênh. Tôi đã đích thân viếng thăm một số vùng bị động đất ở miền trung Italia. Tại đây tôi đã nhận thấy những vết thương mà động đất gây ra cho một miền đất phong phú về nghệ thuật và văn hóa, tôi đã có thể chia sẻ đau khổ của bao nhiêu người đồng thời lòng can đảm của họ và quyết tâm tái thiết những gì đã bị phá hủy. Tôi cầu mong rằng tình liên đới đã liên kết nhân dân Italia trong những giờ sau các trận động ấy đất tiếp tục linh hoạt toàn thể đất nước, nhất là trong thời điểm khó khăn của lịch sử. Tòa Thánh và Italia đặc biệt gắn bó với nhau vì những lý do lịch sử văsn hóa và địa lý. Mối liên hệ ấy đặc biệt hiển nhiên trong Năm Thánh và tôi cám ơn tất cả các giới chức chính quyền Italia vì sự giúp đỡ trong việc tổ chức biến cố ấy, và bảo đảm an ninh cho các tín hữu hành hương từ các nơi đến đây.”

G. Trần Đức Anh OP 

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

Nội dùng bài phỏng vấn ĐTC Phanxicô dành cho các nhà bào quốc tế

ĐTC Phanxicô trả lời cuộc phỏng vấn của các nhá báo quốc tế trên chuyến bày từ Krakow về Roma 31-7-2016

Như thường lệ trên chuyến bày từ Cracovia về Roma chiều Chúa Nhật 31 tháng 7 vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế cuộc phỏng vấn dài. Sau đây là nội dung cuộc nói chuyện của ĐTC với các nhà báo quốc tế.

Cha Federico Lombardi Giám đốc mãn nhiệm Phòng Báo Chí Toà Thánh nói: “Thưa ĐTC, chúng con xin cám ơn ĐTC rất nhiều đã ở đây với chúng con sau chuyến công du này. Mặc dù trời chiều nay mưa, nhưng xem ra mọi sự đã xuôi chảy đến độ chúng con tất cả đều rất hạnh phúc và hài lòng, và chúng con cũng thấy ĐTC hài lòng trong các ngày này. Như thường lệ chúng con sẽ hỏi ĐTC vài câu, nhưng nếu ĐTC muốn nói vài điều mở đầu thì xin mời ĐTC.

Xin chào anh chị em và tôi xin cám ơn anh chị em về công việc làm và sự đồng hành của anh chị em. Tôi muốn chia buồn với anh chị em là đồng nghiệp về cái chết của chị Anna Maria Jacobini. Hôm nay tôi đã tiếp bà chị và các cháu của chị ấy… Họ rất đau buồn về việc này… Đó là một điều buồn của chuyến công du này. Thế rồi, tôi muốn cám ơn Cha Lombardi và anh Mauro, vì đây là chuyến công du cuối cùng của họ với tôi. Cha Lombardi đã làm việc tại đài Vaticăng từ hơn 25 năm qua và trong 10 chuyến bay. Còn anh Mauro thi từ 37 năm qua: 37 năm đặc trách về hành lý trong các chuyến bay. Tôi xin cám ơn cha Lombardi và anh Mauro rất nhiều. Và sau cùng tôi xin cám ơn với một chiếc bánh ngọt. Và tôi sẵn sàng cho cuộc phỏng vấn. Chuyến bay ngắn nên lần này chúng ta sẽ vội vã.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và giới thiệu một trong các nhà báo Ba Lan là chị Magdalena Wolinska thuộc đài truyền hình Ba Lan.

Hỏi: Thưa ĐTC, trong diễn văn đầu tiên tại lâu đài Wawel sau khi vừa tới Cracovia ĐTC đã nói rằng ngài hài lòng bắt đầu biết Âu châu trung đông từ chính Ba Lan. Nhân danh dân tộc Ba Lan con xin hỏi ĐTC, ĐTC đã sống Ba Lan trong các ngày này như thế nào? ĐTC có cảm tưởng gì?

Đáp: Đó đã là một Ba Lan đặc biệt, bởi vì đó đã là một Ba Lan bị xâm lăng, lần này bởi giới trẻ, đúng không? Cracovia mà tôi đã thấy thật là đẹp biết bao. Dân Ba Lan rất hăng say. Đấy coi xem chiều nay, mưa như vậy mà dọc đường không phải chỉ có các người trẻ, mà cả các cụ bà nữa… Đây thật là một lòng tốt, một sự cao quý. Tôi đã có kinh nghiệm với người dân Ba Lan khi tôi còn bé: nơi cha tôi làm việc cũng có biết bao người Ba Lan tới làm việc, sau chiến tranh. Họ là những người tốt, và đó là điều đã ở lại trong con tim tôi. Tôi đã tìm lại được lòng tốt ấy của anh chị em. Một vẻ đẹp. Xin cám ơn chị.

– Cha Lombardi nói bây giờ tới lượt một đồng nghiệp ba lan khác là chị Ursula thuộc đài Polsat.

Hỏi: Thưa ĐTC, các con cái trẻ của chúng con rất cảm động vì những lời của ĐTC, rất phù hợp với thực tại và các vấn đề của chúng. Nhưng trong các diễn văn ĐTC cũng đã dùng các lời lẽ và các kiểu diễn tả riêng trong ngôn ngữ của người trẻ. ĐTC đã chuẩn bị như thế nào? Làm sao ĐTC lại đưa ra nhiều thí dụ gần gũi với cuộc sống, với các vấn đề và ngôn ngữ của chúng như vậy?

Đáp: Tôi thích nói chuyện với người trẻ. Tôi thích lắng nghe giới trẻ. Họ luôn luôn đặt tôi vào trong các khó khăn, bởi vì họ nói những điều mà tôi đã không nghĩ tới, hay tôi chỉ nghĩ tới có một nửa. Người trẻ lo lắng, người trẻ sáng tạo…Tôi thích họ, và từ họ tôi lấy thứ ngôn ngữ của họ. Có biết bao lần tôi phải tự hỏi: “Nhưng điều này có nghĩa là gì?” Và họ giải thích cho tôi hiểu nó nghĩa là gì. Tôi thích nói chuyện với họ. Tương lai của chúng ta là họ, và chúng ta phải đối thoại. Cuộc đối thoại này giữa quá khứ và tương lại quan trọng. Chính vì thế mà tôi đã nhấn mạnh biết bao tương quan giữa người trẻ và ông bà, và khi tôi nói “ông bà” thì tôi hiểu họ là những người cao niên nhất và những người ít cao niên hơn… Để cũng trao ban kinh nghiệm của chúng ta, bởi vì những người gia cảm nhận quá khứ, lịch sử và họ lấy lại và đem nó đi tới với lòng can đảm của hiện tại, như tôi đã nói chiều nay. Thật là quan trọng. Quan trọng! Tôi không thích nghe nói: “Ôi, lũ trẻ này nói toàn những điều tầm phào!” Chúng ta cũng nói biết bao chuyện tầm phào đấy chứ! Người trẻ nói những chuyện tầm phào, nhưng họ nói những điều tốt: cùng như chúng ta, cũng như tất cả mọi người vậy. Nhưng nghe họ, nói chuyện với họ, bởi vì chúng ta phải học từ họ và họ phải học từ chúng ta. Như thế đó. Và như thế người ta làm lịch sử, và như thế người ta lớn lên mà không khép kín, không kiểm duyệt. Tôi không biết, nhưng mà nó như vậy đó. Như thế tôi học từ giới trẻ các lời này.

– Tiếp đến cha Lombardi giới thiệu anh Marco Ansaldo, phóng viên của nhật báo Cộng Hoà Italia, đại diện cho nhóm nhà báo Ý.

Hỏi: Thưa ĐTC, theo hầu hết các quan sát viên quốc tế cuộc đàn áp bên Thổ Nhĩ Kỳ 15 ngày sau cuộc đảo chánh hụt đã tồi tệ hơn là chính cuộc đảo chánh. Đã có hàng loạt các tầng lớp bị đánh: các quân nhân, các thẩm phán, các nhân viên hành chánh công cộng, giới ngoại giao, các nhà báo. Con xin trích các dữ kiện của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ: người ta nói tới hơn 13.000 người bị bắt giữ và hơn 50.000 người bị cách chức. Một cuộc thanh lọc. Hôm trước đây tổng thống Recep Tayyip Erdogan, trước các chỉ trích bên ngoài đã nói: “Quý vị hãy nghĩ tới chuyện của mình!” Chúng con muốn hỏi tại sao cho tới nay ĐTC đã không can thiệp, đã không lên tiếng? Có lẽ ĐTC sợ rằng có thể có các âm hưởng trên thiểu số công giáo bên Thổ Nhĩ Kỳ chăng?

Đáp: Khi tôi đã phải nói điều gì đó không vừa lòng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng mà tôi đã chắc chắn, thì tôi đã nói, với các hậu quả mà anh chị em biết đó. Tôi đã nói những lời ấy và tôi chắc chắn! Tôi đã không nói, bởi vì tôi chưa chắc chắn, với các tin tức mà tôi đã nhận được, liên quan tới điều gì đang xảy ra ở đó. Tôi lắng nghe các tin tức đến Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, và cả các tin đến từ vài nhà phân tích chính trị quan trọng. Tôi đang nghiên cứu tình hình cả với các nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh và câu chuyện vẫn chưa rõ ràng. Có đúng thật là phải luôn luôn tránh sự dữ cho các tín hữu công giáo – và tất cả chúng ta đều làm điều này – nhưng mà không phải với giá của sự thật. Có nhân đức cẩn trọng – phải nói điều này khi như trong trường hợp của tôi anh chị em là các chứng nhân đó, khi tôi đã phải nói điều gì đó liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, thì tôi đã nói.

– Tới phiên chị Frances D’ Emilio của Hãng thông tin AP, là hãng thông tin lớn tiếng Anh

Hỏi: Thưa ĐTC câu hỏi của con là một câu hỏi  mà nhiều người đã đặt ra trong các ngày này, bởi vì đã được đưa ra ánh sáng là cảnh sát Australia hình như đang điều tra các lời tố cáo mới chống lại ĐHY Pell, và lần này các lới tố cáo liên quan tới các lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, rất khác với các lời tố cáo trước đây.  Điều con tự hỏi và biết bao nhiêu người khác hỏ:i đó là theo ĐTC đâu là điều đúng đắn cần làm cho ĐHY Pell,, xét vì tình hình nghiêm trọng, địa vị quan trọng như thế của ngài và sự tin tưởng mà ĐHY hưởng từ phía ĐTC?

Đáp: Xin cám ơn chị. Các tin tức đầu tiên tới đã lẫn lộn. Đó đã là các tin tức của 40 năm về trước, và ban đầu cảnh sát cũng đã không chú ý tới. Đó là một điều lẫn lộn. Rồi tất cả các lời tố cáo đã được trình bầy với công lý, và trong lúc này thì chúng ở trong tay công lý. Không được phán xử trước khi công lý phán xử. Nếu tôi đưa ra một phán xử phò hay chống ĐHY Pell, thì sẽ là điều không tốt, bởi vì như vậy là tôi xét xử trước. Dúng thật là có sự nghi ngờ. Và có nguyên tắc rõ ràng của luật pháp: “trong nghi ngờ thì phò bị can”. Chúng ta phải đợi công lý, chứ không trước hết làm một cuộc phán xử truyền thông, vì điều này không giúp ích gì. Sự phán xử của các lời bép xép. Người ta không biết kết qủa sẽ ra sao. Xin hãy chú ý tới điều công lý sẽ quyết định. Một khi công lý đã nói, thì tôi sẽ lên tiếng.

– Cha Lombardi nói bây giờ chúng ta nhường lời cho anh Hernán Reyes của đài truyền hình Mỹ. Anh đại diện cho các nhà báo Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ĐTC, sức khoẻ của ĐTC ra sao sau cú ngã hôm trước? Chúng con thấy ĐTC khỏe khoắn. Đây là câu hỏi thứ nhất. Câu hỏi thứ hai là: trong tuần vừa qua ngoại trưởng Ernesto Samper đã nói tới một sự trung gian của Vaticăng bên Venezuela. Đây có phải là một cuộc đối thoại cụ thể hay không? Nó có phải là một khả thể thực sự hay không ? Và ĐTC có nghĩ rằng việc trung gian này, với sứ mệnh của Giáo Hội có thể trợ giúp ổn định quốc gia này  không?

Đáp: Trước hết là cú ngã.. Tôi đã nhìn Đức Mẹ và tôi đã quên là có bậc thang…Tôi đang cầm bình hương trong tay… Khi tôi cảm thấy là mình tè, tôi để cho mình ngã,  và điều này đã cứu tôi. Bởi vì nếu tôi đã chống cự lại, thì chắc là đã có các hậu quả. Không có gì. Tôi rất khoẻ mạnh.

Câu hỏi thứ hai liên quan tới Venezuela. Cách đây hai năm tôi đã có một cuộc gặp gỡ với tổng thống Maduro rất là tích cực. Thế rồi tổng thống đã xin được tiếp kiến năm ngoái: vào ngày Chúa Nhật, một ngày sau khi tôi từ Sarajevo trở về. Nhưng rồi ông đã huỷ bỏ cuộc gặp gỡ ấy, bởi vì ông đã bị viêm tai, và không thể tới. Rồi sau đó tôi đã để cho thời gian qua đi, rồi viết cho ông một bức thư. Đã có các tiếp xúc cho một cuộc gặp gỡ và anh đã nhắc tới. Vâng, với các điều kiện trong các trường hợp này. Và trong lúc này thì tôi không chắc chắn và không thể bảo đảm điều đó: như vậy rõ ràng chưa? Tôi không chắc chắn là người ta đang nghĩ rằng trong nhóm trung gian  có ai đó và tôi không biết cả chính quyền nữa có muốn một đại diện của Toà Thánh hay không – tôi không chắc chắn. Điều này là cho tới lúc tôi đã đi khỏi Roma. Nhưng các sự việc còn ở đó. Trong nhóm có ông Zapatero của Tây Ban Nha, ông Torrijos và một người nữa và một người thứ tư người ta nói là của Toà Thánh. Nhưng tôi không chắc chắn về điều này.

– Tới phiên anh Antoine-Marie Izoard của hãng tin Media Pháp và chúng ta biết nước Pháp đang sống những gì trong các ngày này.

Hỏi: Thưa ĐTC, trước hết con chúc mừng ĐTC và cha Lombardi và cha Spadaro về lễ thánh Ignazio. Câu hỏi của con hơi khó một chút. Sau vụ sát hạị man rợ cha Jacques Hamel trong nhà thờ đang khi ngài đang thánh lễ, các tín hữu công giáo không phải chỉ bên Pháp đã bị sốc nặng, như ĐTC biết. Cách đây bốn hôm ở đây ĐTC đã lại nói rằng mọi tôn giáo đều muốn hoà bình. Tuy nhiên, vị linh mục thánh thiện 86 tuổi này đã bị giết một cách rõ ràng là nhân danh Hồi giáo. Vì thế thưa ĐTC, con có hai câu hỏi ngắn: Tại sao khi nói tới các hành động bạo lực này, ĐTC đã luôn luôn nói tới các người khủng bố mà không bao giờ nói tới Hồi giáo. ĐTC đã không bao giờ dùng từ Hồi giáo… Thế rồi ngoài lời cầu nguyện và việc đối thoại, đương nhiên là rất nòng cốt, đâu là sáng kiên cụ thể ĐTC có thể bắt đầu hay gợi ý để chống lại bạo lực hồi giáo?

Đáp: Tôi không thích nói tới bạo lực hồi giáo, bởi vì mọi ngày khi đọc báo tôi thấy các bạo lực, ở Italia đây: người thì giết hôn thê của mình, người khác giết mẹ vợ…Và đây là các tín hữu công giáo bạo lực đưọc rửa tội… Họ là các tín hữu công giáo bạo lực. Nếu tôi nói tới bạo lực hồi giáo, thì tôi cũng phải nói tới bạo lực công giáo. Không phải mọi tín hữu hồi đểu bạo lực; không phải mọi tín hữu công giáo đều bạo lực. Nó giống như một loại trái cây hỗn hợp: có mọi thứ; có những kẻ bạo lực của các tôn giáo này. Có một điều thật: đó là trong mọi tôn giáo đều luôn luôn có một nhóm nhỏ quá khích. Qúa khích. Chúng ta cũng có. Và khi chủ trương quá khích đi tới chỗ giết người – và người ta có thể giết chết với cái lưỡi, và điều này  chính tông đồ Giacôbê nói tới chứ không phải tôi đâu, và cũng giết với con dao – tôi tin rằng không đúng việc đồng hóa Hồi giáo với bạo lực. Đây là điều không đúng và không thật. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với Đại Imam của Đại học Al-Azhar, và tôi biết họ nghĩ gì: họ tìm kiếm hoà bình, gặp gỡ. Đức Sứ Thần của một nuớc Phi châu có nói với tôi rằng trong thủ đô luôn luôn có một hàng người dài xếp hàng vào Cửa Thánh: vài người đến các toà xưng tội, người khác thì vào ghế quỳ cầu nguyện Nhưng đa số tiến tới cầu nguyện trước bàn thờ Đức Mẹ: đó là các tín hữu hồi muốn cử hành Năm Thánh.  Họ là anh em. Khi tôi ở bên Trung Phi, tôi đã đến với họ và imam cũng đã leo lên xe với tôi. Chúng ta có thể sống chung tốt với nhau. Nhưng có các nhóm nhỏ cuồng tín. Và tôi cũng tự hỏi có biết bao người trẻ – biết bao người trẻ mà người âu châu chúng ta đã để cho họ trống rỗng lý tưởng, không có công việc làm, tìm đến với ma tuý, rượu chè và họ đến đầu quân vào các nhóm cuồng tín này. Phải, chúng ta có thể nói rằng cái gọi là ISIS là một nhà nuớc hồi tự giới thiệu như là bạo lực vì khi nó cho chúng ta thấy thẻ căn cước cho chúng ta thấy họ cắt cổ người Ai Cập hay làm các điều khác trên bờ biển Libi như thế nào. Nhưng đây là một nhóm nhỏ cuồng tín, gọi là ISIS. Nhưng không thể nói rằng – tôi tin là nó không thật và không đúng – nói rằng Hồi giáo là khủng bố.

Hỏi: Thưa ĐTC còn một sáng kiến cụ thể giúp chống lại nạn khủng bố, bạo lực thì sao?

Đáp:  Khủng bố ở khắp nơi! Xin anh hãy nghĩ tới nạn khủng bố bộ tộc tại vài nước Phi châu… Khủng bố – tôi không biết có nên nói không vì hơi nguy hiểm.. Khủng bố lớn mạnh, khi không có một lựa chọn khác, khi ở trung tâm của nền kinh tế thế giới có thần tiền chứ không có bản vị con người, người nam và người nữ. Đây đã là nạn khủng bố đầu tiên rồi. Bạn đã xua đuổi sự tuyệt diệu của thụ tạo là người nam và người nữ, và bạn đã đặt vào đó tiền bạc. Đây là sự khủng bố nền tảng chống lại nhân loại. Chúng ta hãy nghĩ tới điều đó.

– Cha Lombardi cám ơn ĐTC và nói sáng nay ĐTC đã loan báo Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần tới sẽ được tổ chức bên Panama. Ở đây có một nhà báo muốn kính tặng ĐTC một món quà để chuẩn bị cho ngày này. Nhà báo người Panama hỏi ĐTC:

Hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã nói trong cuộc gặp gỡ với các thiện nguyện viên là có lẽ ĐTC sẽ không có mặt ở Panama. ĐTC không thể làm điều này đâu, vì chúng con đợi ĐTC bên Panama.

Đáp: Không, không. Nếu tôi sẽ không đi, thì sẽ có Thánh Phêrô chứ…

Hỏi: Nhưng mà chúng con tin là  sẽ có ĐTC. Thay mặt cho nhân dân Panama con xin kính tặng ĐTC một chiếc áo số 17 là ngày sinh của ĐTC, và một chiếc mũ mà dân quê Panama thường đội.. Họ đã xin ĐTC đội nó. Tuy nhiên nếu ĐTC muốn chào dân Panama, con xin cám ơn ĐTC.

Đáp: Tôi xin cám ơn người  Panama vì điều này. Tôi cầu mong anh chị em chuẩn bị tốt cho Ngày Quốc Tế Giới Trẻ với cùng sức mạnh, tinh thần tu đức, và sự sâu xa mà người Ba Lan đã làm, dân chúng ở Cracova và mọi người Ba Lan đã làm.

– Anh Antoine Marie Izoard thay mặt mọi người nói: Thưa ĐTC nhân danh các đồng nghiệp nhà báo, bởi vì con hơi bị bó buộc đại diện cho họ, con cũng muốn nói đôi lời nếu ĐTC cho phép, liên quan tới cha Lombardi để cám ơn ngài.

Không thể tóm tắt 10 năm hoạt động của cha Lombardi tại Phòng Báo  Chí Toà Thánh, với ĐTC Biển Đức, một việc cai quản nội bộ chưa từng có và rồi với việc ĐTC được bầu làm Giáo Hoàng và các kinh ngạc tiếp theo. Điều chắc chắn có thể nói được đó là sự sẵn sàng liên tục, sự dấn thân và tận tụy của cha Lombardi; khả năng không tin được của cha trong việc trả lời và không trả lời cho các câu hỏi của chúng con, cho các câu hỏi thường là lạ lùng: và điều này cũng là cả một nghệ thuật. Thế rồi, cũng còn có tính khôi hài hơi theo kiểu người Anh của cha nữa: trong mọi tình trạng, kể cả những trạng huống tồi tệ nhất. Và chúng con có nhiều thí dụ lắm.

Dĩ nhiên là với niềm vui chúng con tiếp đón các người kế vị cha, hai nhà báo giỏi, nhưng chúng con cũng không quên rằng cha đã còn hơn là môt nhà báo, và hiện tại vẫn là linh mục và linh mục dòng Tên nữa. Thật là tuyệt vời! Chúng con sẽ không quên mừng ngài một cách xứng đáng vào tháng 9, khi ngài bắt đầu các việc phục vụ khác, nhưng ngay hôm nay chúng con muốn chúc mừng ngài. Một lời chúc mừng lễ thánh I Nhã và chúc cha trường thọ, 100 tuổi như người ta nói bên Ba Lan, một trăm tuổi phục vụ khiêm tốn. Bên Ba Lan người ta nói là “Stolat” . “Stolat thưa cha Lombardi”. Sau đó mọi người đã vui vẻ ăn bánh ngọt ĐTC tặng.

Linh Tiến Khải

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

Tuyên bố của ĐHY Dziwisz về di dân và Âu Châu

CRACOVIA. ĐHY Stanislaw Dziwisz, TGM Cracovia, tuyên bố rằng một Âu Châu chỉ dựa trên yếu tố kinh tế, thì sẽ suy yếu.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên trang mạng thông tin Vatican Insider ở Roma hôm 25-7-2016, ĐHY Dziwisz nói: ”Âu Châu đang đứng trước một ngã ba đường, và không phải như thế mà thôi. Chúng ta đã thấy điều đó qua Brexis, nước Anh rời bỏ Liên hiệp Âu Châu. Cần phải xét mình một chút: Một liên hiệp Âu Châu chỉ dựa trên quyền lợi kinh tế thì sẽ suy yếu khi nền kinh tế không ổn, hoặc khi người ta phải cho đi nhiều hơn là nhận lãnh..Và tệ hơn nữa, khi có những toan tính đồng nhất hóa văn hóa chống lại những căn cội Kitô của nhiều nước Âu Châu.”

Theo ĐHY Dziwisz, ”thời điểm khó khăn này nhắc nhở chúng ta hãy trở về với tính thần hiệp nhất Âu Châu, được những Kitô hữu chân chính cổ võ như ông Alcide de Gasperi, Robert Schuman”.

– Về vấn đề di dân Âu Châu đang phải đương đầu hiện nay, ĐHY TGM Cracovia nhận xét rằng ”đây là một trong những vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta. Và giờ đây chúng ta nhìn nó với nhiều lo âu vì Âu Châu bị liên hệ trực tiếp. Có lẽ lỗi của chúng ta là đã không nhận thấy vấn đề này trước đây, vì sự ích kỷ của đại lục chúng ta, xét vì những làn sóng di dân ồ ạt đã từng có rồi, trong những thập niên gần đây tại Phi châu và Á Châu”.

ĐHY Dziwisz khẳng định rằng: ”Trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ chăm sóc người di dân, trong khi các chính quyền phải xứ lý những tình trạng khẩn cấp, đảm bảo cho những người tị nạn một sự đối xử xứng đáng, và tránh những nguy cơ có những kẻ lạm dụng con đường vào Âu Châu với mục đích nguy hiểm”.

Cũng trong cuộc phỏng vấn, ĐHY TGM Dziwisz xác tín rằng ”Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Cracovia sẽ là một kinh nghiệm không thể quên được đối với rất nhiều bạn trẻ đến từ các nơi trên thế giới. Tôi hy vọng rất nhiều trong Ngày Quốc Tế giới trẻ này tại thành phố của Thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina: tôi cầu xin Chúa cho sứ điệp lòng thương xót đi sâu vào tâm hồn các bạn trẻ, những người Công Giáo thực hành đạo cũng như nơi các bạn trẻ chưa đến gần Chúa Giêsu, chưa biết rõ về đức tin, để có thể cảm nghiệm ơn Chúa trong những ngày này và khởi sự một hành trình Kitô dẫn đưa họ đến hạnh phúc”.

ĐHY không quên hy vọng những thành quả thiêng liêng của Ngài Quốc Tế giới trẻ này đặc biệt dồi dào nơi các bạn trẻ ở Cracovia. Họ sẽ như những người chủ nhà tiếp đón những người đồng lứa tuổi, và điều này có nghĩa là họ phải quảng đại chuẩn bị và tận tụy đối với những người khác. Việc làm này sẽ luôn được Chúa thưởng công! Tôi hy vọng có nhiều bạn trẻ đặt câu hỏi về ơn gọi trong những ngày này, và nếu Chúa gọi, họ thưa xin vâng đối với ngài. Tôi cầu mong Ngày Quốc Tế Giới trẻ này là một thời điểm quan trọng để canh tân tinh thần cho Cracovia, cho Ba Lan và cho giới trẻ toàn thế giới” (Vat. Ins. 25-7-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

Các vị lãnh đạo Kitô Zimbabwe kêu gọi chính phủ nghe dân kêu

HARARE. Các vị lãnh đạo Kitô tại Zimbabwe, miền nam Phi châu, kêu gọi chính phủ nước này nghe tiếng kêu than của dân chúng đang chịu đau khổ.

Trong tuyên ngôn công bố hôm 14-7-2016, HĐGM Công Giáo Zimbabwe và Hội đồng các Giáo Hội Tin Lành tại nước này, cũng cảnh giác rằng nếu chính quyền không nghe tiếng kêu đau khổ của dân chúng, thì những oán trách đó có thể bùng nổ thành những vụ nổi loạn. Các vị lãnh đạo Kitô cũng lên án những cuộc đàn áp tàn bạo của cảnh sát chống lại những người biểu tình phản đối tình trạng kinh tế đen tối của đất nước, và bày tỏ quan tâm về vụ bắt giam mục sư Evan Mawarire, cũng như những vụ hăm dọa các vị lãnh đạo Kitô lên tiếng thay cho những người dân ”thấp cổ bé miệng”.

Hôm 13-7 trước đó, tòa án ở thủ đô Harare đã tha bổng mục sư Mawarire là người đã tổ chức cuộc đình công toàn quốc rộng lớn nhất kể từ 10 năm nay. Tòa án khẳng định rằng cảnh sát đã vi phạm quyền của mục sư Mawarire.

Các vị lãnh đạo Kitô ở Zimbabwe nói rằng trong số những vấn đề cần cấp thiết quan tâm có sự sụp đổ của các công ty – hoặc thuộc quyền sở hữu hoàn toàn hoặc bán thần của nhà nước, vì nạn tham ô lan tràn và tình trạng vô trách nhiệm của giới lãnh đạo cấp cao. Các vị cũng cảnh giác chống lại sự áp đặt những hạn chế nhập khẩu và việc buôn bán ở biên giới, đe dọa công ăn việc làm của hàng ngàn người dân Zimbabwe. Ngoài ra có tình trạng thấp nghiệp tràn lan, sự áp đặt mua công trái, dân chúng không còn tín nhiệm nơi khả năng của chính quyền trong ciệc trả lương cho các công nhân viên,

Chính phủ của tổng thống Robert Mugabe đang chi hơn 80% lợi nhuận cho việc trả lương cho các công chức, nhưng nay đang ở trong tình trạng thiếu ngân quỹ. Từ 7 năm nay (2009), Zimbabwe bỏ tiền tệ riêng của mình để tránh nạn lạm phát và sử dụng Mỹ kim.   Trong số 16 triệu dân cư ở nước này, phần lớn chỉ sống còn với 1 Mỹ kim mỗi ngày (CNS 20160715)

G. Trần Đức Anh OP

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

LA HABANA. Trong Tuyên ngôn chung, ĐTC và Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga kêu gọi chấm dứt bách hại Kitô đồng thời hứa dấn thân cộng tác với nhau.

Tuyên ngôn được hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga ký và công bố dài 5 trang và gồm 30 đoạn, nhấn mạnh đến những điểm chung của hai Giáo Hội, rồi đề cập đến tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi, nơi mà nhiều gia đình, làng mạc và thành thị của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị hoàn toàn tiêu hủy. Các vị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế cấp thiết hành động để ngăn ngừa, đừng để những cuộc trục xuất các tín hữu xảy ra nữa, chấm dứt bạo lực và khủng bố, đảm bảo cho cứu trợ nhân đạo đầy đủ được đưa tới cho các nạn nhân. Hai vị gọi những tín hữu Kitô bị giết là những vị tử đạo thời nay”, giúp hiệp nhất các Giáo Hội với nhau qua sự chia sẻ đau khổ. Ngoài ra cần cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không còn tôn trọng các căn tính tôn giáo nữa. Tuyên ngôn cũng nói về tình trạng nghèo đói cùng cực, hàng triệu người di dân đang gõ cửa các nước giàu có.

Về vấn đề luân lý, tuyên ngôn nói đến những vấn đề như phá thai, làm cho chết êm dịu, những kỹ thuật mới về việc sinh sản, và những đe dọa chống lại lập trường của các Giáo Hội về hôn nhân.

Chi tiết Tuyên Ngôn

Đi vào chi tiết hơn, Tuyên ngôn chung mở đầu với câu trích từ thư thứ 2 của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu thành Corinto: ”Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).

 ”Bởi ý Chúa Cha Đấng là nguồn mạch mọi hồng ân, nhân danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, Đấng An Ủi, chúng tôi, Giáo Hoàng Phanxicô và Kirill, Thượng Phụ Mascơva và toàn nước Nga, đã gặp nhau hôm nay tại La Habana. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa, được tôn vinh trong Ba Ngôi, vì cuộc gặp gỡ này, cuộc gặp gỡ đầu tiên trong lịch sử. Chúng tôi vui mừng gặp gỡ nhau như anh em trong đức tin Kitô để ”nói bằng tiếng nói sinh động” (2 Ga 12), lòng với lòng, và thảo luận về những quan hệ hỗ tương giữa hai Giáo Hội, về những vấn đề thiết yếu của đức tin chúng ta và những viễn tượng phát triển nền văn minh của nhân loại.”

Đau buồn vì mất hiệp nhất

Hai vị Giáo Chủ lên án ”sự đánh mất tình hiệp nhất, hậu quả của sự yếu đuối con người và tội lỗi”, với ý thức về sự ”tồn đọng của nhiều chướng ngại”, đồng thời cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này ”có thể góp phần vào việc tái lập sự hiệp nhất” như Thiên Chúa mong muốn. Mục đích là để cùng nhau ”đáp ứng những thách đố thời nay. Tín hữu Công Giáo và Chính Thống phải học cách làm chứng tá hòa hợp cho chân lý trong những lãnh vực có thể và cần phải thực hiện”.

Lên án bách hại Kitô

 Về cuộc bách hại các tín hữu Kitô và chiến tranh ở Siria, Irak, Tuyên ngôn khẳng định rằng: ”Cái nhìn của chúng tôi trước tiên hướng về những miền trên thế giới, nơi mà các tín hữu Kitô đang bị bách hại”, chứng nhân về sự hiệp nhất trong đau khổ và tử đạo. ”Tại nhiều nước ở Trung Đông và Bắc Phi, các anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị tiêu diệt cả gia đình, làng mạc và thành phố. Thánh đường của họ bị tàn phá và cướp bóc dã man, các đồ vật thánh bị xúc phạm, các đền đài bị phá hủy. Tại Siria, Irak và tại các nước khác ở Trung Đông, chúng tôi đau lòng nhận thấy sự xuất cư ồ ạt của các tín hữu Kitô và của các cộng đoàn tôn giáo khác. Chúng tôi xin Cộng đồng quốc tế hãy cấp thiết hành động để phòng ngừa, không để xảy ra thêm những cuộc trục xuất các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, và chấm dứt nạn bạo lực và khủng bố, đồng thời đảm bảo một cuộc cứu trợ nhân đạo ở bình diện rộng lớn cho dân chúng đang chịu đau thương và cho bao nhiêu người tị nạn ở các nước láng giềng. Hai vị cũng kêu gọi giải thoát những người bị bắt cóc.

 Đối thoại liên tôn

 Về vấn đề đối thoại liên tôn, Tuyên ngôn của hai vị Giáo Chủ viết: ”Trong thời đại âu lo này, đối thoại liên tôn là điều không thể thiếu được, và các vị lãnh đạo tôn giáo có trách nhiệm đặc biệt trong việc giáo dục các tín đồ của mình hãy tôn trọng các tín ngưỡng khác: ”Thật là điều tuyệt đối không thể chấp nhận được những toan tính biện minh cho những hành động gian ác với những khẩu hiệu tôn giáo. Không tội ác nào có thể phạm nhân danh Thiên Chúa”.

Tự do tôn giáo

Về tự do tôn giáo ngày càng bị đe dọa, Đức Phanxicô và Đức Kirill bày tỏ lo âu vì tình trạng tại nhiều quốc gia trong đó các tín hữu Kitô ngày càng bị giới hạn tự do tôn giáo, quyền được làm chứng về các xác tín của mình và không được sống phù hợp với các xác tín ấy. ”Sự biến đổi của một số nước thành những xã hội tục hóa, xa lạ với mọi tham chiếu về Thiên Chúa và chân lý của Ngài, tạo nên một đe dọa trầm trọng cho tự do tôn giáo. Đối với chúng tôi, sự giới hại các quyền của Kitô hữu là một nguồn mạch lo âu, thậm chí họ còn bị kỳ thị khi một số lực lượng chính trị, do ý thức hệ duy thế tục hướng dẫn, nhiều khi rất cực đoan, tìm cách gạt các Kitô hữu ra ngoài lề đời sống công cộng”. Trước tình cảnh đó, hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga kêu gọi hãy cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không tôn trọng các căn tính tôn giáo, vì các vị xác tín rằng Âu Châu phải trung thành với các căn cội Kitô của mình”.

Liên đới với người nghèo và di dân

 Đề cập tới sự liên đới với người nghèo và những người di dân, Tuyên ngôn kêu gọi đừng dửng dưng lãnh đạm trước số phận của hàng triệu người di dân và tị nạn đang gõ cửa các nước giàu có. Sự tiêu thụ vô độ, như người ta thấy ở một số nước phát triển cao, đang dần dần làm cạn tài nguyên của trái đất chúng ta. Sự chênh lệch gia tăng trong việc phân phối các tài nguyên trái đất gia tăng cảm thức về sự bất công đối với các hệ thống quan hệ quốc tế. Các Giáo Hội Kitô được kêu gọi bênh vực những đòi hỏi của công lý, tôn trọng các truyền thống của các dân tộc và một tình liên đới đích thực với tất cả những người đang chịu đau khổ.

Gia đình, sự sống và trợ tử

Về gia đình, sự sống và việc làm cho chết êm dịu, hai vị Giáo Chủ bày tỏ lo âu vì cuộc khủng hoảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. ”Chúng tôi lấy làm tiếc vì một số hình thức sống chung nay đang được đặt ngang hàng với sự kết hiệp của hôn nhân, trong khi ý niệm về việc làm cha làm mẹ .. bị loại ra ngoài ý thức công cộng”. Chúng tôi xin tất cả mọi người hãy tôn trọng quyền sống bất khả nhượng. Hàng triệu trẻ em bị tước đoạt mất quyền được sinh ra trên thế giới. Tiếng kêu của máu các hài nhi không được sinh ra đang kêu thấu tới Thiên Chúa” (Xc St 4,10). Hai vị Giáo Chủ cũng lo âu vì sự lan tràn nạn làm cho chết êm dịu và các kỹ thuật sinh sản nhờ y khoa. Các vị kêu gọi những người trẻ Kitô đàng sợ đi ngược dòng khi bảo vệ chân lý của Thiên Chúa”.

Chống chiêu dụ tín đồ

Tiếp tục tuyên ngôn chung ký kết tại La Habana, ĐTC Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill chống lại chủ trương chiêu dụ tín đồ và kiến tạo sự hiệp nhất Kitô bằng cách đưa các tín hữu Chính Thống hiệp nhất với Tòa Thánh. Hai vị cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này có thể góp phần vào sự hòa giải, tại những vẫn còn sự căng thẳng giữa các tín hữu Công Giáo nghi lễ Đông phương và Chính Thống. Loại trừ mọi hình thức chiêu dụ tín đồ. ”Ngày nay điều rõ ràng là: phương pháp đưa các tín hữu Chính Thống về hiệp nhất với Tòa Thánh, hiểu như một sự kết hiệp một cộng đoàn này vào một cộng đoàn khác, tách rời khỏi Giáo Hội của họ, không phải là phương pháp giúp tái lập sự hiệp nhất. Nhưng các cộng đoàn Giáo Hội đã xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử như thế có quyền hiện hữu và làm tất cả những gì cần thiết để thoả mãn những đòi hỏi tinh thần của các tín hữu thuộc quyền, đồng thời tìm cách sống an bình với những người láng giềng. Các tín hữu Chính Thống và Công Giáo nghi lễ đông phương cần hòa giải với nhau và tìm ra những hình thức sống chúng hai bên có thể chấp nhận.

Ucraina

Về nền hòa bình ở Cộng hòa Ucraina, Tuyên ngôn kêu gọi chấm dứt bạo lực tại nước này, đã gây ra nhiều nạn nhân, xô đẩy xã hội vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và nhân đạo. Hai vị lãnh đạo cũng cầu mong rằng ”sự ly giáo giữa các tín hữu Chính Thống ở Ucraina có thể được vượt thắng dựa trên căn bản giáo luật Chính Thống hiện hành.. Tất cả các tín hữu Chính Thống ở Ucraina được sống trong an bình và hòa hợp, và các cộng đồng tôn giáo tại nước này, góp phần vào điều này, làm sao để cho người ta ngày càng thấy rõ tình huynh đệ Kitô của chúng ta.

 Hai vị lãnh đạo kết luận rằng ”Chúng ta không phải là những người cạnh tranh với nhau nhưng là anh em, và ý niệm này phải hướng dẫn tất cả các hoạt động của chúng ta đối với nhau và đối với thế giới bên ngoài. Chúng tôi nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo và Chính Thống ở mọi nước hãy học cách sống chung với nhau trong an bình và yêu thương”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 11-1-2016, ĐTC đặc biệt lưu ý cộng đồng quốc tế quan tâm và giải quyết hợp lý vấn đề làn sóng người di dân.

ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh, gồm đại diện của 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola, Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và hài lòng ghi nhận trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng (từ 80 lên 86), điều này chứng tỏ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh. ĐTC cũng nhắc đến việc ký kết và phê chuẩn các hiệp định giữa Tòa Thánh và các nước trong năm qua, kể cả hiệp định với Palestine, hiệp định về thuế khóa với Italia và Hoa Kỳ. Ngài cũng nói đến những nét nổi bật trong các cuộc viếng thăm ngài thực hiện trong năm qua tại Philippines, Sri Lanka, Sarajevo, 3 nước Nam Mỹ, Cuba, Hoa Kỳ, LHQ, và 3 nước Phi châu: Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi. Sau cùng ĐTC nói đến việc mở Năm Thánh lòng thương xót. Trong phần kế tiếp, ĐTC đặc biệt nói đến vấn đề di dân trong thế giới ngày nay, nhất là tại Âu Châu, với những vấn đề đi kèm. Ngài nói:

Vấn đề di dân

Quí vị Đại sứ thân mến, một tinh thần cá nhân chủ nghĩa là mảnh đất phì nhiêu làm bành trướng cảm thức dửng dưng lãnh đạm đối với tha nhân, đưa tới thái độ đối xử với họ như một món hàng mua bán, đẩy đưa tới sự không quan tâm gì tới nhân tính của người khác và rốt cục làm cho con người yếu nhược và có tâm trạng ”sống chết mặc bay”. Phải chăng đó chẳng phải là những tâm tình mà nhiều khi chúng ta có đứng trước những người nghèo, người ở ngoài lề, những người rốt cùng trong xã hội sao? Và bao nhiêu người rốt cùng trong các xã hội chúng ta! Trong số những người ấy, tôi nghĩ trước tiên tới những người di dân, với những khó khăn và đau khổ của họ, mà họ phải đương đầu hằng ngày trong việc tìm kiếm một nơi để sống an bình và xứng đáng, nhiều khi cuộc tìm kiếm của họ thật là tuyệt vọng.

Vì thế, hôm nay, tôi muốn dừng lại để cùng với quí vị suy tư về sự cấp thiết trầm trọng của làn sóng di cư mà chúng ta đang gặp, để phân định những nguyên do của nó, hướng đến những giải pháp, chiến thắng thái độ sợ hãi không thể tránh né đi kèm một hiện tượng ồ ạt và rộng lớn như vậy, liên hệ đặc biệt tới Âu Châu trong năm 2015, và cả một số miền ở Á châu và Trung Mỹ.

”Đừng sợ và kinh hãi, vì Chúa là Thiên Chúa của ngươi ở với ngươi, dù ngươi đi đâu” (Gs 1,9). Đó là lời mà Thiên Chúa hứa với Ông Giôsuê và cho thấy Chúa tháp tùng mỗi người dường nào, nhất là người ở trong tình cảnh mong manh như người đang tìm nơi tị nạn ở nước ngoài. Thực vậy, toàn thể Kinh Thánh kể lại cho chúng ta lịch sử nhân loại lữ hành, vì tình trạng di động là điều gắn liền với bản tính con người. Lịch sử loài người được hình thành với bao nhiêu cuộc di dân, nhiều khi diễn ra như một ý thức về quyền tự do chọn lựa, nhưng đôi khi do những hoàn cảnh bên ngoài đòi hỏi. Từ cuộc lưu vong khỏi địa đàng cho đến Abraham tiến về đất hứa; từ trình thuật cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập đến cuộc lưu đày ở Babilon, Kinh Thánh kể lại những cơ cực và đau khổ, ước muốn và hy vọng, giống như tình trạng hàng trăm ngàn người lữ hành ngay nay, với cùng quyết tậm của Môisê đạt tới một miền đất ”chảy sữa và mật” (Xc Xh 3,17), nơi họ có thể sống tự do và an bình.

Vì thế, ngày nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng kêu của Rachele khóc thương con bà không còn nữa (Xc Gr 31,15; Mt 2,18). Đó là tiếng của hàng ngàn người khóc lóc trốn chạy những cuộc chiến tranh khủng khiếp, những cuộc bách hại và vi phạm các quyền con người, hoặc tình trạng bấp bênh về chính trị hay xã hội, nhiều khi làm cho cuộc sống của họ ở quê hương trở nên không thể sống nổi. Đó là tiếng kêu của những người buộc lòng phải trốn chạy để tránh những hành động dã man khôn tả đối với những người vô phương thế tự vệ, như các trẻ em và người khuyết tật, hoặc cuộc tử đạo chỉ vì thuộc về một tôn giáo.

Cũng như hồi đó, nay chúng ta nghe tiếng của Giacop nói với các con ông: ”Hãy đi xuống đó và mua thóc về cho chúng ta để chúng ta có thể sống và không phải chết” (St 42,2). Đó là tiếng của những người trốn chạy lầm than cùng cực, vì không thể nuôi sống gia đình hoặc không được săn sóc sức khỏe, giáo dục, hoặc vì tình trạng sa sút, không có hy vọng cải tiến, hoặc cũng vì những thay đổi khí hậu và điều kiện khí hậu cùng cực. Rất tiếc là, chúng ta biết nạn đói vẫn còn là một trong những tai ương trầm trọng nhất của thế giới chúng ta với hàng triệu trẻ em mỗi năm chết vì đói. Nhưng điều đau buồn là nhận thấy rằng nhiều khi chính những người di dân ấy không được thuộc vào các hệ thống bảo vệ dựa trên căn bản các hiệp định quốc tế.

Chống nền văn hóa gạt bỏ

Làm sao không nhận thấy trong tất cả những điều đó là kết quả của ”nền văn hóa gạt bỏ” gây nguy hiểm cho con người, hy sinh con người cho các thần tượng lợi lộc và tiêu thụ? Điều trầm trọng là chúng ta trở nên quá quen thuộc với những tình trạng nghèo đói và túng thiếu ấy, những thảm trạng của bao nhiêu người và coi chúng là ”những điều bình thường”. Con người không còn được cảm thấy như một giá trị hàng đầu phải tôn trọng và bảo vệ, nhất là nếu họ là người nghèo hoặc khuyết tật, hay nếu họ chưa hữu ích – như những trẻ em chưa sinh ra – hoặc không còn hữu ích nữa, như người già. Chúng ta trở nên vô cảm đối với mọi hình thức phung phí, bắt đầu từ sự phung phí lương thực, là điều thuộc vào số đáng trách nhất, trong khi có nhiều cá nhân và gia đình đang chịu đói và thiếu dinh dưỡng.

Cầu mong Hội nghị về nhân đạo thành công

Tòa Thánh cầu mong Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới đầu tiên về nhân đạo, được LHQ triệu tập vào tháng 5 tới đây , có thể thành công trong khung cảnh đau buồn ngày nay với các cuộc xung đột và tai ương, với ý hướng đặt con người và nhân phẩm ở trọng tâm mọi câu trả lời về nhân đạo. Cần có một sự dấn thân chung để quyết liệt lật ngược nền văn hóa gạt bỏ và xúc phạm đến sự sống con người, để không một ai cảm thấy bị lơ là hoặc quên lãng, và những sinh mạng khác không bị hy sinh vì thiếu tài nguyên, và nhất là vì ý chí chính trị.

Tiếc thay, ngày nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng của Giuda đề nghị bán em mình (Xc St 37,26-27). Đó là sự kiêu hãnh của những kẻ cường quyền lạm dụng người yếu, biến họ thành những đồ vật để phục vụ cho những mục tiêu ích kỷ hoặc những tính toán chiến lược và chính trị. Nơi nào không thể có một sự di trú hợp pháp, thì những người di dân thường buộc lòng phải chọn giải pháp nhờ những kẻ buôn người hoặc buôn lậu, tuy phần lớn đều biết rõ những nguy cơ trong cuộc lữ hành sẽ bị mất của cải, phẩm giá và cả mạng sống nữa. Trong viễn tượng đó, một lần nữa tôi tái kêu gọi chấm dứt nạn buôn người, nạn biến con người thành món hàng, nhất là những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Trong tâm trí chúng ta vẫn luôn ghi đậm hình ảnh những trẻ em bị chết trên biển cả, nạn nhân của sự vô lương tâm của con người và sự độc địa của thiên nhiên. Rồi những người sống sót và đến một quốc gia đón nhận, họ mang những chấn thương sâu đậm về kinh nghiệm ấy, không kể những kinh nghiệm về những kinh hoàng vẫn xảy ra trong chiến tranh và bạo lực.

Như xưa kia, ngày nay người ta cũng nghe Thiên Thần lập lại: ”Hãy trỗi dậy, mang hài nhi và mẹ Người, trốn sang Ai Cập và hãy ở đó cho đến khi Ta sẽ báo lại cho ông” (Mt 2,13). Đó là tiếng nói mà nhiều người di dân nghe thấy, họ là những người sẽ không rời bỏ quê hương nếu không bị bó buộc. Trong số những người ấy có nhiều tín hữu Kitô, ngày càng ồ ạt rời bỏ quê hương trong những năm gần đây, quê hương mà họ đã cư ngụ từ thời đầu của Kitô giáo.

Sau cùng, ngày nay chúng ta cũng nghe tiếng của tác giả thánh vịnh lập lại: ”Trên bờ sông Babilone, ta ngồi ta khóc tưởng nhớ Sion” (Tv 136 [137], 1). Đó là tiếng khóc của những người sẵn sàng trở về quê hương họ nếu có những điều kiện thuận lợi về an ninh và sinh tồn. Nơi đây tôi cũng nghĩ đến các tín hữu Kitô ở Trung Đông, họ mong muốn góp phần như những công dân với đầy đủ danh nghĩa vào thiện ích tinh thần và vật chất của các quốc gia liên hệ.

 Giải quyết nguyên nhân thúc đẩy di cư

Phần lớn những nguyên nhân tạo nên di cư người ta có thể giải quyết từ lâu. Và nhờ đó có thể phòng ngừa bao nhiêu tai ương, hoặc ít là làm dịu bớt những hậu quả tàn ác của chúng. Cả ngày nay, trước khi quá trễ, người ta có thể làm được nhiều điều để chặn đứng những thảm họa và kiến tạo hòa bình. Nhưng điều này có nghĩa là đặt lại vấn đề những thói quen và đường lối thực hành đã có từ lâu, bắt đầu từ những vấn đề liên quan tới việc buôn bán võ khí cho tới vấn đề cung cấp các nguyên liệu và năng lượng, vấn đề đầu tư, các chính sách tài chánh và sự hỗ trợ phát triển, cho tới tệ nạn trầm trọng là tham nhũng. Chúng ta ý thức rằng về vấn đề di cư, cần thiết lập những dự án trung và dài hạn, đi xa hơn những câu trả lời cấp thiết. Các dự án đó một đàng phải thực sự giúp những người nhập cư hội nhập vào những quốc gia tiếp đón, và đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển các nước xuất cư, với những chính sách liên đới, nhưng không đòi các nước này phải theo những chiến lược và chính sách ý thức hệ xa lạ hoặc trái ngược với các nền văn hóa của những dân tộc mà sự viện trợ nhắm tới.

Không quên những tình cảnh thê thảm khác, trong đó tôi đặc biệt nghĩ đến biên giới giữa Mêhicô và Hoa Kỳ, mà tôi sẽ đến gần khi viến gthăm thành phố Ciudad Juárez vào tháng tới đây, tôi muốn đặc biệt nghĩ đến Âu Châu. Thưc vậy, trong năm qua, Âu Châu đã có một làn sóng tị nạn rất lớn – nhiều người tị nạn bị thiệt mạng khi toan tính đi tới Âu Châu – làn sóng ồ ạt này chưa từng có trong lịch sử đại lục này, ít là từ sau thế chiến thứ hai. Nhiều người di dân đến từ Á, Phi, xem Âu Châu là một điểm tham chiếu cho các nguyên tắc như bình đẳng trước pháp luật, và các giá trị được ghi khắc trong chính bản tính của mỗi người, như phẩm giá bất khả xâm phạm và sự bình đẳng của mỗi người, lòng yêu mến tha nhân không phân biệt nguồn gốc hoặc là thành viên của tổ chức nào, tự do lương tâm và tình liên đới với người đồng loại.

Thách đố đối với Âu Châu

“Tuy nhiên những cuộc đổ bộ ồ ạt tới các bờ biển của Âu Châu dường như làm lung lay hệ thống đón tiếp, được kiến tạo với bao vất vả trên những tro tàn của thế chiến thứ hai và vẫn còn là ngọn đèn pha về tình người mà người ta tham chiếu. Đứng trước làn sóng ồ ạt và những vấn đề đi kèm không thể tránh được, đã nảy sinh nhiều vấn nạn về khả năng đón tiếp thực sự và sự thích ứng của những người ấy, đề sự thay đổi sự tháp tùng văn hóa và xã hội của những nước tiếp cư, cũng như sự hoạch định lại một số quân bình về chính trị địa lý của các miền. Một điều không kém phần quan trọng là những lo sợ về an ninh, lo sợ càng được gia tăng trước những đe dọa lan rộng do nạn khủng bố quốc tế. Làn sóng di dân hiện nay dường như đe dọa chính nền tảng của tinh thần nhân bản mà Âu Châu vẫn luôn yêu mến và bảo vệ.

Tuy nhiên, chúng ta không thể đánh mất các giá trị và các nguyên tắc nhân đạo, sự tôn trọng phẩm giá mỗi người, nguyên tắc phụ đới và tình liên đới hỗ tương, dù chúng có thể tạo nên gánh nặng lớn lao khó gánh vác trong một số thời điểm lịch sử. Vì thế, tôi muốn tái khẳng định xác tín theo đó Âu Châu, với sự trợ giúp của gia sản văn hóa và tôn giáo rộng lớn của mình, có những phương thế để bảo vệ vị trí trung tâm của con người và tìm ra sự quân bình đúng đắn giữa hai nghĩa vụ luân lý là bảo vệ các quyền của các công dân và bảo đảm sự trợ giúp cũng như tiếp đón người di dân.

Đồng thời tôi cũng thấy cần phải bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những sáng kiến tạo điều kiện cho sự tiếp đón xứng đáng dành cho con người, trong đó có Quỹ Di dân và Tị nạn thuộc Ngân hàng phát triển của Hội đồng Âu Châu cũng như sự dấn thân của những nước đã chứng tỏ thái độ chia sẻ quảng đại. Trước tiên tôi nghĩ đến các nước láng giềng của Siria, đã tức khắc giúp đỡ và đón nhận, nhất là Liban, nơi mà người tị nạn chiếm tới 1 phần 4 dân số, và nước Giordani đã không khép kín biên giới mặc dù đã đón tiếp hàng trăm ngàn người tị nạn rồi. Cũng vậy không nên quên những cố gắng của các nước đi hàng đầu, đặc biệt là Thổ nhĩ kỳ và Hy Lạp.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với Italia, với quyết tâm cứu vớt nhiều sinh mạng trong Địa Trung Hải, và vẫn còn mang gánh nặng đón tiếp đông đảo người tị nạn trên lãnh thổ của mình. Tôi cầu mong rằng lòng hiếu khách truyền thống và tình liên đới trổi vượt của nhân dân Italia không bị giảm bớt vì những khó khăn không thể tránh được hiện nay, nhưng dưới ánh sáng truyền thống ngàn đời, có thể đón nhận và hội nhập sự đóng góp về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa mà người di dân có thể mang lại.

ĐTC cũng nói rằng: ”Điều quan trọng là các nước đi hàng đầu trong việc đương đầu với tình trạng cấp thiết hiện nay không bị bỏ mặc một mình, và điều quan trọng không kém là khởi sự một cuộc đối thoại thẳng thắn và tôn trọng giữa tất cả các nước liên quan đến vấn đề di dân – các nước nguyên quán, nước chuyển tiếp hoặc nước tiếp đón – để tìm ra những giải pháp mới mẻ và lâu dài với óc sáng tạo táo bạo. ..

Khía cạnh văn hóa và tôn giáo của hiện tượng di dân

Trong việc giải quyết vấn đề di dân, chúng ta cũng không thể bỏ qua các khía cạnh văn hóa đi kèm, bắt đầu từ những khía cạnh tôn giáo. Trào lưu cực đoan và thủ cựu tìm được một môi trường dễ dàng không những không việc lợi dụng tôn giáo để chiếm quyền bính, nhưng cả trong sự trống rỗng các lý tưởng và sự đánh mất căn tính – kể cả căn tính tôn giáo – mà người ta thấy ở Tây Phương. Từ sự trống rỗng ấy nảy sinh sự sợ hãi khiến người ta coi tha nhân như một nguy hiểm và một kẻ thù, co cụm vào mình, bám chặt những lập trường thiên kiến của mình. Vì thế hiện tượng di cư cũng đặt một câu hỏi nghiêm trọng về văn hóa mà ta không thể không trả lời. Vì thế, sự tiếp đón có thể là một cơ hội thích hợp để có sự cảm thông và cởi mở chân trời, cho người được đón tiếp, họ có nhiệm vụ tôn trọng các giá trị, truyền thống và luật lệ của các cộng đồng đón nhận họ, và cho cả những cộng đồng tiếp cư, được kêu gọi đề cao giá trị những gì mà người di dân có thể cống hiến để mưu ích cho toàn thể cộng đoàn. Trong lãnh vực này Tòa Thánh tái quyết tâm dấn thân trong lãnh vực đại kết và liên tôn để thiết lập một cuộc đối thoại chân thành và liên chính, đề cao giá trị của những đặc thù và căn tính của mỗi người, tạo điều kiện cho sự sống chung hòa hợp giữa mọi thành phần xã hội.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới di dân và tị nạn 2016

Sứ điệp Đức Thánh Cha Ngày Thế Giới di dân và tị nạn 2016

 

VATICAN. ĐTC Phanxicô cảnh giác rằng ”dửng dưng và im lặng đối với thảm cảnh người di dân và tị nạn là mở đường cho sự đồng lõa, khi chúng ta chứng kiến như khán giả cái chết vì ngộp thở, vì kiệt lực, bạo lực và đắm tàu”.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp công bố sáng ngày 1-10-2015, nhân ngày Thế giới di dân và tị nạn sẽ được cử hành vào ngày 17-1 năm tới, 2016, với chủ đề ”Người di dân và tị nạn gọi hỏi chúng ta. Câu trả lời của Tin Mừng Lòng Thương Xót”. Sứ điệp được giới thiệu trong cuộc họp báo tại Vatican do ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, cùng với vị Tổng thư ký là Đức Cha Joseph Kalathiparampil.

Trong sứ điệp, ĐTC nói đến ”làn sóng di dân liên tục gia tăng ở mọi miền trên thế giới.. Càng ngày càng có những nạn nhân của bạo lực và nghèo đói rời bỏ nguyên quán, chịu sự hành hạ của những kẻ buôn người trong hành trình tiến về giấc mơ một tương lai tốt đẹp hơn. Và rồi, giả sử họ sống còn sau những lạm dụng và nghịch cảnh, họ lại phải đương đầu với những thực tại trong đó có tiềm ẩn những nghi ngờ và sợ hãi. Sau cùng nhiều khi họ gặp tình trạng thiếu những qui luật rõ ràng và khả thi, điều hành việc đón tiếp.. Hơn mọi thời đại trước đây, ngày nay Tin Mừng về lòng thương xót đánh động lương tâm, ngăn cản chúng ta đừng trở nên quen thuộc với những đau khổ của người khác, và chỉ dẫn những con đường đáp ứng, ăn rễ sâu trong các nhân đức đối thần tin, cậy, mến, và được diễn tả qua các hoạt động từ bi bác ái về tinh thần cũng như thể lý”.

ĐTC nhắc nhở cho các tín hữu rằng ”những người di dân là anh chị em chúng ta đang tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn, tránh được nạn nghèo đói, nạn bóc lột và bất công trong việc phân phối tài nguyên thế giới..

Ngài cũng khẳng định rằng ”sự hiện diện của những người di dân và tị nạn đang đặt những câu hỏi nghiêm trọng cho các xã hội đón tiếp họ… Làm thế nào để sự hội nhập người di dân và tị nạn ấy làm cho nhau được phong phú, mở ra những con đường tích cực cho cộng đoàn, và vượt thắng những nguy cơ phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc, quốc gia chủ nghĩa thái quá và nạn bài người ngoại quốc”.

ĐTC lấy làm tiếc vì trong dư luận tại nhiều nước ngày nay chỉ nổi bật những cuộc thảo luận về những điều kiện và những giới hạn cần đề ra cho việc đón tiếp người di dân và tị nạn, không những trong các chính sách của Nhà Nước, nhưng cả trong một số cộng đoàn giáo xứ, cho rằng sự yên hàn theo truyền thống của mình bị đe dọa”.

Sau cùng, ĐTC mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy hành động theo gương lời nói và hành động của Chúa Giêsu Kitô đối với người di dân và tị nạn. Câu trả lời của Tin Mừng chính là lòng từ bi thương xót… Không thể thu hẹp các vấn đề di dân vào chiều kích chính trị và qui luật, vào những khía cạnh kinh tế hoặc sự đồng hiện diện của các nền văn hóa khác nhau trên cùng một lãnh thổ. Các khía cạnh này chỉ có tính chất bổ túc cho sự bảo vệ và thăng tiến con người, cho nền văn hóa gặp gỡ của các dân độc và hiệp nhất, trong đó Tin Mừng về lòng từ bi thương xót soi sáng và khích lệ những hành trình đổi mới và biến đổi toàn thể nhân loại” (SD 1-10-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha phát biểu tại Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha phát biểu tại Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ

ĐTC gặp chủ tịch Hạ Nghi Viện

WASHINGTON. Trong bài phát biểu tại quốc hội Hoa kỳ sáng ngày 24-9-2015, ĐTC Phanxicô kêu gọi đương đầu với hình thức cực đoan, gia tăng sự cộng tác với nhau, chống nạn buôn bán võ khí, bài trừ nghèo đói và hỗ trợ gia đình.

Sáng thứ năm 24-9-2015, ĐTC đã dâng thánh lễ tại nhà nguyện tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Washington với sự tham dự của các cộng tác viên tại trụ sở này, trước khi đến Quốc hội Mỹ để viếng thăm từ lúc gần 9 giờ rưỡi.   Đây là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng được mời lên tiếng tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ gồm 435 hạ nghị sĩ và 100 thượng nghị sĩ.

Đến nơi, ĐTC đã hội kiến riêng với Ông Joe Boehner, chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Ông là một tín hữu Công Giáo dấn thân, liên tục được bầu làm đại biểu quốc hội thuộc đảng cộng hòa và từ 4 năm nay, ông làm chủ tịch Hạ viện Mỹ.

Hiện diện trong buổi đón tiếp ĐTC tại quốc hội lưỡng viện cũng có phó tổng thống Joe Biden, niên trưởng ngoại giao đoàn, ngoại trưởng, lãnh tụ phe đối lập cũng như các thẩm phán tối cao pháp viện Hoa Kỳ.

ĐTC đã được các vị chủ tịch và đại biểu quốc hội tiếp đón long trọng và nồng nhiệt và mời ngài lên tiếng.

Diễn văn của ĐTC

Trong diễn văn bằng tiếng Anh tại quốc hội Mỹ, sau khi nhắc đến ơn gọi và sứ mạng cao quí của các nhà lập pháp, ĐTC cho biết qua cuộc gặp gỡ tại quốc hội này, ngài muốn đối thoại với toàn dân Hoa Kỳ, với bao nhiêu người dân đang cần cù làm việc, với những người già và người trẻ. Ngài đặc biệt nhắc đến 4 người Mỹ nổi tiếng: Abraham Lincoln, Martin Luther King, bà Dorothy Day và cha Thomas Merton, và rút ra từ cuộc sống và hoạt động của 4 nhân vật ấy những ý tưởng có thể hướng dẫn hoạt động của chúng ta ngày nay.

-- Trước tiên là Tổng thống Abraham Lincoln, năm nay là kỷ niệm 150 năm ông bị ám sát. Cố Tổng thống là người giữ gìn tự do, đã không ngừng làm việc để ”quốc gia này, với sự bảo vệ của Thiên Chúa, có thể có một nền tự do mới được nảy sinh”. Xây dựng một tương lai tự do đòi phải có lòng yêu mến công ích và sự cộng tác với một tinh thần phụ đới và liên đới”.

Tình trạng đáng lo âu của thế giới

ĐTC nhắc đến tình trạng đáng lo âu về xã hội và chính trị trên thế giới ngày nay, và nhận định rằng:

”Thế giới chúng ta ngày càng trở thành một nơi diễn ra các cuộc xung đột bạo lực, oán ghét và tàn bạo dữ tợn, người ta phạm chúng, thậm chí nhân danh các Thiên Chúa và tôn giáo. Chúng ta biết rằng không một tôn giáo nào tránh thoát hết những hình thức lừa đảo cá nhân hoặc cực đoan ý thức hệ. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đặc biệt chú ý đến mọi hình thức cực đoan, về mặt tôn giáo cũng như các loại khác. Cần có một sự quân bình tế nhị để bài trừ bạo lực người ta phạm nhân danh một tôn giáo, một ý thức hệ hoặc một chế độ kinh tế, đồng thời bảo tồn tự do tôn giáo, tự do trí thực và các tự do cá nhân. Nhưng có một cám dỗ khác chúng ta phải đề phòng: đó là thái độ giản lược thái quá, chỉ thấy thiện hoặc ác, hoặc những người công chính và kẻ tội lỗi. Thế giới hiện nay, với những vết thương mở rộng, liên hệ tới bao nhiêu anh chị em chúng ta, đang đòi chúng ta phải đương đầu với mọi hình thức cực hóa, nó có thể chia thế giới thành 2 phe. Chúng ta biết rằng trong khi cố gắng giải thoát khỏi kẻ thù bên ngoài, chúng ta có thể bị cám dỗ nuôi dưỡng kẻ thù bên trong. Bắt chước oán thù và bạo lực của những kẻ bạo chúa và những kẻ sát nhân, đó là cách thức tốt nhất để chiếm chỗ của chúng. Đó là điều mà quí vị, trong tư cách là một dân tộc, từ khước không chấp nhận”.

Trái lại, câu trả lời của chúng ta phải là một câu trả lời hy vọng và chữa lành, hòa bình và công chính. Chúng ta được yêu cầu kêu gọi lòng can đảm và trí thông minh để giải quyết nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và địa lý chính trị ngày nay…

Canh tân tinh thần cộng tác

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng những thách đố mà chúng ta đang đương đầu ngày nay đòi phải canh tân tinh thần cộng tác, vốn đã mang lại bao nhiêu điều tốt lành trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự phức tạp, trầm trọng và cấp thiết của những thách đố ấy đòi chúng ta phải sử dụng tài lực của chúng ta, và quyết định nâng đỡ nhau, trong niềm tôn trọng những khác biệt và những xác tín lương tâm của chúng ta”.

”Tại đất nước này, những tôn giáo khác nhau đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng và củng cố xã hội. Điều quan trọng là ngày nay cũng như trong quá khứ, tiếng nói của tín ngưỡng phải được tiếp tục lắng nghe, vì đó là một tiếng nói huynh đệ và yêu thương, tìm cách làm nổi bật những gì tốt đẹp nhất trong mỗi người và trong mỗi xã hội. Sự cộng tác ấy là một nguồn lực mạnh mẽ trong trận chiến loại bỏ những hình thức mới của nạn nô lệ trên thế giới, nảy sinh từ những bất công mà ta chỉ có thể khắc phục nhờ những chính sách mới và những hình thức đồng thuận mới trong xã hội.”

Quảng đại với người di dân

ĐTC nhắc đến Mục sư Martin Luther King, cách đây 50 năm đã hướng dẫn chiến dịch đạt tới giấc mơ đầy đủ dân quyền và chính quyền cho người Mỹ gốc Phi châu. Ngài nói: ”Giấc mơ ấy tiếp tục gợi hứng cho chúng ta. Tôi vui mừng vì Nước Mỹ tiếp tục là đất ”mơ” cho nhiều người. Những giấc mơ dẫn đến hành động, tham gia, dấn thân. Những giấc mơ thức tỉnh những gì sâu thẳm nhất và chân thực nhất trong đời sống con người”.

Từ ý tưởng trên đây, ĐTC đề cập thảm trạng người di dân và tị nạn, một vấn đề lớn đối với thế giới và cả nước Mỹ. Ngài nói:

”Thế giới chúng ta ngày nay đang đương đầu với một cuộc khủng hoảng tị nạn chưa từng có kể từ sau thế chiến thứ 2. Thực tại này đặt chúng ta trước những thách đố lớn và những quyết định cam go. Cả tại đại lục này hàng ngàn người bị thúc đẩy tiến về phương bắc để tìm kiếm những cơ may tốt đẹp hơn. Chúng ta đừng để mình bị kinh hãi vì con số của họ, nhưng hãy nhìn họ như những con người, nhìn khuôn mặt và lắng nghe lịch sử của họ, cố gắng làm những gì tốt đẹp có thể đáp ứng tìnht rạng cảu họ. Đáp lại một cách ngày càng nhân bản, công chính và huynh đệ hơn. Chúng ta phải tránh cám dỗ chung ngày nay, đó là gạt bỏ bất kỳ ai tỏ ra là người gây vấn đề. Chúng ta hãy nhớ khuôn vàng thước ngọc: 'Hãy làm cho tha nhân điều bạn muốn người khác làm cho bạn” (Mt 7,12).

Kêu gọi bãi bỏ án tử hình

Tiếp tục bài diễn văn trước quốc hội Mỹ, ĐTC đề cập đến vấn đề án tử hình và ngay từ đầu sứ vụ, ngài đã hỗ trợ trên nhiều bình diện sự bãi bỏ án tử hình trên thế giới. Ngài nói: ”Tôi xác tín đó là con đường tốt đẹp, xét vì mỗi sự sống là thánh tiên, mỗi người có phẩm giá bất khả nhượng, và xã hội có thể được hưởng lợi nhờ sự phục hồi những người đã bị kết án vị tội ác”.

”Mới đây, các anh em GM của tôi ở Mỹ đã tái kêu gọi bãi bỏ án tử hình. Không những tôi hỗ trợ các GM nhưng còn hỗ trợ tất cả những người xác tín hữu một sự trừng phảt chính đáng và cần thiết không bao giờ được tránh né chiều kích hy vọng và mục tiêu phục hồi”.

Quan tâm nâng đỡ người nghèo

-- Người Mỹ thứ 3 được ĐTC nhắc đến là Nữ tôi tớ Chúa Dorothy Day đã thành lập phong trào công nhân Công giáo. Sự dấn thân xã hội, lòng hay say của bà đối với công bằng và chính nghĩa của những người bị áp bức, đã lấy hứng từ Phúc Âm, từ niềm tin của bà và gương của các thánh.

Trong ý hướng đó, ĐTC khích lệ các đại biểu quốc hội Mỹ đừng quên tất cả những người nghèo quanh chúng ta. Ngài nói: ”Chúng ta cũng cần mang lại hy vọng cho họ. Cuộc chiến chống nghèo đói phải liên lỷ được thực thi trong nhiều mặt trận, nhất là nhắm giải quyết tận gốc rễ, những nguyên nhân gây ra nghèo đói. Tôi biết nhiều người Mỹ ngày nay cũng như trong quá khứ, đang làm việc để đương đầu với vấn đề này”.

ĐTC gợi đến điều ngài đã nói trong thông điệp ”Laudato sì”, là ”cần phải can đảm đối hướng đi, tránh những hậu quả nghiêm trọng nhất do sự suy thoái môi trường, vì những hoạt động con người gây ra. Tôi xác tín rằng chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt và tôi chắc chắn Hoa Kỳ, và quốc hội đây, có một vai trò quan trọng cần thi hành. Đây là lúc cần có những hoạt động can đảm và những chiến lược nhắm thực thi một nền văn hóa chăm sóc, một lối tiếp cận toàn diện để bài trừ nghèo đói, để trả lại phẩm giá cho những người bị gạt bỏ, và đồng thời chăm sóc thiên nhiên.”

Đối thoại và cộng tác

-- Sau cùng, ĐTC nói đến cha Thomas Merton dòng Xitô Trappist ở Mỹ tiếp tục là một nguồn hứng tinh thần và là một nhà hướng dẫn cho nhiều người. Cha là người cầu nguyện, một tư tưởng gia và đã mở ra nhiều chân trời mới cho các linh hồn và Giáo Hội. Cha cũng là người đối thoại và thăng tiến hòa bình giữa các dân tộc và tôn giáo.

Trong viễn tượng đó, ĐTC cổ võ các nhà chính trị hãy có can đảm đối thoại, để ý đến quyền lợi của mọi người, phục vụ đối thoại và hòa bình. Điều này cũng đòi chúng ta phải tự hỏi: tại sao những võ khí gây chết chóc được bán cho những kẻ đề ra kế hoạch gây những đau khổ khôn tả cho con người và xã hội. Rất tiếc là, như chúng ta biết, câu trả lời chỉ là tiền bạc, tiền bạc đẫm máu và thường là máu người vô tội. Đứng trước sự im lặng ô nhục và tội lỗi ấy, chúng ta có nhiệm vụ phải đương đầu với vấn đề này và chặn đứng nạn buôn bán võ khí”.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến đại hội các gia đình Công Giáo và Philadelphia và kêu gọi quốc hội Mỹ luôn quan tâm, nâng đỡ gia đình. Tương lai của những người trẻ, các thành phần gia đình, cũng là tương lai của chúng ta.

ĐTC đã được vỗ tay rất nhiều lần trong bài diễn văn tại quốc hội.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

ĐGH lo âu trước thảm kịch di dân tỵ nạn

ĐGH lo âu trước thảm kịch di dân tỵ nạn

Tàu thuyền nhân

ĐTC Phanxicô rất lo âu theo dõi thảm kịch của những người đang phải bỏ nhà cửa quê hương trốn chạy đi nơi khác.

 

Đây là một cuộc xuất hành vĩ đại với bao nhiêu gia đình lâm vào cảng mất mát mọi của cải nhà cửa, liều mình  ra đi với hai bàn tay trắng mong thoát khỏi chiến tranh, đói khổ và bạo lực đủ kiểu để tìm kiếm tương lai. Trong một tweet, ĐTC kêu gọi mọi người hãy mở con tim cho những ai đang phải đau khổ. Ngài viết: Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết tỏ ra quảng đại hơn và luôn gần gũi hơn những gia  đình nghèo khó.

 

Trong khi đó, con số người di dân thiệt mạng ngày càng lên cao. Vài ngày trước đây, thi hài của 71 người bị chết ngạt chồng chất lên nhau, trong đó có cả 8 phụ nữ và 4 trẻ em, đã được khám phá trong một chiếc xe tải nhỏ đậu ven một xa lộ bên Áo. Hôm sau đó, 200 người khác chết trong hai vụ đắm tàu ngoài khơi Lybia. Trong một phóng sự gửi về đài Vatican, ký giả Benedetta Capelli nói: Xác người lềnh bềnh trong nước, tiếng người còn sống van xin cầu cứu, màn đêm dày đặc khiến cho công cuộc cứu vớt gặp nhiều khó khăn. Đó là cảnh tượng người ta phải chứng kiến ngoài khơi duyên hải Zuwara nước Libia hôm qua, khi hai con tàu đầy chật người di dân tỵ nạn bị đắm. Phải ghi thêm con số những người chết này vào danh sách 2.500 người di dân thiệt mạng trên đường vượt Địa Trung Hải vừa được LHQ công bố hôm nay. 10 tên lái tàu đã bị nhận diện và bắt giữ trên con tàu chở 600 người di dân cặp bến Palermo thủ phủ đảo Sicilia Nam Italia, trong đó có 52 người chết ngạt trong hầm tàu. 3 người khác bị chính quyền Áo bắt giam trong vụ khám phá xe tải đầy xác người. Nhiều vụ đụng độ cũng xảy ra tại biên giới Hy Lạp và Macedonia. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, đặc phái viên Nello Scavo của báo Avvenire Tương Lai, tại vùng Pristina Macedonia cho biết “các cuộc kiểm soát của cảnh sát ngày càng trở nên chặt chẽ hơn và thường xuyên hơn. Người tỵ nạn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgari đến chỉ có được ba ngày để đi qua lãnh thổ Macedonia tìm đường vào Âu châu. Trong những tháng vừa qua đã có trên 100 ngàn người đến đây. Chỉ trong những ngày vừa qua, đã có 4000. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua bức tường mới được chính quyền Orban dựng lên, nhưng không có gì ngăn cản được họ. Sống chết gì thì họ cũng sẽ tìm ra những con đường khác để vào Âu châu.

 

Đặc phái viên báo Tương Lai nhận xét thêm rằng “sự hiện diện của người di dân tỵ nạn đã đẩy mạnh guồng máy của bọn buôn người, vốn đã rất thịnh hành tại đây. Các nhóm tội phạm mafia vùng Kossovo, liên kết với mafia Serbi và macedoni đang tổ chức những lối thoát mới để vượt qua bức tường Hungari, chẳng hạn qua ngõ Rumani hay các nước vùng Balkans vào Sloveni và Croat, rồi từ đó vào Áo hay Italia, tuy với nhiều hiểm nguy hơn, như chúng ta vừa thấy trong vụ chiếc xe tải ở Áo. Nguy hiểm cao hơn, thì giá cả cũng cao hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho bọn bất lương. Vì thế, tình hình hiện nay rất rắc rối và nhiều khó khăn. Người di dân và tỵ nạn phải chịu bao nhiêu đau khổ vì đường đi và cũng vì thái độ đối xử của các lực lượng cảnh sát, nhất là cảnh sát macedoni. Bù lại, nhiều nơi, họ đã được người dân địa phương tận tình giúp đỡ. Chẳng hạn như tại Veles, gần Skopje, một số dân chúng địa phương, nhất là một phụ nữ, đã tổ chức được một cơ cấu đón tiếp và trợ giúp hơn 50 ngàn người trong vòng 2 năm gần đây mà hoàn toàn không cậy nhờ đến thẩm quyền chức trách địa phương. Và thật là phi thường khi chứng kiến thiện chí và lòng quảng đại của từng cá nhân có thể vượt thắng những chướng ngại mà các chính quyền không muốn đương đầu. (RG 280815)

 

Mai Anh

 

Đức Thánh Cha chọn đề tài Ngày Thế Giới di dân và tị nạn 2016

Đức Thánh Cha chọn đề tài Ngày Thế Giới di dân và tị nạn 2016

Ty nan the gioi

VATICAN. ĐTC đã chọn đề tài cho Ngày Di dân và Tị Nạn sẽ được cử hành ngày 17-1 năm 2016 là ”Những người di dân và tị nạn gọi hỏi chúng ta. Câu trả lời của Tin Mừng lòng thương xót”.  

Trong thông cáo về đề tài này, Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người tị nạn giải thích rằng đề tài được ĐTC chọn phải được đặt trong bối cảnh Năm Thánh đặc biệt về lòng thương xót được cử hành từ ngày 8-12 năm nay đến 20-11 năm 2016. Có hai khía cạnh được nhấn mạnh trong đề tài:

– Trước tiên, người di dân và tị nạn gọi hỏi chúng ta, muốn chúng ta chú ý đến thảm trạng của bao nhiêu người buộc lòng phải bỏ quê hương. Chẳng hạn chúng ta không được quên thảm trạng bao nhiêu người vượt biên trên biển cả.

Đứng trước nguy cơ quên lãng hiện tượng ấy, ĐTC trình bày trình trạng đau thương của người di dân và tị nạn như một thực tại đang đặt câu hỏi cho chúng ta. Trong Tông Sắc ”Misericordiae vultus” (tôn nhan Thương Xót), ngài viết: “Chúng ta đừng rơi vào thái độ dửng dưng gây tủi nhục, thái độ quá quen thuộc làm cho tâm hồn không còn nhạy cảm, ngăn cản việc khám phá điều mới mẻ, đừng rơi vào thái độ sống chết mặc bay tàn hại. Chúng ta hãy mở to đôi mắt để nhìn những lầm than của thế giới, những vết thương của bao nhiêu anh chị em bị tước mất phẩm giá, và chúng ta hãy cảm thấy bị thúc bách lắng nghe tiếng kêu cứu của họ..” (n.15)

– Phần thứ hai của đề tài là: ”Câu trả lời của Tin Mừng thương xót” muốn liên kết rõ ràng hiện tượng di dân và câu trả lời của thế giới, đặc biệt là của Giáo Hội. Trong bối cảnh này, ĐTC mời gọi dân Chúa hãy suy tư trong Năm Thánh về những việc từ thiện bác ái về thể lý và tinh thần, và không nên quên rằng chính Chúa Kitô hiện diện nơi những người bé mọn nhất, và vào cuối đời chúng ta sẽ bị phán xét về câu trả lời tình thương của chúng ta” (Xc Mt 25,31-45).

Trong tư cách là môn đệ Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn luôn được mời gọi ”loan báo sự giải thoát cho những người đang là tù nhân của những hình thức nô lệ mới trong xã hội tân thời” (Misericordiae vultus, 16), đồng thời phải đào sâu tương quan giữa công lý và từ bi, là hai khía cạnh của cùng một thực tại duy nhất (Mis. vultus 20).

Sau cùng, Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân khuyến khích các giáo phận và các cộng đoàn Kitô đề ra những sáng kiến cử hành Ngày Thế giới di dân và tị nạn cũng như những công việc bác ái trong khuôn khổ Năm Thánh Lòng thương xót, không quên gây ý thức trong các cộng đoàn về hiện tượng di dân. Những điều này không phải chỉ thu hẹp trong Ngày Di dân mà thôi nhưng còn kéo dài. (SD 20-8-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Bánh trường sinh

Bánh trường sinh

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.

Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.

Cũng thế, Tần ThủyHoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.

Thưa anh chị em,

Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.

Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.

Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.

Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?

Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?

Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chúa Nhật.