Đức Thánh Cha viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu châu

Đức Thánh Cha viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu châu

STRASBOURG. ĐTC Phanxicô đã dành ngày 25-11-2014 để viếng thăm Nghị viện và Hội đồng Âu Châu ở thành phố Strasbourg bên Pháp.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 5 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và là chuyến ngắn nhất trong lịch sử cuộc viếng thăm của các vị Giáo Hoàng ở hải ngoại, chỉ có khoảng 4 tiếng đồng hồ. Đây là lần thứ 2 một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm 2 tổ chức quốc tế này: lần đầu tiên cách đây 26 năm, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đến Strasbourg trong khuôn khổ chuyến viếng thăm của ngài tại Pháp từ mùng 8 đến 11 tháng 10 năm 1988. Tuy nhiên Đức Phanxicô là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Âu đến viếng thăm 2 cơ quan quốc tế này.

Đến phi trường Fiumicino của thành Roma lúc gần 8 giờ sáng, ĐTC đã đáp máy bay Airbus A320 của hãng Alitalia trực chỉ thành phố Strasbourg cách đó 828 cây số về hướng bắc. Trong đoàn tùy tùng của ngài, có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức TGM phụ tá là Angelo Becciu.

Strasbourg hiện nay là thành phố có 1 triệu 145 ngàn dân cư, giáp giới với nước Đức, và được coi như thủ đô của Liên hiệp Âu Châu với nhiều tổ chức quốc tế tại đây. Đến phi trường Strasbourg lúc 10 giờ sau hai giờ bay từ Roma, ĐTC đã được giáo quyền và đại diện chính quyền địa phương tiếp đón, cùng với hai vị Hồng Y chủ tịch Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu cũng như ĐHY Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu và liền đó ngài tiến về trụ sở của Nghị viện Âu Châu.

Đây là cơ quan lập pháp của Liên hiệp 28 nước Âu Châu với 508 triệu dân cư. Trong những thập niên gần đây, nghị viện này dần dần đạt được những thẩm quyền lớn hơn và hành động trong tư cách là đồng lập pháp trong hầu hết các lãnh vực luật pháp của Liên hiệp. Nghị viện này hiện nay có 751 đại biểu được bầu lên theo thể thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Số ghế được phân chia theo tỷ lệ dân số của các quốc gia thành viên. Số nữ đại biểu chiếm hơn 1 phần 3. Các đại biểu họp thành những nhóm theo lập trường chính trị chứ không theo tiêu chuẩn quốc tịch.

Đến nơi, ĐTC đã được các vị lãnh đạo và đại diện của 8 nhóm chính trị của Nghị Viện đón tiếp, rồi ngài hội kiến với vị chủ tịch nghị viện là Ông Martin Schulz người Đức, trước khi gặp chung và phát biểu trước tất cả các đại biểu thành viên trong phiên nhóm trọng thể.

Tóm lược diễn văn ca ĐTC

Trong diễn văn, ĐTC nhắc lại sự kiện cách đây 26 năm, vào ngày 11-10 năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm nghị viện Âu Châu. Trong thời gian qua, thế giới đã thay đổi rất nhiều, trở nên lệ thuộc nhau và hoàn vũ hơn, ”bớt qui hướng về Âu Châu như trung tâm”. Bên cạnh một Liên hiệp Âu Châu mở rộng và ảnh hưởng hơn, dường như có hình ảnh về Âu Châu già nua và thu hẹp lại hơn.

Khi ngỏ lời với quí vị ngày hôm nay, từ ơn gọi mục tử của tôi, tôi muốn gửi đến các công dân Âu Châu một sứ điệp hy vọng và khích lệ. Một sứ điệp hy vọng dựa trên lòng tín thác rằng những khó khăn có thể trở thành động cơ mạnh mẽ thăng tiến sự hiệp nhất, để chiến thắng mọi sợ hãi mà Âu Châu cùng với thế giới đang trải qua. Niềm hy vọng nơi Chúa, Đấng biến sự ác thành điều thiện và biến sự chết thành sự sống”.

ĐTC nhắc lại rằng: ”Các vị sáng lập liên hiệp Âu Châu đã đặt con người ở trung tâm dự án của mình, không phải như một công dân, và càng không phải như một chủ thể kinh tế, nhưng trong tư cách là một nhân vị có phẩm giá siêu việt”. Thực vậy, sau thế chiến thứ 2 người ta càng thấy rõ ước muốn bảo đảm ”phẩm giá”, các quyền con người, huấn luyện lương tâm về đặc tính quí giá, có một không hai và không thể lập lại được của mỗi người…

”Ngày nay sự thăng tiến các quyền con người chiếm một vai trò trung tâm và đáng ngưỡng mộ trong sự dấn thân của Liên hiệp Âu Châu. Nhưng vẫn còn có quá nhiều tình trạng trong đó con người bị đối xử như đồ vật, và người ta có thể xếp đặt chương trình khi nào thụ thai, hình thành, lợi ích của con người, và rồi con người có thể bị vứt bỏ đi khi không còn hữu ích nữa, vì họ trở nên yếu nhược, bệnh tật hoặc già nua. Vẫn còn có những tình trạng trong đó con người không được tự do bày tỏ tư tưởng của mình, tuyên xưng niềm tin tôn giáo mà không bị cưỡng bách và giới hạn, khi thiếu khuôn khổ pháp lý rõ ràng hạn chế sự thống trị của võ lực và nêu cao luật pháp trên sự độc đoán của quyền lực, trên sự kỳ thị con người. ĐTC đặt câu hỏi: ”Thứ phẩm giá nào con ngừơi có thể tìm được khi mà họ không có lương thực hay điều tối thiểu để sống, và tệ hơn nữa khi họ không có công ăn việc làm xứng với phẩm giá con người?”.

ĐTC nói đến những mơ hồ nảy sinh từ sự hiểu lầm ý niệm các quyền con người và từ sự lạm dụng mâu thuẫn các quyền này: càng ngày người ta càng đòi hỏi nhiều hơn các quyền cá nhân, được coi như các quyền của con người bị tách rời khỏi bối cảnh xã hội và nhân học, hầu như một ”đơn nguyên”, ngày càng thiếu nhạy cảm đối với các đơn nguyên khác quanh mình; một sự đòi hỏi các quyền không kèm theo các nghĩa vụ, không để ý đến bối cảnh xã hội của con người, trong đó các quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với các quyền của ngừơi khác và công ích của chính xã hội… Nếu quyền của mỗi người không được hướng về thiện ích lớn hơn một cách hài hòa thì rốt cục nó bị coi như không có giới hạn và trở thành nguồn mạch sinh ra những xung đột và bạo lực”.

Một điểm khác được ĐTC nhấn mạnh là phẩm giá siêu việt của con người, phẩm giá này liên hệ tới bản tính con người, với 'địa bàn' được ghi khắc trong tâm hồn chúng ta và Thiên Chúa đã in vào trong vũ trụ Ngài sáng tạo. Trước tiên, cần nhìn con người như một hữu thể có tương quan. Ngày nay, tại Âu Châu bệnh cô đơn đang lan tràn, đặc biệt là của những người thiếu các liên hệ. Bệnh cô đơn càng trở nên cấp tính hơn vì khủng hoảng kinh tế. Người ta cũng ghi nhận có sự gia tăng sự thiếu tín nhiệm của các công dân đối với các tổ chức mà họ coi là xa cách, những tổ chức lo thiết lập những qui luật mà họ coi là xa lạ, – nếu không muốn nói là có hại, – đối với sự nhạy cảm của mỗi dân tộc. Có một cảm tưởng chung về sự mệt mỏi và già mua của một Âu Châu trở thành bà già, không còn sinh sản và linh hoạt nữa. Các lý tưởng cao cả đã từng gợi hứng cho Âu Châu nay dường như mất sức thu hút, và nhường chỗ cho những kỹ thuật bàn giấy của các tổ chức”. Người ta cũng cay đắng nhận thấy sự trổi vượt của các vấn đề kỹ thuật và kinh tế trong các cuộc thảo luận chính trị; con người bị thu hẹp thành một thứ hộp số trong bộ máy, và bị coi như một sản phẩm tiêu thụ được sử dụng và gạt bỏ chẳng chút tiếc thương, như trong trường hợp các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, những người già bị bỏ rơi và không được săn sóc, các trẻ em bị giết trước khi chào đời. Nền văn hóa gạt bỏ và tiêu thụ thái quá tạo nên sự tuyệt đối hóa kỹ thuật, chiếm ưu thế hơn sự khẳng định phẩm giá con người, sự quí giá của đời sống con người.

ĐTC đặt câu hỏi: ”Vậy làm sao mang lại hy vọng cho tương lai, mang lại tín thác để tiếp tục theo đuổi lý tưởng cao cả một Âu Châu hiệp nhất và an bình, đầy tính sáng tạo và biến báo, tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của mình? ĐGH lấy ví dụ bức bích họa của Raphael diễn tả trường học ở Athènes và tổng hợp tư tưởng của Palton và Aristote: đó là một hình ảnh mô tả thật rõ đặc tính của lịch sử Âu Châu, về sự liên tục gặp gỡ giữa trời, tức là sự cởi mở đối với siêu việt, và đất, là khả năng thực hành cụ thể, trong việc đương đầu với những hoàn cảnh và vấn đề. Một Âu Châu không còn khả năng cởi mở đối với chiều kích siêu việt của sự sống là một Âu Châu dần dần bị nguy cơ đánh mất tinh thần nhân bản, mất đi vị trí trung tâm của con người. Kitô giáo không những cung cấp một gia sản cơ bản trong việc huấn luyện xã hội văn hóa của đại lục này, nhưng còn nhắm mang lại ngày nay và tương lai một đóng góp cho sự phát triển của Âu Châu. Sự đóng góp này không phải là một nguy hiểm cho đặc tính đời của các quốc gia và cho sự độc lập của các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu trái lại, làm cho những tổ chức này được thêm phong phú phù hợp với nguyên tắc phụ đới và liên đới với nhau, một thuyết nhân bản qui trọng tâm vào sự tôn trọng phẩm giá con ngừơi.

ĐTC xác quyết sự sẵn sàng của Tòa Thánh, của Giáo Hội Công Giáo, và qua Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu, Comece, đối thoại minh bạch và phong phú với các tổ chức Âu Châu. Ngài cũng nói đến nhiều bất công và bách hại mà các nhóm tôn giáo thiểu số, nhất là các tín hữu Kitô đang phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới; ngài nhắc đến các cộng đoàn và những cá nhân bị bạo lực dã man, bị trục xuất khỏi gia cư và quê hương, bị bán như những nô lệ, bị giết, bị chặt đầu, bị đóng đanh và thiêu sống, trong sự thinh lặng ô nhục và đồng lõa của bao nhiêu người.
Ngài nhận xét rằng: ”Khẩu hiệu của Liên hiệp Âu Châu 'hiệp nhất trong sự khác biệt', không có nghĩa là đồng nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa hay tư tưởng, nhưng chỉ rõ một gia đình các dân tộc, với những tổ chức của Liên Hiệp, biết liên kết lý tưởng hiệp nhất với sự khác biệt của mỗi người, đề cao giá trị của mỗi truyền thống, sự phong phú của các lịch sử và căn cội, giải thoát mình khỏi bao nhiêu lèo lái và ghét bỏ. Đặt con người ở trung tâm trước tiên có nghĩa là để cho con người tự do biểu lộ khuôn mặt và óc sáng tạo của mình trên bình diện cá nhân và dân tộc. Các nguyên tắc liên đới và phụ đới, hiện diện trong việc hình thành Âu Châu giúp chúng ta trong chiều hướng này”.

ĐTC nhấn mạnh rằng:
”Thách đố củng cố nền dân chủ của các dân tộc Âu Châu đòi phải tránh một quan niệm đồng điệu về sự đại đồng, làm giảm mất đi sự tương phản phong phú và xây dựng của các tổ chức và các đảng phái với nhau, một quan niệm đồng điệu đưa tới sự lẫn lộn thực tại của nền dân chủ với một thứ thuyết duy danh mới về chính trị. Nhưng thách đố làm sao củng cố các nền dân chủ Âu Châu cũng bao hàm sự bảo vệ sức mạnh biểu lộ chính trị của các dân tộc Âu Châu liên quan đến những sức ép của lợi lộc liên quốc chứ không phải mọi người, làm cho nó suy yếu và biến nó thành những quyền lực tài chánh đồng nhất phục vụ những đế quốc vô danh. Mang lại hy vọng cho Âu Châu có nghĩa là đầu tư trong các lãnh vực trong đó hình thành các tài năng của con người; kiến tạo những điều kiện thuận lợi cho đời sống gia đình, sự hiệp nhất, phong phú và bất khả phân ly; có nghĩa là mang lại những viễn tượng cho các thế hệ trẻ và nhiều người già, cho sự phát triển giáo dục, các trường học và đại học; huấn luyện đầy đủ để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng; có nghĩa là nhìn những tiềm năng sáng tạo nghiên cứu khoa học, nhất là trong các lãnh vực chưa được khám phá, như lãnh vực các nguồn năng lực khác.

Cũng trong diễn văn tại Nghị viện Âu Châu sáng hôm qua (25-11), ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dấn thân bảo vệ môi sinh và bảo tồn thiên nhiên. Thiên nhiên là để chúng ta sử dụng, cần dùng thiên nhiên để mưu công ích; không được chiều theo sự kiêu ngạo thống trị, lèo lái, bóc lột thiên nhiên. Không thể chấp nhận sự kiện hằng triệu người trên thế giới chết đói, trong khi bao nhiêu tấn thực phẩm bị gạt bỏ mỗi ngày khỏi bàn ăn của chúng ta. Môi sinh cũng liên hệ tới chính con người. Chính con người là thành phần căn bản của môi sinh, vì thế cần có một môi sinh nhân bản, với sự tôn trọng chính con người.

Trong số những yếu tố không thể thiếu được để mang lại hy vọng cho Âu Châu, ĐTC cũng nói đến các vấn đề liên hệ tới công ăn việc làm và ngài tái khẳng định sự cấp thiết phải mang lại phẩm giá cho lao công. Điều này có nghĩa là tìm ra những phương thức mới để dung hợp sự uyển chuyển của thị trường với sự cần thiết của ổn định và chắc chắn về viễn tượng công ăn việc làm và cũng tạo điều kiện cho một khung cảnh xã hội thích hợp, không nhắm tới sự khai thác con người, nhưng bảo đảm qua công việc làm khả năng thành lập gia đình và giáo dục con cái.

ĐTC cũng nói về vấn đề di dân: Không thể chấp nhận để cho Địa Trung Hải trở thành một nghĩa trang lớn, vì thế cần phải trình bày rõ ràng căn tính văn hóa của mình và đề ra những luật lệ thích hợp, biết bảo vệ các quyền của công dân Âu Châu và bảo đảm sự tiếp đón người di dân; nhưng cũng cần chấp nhận những chính sách cụ thể giúp các nước xuất cư trong việc phát triển xã hội kinh tế và vượt thắng những xung đột nội bộ, trái lại những chính sách lợi lộc giá tăng và nuôi dưỡng các xung đột.

Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh vai trò của sự ý thức căn tính của mình để đối thoại một cách tích cực với các quốc gia đã yêu cầu được gia nhập Liên hiệp Âu Châu trong tương lai: trong vùng Balcan, trong các quan hệ với các nước lân cận, đặc biệt những nước ven bờ Địa Trung Hải. Nhiều nước đang chịu đau khổ vì các cuộc xung đột nội bộ, vì sức ép của trào lưu cực đoan tôn giáo và khủng bố quốc tế. Các vị đại biểu quốc hội cũng như các nhà lập pháp, có nghĩa vụ giữ gìn và làm tăng trưởng căn tính Âu Châu để các công dân tìm lại được niềm tín thác nơi các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu và trong dự án Âu Châu về hòa bình và thân hữu.

Một lịch sử hai ngàn năm liên kết Âu Châu với Kitô giáo, nhưng lịch sử này phần lớn vẫn còn phải viết lên, để cùng nhau xây dựng một Âu Châu không xoay quanh kinh tế, nhưng quanh sự thánh thiêng của con người, các giá trị bất khả nhượng. Đã đến giờ xây dựng Âu Châu can đảm ấp ủ quá khứ của mình và tin tưởng nhìn về tương lai của mình để sống trọn vẹn và sống hiện tại trong hy vọng. Đã đến lúc từ bỏ ý tưởng một Âu Châu sợ hãi và co cụm vào mình để khơi dậy một Âu Châu nắm vai chính, mang khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, các giá trị nhân bản và cả đức tin. Âu Châu nhìn, bảo vệ, bênh đỡ con người; Âu Châu tiến bước trên trái đất chắc chắn và vững chãi, là điểm tham chiếu quí giá cho toàn thể nhân loại”.

Bài diễn văn của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay hưởng ứng của các đại biểu và khi ngài vừa dứt lời, mọi người đã đứng lên nồng nhiệt vỗ tay cám ơn.

Ông chủ tịch Martin Schulz đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC vì bài diễn văn ”chỉ đường” của ngài và ông gọi đó cũng là hướng đi trong tương lai của Liên hiệp Âu Châu này.

Viếng thăm Hi đồng Âu Châu

Rời Nghị viện, ĐTC tiến sang trụ sở Hội đồng Âu Châu chỉ cách đó 700 mét để viếng thăm. Bên ngoài Hội đồng có hàng ngàn người đứng chào mừng ngài. Tổ chức này được thành lập cách đây 65 năm và gồm các vị đại sứ của 47 nước và 150 thành viên thuộc nghị viện, 100 thành viên của hội đồng chính quyền địa phương và miền, 47 vị thẩm phán của tòa án Âu Châu về nhân quyền.

Khi đến trụ sở Hội đồng Âu Châu ĐTC đã được ông tổng thư ký Thorbjorn Jagland, 63 tuổi người Na Uy cùng với các giới chức của Hội đồng đón tiếp.

Sau nghi thức tiếp đón chính thức và hội kiến với các giới chức lãnh đạo Hội đồng, ĐTC đã tiến vào thính đường trong khóa họp long trọng của tổ chức này.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông Tổng thư ký, ĐTC nhắc đến sự tàn bạo của thế chiến thứ 2, và sự chia rẽ Âu Châu thành hai khối, hai bên bức màn sắt, từ đó ngài nói đến tiến trình xây dựng thống nhất và hòa bình, bắt đầu từ sự giáo dục về hòa bình, loại trừ nền văn hóa xung đột, loại bỏ những người không nghĩ hoặc sống như mình.
ĐTC đặc biệt lên án sự khủng bố tôn giáo và trào lưu khủng bố quốc tế coi rẻ sinh mạng con người, nạn buôn bán khí giới mà không bị ngăn trở. Hòa bình cũng bị đe dọa vì những hình thức nô lệ mới, nạn buôn người, biến con người thành hàng hóa trao đổi.

ĐTC ca ngợi nỗ lực của Hội đồng Âu Châu kiến tạo hòa bình qua sự thăng tiến các quyền con người. Ngài cũng cổ võ sự tìm kiếm sự thật, để tránh tình trạng mỗi người tự lấy mình làm mẫu mực, mở đường cho sự khẳng định chủ quan các quyền lợi. ĐTC cảnh giác chống lại sự hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng phát xuất từ lòng ích kỷ, không có khả năng sống chiều kích xã hội đích thực. Từ cá nhân chủ nghĩa dửng dưng nảy sinh sự tôn thờ giàu sang sung túc.

Sau cùng, ĐTC cho biết Giáo Hội Công Giáo, qua Liên HĐGM Âu châu, sẵn sàng cộng tác với Hội đồng Âu Châu, nhất là trong lãnh vực suy tư luân lý đạo đức về những đề tài như bảo vệ sự sống con người, các lãnh vực y khoa, khoa học hoặc pháp luật.

Sau cuộc viếng thăm tại tổ chức này, ĐTC giã từ Strasbourg để đáp máy bay trở về Roma lúc quá 4 giờ chiều cùng ngày 25-11-2014.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong 6 vị tân hiển thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong 6 vị tân hiển thánh

VATICAN. Từ ngày 23-11-2014, Giáo Hội Công Giáo có thêm 6 vị tân hiển thánh. Các vị được ĐTC ghi vào sổ bộ các thánh trong buổi lễ ngài chủ sự lúc 10 giờ 25 sáng chúa nhật, Lễ Chúa Kitô Vua, tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự hiện diện của hơn 50 ngàn tín hữu.

Các tân thánh gồm 4 vị người Italia và 2 vị người Ấn độ, 3 vị đã sáng lập dòng tu, một nữ tu và một giáo dân.

Đứng đầu danh sách là chân phước Giovanni Antonio Farina, GM giáo phận Vicenza, bắc Italia, sáng lập dòng các nữ tu giáo viên thánh Dorotea Nữ Tử Thánh Tâm. Tiếp đến là chân phước LM Kuriakose Elias Chavara, đồng sáng lập và là Bề trên Tổng quyền đầu tiên dòng Camêlô Đức Mẹ Vô nhiễm, sinh tại bang Kerala nam Ấn độ năm 1805 và qua đời năm 1871 và được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 8-2-1986 tại thành phố Kottayam, Ấn độ, trong cuộc viếng thăm của ngài tại nước này. Thứ ba là Chân phước Ludovico Casoria, LM thuộc dòng Phanxicô, sáng lập dòng các nữ tu Phan Sinh Elizabeth. Thứ tư là chân phước Nicola da Longobardi, tu sĩ dòng Hèn Mọn (Minimi) Thứ năm là nữ chân phước Eufrasia Eluvathingal Thánh Tâm, người Ấn độ, thuộc dòng các nữ tu Đức Mẹ Camêlô. Sau cùng là chân phước Amato Ronconi, thuộc dòng Ba Phanxicô, sáng lập bệnh viện hành hương nghèo ở Saludecio, nay là Dưỡng Đường Hội Chân Phước Amato Ronconi. Hình của các vị được treo trên mặt tiền Đền thờ Thánh Phêrô.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ có 60 HY, GM và khoảng 300 linh mục, nhiều vị trong phẩm phục của Giáo Hội nghi lễ Đông phương Syro Malabar bên Ấn. Trong số các tín hữu hiện diện ó khoảng 5 ngàn tín hữu người Ấn.

Sau kinh cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tiến lên trước ĐTC và xin ngài ghi tên 6 vị chân phước vào sổ bộ các thánh theo lời thỉnh nguyện của toàn thể các tín hữu Kitô. Rồi ĐHY trình bày vắn tắt tiểu sử 6 vị chân phước.

Quang cảnh lễ phong thánh 2 Ấn Độ và 4 Ý Đại Lợi ngày 11-23-2014


ợc sử 6 vị thánh mới

1. Chân phước GM Giovanni Antonio Farina là vị chủ chăn nhiệt thành của giáo phận Treviso, rồi giáo phận Vicenza, bắc Italia, sinh cách đây 211 năm (11-1-1803) tại giáo phận Vicenza, phụ phong LM năm lên 24 tuổi và 9 năm sau đó, khi được 33 tuổi, ngài thành lập dòng các nữ tu thánh Dorotea Nữ Tử hai Thánh Tâm, chuyên giáo dục các thiếu nữ nghèo, và giúp đỡ tất cả những người sầu muộn và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Năm 1850, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Treviso và 10 năm sau đó, được chuyển về giáo phận Vicenza và ở đây cho đến khi qua đời năm 1888, thọ 83 tuổi.

Đức Cha Farina hăng say làm việc mục vụ, dù bầu không khí không luôn luôn thuận lợi: tại Treviso có những hiểu lầm và xung khắc với các kinh sĩ Nhà thờ chính tòa; tại Vicenza ngài bị vu khống. Đối lại những điều đó, ngài vẫn bình tĩnh và những công việc quá khứ cũng như gần đó đã trả lời thay cho ngài. Đức Cha canh tân trường học và phục vụ tại nhà thương, giữ vai chính trong việc mục vụ dựa trên sự giáo dục tâm hồn. Vài năm sau khi qua đời, người ta bắt đầu nói về những ân lạ nhờ lời chuyện cầu của ngài. Đức Cha Giovanni Antonio Farina được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 4-11 năm 2001.

2. Vị chân phước thứ hai là Cha Kuriakose Elias Chavara Thánh Gia, sinh tại bang Kerala Ấn độ cách đây 209 năm (1805), thụ phong LM năm 24 tuổi (1829) và thành lập dòng và là Bề trên Tổng quyền đầu tiên của dòng Camêlô Đức Mẹ Vô nhiễm.

Tân hiển Thánh người Ấn

Trong việc điều khiển dòng, Cha Kuriakose tỏ ra có những năng khiếu đặc biệt của một nhà đào tạo đầy tinh thần đạo đức, xác tín, có linh đạo sâu xa dựa trên lòng tôn sùng Thánh Thể, kính mến Thánh Mẫu và hoàn toàn trung thành với Giáo Hội Công Giáo, cùng với tinh thần cầu nguyện và khổ chế, thực hành các phương pháp mới trong việc tông đồ.

Cha cũng cộng tác vào việc lập dòng Ba Cát Minh Nhặt Phép. Cha tận tụy phục vụ Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Siro Malabar và qua đời năm 1871 thọ 66 tuổi. Cha được phong chân phước năm 1986.

3. Vị Chân phước thứ ba là Cha Ludovico da Casoria sinh năm 1814 tức là cách đây đúng 200 năm, gia nhập dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô khi được 18 tuổi, và thụ phong linh mục 5 năm sau đó. Thoạt đầu cha được Bề trên giao phó nhiệm vụ dạy triết học và toán học, và 10 năm sau đó, cha hoàn toàn dấn thân phục vụ những người nghèo khổ, rốt cùng. Tình bác ái đối với tha nhân ngày càng bừng cháy trong tâm hồn cha Ludovico. Cha mời gọi các giáo dân nam nữ dòng Ba Phanxicô tham gia vào công trình bác ái này.
Sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi châu, Cha Ludovico trở về Italia và thành lập nhiều tổ chức ác ái. Cha qua đời tại Napoli năm 1885, thọ 71 tuổi và được Phong chân phước năm 1993.

4. Vị chân phước thứ tư là Thầy Nicola da Longobardi người Italia sinh cách đây 364 năm (1650), gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn thánh Phanxicô da Paola. Thầy sống trong nhiều cộng đoàn, thi hành những công tác khiêm hạ nhất: từ việc coi phòng thánh, làm vườn, phụ trách nhà bệnh, làm bếp cho đến việc khất thực và coi cổng nhà dòng. Thầy Nicola đặc biệt yêu thương những người nghèo và người bệnh. Thầy qua đời năm 1709 thọ 59 tuổi và được phong chân phước năm 1786.

5. Vị chân phước thứ 5 là nữ tu Eufrasia Thánh Tâm Chúa Giêsu người Ấn độ, sinh cách đây 137 năm (1877) cũng thuộc bang Kerala và gia nhập dòng các nữ tu Đức Mẹ Camêlô.

Sister Eufrasia Eluvathingal

Chị là một nhà đại thần bí, sống kết hiệp hoàn toàn với Chúa Giêsu như với vị hôn phu, và được Chúa cho tham dự vào những đau khổ trong cuộc khổ nạn, và cả niềm vui phục sinh của Chúa, đến độ chị thông truyền một vẻ an bình, nụ cười đầy hấp lực thiêng liêng. Hầu hết những giờ rảnh rỗi, chị Eufrasia dành để chầu Mình Thánh Chúa. Các tín hữu bên ngoài thấy chị là một nữ tu luôn cầu nguyện với Kinh Mân Côi và chầu Mình Thánh, đến độ họ gọi chị là ”Nhà tạm lưu động” hay là ”Mẹ cầu nguyện”. Vì thế, rất nhiều tín hữu đã đến xin chị Eufrasia cầu nguyện cho các nhu cầu của họ.

Chị qua đời năm 1952, thọ 75 tuổi và được phong chân phước năm 2006.

6. Vị chân phước thứ 6 là Amato Ronconi, giáo dân người Italia, sinh cách đây 788 năm. Ngay từ nhỏ người đã quyết định sống Tin Mừng theo gương thánh Phanxicô, nhất là về đời sống thống hối và bác ái. Anh gia nhập dòng Ba Phanxicô, tận tụy tiếp đón người nghèo và các tín hữu hành hương, thiết lập cho họ một nhà trọ. Về sau anh lui vào đời sống thống hối và đã thực hiện 4 lần cuộc hành hương tới Đền thánh Giacôbê Tông Đồ, Santiago de Compostela bên Tây Ban Nha. Anh qua đời năm 1292 thọ 66 tuổi và được phong chân phước năm 1776.

Phong thánh
Sau lời thỉnh nguyện và giới thiệu của ĐHY Amato, ĐTC đã mời gọi mọi người dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, với kinh cầu các thánh. Tiếp đến ĐTC đã long trọng đọc công thức phong thánh:

Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi cực thánh, để tuyên dương đức tin Công Giáo và tăng tiến đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi suy nghĩ chín chắn, nhiều lần khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em chúng tôi trong hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và xác định Chân Phước Giovanni Antonio Farina, Kuriakose Elias Chavara, Ludovico Casoria, Nicola da Longobardi, Eufrasia Eluvathingal Thánh Tâm và Amato Ronconi, là Hiển Thánh, và ghi tên các vị vào sổ bộ các Thánh và qui định rằng trong toàn thể Giáo Hội, các Ngài được được tôn kính với lòng sùng mộ nơi Các Thánh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

ĐTC vừa dứt lời, cộng đoàn vỗ tay nồng nhiệt và ca đoàn cùng cộng đoàn ca bài Jubilate Deo, Hãy tung hô Chúa, hãy hát mừng Chúa.. Trong khi đó, thánh tích của 6 vị tân hiển thánh được rước lên cho ĐTC hôn kính trước khi đặt trên một giá nhỏ phía trước bàn thờ.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng sau bài Phúc Âm, ĐTC diễn giải ý nghĩa lễ Chúa Kitô và áp dụng vào trường hợp 6 vị tân hiển thánh, những người đã noi gương bác ái của Chúa Giêsu Kitô. Ngài nói:

”Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Chúa Giêsu là Vua Vũ Trụ. Kinh tiền tụng thật đẹp nhắc nhở chúng ta rằng Vương quốc của Chúa là ”Vương quốc sự thật và sự sống, Vương quốc thánh thiện và ân sủng, Vương quốc công lý, tình thương và hòa bình”. Các bài đọc chúng ta đã nghe tỏ cho chúng ta thấy cách thức Chúa Giêsu thực hiện vương quốc của Ngài; cách Ngài thực hiện trong diễn tiến lịch sử và Ngài yêu cầu chúng ta điều gì.
Trước tiên, cách thức Chúa Giêsu đã thực hiện Vương quốc của Ngài: Ngài thực thi nước ấy trong sự gần gũi và dịu dàng đối với chúng ta. Chúa là vị Mục Tử mà ngôn sứ Ezechiele đã nói trong bài đọc thứ I (Xc 34,11-12.15-17). Trọn đoạn văn này được dệt bằng những động từ cho thấy sự ân cần và yêu thương của vị Mục Tử đối với đoàn chiên: tìm kiếm, kiểm điểm, tập hợp từ các nơi phân tán, dẫn tới đồng cỏ, cho nghỉ ngơi, tìm kiếm con chiên bị lạc, dẫn chiên lạc trở về, băng bó vết thương, chăm sóc chiên đau yếu, chăm nom, chăn dắt. Tất cả những thái độ ấy trở thành thực tại trong Chúa Giêsu Kitô: Ngài thực sự là ”Vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên và là người chăn dắt các linh hồn” (Xc Dt 13,20; a Pr 2,25).

Và trong tư cách là những người được kêu gọi trở thành mục tử trong Giáo Hội, chúng ta không thể xa rời mẫu gương ấy, chẳng vậy chúng ta sẽ trở thành những người chăn thuê. Về điểm này, dân Chúa có khả năng đánh hơi không thể sai lầm trong việc nhận ra các mục tử tốt lành, và phân biệt họ với những người chăn thuê.

Sau khi chiến thắng, tức là sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã tiến hành nước Ngài như thế nào? Thánh Phaolô Tông Đồ, trong thư thứ I gửi tín hữu Corintô, nói rằng: ”Điều cần thiết là Chúa hiển trị cho đến khi tất cả mọi kẻ thù bị đặt dưới chân Ngài” (15,25). Chính Chúa Cha dần dần đặt mọi sự tùng phục Chúa Con, và đồng thời chính Chúa Con đặt mọi sự tùng phục Chúa Cha. Chúa Giêsu không phải là vua theo kiểu thế gian này: đối với Ngài, cai trị không phải là truyền lệnh, nhưng là vâng phục Chúa Cha, và tùng phục Chúa Cha, để ý định yêu thương và cứu độ của Chúa Cha được hoàn thành. Vì thế có một sự hỗ tương hoàn toàn giữa Chúa Cha và Chúa Con. Vậy thời kỳ cai trị của Chúa Kitô là thời gian dài đặt mọi sự tùng phục Chúa Con và giao nạp mọi sự cho Chúa Cha. ”Kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt chính là sự chết” (1 Cr 15,26). Sau cùng, khi mọi sự được đặt dưới vương quyền của Chúa Giêsu, và tất cả, kể cả Chúa Giêsu, tùng phục Chúa Cha, thì Thiên Chúa sẽ là mọi sự trong tất cả” (Xc 1 Cr 15,28).

Tin Mừng cho chúng ta thấy Nước Chúa Giêsu đòi chúng ta điều gì: Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng sự gần gũi và dịu dàng cũng là qui luật sống cho chúng ta, và chúng ta sẽ bị phán xét theo qui luật ấy. Đó là đại dụ ngôn về sự phán xét chung trong đoạn 25 của Tin Mừng theo thánh Mathêu. Vua nói: ”Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh nhận gia sản là Nước được chuẩn bị cho các con từ khi tạo dựng thế giới, vì Ta đói, các con đã cho Ta ăn, Ta khát các con đã cho ta uống, Ta là khách ngụ cư, các con đã đón tiếp Ta, Ta trần trụi, các con đã cho ta mặc, Ta bệnh tật và các con đã viếng thăm Ta, Ta ở trong tù, và các con đã đến gặp Ta” (25,34-36). Những người công chính sẽ hỏi: có bao giờ chúng con làm tất cả những điều ấy đâu? Và Vua đáp: ”Thực, Ta bảo thực các con: tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta đây, chính là các con làm cho Ta” (Mt 25,40).

ĐTC giải thích rằng: ”Ơn cứu độ không bắt đầu bằng sự tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, nhưng từ sự noi gương các công việc từ bi qua đó Chúa thực thi Vương quốc của Ngài. Ai thực thi những công việc ấy thì chứng tỏ mình đã đón nhận Vương quyền của Chúa Giêsu, vì họ dành chỗ trong tâm hồn cho tình yêu mến Thiên Chúa. Vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu, về sự gần gũi và dịu dàng đối với anh chị em chúng ta. Chúng ta có được vào Nước Thiên Chúa hay không, được ở bên tả hay bên hữu Chúa, điều ấy tùy thuộc lòng bác ái của chúng ta đối với tha nhân. Chúa Giêsu, qua chiến thắng của Ngài, đã mở Nước Ngài cho chúng ta, nhưng tùy theo chúng ta có vào đó hay không, ngay từ đời này, chúng ta có trở nên người thân cận của người anh chị em hay không, người anh chị em đang xin cơm bánh, quần áo, sự đón tiếp, tình liên đới. Và nếu chúng ta thực sự yêu thương người anh chị em của chúng ta, thì chúng ta sẽ được thúc đẩy chia sẻ với họ điều quí giá nhất đối với chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa!

Áp dụng những điều trên đây vào các vị thánh mới, ĐTC nói:

”Ngày hôm nay, Giáo Hội đặt trước chúng ta những vị thánh mới như gương mẫu, chính qua những công việc quảng đại hiến thân cho Thiên Chúa và anh chị em, các vị đã phục vụ Nước Thiên Chúa, mỗi người trong môi trường của mình, và trở nên người thừa kế Nước Chúa. Mỗi vị Thánh đáp lại giới răn mến Chúa yêu người với tinh thần sáng tạo ngoại thường. Các vị đã tận tụy phục vụ những người rốt cùng không chút dè dặt, giúp đỡ những người túng thiếu, các bệnh nhân, người già, người lữ hành. Sự yêu thương ưu tiên mà các vị dành cho những người bé nhỏ và nghèo hèn chính là phản ánh và là mẫu mực tình yêu vô điều kiện đối với Thiên Chúa. Thực vậy, các thánh đã tìm kiếm và khám phá tình bác ái trong quan hệ mạnh mẽ và bản thân đối với Thiên Chúa, từ đó đã nảy sinh tình yêu chân thực đối với tha nhân. Vì thế, trong giờ phán xét, các vị đã nghe lời mời gọi ngọt ngào này: ”Hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy đến nhận gia sản là Vương quốc đã được chuẩn bị cho các con từ khi sáng tạo thế giới này” (Mt 25,34).

Và ĐTC kết luận rằng:

”Qua nghi thức phong thánh, một lần nữa chúng ta đã tuyên xưng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và tôn vinh Chúa Kitô Vua, là vị Mục Tử đầy tình thương yêu đối với đoàn chiên. Nguyện xin các thánh mới, qua tấm gương và lời chuyển cầu của các vị, làm tăng trưởng trong chúng ta niềm vui được tiến bước trong con đường Tin Mừng, quyết định đón nhận Tin Mừng như địa bàn hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy bước theo, bắt chước niềm tin yêu của các thánh, để niềm hy vọng của chúng ta cũng được đặc tính bất diệt. Chúng ta đừng để mình bị xao nhãng vì những lợi lộc trần thế chóng qua. Xin Mẹ Maria, Nữ Vương tất cả các thánh, hướng dẫn chúng ta trong hành trình tiến về Nước Trời. Amen

Thánh lễ tiến hành như thường lệ. Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ có 6 HY và GM của các giáo phận xuất xứ của 6 vị thánh, đứng đầu là ĐHY Crescenzio Sepe, TGM giáo phận Napoli, 2 vị TGM Ấn độ, và các GM giáo phận Cosenza, Rimini và Vicenza.

Sau thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin. Số tín hữu tham dự tăng thêm hàng chục ngàn người. Trong dịp này ngài đã chào thăm các phái đoàn chính thức từ quốc gia, thành phố và giáo phận nguyên quán của các vị tân Hiển Thánh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Vương quốc tình yêu

Vương quốc tình yêu

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.

Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.

Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.

Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vương quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.

Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.

Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.

Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?

2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?

3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?

4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha cổ võ giúp đỡ những người bị bệnh tự kỷ

Đức Thánh Cha cổ võ giúp đỡ những người bị bệnh tự kỷ

VATICAN. Sáng 22-11-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn tham dự viên Hội nghị quốc tế về bệnh tự kỷ (autisme), và ngài khuyến khích mọi nỗ lực của cá nhân, các tổ chức và chính quyền gia tăng các phương thức giúp đã các bệnh nhân tự kỷ và gia đình họ.

Đây là Hội nghị quốc tế lần thứ 29 do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế tổ chức tại Vatican, từ ngày 20 đến 22-11-2014, và có chủ đề là ”Người bị bệnh tự kỷ: linh hoạt hy vọng”.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng ”Cần có sự dấn thân của tất cả mọi người để cổ võ sự tiếp đón, gặp gỡ, liên đới, qua một hoạt động cụ thể nhắm nâng đỡ và tái cổ võ niềm hy vọng, góp phần phá vỡ sự cô lập, và cả sự kỳ thị đio với những người bị bệnh tự kỷ”.

”Trong việc trợ giúp những người bị bệnh này, điều đáng mong ước là kiến tạo trên lãnh thổ liên hệ một mạng trợ giúp và các dịch vụ đầy đủ và dễ dàng, với sự can dự của cha mẹ, ông bà, bạn hữu, các nhân viên trị liệu, các nhà giáo dục và nhân viên mục vụ. Các nhân vật ấy có thể giúp đỡ các gia đình vượt thắng cảm tưởng về sự không thích hợp, thiếu hiệu năng và bất mãn”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Tôi khuyến khích nỗ lực của các học giả và clac nhà nghiên cứu, nhắm sớm khám phá được những phươgn thức trị liệu và các thể thức nâng đỡ, chữa trị, và nhất là phòng ngừa bệnh tự kỷ. Tất cả những điều đó cần thực hiện trong sự quan tâm đến các quyền của bệnh nhân, các nhu cầu và tiềm năng của họ, luôn bảo tồn phẩm giá của họ”.

Đức TGM Zimowski, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, cho biết Hội nghị này nhắm đáp ứng một cách tốt đẹp hơn những thách đố do bệnh tự kỷ đề ra cho việc mục vụ sức khỏe, cũng như cho khoa học, y khoa, các gia đình, các cơ cấu giáo dục và từ thiện, và nói chung là cho xã hội và các chính quyền (SD 22-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khích lệ các nhà truyền giáo

Đức Thánh Cha khích lệ các nhà truyền giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô khích lệ các nhà truyền giáo Italia hăng say tiếp tục sứ mạng ra đi, mang Tin Mừng hy vọng cho các dân tộc.

Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-11-2014, dành cho 700 tham dự viên Hội nghị toàn quốc Italia lần thứ 4 về truyền giáo, nhóm tại Roma về đề tài ”Hãy trỗi dậy, đến Ninive thành phố lớn nơi Tin Mừng được gặp gỡ”. Trong số các tham dự viên có nhiều vị thừa sai Italia hoạt động ở nước ngoài.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC ca ngợi Giáo Hội tại Italia có nhiều LM và giáo dân thuộc diện Fidei donum (Hồng ân đức tin), tự nguyện ra đi tới những vùng ngoại ô của thế giới, nơi những người nghèo và người xa lạ với Giáo Hội, để xây dựng Hội Thánh tại đó. Ngài nói: ”Đây là một hồng ân cho Giáo Hội hoàn vũ và các dân tộc. Tôi nhắn nhủ anh chị em đừng để bị tước đoạt mất niềm hy vọng và ước mơ thay đổi thế giới nhờ Tin Mừng, nhờ men Phúc Âm, bắt đầu từ các khu ngoại ô của con người và cuộc sống”.

ĐTC cũng giải thích lời mời gọi ”hãy ra ngoài” mà ngài thường nói. ”Ra ngoài có nghĩa là vượt thắng cám dỗ nói về mình, giữa chúng ta, mà quên bao nhiêu người đang mong đợi chúng ta một lời từ bi, an ủi, hy vọng. Tin Mừng của Chúa Giêsu được thể hiện trong lịch sử. Chính Chúa Giêsu là một người ngoại ô, thuộc miền Galilea xa cách các trung tâm quyền lực của Đế quốc Roma và xa Jerusalem. Chúa đã gặp gỡ những người nghèo, các bệnh nhân, những người bị quỉ ám, kẻ tội lỗi, các phụ nữ mại dâm, ngài tập họp một số nhỏ các môn đệ và vài phụ nữ quanh mình, họ lắng nghe và giúp đỡ ngài. Lời của Chúa chính là khởi đầu một khúc quanh trong lịch sử, khởi đầu một cuộc cách mạng tinh thần và nhân bản, là tin mừng về một vị Chúa tể chịu chết và sống lại cho chúng ta”. (SD 22-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: ơn gọi mọi người nên thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: ơn gọi mọi người nên thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 15 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 19-11-2014, ĐTC đã diễn giải về ơn gọi nên thánh tất cả mọi tín hữu.

Trong số những người hiện diện tại buổi tiếp kiến, đông nhất vẫn là các nhóm từ Italia, nhưng cũng có những nhóm quốc tế như 320 người thuộc các tôn giáo khác nhau tham dự cuộc hội thảo do Bộ giáo lý đức tin tổ chức về sự bổ túc cho nhau giữa ngừơi nam và người nữ, hoặc 82 người tham dự cuộc gặp gỡ do Đại hội Giáo Hoàng Thánh Giá của Giám hạt Opus Dei tổ chức.

Bài huấn dụ của ĐTC

Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của thánh Phêrô tông đồ nhắn nhủ các tín hữu hãy nên thánh mọi mọi hành động và cách cư xử, theo lời Chúa dạy ”các ngươi hãy nên thánh và Ta là Đấng Thánh”, ĐTC đã tiếp tục loạt bài huấn giáo về Giáo Hội, và ngài nói về ơn gọi tất cả mọi người nên thánh. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em

Một món quà lớn của Công đồng chung Vatican 2 là đã phục hồi quan niệm về Giáo Hội dựa trên tình hiệp thông và cũng đã đặt lại nguyên tắc quyền bính và phẩm trật trong viễn tượng ấy. Điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng tất cả mọi Kitô hữu, trong tư cách là những người đã chịu phép rửa, đều có cùng phẩm giá trước mặt Chúa và có chung cùng một ơn gọi đó là ơn gọi nên thánh (Xc LG 39-42). Giờ đây chúng ta tự hỏi: ơn gọi tất cả mọi người nên thánh hệ tại điều gì? và làm sao chúng ta thực hiện ơn gọi ấy?

1. Trước tiên chúng ta phải ý thức rõ rằng sự thánh thiện không phải là cái gì chúng ta tự tìm cho mình, hoặc là điều chúng ta đạt được nhờ những đức tính và khả năng của chúng ta. Sự thánh thiện là một hồng ân, là món quà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, khi Chúa nhận lấy chúng ta, làm cho chúng ta được mặc lấy Ngừơi, cho chúng ta được trở nên như Người. Trong thư gửi tín hữu Ephêso, thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định rằng ”Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mình vì Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội nên thánh” (Ep 5,25-26). Quả thực sự thánh thiện là khuôn mặt đẹp đẽ nhất của Giáo Hội: đó là sự tái khám phá mình trong tình hiệp thông với Thiên Chúa, trong cuộc sống và tình yêu sung mãn của Chúa. Vì thế, chúng ta hiểu rằng sự thánh thiện không phải chỉ là đặc quyền của vài người: sự thánh hiện là một hồng ân đưcơ trao tặng cho tất cả mọi người, không loại trừ một ai, và qua đó tạo nên đặc tính nổi bật của mỗi Kitô hữu.

2. Tất cả những điều ấy làm cho chúng ta hiểu rằng, để nên thánh, không nhất thiết phải là GM, LM, hay tu sĩ.. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên thánh! Bao nhiêu lần chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành những người có khả năng xa rời những công việc thường nhật, để hoàn toàn chuyên chăm cầu nguyện. Nhưng không phải như vậy! Có người nghĩ thánh thiện là nhắm mắt, nét mặt như trên tấm ảnh các thánh. Nhưng không phải như thế, thánh thiện là điều cao cả, sâu xa hơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta! Đúng hơn, chính nhờ sống chứng tá Kitô của mình, trong những công việc bận bịu hằng ngày với tình yêu thương và chứng tá Kitô mà chúng ta được mời gọi nên thánh. Và mỗi người, trong hoàn cảnh và bậc sống của mình. Nếu là người thánh hiến, thì hãy nên thánh bằng cách vui sống sự tận hiến và sứ vụ của mình. Nếu bạn là người kết hôn, thì hãy nên thánh trong sự yêu thương và chăm sóc chồng hoặc vợ mình, như Chúa Kitô đã làm với Giáo Hội. Nếu bạn là tín hữu không kết hôn, thì hãy nên thánh bằng cách chu toàn công việc của mình trong sự lương thiện và khả năng chuyên môn và dành thời gian để phục vụ anh chị em mình.

Có người vặn lại: ”Nhưng thưa cha, con làm việc trong một hãng xưởng.. con làm kế toán viên, với toàn những con số, ở đó con không thể nên thánh được…”. Có chứ, bạn có thể nên thánh tại nơi bạn đang làm việc. Thiên Chúa ban cho bạn ơn nên thánh. Thiên Chúa hiệp thông với bạn”. Mỗi ngày ta có thể nên thánh, nghĩa là cởi mở đón nhận ơn thánh, biến đổi chúng ta từ bên trong và dẫn đưa chúng ta đến sự thánh thiện.

Nếu bạn là người cha mẹ hoặc là ông bà nội ngoại, thì hãy nên thánh bằng cách hăng say dạy cho các con các cháu biết và theo Chúa Giêsu. Và điều này đòi nhiều kiên nhẫn, để trở thành cha mẹ tốt, ông bà tốt, và việc nên thánh đến trong sự kiên nhẫn ấy, thực thi đức kiên nhẫn. Bạn là giáo lý viên, là nhà giáo dục hay người thiện nguyện ư? Hãy nên thánh bằng cách trở thành dấu chỉ hữu hình về tình thương của Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài cạnh chúng ta. Vì thế, mỗi bậc sống đều dẫn đến sự thánh thiện. Ở nhà, trên đường, trong công việc, tại nhà thờ. Anh chị em đừng nản chí trên con đường nên thánh. Chính Thiên Chúa ban ơn thánh cho bạn. Điều duy nhất mà Chúa yêu cầu, đó là chúng ta ở trong tình hiệp thông với Chúa và phục vụ anh chị em mình.

3. Về điểm này, mỗi người chúng ta có thể xét mình một chút, để xem cho đến nay ta đã đáp lại lời mọi gọi nên thánh của Chúa như thế nào? Khi Chúa mời gọi chúng ta nên thánh, Ngài không gọi chúng ta thi hành cái gì nặng nề, buồn thảm.. Thực tế hoàn toàn khác hẳn! Đó là lời mời gọi chia sẻ niềm vui của Chúa, sống và vui mừng dâng hiến mỗi lúc trong cuộc sống chúng ta, đồng thời biến nó thành một món quà yêu thương cho những người ở cạnh chúng ta. Nếu chúng ta hiểu điều đó, thì tất cả đều thay đổi và có một ý nghĩa mới, bắt đầu bằng những điều nhỏ bé mỗi ngày.

Một bà đi chợ để mua đồ ăn và thấy một bà láng giếng và họ bắt đầu nói chuyện, và rồi đến những điều nói hành nói xấu. Bà ấy nói: ”Không, không, tôi không thể nói xấu một ai cả”. Đó là một bước tiến về sự thánh thiện, điều ấy giúp bạn nên thánh hơn. Rồi về nhà, đứa con xin bạn nói chuyện một chút về những chuyện tưởng tượng. Bạn nói: ”Ba mệt lắm, hôm nay ba đã làm việc nhiều lắm”. Nhưng nếu bạn kiên nhẫn lắng nghe con, thì đó là một bước tiến đến sự thánh thiện. Rồi đến cuối ngày ai cũng mệt, nhưng nếu bạn nói: chúng ta hãy cầu nguyện! thì đó là một bước tiến đến sự thánh thiện. Chúa nhật, chúng ta đi lễ và rước lễ, và thỉnh thoảng xưng tội, thanh tẩy chúng ta, đó là một bước tiến đến sự thánh thiện! Rồi lòng kính mến Đức Mẹ, tôi đọc kinh mân côi và cầu nguyện. Đó là một bước tiến đến sự thánh thiện.. Có bao nhiêu bước tiến nho nhỏ để nên thánh.. Mỗi bước tiến về sự thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những người tốt lành hơn, được giải thoát khỏi tính ích kẻ và thái độ khép kín vào mình, cởi mở đối với các anh chị em và những nhu cầu của họ.

ĐTC kết luận rằng:

”Các bạn thân mền, trong thư thứ I của Thánh Phêrô, có lời nhắn nhủ này được gửi đến chúng ta: ”Mỗi ngừơi hãy sống theo ơn thánh đã nhận lãnh, dùng ơn ấy để phục vụ tha nhân, như những người quản lý tốt đối với ơn thánh đa dạng của Thiên Chúa. Ai nói thì hãy nói với những lời của Thiên Chúa, ai thi hành một chức vụ, thì hãy chu toàn với nghị lực đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh nhờ Đức Giêsu Kitô” (4,10-11). Đó là lời mời gọi nên thánh! Chúng ta hãy vui mừng đón nhận lời mời ấy và nâng đỡ nhau, vì con đường dẫn đến sự thánh thiện chúng ta không đi một mình, mỗi người lo cho mình, nhưng chúng ta cùng nhau tiến bước, trong một thân thể duy nhất là Giáo Hội, được Chúa Giêsu yêu thương và làm cho trở nên thánh thiện”.

Chào thăm và nhắn nhủ

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Đặc biệt với các tín hữu Ba Lan, ngài nói thêm rằng: ”Hôm qua, chúng ta đã kính nhớ chân phước Karolina Kozka, trinh nữ tử đạo, trong năm kỷ niệm 100 năm cuộc tử đạo của Người. Người thiếu nữ này đã thực hiện ơn gọi nên thánh của mình bằng cách tận hiến phục vụ tha nhân, qua sự chăm sóc tâm hồn khiết tịnh và trung thành với Chúa Kitô cho đến độ hiến cả mạng sống. Ước gì tấm gương của chân phước Kozka khích lệ tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ, tìm kiếm những con đường nên thánh, kể cả khi phải đi ngược dòng, ngược với những xu hướng ngày nay tìm kiếm cuộc sống dễ dãi, chỉ lo tìm lạc thú ích kỷ. Tôi phó thác các thành viên Phong trào Tâm Hồn khiết tịnh cho sự phù hộ của chân phước Karolina Kózka”.

Khi chào các tín hữu bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt nhắc đến các nhà chuyên nghiệp, chủ xí nghiệp xã hội đang tham dự Hội nghị do Diễn Đàn Kinh Tế thế giới tổ chức, với sự cộng tác của các Đại học Giáo Hoàng ở Roma, để thăng tiến những con đường và thái độ giúp vượt thắng sự loại trừ về mặt xã hội và kinh tế. Tôi cầu chúc sáng kiến này góp phần tạo điều kiện cho một tâm thức mới, trong đó tiền bạc không được coi như thần tượng phải phụng sự, nhưng như một phương thế để đạt được ích chung.

ĐTC cũng chào thăm các tham dự viên cuộc Hội thảo quốc tế do Bộ giáo lý đức tin tổ chức về đề tài sự bổ túc cho nhau giữa người nam và người nữ.

Sau cùng khi chào các bạn trẻ, các bệnh nhân và những người mới kết hôn, ĐTC nhắc nhở rằng ”Tháng 11, Phụng vụ mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời. Chúng ta đừng quên những người thân yêu, các ân nhân và tất cả những người đã ra đi trước chúng ta trong đức tin: việc cử hành Thánh Lễ là trợ giúp tinh thần tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể mang lại cho các linh hồn quá cố. Chúng ta cũng hãy nhớ đến các nạn nhân bị lũ lụt mới đây ở miền Liguria và Bắc Italia: chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cho các thân nhân của họ và chúng ta liên đới với những người bị thiệt hại”.

G. Trần Đức Anh OP  – Vatican Radio

Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?

Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt 25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người, và nếu thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ không phải là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều cần thiết; nhất là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, đang muốn gởi tới tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời sống Tin Mừng của tôi.

Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới đoạn Tin Mừng Luca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều (xem Lc 7,36-50), trong đó Đức Giêsu khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”.

Trước hết số yến bạc có là năm, hai, hay một (NB: dụ ngôn này trong Luca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19,11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và nhiều điều khác nữa; thế nhưng Kitô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ trao ban cho chúng ta một thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu tha thứ, và nén bạc này thì mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giêsu Kitô đã dùng cả cuộc đời Người để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Kitô hữu tìm thấy chính là ‘ơn cứu độ’ Chúa ban. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều tự biết mình đã nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội và trong suốt năm tháng cuộc đời, kẻ năm, người hai… tùy theo nhận định riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi. Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước biết mình nhận được một số yến bạc nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc khác; “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, còn người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên đào lỗ chôn giấu. Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được tha ít (đúng hơn cho là mình được tha ít) thì yêu mến ít” (Lc 7,43.47). Thái độ và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế tôi đâm sợ…” Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ thứ tha, thì cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa quá đòi hỏi và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và đôi khi còn sống trong sợ hãi. Đức Giêsu đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần tới độ một số kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ vì họ cảm thấy mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì tới lòng nhân lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).

Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra trước Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận ra mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời phán quyết của Ông Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm thấy mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ của đầy tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã trong sạch và không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” để rồi phải nghe phán quyết nghiêm thẳng của Con Người quang lâm: hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và sử với nó theo đúng luật công bằng: “hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc lóc nghiến răng’, vì sẽ không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như thế.

Kitô hữu sẽ là những người ngày cánh chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28), không phải vì họ đã thánh thiện và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời Kitô hữu của mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ yên lòng ‘ngẩng đầu’ tiến đến trước mặt ‘Ngài Quan Án’ từ nhân, giầu lòng thương xót, và hay thứ tha.

Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì chúng con đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. Amen.

Hãy dùng thời gian để yêu thương

Hãy dùng thời gian để yêu thương

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)

Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì ngàn năm đối với Chúa như một ngày.

Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.

Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.

Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.

Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi, nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Ngài. Ngài là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người đạt tới sự sống viên mãn.

Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.

Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.

Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.

Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.

Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39 – 40).

Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1 – 3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33 – 37; Lc 17, 22 – 37; 21, 35)

Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo… đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng… Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.

Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gio-an còn định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.

Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.

Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban. Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".

Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.

Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:

Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh

Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan

Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác

Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn

Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai

Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa

Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa

Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.

Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu.

Công bố chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Sri Lanka và Philippines

Công bố chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Sri Lanka và Philippines

VATICAN. ĐTC sẽ viếng thăm Sri Lanka và Philippines từ ngày 12 đến 19-1 năm tới, 2015.

Theo chương trình do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 14-11 vừa qua, ĐTC sẽ rời Roma lúc 7 giờ tối thứ hai, 12-1 và tới phi trường thủ đô Colombo của Sri Lanka lúc 9 giờ sáng hôm sau, 13-1.

Sau nghi thức tiếp đón tại Phi trường, ĐTC sẽ gặp gỡ các GM Sri Lanka lúc 1 giờ 15 phút trưa tại tòa TGM Colombo.

Ban chiều cùng ngày, lúc 5 giờ, ngài sẽ viếng thăm Tổng thống tại Phủ Tổng thống, trước khi tham dự cuộc gặp gỡ liên tôn lúc 6 giờ 15 tại Trung tâm hội nghị quốc tế Bandaramaike Memorial.

– Sáng thứ tư, 14-1, lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ phong Hiển Thánh cho chân phước Joseph Vaz, vị tông đồ của Sri Lanka, tại Công viên Galle Face Green cạnh bờ biển.

Ban chiều lúc 2 giờ, ĐTC sẽ đáp trực thăng đến Đền thánh Đức Mẹ Madhu để kính viếng và gặp gỡ các tín hữu vào lúc 3 giờ rưỡi, rồi trở về thủ đô. – Sáng thứ năm 15-1, lúc 8 giờ 15, ngài sẽ kính viếng Nhà Nguyện Đức Mẹ Lanka ở Bolawalana, mạn bắc Colombo, trước khi ra phi trường lúc 9 giờ để đáp máy bay đi Manila, Philippines.

ĐTC sẽ đến sân bay quân sự Villamor ở Manila lúc gần 6 giờ chiều cùng ngày 15-1.

Lễ nghi đón tiếp chính thức sẽ diễn ra tại Phủ Tổng Thống lúc 9 giờ 15 sáng hôm sau, thứ sáu 16-1. Ngài gặp gỡ Tổng thống và các quan chức chính quyền cùng với đoàn ngoại giao.

Ban trưa, lúc 11 giờ 15, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ với các GM, LM, trước sự tham dự của các tu sĩ nam nữ tại Nhà Thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Manila.

Lúc 5 giờ rưỡi chiều cùng ngày ngài sẽ gặp gỡ các gia đình tại Hội trường Mall of Asia Arena.

– Thứ bảy 17-1, ĐTC sẽ rời Manila bay tới thành phố Tacloban và dâng thánh lễ tại Phi trường quốc tế ở địa phương lúc 10 giờ. Sau đó ngài sẽ dùng bữa trưa với một số những người sống sót trong trận cuồng phong Hayan hồi tháng 11 năm 2013.

Ban chiều cùng ngày, lúc 3 giờ, ĐTC sẽ làm phép trung tâm cho người nghèo rồi gặp gỡ các LM, tu sĩ nam nữ và những người sống sót tại Nhà thờ chính tòa Palo, rồi trở về Manila.

– Sáng Chúa nhật 18-1, ĐTC sẽ gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo ở Đại Học Santo Tomas ở Manila rồi gặp gỡ các bạn trẻ tại Sân thể thao của đại học vào lúc 10 giờ rưỡi.

Ban chiều ĐTC sẽ cử hành thánh lễ lúc 3 giờ rưỡi tại Công viên Rizal Park cũng ở Manila.

– Sáng thứ hai, 19-1, sau nghi thức tiễn biệt tại Sân bay quân sự Villamor, Manila, ngài sẽ đáp máy bay lúc 10 giờ sáng để trở về Roma, dự kiến sẽ tới phi trường Ciampino Roma vào lúc 5 giờ 40 phút chiều cùng ngày 19-1. (SD 14-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thành lập Hội đồng đặc biệt tại Bộ giáo lý đức tin

Thành lập Hội đồng đặc biệt tại Bộ giáo lý đức tin

VATICAN. ĐTC đã quyết định thành lập một hội đồng đặc biệt tại Bộ Giáo Lý đức tin để đẩy mạnh việc xét xử mau lẹ hơn những vụ kháng án về tội nặng thuộc quyền xử của Bộ này.

Vì con số cao những vụ kháng án được gửi về Bộ giáo lý đức tin và để bảo đảm cho Bộ này có thể xét xử nhanh chóng, qua phúc chiếu trong buổi tiếp kiến ĐHY Pietro Parolin ngày 3-11-2014, ĐTC quyết định thành lập tại Bộ giáo lý đức tin một Hội đồng đặc biệt gồm 7 Hồng y hoặc Giám mục, các vị này có thể là thành viên hoặc là những người ở ngoài bộ. Vị chủ tịch Hội đồng này và các thành viên do ĐTC bổ nhiệm.

ĐTC cũng đề ra một số chi tiết về cách hoạt động của Hội đồng đặc biệt này đồng thời cho biết một qui luật nội bộ của Hội đồng sẽ xác định thêm các thể thức tiến hành. Ngoài ra, ngài quyết định rằng sắc luật điều hành này được đăng trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11-11-2014, sau đó sẽ được đăng trên Công báo của Tòa Thánh (Acta Apostolicae Sedis).

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh giải thích rằng: cho đến nay, mỗi tháng một lần vào ngày thứ tư, các thành viên của Bộ giáo lý đức tin nhóm họp và cứu xét trung bình 4, hay 5 vụ kháng án. Phần lớn những vụ này liên quan đến việc lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.

Về những tội chống lại đức tin, thì thẩm quyền xét xử ở cấp I là GM giáo phận đối với các linh mục triều, và Bề trên cấp cao dòng đối với các tu sĩ. Nếu đương sự kháng án thì hồ sơ được Bộ giáo lý đức tin cứu xét trong khóa họp thường lệ. Từ nay Bộ có một Hội đồng đặc biệt để cứu xét các vụ kháng án. Nếu bị can là Giám Mục và là vụ đặc biệt tế nhị thì Bộ sẽ cứu xét trong khóa họp thường lệ, và trong trường hợp này các thành viên của Bộ có thể xin ĐTC đích thân cứu xét những vụ đặc biệt tế nhị.

Tự sắc ”Bảo vệ tính chất thánh thiêng của các bí tích” (Sacramentorum sanctitatis tulela) do Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo hoàng ban hành năm 2001 và được ĐGH Biển Đức 16 cập nhật năm 2010, có liệt kê một số tội nặng thuộc quyền xét xử của Bộ giáo lý đức tin về mặt hình luật, tư pháp hoặc hành chánh, ví dụ tội lấy hoặc giữ Mình Thánh Chúa để xúc phạm hoặc phạm thánh, giải tội cho người đồng phạm về điều răn thứ 6, xúi giục hoặc dụ dỗ người khác phạm điều răn này trong khi hoặc nhân dịp giải tội cho đương sự, vi phạm ấn tích bí mật tòa giải tội, giáo sĩ phạm điều răn thứ 6 với một trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi, v.v.

Hồi tháng 7-2010, Bộ giáo lý đức tin đã công bố một văn kiện kỷ luật chứa đựng những qui luật mới liên quan đến những tội nặng. Bộ coi việc truyền chức LM cho phụ nữ như một ”tội chống lại đức tin” và Bộ kéo dài thời hiệu (prescription) trong những vụ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên từ 10 lên 20 năm (sau khi nạn nhân tròn 18 tuổi). Bộ cũng coi tội dâm ô trẻ em (pornographie infantile) là một tội nặng. (SD 11-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lớp Sáu – Bài Học #6 – “Sống Chữ Hiếu”

Xem => "Bài Học -06 – Sống Chữ Hiếu"

Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương.

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba”. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: “Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao?”. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện”.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang? Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: “Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.

SongChuHieu

ViSaoSongTronChuHieu

Chủ chăn không được độc đoán nhưng phải khiêm tốn và biết lắng nghe

Chủ chăn không được độc đoán nhưng phải khiêm tốn và biết lắng nghe

Ý thức chức thừa tác là một ơn Chúa ban chứ không phải vì mình thông minh, tài giỏi, tốt lành hơn người khác, giúp các Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế biết sống khiêm tốn, cảm thông, thương xót, biết lắng nghe và học hỏi từ người khác, chứ không độc đoán, làm như thể cộng đoàn là của riêng mình và mọi người phải quỳ phục dưới chân mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với háng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi găp gỡ chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 12-11-2014.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý các đức tính mà các vị thừa tác của Giáo Hội phải có để sống việc phục Giáo Hội một cách đích thực và phong phú.

Mở đầu bài huấn Đức Thánh Cha nói: Trong bài giáo lý trước chúng ta đã minh nhiên sự kiện Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên Ngài qua chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế. Chính nơi các vị Chúa Giêsu hiện diện, trong quyền lực của Thần Khí Ngài, và tiếp tục phục vụ Giáo Hội bằng cách dưỡng nuôi đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội. Như thế, các chức thừa tàc này là một ơn lớn lao Chúa ban cho mỗi cộng đoàn kitô và cho toàn thể Giáo Hội, trong nghĩa nó là một dấu chỉ sống động sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Vậy chúng ta có thể tự hỏi đâu là điều được đỏi hỏi nơi các vị thừa tác này của Giáo Hội, để họ có thể sống việc phục vụ của mình một cách đích thật và phong phú?

Trong các ”Thư mục vụ” gửi các môn đệ của mình là Timoteo và Tito, tông đồ Phaolô cẩn thận đừng lại trên gương mặt của các giám mục, linh mục và phó tế, bằng cách phác họa ra ơn gọi của các vị và các đức tính cần được nhận ra nơi những người được chọn và trao phó cho các chức thừa tác này.

Thật là biểu hiệu, cùng với các ơn gắn liền với đức tin và cuộc sống tinh thần, có vài đức tính rất nhân bản được liệt kê ra: sự tiếp đón, thanh đạm, kiên nhẫn, hiền dịu, có thể tin cậy, có con tim tốt. Đó là mẫu tự, đó là văn phạm nền tảng của mỗi chức thừa tác. Nó phải là văn phạm nền tảng của mỗi giám mục, mỗi linh mục, mỗi phó tế. Phải, vì nếu không có bẩm chất xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, trân qúy và liên lạc với các anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì không thể cống hiến một phục vụ và một chứng tá thực sự tươi vui và đáng tin cậy.

Thế rồi còn có một cung cách nền tảng mà thánh Phaolô khuyên nhủ các môn đệ của người và tất cả những ai được thụ phong chức thừa tác mục tử. Thánh tông đồ khích lệ họ liên tục làm sống lại ơn đã nhận lãnh (X. 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Điều này có nghĩa là họ phải luôn luôn sống trong ý thức rằng mình không phải giám mục, linh muc hay phó tế bởi vì mình thông minh hơn, tài giỏi hay tốt hơn các người khác, nhưng chỉ vì đó là một ơn, một ơn của tình yêu Thiên Chúa đã rộng ban, trong quyền năng Thần Khí của Người, cho thiện ích của dân Người. Ý thức này thật là quan trọng, và nó là một ơn cần phải xin mỗi ngày.

Thật thế, một Mục tử ý thức được rằng chức thừa tác của mình chỉ nảy sinh duy nhất từ lòng thương xót và từ con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ quyền uy, làm như thể là tất cả mọi người phải qùy dười chân mình và cộng đoàn là của riêng mình, là vương quốc của mình.

Ý thức rằng tất cả là quà tặng, tất cả là ơn thánh, cũng giúp một Mục tử không rơi vào chước cám dỗ đặt mình làm trung tâm sự chú ý và chỉ tin tưởng nơi chính mình. Thật khốn cho một giám mục, một linh mục, hay một phó tế nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, luôn luôn có câu trả lời đúng cho mọi chuyện, và không cần tới ai hết! Trái lại, ý thức mình là người đầu tiên là đối tượng lòng thương xót và cảm thương của Thiên Chúa phải dẫn đưa một vị thừa tác tới chỗ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông đối với người khác. Tuy ý thức là mình được mời gọi can đảm giữ gìn kho tàng đức tin (x. 1 Tm 6,20) người ấy sẽ lắng nghe dân chúng. Thật vậy, họ ý thức được rằng mình luôn luôn học hỏi được điều gì đó, cả từ những người còn xa đức tin và xa Giáo Hội. Rồi với các anh em mình tất cả phải đưa tới chỗ có một cung cách hành xử mới, mang dấu vết của sự chia sẻ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự hiệp thông.

Các bạn thân mến, chúng ta phải luôn luôn nhớ ơn Chúa, bởi vì nơi con người và trong chức thừa tác của các giám mục, linh mục và phó tế, Người tiếp tục hướng dẫn và đào tạo Giáo Hội Người, khiến cho nó lớn lên dọc dài con đường nên thánh. Đồng thới chúng ta cũng phải tiếp tục cầu nguyện, để cho các Mục Tử của các cộng đoàn chúng ta là hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu thương của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ các nườc Âu châu và Bắc Mỹ cũng như tín hữu đến từ Nam Phi, Indonesia, Nhật Bản, Argentina, Mehicô và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng Arập, đặc biệt đoàn hành hương đến từ Giordania, Đức Thánh Cha khẳng định rằng lời mời gọi của Thiên Chúa luôn luôn là hoa trái lòng quảng đại, cảm thông và thương xót của Người. Ngài xin họ cầu nguyện cho các chủ chăn, để các vị thi hành chức thừa tác với lòng khiêm nhường, tinh thần phục vụ và biết lắng nghe, và trở thành hình ảnh sống động của sự hiệp thông và tình yêu của Chúa. Đức Thánh Cha xin Chúa chúc lành cho họ và che chở họ khỏi kẻ dữ.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan ngài nhắc tới kỷ niệm 25 năm lễ phong chân phước cho tu huynh Alberto Adam Chmielowski. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi người là ”Bổn mạng của sự thay đổi khó khăn của đất nước chúng ta và Âu châu”. Chúng ta hãy học hỏi nơi thánh nhân việc thực thi tình yêu thương xót đối với những người cần được trợ giúp là hình ảnh sống động của Chúa Kitô.

Với các tín hữu Mehicô Đức Thánh Cha chia buồn về vụ các sinh viên học sinh mất tích, nhưng thật ra là bị ám sát. Thực tại thê thảm này của nạn tội nằm phạm đàng sau việc buôn bán ma túy. Nó liên quan tới anh chị em và gia đình anh chị em.

Trông thấy một nhóm quân nhân Chile Đức Thánh Cha nói trong những ngày này chúng ta đang kỷ niệm 30 năm ký kết hiệp định hòa bình giữa Argentina và Chile, liên quan tới việc tranh chấp biên giới giữa hai bên. Hiệp định đã có thể ra đời nhờ ý chí đối thoại và sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II và Đức Hồng Y Samore. Đức Thánh Cha cầu mong tất cả các dân tộc đang xung khắc và tranh chấp nhau liên quan tới biên giới, văn hóa và mọi lý do khác tìm giải quyết chúng qua việc đối thoại, chứ không qua sự tàn ác của chiến tranh.

Với các đoàn hành hương nói tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các Nữ tu Scalabrini, các Nữ tu Cát minh thừa sai của Chúa Giêsu Hài đồng đang họp tổng tu nghị, các sinh viên và giáo sư Phân khoa Khoa học xã hội của Đại học giáo hoàng Salesien nhân kỷ niệm 25 năm thành lập; các gia đình có con cái là nạn nhân giao thông và những người bị mất tích. Ngài cầu nguyện cho những người đã thiệt mạng vì các tai nạn lưu thông cũng như cho những người đã không bao giờ trở về với tình yêu thương gia đình.

Sau khi xướng tên của nhiều nhóm khác Đức Thánh Cha cầu chúc chuyến hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ củng cố nơi họ ý thức thuộc gia đình Giáo Hội.

Chào các bạn trẻ, các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài nhắc cho mọi người biết hôm thứ ba vừa qua Giáo Hội mới mừng lễ thánh Martino thành Tours. Ngài xin cho gương bác ái lớn lao của thánh nhân nêu gương sống hiến thân cho các bạn trẻ; lòng tín thác của người nơi Chúa Kitô Cứu Thế nâng đỡ các người đau yếu trong những lúc khổ đau; và sức mạnh tinh thần của thánh nhân nhắc nhớ cho các cặp vợ chồng mới cưới lấy đức tin làm trung tâm điểm cuộc sống hôn nhân.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho tất cả mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Dấn thân thắng vượt mọi biên giới thù nghịch và thờ ơ và đạp đổ mọi bức tường chia rẽ

Dấn thân thắng vượt mọi biên giới thù nghịch và thờ ơ và đạp đổ mọi bức tường chia rẽ

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người dấn thân để nhân loại thắng vượt được các biên giới thù nghịch và thờ ơ, xây dựng các cây cầu hiểu biết và đối thoai để làm cho thế giới trở thành một gia đình các dân tộc hỏa giải với nhau, huynh đệ và liên đới, trong đó không ai bị bách hại và giết chết vì niềm tin và tôn giáo của mình.

Ngài đã gióng lên lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hươmg trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô nhân ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano và kỷ niệm 25 năm Bức tường Berlin sụp đổ.

Nhắc tới ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma, được truyền thống định nghĩa là ”mẹ của mọi nhà thờ trong thành Roma và trên toàn thế giới”, Đức Thánh Cha nói:

Với từ ”mẹ” người ta quy không quy chiếu về dinh thự thánh của Vương cung thánh đường cho bằng công trình của Chúa Thánh Thần, là Đấng tự biểu lộ trong đền thánh, bằng cách sinh hoa trái qua chức thừa tác của Giám Mục Roma, trong tất cả các cộng đoàn hiệp nhất với Giáo Hội mà người chủ sự. Vì thế, với lễ này chúng ta tuyên xưng, trong sự hiệp nhất đức tin, rằng mối dây hiệp thông mà tất cả các Giáo Hội địa phương, rải rác trên trái đất có với Giáo Hội Roma và với Giám Mục của nó, là Người kế vị thánh Phêrô.

Việc cử hành sự dâng hiến một thánh đường nhắc nhở cho chúng ta biết một sự thật nòng cốt: đền thờ vật chất làm bằng gạch là dầu chỉ của Giáo Hội sống động trong lịch sử, nghĩa là của ”đền thờ tinh thần”, mà Chúa Kitô là ”viên đá sống động, bị loài người loại bỏ nhưng được lựa chọn và qúy gía trước mặt Thiên Chúa, như tông đồ Phêr nói (x. Pr 2,4-8). Trong Phúc Âm của phụng vụ hôm nay, khi nói về đền thờ, Chúa Giêsu đã vén mở một sự thật gây đảo lộn: đó là đền thờ của Thiên Chúa không phải là đền đài lám bằng gạch, nhưng là thân mình Người, được làm bằng các viên đá sống động. Nhờ sức mạnh của bí tích Thánh Tẩy, mỗi kitô hữu là phần ”đền thờ của Thiên Chúa”, như thánh Phaolô nhắc nhớ (1 Cr 3,9). Còn hơn thế nữa, họ trở thành Giáo Hội của Thiên Chúa. Đền thờ tinh thần, Giáo Hội, cộng đoàn của những người đươc thánh hiến bởi máu Chúa Kitô và Thần Khí của Chúa phục sinh, xin từng người trong chúng ta trung thực trong cuộc sống đức tin và chứng tá, mà chúng ta phải bước đi và sống mỗi ngày. Đó là một kitô hữu, không phải bằng điều mình nói, nhưng bởi điều mình làm, bởi cung cách hành xử của mình. Sự trung thực trao ban sự sống cho chúng ta là một ơn đến từ Chúa Thánh Thần mà chúng ta phải xin mỗi ngày. Giáo Hội, trong nguồn gốc sự sống và sứ mệnh của nó trong thế giới, không là gì khác hơn là một cộng đoàn được thành lập để tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ con người, một lòng tin hoạt động bác ái. Cả ngày nay nữa Giáo Hội được mời gọi là cộng đoàn đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô qua bí tích Rửa Tội, tuyên xưng niềm tin nơi Người với lòng khiêm tốn và can đảm và làm chứng cho niềm tin ấy trong tình bác ái. Các yếu tố cơ cấu và các tổ chức mục vụ cũng phải được hướng tới các mục tiêu chính yếu này.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về sự hiệp thông của tất cả mọi Giáo Hội, nghĩa là của cộng đoàn kitô dấn thân để nhân loại thắng vượt được các biên giới của thù nghịch và thờ ơ, xây dựng các cây cầu hiểu biết và đối thoai để làm cho thế giới trở thành một gia đình các dân tộc hòa giải với nhau, huynh đệ và liên đới. Giáo Hội chính là dấu chỉ diễn tả trước nhân loại mới này, khi sống và phổ biến, với chứng tá của mình, Tin Mưng sứ điệp hy vọng và hòa giải cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử cả Mẹ Maria Rất Thánh, để Mẹ giúp chúng ta trở thành ”nhà của Thiên Chúa” như Mẹ, là đền thờ sống động của tình yêu Người.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin, nhắc đến biến cố kỷ niệm 25 năm sụp đổ của bức tường Berlin, biểu tượng của sư ngăn đôi thành phố và sự chia rẽ ý thức hệ của Âu Châu và toàn thế giới, Đức Thánh Cha nói: Sự sụp đổ đã xảy ra một cách bất thình lình, nhưng nó đã có thể xảy ra nhờ dấn thận lâu dài và vất vả của biết bao nhiêu người đã đấu tranh, cầu nguyện, đau khỗ, và hy sinh mạng sống của nhiều người. Trong số những người đó thánh Gioan Phaolô II đã có một vai trò tác nhân. Chúng ta hãy cầu nguyện để với sự trợ giúp của Chúa và sự cộng tác của mọi người thiện chí, ngày càng được phổ biến một nền văn hóa gặp gỡ, có khả năng đánh đổ tất cả mọi bức tường còn chia rẽ thế giới, và đừng xảy ra nữa cảnh các người vô tội bị bách hại và bị giết chết vì niềm tin và tôn giáo của họ. Ở đâu có một bức tường, là ở đó có con tin đóng kín. Chúng ta cần các cây cầu, chứ không cần các bức tường.

Đức Thánh Cha cũng nhắc tới Ngày Tạ Ơn cử hành tại Italia với đề tài “Nuôi sống hành tinh. Năng lực cho sự sống”, nhắm tời cuộc triển lãm quốc tế Milano năm 2015. Ngài hiệp ý với các Giám Mục cầu mong mọi người tái dấn thân để đừng ai thiếu thực phẩậm hằng ngày, mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người. Ngài cũng gần gữi thế giới nông nghiệp và khích lệ các nông dân vun trồng trái đất trong tình liên đới và chừng mực. Tại Roma là Ngày giáo phận giữ gìn thụ tạo nhằm cổ võ các kiểu sống tno trọng môi sinh, tái khẳng định liên minh giữa con người, thụ tạo và Đấng Tạo Hóa. Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu hiện diện và xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các chủng sinh Pháp

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi các chủng sinh Pháp

VATICAN. ĐTC khích lệ các chủng sinh Pháp vun trồng tình huynh đệ, đời sống cầu nguyện và chuẩn bị thi hành sứ mạng sẽ nhận lãnh.

Ngài đưa ra những lời nhắn nhủ trên đây trong sứ điệp gửi đến hàng trăm chủng sinh Pháp vừa kết thúc cuộc hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức hôm qua, 10-11. Sứ điệp của ĐTC đã được Đức Cha Georges Pontier, TGM Marseille, Chủ tịch HĐGM Pháp, tuyên đọc trong buổi canh thức cầu nguyện khai mạc cuộc hành hương chiều chúa nhật 9-11.

ĐTC khẳng định rằng tình huynh đệ giữa các môn đệ của Chúa là thành phần ơn gọi của họ. Sứ vụ linh mục không thể có tính chất cá nhân và càng không thể có đặc tính cá nhân chủ nghĩa. Vì thế, ngài mời gọi các chủng sinh hết sức hăng say tập luyện sống tình huynh đệ trong thời gian thụ huấn, đây là điều rất hữu ích sau khi chịu chức.

Tiếp đến là kinh nguyện. ĐTC nhắn nhủ các chủng sinh mỗi ngày hãy dành những lúc lâu dài cho kinh nguyện để trở thành người của thiên Chúa, có khả năng dẫn về cùng Chúa Cha những người mà linh mục được sai tới, noi gương Chúa Giêsu, đã đã lui vào nơi thinh lặng và thanh vắng để chìm đắm trong mầu nhiệm Chúa Cha. Ngài cũng mời gọi các chủng sinh đừng sợ sự khô khan bao gồm trong kinh nguyện”.

Sau cùng về sứ mạng, ĐTC nhắc nhở các chủng sinh rằng: ”Tất cả những gì các thầy làm trong thời kỳ thụ huấn đều nhắm một mục đích, đó là trở thành những môn đệ thừa sai khiêm tốn để làm cho những người khác trở thành môn đệ của Chúa”. Ngài khuyến khích các chủng sinh hãy chuẩn bị cho sứ mạng đó, bằng cách tập luyện phản xạ ra khỏi chính mình, để gặp gỡ tha nhân, học biết thế giới mà mình sẽ được sai đến, và dành ưu tiên cho những người ở xa nhất. ĐTC viết: ”Khi đến các nơi ngoại biên, ta cũng động chạm đến trung tâm, vì chính từ đó mà Đấng Phục Sinh đã đi trước các môn đệ” (SD 10-11-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dấn thân thắng vượt mọi biên giới thù nghịch và thờ ơ và đạp đổ mọi bức tường chia rẽ

Dấn thân thắng vượt mọi biên giới thù nghịch và thờ ơ và đạp đổ mọi bức tường chia rẽ

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người dấn thân để nhân loại thắng vượt được các biên giới thù nghịch và thờ ơ, xây dựng các cây cầu hiểu biết và đối thoai để làm cho thế giới trở thành một gia đình các dân tộc hỏa giải với nhau, huynh đệ và liên đới, trong đó không ai bị bách hại và giết chết vì niềm tin và tôn giáo của mình.

Ngài đã gióng lên lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hươmg trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô nhân ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano và kỷ niệm 25 năm Bức tường Berlin sụp đổ.

Nhắc tới ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma, được truyền thống định nghĩa là ”mẹ của mọi nhà thờ trong thành Roma và trên toàn thế giới”, Đức Thánh Cha nói:

Với từ ”mẹ” người ta quy không quy chiếu về dinh thự thánh của Vương cung thánh đường cho bằng công trình của Chúa Thánh Thần, là Đấng tự biểu lộ trong đền thánh, bằng cách sinh hoa trái qua chức thừa tác của Giám Mục Roma, trong tất cả các cộng đoàn hiệp nhất với Giáo Hội mà người chủ sự. Vì thế, với lễ này chúng ta tuyên xưng, trong sự hiệp nhất đức tin, rằng mối dây hiệp thông mà tất cả các Giáo Hội địa phương, rải rác trên trái đất có với Giáo Hội Roma và với Giám Mục của nó, là Người kế vị thánh Phêrô.

Việc cử hành sự dâng hiến một thánh đường nhắc nhở cho chúng ta biết một sự thật nòng cốt: đền thờ vật chất làm bằng gạch là dầu chỉ của Giáo Hội sống động trong lịch sử, nghĩa là của ”đền thờ tinh thần”, mà Chúa Kitô là ”viên đá sống động, bị loài người loại bỏ nhưng được lựa chọn và qúy gía trước mặt Thiên Chúa, như tông đồ Phêr nói (x. Pr 2,4-8). Trong Phúc Âm của phụng vụ hôm nay, khi nói về đền thờ, Chúa Giêsu đã vén mở một sự thật gây đảo lộn: đó là đền thờ của Thiên Chúa không phải là đền đài lám bằng gạch, nhưng là thân mình Người, được làm bằng các viên đá sống động. Nhờ sức mạnh của bí tích Thánh Tẩy, mỗi kitô hữu là phần ”đền thờ của Thiên Chúa”, như thánh Phaolô nhắc nhớ (1 Cr 3,9). Còn hơn thế nữa, họ trở thành Giáo Hội của Thiên Chúa. Đền thờ tinh thần, Giáo Hội, cộng đoàn của những người đươc thánh hiến bởi máu Chúa Kitô và Thần Khí của Chúa phục sinh, xin từng người trong chúng ta trung thực trong cuộc sống đức tin và chứng tá, mà chúng ta phải bước đi và sống mỗi ngày. Đó là một kitô hữu, không phải bằng điều mình nói, nhưng bởi điều mình làm, bởi cung cách hành xử của mình. Sự trung thực trao ban sự sống cho chúng ta là một ơn đến từ Chúa Thánh Thần mà chúng ta phải xin mỗi ngày. Giáo Hội, trong nguồn gốc sự sống và sứ mệnh của nó trong thế giới, không là gì khác hơn là một cộng đoàn được thành lập để tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ con người, một lòng tin hoạt động bác ái. Cả ngày nay nữa Giáo Hội được mời gọi là cộng đoàn đâm rễ sâu nơi Chúa Kitô qua bí tích Rửa Tội, tuyên xưng niềm tin nơi Người với lòng khiêm tốn và can đảm và làm chứng cho niềm tin ấy trong tình bác ái. Các yếu tố cơ cấu và các tổ chức mục vụ cũng phải được hướng tới các mục tiêu chính yếu này.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Ngày lễ cung hiến Vương cung thánh đường Laterano hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về sự hiệp thông của tất cả mọi Giáo Hội, nghĩa là của cộng đoàn kitô dấn thân để nhân loại thắng vượt được các biên giới của thù nghịch và thờ ơ, xây dựng các cây cầu hiểu biết và đối thoai để làm cho thế giới trở thành một gia đình các dân tộc hòa giải với nhau, huynh đệ và liên đới. Giáo Hội chính là dấu chỉ diễn tả trước nhân loại mới này, khi sống và phổ biến, với chứng tá của mình, Tin Mưng sứ điệp hy vọng và hòa giải cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy khẩn nài sự bầu cử cả Mẹ Maria Rất Thánh, để Mẹ giúp chúng ta trở thành ”nhà của Thiên Chúa” như Mẹ, là đền thờ sống động của tình yêu Người.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin, nhắc đến biến cố kỷ niệm 25 năm sụp đổ của bức tường Berlin, biểu tượng của sư ngăn đôi thành phố và sự chia rẽ ý thức hệ của Âu Châu và toàn thế giới, Đức Thánh Cha nói: Sự sụp đổ đã xảy ra một cách bất thình lình, nhưng nó đã có thể xảy ra nhờ dấn thận lâu dài và vất vả của biết bao nhiêu người đã đấu tranh, cầu nguyện, đau khỗ, và hy sinh mạng sống của nhiều người. Trong số những người đó thánh Gioan Phaolô II đã có một vai trò tác nhân. Chúng ta hãy cầu nguyện để với sự trợ giúp của Chúa và sự cộng tác của mọi người thiện chí, ngày càng được phổ biến một nền văn hóa gặp gỡ, có khả năng đánh đổ tất cả mọi bức tường còn chia rẽ thế giới, và đừng xảy ra nữa cảnh các người vô tội bị bách hại và bị giết chết vì niềm tin và tôn giáo của họ. Ở đâu có một bức tường, là ở đó có con tin đóng kín. Chúng ta cần các cây cầu, chứ không cần các bức tường.

Đức Thánh Cha cũng nhắc tới Ngày Tạ Ơn cử hành tại Italia với đề tài “Nuôi sống hành tinh. Năng lực cho sự sống”, nhắm tời cuộc triển lãm quốc tế Milano năm 2015. Ngài hiệp ý với các Giám Mục cầu mong mọi người tái dấn thân để đừng ai thiếu thực phẩm hằng ngày, mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người. Ngài cũng gần gữi thế giới nông nghiệp và khích lệ các nông dân vun trồng trái đất trong tình liên đới và chừng mực. Tại Roma là Ngày giáo phận giữ gìn thụ tạo nhằm cổ võ các kiểu sống tno trọng môi sinh, tái khẳng định liên minh giữa con người, thụ tạo và Đấng Tạo Hóa. Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu hiện diện và xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tái thiêng cho Đền Thờ

Tái thiêng cho Đền Thờ

(Cung hiến Thánh đường La-tê-ra-nô; Ga 2, 13-22)

Trích tin mừng Gioan: Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ…và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khi đây, và đng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
…Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Ngưi Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mi xây đưc đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Ngưi, Ngưi có ý nói đền thờ là thân thể Người.”
SUY NIỆM
Con người thường tôn trọng những nơi thờ phượng dù đó là thánh địa của bất kỳ niềm tin hay tín ngưỡng nào. Bởi lẽ, họ tin rằng đó là nơi trú ngụ của những thế lực thần thánh mà nếu mạo phạm hay bất kính, có nguy cơ họ sẽ bị quở trách và giáng phạt nặng nề. Mừng lễ cung hiến thánh đường La-tê-ra-nô hôm nay, cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta phải giữ gìn sự thánh thiêng cho các ngôi Thánh Đường vì đó là nơi Chúa ngự. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã kêu gọi không chỉ tôn kính Đền Thờ vật chất nhưng còn phải biết trân quý đền thờ sống động của Thiên Chúa là chính mỗi người chúng ta.

Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật lại việc Đức Giêsu lên Đền Thờ để mừng lễ Vượt Qua. Chứng kiến cảnh tượng người ta mua bán lễ vật và đổi chác tiền bạc, Đức Giêsu đã dùng dây thừng bện lại để xua đuổi và đạp đổ hết tất cả. Thật ra việc buôn bán đổi chác là không xấu, nhất là để phục vụ cho công tác dâng cúng của dân chúng trong Đền Thờ. Thế nhưng, những người lãnh đạo tôn giáo và nhiều người khác đã lợi dụng điều này nhằm mưu lợi cho bản thân. Vì thế, cảnh tượng ở Đền thờ chắc là rất chướng tai gai mắt nên Đức Giêsu, người vốn ít khi nổi giận, cũng đã phải kiên quyết và dứt khoát dẹp bỏ hết tất cả.

Đức Giêsu cũng tin tưởng như dân chúng rằng Đền Thờ là nơi Thiên Chúa ngự nhưng Ngài lại phủ quyết việc Đền Thờ phải kiêm nhiệm thêm công năng của một trung tâm mua sắm. Dân Do Thái đã đòi Đức Giêsu dấu chỉ chứng tỏ uy quyền cho phép Ngài hành xử như thế. Đức Giêsu đã nói: “Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 3, 19). Và thánh sử Gioan cho biết: Đức Giêsu không có ý nói về Đền Thờ như tòa nhà được kết cấu bởi gạch đá mà người Do Thái đã phải mất 46 năm mới xây lên được, nhưng Ngài muốn giới thiệu Đền Thờ mới đó “chính là thân thể của Người” (Ga 3, 21).

Cần một Đền thờ mới để thờ phượng Thiên Chúa vì đền thờ Giêrusalem đã bị giải thiêng. Đền thờ mới ấy chính là Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Đền thờ của Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Hơn nữa, khi đang còn bị treo trên thập giá, Đức Giêsu đã bị một tên lính lấy lưỡi đòng đâm thấu con tim. Từ đây, máu và nước đã chảy ra. Máu và Nước từ cạnh sườn Chúa Giêsu tuôn chảy đến đâu sẽ tẩy trừ tội lỗi, tiêu diệt sự chết, tái sinh sự sống đến đó đúng như lời tiên tri Ê-dê-ki-en đã tiên báo về hình ảnh của suối nước chảy ra từ Đền Thờ trong bài đọc một: “Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến” (Ed 47, 9). Chỉ với nguyên vật liệu là Máu và Nước của Chúa Giêsu cộng với ba ngày được an táng trong lòng đất là đủ để Đức Giêsu tái thiết và kiến tạo một Đền Thờ mới, nơi con người đến để gặp gỡ Thiên Chúa trong chân lý và sự thật. Chỉ nơi thân xác Phục Sinh của Đức Giêsu mới xứng đáng là nơi để Thiên Chúa cư ngụ.

Nếu như thân xác Phục Sinh của Đức Giêsu mới xứng đáng là Đền Thờ để Thiên Chúa cư ngụ thì mỗi người chúng ta, nhờ liên hệ với Đức Giêsu Phục Sinh nơi Bí tích Thánh tẩy, cũng trở nên những viên đá sống động góp phần kiến tạo nên Đền Thờ là Thân Thể Nhiệm Mầu của Đức Kitô như lời Thánh Phaolô tông đồ đã nhắn nhủ các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 16). Do đó, ta phải có trách nhiệm để kiến thiết và giữ gìn tâm hồn mình vì “nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy” (1 Cr 3, 17). Nói như thế, chúng ta được mời gọi tránh xa những tội liên quan đến giới răn thứ sáu vì chúng làm ô uế không chỉ thân xác nhưng còn xúc phạm cả đến Đền thờ của Thiên Chúa là tâm hồn mỗi người chúng ta. Hơn nữa, mỗi người phải xây nền đắp móng cho Đền thờ tâm hồn của mình trên đá tảng hay phiến đá góc tường duy nhất là chính Đức Giêsu như lời Thánh Phao lô: “Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô” (1 Cr 3, 11). Thêm vào đó, để Đền thờ là Thân Thể Đức Giêsu được vững chắc và trường tồn, mỗi chúng ta là những viên đá kết cấu nên Đền Thờ ấy, phải liên kết mật thiết với nhau nhờ chất kết dính là tình yêu. Chỉ với chất kết dính là tình yêu, chúng ta mới biết tôn trọng chính mình cũng như tha nhân vì tất cả đều là Đền Thờ của Thiên Chúa.

Mừng lễ cung hiến thánh đường La-tê-ra-nô hôm nay, chúng ta có trách nhiệm gìn giữ ngôi thánh đường giáo xứ của mỗi người chúng ta luôn trang nghiêm và xứng hợp. Đồng thời, mỗi lần chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ hay cử hành việc thờ phượng, chúng ta luôn luôn phải tự hỏi chính mình. Chúng ta có ý thức mỗi người là Đền Thờ của Thiên Chúa không? Là nơi Thiên Chúa ngự, tâm hồn tôi có duy trì được sự thánh thiêng cần thiết cho xứng hợp không? Nếu nhận ra Đền thờ tâm hồn của mình bị ô uế tôi có thường xuyên xin Chúa giúp thanh tẩy qua Bí tích Giải tội không? Chỉ khi chúng ta trả lời có cho tất cả những câu hỏi trên, chúng ta mới xứng đáng là nơi được Thiên Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời” (2 Sb 7, 16).

Jos. Nguyễn Huy Mai
 

Đền thờ tâm hồn

Đền thờ tâm hồn

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.

1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).

Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.

Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.

"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;

Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Latêranô và những ngôi Đền Thờ

Latêranô và những ngôi Đền Thờ

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.

Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!

Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…

Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.

Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:

– Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.

– Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để  họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.

– Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.

– Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.

Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức  Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1,000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.

Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28-4-1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9-11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.

Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.

Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.

Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.

Đền thờ mới

Đền thờ mới

Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.

Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.

Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.

Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.

Cung Hiến Thánh Đường Latêranô

 Cung Hiến Thánh Đường Latêranô

Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.

Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.

Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.

Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.

Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”

“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.

“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”

+ Ghi nhớ

Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.

+ Lời nguyện

Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.

Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.