Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng xin yết kiến Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng xin yết kiến Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

Thủ tướng CS Việt Nam ông Nguyễn Tấn Dũng mở đầu chuyến công du Châu Âu và Tòa Thánh Vatican với chặng đầu tiên là Vương Quốc Bỉ.

Sáng 13/10/2014  tức buổi chiều theo giờ Việt nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Thủ tướng Bỉ Charles Michel ở Bruxelles.

Theo báo điện tử Chính phủ, hai phía Việt Nam và Bỉ thỏa thuận tăng cường hợp tác thương mại tạo điều kiện để doanh nghiệp hai nước tiếp xúc kết nối trong các lĩnh vực ưu tiên như cảng biển, dịch vụ hậu cần, giao thông vận tải, công nghệ xanh, công nghệ cao, hàng không vũ trụ. Hai bên thống nhất duy trì cơ chế họp Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác kinh tế để định hướng quan hệ kinh tế.

Về vấn đề hợp tác và an ninh châu Á-Thái Bình Dương, Bỉ khẳng định quyết tâm đẩy mạnh hợp tác với khu vực cả trong khuôn khổ song phương và đa phương. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật quốc tế và Công ước Luật Biển 1982, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Sau Bỉ, Thủ tướng Việt Nam với sự tháp tùng của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và phái đoàn sẽ viếng thăm Ủy ban Châu Âu, Đức, Ý và Tòa thánh Vatican.

Sẽ thăm Vatican và hội kiến với Đức Giáo Hoàng

Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm Châu Âu, Thủ tướng CS Việt nam Nguyễn Tấn Dũng sẽ viếng thăm Tòa Thánh Vatican vào ngày 18/10/2014 sắp tới để xin hội kiến với Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô.

Theo Đài Vatican Việt ngữ, Đức cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh xác nhận tin Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô sẽ tiếp kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 18/10 tới đây. Cuộc gặp gỡ được mô tả  theo nguyên văn là nhằm đào sâu những quan hệ song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh.

Được biết, Hà Nội và Vatican đã thực hiện 5 vòng đàm phán của Nhóm Công tác hỗn hợp về quan hệ Việt Nam-Vatican. Biến cố 30/4/1975 đã cắt đứt mọi liên lạc của Tòa Thánh với chính quyền Việt Nam, nhưng đến năm 1990 bắt đầu được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp, lúc đó Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Hiện nay Vatican có đặc phái viên không thường trú tại Việt Nam.

Xin nhắc lại, đây là lần thứ hai ông Nguyễn Tấn Dũng được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến. Lần trước vào năm 2007, Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ 16 đã gặp gỡ Thủ tướng Việt Nam. Ngoài ra giới lãnh đạo Việt Nam như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng từng được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến.

Trích từ RFA

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ hai 13-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đã nhóm phiên khoáng đại thứ 11 để nghe bản Tường trình đúc kết ý kiến của các nghị phụ phát biểu trong tuần qua.

Trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ, ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã đọc bản tường trình đúc kết các ý kiến chính trong các bài phát biểu và suy tư của 180 nghị phụ trong tuần đầu của Công nghị GM thế giới. Văn bản này được dùng làm căn bản cho cho việc soạn Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM này.

Bản tường trình đề ra 3 đường hướng chỉ đạo, đó là lắng nghe bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó các gia đình ngày nay đang sống; sau đó là đối chiếu với những viễn tượng mục vụ cần đề ra và nhất là nhìn lên Chúa Kitô, lắng nghe Tin Mừng của Chúa về gia đình.

– Gia đình là thực tại ”quan trọng và quí giá”, ”là nguồn vui mừng và cũng là nơi có thử thách, những tình cảm sâu và và những quan hệ nhiều khi bị thương tổn, là trường dạy về lòng nhân đạo. Trước tiên cần lắng nghe gia đình trong toàn bộ phức tạp của thực tại này. Chủ nghĩa cá nhân thái quá, thử thách lớn về cô đơn, tình cảm tự kỷ gắn liền với những tình cảm mong manh, ”ác mộng” vì công ăn việc làm bấp bênh, cùng với chiến tranh, nạn khủng bố, di cư, ngày càng làm cho tình trạng nhiều gia đình bị suy thoái. Chính trong bối cảnh đó, Giáo Hội phải mang lại hy vọng và ý nghĩa cho đời sống con người ngày nay, giúp họ ngày càng hiểu biết giáo lý đức tin nhưng đồng thời cũng đề nghị với họ lòng từ bi Chúa”.

Tiếp đến là hướng nhìn lên Chúa Kitô, Đấng tái khẳng định sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, nhưng cũng cho phép đọc giao ước hôn phối trong sự liên tục và mới mẻ. Nguyên tắc ở đây phải là nguyên tắc tiệm tiến đối với các đôi vợ chồng bị thất bại tronog hôn nhân, trong một viễn tượng bao gồm đối với những hình thức bất toàn của thực tại hôn phối”.

– Bản tường trình được ĐHY Erdoe tuyên đọc cũng đề cập đến những tờng hợp mục vụ khẩn cấp nhất, cần ủy thác việc cụ thể hóa trong các Giáo Hội địa phương, luôn luôn ở trong tình hiệp thông với ĐTC. Trước hết có việc loan báo Tin Mừng gia đình cần thực hiện, không phải để lên án, nhưng là chữa lành sự dòn mỏng của con người. ”Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm chung của toàn thể Dân Chúa, mỗi người theo sứ vụ và đoàn sủng riêng. Nếu không có chứng tá vui mừng của các đôi vợ chồng và của các gia đình, thì việc loan báo, cho dù là đúng đắn, cũng có nguy cơ không được hiểu hoặc bị chìm đắm trong biển cả những lời nói vốn là đặc tính của xã hội chúng ta. Các gia đình Công Giáo được kêu gọi trở thành những chủ thể tích cực trong việc mục vụ gia đình”.

– Bản tường trình nhấn mạnh rằng việc chuẩn bị hôn nhân Kitô là điều thiết yếu, vì hôn nhân này không phải chỉ là một truyền thống văn hóa hoặc một đòi hỏi xã hội, nhưng là một quyết định theo ơn gọi. Không nhắm làm cho chu kỳ huấn luyện trở nên phúc tạp, mục đích nhắm tới ở đây là đi vào chiều sâu, chứ không giới hạn vào những đường hướng tổng quát, trái lại cũng cần canh tân việc đào tạo linh mục về vấn đề gia đình, nhờ sự can dự của chính các gia đình. Các nghị phụ cùng đề nghị phải tháp tùng các gia đình sau khi hết hôn, là thời kỳ sinh tử và tế nhị, trong đó các đôi vợ chồng chín mùi sự ý thức về bí tích, ý nghĩa và những thách đố về bí tích này.

Đồng thời Giáo Hội cũng phải khích lệ và nâng đỡ các giáo dân dân thân trong lãnh vực văn hóa, chính trị và trong xã hội, để không quên tố giác những yếu tố ngăn cản đời sống gia đình chân thực, vạch rõ nhưng kỳ thị, nghèo đói, loại trừ và bạo lực.

– Về những người ly thân, ly dị và ly dị tái hôn, ĐHY Erdoe nhấn mạnh rằng 'không phải là điều khôn ngoan khi nghĩ đến những giải pháp độc nhất, theo tiêu chuẩn 'hoặc phải có tất cả hoặc không được gì hết'; vì thế phải tiếp tục cuộc đối thoại trong các Giáo Hội địa phương, trong niềm tôn trọng và yêu mến đối với mỗi gia đình bị thương tổn, nghĩ ngay đến người vợ hoặc chồng bị bỏ rơi một cách bất công, tránh những thái độ kỳ thị và phải bảo vệ các trẻ em. ”Điều quan trọng là chấp nhận một cách lương thiện và xây dựng những hậu quả của việc ly thân hoặc ly dị đối với con cái: con cái không thể trở thành một ”đồ vật” để tranh giành, và cần phải tìm kiếm những hình thức tốt đẹp nhất để con cái có thể vượt thắng chấn thương do sự phân rẽ gia đình và có thể tăng trưởng bao nhiêu có thể trong thanh thản”.

– Về việc cứu xét nhanh chóng các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐHY Erdoe nhắc lại những đề nghị đã được các nghị phụ đề ra trong khóa họop: nghĩa là không cần phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, xác định thể thức hành chánh ở cấp giáo phận để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, khởi sự việc xét xử đơn giản trong trong những vụ hôn phối vô hiệu tỏ tường, đặc biệt chú ý đến đức tin của những người kết hôn để nhận xét xem bí tích hôn phối của họ có thành sự hay không. Tất cả những điều đó đòi nhân viên giáo sĩ và giáo dân tại tòa án hôn phối được chuẩn bị thích hợp, và các GM địa phương có trách nhiệm nhiều hơn”.

– Về việc cho những tín hữu ly dị tái hôn đưc rước lễ, vị Tổng tường trình viên liệt kê những đề nghị chính được trình bày trong Thượng HĐGM như: duy trì kỷ luật hiện hành, thực hiện một sự cởi mở nhiều hơn đối với những trường hợp đặc biệt, bất khả phân ly mà không gây ra những bất công hoặc đau khổ mới; hoặc chọn con đường thống hối: cần thực hiện hành trình này dưới trách nhiệm của GM giáo phận, trước khi được lãnh nhận các bí tích.

Vấn đề ớc lễ thiêng liêng vẫn còn bị bỏ ngỏ, và các nghị phụ kêu gọi đào sâu hơn về thần học, cũng vậy cần suy tư sâu hơn về các cuộc hôn nhân hỗn hợp và những vấn đề hệ trọng liên quan tới kỷ luật khác của các Giáo Hội Chính Thống về hôn phối.

– Về những ngưi đồng tính luyến ái, trong Thượng HĐGM, có các nghị phụ nhấn mạnh rằng những người đồng tính luyến ái là những người có năng khiếu và chất lượng có thể cống hiến cho cộng đoàn Kitô: Giáo Hội phải trở thành căn nhà đón tiếp họ; nhưng Giáo Hội vẫn quyết liệt không chấp nhận sự kết hiệp đồng tính luyến ái và những sức ép của cac tổ chức quốc tế đặt điều kiện một quốc gia phải ban hành các qui luật chịu ảnh hưởng của ý thức hệ gender, giới tính, thì mới được nhận viện trợ tài chánh… Giáo Hội cũng đặc biệt chú ý đến các trẻ em sống với các cặp đồng phái, và tái khẳng định rằng cần đặt lên hàng đầu những yêu sách và quyền lợi của các trẻ em.

– Phần cuối của bản tường trình có đề cập đến các đề tài của thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người) do Đức Phaolô 6 ban hành năm 1968, và tập trung vào vấn đề cởi mở đối với sự sống, và định nghĩa sự cởi mở này như một ”đòi hỏi nội tại của tình yêu vợ chồng”.

– Nhiều nghị phụ nhấn mạnh sự cần thiết phải có một ngôn ngữ thực tế cụ thể, biết giải thích vẻ đẹp và chân lý cởi mở đón nhận hồng ân con cái, và nhờ sự giáo dục thích hợp về các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên, và sự đả thông hài hòa và ý thức giữa đôi vợ chồng trong mọi chiều kích.

ĐHY Erdoe không quên ghi nhận rằng cuộc đối thoại trong Thượng HĐGM diễn ra trong bầu không khí tự do và lắng nghe nhau. Ngài cho biết những suy tư trình bày trên đây chưa phải là quyết định, vì hành trình của Thượng HĐGM sẽ được tiếp nối trong khóa họp thường lệ nhóm vào tháng 10 năm tới, 2015, cũng về đề tài gia đình.

Sau bài tường trình của ĐHY Erdoe, các nghị phụ được 10 phút giải lao trước khi trao đổi ý kiến về bài này. Rồi ban chiều, từ lúc 4 giờ rưỡi, các nghị phụ nhóm họp và thảo luận trong các nhóm nhỏ theo các sinh ngữ khác nhau (SD 13-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

VATICAN. ĐTC Phanxicô khích lệ Giáo Hội tại Canada tưởng niệm các hai vị thánh mới được tôn phong theo thể thức tương đương và cầu nguyện để Giáo Hội này được tái phong phú các thừa sai.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong thánh lễ tạ ơn ngài cử hành lúc 10 giờ sáng chúa nhật 12-10-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô về việc tôn phong hiển thánh theo thể thức tương đương cho hai vị người Canada, đó là Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi của giáo phận Québec, và Nữ Tu Marie Nhập Thể Guyart Martin, sáng lập dòng Ursuline Liên hiệp Canada.

Hai vị đã cùng với chân phước Linh Mục Giuse de Anchieta, dòng Tên, người Tây Ban Nha, tông đồ tại Brazil, được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh ngày 3-4 năm 2014 theo thể thức tương đương, nghĩa là không theo thủ tục bình thường và không cần nghi lễ phong thánh.

Thông cáo của Bộ Phong thánh hôm đó nói rằng: ngày 3-4, ĐTC Phanxcô đã tiếp kiến ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh. Ngài đón nhận các tường trình của ĐHY Tổng trưởng, ghi tên vào sổ bộ các thánh và nới rộng việc tôn kính phụng vụ trong Giáo Hội hoàn vũ đối với 3 vị chân phước:

– Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi Québec, Canada, sinh tại Montigny-sur-Avre bên Pháp ngày 20-4-1623 và qua đời ngày 6-5-1708, thọ 85 tuổi.

– LM Giuse de Anchieta, dòng Tên, sinh tại San Cristobal de la Laguna, Tenerife, thuộc quần đảo Canarie, Tây Ban Nha, ngày 19-3-1543 và qua đời tại Reritiba, Brazil ngày 9-6-1597.

– Thứ ba là Nữ tu Marie de l'Incarnation, tục danh là Marie Guyart sinh ngày 28-10 năm 1599 tại thành Tours bên Pháp, sáng lập Đan viện dòng nữ tu Urseline ở Québec, và qua đời ngày 30-4-1672, thọ 73 tuổi.

Sơ lược tiểu sự hai vị thánh

1. Đức Cha François de Laval đã từng được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa giáo phận đàng ngoài ở Việt Nam vào năm 1653, ngài không thể sang Việt Nam nhận nhiệm sở vì những bất đồng xảy ra tại Á Đông, từ phía các nước thuộc địa Âu Châu, vì thế Cha rút lui trong 4 năm trời (1654-1658), sống tại một am ở Caen, cũng là một trường dạy linh đạo do một nhà thần bí Pháp là Jean Bernières de Louvigni (1602-1659) điều khiển.

Trong thời gian ấy, cả các thừa sai ở Canada cũng xin ĐGH Alessandro VII bổ nhiệm một vị Đại diện Tông Tòa, và thế là năm 1658, ĐGH bổ nhiệm Cha François de Laval làm GM hiệu tòa Petra và với nhiệm vụ Đại diện Tông Tòa giáo phận Tân Pháp ở Canada. Lúc ấy Đức cha mới được 35 tuổi và ngài lên đường ngay, xuống tàu đến Canada ngày 16-5 năm 1659, và sau đó một tháng sau thì đến Québec.

Đức Cha dấn thân hoạt động tông đồ không biết mệt mỏi trong hơn 30 năm trời cho Giáo Hội địa phương: kiến tạo các giáo xứ từ số không, lập các cứ điểm truyền giáo, nhà thương, trường học, các cộng đoàn dòng tu, bài trừ tệ nạn bóc lột thổ dân bản xứ từ phía các con buôn thực dân, chống lại chủ nghĩa Pháp giáo (Gallicanisme) của các chính quyền Pháp đòi độc lập khỏi Tòa Thánh về phương diện Giáo Hội từ thời vua Philippe le Bel.

Đức Cha François de Laval sống đời cầu nguyện và hãm mình, chay tịnh, sống nghèo tự nguyện, của cải ngài tặng hết cho chủng viện, và tùy thuộc bề trên chủng viện trong mọi nhu cầu. Ngài cũng đích thân giúp đỡ các bệnh nhân tại nhà thương ở Québec cũng trong nhà bệnh của chủng viện, hoặc trong các lều của thổ dân.

Do tinh thần nhiệm nhặt, cho đến những năm cuối đời, Đức Cha vẫn giữ thói quen ngủ trên nền nhà, và thức dậy lúc 2 giờ sáng, cử hành thánh lễ lúc 4 giờ rưỡi sáng cho các công nhân ở Québec. Bao nhiêu hy sinh từ bỏ ấy đã mang lại những thành quả: con số giáo xứ từ 5 tăng lên 35, số linh mục từ 24 tăng lên 102, và số nữ tu từ 22 lên 97 chị.

2. Nữ tu Marie Nhập Thể Guyard Martin, nguyên là một góa phụ, gia nhập dòng Ursuline thành Tours năm 1631 khi được 31 tuổi. 8 năm sau đó, đáp lại ơn gọi thừa sai, chị sang Québec, Canada, thành lập một tu viện.
Số nữ tu gia tăng, và chẳng bao lâu chị phải viết tu luật và hiến pháp mới thích ứng với những kinh nghiệm và đòi hỏi mới.

Tuy không bao giờ ra khỏi tu viện, nhưng chị Marie Nhập Thể học thổ ngữ của các bộ tộc Algonchini, Montagnesi và Uroni, và chị viết các sách giáo lý, văn phạm và tự điển, đồng thời chăm sóc các trẻ em của thổ dân, nuôi dưỡng, trợ giúp và giáo dục. Chị cũng là thiên thần bản mệnh của các thừa sai, tháp tùng họ bằng kinh nguyện, và qua thư từ, chị quan tâm tới lý tưởng và các nhu cầu của các thừa sai.

Chị sống đời chiêm niệm và hoạt động, với sự đơn sơ và quân bình cho đến năm 1669 thì được giải thoát khỏi trách nhiệm làm bề trên, vì điều kiện sức khỏe suy yếu. Tình trạng này nặng thêm và ngày 30-4 năm 1672, chị qua đời, để lại một cộng đoàn gồm 30 nữ tu, từ đó trở thành dòng các nữ tu Ursuline Québec.

Chị Maria Nhập Thể đã được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 22-6-1980. Ngài nói: ”Chị Maria Nhập Thể là một tâm hồn chiêm niệm, nhưng dấn thân trong hoạt động tông đồ, chị khấn hứa ”tìm vinh danh cao cả nhất cho Thiên Chúa trong tất cả những gì có sức thánh hóa mạnh mẽ nhất, và tháng 5 năm 1653, chị âm thầm hiến dâng mình làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa để mưu ích cho Canada”.

Thánh lễ
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 9 vị GM người Canada Québec, đứng đầu là ĐHY Gérard Lacroix, đương kim TGM giáo phận Québec, ĐHY Marc Ouellet, nguyên TGM Québec, và hiện là Tổng trưởng Bộ Giám Mục, 7 GM khác và khoảng 100 linh mục Canada, trước sự hiện diện của 8 ngàn tín hữu, trong đó có một số phái đoàn đến từ Canada.

Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC khích lệ các tín hữu hãy tưởng niệm và noi gương đức tin kiên trì của các thừa sai đã mang Lời Chúa và Tin Mừng cho đất nước Canada. Ngài nói:

”Chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Isaia: ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau nước mắt trên mỗi khuôn mặt..” (Is 25,8). Những lời đầy hy vọng này chỉ cho thấy mục tiêu, chứng tỏ tương lai mà chúng ta đang hành trình hướng về. Trên con đường này các thánh đã đi trước và chỉ dẫn cho chúng ta. Những lời này cũng vạch rõ ơn gọi của các thừa sai.
Các thừa sai là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã có can đảm sống Tin Mừng. Cả bài Tin Mừng mà chúng ta đã nghe: Nhà Vua nói với các đầy tớ: ”Các ngươi hãy ra các ngã tư đường” (Mt 22,9). Và các đầy tớ ra đi, tụ tập tất cả những người mà họ gặp, ”xấu cũng như tốt”, để dẫn họ vào tiệc cưới của nhà vua (Xc v.10)

Các thừa sai đã đón nhận lời mời gọi ấy: các vị đã ra đi kêu gọi tất cả mọi người, ở các ngã tư của thế giới, vì nếu Giáo hội dừng lại và khép kín, thì Giáo hội sẽ trở nên bệnh hoạn, có thể làm hư hỏng, hoặc bằng tội lỗi hoặc bằng khoa học giả tạo tách rời khỏi Thiên Chúa, là trào lưu tục hóa phàm trần.

Các thừa sai đã hướng nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, đã đón nhận ơn phúc của Chúa và đã không giữ riêng cho mình. Như thánh Phaolô, các vị trở nên mọi sự cho mọi người; các vị đã biết sống trong thanh bần và sung túc, trong sự no đầy và đói khát; họ có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho họ (Xc Phil 4,12-13). Với sức mạnh ấy của Thiên Chúa, các vị đã có can đảm ”đi ra” trên các nẻo đường của thế giới với lòng tín thác nơi Chúa là Đấng kêu gọi họ. Cuộc sống của một thừa sai là như thế, kết thúc cuộc sống xa nhà, xa quê hương; bao nhiêu lần các thừa sai bị sát hại, như đang xảy ra ngày nay cho bao nhiêu anh chị em chúng ta.

ĐTC nói thêm rằng: ”Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội chủ yếu là loan báo tình thương, lòng bừ bi và sự tha thứ của Thiên Chúa, được mạc khải cho loài người qua cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Các thừa sai đã phục vụ Sứ Mạng của Giáo Hội, bẻ bánh Lời Chúa cho người bé mọn và những người xa xăm nhất, và mang đến cho mọi người hồng ân tình yêu vô tận tuôn chảy từ trái tim của Chúa Cứu Thế.

Thánh François de Laval và thánh nữ Marie Nhập Thể là những người như thế. Anh chị em tín hữu hành hương người Canada thân mến, trong ngày này, tôi muốn để lại cho anh chị em hai lời khuyên, rút từ thư gửi tín hữu Do thái, hai lời khuyên sẽ giúp ích rất nhiều cho các cộng đoàn của anh chị em.

– Lời khuyên thứ I là: ”Hãy nhớ đến các thủ lãnh của anh chị em, những người đã loan báo Lời Chúa cho anh chị em. Khi cứu xét kỹ lưỡng kết quả chung kết cuộc sống của các vị, hãy noi gương đức tin của các vị” (13,7). Ký ức về các thừa sai nâng đỡ chúng ta trong lúc chúng ta cảm thấy sự khan hiếm các thợ của Tin Mừng. Tấm gương của các vị lôi kéo, thúc đẩy chúng ta noi gương đức tin của các ngài. Đó là những chứng tá phong phú sinh ra sự sống!
– Lời khuyên thứ hai là: ”Anh chị em hãy nhớ lại những ngày đầu tiên: sau khi lãnh nhận ánh sáng của Chúa Kitô, anh chị em đã phải chịu đựng một cuộc chiến đấu lớn và cơ cực… Đừng từ bỏ sự ngay thẳng của anh chị em, có một phần thưởng lớn dành cho cho sự ngay thẳng này. Anh chị em chỉ cần kiên trì bền đỗ…” (10,32.35-36). Tôn kính những người đã chịu đau khổ để mang Tin Mừng cho chúng ta, có nghĩa là cả chúng ta cũng tham gia cuộc chiến tốt lành cho đức tin, trong sự khiêm tốn, hiền từ, từ bi, trong cuộc sống hằng ngày. Và điều này mang lại thành quả.

Tưởng niệm những vị đã đi trước chúng ta, những vị đã thành lập Giáo hội chúng ta, Giáo Hội phong phú tại Québec, phong phú với bao nhiêu thừa sai, các vị ra đi khắp nơi. Thế giới đã đầy các thừa sai Canada như hai vị thánh này. Giờ đây tôi có lời khuyên này: việc tưởng niệm các vị không làm cho chúng ta từ bỏ sự thẳng thắn, không từ bỏ can đảm. Ma quỷ ghen tương, và không chấp nhận một phần đất phong phú các thừa sai. Xin Chúa ”ban cho miền Québec trở lại trên con đường phong phú, cung cấp cho thế giới bao nhiêu thừa sai, và xin hai vị thánh đã thành lập Giáo Hội tại Québec, giúp chúng ta như những người chuyển cầu: ước gì hạt giống mà các vị đã gieo vãi, tăng trưởng và mang lại hoa trái là những người nam nữ can đảm, sáng suốt, có tâm hồn mở rộng đối với tiếng gọi của Chúa. Hôm nay anh chị em phải cầu xin điều ấy cho quê hương của anh chị em, và các thánh trên trời sẽ là những vị chuyển cầu cho chúng ta, để Québec tái trở thành nguồn các vị thánh thừa sai can đảm”.
Niềm vui và thách đố trong cuộc hành hương này của anh chị em là: tưởng niệm các chứng nhân, các thừa sai đức tin của đất nước anh chị em. Ký ức này luôn nâng đỡ anh chị em trong hành trình tiến về tương lai, hướng về mục tiêu, khi ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi gương mặt..”

”Chúng ta hãy vui mừng, hân hoan vì ơn cứu độ của Người” (Is 25,9).

Cuối thánh lễ, ĐHY Gérard Cyprien Lacroix, TGM giáo phận Québec và là giáo chủ Canada, đã đại diện các tín hữu Québec và Canada cám ơn ĐTC vì hồng ân lớn lao là phong hai vị thánh François de Laval và Marie Nhập Thể.
ĐHY Lacroix cho biết ngài đã hướng dẫn một nhóm các tín hữu hành hương sang Pháp, theo vết của hai vị thánh và cuộc lữ hành của phái đoàn đến Roma này để cùng với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô một lần nữa nói lên sự hiệp thông sâu xa và ước muốn đáp lại tiếng gọi thừa sai để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.

ĐHY cho biết cuộc lữ hàng của các tín hữu Canada không kết thúc ở Roma này, nhưng ”với ơn Chúa, chúng con sẽ tiếp tục tại đất nước chúng con, tại Québec và bất kỳ nơi nào Chúa cần chúng con. Chúng con mong ước ngày càng trở thành những môn đệ – thừa sai giữa lòng thế giới”.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 15 và sau đó, lúc đúng 12 giờ, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ ở phòng làm việc của các vị Giáo Hoàng ở dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với các tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô Ngài quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng về nhà vua mời gọi mọi người tham dự tiệc cưới. Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân bị lụt ở Genova, bắc Italia, cũng như chào thăm nhiều nhóm các tín hữu hành hương, đặc biệt là các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (dòng Salésiennes) đang nhóm tổng tu nghị ở Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dụ ngôn tiệc cưới

Dụ ngôn tiệc cưới

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.

Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.

Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).

Anh chị em thân mến,

Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.

Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.

Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.

Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v… Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.

Veritas Radio

Mặc áo cưới

Mặc áo cưới

Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.

Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.

Đó là một tình yêu nhưng không.

Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.

Đó là tình yêu chia sẻ.

Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.

Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.

Tôi phải mặc áo cưới tới dự.

Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.

Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.

Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.

Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).

Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?

2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?

3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục gửi các gia đình đau khổ vì xung đột

Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục gửi các gia đình đau khổ vì xung đột

VATICAN. Các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đang nhóm tại Roma gửi sứ điệp liên đới với các gia đình đang chịu đau khổ trên thế giới, nhất là tại Irak và Syria.

Trong sứ điệp công bố sáng ngày 10-10-2014, các nghị phụ khẳng định rằng:

”Họp nhau quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô Tông Đồ, chúng tôi, các nghị phụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ III, cùng với tất cả các tham dự viên, chia sẻ mối quan tâm hiền phụ của Đức Thánh Cha, bày tỏ sự gần gũi sâu đậm với tất cả các gia đình đang chịu đau khổ vì nhiều cuộc xung đột hiện nay.

”Đặc biệt chúng tôi dâng lên Chúa lời khẩn nguyện cho các gia đình Irak và Syria, vì niềm tin Kitô mà họ tuyên xưng hoặc vì thuộc các cộng đồng chủng tộc và tôn giáo khác, buộc lòng phải bỏ lại tất cả và trốn chạy hướng về một tương lai bất định. Cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi tái khẳng định rằng ”không ai có thể dùng danh Thiên Chúa để thi hành bạo lực” và “giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội phạm thánh nặng nề!” (Diễn văn với các vị lãnh đạo tôn giáo khác và các hệ phái Kitô khác, Tirana, 21-9-2014).

”Trong khi cảm ơn các Tổ chức Quốc tế và các nước vì tình liên đới, chúng tôi mời gọi những người thiện chí cống hiến những trợ giúp cần thiết cho các nạn nhân vô tội của những hành vi man rợ hiện nay, và đồng thời chúng tôi xin Cộng đồng quốc tế nỗ lực làm việc để tái lập sự sống chung hòa bình ở Irak, Siria và trong toàn vùng Trung Đông. Cũng vậy, chúng tôi nghĩ đến tất cả các gia đình đang bị xâu xé và đau khổ tại các nơi khác trên thế giới, phải chịu bạo lực trường kỳ. Chúng tôi muốn cam đoan với họ về kinh nguyện liên lỷ của chúng tôi, xin Chúa từ bi hoán cải tâm hồn và ban hòa bình và ổn định cho những người đang sống trong thử thách. Nguyện xin Thánh Gia Nazareth, đã từng chịu ”con đường đau khổ vì lưu vong” (Kinh Truyền Tin 29-12-2013), biến mỗi gia đình thành ”cộng đoàn yêu thương và hòa giải” (Ibid.), thành một nguồn hy vọng cho toàn thế giới”.

(G. Trần Đức Anh OP chuyển ý)

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

180 nghị phụ đã phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới

VATICAN. Chiều tối ngày 9-10-2014, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, cho biết trong 8 phiên họp khoáng đại những ngày qua, đã có tổng cộng 180 nghị phụ phát biểu, thêm vào có có 80 vị phát biểu trong các giờ thảo luận tự do.

Sáng ngày 10-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC, trong vòng 90 phút, các nghị phụ đã nghe các bài phát biểu của các nam nữ dự thính viên chưa lên tiếng trong những ngày trước đây.

Tiếp đến, sau 30 phút giải lao, các nghị phụ đã nhóm họp trong 1 tiếng rưỡi đồng hồ để bầu vị điều hợp và tường trình viên trong 10 nhóm nhỏ: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm tiếng Tây Ban Nha.

Ban chiều, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 10, từ lúc 4 giờ rưỡi, với sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Các đại biểu của 8 Giáo Hội Kitô anh em đã lên tiếng trong dịp này.

Đứng đầu là Đức TGM Chính Thống Athenagoras, đại diện tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, tiếp đến là Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ thuộc tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga. Các vị còn lại là đại diện Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte Ai Cập, Chính Thống Siri bên Liban, đại diện Liên hiệp Anh giáo, Tin Lành Luther, Tin Lành cải cách và Liên hiệp Tin Lành Baptist thế giới.

Cuối tuần này, 11 và 12-10, các nghị phụ được nghỉ, nhưng ban chuyên gia phải cùng với ĐHY Peter Erdoe, Tổng tường trình viên, đúc kết các bài phát biểu để soạn thành bản tường trình sau phần thảo luận để trình bày trong phiên khoáng đại thứ 11 vào sáng thứ hai, 13-10 tới đây, trước khi các nghị phụ nhóm trong 6 cuộc hội thảo nhóm.

Nội dung phiên nhóm thứ 7 và thứ 8 ngày 9-10-2014

Trong phiên khoáng đại thứ 7 sáng thứ 5, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 184 nghị phụ, các nghị phụ dành phần đầu để tiếp tục bàn về những hoàn cảnh hôn nhân khó khăn, và dành phần hai để bàn đề vấn đề cởi mở đối với sự sống, cụ thể là việc sinh sản, làm cha làm mẹ có trách nhiệm, vấn đề ngừa thai.

– Mở đầu, ông bà dự thính viên, Arturo và Hermenlinda As Zamberline, đặc trách ”êkip Đức Bà” ở Brazil, đã được mời lên tiếng.

Phong trào Đức Bà này được cha Henri Caffarel thành lập từ năm 1938 và hiện có mặt tại 70 quốc gia với 137.200 thành viên trên thế giới trong đó có 45.500 người ở Brazil.

Ông bà Zamberline thành hôn từ 41 năm nay, có 3 người con và các cháu. Trong bài trình bày chứng từ, ông bà xin Giáo Hội trình bày rõ ràng đạo lý của mình để tránh sự hoang mang nơi các tín hữu vì các linh mục đưa ra những lời khuyên bảo trái ngược nhau về vấn đề kiểm soát sinh sản. Cần giúp các tín hữu Công Giáo vâng phục giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ngừa thai.

Ông bà nói: ”Xét vì bầu không khí trầm trọng hiện nay, chúng ta phải nhận rằng có nhiều đôi vợ chồng Công Giáo, cả những người tìm cách sống hôn nhân một cách nghiêm túc, cũng cảm thấy không bị buộc sử dụng các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên mà thôi. Và họ thường không bị các cha giải tội sửa sai, nếu các đôi vợ chồng ấy cởi mở đối với sự sống và loại bỏ phá thai.” Ông bà Zamberline nhận xét rằng nhịp sống ngày nay khiến cho nhiều đôi vợ chồng khó tìm được thời giờ để học hòi về cách kế hoạch hóa gia đình theo phương pháp tự nhiên. Các phương pháp này bị ngộ nhận là không chính xác và hiệu nghiệm, chỉ vì không được giải thích đúng đắn và vì thế người ta áp dụng sai.

ông Bà Zamberline cũng lấy làm tiếc vì trong các bài giảng và các dịch vụ đón tiếp của Giáo Hội không nhấn mạnh về đạo lý của Thông điệp Humanae vitae, sự sống con người. Họ nói:

”Kính thưa ĐTC và các nghị phụ, cùng quí vị, nếu các đôi vợ chồng tìm được ánh sáng và nâng đỡ nơi hàng giáo sĩ, thì đó là một khích lệ rất lớn. Sự kiện những lời khuyên của các linh mục dành cho các đôi vợ chồng nhiều khi tương phản nhau càng làm gia tăng sự hoang mang nơi các giáo dân. Chúng con xin các ngài mau lẹ dạy các linh mục và các tín hữu những đường hướng chính của một nền sư phạm mục vụ để giúp họ chấp nhận và tôn trọng những nguyên tắc của thông điệp Humanae vitae. Theo họ cần cấp thiết phổ biến rộng rãi một đường hướng dễ dàng và chắc chắn đáp ứng những đòi hỏi của thế giới ngày nay, không làm thương tổn nòng cốt của luân lý Công Giáo

”Tuyệt đối cần hướng dẫn các đôi vợ chồng hướng về sự hoàn hảo nhân bản và Kitô trong quan hệ tính dục. Quan hệ tính dục là một yếu tố thánh hóa. Tính dục ngày nay đang cần đượ ccứu thoát khỏi thái độ dâm ô bệnh hoạn thu hẹp con người vào một chiều kích duy nhất.

– Trong cùng phiên họp sáng ngày 9-10, ĐHY André Vingt-Trois, Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM mạnh mẽ chống lại ”não trạng ngừa thai” khiến cho nhiều tín hữu Công Giáo nghĩ rằng dùng các phương tiện ngừa thai nhân tạo không phải là tội. Các đôi vợ chồng Công Giáo thường không tin rằng dùng các phương tiện này là tôi nên họ không xưng chúng khi đi xưng tội và cứ bình tâm rước lễ như thường. ”Vì thế, – ĐHY nói – cần khuyến khích một tâm thức cởi mở đối với sự sống, có sự đánh bại não trạng ngừa thai và sự lan tràn kiểu mẫu nhân loại học cá nhân chủ nghĩa, đưa tới tình trạng suy sụp dân số ở mức độ trầm trọng tại một số nước, với những hậu quả về mặt xã hội và nhân bản mà hiện nay người ta không quan tâm đủ”.

– Trong các bài phát biểu khác, một số nghị phụ tái khẳng định hồng ân sự sống cũng như đức khiết tịnh là những giá trị căn bản của hôn nhân Kitô, đồng thời nhấn mạnh phá thai là tội ác nặng nề. Có nghị phụ nói đến thảm trạng của nhiều gia đình, chẳng hạn ở Á châu, với những vụ giết trẻ em, bạo hành phụ nữ, buôn người. Vì thế cũng cần đề cao ý niệm công lý trong số các nhân đức cấu thành gia đình.

– Về vấn đề trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái, và những giáo huấn đức tin, trách nhiệm này đứng hàng đầu và cần được quan tâm đặc biệt. Ngoài ra, việc mục vụ cho các trẻ em có thể tạo nên môi trường tiếp xúc với những gia đình ở trong hoàn cảnh khó khăn.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh tới ảnh hưởng tiêu cực của việc ngừa thai đối với xã hội, làm giảm bớt số trẻ em sinh ra. Đứng trước tình trạng đó, các tín hữu Công Giáo không thể im lặng, trái lại cần mang lại một sứ điệp hy vọng, theo đó các trẻ em có vai trò quan trọng, mang lại sự sống và niềm vui cho cha mẹ và củng cố đức tin cũng như việc thực hành đạo.

Sau cùng, các nghị phụ nói đến vai trò thiết yếu của giáo dân trong công tác tông đồ gia đình, loan báo Tin Mừng cho gia đình. Ví dụ các phong trào giáo dân có thể tháp tùng các gia đình gặp khó khăn.

Phiên họp thứ 8

Trong phiên khoáng đại thứ 8, từ lúc 4 giờ rưỡi đến 7 giờ chiều ngày thứ năm, 9-10-2014, trước sự hiện diện của ĐTC và 181 nghị phụ, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt đã bàn về đề tài ”Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục: thách đố giáo dục nói chung và nền giáo dục Kitô trong những hoàn cảnh gia đình khó khăn”, như được nhắc đến trong chương 2 thuộc phần thứ 3 của Tài liệu làm việc.

Trước tiên, công nghị tái khẳng định ơn gọi sự sống như một yếu nền tảng của gia đình; và từ đó các nghị phụ kêu gọi các tín hữu hãy đào sâu kiến thức về thông hiệp Humanae vitae (Sự sống con người) do ĐGH Phaolô 6 ban hành năm 1968, và cũng hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc dùng các phương pháp tự nhiên để điều hòa sinh sản và không chấp nhận việc ngừa thai bằng các phương pháp nhân tạo. Kết hiệp và sinh sản là hai điều không tách rời khỏi tác động vợ chồng. Công nghị cũng mạnh mẽ lên án sự lèo lái các hệ di truyền và việc giữ các phôi thai đông lạnh.

– Ngoài ra, nhiều nghị phụ Phi châu tố giác xu hướng của một số nước và tổ chức ở thế giới tây phương trình bày một số ý niệm như phá thai và đồng tính luyến ái như những ”nhân quyền” và đặt điều kiện cho các nước nghèo phải chấp nhận và thi hành những ý niệm ấy thì mới được nhận viện trợ kinh tế. Về vấn đề này, một số nghị phụ nêu rõ sự kiện thành ngữ ”các quyền sức khỏe tính dục và sinh sản” không được định nghĩa rõ ràng trong công pháp quốc tế, nên rốt cuộc chúng hàm chứa những nguyên tắc mâu thuẫn với nhau, như một đàng người ta lên án sự cưỡng bách phá hai, nhưng đàng khác lại cổ võ phá thai an toàn, hoặc một đàng bảo vệ chức phận làm mẹ, nhưng lại thăng tiến sự ngừa thai. Tuy việc cổ võ những thứ gọi là ”nhân quyền” như thế không có giá trị bó buộc, nhưng nó cũng là một nguy cơ, vì nó có thể ảnh hưởgn tới việc giải thích các qui luật khác, đặc biệt là trong cuộc tranh đấu chống lại nạn kỳ thị phụ nữ.

– Rồi công nghị tái khẳng định tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn phối, vì việc cử hành đám cưới ngày càng bị thu hẹp vào chiều kích xã hội và pháp lý, thay vì chiều kích tôn giáo và tinh thần. Việc chuẩn bị hôn phối bị những cặp đính hôn coi là một sự áp đặt, một nghĩa vụ phải chu toàn, và họ tham dự một cách miễn cưỡng, không xác tín, và do đó các khóa chuẩn bị ấy rất ngắn. Thực ra, hôn nhân là một ơn gọi cả đời, việc chuẩn bị hôn nhân phải dài và sâu xa, như trong trường hợp đời sống tu trì. Các nghị phụ cũng nhận thấy nơi những cặp chuẩn bị kết hôn thiếu ý thức về giá trị bí tích của mối dây hôn phối, đến độ có thể nói việc cử hành lễ cưới không nhất thiết là cử hành bí tích hôn phối.

– Về vấn đề làm sao để thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu được nhanh chóng hơn: các nghị phụ được nhắc nhớ rằng ĐTC Phanxicô đã thành lập một ủy ban đặc nhiệm ngày 20-9 vừa qua, để nhắm tới một thủ tục đơn sơ và mau lẹ hơn, một thủ tục duy nhất cho toàn thể Giáo Hội.

Cho đến nay giáo luật đòi phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, thì mới được tuyên bố một hôn nhân là vô hiệu. Vì thế sau phán quyết thứ I về một hôn phối là vô hiệu, thì vị bảo hệ (difensor vincoli) bó buộc phải kháng án lên tòa cấp cao hơn. Trong phiên họp có nghị phụ nêu giả thuyết: có thể để tùy GM phân định và phán quyết về việc có cần phải kháng án hay không. Đồng thời các nghị phụ cầu mong có thêm nhiều thẩm phán giáo dân, đặc biệt là cả các thẩm phán phụ nữ, được chuẩn bị kỹ lưỡng để làm việc trong các tòa án hôn phối.

– Các nghị phụ cũng nhấn mạnh rằng các linh mục cần được chuẩn bị kỹ lưỡng về việc mục vụ hôn nhân và gia đình, và có thể sử dụng cả những bài giảng như một thời điểm ưu tiên và hữu hiệu để loan báo cho các tín hữu Tin Mừng về gia đình. Cần có sự huấn luyện và thông tin, vì sự thánh thiện tinh thần, óc sáng tạo và quan hệ trực tiếp của các vị với các gia đình rất được các giáo dân đánh giá cao.

– Trong số các bài phát biểu, các nghị phụ cũng nói đến tương quan giữa việc di cư và gia đình, đồng thời tái khẳng định rằng cần phải khẳng định quyền cơ bản của mội người di dân được sống trong gia đình, và kêu gọi các nhà chính trị quốc tế bảo về quyền đoàn tụ gia đình. Đối với người di dân, gia đình là yếu tố thiết yếu để hội nhập vào quốc gia họ định cư.

– Trong giờ thảo luận tự do, từ 6 đến 7 giờ, các nghị phụ trao đổi về 3 đề tài:

Thứ I, đối với những người ly dị tái hôn, cần thiết lập một hành trình thống hối, và cũng để ý đến những người ly dị nhưng không tái hôn. Họ thường chịu đau khổ trong âm thầm và ở ngoài lề cuộc sốgn xã hội.

Thứ II: cần bảo vệ con cái của những cặp ly dị, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực về tâm lý do ly dị gây ra. Trong lãnh vực này, có nghị phụ nhắc nhở rằng một nền mục vụ thích hợp cho các trẻ em thường có thể làm cho cha mẹ các em xích lại gần Giáo Hội hơn.

Thứ III: các nghị phụ nhắc đến tầm quan trọng của tương quan giữa gia đình và việc giáo dục con cái, đặc biệt là quyền của các cha mẹ được chọn lựa dự án giáo dục thích hợp nhất cho con cái, và để con cái có thể được một nền giáo dục có chất lượng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về những tình trạng gia đình khó khăn

Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về những tình trạng gia đình khó khăn

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 6, chiều thứ tư, 8-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt đã bàn về những tình trạng mục vụ khó khăn và những cặp đồng phái.

Hiện diện trong phiên họp từ lúc 4 giờ rưỡi đến 7 giờ chiều có ĐTC và 180 nghị phụ, dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội không phải là một sở quan thuế, nhưng là một nhà cha, vì thế Giáo Hội phải kiên nhẫn tháp tùng tất cả mọi người, kể cả những người ở trong tình trạng mục vụ khó khăn. Giáo Hội Công Giáo chân chính bao gồm cả những gia đình lành mạnh và gia đình khủng hoảng, vì thể nỗ lực hằng ngày trong việc thánh hóa không thể để Giáo Hội dửng dưng đối với những yếu đuối, vì sự kiên nhẫn cũng bao hàm việc giúp đỡ tích cực cho người yếu đuối nhất.

– Về công việc của tòa án hôn phối cứu xét để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, nói chung, nhiều nghị phụ đều nhận thấy cần cải tiến thủ tục để các vụ án này được cứu xét mau lẹ hơn, thu nhận nhiều hơn các giáo dân có khả năng trong các tòa án của Giáo Hội. Nhưng cũng có những nghị phụ cảnh giác về nguy cơ hời hợt và luôn luôn phải duy trì việc tôn trọng sự thật và quyền lợi của những người liên hệ, vì án hôn phối tiêu hôn không phải là tiến trình đi ngược với đức bác ái mục tử và việc mục vụ tư pháp phải tránh những ý tưởng buộc tội, trái lại khích lệ việc cứu xét các vụ án trong thanh thản.

Ngoài ra, có nghị phụ về nghị dùng cả các biện pháp hành chánh để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, tuy rằng biện pháp này không thay thế cho con đường tư pháp, hai con đường bổ túc cho nhau. GM là người có thẩm quyền quyết định xem vụ án hôn phối nào có thể được cứu xét theo đường hành chánh.

– Một số nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải có thái độ tôn trọng đối với những tín hữu ly dị tái hôn, vì họ thường phải sống trong những tình trạng khó khăn hoặc bất công về mặt xã hội, họ chịu đau khổ trong thinh lặng và trong nhiều trường hợp, qua một tiến trình từ từ, họ tìm cách tham dự đầy đủ hơn vào đời sống Giáo Hội. Mục vụ đối với họ không được có tính chất đàn áp, nhưng đầy lòng từ bi thương xót.

– Về nạn đa thê, các nghị phụ nhấn rằng đây là một thực tại đang giảm bớt. Trong xã hội nông thôn, nạn đa thê dễ phát triển hơn, tuy nhiên ngày nay trào lưu thành thị hóa gia tăng. Cũng có những nghị phụ nhắc đến sự kiện có những người đa thê trở lại Công Giáo và muốn lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo. Người ta đặt câu hỏi: có những biện pháp mục vụ chuyên biệt để đáp ứng những hoàn cảnh như thế với sự phân định thích hợp hay không.
– Có nghị phụ trở lại vấn đề chuẩn bị hôn nhân kỹ lưỡng hơn, nhất là nơi những người trẻ, cần trình bày cho họ vẻ đẹp của bí tích hôn nhân, cùng với sự giáo dục thích hợp về tình cảm, không phải bằng những lời nhắn nhủ luân lý, vì hành động này rốt cuộc tạo ra một thứ ”mù chữ” về tôn giáo và nhân bản. Trong tiến trình hôn nhân, cần có một sự tăng trưởng đích thực của con người.

Thảo luận tự do

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều thứ tư, 8-10, mỗi nghị phụ được phát biểu tối đa 3 phút.

– Một số nghị phụ trình bày những kinh nghiệm và kiểu mẫu cụ thể về việc mục vụ cho những người ly dị tái hôn. Họ dùng những nhóm lắng nghe. Điều quan trọng là tránh đưa ra một phán đoán luân lý, cũng như trách nói về tình trạng sống trong tội lỗi trường kỳ. Trái lại cần giúp những người ly dị tái hôn hiểu rằng việc không được rước lễ không loại trừ những phương thức khác để lãnh nhận ơn thánh trong Chúa Kitô; tình trạng không được rước lễ là do tình trạng khách quan theo đó mỗi giây bí tích bất khả phân lý trước đó vẫn còn. Trong nhãn giới đó, các nghị phụ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc rước lễ thiêng liêng. Dầu sao thì cả những đề nghị này cũng có những giới hạn và không có những giải pháp dễ dàng cho vấn đề.

– Về việc mục vụ những người đồng tính luyến ái, một số nghị phụ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe, và cả những nhóm lắng nghe nữa.

– Có nghị phụ nói đến vấn đề những tín hữu Công Giáo chuyển sang hệ phái Kitô khác, hoặc ngược lại, với tất cả những hậu quả khó khăn từ hôn phối hỗn hợp và sự kiểm chứng tính chất thành sự của các hôn phối ấy dưới ánh sáng của sự kiện trong các Giáo Hội Chính Thống, có thể được phép ly dị.
– Sau cùng, có nghị phụ nhận xét rằng từ Thượng HĐGM về gia đình Kitô hồi năm 1980 cho đến nay đó có những biến chuyển rất lớn trong nền văn hóa pháp lý quốc tế và vì thế Giáo Hội cần ý thức những điều ấy, và các tổ chức văn hóa, như các đại học Công Giáo cần đối chiếu với những tình trạng ấy để bảo tồn vai trò của mình trong cuộc thảo luận hiện nay.

Phiên nhóm thứ 7

Sáng ngày 9-10-2014, Thượng HĐGM nhóm phiên khoáng đại thứ 7, từ lúc 9 giờ, trước sự hiện diện của ĐTC và dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY André Vingt-Trois, TGM giáo phận Paris.

Chủ đề của phiên họp là: Những thách đố mục vụ liên quan với sự cởi mở đối với sự sống. Đây cũng là đề tài chương thứ I trong phần III của Tài liệu làm việc, bàn về sự hiểu biết và đón nhận giáo huấn của Hội Thánh về vấn đề này; vấn đề các phương pháp ngừa thai, các khó khăn và nguyên nhân khiến tín hữu khó chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội; việc lãnh nhận bí tích thống hối của các đôi vợ chồng ngừa thai. Sau cùng là sự khuyến khích một tâm thức cởi mở đóng nhận sự sống.

Trước khi các nghị phụ lên tiếng phát biểu, mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Arturo và Hermelinda Zamberline, trách nhiệm phong trào ”ê-kíp Đức Bà (Notre Dame) ở Brazil”. (SD 9-10-12014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 8-10-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 8-10-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 80 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 8-10-2014 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã tố giác sự chia rẽ giữa các tín hữu Kitô và mời gọi mọi người cầu nguyện và dấn thân cho sự hiệp nhất.

Lúc quá 9 giờ rưỡi sáng, ĐTC tiến vào quảng trường thánh Phêrô trên chiếc xe díp màu trắng mui trần để chào thăm các tín hữu, ôm hôn và chúc lành cho các em bé được nhân viên an ninh bế đưa lên ngài.

Lên tới lễ đài ở thềm Đền thờ, ĐTC khởi sự buổi tiếp kiến với dấu Thánh giá và lời chào phụng vụ. Và sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ đoạn 17 của Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại lời nguyện của Chúa Giêsu xin cho các môn đệ được hiệp nhất, ĐTC đã tiếp tục loạt bài huấn giáo về Giáo Hội, và ngài tiến sang bài thứ 8 nói về các tín hữu Kitô không Công Giáo.

Bài huấn giáo của ĐTC

Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em

Trong các bài huấn giáo gần đây, chúng ta đã tìm cách làm nổi bật bản chất và vẻ đẹp của Giáo Hội, và chúng ta tự hỏi sự kiện chúng ta được thuộc về Dân của Giáo Hội bao hàm điều gì. Và chúng ta không quên rằng có bao nhiêu anh chị em cùng chia sẻ với chúng ta niềm tin nơi Chúa Kitô, nhưng họ thuộc các hệ phái khác hoặc thuộc các truyền thống khác với chúng ta. Nhiều người cam chịu sự chia rẽ này, sự chia rẽ qua dòng lịch sử thường là nguyên nhân gây ra những xung đột và đau khổ, cả chiến tranh nữa và đây thực là ô nhục. Cả ngày nay, các quan hệ cũng không luôn luôn đượm tinh thần tôn trọng và thân mật… Còn chúng ta, chúng ta có thái độ nào đứng trước tình trạng đó? Phải chăng chúng ta cũng cam chịu, và thậm chí có thái độ dửng dưng? Hoặc chúng ta mạnh mẽ xác tín rằng ta có thể và phải tiến bước theo chiều hướng hòa giải và hiệp thông trọn vẹn.

Những chia rẽ giữa các tín hữu Kitô, khi làm thương tổn Giáo Hội thì cũng gây thương tổn cho Chúa Kitô: thực vậy, Giáo Hội là thân mình mà Chúa Kitô là đầu. Chúng ta biết rõ điều Chúa Kitô rất mong muốn, đó là các môn đệ của Ngài hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Ngài. Chỉ cần nghĩ đến những lời Chúa được thuật lại trong chương 17 của Tin Mừng theo thánh Gioan, lời nguyện Chúa dâng lên Thiên Chúa Cha liền trước cuộc khổ nạn. ”Lạy Cha thánh, xin giữ gìn họ trong danh Cha, danh mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta” (Ga 17,11). Sự hiệp nhất này đã bị đe dọa trong khi Chúa Giêsu còn ở với các môn đệ: thực vậy, trong Tin Mừng, chúng ta nhớ vụ các môn đệ tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, quan trọng nhất (Xc Lc 9,46). Nhưng Chúa đã nhấn mạnh rất nhiều về sự hiệp nhất trong danh Chúa Cha, cho chúng ta hiểu rằng việc loan báo và làm chứng tá của chúng ta càng đáng tin cậy nếu trước đó chúng ta càng có khả năng sống hiệp thông và yêu thương nhau. Đó là điều mà các tông đồ của Chúa, với ơn của Chúa Thánh Linh, đã hiểu sâu xa sau đó và quan tâm, đến độ thánh Phaolô đi tới độ tha thiết xin Cộng đoàn Corinto với những lời như sau: ”Vì thế, anh chị em, tôi xin anh chị em nhân danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta hãy hiệp nhất trong lời nói, để đừng có chia rẽ giữa anh chị em, nhưng anh chị em hãy hiệp nhất trong tư tưởng và cảm thông” (1 Cr 1,10).

Trong hành trình lịch sử, Giáo Hội bị ma quỉ cám dỗ, hắn tìm cách chia rẽ Giáo Hội, và rất tiếc là Giáo Hội bị những phân rẽ trầm trọng và đau thương. Đó là những chia rẽ nhiều khi kéo dài trong thời gian, cho đến ngày nay, vì thế thật khó nêu rõ tất cả những lý do và nhất là tìm ra những giải pháp có thể. Những lý do đã đưa tới những rạn nứt và phân rẽ có thể rất khác nhau: từ sự khác biệt về những nguyên tắc tín lý và luân lý, và về những quan niệm thần học và mục vụ khác nhau, tới những động lực chính trị và xu thời, cho đến những cuộc đụng độ vì sự ác cảm và tham vọng cá nhân.. Điều chắc chắn là, cách này hay cách khác, đàng sau những xâu xé ấy luôn có sự kiêu ngạo và ích kỷ, là nguyên nhân gây ra mọi bất thuận và làm cho chúng ta trở nên bất bao dung, không có khả năng lắng nghe và chấp nhận những người có quan điểm và lập trường khác với chúng ta.

ĐTC đặt câu hỏi:

”Giờ đây, phải chăng đứng trước tất cả những điều ấy, có một cái gì đó mà mỗi người chúng ta, trong tư cách là phần tử của Giáo Hội là Mẹ Thánh, có thể và phải làm? Chắc chắn là không thể thiếu lời cầu nguyện, nối tiếp và hiệp thông với lời cầu của Chúa Giêsu. Và cùng với lời cầu nguyện, Chúa cũng yêu cầu chúng ta tái cởi mở: Chúa yêu cầu chúng ta đừng khép kín không đối thoại và gặp gỡ, trái lại đón nhận tất cả những gì có giá trị và tích cực mà những người nghĩ khác chúng ta hoặc có những lập trường khác, cống hiến. Chúa yêu cầu chúng ta đừng nhìn những gì chia rẽ chúng ta, nhưng đúng hơn, hãy ngắm nhìn những gì liên kết chúng ta, tìm cách biết và yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn và chia sẻ sự phong phú của tình yêu Chúa. Và điều này bao hàm một cách cụ thể thái độ gắn bó với chân lý, cùng với khả năng tha thứ cho nhau, cảm thấy mình là thành phần của cùng một gia đình, coi nhau như một món quà và cùng nhau làm bao nhiêu điều tốt lành, bao nhiêu công việc bác ái!

ĐTC cũng nói rằng: ”Thật là đau lòng vì có những chia rẽ, các tín hữu Kitô chia rẽ. Nhưng tất cả chúng ta đều có một điều chung: tất cả đều tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Tất cả chúng ta đều tin nơi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cùng nhau tiến bước. Chúng ta hãy giúp đỡ lẫn nhau.. Trong tất cả các cộng đoàn Giáo hội đều có những nhà thần học giỏi: họ hãy thảo luận, tìm kiếm chân lý thần học, vì đó là một nghĩa vụ, chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau và làm việc bác ái. Và như thế chúng ta hiệp thông trong hành trình, điều này gọi là phong trào đại kết tinh thần: cùng nhau đồng hành trong đức tin, trong niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô”.

ĐTC cũng nhắc đến một kỷ niệm bản thân: hôm qua là kỷ niệm đúng 70 năm ngài được hiệp lễ, được rước lễ lần đầu. Hiệp lễ cũng là hiệp thông với người khác, với anh chị em chúng ta trong Giáo hội, với những người thuộc các cộng đoàn khác, nhưng tin nơi Chúa Giêsu. ”Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì bí tích rửa tội, vì sự hiệp thông giữa chúng ta”.

Chào thăm và nhắn nhủ

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Chẳng hạn với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài nói: ”Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện cho công việc của Thượng HĐGM về gia đình mới khai mạc chúa nhật vừa qua. Đây là thời điểm quan trọng trong đời sống Giáo Hội, cũng như để nâng đỡ các gia đình chúng ta thường bị tổn thương và thử thách bằng nhiều cách.

Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC nhắc đến các phái đoàn đến từ nhiều nước như Anh, Wales, Ecosse, Ailen, Australia, và cả Đài Loan, Philippines, Malaysia và Hoa Kỳ. Ngài đặc biệt chào thăm phái đoàn đại kết và liên tôn đến từ Đài Loan và một nhóm thuộc Học viện Romanum ở Phần Lan.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC chào thăm các tham dự viên cuộc thi đua quốc tế nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Phong trào Schoenstatt, các bạn trẻ người Thụy Sĩ đến Roma tham dự tuần lễ tìm hiểu về đoàn Vệ Binh Thụy Sĩ tại Vatican.

Trong lời chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nhắc nhở họ rằng: ”Anh chị em rất thân mến, chúng ta hãy phó thác tất cả các gia đình trên thế giới cho Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương Mân Côi, xin Mẹ hồng ân tình thương, là hồng ân lớn hơn mọi khó khăn và yếu đuối, để các gia đình luôn hiệp nhất và hạnh phúc. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Thượng Hội đồng GM, để những suy tư về gia đình soi sáng và nâng đỡ hành trình của mỗi Giáo Hội tại gia!
Bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các tu sĩ dòng Pallottin, các LM sinh viên Học viện Thánh Phêrô Tông Đồ trong có đó một số linh mục Việt Nam, các bạn trẻ thuộc Phong trào Schoenstatt, đang kỷ niệm 100 năm thành lập Phong trào; những người đề xướng và cổ võ cử hành Ngày Âu Châu về việc hiến cơ phận để ghép cho bệnh nhân. ĐTC nói: ”Tôi cầu mong rằng với hình thức chứng tá yêu thương đặc thù này đối với tha nhân, người ta duy trì được xác tín chỉ lấy cơ phận khi người hiến cơ phận qua đời thực sự và tránh mọi lạm dụng, những hình thức mua bán cơ phận”.

Sau cùng, ĐTC nhắc nhở rằng tháng mười này là tháng đặc biệt cầu nguyện với Kinh Mân Côi. Ngài nói: ”Hỡi các bạn trẻ thân mến, các con hãy luôn khẩn cầu sự chuyển cầu của Mẹ Maria, để Mẹ soi sáng cho các con trong mọi hoàn cảnh cần thiết. Hỡi anh chị em bệnh nhân quí mến, nhất là anh chị em thuộc Hợp Tác Xã săn sóc và phục hồi, ước gì ơn an ủi nhờ cầu nguyện với Mẹ Maria luôn hiện diện trong cuộc sống anh chị em và hỡi các đôi tân hôn, anh chị em hãy củng cố hôn nhân của anh chị em bằng lời cầu nguyện.

ĐTC kết thúc buổi tiếp kiến với Kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 3, sáng 7-10-2014, các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đã bàn về vấn đề những người ly dị.

ĐTC hiện diện tại phiên họp do ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa và bàn về ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Trong phần phát biểu về chủ đề được xác định, một số nghị phụ đã kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn nhân, để không những bí tích này được thành sự nhưng còn được những kết quả phong phú. Các nghị phụ cũng đề nghị không nên chỉ tìm kiếm những phương dược cho những cuộc hôn nhân bị thất bại, nhưng còn phải để ý đến những điều kiện làm cho hôn phối được thành sự và phong phú. Điều này cần phải thông truyền một quan niệm về hôn nhân không phải như một điểm tới, nhưng là một hành trình hướng về một mục tiêu cao cả hơn, một con đường tăng trưởng bản thân và cho đôi vợ chồng, một sức mạnh và là nguồn năng lực.

Cần luôn tháp tùng các đôi vợ chồng trong hành trình cuộc sống, qua một nền mục vụ gia đình khẩn trương và nghiêm túc. Hành trình chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối phải lâu dài, theo nhân cách của mỗi người và nghiêm ngặt, đừng sợ thấy con số các hôn phối cử hành tại nhà thờ bị giảm sút. Chẳng vậy người ta sẽ gặp nguy cơ làm cho các tòa án hôn phối bị tràn ngập công việc.

– Một điểm khác được các nghị phụ trình bày tại Thượng HĐGM là ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông. Các phương tiện này nhiều khi xâm nhập đời sống và trình bày những ý thức hệ trái ngược với đạo lý của Hội Thánh về gia đình và hôn nhânm. Trong viễn tượng này, người ta nói các tín hữu Công Giáo cần được bảo vệ, nhưng cũng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Giáo Hội phải cung cấp giáo huấn một cách chính xác và quyết liệt hơn, trình bày đạo lý không phải như một danh sách những điều cấm đoán, nhưng gần gũi với các tín hữu, như Chúa Giêsu đã làm. Theo cách thức ấy, khi hành động trong sự đồng cảm và dịu dàng, Giáo Hội có thể thu hẹp khoảng cách giữa đạo lý và thực hành, giữa giáo huấn của Giáo Hội và đời sống thường nhật của các gia đình. Vì điều cần thiết không phải là chọn lựa giữa đạo lý và lòng từ bi, nhưng là khởi sự một nền mục vụ sáng suốt, nhất là để khích lệ các gia đình đang gặp khó khăn, thường cảm thấy mình không thuộc về Giáo Hội.

– Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ đã nói nhiều về những cặp vợ chồng gặp khó khăn, những người ly dị tái hôn. Một số nghị phụ khẳng định rằng Giáo Hội đừng đưa ra một sự phán xét đối với những cặp ấy nhưng trình bày chân lý, với cái nhìn cảm thông, vì dân chúng đi theo sự thật và theo Giáo Hội nếu Giáo Hội nói lên chân lý. Liều thuốc từ bi mang lại sự đón tiếp, chăm sóc và nâng đỡ. Lý do cũng vì các gia đình đau khổ không tìm kiếm những giải pháp mục vụ mau lẹ, họ không muốn chỉ là những con số thống kê, nhưng cảm thấy nhu cầu được soi sáng, cảm thấy được đón nhận và yêu mến. Giáo Hội phải dành nhiều chỗ hơn cho tiêu chuẩn bí tích, hơn là tiêu chuẩn luật pháp.

Về vấn đề những người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, một số nghị phụ khẳng định rằng bí tích Thánh Thể không phải là bí tích của những người hoàn hảo, nhưng là của những người đang trên đường lữ hành.

Tại Thượng HĐGM có trình bày 3 chiều kích đặc thù của gia đình, đó là: ơn gọi sự sống, đặc tính truyền giáo, được hiểu như làm chứng về Chúa Kitô qua sự hiệp nhất gia đình; sau cùng là đón tiếp tha nhân, vì gia đình là trường học đầu viên về tha nhân, là nơi người ta có thể học sự kiên nhẫn và chậm rãi, đối nghịch với với nhịp sống ồ đạt của thế giới ngày nay. Một chiều kích khác của tế bào gia đình được nêu bật trong sự thánh thiện, vì gia đình giáo dục về sự tháanh thiện, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, là Giáo Hội tại gia, phục vụ công trình loan báo Tin Mừng, là tương lai của nhân loại.

Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ cũng nói đến tầm quan trọng của việc huấn giáo về gia đình, nhất là cho các trẻ em, và việc cầu nguyện trong gia đình, vì việc cầu nguyện này tới tới một sự sinh ra đức tin, giúp cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ ba, 7-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về ”những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng” đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 trước sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ. ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa phiên họp theo lượt.

ĐHY loan báo chủ đề của phiên họp là ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Chúng tôi sẽ tường thuật nội dung phiên họp này trong bản tin tới.

Họp báo của Cha Lombardi

Khác với các công nghị GM thế giới trước đây, lần này Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM không phổ biến các bản tóm tắt bài phát biểu do chính nghị phụ thực hiện. Trái lại, mỗi ngày đều có một cuộc họp báo ngắn để tường trình tổng quát cho giới báo chí những gì đã được trình bày trong phiên họp.

Trưa thứ hai 6-10-2014, sau phiên khoáng đại thứ I, cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã chủ tọa cuộc họp báo này với sự tham dự của ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của Thượng HĐGM, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris là người đã chủ tọa phiên họp thứ I, và ĐHY Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Thượng HĐGM đang tiến hành.

ĐHY Peter Erdoe

Ngỏ lời với giới báo chí, ĐHY Peter Erdoe nói đến một vài thay đổi trong phương pháp của Thượng HĐGM, vì ĐTC đã thay đổi qui luật của Công nghị GM, chẳng hạn ngài qui định rằng từ nay ngôn ngữ chính thức của Thượng HĐGM là tiếng Ý, thay vì tiếng la tinh như từ trước đến nay, dĩ nhiên là có phần thông dịch. Sự thay đổi này cũng làm cho công việc của Tổng tường trình viên dễ dàng hơn. Trong những Công nghị GM trước đây, các nghị phụ phải nghe bài tường trình cả tiếng đồng hồ bằng tiếng la tinh, và đó là điều không dễ dàng đối với mọi người.

Những thay đổi đáng kể khác trong phương pháp liên quan đến nội dung và cách thức soạn bản tường trình trước khi thảo luận, nhất là vì sau khi nhận được Tài liệu làm việc, các Nghị Phụ được yêu cầu gửi trước bài phát biểu của mình về Văn phòng Tổng thư ký trước cuối tháng 9 vừa qua. Vì thế, nhiều bài phát biểu đã được gửi về, và dựa trên các văn bản đó, chúng tôi dang soạn bài tường trình sau cuộc thảo luận. Dĩ nhiên cũng cần theo dõi các bài phát biểu của các nghị phụ trong những ngày tại tại Hội trường THĐGM, vì không phải tất cả các nghị phụ đều trình bày giống như đã viết trên giấy và gửi về trước, ngoài ra cũng có những bài phát biểu tự do. Tóm lại là phải thu thập tất cả để soạn bản tường trình sau cuộc thảo luận. Khi soạn bản tường trình trước cuộc thảo luận, chúng tôi cũng có thể để ý đến nội dung của một số bài phát biểu trên giấy đã được gửi về. Chúng tôi nghĩ, như thế có thể nhắc đến vắn tắt một số lập trường quan trọng từ những câu trả lời, và dĩ nhiên chúng tôi cũng dựa trên Tài liệu làm việc. Văn kiện này thực ra đã là kết quả của cuộc đúc kết các bản trả lời từ các nơi gửi về. Vì thế có thể nói là toàn Giáo Hội được tham khảo ý kiến hai lần. Tóm lại công việc của chúng tôi như tường trình viên là tổng hợp những gì được trình bày, và nói một cách thơ phú hơn, công việc đó hệ tại ”lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐHY Vingt-Trois

Tiếp lời ĐHY Erdoe, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, một trong 3 vị Chủ tịch thừa ủy, là người đã chủ tọa phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM sáng thứ hai 6-10, vừa qua, đã lên tiếng lưu ý các ký giả về cám dỗ muốn diễn tả kinh nghiệm của Thượng HĐGM theo kinh nghiệm mình đã có về các cuộc thảo luận tại quốc hội.

ĐHY nói: ”Trong cuộc thảo luận tại quốc hội, người ta cố gắng đạt tới một mục đích là đi tới một đa số và một thiểu số. Các chế độ dân chủ, hay ít là các chế độ ”mặc bộ áo dân chủ”, nói là đa số thắng thiểu số và thiểu số phải phục tùng đa số. Nhưng công việc tại Thượng HĐGM không phải như vậy. Các nghị phụ ở đây không phải để đạt được đa số từ những lập trường được trình bày. Các vị ở đó là để làm việc, làm sao phát triển được một ý chí chung trong Giáo Hội. Ý chí này là động viên về những mục tiêu rõ ràng và chính xác bao nhiêu có thể, và phần còn lại thì để cho các Giáo Hội địa phương thi hành.

Phiên họp khoáng đại thứ 2

Lúc 5 giờ chiều thứ hai 6-10-2014, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 2 với sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ và bàn về chủ đề: 'Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình” (I,1), và ”Việc hiểu biết và đón nhận Kinh Thánh và các văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình” (I,2). Hai đề tài này thuộc chương thứ I và thứ II trong phần thứ I của Tài liệu làm việc.

Chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola

Mở đầu mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola người Australia, dự thính viên tại Thượng HĐGM này. Ông bà là đồng giám đốc Hội đồng Công Giáo Australia về hôn nhân và gia đình. Họ kể lại kinh nghiệm trong gia đình về việc sống căng thẳng giữa một bên là khẳng định chân lý, và bên kia là sự cảm thông và từ bi. Cụ thể là người con trai của Ông bà Pirola là một người đồng tính luyến ái. Một hôm, nggười con ấy nói là muốn đưa người bạn trai của anh ta về nhà. Ông bà là người hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội, nhưng phải làm sao trước yêu cầu của người con? Ông bà bị giằng co giữa một bên là tôn trọng và chấp nhận chân lý và giáo huấn của Hội Thánh, và bên kia là từ bi yêu thương người con. Ông bà biết rằng các cháu muốn ông bà đón nhận đứa con và bạn trai của anh ta trong gia đình. Vì thế câu trả lời của ông bà có thể được tóm tắt trong câu: ”Đó là con chúng tôi!”.

Theo ông bà Ron và Mavis Pirola, điều này có thể là ”kiểu mẫu loan báo Tin Mừng cho các giáo xứ khi gặp những hoàn cảnh tương tự”. Vai trò của Giáo Hội là làm cho thế giới nhận biết tình thương của Thiên Chúa.

Ông bà dự thính viên còn kể thêm rằng: ”Một người bạn gái của chúng tôi ly dị và cho biết là nhiều khi không cảm thấy hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của bà. Nhưng bà vẫn đi dự lễ thường xuyên và không than thở gì với các con của bà. Đối với giáo xứ, bà là một gương mẫu về sự can đảm dấn thân đương đầu với những nghịch cảnh. Từ những người như bà chúng ta học cách nhận ra rằng tất cả chúng ta mang những thương tích nội tâm trong cuộc sống của mình. Ý thức về những vết thương nội tâm của mình, giúp chúng ta rất nhiều trong việc giảm bớt xu hướng xét đoán người khác, một thái độ cản trở việc loan báo Tin Mừng”.

Nội dung phát biểu của các nghị phụ

Sau chứng từ của ông bà Pirola, một số nghị phụ đã phát biểu ý kiến, mỗi vị tối đa là 4 phút. Nội dung các bài phát biểu của các nghị phụ có thể tóm tắt như sau:

Đi từ tiền đề gia đình là tế bào cơ bản của xã hội loài người, là chiếc nôi của tình yêu nhưng không, và việc nói về hôn nhân và gia đình bao hàm một sự giáo dục về lòng chung thủy, nhiều nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải bảo vệ gia đình vì tương lai của nhân loại tùy thuộc gia đình.

Ngoài ra, từ nhiều phía, người ta thấy cần phải thích ứng ngôn ngữ của Giáo Hội, để đạo lý của Hội thánh về gia đình, về sự sống, tính dục, được hiểu đúng đắn: cần đối thoại với thế giới, noi gương Công đồng chung Vatican 2, nghĩa là có thái độ cởi mở phê bình, nhưng chân thành. Lý do vì nếu Giáo Hội không lắng nghe thế giới, thì thế giới cũng chẳng nghe Giáo Hội. Và cuộc đối thoại có thể dựa trên những đề tài quan trọng như phẩm giá bình đẳng giữa người nam và người nữ, sự phủ nhận bạo lực.

Có nghị phụ nói: chúng ta không phải giải thích Tin Mừng, nhưng là chứng tỏ Tin Mừng và nhất là cần có sự can dự của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, nêu rõ đoàn sủng truyền giáo của giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng không thể là một lý thuyết xuông, nhưng phải làm sao để chính các gia đình làm chứng tá cụ thể về vẻ đẹp và về chân lý Phúc Âm, Thách đố ở đây là đi từ một thế tự vệ tới một thái độ đề nghị và tích cực, nghĩa là tái đẩy mạnh khả năng đề nghị gia sản đức tin với một ngôn ngữ mới, hy vọng, nhiệt thành, hăng say, trình bày chứng tá có sức thuyết phục, bắc những nhịp cầu giữa ngôn ngữ của Giáo Hội và ngôn ngữ của xã hội. Theo nghĩa đó có nghị phụ đề nghị sử dụng viêc huấn giáo Kinh Thánh hơn là thần học suy lý, vì nói đúng ra, con người không còn thỏa mãn vì sự ích kỷ và tìm kiếm những lý tưởng. Cũng vì con người muốn hạnh phúc và Kitô hữu biết rằng hạnh phúc là chính Chúa Kitô, nhưng họ không tìm được ngôn ngữ thích hợp để nói điều đó cho thế giới. Trái lại Giáo Hội phải có sức thu hút, làm việc để thu hút, với thái độ thân thiện đối với thế giới.

– Về những đôi vợ chồng gặp khó khăn, có nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải gần gũi họ trong sự cảm thông, tha thứ và từ bi: lòng từ bi là phẩm tính đầu tiên của Thiên Chúa, nhưng cần nhìn sự từ bi trong bối cảnh công lý, chỉ như thế ta mới tôn trọng thực sự toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa.

Hộn nhân đang và vẫn còn là bí tích bất khả phân ly, nhưng vì chân lý là Chúa Kitô, một ngôi vị, chứ không phải là một toàn bộ các qui luật, nên điều quan trọng là duy trì những nguyên tắc, tuy thay đổi những hình thức cụ thể trong việc áp dụng. Tóm lại như ĐGH Biển Đức 16 đã nói, đó là ”sự mới mẻ trong sự liên tục”: Thượng HĐGM này không đặt lại vấn đề đạo lý, nhưng suy tư về Mục Vụ, tức là về sự phân định tinh thần để áp dụng đạo lý ấy trước những thách đố của gia đình ngày nay. Theo nghĩa đó lòng từ bi không loại bỏ các giới răn, nhưng là chìa khóa để giải thích các giới răn.

Ngoài ra, trong Công nghị cũng nhấn mạnh rằng cần phải cứu xét những tình trạng bất toàn với lòng tôn trọng: ví dụ những cặp nam nữ sống chung không kết hôn, nhưng họ sống trong sự chung thủy và với tình yêu thương, trình bày những yếu tố thánh hóa và sự thật. Vì thế điều thiết yếu là trước tiên cần nhìn những yếu tố tích cực, để Thượng HĐGM mang lại can đảm và hy vọng cho cả những hình thức bất toàn của gia đình, những hình thức có thể đề cao giá trị theo nguyên tắc tiệm tiến. Cần thực sự yêu mến các gia đình gặp khó khăn.

Trong bối cảnh một xã hội mà người ta tôn thờ cái tôi của mình, đưa tới sự giải trừ gia đình, cần nêu rõ sự đánh mất ý nghĩa Giao Ước giữa con người với Thiên Chúa. Do đó việc loan báo vẻ đẹp của gia đình, không thể là một khoa thẩm mỹ, trình bày một lý tưởng thuần túy phải bắt chước, nhưng phải trình bày tầm quan trọng sự sự dấn thân chung kết dựa trên Giao Ước của đôi vợ chồng với Thiên Chúa.

– Một điểm thiết yếu khác là sự phủ nhận thái độ giáo sĩ trị, nhiều khi Giáo Hội dường như quan tâm tới quyền bính hơn là phục vụ và vì thế không soi sáng cho tâm hồn con người. Do đó cần tái noi gương Chúa Kitô, tìm lại sự khiêm tốn: việc cải tổ Giáo Hội phải bắt đầu bằng việc cải tổ giáo sĩ, vì nếu các tín hữu thấy các vị mục tử noi gương Chúa Kitô, thì họ sẽ tái gần gũi với Giáo Hội, và như thế Giáo Hội có thể đi từ tình trạng chỉ loan báo Tin Mừng để trở thành người loan báo Tin Mừng.

Và các nghị phụ cũng bàn về đề tài giá trị thiết yếu cảu tính dục trong hôn nhân: thực vậy người ta nói rất nhiều để phê bình tính dục ngoài hôn nhân, đến độ tính dục trong hôn nhân dường như là một sự nhân nhượng đối với một sự bất toàn. Thượng HĐGM nhấn mạnh tới sự cần thiết phải huấn luyện kỹ lưỡng hơn cho các LM, các chính sách bênh vực gia đình và đẩy mạnh việc thông truyền đức tin giữa lòng gia đình.

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều, có 2 đề nghị được đưa ra: xin Thượng HĐGM gửi một sứ điệp khích lệ và quí mến đối với các gia đình ở Irak, đang bị đe dọa vì cuộc tàn sát do trào lưu Hồi giáo cuồng tín gây ra và phải chạy trốn để không từ bỏ đức tin. Đề nghị này được đa số các nghị phụ bỏ phiếu chấp thuận.

Đề nghị thứ hai là cần suy tư về hàng giáo sĩ có gia đình trong các Giáo Hội Đông phương, họ cũng thường sống những cuộc khủng hoảng gia đình, và có thể đi tới chỗ yêu cầu được ly dị.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. ĐTC Phanxicô xin các nghị phụ nói rõ và nói thẳng ý kiến và xác tín của mình trong Thượng HĐGM.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong lời chào mừng các nghị phụ trong phiên họp khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM khóa ngoại thường thứ 3 về gia đình, sáng ngày 6-10-2014 tại Hội trường Thượng HĐGM ở nội thành Vatican, về về ”các thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Phiên họp bắt đầu lúc 9 giờ, dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris và trước sự hiện diện của ĐTC với 181 nghị phụ, cùng với các dự thính viên. Trên bàn chủ tọa trong Hội trường THĐGM, cạnh ngài còn có ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, 3 Hồng Y chủ tịch thừa ủy, ĐHY Tổng tường trình viên, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của khóa họp này.

Trong kinh giờ Ba, ĐHY Lluós Martínez Sistach, nguyên TGM Barcelona, Tây Ban Nha, đã trình bày một bài suy niệm ngắn.

Đến lượt ĐTC chào mừng mọi người. Ngài nói:

Các Hồng Y, Thượng Phụ, GM, anh chị em thân mến

Tôi nồng nhiệt chào mừng anh chị em tham dự cuộc gặp gỡ này và thành tâm cám ơn sự hiện diện ân cần và quí giá và tham dự của anh chị em.

Nhân danh anh chị em, tôi muốn nồng nhiệt cám ơn tất cả những ngừơi đã tận tụy làm việc, trong kiên nhẫn và với khả năng chuyên môn, qua những tháng dài, đọc, thẩm định và soạn thảo các đề tài, văn bản và công việc của Thượng HĐGM khóa ngoại thường này.

ĐTC đặc biệt cám ơn ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký THĐGM Đức cha Phó Tổng thư ký và tất cả các nhân viên của Văn phòng Tổng thư ký đã làm việc không biết mệt mỏi và còn tiếp tục làm việc cho Thượng HĐGM này. ĐTC cũng cám ơn Hội đồng Hậu Thượng HĐGM thế giới khóa 13, vị Tổng tường trình viên, Tổng thư ký và các HĐGM đã làm việc rất nhiều, cũng như 3 vị HY thừa ủy.

Tiếp đến ĐTC cám ơn các HY, Thượng Phụ, GM và các tham dự viên khác, và nói rằng: sự tham dự của anh chị em làm cho công việc của Thượng HĐGM này được phong phú, tinh thần đoàn thể của hàng GM và công nghị tính để mưu ích cho Giáo Hội và các gia đình. Tôi cũng muốn tinh thần công nghị thể hiện qua việc chọn vị Tường trình viên, Tổng thư ký và các vị chủ tịch thừa ủy. Vị tường trình viên và Tổng thư ký đặc biệt do Hội đồng hậu Thượng HĐGM trực tiếp bầu lên, trong khi 3 vị Chủ tịch thừa ủy thừa ủy thì tôi đã xin Hội đồng đề nghị và tôi đã theo đó để bổ nhiệm.

ĐTC nói với các nghị phụ:

”Anh em mang tiếng nói của các Giáo Hội địa phương, tập họp ở cấp địa phương của HĐGM. Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội địa phương là do Chúa thiết lập; các Giáo Hội địa phương được hiểu như thế là do con người thành lập.

Tiếng nói này anh em mang đến trong công nghị. Đó là một trách nhiệm lớn: mang những thực tại và các Giáo Hội, để giúp các Giáo Hội ấy tiến bước trên con đường là Tin Mừng gia đình.

Một điều kiện tổng quát cơ bản là: nói rõ ràng. Xin đừng ai nói: ”Điều này không thể nói; ai đó sẽ nghĩ về tôi thế này thế kia..” Cần nói tất cả những gì mình cảm thấy trong tinh thần tự do ngôn luận.

Sau công nghị Hồng y lần cuối hồi tháng 2 năm 2014, trong đó có nói về gia đình, một Hồng Y đã viết cho tôi rằng: rất tiếc là vài Hồng Y không có can đảm nói một số điều vì tôn trọng ĐGH, cho rằng ĐGH nghĩ khác. Điều này không tốt, đó không phải là đặc tính công nghị, vì cần phải nói tất cả những gì mà trong Chúa mình cảm thấy phải nói: không vị nể con người, không nhút nhát. Và đồng thời, phải khiêm tốn lắng nghe và thành tâm đón nhận trong tinh thần cởi mở điều mà các anh em nói. Với hai thái độ đó, ta thực thi công nghị tính. Vì thế, tôi xin anh em, hãy có những thái độ huynh đệ ấy trong Chúa: nói trong tinh thần tự do ngôn luận và khiêm tốn lắng nghe. Và hãy thi hành điều đó trong tinh thần thanh thản và yên hàn, vì công nghị luôn tiến hành với Phêrô và dưới Phêrô, và sự hiện diện của Giáo Hoàng là bảo đảm cho tất cả.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta hãy cộng tác để năng động tính của công nghị được củng cố rõ ràng.

ĐHY Baldisseri
Sau lời chào của ĐTC, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã trình bày những chỉ dẫn thực tiễn trong việc tiến hành Thượng HĐGM: mỗi nghị phụ được quyền phát biểu tối đa 4 phút theo thứ tự các đề tài được ấn định cho mỗi phiên họp. Bài phát biểu đó, sau khi trình bày, trở thành tài sản của Thượng HĐGM. Các nghị phụ được tự do trả lời phỏng vấn với các nhân viên truyền thông và trình bày những gì mình thấy là nên nói. Mỗi ngày sẽ có một cuộc họp báo theo sự phối hợp của Cha Lombardi, giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, và có sự tham dự của một vài nghị phụ.

Các nghị phụ theo dõi một video về cách sử dụng các dụng cụ tại Hội trường Thượng HĐGM, từ ống nghe cho đến việc chọn các sinh ngữ được thông dịch trực tiếp, dụng cụ bỏ phiếu và báo sự hiện diện. Sau khi các nghị phụ bấm vào máy, tổng cộng có 181 nghị phụ có mặt trong phiên khoáng đại đầu tiên sáng hôm qua.

Bài dẫn nhập của ĐHY Baldisseri

Sang đến bài dẫn nhập vào Thượng HĐGM khóa ngoại lệ thứ III, trước tiên, ĐHY Baldisseri đặc biệt cám ơn ĐTC vì đã quyết định tôn phong chân phước cho ĐGH Phaolô 6 vào chúa nhật 19-10 tới đây, trong lễ bế mạc Thượng HĐGM này. Đức Phaolô 6 được phong chân phước trong bối cảnh Thượng HĐGM, ghi đậm một dấu hiệu quan trọng về đoàn thể tính và công nghị tính. Sau 50 năm, Đức Cố Giáo Hoàng vẫn là một nhân vật thời sự.

ĐHY Baldisseri gợi lại diễn tiến chuẩn bị Thượng HĐGM khóa đặc biệt này về gia đình, từ lúc ĐTC tuyên bố triệu tập, xác định đề tài, bổ nhiệm Tổng thư ký mới, đến việc soạn tài liệu chuẩn bị, bổ nhiệm các chức sắc khác của Công nghị GM thế giới này.

Việc tham khảo ý kiến sâu rộng trong Giáo Hội được khởi sự với bản câu hỏi kèm theo tài liệu chuẩn bị. Có 83,11% những người có quyền thuộc các HĐGM đã trả lời, gần 65,40% các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã trả lời, gần 77% các Công nghị các Giáo Hội Công Giáo đông phương đã trả lời góp ý, không để nhiều nhận xét từ các nhân và các nhóm trong và ngoài Giáo Hội.

Dựa vào các bản góp ý gửi đề, một tài liệu làm việc đã được soạn thảo với sự cộng tác của một nhóm 9 chuyên gia. Tài liệu này đã được giới thiệu trong cuộc họp báo ngày 26-6 năm nay và được phổ biến rộng rãi trên trang mạng của Tòa Thánh.

Thành phần tham dự

Về thành phần tham dự công nghị này, ĐHY Baldisseri cho biết có tổng cộng 253 người, trong đó có 191 nghị phụ có quyền bỏ phiếu. Các vị gồm 3 thành phần: trước tiên có 162 vị tham dự do chức vụ, tiếp đến có 3 vị được bầu lên, sau cùng là 26 nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm gồm 14 HY, 8 GM, 4 LM.

Các nghị phụ do chức vụ gồm 13 vị thủ lãnh của các Công nghị Giám Mục các Giáo hội Công Giáo nghi lễ đông phương tự quản, sau đó là 114 vị Chủ tịch HĐGM (trong đó có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam); tiếp đến là 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Theo quyết định của ĐTC, trong số các nghị phụ theo chức vụ có thêm các HY, GM thành viên của Hội đồng Thượng HĐGM thứ 13, là những vị đã chuẩn bị công nghị GM khóa đặc biệt sắp bắt đầu.

Có 3 nghị phụ tham dự vì được bầu lên, đó là 3 Bề trên Tổng quyền: dòng Tên, dòng Capuchino và dòng thánh Giuse (CSI). Sau cùng là 26 vị do ĐTC bổ nhiệm, đến từ nhiều nơi trên thế giới.

Trong số 191 nghị phụ, có 61 Hồng y, 1 Hồng Y thượng phụ, 7 Thượng Phụ, 1 TGM trưởng, 67 TGM và 47 GM, 1 LM giám chức và 6 LM dòng.

Xét về xuất xứ có 42 nghị phụ Phi châu, 38 từ Mỹ châu, 29 từ Á châu, 78 vị từ Âu Châu và 4 vị từ Úc châu.
Ngoài ra có 16 chuyên gia và 38 dự thính viên nam nữ, trong đó có 12 cặp vợ chồng, và 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em. Trong số các chuyên gia cũng có 1 cặp vợ chồng.

Cầu nguyện cho Thưng HĐGM

Ngoài các sự kiện đó, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM đã cổ võ các sáng kiến cầu nguyện cho công nghị GM đặc biệt này. Nhất là vào lễ thánh gia thất, chúa nhật 29-12 năm ngoái, buổi cầu nguyện được cử hành đồng thời tại 3 nơi là Vương cung thánh đường Đức Mẹ Truyền Tin ở Nazareth, Đền Thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, và Đền thờ Thánh Gia ở thành Barcelona, Tây Ban Nha. Trong dịp đó văn bản kinh cầu nguyện cho Thượng HĐGM do ĐTC soạn cũng được phổ biến.

Chúa nhật 28-9 vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký cũng mời gọi các HĐGM, các hội đoàn và phong trào trên thế giới tổ chức ngày cầu nguyện cho Thượng HĐGM. Và từ ngày 6-10-2014, tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma, các tín hữu cũng cầu nguyện cho công nghị GM này trong nhà nguyện Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma. Sáng kiến này được sự cộng tác của giáo phận Roma, và tại nhà nguyện ấy có đặt thánh tích của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, và song thân của Người là chân phước Zélie và Louis Martin, cũng như thánh tích của hai chân phước Ông Bà Luigi và Maria Baltrame Quatrocchi người Italia.

Trong bài tường trình, ĐHY Baldisseri nói đến hành trình Thượng HĐGM theo tinh thần công nghị được ĐTC nhấn mạnh rất nhiều và tiến hành qua 2 giai đoạn: công nghị đặc biệt hiện nay và Thượng HĐGM khóa thường lệ vào năm tới. Đây là một thời điểm thuận tiện: các vị chủ chăn và tín hữu để cho mình được Chúa Thánh Linh hướng dẫn hầu thực hiện công nghị tính này vốn được ĐTC nhiều lần nhắc như một yếu tố quan trọng trong đời sống Giáo Hội… Hiệp nhất trong sự khác biệt: không có con đường Công Giáo nào khác để chúng ta liên kết với nhau. Trong tinh thần công nghị và hiệp thông huynh đệ ấy, các giai đoạn chuẩn bị Thượng HĐGM này đã được tiến hành.

Danh sách các chủ đ

ĐHY Baldisseri cũng nói đến cuốn cẩm nang Thượng HĐGM đã được phát cho các nghị phụ và các tham dự viên khác. Tài liệu này rất quan trọng để theo dõi công việc của công nghị GM này. Lịch trình tiến hành được đăng ở phần cuối cuốn Cẩm Nang, theo đó cuộc thảo luận tại Hội trường Thượng HĐGM, trong tuần lễ thứ I, từ phiên khoáng đại thứ hai sẽ tiến hành theo chủ đề:

Chiều thứ hai này, có hai đề tài: Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 1), kiến thức về Kinh Thánh và Giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 2).
Trong phiên họp thứ 3, có 2 đề tài: Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên (Phần I, ch. 3). Gia đình và ơn gọi con người trong Chúa Kitô (Phần I, Ch. 4). Chiều thứ 3, 7-10, chủ đề là ”Mục vụ gia đình và các đề nghị khác nhau được đề ra (II, 1). Sáng thứ tư trong phiên khoáng đại thứ 5, sẽ bàn về những thách đố mục vụ gia đình (II, 2). Trái lại ban chiều sẽ nói về những tình trạng mục vụ khó khăn (II, 3). Phiên khoáng đại thứ 7, sáng thứ năm 8-10 sẽ bàn về các thách đố mục vụ liên quan tới sự cởi mở đối với sự sống (III, 1), trong khi phiên thứ 8 vào ban chiều sẽ nói về Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục (III, 2).

Mỗi phiên họp theo chủ đề sẽ được mở đầu với phần nhập đề ngắn của vị Chủ tịch thừa ủy theo lượt, tiếp đến là chứng từ của các dự thính viên nam nữ được chọn, ưu tiên dành cho các đôi vợ chồng, qua đó họ có thể soi sáng đề tài bằng kinh nghiệm sống của họ, cung cấp một viễn tượng giáo dân làm cho cuộc thảo luận được phong phú.
Trong tuần lễ thứ hai của công nghị sẽ có các cuộc thảo luận nhóm bàn về bản tường trình sau tuần lễ thứ I, theo cùng thứ tự các chủ đề.

Bản tường trình các cuộc thảo luận nhóm sẽ được trình bày tại các phiên khoáng đại để được Thượng HĐGM phê chuẩn. Như thế sẽ không có việc soạn các đề nghị như trước kia. Bản tường trình này sẽ được đệ lên ĐTC để tùy ngài quyết định. Văn kiện này cũng là điễm khởi hành để chuẩn bị Thượng HĐGM khóa thường lệ thứ 14 sẽ tiến hành vào tháng 10 năm tới, 2015. Nói khác đi, sau khi thích ứng, văn kiện ấy sẽ trở thành tài liệu chuẩn bị cho Thượng HĐGM lần tới để tham khảo ý kiến và soạn Tài liệu làm việc cho khóa họp năm tới.
Đến 10 giờ rưỡi sáng hôm qua, ĐHY Vingt-Trois tuyên bố các nghị phụ được nửa giờ giải lao.

ờng trình ĐHY Peter Erdoe

Tái nhóm vào lúc 11 giờ, các nghị phụ đã nghe ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của công nghị GM này đọc bài tường trình dài hơn 1 tiếng đồng đồ về thực tại gia đình ngày nay và các vấn đề cần được công nghị này bàn tới.

Dựa theo Tài liệu làm việc, qua các chủ đề như Tin mừng gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng.
I. Trước tiên là phương pháp phân định về gia đình, rồi đến phương pháp làm việc của Thượng HĐGM này.
II. ”Tin Mừng về gia đình và việc mục vụ gia đình, với các tiểu đề như:
– Thách đố giáo dục của gia đình: là trường dạy về tình người, về xã hội, Giáo Hội và sự thánh thiện – Sự vững chắc và rõ ràng trong hành trình huấn luyện
– Gia đình như người giữ vai chính trong việc loan báo Tin Mừng
– Hoạt động mục vụ trong những tình trạng khủng hoảng
– Những khó khăn từ bêntrong gia đình và những sức ép từ bên ngoài
III. Những tình trạng mục vụ khó khăn, gồm các tiểu đề:
– Giáo hội như nhà Cha
– Sự thật và lòng từ bi thương xót
– những vụ sống chung và hôn nhân dân sự
– việc săn sóc mục vụ những người ly dị và tái hôn. Về vấn đề này được nhiều ngừơi nói tới, nhưng ĐHY Erdoe nói đây chỉ là một trong rất nhiều thách đố mục vụ cam go ngày nay. Và cũng có một số nước không hề có vần đề này, vì họ chẳng có hôn phối dân sự. Một số khác, con số ly dị giảm sút vài người ta không muốn tái hôn sau sự thất bại của hôn phối thứ I.
– Thủ tục giáo luật giải hôn phối và con đường ngoài tòa án.
– ĐHY cũng bàn đến thói quen thực hành của các Giáo hội chính thống.
IV. là Gia đình và tin mừng sự sống, gồm các tiểu đề như
– việc loan báo Tin Mừng sự sống
– gia đình trong bối cảnh quan hệ
– Trách nhiệm của Giáo hội và việc giáo dục
– Các vấn đề liên hệ tới Thông hiệp Sự Sống con người
Và ĐHY Erdoe kết luận rằng thách đố mà Thượng HĐGM này cần đương đầu là làm sao thành công trong việc tái đề nghị cho thế giới ngày nay, phần nào cũng giống như thời kỳ đầu của Giáo Hội, sức thu hút của Sứ điệp Kitô về hôn nhân và gia đình, nhấn mạnh niềm vui mà hôn nhân và gia đình mang lại nhưng đồng thời cung cấp những câu trả lời đích thực và đượm tình bác ái cho bao nhiêu vấn đề liên hệ tới cuộc sống gia đình ngày nay.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Phỏng vấn ông bà Franco và Giuseppina Miano

Trong các ngày từ mùng 5 đến 19 tháng 10 năm 2014 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới khóa đặc biệt về gia đình diễn ra tại nội thành Vaticăng với sự tham dự của 253 người đến từ năm châu. Trong số các Nghị phụ có 114 vị Chủ tịch các Hội Đồng Giám Mục, 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương của Tòa Thánh, 9 thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục, 3 Bề trên tổng quyền do các dòng nam bầu lên, và 26 Nghị phụ do Đức Thánh Cha Phanxicộ bổ nhiệm. Các tham dự viên khác gồm 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em, 38 dự thính viên, trong số này có 13 cặp vợ chồng, thêm vào đó là 16 chuyện gia.

Trong số các chuyên gia tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục nói trên có hai ông bà Franco và Giuseppina Miano, cả hai đều là giáo sư triết học. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn hai ông bà về vẻ đẹp của gia đình và Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Hỏi: Thưa hai giáo sư, ông bà nghĩ gì về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình mà hai người sẽ tham dự trong tư cách là các chuyên viên?

Đáp (ông Franco): Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đặc biệt này về gia đình là một dịp rất hay đẹp giúp suy tư về một thực tại, mà mọi kitô hữu đều chú ý và được Giáo Hội lưu tâm vì tầm quan trọng của gia đình đối với cuộc sống xã hội và cuộc sống của tất cả mọi người. Vì thế, chúng tôi thực sự hài lòng vì được chỉ định tham dự.

Đáp (bà Giuseppina): Chúng tôi cảm thấy trách nhiệm mà mình có qua việc chỉ định này và kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ sống trong Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Hỏi: Ông bà là cha mẹ, nhưng cũng là giáo sư đại học, vì thế luôn luôn tiếp xúc với người trẻ. Vai trò này của ông bà có thể đóng góp gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Có. Một sự đóng góp cụ thể trong hướng nền tảng, bởi vì nhà tôi và tôi, chúng tôi xác tín về tầm quan trọng của việc kể lại rằng cuộc sống gia đình trước hết là vẻ đẹp, tình yêu, niềm vui, cả các mệt nhọc cũng như các khó khăn, nhưng chúng được đương đầu với một sự chú ý cho phép vượt thắng các khó khăn. Trước hết, cần nói rằng có thể có một cuộc sống gia đình đẹp, đây là câu chuyện mà chúng tôi phải kể lại, mà chúng tôi phải trao ban cho các thế hệ mới. Trong một nghĩa nào đó đây là một bổn phận.

Đáp (bà Giuseppina): Phần đóng góp của chúng tôi là phần đóng góp cụ thể, phát xuất từ việc sống tới chỗ sâu thẳm của thực tại, mà người ta sẽ đề cập đến trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Bởi vì khi nói về gia đình, thì không phải là nói về một cái gì trừu tượng, mà là nói về một thực tại cuộc sống và tương quan, trong đó có các kinh nghiệm làm thành cuộc sống con người. Nghề dậy học của tôi dẫn đưa tôi tới chỗ không chỉ dấn thân trong nghề nghiệp như là phụ nữ, mà nó cũng là một việc rất đặc biệt, bởi vì đó là một công việc bao gồm sự nghiên cứu, suy tư, tìm tòi, so sánh, và là một công việc cũng bao gồm một trách nhiệm đặc biệt, bởi vì nó diễn ra bên trong phân khoa của một phân khoa thần học, và vì thế bao gồm việc đào tạo các con người, sẽ có một trách nhiệm đặc biệt trong cuộc sống xã hội.

Hỏi: Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục này dừng lại lâu trên gương mặt của người cha, nhưng cũng minh nhiên các khía cạnh thê thảm trong điều kiện của nữ giới: chẳng hạn nó nói tới cảnh bạo lưc trong gia đình trên nhiều phần đất của thế giới này. Riêng hai giáo sư, thì hai giáo sư nghĩ sao?

Đáp (ông Franco): Liên quan tới người cha, tôi tin rằng các nét nhấn mạnh trong tài liệu làm việc khiến cho tất cả mọi người đều chú ý tới một vấn đề, thường đặc biệt cấp bách trong các xã hội tây phương: nghĩa là làm sao để mỗi người cha, mỗi người mẹ có thể phục hồi tính cách chuyên biệt trong vai trò của mình, tức sự chuyên biệt trong sự hiến dâng của mình, và như thế người cha có thể là cha tới tận cùng thẳm con người mình, có khả năng đồng hành một cách yêu thương, nhưng cũng có khả năng thực thi một vai trò hướng dẫn, đồng hành chắc chắn và có uy tín. Đó là uy tín của gương mặt hiền phụ, nếu nó được phục hồi.

Đáp (bà Giuseppina): Để cho phẩm giá của phụ nữ được thừa nhận cho tới tận cùng và một cách thực sự, thì đường đi còn xa lắm. Và tôi cũng tin rằng đường còn dài kể cả sự đích thực của tương quan trở thành một cái gì có thể thực hiện và cụ thể. Vấn đề bạo lực đối với các phụ nữ trong gia đình không chỉ là vấn đề liên quan tới phụ nữ, nó cũng liên quan tới nam giới và nữ giới nữa; nó liên quan tới kiểu người ta quan niệm và sống tương quan giữa con người với nhau, liên quan tới ý thức và cả nhân tính của chúng ta nữa. Bạo hành nữ giới là dấu chỉ của một sự đánh mất nhân bản tính gia tăng, hay của một con đường nhân bản hóa còn có trước mặt con đường rất dài cần phải đi.

Hỏi: Thưa giáo sư Franco, trong qúa khứ giáo sư đã từng là Chủ tịch phong trào Công Giáo Tiến Hành Italia. Kinh nghiệm này có giúp giáo sư trong công việc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Chắc chắn là nó sẽ giúp tôi rồi, bởi vì kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trước tiên là kinh nghiệm của một đại gia đình phục vụ Giáo Hội và phục vụ xã hội. Gia đình trong đó có các trẻ em, các người trẻ, và người trưởng thành, người già cả, có những người độc thân và những cặp vợ chồng… Và vì thế ý thức của gia đình, của một hiệp hội hiệp nhất là một khía cạnh khác nữa, mà ngày nay người ta đặc biệt cần đến, bởi vì cuộc sống của Giáo Hội ngày càng được đón nhận như là sự sống của một gia đình. Và kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trong các năm này đã khiến cho tôi gặp biết bao nhiêu người, và vì thế tiếp xúc với biết bao nhiêu kinh nghiệm tốt lành được phổ biến trên đất Italia, nhưng trong một mức độ nào đó được phổ biến trên toàn thế giới, cũng như các vất vả mệt nhọc, mà ngày nay người ta cảm thấy, và Giáo Hội có thể góp phần dấn thận của minh và đề ra một giải pháp cho các vấn đề.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình sẽ kéo dài hai tuần, các con của giáo sư đã tiếp nhận tin cha mẹ được chỉ định làm chuyên viên tham dự Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế Giới như thế nào?

Đáp (bà Giuseppina): Các con chúng tôi đã rất hài lòng, khi nghe tin chúng tôi được chỉ định tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục như là chuyên viên. Chúng đã khá lớn rồi, bởi vì cả hai đều là các sinh viên đại học. Chúng hoàn toàn tham dự, chúng đã luôn luôn tham dự và lần này cũng thế chúng tham dự vào dấn thận của chúng tôi. Trong một cách thức nào đó, chúng cũng bị lôi cuốn vào trong kinh nghiệm này, cũng như trong biết bao nhiêu kinh nghiệm dấn thân của cuộc sống gia đình. Và đây là điều hay đẹp, bởi vì chúng tôi nghĩ tới dấn thân của mình tại Thượng Hội Đồng Giám Mục một cách riêng tư và đặc biệt như thế, trong kiểu chia sẻ rộng rãi bên trong gia đình. Do đó chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đựơc mời gọi không chỉ cống hiến một phần kiểu lý thuyết trừu tượng, nhưng một phần đóng góp nảy sinh từ cuộc sống, từ sự cụ thể của cuộc sống. Và bên trong sự cụ thể đó của cuộc sống gia đình chúng tôi, có tương quan rất mạnh mẽ và quan trọng với con cái qua sự đối thoại và đối chiếu với chúng.

Hỏi: Như thế thì hai giáo sư cầu chúc những gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình, xét rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2014 sẽ là giai đoạn đầu tiên của lộ trình sẽ được bổ túc bằng Thượng Hội Đồng Giám Mục chung năm 2015 cũng được dành cho gia đình?

Đáp (ông Franco): Chúng tôi cầu chúc rằng đây là một dịp rất hay đẹp của một suy tư được Chúa Thánh Thần soi sáng, có khả năng của một cuộc đối thoại sống động và ý nghĩa, chú ý tới thực tại trong đó chúng ta sống và chú ý tới tiếng nói của tất cả mọi người.

Đáp (bà Giuseppina): Tôi cầu chúc Thượng Hội Đồng Giám Mục lôi cuốn rộng rãi, để Giáo Hội ngày càng có khả năng đồng hành với cuộc sống của con người, dẫn đưa họ tới cuộc gặp gỡ với tình yêu thương của Chúa, biến đổi cuộc sống, khiến cho nó xinh đẹp hơn, sáng láng hơn, và làm phát sinh ra các tiềm năng tốt lành hơn của con người, nâng cao phẩm giá và ý nghĩa sâu xa của nó.

(RG 10-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

Kính thưa quí vị thính giả,

Đúng 11 tháng sau khi tài liệu chuẩn bị được công bố, lúc 10 giờ sáng chúa nhật hôm qua, 5-10, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể để khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có 230 vị, gồm 191 nghị phụ gồm trong đó có 61 Hồng Y, 7 Thượng Phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản, trong đó có 2 vị TGM Trưởng, 115 TGM và GM, phần còn lại là 7 LM nghị phụ, ngoài ra có gần 38 LM chuyên gia và cộng tác viên.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM gồm vị Tổng tường trình viên là ĐHY Peter Erdoe, TGM Ezstergom Budapest, Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu; tiếp đến là 3 vị Chủ Tịch thừa ủy gồm ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil, và ĐHY Luis Antonio Tagle, TGM Manila. Sau cùng là ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám mục này.

Cách đây 2 năm, ngày 7-10 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ khai mạc Thượng HĐGM thế giới, khóa thường lệ thứ 13 về việc tái truyền giảng Tin Mừng, có 408 vị đồng tế với ngài, trong đó có 250 nghị phụ, dự thính viên và chuyên viên cũng như các cộng tác viên của Thượng HĐGM, thêm vào đó có 75 GM thuộc HĐGM Tây Ban Nha và Đức vì hôm đó cũng là lễ tôn phong thánh Gioan Avila người Tây Ban Nha và thánh nữ Hildegard von Bingen người Đức là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có Ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên, đảm trách.

Sau đây là bài giảng trong thánh lễ của Đức Thánh Cha:

Hôm nay, ngôn sứ I-sa-i-a và bài Tin Mừng đã vận dụng hình ảnh vườn nho của Thiên CHúa. Vườn nho của Thiên Chúa là “giấc mơ” của Ngài, là dự phóng mà Ngài ấp ủ với tất cả tình yêu của mình, hệt như một người tá điền quan tâm đến vườn nho của mình. Nho là một loài cây vốn đòi hỏi nhiều sự chăm sóc.
Giấc mơ của Thiên Chúa là dân của Người: Người đã gieo trồng và nuôi dưỡng họ với một tình yêu tín trung và kiên nhẫn, để họ có thể trở thành một dân thánh, một dân sản sinh nhiều hoa trái thơm ngọt của sự công chính.

Nhưng trong thời các ngôn sứ ngày xưa cũng như trong dụ ngôn của Đức Giêsu, giấc mơ của Thiên Chúa đã bị hủy hoại. I-sa-i-a nói rằng vườn nho mà ông đã hết mực yêu mến và chăm sóc “lại sản sinh toàn nho dại”; còn Thiên Chúa thì những mong họ “sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (c.7), Trong bài Tin Mừng, trái lại, chính các tá điền đã phá hủy dự phóng của Thiên Chúa: họ không thực thi bổn phận của họ, nhưng chỉ suy nghĩ đến lợi ích của chính mình.

Đức Giêsu trong dụ ngôn của mình, đã nhắm đến các thượng tế và bậc lão thành ở trong dân, đó là những người tự cho mình là “thông thái”, là tầng lớp lãnh đạo dân. Họ là những người được Thiên Chúa, gửi gắm cho “giấc mơ của Người” một cách cụ thể, đó là dân của Người, để họ nuôi dưỡng, chăm sóc, gìn giữ dân khỏi những thú dữ. Đây là nghĩa vụ của những thủ lãnh của dân: chăm sóc vườn nho với sự tự do, sáng tạo và cần mẫn.

Nhưng Đức Giêsu nói rằng những tá điền đã chiếm đoạt vườn nho; bởi tính tham lam và sự ngạo mạn, họ đã muốn làm với vườn nho điều họ muốn, và như thế họ đã không cho Thiên Chúa khả năng hiện thực hóa giấc mơ của Ngài trên dân mà Ngài chọn.

Cám dỗ của tính tham lam luôn luôn có đó. Chúng ta có thể nhận ra nó ngay cả trong lời tiên báo của Ê-dê-ki-en dành cho các mục tử, mà thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích trong một bài giảng trứ danh của mình mà chúng ta vẫn hay đọc trong Các giờ kinh Phụng vụ. Tính tham lam tiền bạc và quyền lực. Và để thỏa mãn sự tham lam này những mục tử xấu xa bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn họ chẳng buồn động ngón tay vào. (x.Mt 23,4)

Chúng ta cũng vậy, trong khóa họp này, chúng ta được kêu gọi để lao tác cho vườn nho của Thiên chúa. Thượng HĐGM thế giới không phải để thảo luận những ý tưởng hay ho và cấp tiến, hay để xem ai là người thông minh hơn… nhưng để nuôi dưỡng và chăm nom vườn nho của Thiên Chúa được tốt hơn, để cộng tác với giấc mơ của Người, nhắm đến dự phóng tình yêu trên dân của Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến gia đình, vốn ngay từ khởi đầu đã là một phần thiết yếu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân và chúng ta có thể rơi vào cám dỗ “tự chiếm đoạt” vườn nho, bởi lòng tham luôn ngự trị nơi những con người như chúng ta. Giấc mơ của Thiên Chúa thường xung đột với thói đạo đức giả của một vài tôi tớ của Người. Chúng ta có thể “phá tan” giấc mơ của Thiên Chúa nếu chúng ta không để Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan vượt quá sự hiểu biết, để lao tác một cách quảng đại cùng với sự tự do đích thực và sự sáng tạo khiêm nhường.

Anh em nghị phụ thân mến, để nuôi dưỡng và chăm sóc vườn nho một cách tốt đẹp, con tim và tâm trí của chúng ta cần phải được gìn giữ ở trong Đức Giêsu Kitô bởi sự “bình an của Thiên Chúa vốn vượt lên trên mọi hiểu biết của con người", như thánh Phaolô đã nói (Phil 4,7). Như thế những suy tư và dự phóng của chúng ta có thể thích ứng với giấc mơ của Thiên Chúa: kiến tạo một dân thánh thuộc riêng về Người và sản sinh những hoa trái của Nước Trời (Mt 21,43).

Cũng trong ngày Chúa Nhật hôm nay, vào lúc 12h, các tín hữu hành hương lại tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô để nghe huấn từ của Đức Thánh Cha và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha lại tiếp tục khai thác về chủ đề “Vườn nho của Thiên Chúa” và xin mọi người cầu nguyện cho cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra trong những ngày tới đây, bàn về vấn đề mục vụ cho các gia đình.

Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của ngài:

“Anh chị em thân mến!

Sáng hôm nay, cùng với Thánh lễ đồng tế trong Đền thờ Thánh Phêrô, chúng ta đã khai mạc Đại hội ngoại thường của Thượng HĐGM thế giới. Các nghị phụ của Thượng HĐGM, đến từ nhiều vùng trên thế giới, sẽ sống cùng tôi và cùng với nhau trong hai tuần nghiêm túc, được bồi bổ từ cầu nguyện, để lắng nghe và đối thoại về đề tài “Những thách đố của việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”

Lời Chúa hôm nay giới thiệu hình ảnh của vườn nho hệt như biểu tượng của dân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Như một vườn nho, dân riêng đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm, đòi hỏi một tình yêu tín trung và kiên nhẫn. Như thế, điều Thiên Chúa làm với chúng ta thì chúng ta cũng được kêu gọi để làm những mục tử. Thậm chí người ta phải quan tâm đến gia đình như thể một cách thức lao tác cho vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì người ta phải sản sinh hoa trái của Vương quốc Thiên Chúa. (Mt 21, 33-43)

Nhưng để gia đình có thể tự mình bước đi tốt đẹp, cùng với niềm tin và sự hy vọng, cần được bổ dưỡng bởi Lời Chúa. Chính vì điều này thật là một sự trùng hợp hạnh phúc trong ngày hôm nay, khi những anh em Dòng thánh Phaolô đã muốn thực hiện việc phân phát sách Kinh Thánh cách rộng rãi, nơi Quảng trường này và tại nhiều nơi khác. Chúng ta cám ơn những anh em Dòng thánh Phaolo của chúng ta. Anh em đã thực thi việc này nhân dịp 100 năm thành lập Dòng, bởi chân phước Giacomo Alberione, một tông đồ vĩ đại về truyền thông. Vì thế, hôm nay, vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng GM về gia đình, cùng với sự trợ giúp của anh em dòng Thánh Phao-lô, chúng ta có thể nói rằng: một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! Một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! “Nhưng thưa cha, chúng con có tới hai, tới ba cuốn!” “Nhưng người ta giấu chúng đi đâu rồi?” Ôi, không phải bởi vì…cuốn Kinh Thánh, cũng chẳng phải để đặt nó nơi giá sách, nhưng phải giữ và mang chúng nơi đôi tay, để đọc nó thường xuyên, để hiện diện cùng với nó một cách cá vị, vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đều đặn mỗi tối, đặc biệt là ngày Chúa nhật. Như thế thì gia đình mới tăng trưởng, và vững bước cùng với ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa! Đây là cuốn Kinh Thánh mà anh em dòng Thánh Phao lô trao cho các bạn , mỗi gia đình một cuốn. Nhưng các bạn phải chú ý! Đừng láu cá để tay này lấy rồi, tay kia lại còn lấy nữa? Với một tay thôi để mang sách Kinh Thánh về nhà.

Cha mời gọi tất cả mọi người hãy trợ giúp những công việc của Thượng HĐGM cùng với lời cầu nguyện, khẩn khoản nài xin Đức Mẹ, sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Nữ Trinh Maria. Giờ phút này, chúng ta hiệp thông cách thiêng liêng cùng với nhiều người, đang ở Thánh địa Pompei, dâng lên Đức Mẹ Mân Côi lời kinh “Supplica” truyền thống. Lời kinh ban bình an cho tất cả gia đình và toàn thể thế giới.

Jos. Trần Đức Anh, OP
Jos. Nguyễn Huy Mai

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.

Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.

Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.

Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)

Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.

Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.

Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.

Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).

LM Giuse Nguyễn văn Nghĩa

CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

 CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.

Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.

Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.

Các con, sinh viên học sinh thân mến,

Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.

Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.

Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?

2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?

3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật

VATICAN. Sáng 4-10-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật và những người tháp tùng. Ngài ca ngợi chứng tá của họ như một khích lệ cho những người khác đồng cảnh ngộ.

Các vận động viên hay lực sĩ đến từ nhiều nước trên thế giới về Roma tham dự cuộc thi đấu thể thao với chủ đề ”Hãy tin tưởng để sống động” (Believe to be alive).

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, sau khi đề cao giá trị của thể thao, ĐTC nhận xét rằng: việc thực hành thể thao của các vận động viên khuyết tật là một ”sứ điệp khích lệ cho tất cả những người sống trong những hoàn cảnh tương tự và trở thành một lời mời gọi dấn thân với tất cả năng lực của mình để cùng nhau thực hiện những gì tốt đẹp, vượt lên trên những hàng rào mà chúng ta có thể gặp chung quanh mình, và trước tiên là những hàng rào trong nội tâm của mình”.

ĐTC cũng nói: ”Các vận động viên thân mến, chứng tá của anh chị em là một dấu chỉ hy vọng to lớn. Đó là một bằng chứng cho thấy trong mỗi người có những tiềm năng mà nhiều khi chúng ta không tưởng tượng được, và chúng có thể phát triển trong niềm tín thác và liên đới. Thiên Chúa Cha là người đầu tiên biết điều đó và Người nhìn chúng ta với lòng tín nhiệm, Người yêu thương chúng ta trong thân phận hiện tại nhưng Chúa cũng làm cho chúng ta tăng trưởng theo những gì chúng ta có thể trở thành. Vì thế, trong nỗ lực của anh chị em đạt tới một nền thể thao không hàng rào, một thế giới không có người bị loại trừ, anh chị em không bao giờ lẻ loi! Thiên Chúa là Cha chúng ta ở cùng anh chị em”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Ước gì thể thao trở thành một thao trường đối với tất cả anh chị, trong đó anh chị em tập luyện hằng ngày trong niềm tôn trọng chính mình và người khác, một thao trường mang lại cho anh chị em cơ hội biết những người và môi trường mới, giúp anh chị em cảm thấy mình là thành phần tích cực của xã hội”.

Chúa nhật 5-10-2014, lần đầu tiên ở đường Hòa Giải và Quảng trường Piô 12 liền trước Quảng trường Thánh Phêrô có bố trí một diễn trường lớn cho ngành thể thao khuyết tật, thuộc các bộ môn khác nhau. Lúc 12 giờ trưa, các tham dự viên cũng tham gia buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC Phanxicô (SD 4-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại hội của Bộ Giáo Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại hội của Bộ Giáo Sĩ

VATICAN. ĐTC khích lệ Bộ giáo sĩ trong các hoạt động xoay quanh 3 lãnh vực: ơn gọi, huấn luyện và loan báo Tin Mừng.

Ngài trình bày lập trường này trong buổi tiếp kiến sáng ngày 3-10-2014, dành cho 80 tham dự viên đại hội của Bộ giáo sĩ, tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY Tổng trưởng Beniamin Stella và trong đó có 23 HY và 4 GM thành viên.

ĐTC ví ”ơn gọi được Chúa đặt trong tâm hồn một số người người như kho tàng quí giá giấu trong ruộng, cần phải được khám phá và mang ra ánh sáng. Kho tàng này không phải chỉ để làm cho vài người được phong phú. Người được kêu gọi thi hành một thừa tác vụ không phải là ”chủ nhân” ơn gọi của mình , nhưng là người quản lý một hồng ân mà Chúa ủy thác cho họ để mưu ích cho tất cả mọi ngừơi, cả những người ở xa và không thực hành đạo.”
Tiếp đến là việc huấn luyện. Đó là một sự đáp lại của con người, của Giáo Hội, đối với hồng ân mà Chúa ban qua ơn gọi. Vấn đề ở đây là bảo tồn và phát huy ơn gọi, để ơn gọi được trưởng thành. Ơn gọi là những viên kim cương thô cần phải được mài dũa cẩn thận, trong sự tôn trong lương tâm con người và kiên nhẫn, để nó chiếu sáng giữa lòng dân Chúa.

ĐTC đặc biệt khai triển khía cạnh thứ ba là loan báo Tin Mừng. Mỗi ơn gọi là để phục vụ cho sứ mạng và sứ mạng của các thừa tác viên thánh chức là loan báo Tin Mừng dưới mọi hình thức. Sứ mạng này khởi hành trước tiên từ cuộc sống trước khi được biểu lộ qua việc làm. Các linh mục được liên kết trong một tình huynh đệ bí tích, nên hình thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là làm chứng về tình huynh đệ và hiệp thông giữa các LM với nhau và với Đức GM. Từ tình hiệp thông như thế có thể nảy sinh một đà tiến truyền giáo mạnh mẽ, giải thoát thừa tác viên thánh chức khỏi cám dỗ muốn tìm kiếm sự đồng thuận và ủng hộ của người khác và an sinh của mình, thay vì được đức bác ái mục tử thúc đây để loan báo Tin Mừng đến tận những vùng ngoại ô xa xăm nhất.

ĐTC nói thêm rằng ”trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, các LM được kêu gọi gia tăng ý thức mình là những mục tử được sai đi ở giữa đoàn chiên, để làm cho Chúa hiện diện qua Thánh Thể và ban phát lòng từ bi của Chúa. Vấn đề ở đây là ”sống như linh mục” chứ không phải là ”làm linh mục”, và cần được giải thoát khỏi mọi tinh thần trần tục, với ý thức rằng chính đời sống của linh mục là một việc loan báo Tin Mừng, trước khi truyền giáo bằng những hành động. Thật là đẹp khi thấy các linh mục vui tươi trong ơn gọi, với niềm thanh thản từ nội tâm, nâng đỡ linh mục cảc trong những lúc vất vả và đau khổi! Và điều này sẽ không bao giờ xảy ra nếu không cầu nguyện”. (SD 3-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi giải quyết các vấn đề Trung Đông

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi giải quyết các vấn đề Trung Đông

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi đừng đơn phương giải quyết các vấn đề ở Trung Đông bằng võ lực.
Lập trường trên đây được Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh, trình bày trong phiên họp sáng ngày 3-10-2014 tại Vatican của các vị Sứ Thần Tòa Thánh ở các nước Trung Đông và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh.

Đức TGM Mamberti đã trình bày về tình hình chính trị tổng quát ở Trung Đông và những nguyên tắc hướng dẫn hoạt động của Tòa Thánh. Ngài khẳng định rằng cần phải tìm kiếm hòa bình qua một giải pháp ”miền” và toàn bộ không bỏ qua lợi ích của phe nào, và qua đối thoại chứ không phải bằng những quyết định đơn phương áp đặt bằng võ lực.

Về hiện tượng khủng bố, Đức TGM ngoại trưởng tái khẳng định tầm quan trọng của việc bài trừ chủ nghĩa cực đoan là nguồn cội của khủng bố. Các vị lãnh đạo tôn giáo phải giữ một vai trò quan trọng, cổ võ đối thoại liên tôn và đặc biệt là sự cộng tác của tất cả mọi người để mưu thiện ích cho xã hội. Khi theo dõi tình hình chính trị ở Trung Đông và nói chung trong quan hệ với các nước có đa số dân theo Hồi giáo, Tòa Thánh luôn nghĩ đến các vấn đề cơ bản là việc bảo vệ và tôn trọng các tín hữu Kitô cũng như các nhóm thiểu số, như những công dân với đầy đủ danh nghĩa và nhân quyền, nhất là quyền tự do tôn giáo.

Trong phiên họp sáng thứ sáu, 3-10, Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Jerusalem và Palestine đã trình bày về cuộc xung đột Israel-Palestine và về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Thánh Địa. Ngài nhấn mạnh rằng để có sự ổn định cho vùng Trung Đông và hòa bình tại vùng này, điều chủ yếu là phải giải quyết cuộc xung đột giữa Israel và Palestine. Thực vậy, sau bao nhiêu năm, cuộc xung đột này tiếp tục không được giải quyết, với những hậu quả rất trầm trọng cho vùng này và thế giới.

Đức Sứ Thần cũng xác nhận rằng cuộc hành hương của ĐTC Phanxicô tại Thánh Địa và cuộc gặp gỡ cầu nguyện sau đó tại Vatican đã mở ra những hy vọng hòa bình. Cuộc xung đột mới đây tại Gaza nhắc nhở rằng tình trạng thật là trầm trọng và khó khăn, nhưng cần phải canh tân các nỗ lực ngoại giao để đạt tới một giải pháp công chính và lâu bền, tôn trọng quyền của cả hai phe trong cuộc xung đột. (SD 3-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

NEW YORK. Tòa Thánh kêu gọi LHQ canh tân các qui luật của mình để đối phó hữu hiệu với những hình thức mới của nạn khủng bố quốc tế.

Lập trường trên đây được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trình bày trong bài tham luận hôm 29-9-2014 tại Đại hội đồng thứ 69 của LHQ đang tiến hành tại New York.

ĐHY nhận xét rằng LHQ cho đến nay có thái độ thụ động trước những hành vi thù nghịch mà dân chúng vô tội phải chịu. Vì thế trong thư đề ngày 9-8 năm nay gửi ông tổng thư ký LHQ, ĐTC Phanxico đã kêu gọi các ”cơ quan thẩm quyền của LHQ, đặc biệt những cơ quan trách nhiệm về an ninh, hòa bình, công pháp nhân đạo và trợ giúp người tị nạn, tiếp tục nỗ lực hoạt động, phù hợp với Lời Tựa và những điều khoản quan trọng trong Hiến chương LHQ.”

ĐHY Parolin gọi tình trạng bi thảm ở miền bắc Irak và một số nơi ở Siria là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ: đó là sự hiện hữu của một tổ chức khủng bố đe dọa mọi quốc gia, thề giải tán các nước và thay thế bằng một chính phủ thế giới ngụy tôn giáo. Như ĐTC đã nói, rất tiếc là ngày nay có những người muốn đạt tới quyền lực bằng cách cưỡng bách lương tâm, tước đoạt sự sống, bách hại và giết người nhân danh Thiên Chúa (Xc Oss.Rom. 3-5-2014).

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhấn mạnh rằng ”hiện tượng mới mẻ trên đây với mọi khía cạnh bi thảm của nó, phải thúc đẩy cộng đồng quốc tế thăng tiến một câu trả lời thống nhất, dựa trên các tiêu chuẩn pháp lý vững chắc và thái độ sẵn sàng cộng tác cho công ích.”

Để đối phó với nạn khủng bố hoàn cầu như thế, Tòa Thánh đặc biệt lưu ý về hai lãnh vực: trước tiên là xử lý nguồn gốc văn hóa và chính trị của những thách đố hiện nay, nhìn nhận nhu cầu phải có những chiến lược mới để giải quyết các vấn đề quốc tế này, trong đó các nhân tố văn hóa giữ một vai trò cơ bản.

Lãnh vực thứ hai là nghiên cứu sâu rộng hơn về hiệu năng của công pháp quốc tế ngày nay, nhất là những cơ cấu mà LHQ sử dụng để phòng ngừa chiến tranh, ngăn chặn những kẻ gây hấn, bảo vệ dân chúng và giúp đỡ các nạn nhân.

ĐHY Parolin khẳng định rằng ”những thách đố do các hình thức khủng bố mới mẻ đề ra không được làm cho chúng ta có những quan điểm thái quá và coi các nền văn hóa đối nghịch nhau. Thái độ thu hẹp trong việc giải thích tình trạng đụng độ khủng bố như thế, coi chúng là ”sự đụng độ giữa các nền văn minh”, là điều lợi dụng sự sợ hãi và những thành kiến hiện có, và chỉ dẫn tới những phản ứng bài người ngoại quốc, rốt cục chỉ ủng cố chính những tâm tình ở nơi trọng tâm chủ nghĩa khủng bố. Những thách đố chúng ta đang đương đầu phải dẫn tới một lời tái kêu gọi đối thoại về tôn giáo và liên văn hóa, thực hiện những phát triển mới trong công pháp quốc tế, thăng tiến những sáng kiến hòa bình công chính và can đảm”. (SD 30-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio