Thư Đức Thánh Cha gửi các tín hữu Kitô Trung Đông

Thư Đức Thánh Cha gửi các tín hữu Kitô Trung Đông

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái bày tỏ sự gần gũi, tình liên đới và khích lệ các tín hữu Kitô tại Trung Đông, trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.

Trong thư công bố hôm 23-12-2014, gửi các tín hữu Kitô Trung Đông, nhân dịp lễ Giáng Sinh, ĐTC nhắc đến những đau khổ các tín hữu Kitô ở miền này phải chịu trong quá khứ gần đây, đặc biệt là những nạn nhân của tổ chức khủng bố ở mức độ không thể tưởng tượng được, với những lạm dụng đủ loại và những hành động không xứng đáng với con người. ĐTC không quên nhiều nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số khác cũng chịu bách hại và những hậu quả tương tự của các cuộc xung đột. Ngài viết:

”Đau khổ này kêu thấu tới Thiên Chúa và kêu gọi mọi người hãy dấn thân, trong kinh nguyện và mọi sáng kiến khác.. Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp tục gắn bó với Chúa Giêsu, như ngành gắn liền với thân cây nho, với xác tín mạnh mẽ rằng dù sầu muộn, lo âu hay bách hại cũng không thể tách rời anh chị em ra khỏi Chúa” (Xc Rm 8,35). Ước gì thử thách anh chị em đang trải qua củng cố niềm tin và lòng trung thành của tất cả anh chị em!”.

ĐTC cũng cầu xin Chúa cho các tín hữu Kitô Trung Đông có thể sống tình hiệp thông huynh đệ theo gương cộng động Kitô đầu tiên ở Jerusalem. ”Sự hiệp nhất như Chúa chúng ta mong muốn là điều cần thiết hơn bao giờ hết trong những lúc khó khăn này; đó là một hồng ân của Thiên Chúa, đang gọi hỏi tự do và chờ đợi câu trả lời của chúng ta. Ước gì Lời Chúa, các bí tích, kinh nguyện, tình huynh đệ, nuôi dưỡng và liên tục đổi mới các cộng đoàn của anh chị em”.

ĐTC cũng nhận định rằng ”Tình trạng anh chị em đang sống là một lời kêu gọi mạnh mẽ hãy sống thánh thiện, như các thánh và các vị tử đạo thuộc mọi hệ phái Giáo Hội làm chứng”. Trong bối cảnh này, ĐTC nhắc đến một số GM Chính Thống và LM thuộc các nghi lễ khác nhau đã bị bắt cóc và cầu mong các vị sớm được trở về nhà và cộng đoàn của mình bình an vô sự”.

Trong thư, ĐTC tiếp tục kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu giúp và đáp ứng nhu cầu của các tín hữu Kitô và các cộng đồng thiểu số khác đang chịu đau khổ. Ngài viết: ”Trước tiên cần cổ võ hòa bình nhờ thương thuyết và hoạt động ngoại giao, tìm cách ngăn chặn bạo lực càng sớm càng tốt đang gây ra quá nhiều thiệt hại. Tôi tái lên án nạn buôn bán võ khí. Đúng hơn, chúng ta đang cần những dự án và sáng kiến hòa bình để thăng tiến một giải pháp toàn diện cho các vấn đề của vùng Trung Đông. Cho đến bao giờ Trung Đông còn phải chịu đau khổ vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu những cuộc xung đột như thể đó là điều không thể thay đổi được!.. Ước gì việc cứu trợ nhân đạo được gia tăng, đặt thiện ích của con người và mỗi quốc gia ở vị thế trung tâm, trong niềm tôn trọng căn tính của họ, không đặt những lợi lộc khác lên trên. Ước gì toàn thể Giáo Hội và Cộng đồng quốc trể ngày càng ý thức về tầm quan trọng của anh chị em Kitô ở vùng Trung Đông!” (SD 23-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức hồng y Tauran được bổ nhiệm làm Hồng y Nhiếp chính

Đức hồng y Tauran được bổ nhiệm làm Hồng y Nhiếp chính

Cardinal Tauran

Hôm qua thứ Bảy 20-12-2014, Đức hồng y Jean-Louis Tauran đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm “Hồng y Nhiếp chính của Giáo hội Rôma”.

Chức vụ thuộc lĩnh vực quản trị này rất quan trọng trong thời gian Tòa Thánh “trống toà”, khi vị giáo hoàng đương nhiệm qua đời hay từ chức.
 
Khi ấy vị Hồng y Nhiếp chính có nhiệm vụ quản trị tài sản của Toà Thánh, với sự giúp đỡ của các vị Hồng y cho đến khi bầu được vị tân Giáo hoàng.
 
Chính vị Hồng y Nhiếp chính xác nhận và thông báo cái chết của Đức giáo hoàng, ấn định ngày cử hành tang lễ và triệu tập Công nghị Hồng y.
 
Vị Hồng y Nhiếp chính tiền nhiệm (từ năm 2007) là Đức hồng y Tarcisio Bertone. Đức hồng y Bertone, cựu Quốc vụ khanh Toà Thánh, vừa mừng sinh nhật lần thứ 80 của mình vào ngày 2-12 vừa qua và không còn trong danh sách hồng y cử tri nữa.
 
Đức hồng y Jean-Louis Tauran năm nay 71 tuổi, đã từng là “Bộ trưởng Ngoại giao” vào thời Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II từ năm 1990 đến 2003. Từ năm 2007, ngài là Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn.
 
Đức hồng y Tauran cũng là Hồng y trưởng đẳng phó tế, và do đó, ngày 13-03-2013 ngài đã công bố danh tính Đức tân Giáo hoàng (Đức giáo hoàng Phanxicô) sau khi có kết quả bầu giáo hoàng, với công thức Habemus Papam. Đức hồng y Tauran được Đức giáo hoàng bổ nhiệm vào đẳng “hồng y linh mục” ngày 12-06 vừa qua. Và Đức hồng y Renato Raffaele Martino trở thành Hồng y trưởng đẳng phó tế.
 
Cùng ngày 20-12, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm một Phó Nhiếp chính là Đức Tổng giám mục Giampiero Gloder, 55 tuổi, người gốc Padua. Từ tháng 9 năm 2013, Đức Tổng giám mục Gloder đã được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Ngoại giao Toà Thánh, trường dành riêng để đào tạo các linh mục sẽ phục vụ trong ngành ngoại giao của Toà Thánh.
 
Minh Đức

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.

Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.

Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giái Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.

Diễn từ của ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:

”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).

2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).

3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.

4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”

5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.

6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.
7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)

8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).

9. Bệnh 'ngồi lê đôi mách', lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!

10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.

11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!

12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.

12. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.

13. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).

14. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ – một điều mà LM này bịa đặt – về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!

ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.

Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 21-12-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 21-12-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 21-12-2014 với 30 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria mau lẹ ”xin vâng” đối với thánh ý Chúa.

Bài huấn dụ của ĐTC trước khi đọc kinh

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Hôm nay, chúa nhật thứ tư và là chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng, phụng vụ muốn chuẩn bị chúng ta mừng lễ Giáng Sinh nay đã đến ngưỡng cửa, bằng cách mời gọi chúng ta suy tư về trình thuật cuộc truyền tin của Sứ Thần cho Mẹ Maria. Thiên Thần Gabriel – có nghĩa là ”Sức mạnh của Thiên Chúa” – tỏ lộ cho Đức Trinh Nữ ý Chúa muốn Người trở thành Mẹ của Con duy nhất của Ngài: ”Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Hài Nhi sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,31-32). Chúng ta hãy ngắm nhìn thiếu nữ đơn sơ này ở thành Nazareth, trong lúc Người bày tỏ sự sẵn sàng đối với sứ điệp của Chúa; chúng ta hãy đón nhận 2 khía cạnh thiết yếu trong thái độ của Mẹ Maria, là mẫu mực cho chúng ta trong lúc chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

– Trước tiên là đức tin của Mẹ Maria, hệ tại lắng nghe Lời Chúa để phó thác cho Lời của Chúa trong thái độ hoàn toàn sẵn sàng trong tâm trí. Đáp lại Sứ Thần, Mẹ Maria nói: ”Này tôi là tôi tớ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo Lời Ngài” (v.38). Qua lời thưa ”Này tôi đây” tràn đầy niềm tin, Mẹ Maria không biết mình sẽ phiêu lưu qua những con đường nào, đâu là những đau khổ sẽ phải chịu, đâu là những rủi ro sẽ phải đương đầu. Nhưng Mẹ ý thức rằng chính Chúa yêu cầu và Mẹ hoàn toàn tín thác nơi Chúa và phó thác cho tình yêu Chúa.

– Một khía cạnh khác là khả năng của Mẹ Chúa Kitô nhìn nhận thời điểm của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người đã làm cho sự nhập thể của Con Thiên Chúa có thể tiến hành được, ”sự mạc khải mầu nhiệm được giữ trong im lặng của bao thế kỷ” (Rm 16,25), như thánh Phaolô đã viết. Mẹ đã làm cho sự nhập thể của Ngôi Lời nhà lời thưa ”xin vâng” khiêm tốn và can đảm. Mẹ Maria dạy chúng ta đón nhận thời điểm thuận tiện, trong đó Chúa Giêsu đi vào đời sống chúng ta và yêu cầu trả lời sẵn sàng và quảng đại. Thực vậy, mầu nhiệm giáng sinh của Chúa Giêsu tại Bethlehem, diễn ra trong lịch sử cách đây hơn kém 2 ngàn năm, được diễn ra như một biến cố tinh thần, trong ”ngày hôm nay” của Phụng Vụ. Ngôi Lời, tìm được nơi ở trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, trong lễ Giáng Sinh, Người đến tái gõ cửa tâm hồn mỗi người. Như Mẹ Maria, mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi thưa “xin vâng” với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.

”Bao nhiêu lần Chúa Giêsu đi qua trong cuộc đời chúng ta và bao nhiêu lần Chúa gửi một thiên thần đến với chúng ta: bao nhiêu lần chúng ta không ý thức điều đó, vì chúng ta quá bận rộn và chìm đắm trong những công việc của mình. Thậm chí cả trong việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh, chúng ta không thấy Chúa đi qua và gõ cửa lòng chúng ta, xin sự đón tiếp của chúng ta. Một vị thánh đã nói: ”Tôi sợ Chúa đi qua mất”. Anh chị em có biết tại sao vị thánh ấy sợ hãi hay không? Người sợ không nhận thấy và để Chúa đi qua luôn. Chúng ta cảm thấy trong tâm hồn mình ước muốn trở nên tốt lành hơn: Chúa gõ cửa và làm cho chúng ta cảm thấy muốn trở nên tốt lành, gần gũi Thiên Cháu hơn. Nếu bạn cảm thấy điều ấy, thì hãy dừng lại, đó chính là Chúa. Và hãy đi cầu nguyện, đi xưng tội. Đó là điều làm cho bạn được tốt lành. Vậy nếu bạn cảm thấy muốn trở nên thiện hảo, thì đó chính là Chúa đi qua. Đừng để Ngài đi mất!

Và ĐTC kết luận rằng:

”Trong mầu nhiệm giáng sinh, cạnh Mẹ Maria, có sự hiện diện âm thầm của thánh Giuse, như vẫn được diễn tả trong mỗi hang đá máng cỏ – như anh chị em có thể chiêm ngắm tại Quảng trường thánh Phêrô này. Gương của Mẹ Maria và thánh Giuse là một lời mời gọi mọi người chúng ta hãy đón nhận Chúa Giêsu với tất cả tâm hồn cởi mở, vì yêu thương, Ngài đã trở nên người anh của chúng ta. Chúa đến mang cho thế giới này hồng ân hòa bình ”Bình an dưới thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14), như đoàn thiên thần loan báo cho những người chăn chiên. Hồng ân quí giá của lễ Giáng Sinh là an bình, và Chúa Kitô chính là an bình đích thực của chúng ta.

”Chúng ta hãy phó thác cho lời chuyển cầu của Mẹ chúng ta và của thánh Giuse, để sống một lễ giáng sinh thực sự theo tinh thần Kitô, khỏi mọi thứ trần tục, sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu Thế, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Sau phép lành ĐTC còn chào thăm các tín hữu và nói rằng:

”Anh chị em thân mến, tôi chào thăm tất cả anh chị em, các tín hữu Roma và những tín hữu hành hương đến từ nhiều nước khác nhau; các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hội đoàn. Đặc biệt tôi chào thăm các bạn trẻ thuộc phong trào Focolari (Tổ Ấm), cộng đoàn ĐGH Gioan 23, các hướng đạo sinh Công Giáo ở khu vực Tor Sapienza, Roma.

Tôi cầu chúc tất cả anh chị em một chúa nhật tốt đẹp, một lễ giáng sinh hy vọng, đầu vui tươi và huynh đệ. Chúc anh chị em bữa trưa ngon lành và xin cầu nguyện cho tôi nữa.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Cộng đoàn Thánh Gioan 23

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Cộng đoàn Thánh Gioan 23

VATICAN. Sáng 20-12-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7,500 người thuộc Cộng đoàn thánh Gioan 23. Ngài khích lệ các thành viên cộng đoàn tiếp tục chăm sóc việc huấn luyện tinh thần và siêng năng lãnh nhận các bí tích.

Cộng đoàn thánh Gioan 23 do vị Tôi Tớ Chúa Linh mục Oreste Benzi người Italia sáng lập cách đây 46 năm (1968), chuyên giúp cai nghiện ma túy, phục hồi các phụ nữ phải hành nghề mại dâm và trợ giúp những người ở trong hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay cộng đoàn này hiện diện và hoạt động tại 34 quốc gia với các căn nhà gia đình, các hợp tác xã xã hội và giáo dục, các nhà cầu nguyện, các dịch vụ tháp tùng các phụ nữ mang thai gặp vấn đề, và các sáng kiến khác. 6 nước Á châu có các cộng đoàn Gioan 23 là Bangladesh, Trung Quốc, Ấn độ, Israel Palestine, Népal và Sri Lanka.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến của ĐTC tại thính đường Phaolô 6 sáng 20-12-2014, cũng có 18 Hồng y và GM, 1,800 trẻ vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi, 200 trẻ em và người lớn ngồi trên ghế lăn và nhiều người già.

Trước khi ĐTC đến, các tham dự viên đã sinh hoạt, ca hát, văn nghệ và nghe trình bày chứng từ. Khi ngài đến lúc quá 12 giờ trưa, sau lời chào mừng vị của vị tổng phụ trách, một cựu nữ mại dâm người Nigeria được cộng đồng thánh Gioan 23 giải thoát đã kể lại chứng từ. Khi còn là một thiếu nữ 18 tuổi, cô bị thân phụ bán sang Italia cho bọn ma-cô. Trong khi hành nghề mại dâm, cô có thai và sinh con. Sau đó cô được một thành viên cộng đồng Gioan 23 giúp tìm lại được tự do.

Tiếp đến một gia đình người du mục Rom được tiếp đón trong cộng đoàn này đã trình bày chứng từ với ĐTC và mọi người.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhận xét rằng ”những chuyện kể của anh chị em kể lại nói về sự nô lệ và giải thoát, về sự ích kỷ của những người muốn xây dựng cuộc sống của mình bằng cách bóc lột người khác, và về lòng quảng đại của những người giúp đỡ tha nhân trỗi dậy tình trạng lầm than vật chất và luân lý của họ”.

”Những kinh nghiệm đó cho thấy bao nhiêu hình thức nghèo đói làm cho thế giới chúng ta bị thương tổn; chúng cũng tỏ lộ tình trạng lầm than nguy hiểm nhất, nguyên nhân của tất cả những lầm thang khác chính là sự xa lìa Thiên Chúa, tưởng mình có bất cần Thiên Chúa. Thật là một sự lầm than mù quáng khi coi mục đích đời mình là sự giàu sang vật chất, tìm kiếm quyền lực và lạc thù, nô lệ hóa cuộc sống tha nhân để đạt tới mục tiêu của mình”.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy để cho sự hiện diện của Chúa mở rộng chân trời, chữa lành tư tưởng và cảm xúc của mình. Sự hiện diện ấy mang lại cho chúng ta sức mạnh cần thiết để vượt thắng những khó khăn và thử thách. Nơi nào có Chúa Giêsu, thì có sự sống lại, có sự sống, vì chính Chúa là sự phục sinh và là sự sống”. (SD 20-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Khiêm nhường đón nhận.

Khiêm nhường đón nhận

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?

2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?

3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?

4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.

Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"

Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 – 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.

Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.

Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.

Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 – 27.

Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.

Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).

Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.

Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.

Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Tôi tớ

Tôi tớ

Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?

Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.

Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.

Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:

Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.

Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.

Sưu tầm

Thiên Chúa viếng thăm dân Người

Thiên Chúa viếng thăm dân Người

Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.

Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.

Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: "Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc".

Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: "Cô có phải là Thượng đế không?".

Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: "Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế".

Quả thực, "chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi". Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.

Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2,000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.

Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.

Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.

Ước gì trong mùa Giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha tiếp kiến 5 ngàn thành viên Ủy ban Olympic Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến 5 ngàn thành viên Ủy ban Olympic Italia

VATICAN. Sáng 19-12-2014, ĐTC đã tiếp kiến ban lãnh đạo và các vận động viên thuộc Ủy ban quốc gia Italia về thế vận Olimpic. Ngài đặc biệt khích lệ công tác giáo dục của Ủy ban này tại các học đường.

Ủy ban thế vận Olimpic Italia gọi tắt là CONI, được thành lập cách đây đúng 100 năm.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến châm ngôn của thế vận Olimpic là ”nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn” (Citius, altius, fortius). Ngài nói: “Châm ngôn này không phải là một sự kích thích quốc gia này hơn quốc gia khác, dân tộc này hơn dân tộc khác, và cũng không hề nhắm loại trừ những người yếu đuối, ít được bảo vệ hơn. Trái lại nó là một thách đố mà tất cả chúng ta được mời gọi đương đầu, chứ không phải chỉ có các vận động viên mà thôi: đó là thách đố đảm nhận sự vất vả, hy sinh, để đạt tới những mục tiêu quan trọng trong cuộc sống, chấp nhận những giới hạn của mình, và không để cho chúng ngăn chặn, trái lại tìm cách khắc phục chúng”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi mời gọi anh chị em hãy tiếp tục con đường đó. Tôi khuyến khích công tác giáo dục của anh chị em tại các trường học, cũng như trong giúp lao động và tình liên đới, để cổ võ một nền thể thao mà mọi người có thể thực hiện, quan tâm đến những người yếu hơn, tới những giai tầng bấp bênh hơn trong xã hội; một nền thể thao bao gồm cả những người có những khuyết tật khách nhau, người nước ngoài, những người sống bên lề, và cầng được không gian gặp gỡ, có những giao tiếp xã hội, chia sẻ và các trp chơi; một nền thể thao không nhắm tới những gì là hữu ích, nhưng nhắm phá triển con người, trong tinh thần nhưng không”. (SD 19-12-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐTC HÀI LÒNG VÌ HOA KỲ VÀ CUBA TÁI LẬP LIÊN LẠC NGOẠI GIAO

ĐTC HÀI LÒNG VÌ HOA KỲ VÀ CUBA TÁI LẬP LIÊN LẠC NGOẠI GIAO

VATICAN: ĐTC Phanxicô đã rất hài lòng vì Hoa Kỳ và Cuba đã tại lập liên lạc ngoại giao với nhau để thắng vượt các khó khăn đã có trong lịch sử giữa hai nước và vị lợi ích của người dân.

Trong thông cáo công bố ngày 18-12 Phủ Quốc Vụ Khanh cũng cho biết ĐTC đã viết thư cho tổng thống Barack Obama và chủ tịch Raul Castro để mời gọi hai người giải quyết các vấn đề nhân đạo có lợi chung, trong đó có tình trạng của vài tù nhân, hầu bắt đầu một giai đoạn mới trong tương quan giữa hai bên. Hồi tháng 10 năm nay Toà Thánh đã tiếp đón phái đoàn của hai nước và đã cống hiến các văn phòng của mình cho một cuộc đối thoại xây dựng liên quan tới các đề tài tế nhị, từ đó đã nảy sinh các giải pháp thoả đáng cho cả hai bên. Tòa Thánh sẽ tiếp tục bảo đảm sự ủng hộ cho các sáng kiến mà hai nước sẽ đề ra để gia tăng các liên lạc song phương tạo thuận lợi cho hạnh phúc của công dân hai nước (SD 18-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và mọi dân tộc

Trong tháng giêng năm 2015 tới đây Đúc Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

Khi duyệt xét nhiều lãnh vực cuộc sống con người trên thế giới, chúng ta phải thừa nhận các tiến bộ kỹ thuật cũng như các cơ cấu xã hội đạt được cho phép con ngưòi có một cuộc sống khỏe mạnh hơn, an ninh hơn và trường thọ hơn.
Nhưng các tin tức đó thường chỉ liên quan tới các nước kỹ nghệ giầu, trong khi tại nhiều quốc gia nghèo khác người dân không có đủ lương thực, an ninh và sức khỏe, vì có rất nhiều người chết vì đói khát và bệnh tật. Đây là lý do tại sao hàng năm trong “Ngày lương thực thế giới” các Giáo Hoàng thường nhắc lại cùng các vấn đề, cùng các tham vọng và lời van xin các chính quyền, các tổ chức trên thế giới coi nhân phẩm của từng người là ưu tiên tuyệt đối trong mọi hoạt động.

Ngày 16 tháng 5 năm 2013 trong buổi tiếp tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận các tiến bộ đáng ca ngọi trong các lãnh vực y tế, giáo dục, và truyền thông. Nhưng ngài cũng nhận xét rằng có biết bao nhiêu người trong thời đại này còn đang phải sống trong cảnh tạm bợ thường ngày với các hậu qủa đáng buồn. Một số bệnh tật gia tăng với các hậu quả tâm thần; sợ hãi và tuyệt vọng xâm chiếm con tim của nhiều người ngay trong các nước giầu; niềm vui sống thuyên giảm; sỗ sàng và bạo lực lan tràn; và nghèo túng càng gia tăng hơn nữa. Phải tranh đấu để sống và sống một cách xứng đáng hơn. Một trong những lý do của tình trạng này là nơi tương quan của chúng ta với tiền bạc và việc chúng ta chấp nhận sự thống trị của nó trên con người và trên các xã hội của chúng ta. Như thế cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua khiến cho chúng ta quên đi nguồn gốc đầu tiên của nó là cuộc khủng hoảng nhân chủng sâu rộng. Là việc khước từ quyền tối thượng của con người. Người ta đã tạo ra các thần tượng mới. Việc tôn thờ con bò vàng xưa kia giờ đây đã tìm ra một gương mặt mới và tàn nhẫn của việc tôn thờ tiền bạc và trong sự độc tài của kinh tế không gương mặt, cũng không có mục đích thật sự nhân bản.

Cuộc khủng hoảng quốc tế trong các lãnh vực tài chánh và kinh tế xem ra đưa ra ánh sáng các méo mó lệch lạc và nhất là sự yếu kém to lớn trong định hướng nhân chủng học của chúng, giản lược con người vào một nhu cầu duy nhất trong các nhu cầu của nó: đó là tiêu thụ. Tệ hơn nữa là chính con người ngày nay lại bị coi như một sản phẩm tiêu thụ, có thể sử dụng, rồi vứt bỏ… Trong một bối cảnh như thế tình liên đới là kho tàng của người nghèo bị coi như chống sản xuất, trái nghịch với tính hợp lý tài chánh và kinh tế. Và khi nguồn thu nhập của một thiểu số gia tăng theo hàm số mũ, thì thu nhập của đại đa số yếu kém đi.

Tiếp tục diễn văn nói với tân đại sứ các nước Kirghizistan, Antigua-et-Barbuda, Luxembourg và Botswana cạnh Tòa Thánh,
Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng sự mất quân bình này phát xuất từ các ý thức hệ thăng tiến sự độc lập tuyệt đối của các thị trường và đầu cơ tích trữ tài chánh, khước từ quyền kiểm soát của các chính quyền có nhiệm vụ lo lắng cho công ích. Một chế độ độc tài vô hình, đôi khi tiềm thể, được thiết đặt, và áp đặt các luật lệ và và mực thước của nó, một cách không thể cứu vãn được nữa. Ngoài ra nợ nần và tín dụng khiến cho các nước xa rời nền kinh tế thực sự của mình. Thêm vào đó là nạn gian tham hối lộ len lỏi và nạn trốn thuế ích kỷ với các chiều kích quốc tế. Ý muốn quyền lực và chiếm hữu đã trở thành vô hạn.

Đàng sau thái độ đó ẩn nấp sự khưóc từ luân lý đạo đức, khước từ Thiên Chúa. Cũng như tình liên đới, luân lý đạo đức phá rối. Nó bị coi như chống sản xuất, cũng như qúa nhân bản, vì nó tương đối hóa tiền bạc và quyền bính; nó bị coi như một sự đe dọa, vì nó chối bỏ sự lèo lái và bắt con người phục tùng. Vì luân lý đạo đức dẫn tới Thiên Chúa, là Đấng ở ngoài các phạm trù của thị trường. Vì là Đấng không thể kiểm soát đuợc nên Thiên Chúa bị các nhà tài chánh, kinh tế và chính trị coi là nguy hiểm, vì Ngài kêu gọi con người hiện thực tràn đầy chính mình và độc lập khỏi mọi kiểu nô lệ. Luân lý đạo đức – dĩ nhiên là một thứ luân lý đạo đức không ý thức hệ – cho phép tạo ra một thế quân bình và trật tự xã hội nhân bản hơn. Trong nghĩa đó tôi khích lệ các bậc thầy tài chánh và các chính quyền suy xét các lời này của thánh Gioan Kim Khẩu: “Không cho các người nghèo tham dự vào của cải của họ là ăn cắp và lấy mất đi cuộc sống của họ. Chúng ta không cầm giữ của cải của chúng ta nhưng cầm giữ của cải của họ” (Bài giảng về Ladarô, 1,6; PG 48,992D).

Và Đức Thánh Cha Phanxicô kết thúc bài diễn văn nhu sau: Quý đại sứ thân mên, thật đáng cầu chúc việc thực hiện một cuộc cải cách tài chánh có luân lý đạo đức kéo theo một cuộc canh cải kinh tế lành mạnh cho tất cả mọi người. Tuy nhiên diều này sẽ đòi hỏi một thay đổi thái độ can đảm của hàng lãnh đạo chính trị… Tiền bạc phải phục vụ chứ không cai trị. Giáo Hoàng yêu thương mọi người: người giầu cũng như người nghèo. Nhưng Giáo Hoàng cũng có bổn phận, nhân danh Chúa Kitô, nhắc nhở người giầu phải giúp người nghèo, tôn trọng họ và thăng tiến họ. Giáo Hoàng mời gọi tình liên đới vô vị lợi và sự trở lại của luân lý đạo đức cho con người trong thực tại tài chánh và kinh tế.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng giêng tới này hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho việc thăng tiến một sự phát triển kinh tế biết tôn trọng phẩm giá của mọi người và của mọi dân tộc.

(Ý chỉ chung tháng 1 năm 2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Ngày mùng 6 tháng 12 vừa qua Trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ tại Roma đã tổ chức ngày hội học về đề tài “Tình trạng của các phương tiện truyền thông”. Tham dự ngày hội học này có nhiều nhà báo quốc tế trong đó có ông Jeff Fager, giám đốc đài phát thanh truyền hình CBS và ông Ed O’Keefe, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN.

Sau đây là một số nhận định của hai nhà báo này đối với khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô, qua bài phỏng vấn dành cho phái viên Alessandro Gisotti của đài Vaticăng. Đối với họ Đức Thánh Cha Phanxicô là một nhà truyền thông xuất sắc, vì với các lời nói, cử chỉ và cung cách sống và hành xử của mình ngài đã lôi cuốn được tín hữu và các đám đông dân chúng. Chỉ cần theo dõi các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần và buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật với số người tham dự tới năm, sáu, bẩy chục ngàn hay đôi khi dông hơn, thì đủ hiểu sức thu hút của Đức Phanxicô. Đặc biệt là các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần đã biến thành lễ hội, trong đó người già, ngưòi lớn, và nhất là trẻ em và giới trẻ không ngừng gân cổ lên gọi tên ngài, và tặng ngài đủ thứ, mũ calốt, áo thể thao, kể cả nước ngọt nữa. Và Đức Phanxicô vui vẻ uống ngay trước mặt mọi người. Niềm vui của các bà mẹ là đưa con cho các cận vệ bế chúng lên để cho Đức Giáo Hoàng hôn, chúc lành, xoa đầu và vuốt ve chúng. Khi có đông người đau yếu tàn tật ngồi trên xe lăn, Đức Thánh Cha dành cả giờ đồng hồ để bắt tay, ôm hôn, an ủi và nói chuyện với từng người. Đức Phanxicô cũng chân thành trả lời mọi câu hỏi của giới báo chí về mọi vấn đề, một cách rất thành thật, tự nhiên, mà không hề tránh né.

Sau đây là một số nhận xét của ông Jeff Fager.

Hỏi : Thưa ông Fager ông nhận thấy khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô như thế nào ?

Đáp : Đức Thánh Cha là một nhà truyền thông xuất sắc, một trong những nhà truyền thông xuất sắc nhất thế giới. Tôi tin rằng khi bạn có thể nói với các đám đông rộng rãi như thế – và cả khi bạn nói chuyện với các nhóm nhỏ đi nữa – thì là một cơ may phải được đánh giá cao và được sử dụng tốt nhất có thể. Tôi không nhớ đã có bình luận gia nào hay như vị Giáo Hoàng này: ngài đã thu hút thế giới một cách nhanh chóng như vậy, đến độ thay đổi các ý kiến về Giáo Hội. Chỉ một mình thôi mà ngài đã gây ra một va chạm rất mạnh trên cảm quan của người Mỹ đối với Giáo Hội công giáo trong vòng một thời gian thật rất là ngắn, và điều này có nghĩa ngài là một nhà truyền thông xuất sắc !

Hỏi : Ngài là một nhà truyền thông lớn mà người ta nhận thức được rằng ngài chân thành, đáng tin cậy, có đúng thế không thưa ông ?

Đáp : Vâng, đúng như vậy. Ngài đáng tin cậy, bạn tin tưởng nơi ngài, bạn tin ngài… và ngài mang tới một sứ điệp rất đơn sơ : ngài nói về loài người, về việc Giáo Hội đáng lẽ ra phải hành xử như thế nào trong thế giới, và điều đó được loan truyền. Tôi tin rằng Giáo Hội cần có một sự thay đổi lớn, và ngài là người có cung cách quản lý các biểu tượng bao quanh mình đã tạo được các thay đổi lớn : kiểu sống của Đức Phanxicô, kiểu ngài du hành, sự kiện ngài ở trong một ngôi nhà rất đơn sơ đã là điều đó… Qúy vị thấy không, tất cả những gì bao quanh con người nói lên rất nhiều về con người ấy và về sứ điệp ở đây là của Đức Phanxicô, và tôi tin rằng điều này vẽ nên một bức tranh rất tích cực về Giáo Hội.

Hỏi : Thưa ông, đề tài của ngày học hỏi là « Tình trạng của các phương tiện truyền thông xã hội » có cho chúng ta một ý tưởng liên quan tới các khuynh hướng quan trọng nhất ngày nay không, mặc dù điều này khó có thể truy lùng ra ?

Đáp : Ô, tất cả đều đang thay đổi rất là nhanh chóng và trên mức thang rộng rãi. Có các phương tiện truyền thông mới đang xâm lấn : đó là các phương tiện truyền thông số hay truyền thông vi tính. Chúng lớn mạnh và lớn lên với cả sự hứng khởi nữa. Tuy nhiên, trong chương trình của đài CBS dài 60 phút, điều thôi thúc chúng tôi đó là duy trì phẩm chất của nó. Chúng tôi theo sát nguyên tắc đó là cần phải tường thuật sự kiện một cách đúng đắn và để mọi người có thể hiểu được. Đó là điều mà các khán thính giả của đài mong chờ nơi chúng tôi. Người ta có thói quen thông tin một cách nhanh chóng, trong bầu không khí ngày nay với tất cả các sân chơi mới của truyền thông, và tất cả các phương tiện truyền thông xã hội người ta có ngày nay. Nhưng chúng tôi muốn chắc chắn luôn luôn cống hiến cho khán thính giả của chúng tôi việc hiểu biết tốt nhất về một sự kiện.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Ed O’Keele, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN của Hoa Kỳ.

Hỏi : Thưa ông O’Keele, ông nghĩ gì về gương mặt của Đức Thánh Cha Phanxicô ?

Đáp : Thật là hay, Đức Thánh Cha Phanxicô là một «
nhân vật-hiện tượng toàn cầu », bình dân kinh khủng, tới nỗi không cần phải có các phương tiện truyền thông lớn. Ngài có thể gọi một hãng thông tin Argentina, ít được biết tới, phỏng vấn hơn là để cho một mạng lưới lớn phỏng vấn ngài. Ngài không cần một cuộc phỏng vấn lớn toàn cầu. Dù sứ điệp của ngài có bất cứ là gì đi nữa, mà ngài diễn tả qua điện thoại cho bất cứ người nào trên thế giới, hay nói với một nhật báo nhỏ đi nữa, cũng vẫn nhận được sự chú ý trên bình diện quốc tế. Ngài là một «
người truyền thông hiện tượng ». Tôi tin rằng quyền năng to lớn của ngài là nơi sự kiện ngài là «
một người có thể đạt tới được », nó cho thấy khiá cạnh cá nhân nhất của ngài, là « chường mình ra » một cách chưa từng thấy.

Hỏi : Có lẽ chúng ta đã trông thấy với Đức Gioan Phaolô II, chứ thưa ông

Đáp : Có thể, vâng, tôi muốn nói. Tôi đã biết một số các nhà báo đã theo dõi các sinh hoạt của Đức Gioan Phaolô II, và họ đã có các cuộc nói chuyện lâu với Đức Giáo Hoàng. Họ đã du hành ra nước ngoài với ngài, và đã nói chuyện với ngài, vì trên máy chính ngài đã đi tìm các nhà báo và nói chuyện với họ, đó đã là các cuộc nói chuyện dài… Ngài là người có thể tiếp xúc và không sợ hãi phải đôi diện với giới báo chí và thông truyền tư tưởng, có khi trước cả khi các tư tưởng ấy thành hình nữa: không phải vì sự kiện đơn sơ Đức Giáo Hoàng đã nói mà nó phải trở thành giáo lý của Giáo Hội. Nhưng nếu bạn sợ phải nói bất cứ điều gì đó, thì bạn sẽ không bao giờ thành công trong việc làm một cuộc đối thoại. Và rõ ràng là ngài không sợ trao đổi các câu chuyện và linh hoạt một cuộc đối thoại.

Hỏi : Theo ý ông và theo kinh nghiệm của đài CNN, các phương tiện truyền thông đang nhào nắn lại kiểu thông tin của ngưởi ta như thế nào ?

Đáp : Các phương tiện truyền thông đã biến đổi hoàn toàn kiểu đạt tới khán thính giả của chúng tôi. Tương lai của các phương tiện truyền thông là «di động » và « xã hội ». Giờ đây chúng tôi đang tạo ra các nội dung chuyên nhất và ngay từ nguồn gốc chúng đã được nghĩ cho một đối tượng xã hội, bởi vì chúng tôi biết rằng ở đó có công chúng của mình. Chúng tôi sẽ tạo ra một chương trình khác cho truyền hình, cho trang Web, cho điện thoại di động, cho Facebook và cho Twitter…

Hỏi : Kiểu này thật là khó đối với các phương tiện truyền thông cổ điển, nó là một thách đố… Đài CNN là một đài truyền hình dùng dây cáp, hay ngày nay khó mà cho rằng đài CNN chỉ là một đài dây cáp ?

Đáp : Vâng, thật đúng như thế. Các phương tiện truyền thông cổ điển cần phải tự phá vỡ hay sẽ bị phá vỡ. Nếu một phương tiện truyền thông cổ điển chỉ tự coi mình là một mà thôi – chỉ là nhật báo, chỉ là truyền hình, chỉ là nguyệt san – thì sẽ đánh mất đi « thời vàng son » của nghành báo chí, bởi vì các người tiêu thụ đã quyết định rồi. Các người tiêu thụ, công chúng đang hướng tới sự « di động », và « xã hội » Họ nhận các tin tức chắc chắn là từ nhiều nguồn khác nhau, như chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

(RG 7.8-12-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

ĐỨC THƯỢNG PHỤ CHÍNH THỐNG HY LẠP ANTIOCHIA TÁI KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO VÙNG CẬN ĐÔNG

ĐỨC THƯỢNG PHỤ CHÍNH THỐNG HY LẠP ANTIOCHIA TÁI KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO VÙNG CẬN ĐÔNG

ROMA: Đức Thượng Phụ chính thống Hy Lạp Antiochia Gioan X Yazigi lại vừa lên tiếng kêu gọi hòa bình cho vùng Cận Đông.

Đức Thượng phụ Gioan X hiện đang viếng thăm Hoa Kỳ nhân lễ nhậm chức của đức Giám Mục Joseph, đại diện của giáo hội chính thống Hy Lạp tại Hoa Kỳ. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho trang mạng Al – Monitor và được nhật báo Quan Sát Viên Roma đăng lại, Đức Thượng phụ Gioan X đã mời gọi tất cả các chính quyền trên thế giới hãy dấn thân đem lại hòa bình qua đối thoại cho vùng Cận đông. Ngài nói: Nếu quý vị muốn giúp đỡ chúng tôi là các tín hữu ky tô, bảo vệ chúng tôi trong tư cách là ky tô hữu, thì quý vị phải tìm một phương thế đem lại hòa bình cho Siria và toàn vùng Cận Đông. Quý vị không thể chỉ bảo vệ riêng tôi mà không chú ý đến người hàng xóm đang gặp khó khăn của tôi được. Chúng tôi tin rằng giải pháp cho vấn đề này không phải là gửi chiến hạm hay tàu bè đến để đánh nhau hay để di chuyển chúng tôi đi nơi khác, nhưng là cắt nguồn tài trợ và ngưng cung cấp vũ khí cho các nhóm nổi loạn. Đức Thượng phụ giải thích rằng cần phải thực hiện hai điều: tìm ra một giải pháp hòa bình cho Siria và làm sao để các tín hữu ky tô có thể tiếp tục sinh sống tại đây. Ngài nói: Chúng tôi không phải là khách qua đường hay người đến thăm viếng nơi đây. Chúng tôi sinh ra tại đây, đã sống và sẽ tiếp tục sống tại đây, dù là Siria, hay Irak hoặc Liban. Ngài cũng tỏ ra rất lo âu vì không có tin tức gì của người anh em là Đức Giám mục chính thống hy lạp giáo phận Aleppo, bị bắt cóc biệt tích từ tháng tư năm 2013 cùng với Đức cha Gregorios Yohanna Ibrahim, Giám Mục chính thống siro.

Tất cả 270 giáo xứ chính thống Hy Lạp hiện diện trên lãnh thổ Hoa Kỳ đều tiếp tục gửi tiền bạc và phẩm vật cứu trợ cùng với nỗ lực ủng hộ tinh thần về cho các anh chị em đồng đạo đang phải sống trong lo âu đau khổ. Và Đức Thượng phụ Gioan X cho biết là tòa thượng phụ Antiochia trợ giúp tất cả mọi người, ky tô cũng như hồi giáo không loại trừ ai. Ngài nói: Đó là sứ mệnh của chúng tôi, là bản chất và là điều mà chúng tôi tin tưởng.” (FIDES 171214)

Mai Anh

Gia đình là ơn lớn lao Thiên Chúa ban cho thế giới

Gia đình là ơn lớn lao Thiên Chúa ban cho thế giới

Lễ Giáng Sinh gần tới thắp lên một ánh sáng lớn trên mầu nhiệm ơn gia đình. Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong một gia đình tại Nagiarét. Cũng như Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mọi gia đình có thể tiếp đón Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, giữ gìn Người, che chở Người, lớn lên với Người và như thế cải thiện thế giới.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 17-12-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói: Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành đã là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Lời cầu nguyện và suy tư phải đồng hành với lộ trình này liên quan tới toàn Dân Chúa. Tôi cũng muốn rằng các suy tư thường lệ của các buổi tiếp kiến ngày thứ tư được lồng vào trong lộ trình chung này. Vì thế tôi đã quyết định cùng anh chị em trong năm này suy tư về gia đình, về ơn lớn lao mà Chúa đã ban cho thế giới ngày từ đầu, khi trao phó cho Ađam và Evà sứ mệnh sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy trái đất (St 1,28). Ơn đó Chúa Giêsu đã minh xác và đóng ấn trong tin mừng của Người. Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Lễ Giáng Sinh đến gần thắp lên một ánh sáng lớn trên mầu nhiệm này. Sự nhập thể của Con Thiên Chúa mở ra một khởi đầu mới trong lịch sử đại đồng của người nam và người nữ. Và khởi đầu mới này xảy ra trong một gia đình tại Nagiarét. Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình. Ngài đã có thể đến một cách đặc biệt như một chiến sĩ, một hoàng đế… Nhưng không, Ngài đến như con của một gia đình, trong một gia đình. Đây là điều quan trọng. Hãy nhìn vào hang đá, cảnh này đẹp biết bao!

Thiên Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập. Người đã thành lập nó trong một làng quê hẻo lánh vùng ngoại biên của đế quốc Roma. Không phải tại Roma, là thủ đô của Đế quốc. không phải trong một thành phố lớn, nhưng trong một vùng ngoại biên, hầu như vô hình, hơn thế nũa còn mang tiếng xấu. Các Phúc Âm cũng nhắc tới điều này, như thể là một kiểu để nói rằng: “Đời nào từ Nagiarét lại có thể phát xuất điều gì tốt lành sao?” (Ga 1,46). Có lẽ trong nhiều phần đất trên thế giới chúng ta cũng còn nói như vậy, khi nghe tên của vùng ngoại ô nào đó của một thành phố lớn. Thế nhưng chính từ đó, từ vùng ngoại biên của Đế quốc vĩ đại, đã khởi đầu lịch sử thánh thiện và tốt lành nhất: lịch sử của Chúa Giêsu giữa loài người! Và ở đó có gia đình Nagiarét.

Chúa Giêsu đã sống trong vùng ngoại biên ấy 30 năm. Thánh sử Luca tóm tắt giai đoạn này như sau: Chúa Giêsu “vâng phục các Ngài” nghĩa là Mẹ Maria và Cha thánh Giuse.
Có người có thể hỏi: Vì Thiên Chúa này đến cứu chúng ta mà đã mất đi 30 năm ở dó, trong vùng ngoại biên mang tiếng xấu sao? Người đã mất 30 năm. Và Người đã muốn điều này. Con đường của Chúa Giêsu là trong gia đình ấy.

Và mẹ giữ gìn mọi sự ấy trong tim, và Chúa Giêsu đã “lớn lên trong khôn ngoan, tuổi tác và ơn thánh trước mặt Thiên Chúa và loài người” (Lc 2,51-52). Người ta không nói tới các phép lạ hay các chữa lành – Người đã không làm phép lạ nào – người ta không nói tới các giảng dậy và đám đông chạy tới với Người. Tại Nazareth mọi sự xem ra xảy ra “một cách bình thường” theo các thói quen của một gia đình do thái đạo hạnh và cần mẫn: làm việc, người mẹ nấu nướng, làm mọi việc nhà, ủi áo, mọi việc mà một bà mẹ làm. Người cha thợ mộc làm việc, dậy con làm việc. Ba mươi năm: cha ơi, uổng phí qúa! Nhưng chúng ta đâu có biết. Các con đưòng của Thiên Chúa nhiêm mầu. Nhưng điều quan trọng ở đó là gia đình! Và đó đã không phải là uổng phí nhé. Các vị đã là các đại thánh: Đức Maria là ngưòi phụ nữ thánh thiện nhất, vô nhiễm nhất, và thánh Giuse là người công chính nhất… Gia đình.

Chắc chắn chúng ta sẽ cảm động vì câu chuyện kể lại Chúa Giêsu thiếu niên đương đầu với các buổi hội họp của cộng đoàn tôn giáo và các bổn phận của cuộc sống xã hội; khi biết Người đã làm việc như thế nào với thánh Giuse như là người thợ trẻ; và rồi kiểu Người tham dự việc lắng nghe Thánh Kinh, cầu nguyện với các Thánh vịnh và tham dự biết bao sinh hoạt quen thuộc khác của cuộc sống thường ngày. Các Phúc Âm, trong sự giản dị, đã không kể lại gì về tuổi thanh niên của Chúa Giêsu và để nhiệm vụ đó cho việc suy niệm yêu mến của chúng ta. Chắc chắn không khó tưởng tượng cảnh các bà mẹ có thể học hỏi nơi các quan tâm của Mẹ Maria đối với Người Con ấy! Và các người cha có thể rút tỉa ra từ gương của thánh Giuse, người công chính tận hiến đời mình để nâng đỡ và bảo vệ con trẻ và vợ, bảo vệ gia đình mình trong những giai đoạn khó khăn! Để không nói rằng các người trẻ có thể được khích lệ bởi Chúa Giêsu thanh niên hiểu sự cần thiết và vẻ đẹp của việc vun trồng ơn gọi sâu xa hơn của mình, và mộng ước lớn lao!

Và Chúa Giêsu đã vun trồng trong 30 năm đó ơn gọi của Người mà vì nó Thiên Chúa cha đã gửi Người xuống thế, đúng không? Thiên Chúa của Cha. Chúa Giêsu đã không bao giờ chán nản trong thời gian ấy, nhưng đã can đảm lớn lên để tiến tới với sứ mệnh của mình.

Dức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ như sau:

Mỗi gia đình kitô – như Mẹ Maria và Cha thánh Giuse đã làm – có thể trước hết tiếp đón Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế cải tiến thế giới. Chúng ta hãy dành chỗ trong trái tim và ngày sống cho Chúa. Mẹ Maria và Cha thánh Giuse cũng đã làm như thế, và điều này không dễ: các ngài đã phải vượt thắng biết bao nhiêu khó khăn! Đó đã không phải là một gia đình gỉa tạo, đó đã không phải là một gia đình không thật. Thánh gia Nagiarét khiến cho chúng ta dấn thân tái khám phá ra ơn gọi và sứ mệnh của gia đình, của mỗi gia đình. Và cũng như đã xảy ra tại Nagiarét, có thể xảy ra cho chúng ta: khiến cho tình yêu trở thành bình thường chứ không phải hận thù, làm cho sự trợ giúp nhau trở thành điều chung, chứ không phải sự thờ ơ hay thù nghịch. Như vậy không phải tình cờ mà Nagiarét có nghiã là “Người canh giữ”, như Phúc Âm nói Đức Maria “giữ gìn mọi điều ấy trong tim mình” (Lc 2,19.51) Kể từ đó, mỗi khi có một gia đình giữ gìn mầu nhiệm này, cả khi có ở ngoại biên của thế giới đi nữa, thì mầu nhiệm của Chúa Giêsu đến cứu chúng ta hoạt động. Và Người đến để cứu rỗi thế giới. Và sứ mệnh lớn của gia đình là ở đó: dành chỗ cho Chúa Giêsu đến, tiếp nhận Chúa Giêsu trong gia đình, nơi con người của con cái, của chồng vợ, của ông bà, Chúa Giêsu ở đó. Tiếp đón Người ở đó để Người lớn lên trong gia đình, trong tinh thần. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn này trong các ngày cuối cùng trước lễ Giáng Sinh.

Đức Thánh Cha đã chào các doàn hành hương đến từ Bắc Mỹ và các nước Âu châu, cũng như từ Mêhicô, Argentina, Brasil và các nước châu Mỹ Latinh khác. Ngài chúc mọi người một lễ Giáng Sinh tươi vui và năm mới 2015 an lành hạnh phúc.

Chào các tín hữu vùng Trung Đông ngài nói:
trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa hạ mình xuống trần gian, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn. Ngài mời gọi chúng ta nên giống Ngài. Xin Đức Trinh Nữ Marria Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta giúp chúng ta nhận ra gương mặt của Thiên Chúa làm người nơi gương mặt của tha nhân, cách riêng nơi những ngưòi yếu đuối nhất và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội.

Với các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha cầu chúc họ một lễ Giáng Sinh thánh đức và một Năm mới nhiều tươi vui, an lành. Ngài xin Đấng Emmanuel, Hoàng Tử Hòa Bình, chiếu dãi ánh sáng hy vọng và tình yêu của Ngài trên từng người và gia đình họ.

Với các nhóm tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các sinh viên Đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ, cộng đoàn Đạo binh Chúa Kitô với các tân linh mục, các cặp vợ chồng nhảy Tango quy tụ về Roma biểu diễn chúc mừng sinh nhật thứ 78 của Đức Thánh Cha. Ngài khích lệ mọi người dấn thân sống những ngày này trong lời cầu nguyện và làm các việc lành để biến cố Chúa giáng sinh làm cho con tim được tràn ngập niềm vui mà Ngài muốn ban cho mọi người.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiếp nhận mầu nhiệm Bethlem với cùng niềm tin Mẹ Maria đã tiếp nhận lời truyền tin của thiên thần Gabriel. Ngài khuyên các bệnh nhân kín múc nơi Mẹ niềm vui và sư bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho thế giới. Sau cùng ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn hãy biết noi gương Mẹ qua việc cầu nguyện và sống các nhân đức.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

NẠN CƯỚP ĐẤT CỦA KITÔ HỮU VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO BÊN PAKISTAN

NẠN CƯỚP ĐẤT CỦA KITÔ HỮU VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO BÊN PAKISTAN

KASUR: Trong những ngày vừa qua luật sư công giáo Sardar Mushtaq Gill đã mạnh mẽ tố cáo nạn cướp đất đai của Kitô hữu và của Giáo Hội công giáo tại Pakistan.

Là người chuyên tranh đấu cho nhân quyền, luật sư cho biết hiện tượng này do các đại điền chủ và người quyền thế hồi chủ mưu, bằng cách lạm dụng quyền bính của họ để ăn cướp đất đai, nhà cửa và ruộng vườn của các gia đình kitô và của Giáo Hội một cách có hệ thống. Hiện tượng ăn cướp này nấp sau bình phong che đậy của các vụ đặt điều vu khống kitô hữu nói phạm thượng, khiến kitô hữu sợ hãi bỏ trốn hay bị loại trừ. Điển hình như trường hợp của một người thợ kitô vùng Pattoki phải bỏ nhà đi làm tại một lò gạch xa. Một người hồi đã chiếm nhà ông. Khi biết tin chiếm nhà bất hợp pháp gia đình này đã về đòi lại, nhưng bị đe dọa và đánh đập. Hiện nay họ được Giáo Hội Anh giáo Pakistan che chở và giúp đưa nội vụ ra tòa. Luật sư Gill cũng cho biết có nhiều ruộng đất thuộc các gia đình kitô tại Punjab cũng đã bị cướp đoạt như thế với sự đồng lõa của cánh sát địa phương. Các đại điền chủ và người quyền thế hồi công khai vi phạm các quyền của các nhóm thiểu số, ức hiếp các gia đình kitô yếu thế, vì họ không bị luật pháp trừng phạt. Nhưng chính vì vậy ông cương quyết bênh vực quyền của các Kitô hữu và đưa các vụ này ra trưóc công lý (FIDES 16-12-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC PHANXICÔ HOÀN TẤT VIỆC THÀNH LẬP ỦY BAN BẢO VỆ TRẺ EM

ĐTC PHANXICÔ HOÀN TẤT VIỆC THÀNH LẬP ỦY BAN BẢO VỆ TRẺ EM

VATICAN: ĐTC Phanxicô đã hoàn tất việc thành lập Ủy ban bảo vệ trẻ em với việc chỉ định 17 thành viên trong đó có 8 phụ nữ.

Cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh đã cho biết như trên. Chủ tịch Ủy ban là ĐHY Sean O’Malley. Ngoài ba thành viên ngưòi Mỹ và hai thành viên người Anh, các thành viên khác thuộc nhiều quốc tịch và nền văn hóa khác nhau gồm các nước: Colombia, Pháp, Ailen, Philippines, Anh quốc, Niu Dilen, Zambia, Nam Phi, Australia, Italia, Ba Lan, Argentina và Đức. Tất cả đều là các chuyên viên hiểu biết vấn đề và có nhiều kinh nghiệm. Qua việc chỉ định này Giáo Hội cương quyết đương đầu với một vấn đề trầm trọng trong xã hội ngày nay..

Ủy ban sẽ nhóm phiên họp khoáng đại đầu tiên trong các ngày 6-8 tháng hai năm tới 2015 (SD 17-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CUỘC TRIỂN LÃM 212 HANG ĐÁ NGHỆ THUẬT TẠI ROMA

CUỘC TRIỂN LÃM 212 HANG ĐÁ NGHỆ THUẬT TẠI ROMA

ROMA: Cho tới ngày mùng 6 tháng giêng năm tới 2015, tín hữu Roma và du khách hành hương năm châu có thể coi cuộc triển lãm 212 hang đá nghệ thuật quốc tế trưng bầy tại quảng trường Nhân Dân trong thủ đô Roma.

Đây là các hang đá thuộc 14 vùng toàn nước Italia và đó đây trên thế giới, được làm với nhiều kỹ thuật truyền thống tỉ mỉ, tinh vi và với các vật liệu thường ngày khác nhau như gỗ, đất sét nung, thạch cao vv… Óc tưởng tượng và nghệ thuật khiến cho các nghệ nhân dùng nhiều chất liệu gây ngạc nhiên như sừng bò và sừng dê khắc hình hang đá của nước Ecuador, 25 loại bột làm thực phẩm của vùng Puglia, bí tất và giầy, da giầy và đế giầy vùng Lazio trung Italia, sỏi, đinh, búp bê bằng len và vải, nấm tầu khô, lông gà lôi, lá chuối, like, chai lọ, hộp đựng sữa, mũ hột cà phê, nắp chai bằng nhựa, nhựa uốn, lá cây ngô, gỗ lanh, củ gừng, nhựa cây, trứng chim cút vv…

Thế rồi các hang đá được đặt tại các nơi lạ lùng như trong một cây Budda lấy từ vườn cây bên Bratislava; trong một chiếc đàn guitar; trong một chiếc mũ xe môtô; trong một chiếc đồng hồ; trong một mảnh vỏ sò; trong một khúc cây dương liễu, trong một rễ cây; trong một khối đá tuf đẽo tay…

Có một khu vực trong đó các em bé từ 4 tới 10 tuổi có thể học làm các tượng nhỏ hay tượng theo nền văn hóa Á Châu với nghệ thuật Uragami, do các sinh viên Học viện nghệ thuật Roma hướng dẫn, và các em có thể đem về nhà làm kỷ niệm (SD 12-12-2014)

Linh Tiến Khải

BUỔI HỌP BÁO GIỚI THIỆU BẢN TƯỜNG TRÌNH CHUNG KẾT CUỘC THANH TRA TÔNG TÒA CÁC DÒNG NỮ HOA KỲ

BUỔI HỌP BÁO GIỚI THIỆU BẢN TƯỜNG TRÌNH CHUNG KẾT CUỘC THANH TRA TÔNG TÒA CÁC DÒNG NỮ HOA KỲ

VATICAN: Sáng 16-12 ĐHY Jão Bras de Avis, Tổng trưởng Bộ các Dòng tu và Tu hội tông đồ, và ĐTGM José Rodriguez Carballo, Tổng thư ký, đã chủ sự buổi họp báo giới thiệu bản tường trình chung kết cuộc thanh tra tông tòa các dòng nữ Hoa Kỳ.

Tháng 12 năm 2008 Hiệp hội các Dòng nữ Hoa Kỳ quyết định lựa chọn một Cuộc thanh tra tông tòa các dòng nữ hoạt động trên toàn nước. Lý do là vì các dòng đang phải đối phó với nhiều thách đố và khó khăn nghiêm trọng đe dọa phẩm chất đời tu và chính sự sống còn của các dòng. Cuộc thanh tra đã đươc thực hiện từ năm 2009 tới 2012 bao gồm 4 giai đoạn, liên quan tới 341 dòng tu giáo phận cũng như quyền toà thánh, 405 cơ sở và 50.000 nữ tu. Mẹ Mary Clare Millea, dòng Tông đồ Thánh Tâm Chúa Giêsu, đã được Bộ chỉ định làm Vị Thanh tra tông toà. Mẹ đã chọn một ban nữ tu cộng tác giúp mẹ trong việc này để đi thăm các dòng tu và thu thập các dũ kiện cần thiết. Trong giai đoạn đầu các bề trên tổng quyền đuợc mời gọi nói chuyện hay viết cho Vị thanh tra để chia sẻ các hy vọng và vấn đề liên quan tới dòng của minh. Tiếp đó trong giai đoạn hai một bản câu hỏi được gửi tới các dòng nhằm thu thập mọi dữ kiện phẩm lượng liên quan tới cuộc sống thiêng liêng, cộng đoàn và các công tác của dòng. Sau khi nghiên cứu kỹ các dữ kiện, Vị thanh tra và các cộng sự viên đích thân viếng thăm 90 dòng tu bao gồm phân nửa số nữ tu toàn Hoa Kỳ. Giai đoạn cuối cùng là soạn thảo bản tường trình chung kết và gửi về Bộ.

ĐHY Tổng trưởng chân thành cám ơn Mẹ Mary Clare Millea và bầy tỏ lòng biết ơn sự hiện diện của các nữ tu tại Hoa Kỳ và phần đóng góp rất to lởn và qúy báu của các chị cho sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội tại Hoa Kỳ các nữ tu đã can đảm xả thân lo lắng cho các nhu cầu tinh thân, luân lý, giáo dục, thể lý của biết bao nhiêu người, đặc biệt là những người nghèo và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Công tác giáo dục của các nữ tu trong các trường công giáo cũng đã thăng tiến phát triển cá nhân và dưõng nuôi đức tin của biết bao thế hệ trẻ, và khiên cho cuộc sống của Giáo Hội Mỹ nở hoa. Đa số các cơ sở của hệ thống y tế công giáo tại Hoa Kỳ phục vụ bao nhiêu triệu người đều đã do các dòng nữ thành lập và điều khiển. Để đáp ứng các nhu cầu thời đại các dòng nữ đã trải rộng hoạt động tông đồ trong nhiều lãnh vực khác và theo đuổi việc đào tạo thần học và nghề nghiệp chuyên môn, hầu có thể phục vụ Giáo Hội và xã hội một cách hữu hiệu hơn.

Bản tường trình cho biết con số các nữ tu tại Hoa Kỳ từ 125.000 trong giữa thập niên 1960 dần dần giảm xuống chỉ còn 50,000 như hiện nay. Tuy nhiên nói chung các nũ tu rất ý thức đuợc đặc sủng và căn tính của dòng, cũng như thách đố thăng tiến ơn gọi và đào tạo trong đời tu, sự cần thiết củng cố đời cầu nguyện, cuộc sống thiêng liêng và sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, tập trung mục đích cuộc sống nơi Chúa Kitô, thực thi quyền bính và quản trị trong tinh thần phục vụ và ý thức trưởng thành, cộng tác nhiều hơn vào sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội, đặc biệt đối với người nghèo, cũng như sống tinh thần đối thoại và tình hiệp thông trong Giáo Hội (SD 16-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

GIÁO HỘI VENEZUELA KÊU GỌI CHỐNG LẠI NẠN BẠO LỰC VÀ ĐỒI BẠI XÃ HỘI

CARACAS: ĐHY Jorge Urosa Savino, TGM Caracas mời gọi tín hữu và nhân dân toàn nước chiến đấu chống lại nạn bạo lực và cảnh đồi bại tâm trí và xã hội.

ĐHY đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn dân Venezuela. Ngài mời gọi mọi người sống một lễ Giáng Sinh sâu xa ý nghĩa hơn và củng cố niềm tin nơi Thiên Chúa, để chiến đấu chống lại nạn thối nát và bạo lực trong con tim và trong cuộc sống xã hội. Ghi nhận các lo âu của người dân đối với tình hình đất nước, ĐHY khẳng định rằng: cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay cũng là hậu quả của các lợi nhuận khổng lồ vì giá dầu hoả lên cao, khiến cho người ta phạm tội tham lam, cuồng nhiệt đối với việc kiếm tiền dễ dãi, gian tham hối lộ, cướp bóc các tài ngụyên quốc gia, và đầu cơ tích trữ. Trong chiều hướng đó bầu khí luân lý xã hội trở thành lỏng lẻo, người ta ít ý thức về các hành động gian ác của mình và nạn bạo lực trong các hình thái trầm trọng nhất của nó dẫn đưa tới thù hận, tội phạm sát nhân và hủy diệt người khác. Cần phải nhớ rằng tất cả những điều đó là tội chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa, khiến cho chúng ta trở thành các tay tội phạm tầm thường và bị Chúa phạt, vì trong các giới răn Người đã nói: chớ giết người, chớ trộm cắp.

Trong sứ điệp Giáng Sinh ĐTGM Caracas cũng đề cập tới các đe dọa đè nặng trên kitô hữu Venezuela. Ngài viết: Đức tin của chúng ta bị đe dọa bởi mê tín dị đoan, bởi ánh đèn chóa sáng của thời mới với một tinh thần Giáng Sinh không hiện hữu và giả tạo, chỉ là việc thờ thần giả tầm thường phải cương quyết từ bỏ. ĐHY cũng cảnh báo nạn pha trộn tôn giáo lan tràn là một thứ tôn giáo khác, trái ngược với Kitô giáo và không hù hợp với niềm tin nơi Chúa Kitô. Nguy cơ lớn nhất là quên đi niềm hạnh phúc yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân hơn chính mình.

ĐHY khich lệ tín hữu đừng quên các anh chị em túng thiếu bệnh tật và cô đơn. Ngài mạnh mẽ kêu gọi giới hữu trách các nhà tù trong nước tìm ra các giải pháp cho các vấn đề trầm trọng liên quan tới các cơ cấu nhà tù, và tôn trọng nhân phẩm của các tù nhân. Chúng ta sẽ có một lễ Giáng Sinh tươi vui, nếu chúng ta đương đầu với thách đố sống như con cái Chúa và anh em với nhau, bằng cách sống tình liên đới, khước từ mọi hình thái sự dữ. hoạt động cho đất nước và tranh đấu cho các quyền con người, cho tự do và công lý (SD 13-12-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio