Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật I Mùa Chay: Dựa vào Lời Thiên Chúa

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa nhật I Mùa Chay: Dựa vào Lời Thiên Chúa

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay 05.03.2017 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha quảng diễn về cách thế Chúa Giêsu dựa vào Lời Thiên Chúa để chiến thắng ma quỷ trong ba cơn cám dỗ nơi sa mạc. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy thường xuyên sử dụng Kinh Thánh giống như thường xuyên sử dụng điện thoại di động. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho tuần Linh Thao của Ngài và Giáo triều Roma.

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến!

Trong ngày Chúa nhật đầu tiên của Mùa Chay, bài Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta con đường hướng tới Phục Sinh. Đó là bốn mươi đêm ngày Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Mt 4:1-11). Đó là lúc Chúa Giêsu vừa mới chịu phép rửa tại sông Giođan. Tại sông Giođan, Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người và có tiếng Chúa Cha từ trời công bố: “Này là con Ta yêu dấu” (Mt 3:17). Thế là, Chúa Giêsu đã sẵn sàng bắt đầu thực thi sứ mạng, và cùng lúc ấy Người tuyên chiến với kẻ thù là Satan. Đó là cuộc cận chiến trong sa mạc. Tên cám dỗ lặp đi lặp lại: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…”. Ma quỷ gây nghi hoặc về danh hiệu Con Thiên Chúa với mục đích cản trở ngăn trở Chúa thực thi sứ mạng. Không chỉ làm như thế, mà nó còn đưa ra cụ thể ba cơn cám dỗ. Một là biến hóa đá thành bánh để thỏa mãn cơn đói. Hai là nhảy từ trên nóc Đền Thờ xuống và sẽ được các thiên thần nâng đỡ. Ba là thờ lạy ma quỷ để được cai trị thế giới.

Ba cuộc cám dỗ này có nghĩa là Satan muốn lôi kéo Chúa Giêsu ra khỏi con đường vâng phục và khiêm nhường. Bởi vì nó biết rằng, với con đường vâng phục và khiêm hạ, nó sẽ bị đánh bại. Và vì thế, nó cố tình đưa đẩy vào cái vòng hư ảo của thành công và vinh quang. Nhưng những mũi tên tẩm thuốc độc của ma quỷ đều được Chúa Giêsu ngăn chặn bởi chiếc khiên che là Lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa chính là ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu không tự mình nói điều gì, nhưng luôn luôn vâng theo Lời Thiên Chúa. Thế nên, Người chính là Con Thiên Chúa với đầy tràn Thánh Thần, và Người đã chiến thắng trong sa mạc.

Trong suốt bốn mươi ngày Mùa Chay, các Kitô hữu chúng ta được mời gọi bước theo những dấu chân của Chúa Giêsu và vững mạnh trong cuộc chiến đấu thiêng liêng, để với sức mạnh của Lời Chúa mà chống lại thần dữ. Không phải với những lời của chính chúng ta, nhưng là với Lời Thiên Chúa, vì Lời ấy có sức đánh bại Satan. Để làm được điều đó, chúng ta cần thường xuyên đọc Kinh Thánh, suy niệm Lời Chúa và sống Lời Chúa. Kinh Thánh chứa đựng Lời Thiên Chúa, do đó những Lời ấy luôn sống động và hữu hiệu.

Có người nói: Điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta sử dụng Kinh Thánh giống như chúng ta sử dụng điện thoại di động? Nếu chúng ta thường xuyên mang theo một cuốn Kinh Thánh nhỏ bỏ túi, điều gì sẽ xảy ra? Nếu có lỡ quên, chúng ta quay lại để lấy, giống như chúng ta làm với chiếc điện thoại vậy? Giống như khi quên chiếc điện thoại, chúng ta nói: Ồ, quên mất, tôi không mang theo, đợi chút, tôi quay lại lấy. Nếu chúng ta mở Kinh Thánh để đọc nhiều lần trong ngày, giống như nhiều lần trong ngày chúng ta đọc tin nhắn trên điện thoại, điều gì sẽ xảy ra? Rõ ràng việc so sánh này có vẻ nghịch lý, có vẻ khập khiễng, nhưng là rất nghiêm túc.

Thực tế, nếu Lời Thiên Chúa luôn ở trong tâm hồn chúng ta, thì không có cám dỗ nào và không trở ngại nào có thể làm chúng ta lệch hướng khỏi con đường lành, và khi ấy chúng ta sẽ đánh bại những lời mời mọc của cái ác hàng ngày bủa vây chúng ta, chúng ta sẽ sống cuộc phục sinh trong Chúa, chúng ta sẽ biết đón nhận và yêu thương anh chị em của mình hơn, nhất là những người dễ bị tổn thương và những ai thiếu thốn, ngay cả chúng ta có thể yêu thương kẻ thù của mình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương hoàn hảo trong việc vâng phục Thiên Chúa và tin tưởng hoàn toàn vào ý Thiên Chúa muốn, xin Mẹ giúp chúng con kiên trì trên hành trình Mùa Chay, để chúng con biết ngoan ngoãn lắng nghe Lời Thiên Chúa để chúng con thực sự được biến đổi tận căn.

Tiếp đến, Đức Thánh Cha đọc kinh Truyền Tin và ban Phép Lành Toà Thánh cho mọi người.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha chào thăm mọi người:

Anh chị em thân mến,

Cha gửi lời chào thân ái đến các gia đình, các nhóm từ các giáo xứ, các hiệp hội và tất cả những người hành hương đến từ Ý và từ các quốc gia khác.

Vài ngày trước, chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay, đó là con đường dẫn chúng ta tới Phục Sinh, đó là con đường của sám hối của hoán cải, trong cuộc đấu tranh chống lại cái ác, với vũ khí của lời cầu nguyện, của việc ăn chay, của việc bác ái. Cha hy vọng tất cả chúng ta đều có một Mùa Chay mang nhiều ơn ích. Xin anh chị em cầu nguyện cho Cha và cho các thành viên của Giáo triều Roma, vì tối nay chúng tôi sẽ bắt đầu tuần Linh Thao. Chân thành cám ơn vì anh chị em sẽ cầu nguyện cho chúng tôi.

Xin vui lòng đừng quên, đừng quên sử dụng Kinh Thánh thường xuyên giống như chúng ta sử dụng điện thoại! Anh chị em hãy nghĩ về điều ấy. Để Kinh Thánh luôn đồng hành cùng chúng và gần gũi với chúng ta.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha kêu gọi bảo vệ phẩm giá con người

Đức Thánh Cha kêu gọi bảo vệ phẩm giá con người

Đức Thánh Cha kêu gọi bảo vệ phẩm giá con người

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 15-9-2016, dành cho 150 thành viên Hiệp Hội Kinh Thánh Italia, ĐTC kêu gọi bảo vệ phẩm giá con người chống lại nhiều thứ đe dọa.

Hiệp hội nhóm họp nhân dịp Tuần lễ toàn quốc Italia về Kinh Thánh, với chủ đề: ”Chúng ta hãy tạo dựng con người .. nam và nữ: những đặc tính của nam – nữ trong Kinh Thánh”.

ĐTC nhận xét rằng ”phẩm giá Thiên Chúa ban cho con người chúng ta có thể bị suy thoái, con người có thể tự làm băng hoại nhân phẩm của mình. Điều này xảy ra khi chúng ta thương lượng về phẩm giá, khi chúng ta thờ thần tượng, khi chúng ta dành chỗ cho kinh nghiệm về thần tượng trong con tim chúng ta. Trong cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai Cập, khi dân mệt mọi vì Ông Môisê chậm xuống khỏi núi, họ bị ma quỉ cám dỗ và đã kiến tạo một thần tượng (Xc Xh 32). Thần tượng đó bằng vàng: điều này làm ta nghĩ đến sức thu hút của giàu sang, nghĩ đến sự kiện con người đánh mất phẩm giá của mình khi trong tâm hồn họ, của cải giàu sang chiếm chỗ của Thiên Chúa”. (SD 15-9-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem từ chức

Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem từ chức

Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem từ chức

VATICAN. ĐTC đã nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của Đức Thượng Phụ Công Giáo la tinh Jerusalem, Fouad Twal.

ĐTC bổ nhiệm Cha Pierbattista Pizzaballa dòng Phanxicô làm Giám quản Tông Tòa tòa trống (sede vacante) đồng thời nâng cha lên hàng TGM hiệu tòa Verbe.

Cha Pizzaballa người Italia, năm nay 51 tuổi (1965). Sau khi thụ phong LM năm 1990, cha theo học tại Học Viện Kinh Thánh của dòng Phanxicô ở Jerusalem từ năm 1993. Sau đó cha làm giáo sư dạy tiếng Do thái Kinh Thánh tại Phân khoa Kinh Thánh và Khảo cổ của dòng Jerusalem.

Từ năm 2004 đến 2016, cha làm Bề Trên Dòng Phanxicô tại Thánh Địa 3 nhiệm kỳ, cho đến tháng 4 năm nay, 2016.

Đức nguyên Thượng Phụ Fouad Twal người Giordani năm nay 76 tuổi (1940), nguyên là một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, cho đến khi được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Tunis thủ đô Tunisie năm 1994. Tháng 9 năm 2005, ngài được bổ làm TGM Phó của Đức Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, và 3 năm sau ngài kế vị Đức Thượng Phụ Michel Sabbah.

 Đức Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem cai quản các cộng đoàn Công Giáo la tinh ở Thánh Địa (Palestine, Israel, đảo Cypro, Giordanie) với 293 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 66 giáo xứ, 81 LM giáo phận và 383 linh mục dòng, 1,650 tu sĩ nam nữ, theo niên giám 2016 của Tòa Thánh.

G. Trần Đức Anh OP

Người Công giáo quan tâm hơn đến việc đọc Kinh Thánh

Người Công giáo quan tâm hơn đến việc đọc Kinh Thánh

faith-bible

Vào cuối những năm 1950, khi phó tế Joseph Jensen, hiện là giảng viên Kinh thánh tại đại học Georgetown ở Washington, gia nhập chủng viện Đức Bà ở Warrenton, Misouri, ông nhận thấy mình là sinh viên duy nhất đã đọc Kinh Thánh. Điều đó cũng nhờ cha ông, một thành viên của Giáo Hội ngày thứ 7, đã cho ông tiếp cận với Kinh Thánh. Ông Jensen cho biết ông đã lớn lên với suy nghĩ là người Công giáo không đọc Kinh Thánh. Nhưng mà ý nghĩ sai lầm này có thể đang thay đổi.

Một cuộc thăm dò mới do Hiệp Hội Kinh Thánh Hoa kỳ thực hiện cho thấy là 77% người Công giáo muốn đọc Kinh Thánh thường xuyên hơn; con số này tăng 8% so với tháng 1 năm 2013, ngay trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo hoàng. Jason Malec, giám đốc truyền giáo của Hội cho là những tín hiệu tích cực nơi các người Công giáo là nhờ “hiệu ứng Phanxicô”.

Đáp ứng lại việc các tín hữu Công giáo quan tâm hơn đến Kinh Thánh, Hiệp Hội Kinh Thánh Hoa kỳ đã có những nguồn mới như “lectio divina” trên các phương tiện kỹ thuật số – một phiên bản online của phương pháp cầu nguyện truyền thống bằng Kinh Thánh của Công giáo. Hiệp hội dùng các cuộc thăm dò để phát triển kỹ thuật nhắm tăng sự tương tác với Kinh Thánh của tín hữu. Các thành viên của Hiệp hội còn phát triển ứng dụng Build Your Bible và một ứng dụng khác để các tín hữu Công giáo có thể theo dõi ngày Quốc tế giới trẻ từ 26-31/7 tại Cracovia, Balan. Các ứng dụng này vừa nhằm đến tương lai vừa nhìn lại quá khứ để tìm cách thế mới cũng như khám phá lại các phương thế tiếp cận Kinh Thánh cũ cho một thế hệ đang lớn lên. Các phương tiện cho phép các tín hữu đến với Kinh Thánh; ngay cả khi họ không tham gia các nhóm học Kinh Thánh thì họ cũng có thể tìm được các bài đọc Thánh lễ hàng ngày trên trang mạng của Hội đồng Giám muc, các bài suy niệm trên trang của đại học Creighton, vv.

Có nhiều chọn lựa cho việc học hỏi Kinh Thánh Công giáo như chương trình ở các trường, chương trình vừa nghiên cứu vừa cầu nguyện, hay lectio divina (cầu nguyện bằng Kinh Thánh). Các tín hữu đừng ngại tham gia các nhóm nghiên cứu Kinh Thánh vì nghĩ mình biết rất it về Kinh Thánh, vì nghiên cứu Kinh Thánh là để học hỏi Kinh Thánh.

Phó tế Jensen thấy việc hướng dẫn đọc Kinh Thánh là cần thiết, vì Kinh Thánh là thể loại văn chương của những người thời xưa, phản ánh đức tin, thời gian, văn hóa và môi trường của họ. Do đó cố gắng đọc nó mà không hiểu về bối cảnh lịch sử và văn hóa thì dễ bị hiếu sai và lẫn lộn. Ông cũng cảm thấy phấn khởi về sự gia tăng của việc yêu mến Kinh Thánh, đặc biệt là trong các nhóm học Kinh Thánh. Ông cho biết, các sinh viên ban đầu chỉ lấy lớp Kinh Thánh của ông cho đủ tín chỉ yêu cầu, nhưng rồi cuối cùng họ cảm thấy việc học Kinh Thánh thì hứng thú. Ông nói với hãng tin Công giáo Hoa kỳ là có một sự khao khát thực sự đối với lời Chúa mà ông đang thực sự cảm thấy và nếm hưởng.

Hiệp hội Kinh Thánh Hoa kỳ đã hoạt động trong suốt hơn 200 năm để đưa người ta đến với Kinh thánh – cuốn sách bán chạy nhất của mọi thời đại. (CNS 8/6/2016)

Hồng Thủy OP

Nhóm phiên dịch Kinh Thánh Việt Nam kỷ niệm 45 năm thành lập

Nhóm phiên dịch Kinh Thánh Việt Nam kỷ niệm 45 năm thành lập

Các linh mục và nữ tu cùng nhau dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt

Sau khi Công đồng Vatican II cho phép các Giáo hội địa phương cử hành các giờ phụng vụ bằng tiếng địa phương, một số linh mục và tu sĩ Việt Nam háo hức dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt cho hợp với văn hóa truyền thống, tờ National Catholic Reporter đưa tin.

Sáu linh mục bắt đầu tình nguyện dịch bộ Các Giờ Kinh Phụng vụ sang tiếng Việt vào cuối năm 1971. Sau đó họ thành lập Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ và thu hút thêm nhiều linh mục và nữ tu chuyên về Kinh Thánh, thần học, phụng vụ, mục vụ, thánh nhạc, và văn chương.

Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh thuộc dòng Phanxicô, người điều hành nhóm phiên dịch, cho biết ban đầu các thành viên trong nhóm chỉ dành các ngày lễ Giáng sinh, Phục sinh và Tết làm việc lặng lẽ trong các đan viện và tu viện. Họ đã trải qua nhiều thập niên khó khăn và trở ngại từ phía chính quyền cộng sản và ngay cả từ các chức sắc Giáo hội khi theo đuổi sứ mệnh của mình.

Năm nay là năm kỷ niệm 45 năm thành lập nhóm.

“Chúng tôi đã hoàn thành các bản dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ, Sách Lễ Rôma, các bài đọc trong Thánh lễ, các nghi thức và đặc biệt là bộ Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái cổ, Aramaic và Hy Lạp”, ngài nói.

Nhóm đã xuất bản được 370,000 bản tiếng Việt Các Giờ Kinh Phụng vụ, 66,000 bản các bài đọc trong Thánh lễ và các nghi thức, và 3 triệu bản Kinh Thánh.

UCANEWS-VN

Đức Thánh Cha cổ võ sống và rao giảng Lời Chúa

Đức Thánh Cha cổ võ sống và rao giảng Lời Chúa

ĐTC gặp gở ĐHY Luis Antonio Tagle TGM giáo phận Manila

VATICAN. ĐTC cổ vỗ các tín hữu cảm nghiệm và sống Lời Chúa để có thể loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa.

Trên đây là nội dung bài huấn dụ của ngài trong buổi tiếp kiến sáng 19-06-2015, dành cho 140 đại biểu tham dự Đại hội thứ 10 của Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo, tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY tân chủ tịch Luis Antonio Tagle, TGM giáo phận Manila.

ĐTC khẳng định rằng: ”Để có thể loan báo Lời chân lý, chính chúng ta phải cảm nghiệm Lời Chúa: lắng nghe, chiêm niệm, và hầu như động chạm đến Lời Chúa bằng tay chúng ta .. (Xc 1 Ga 1,1). Như Hiến chế ”Lời Chúa” (Dei Verbum) của Công đồng chung Vatican 2 gợi ý, các tín hữu Kitô phải tôn kính, đọc, lắng nghe, loan báo, rao giảng, học Ohọc và phổ biến Lời Chúa” (n.25)… Giáo Hội sẽ không loan báo Tin Mừng nếu trước tiên Giáo Hội không để cho mình liên tục được 'Phúc âm hóa'. Một điều tối quan trọng là Lời Chúa ngày càng phải trợ thành con tim mọi hoạt động của Giáo Hội” (Ev. gaudium, 174).

ĐTC nhắc đến tình trạng có nhiều nơi Lời Chúa chưa hề được công bố, được lắng nghe, và cũng có những nơi Lời Chúa bị làm cho mất mọi uy tín. Sự thiếu nâng đỡ và thiếu sức mạnh của Lời Chúa làm cho các cộng đồng Kitô kỳ cựu bị suy yếu và ngăn cản sự tăng trưởng tinh thần, cũng như lòng nhiệt thành truyền giáo của các Giáo Hội trẻ. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm nếu ”sứ điệp Tin Mừng bị nguy cơ mất sự tươi mát và không còn hương thơm của Phúc Âm nữa” (Ib. 39).

Vì thế ĐTC mời gọi các tín hữu mạnh mẽ dấn thân mục vụ để làm nội bật vị thế trung tâm của Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội, làm cho toàn thể việc mục vụ được Kinh Thánh linh hoạt. (SD 19-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

Kính thưa quí vị thính giả,

Đúng 11 tháng sau khi tài liệu chuẩn bị được công bố, lúc 10 giờ sáng chúa nhật hôm qua, 5-10, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể để khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có 230 vị, gồm 191 nghị phụ gồm trong đó có 61 Hồng Y, 7 Thượng Phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản, trong đó có 2 vị TGM Trưởng, 115 TGM và GM, phần còn lại là 7 LM nghị phụ, ngoài ra có gần 38 LM chuyên gia và cộng tác viên.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM gồm vị Tổng tường trình viên là ĐHY Peter Erdoe, TGM Ezstergom Budapest, Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu; tiếp đến là 3 vị Chủ Tịch thừa ủy gồm ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil, và ĐHY Luis Antonio Tagle, TGM Manila. Sau cùng là ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám mục này.

Cách đây 2 năm, ngày 7-10 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ khai mạc Thượng HĐGM thế giới, khóa thường lệ thứ 13 về việc tái truyền giảng Tin Mừng, có 408 vị đồng tế với ngài, trong đó có 250 nghị phụ, dự thính viên và chuyên viên cũng như các cộng tác viên của Thượng HĐGM, thêm vào đó có 75 GM thuộc HĐGM Tây Ban Nha và Đức vì hôm đó cũng là lễ tôn phong thánh Gioan Avila người Tây Ban Nha và thánh nữ Hildegard von Bingen người Đức là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có Ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên, đảm trách.

Sau đây là bài giảng trong thánh lễ của Đức Thánh Cha:

Hôm nay, ngôn sứ I-sa-i-a và bài Tin Mừng đã vận dụng hình ảnh vườn nho của Thiên CHúa. Vườn nho của Thiên Chúa là “giấc mơ” của Ngài, là dự phóng mà Ngài ấp ủ với tất cả tình yêu của mình, hệt như một người tá điền quan tâm đến vườn nho của mình. Nho là một loài cây vốn đòi hỏi nhiều sự chăm sóc.
Giấc mơ của Thiên Chúa là dân của Người: Người đã gieo trồng và nuôi dưỡng họ với một tình yêu tín trung và kiên nhẫn, để họ có thể trở thành một dân thánh, một dân sản sinh nhiều hoa trái thơm ngọt của sự công chính.

Nhưng trong thời các ngôn sứ ngày xưa cũng như trong dụ ngôn của Đức Giêsu, giấc mơ của Thiên Chúa đã bị hủy hoại. I-sa-i-a nói rằng vườn nho mà ông đã hết mực yêu mến và chăm sóc “lại sản sinh toàn nho dại”; còn Thiên Chúa thì những mong họ “sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (c.7), Trong bài Tin Mừng, trái lại, chính các tá điền đã phá hủy dự phóng của Thiên Chúa: họ không thực thi bổn phận của họ, nhưng chỉ suy nghĩ đến lợi ích của chính mình.

Đức Giêsu trong dụ ngôn của mình, đã nhắm đến các thượng tế và bậc lão thành ở trong dân, đó là những người tự cho mình là “thông thái”, là tầng lớp lãnh đạo dân. Họ là những người được Thiên Chúa, gửi gắm cho “giấc mơ của Người” một cách cụ thể, đó là dân của Người, để họ nuôi dưỡng, chăm sóc, gìn giữ dân khỏi những thú dữ. Đây là nghĩa vụ của những thủ lãnh của dân: chăm sóc vườn nho với sự tự do, sáng tạo và cần mẫn.

Nhưng Đức Giêsu nói rằng những tá điền đã chiếm đoạt vườn nho; bởi tính tham lam và sự ngạo mạn, họ đã muốn làm với vườn nho điều họ muốn, và như thế họ đã không cho Thiên Chúa khả năng hiện thực hóa giấc mơ của Ngài trên dân mà Ngài chọn.

Cám dỗ của tính tham lam luôn luôn có đó. Chúng ta có thể nhận ra nó ngay cả trong lời tiên báo của Ê-dê-ki-en dành cho các mục tử, mà thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích trong một bài giảng trứ danh của mình mà chúng ta vẫn hay đọc trong Các giờ kinh Phụng vụ. Tính tham lam tiền bạc và quyền lực. Và để thỏa mãn sự tham lam này những mục tử xấu xa bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn họ chẳng buồn động ngón tay vào. (x.Mt 23,4)

Chúng ta cũng vậy, trong khóa họp này, chúng ta được kêu gọi để lao tác cho vườn nho của Thiên chúa. Thượng HĐGM thế giới không phải để thảo luận những ý tưởng hay ho và cấp tiến, hay để xem ai là người thông minh hơn… nhưng để nuôi dưỡng và chăm nom vườn nho của Thiên Chúa được tốt hơn, để cộng tác với giấc mơ của Người, nhắm đến dự phóng tình yêu trên dân của Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến gia đình, vốn ngay từ khởi đầu đã là một phần thiết yếu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân và chúng ta có thể rơi vào cám dỗ “tự chiếm đoạt” vườn nho, bởi lòng tham luôn ngự trị nơi những con người như chúng ta. Giấc mơ của Thiên Chúa thường xung đột với thói đạo đức giả của một vài tôi tớ của Người. Chúng ta có thể “phá tan” giấc mơ của Thiên Chúa nếu chúng ta không để Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan vượt quá sự hiểu biết, để lao tác một cách quảng đại cùng với sự tự do đích thực và sự sáng tạo khiêm nhường.

Anh em nghị phụ thân mến, để nuôi dưỡng và chăm sóc vườn nho một cách tốt đẹp, con tim và tâm trí của chúng ta cần phải được gìn giữ ở trong Đức Giêsu Kitô bởi sự “bình an của Thiên Chúa vốn vượt lên trên mọi hiểu biết của con người", như thánh Phaolô đã nói (Phil 4,7). Như thế những suy tư và dự phóng của chúng ta có thể thích ứng với giấc mơ của Thiên Chúa: kiến tạo một dân thánh thuộc riêng về Người và sản sinh những hoa trái của Nước Trời (Mt 21,43).

Cũng trong ngày Chúa Nhật hôm nay, vào lúc 12h, các tín hữu hành hương lại tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô để nghe huấn từ của Đức Thánh Cha và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha lại tiếp tục khai thác về chủ đề “Vườn nho của Thiên Chúa” và xin mọi người cầu nguyện cho cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra trong những ngày tới đây, bàn về vấn đề mục vụ cho các gia đình.

Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của ngài:

“Anh chị em thân mến!

Sáng hôm nay, cùng với Thánh lễ đồng tế trong Đền thờ Thánh Phêrô, chúng ta đã khai mạc Đại hội ngoại thường của Thượng HĐGM thế giới. Các nghị phụ của Thượng HĐGM, đến từ nhiều vùng trên thế giới, sẽ sống cùng tôi và cùng với nhau trong hai tuần nghiêm túc, được bồi bổ từ cầu nguyện, để lắng nghe và đối thoại về đề tài “Những thách đố của việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”

Lời Chúa hôm nay giới thiệu hình ảnh của vườn nho hệt như biểu tượng của dân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Như một vườn nho, dân riêng đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm, đòi hỏi một tình yêu tín trung và kiên nhẫn. Như thế, điều Thiên Chúa làm với chúng ta thì chúng ta cũng được kêu gọi để làm những mục tử. Thậm chí người ta phải quan tâm đến gia đình như thể một cách thức lao tác cho vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì người ta phải sản sinh hoa trái của Vương quốc Thiên Chúa. (Mt 21, 33-43)

Nhưng để gia đình có thể tự mình bước đi tốt đẹp, cùng với niềm tin và sự hy vọng, cần được bổ dưỡng bởi Lời Chúa. Chính vì điều này thật là một sự trùng hợp hạnh phúc trong ngày hôm nay, khi những anh em Dòng thánh Phaolô đã muốn thực hiện việc phân phát sách Kinh Thánh cách rộng rãi, nơi Quảng trường này và tại nhiều nơi khác. Chúng ta cám ơn những anh em Dòng thánh Phaolo của chúng ta. Anh em đã thực thi việc này nhân dịp 100 năm thành lập Dòng, bởi chân phước Giacomo Alberione, một tông đồ vĩ đại về truyền thông. Vì thế, hôm nay, vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng GM về gia đình, cùng với sự trợ giúp của anh em dòng Thánh Phao-lô, chúng ta có thể nói rằng: một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! Một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! “Nhưng thưa cha, chúng con có tới hai, tới ba cuốn!” “Nhưng người ta giấu chúng đi đâu rồi?” Ôi, không phải bởi vì…cuốn Kinh Thánh, cũng chẳng phải để đặt nó nơi giá sách, nhưng phải giữ và mang chúng nơi đôi tay, để đọc nó thường xuyên, để hiện diện cùng với nó một cách cá vị, vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đều đặn mỗi tối, đặc biệt là ngày Chúa nhật. Như thế thì gia đình mới tăng trưởng, và vững bước cùng với ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa! Đây là cuốn Kinh Thánh mà anh em dòng Thánh Phao lô trao cho các bạn , mỗi gia đình một cuốn. Nhưng các bạn phải chú ý! Đừng láu cá để tay này lấy rồi, tay kia lại còn lấy nữa? Với một tay thôi để mang sách Kinh Thánh về nhà.

Cha mời gọi tất cả mọi người hãy trợ giúp những công việc của Thượng HĐGM cùng với lời cầu nguyện, khẩn khoản nài xin Đức Mẹ, sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Nữ Trinh Maria. Giờ phút này, chúng ta hiệp thông cách thiêng liêng cùng với nhiều người, đang ở Thánh địa Pompei, dâng lên Đức Mẹ Mân Côi lời kinh “Supplica” truyền thống. Lời kinh ban bình an cho tất cả gia đình và toàn thể thế giới.

Jos. Trần Đức Anh, OP
Jos. Nguyễn Huy Mai

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của khoa chú giải Kinh Thánh

VATICAN. ĐTC đề cao khoa chú giải Kinh Thánh và kêu gọi các nhà chú giải làm tất cả những gì có thể để lãnh hội rõ ràng ý nghĩa của Sách Thánh.

Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 12-9-2014 dành cho các tham dự viên Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia lần thứ 43 tại Roma, ĐTC nói: ”Khoa chú giải Kinh Thánh, trong Giáo Hội và trên thế giới, chu toàn một công tác không thể thiếu được. Thật là một ảo tưởng và tỏ ra thiếu tôn trọng đối với Kinh Thánh được linh hứng khi bỏ qua khoa chú giải… Sự tôn trọng đích thực đối với Kinh Thánh đòi phải thực hiện tất cả những cố gắng cần thiết để có thể nắm bắt rõ ràng ý nghĩa của Kinh Thánh. Dĩ nhiên không phải mọi Kitô hữu đều có thể đích thân nghiên cứu các văn bản Kinh Thánh. Nghĩa vụ này được ủy thác cho các nhà chú giải, các vị hữu trách trong lãnh vực này để mưu ích cho tất cả mọi người” (Giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, 15-4-1993, Kết luận).

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Khoa chú giải Kinh Thánh Công Giáo không phải chỉ để ý đến các khía cạnh phàm nhân của các văn bản Kinh Thánh mà thôi. Khoa này cần giúp dân Kitô giáo nhận thức một cách rõ ràng hơn Lời Chúa trong các bản văn ấy, để hiểu rõ hơn, hầu sống trọn vẹn trong tình hiệp thông với Thiên Chúa. Để được như vậy, nhà chú giải cần biết nhận thức Lời Chúa trong các bản văn, và điều này chỉ có thể nếu nhà chú giải có đời sống thiêng liêng nhiệt thành, năng đối thoại với Chúa; chẳng vậy việc nghiên cứu chú giải Kinh Thánh sẽ không đầy đủ, và đánh mất mục tiêu chủ yếu của mình”.
Tuần lễ Kinh Thánh toàn quốc Italia năm nay đã tiến hành từ ngày 8 đến 12-9-2014 với chủ đề ”Ai có thể kể lại những công trình quyền năng của Chúa?” (Tv 106,2) (SD 12-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Chúa Giêsu hiện ra

Chúa Giêsu hiện ra

Ngài giải thích Kinh Thánh cho họ, và qua Kinh Thánh, Ngài giải thích ý nghĩa của đau khổ như điều Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ. “Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các tiên tri đã nói! Thế thì Đức Kitô không phải chịu khổ nạn như thế đã, rồi mới vào vinh quang của Ngài sao?” Cuộc khổ nạn và thập giá của Đấng Thiên Chúa Xức Dầu đáp lại kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Và suốt cả Kinh Thánh đều tỏ rõ kế hoạch ấy. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh”. Chắc chắn rằng, lối chú giải đích thực phải nhắm đến Đức Kitô. Ngài nhấn mạnh rõ rằng chính Môsê cũng như mọi tiên tri và ‘toàn bộ Kinh Thánh’ đều nói về Đấng Thiên Sai. Ai giải thích Cựu Ước theo nhãn quan lấy Đức Kitô làm trung tâm ắt không phải là gò áp bản văn, trái lại giải thích bản văn theo cách thức của nhà chú giải đích thực. Lối giải thích dựa trên Đức Kitô, lối chú giải Cựu Ước lấy Ngài làm trung tâm bắt nguồn từ chính Đức Kitô, và chính Ngài đã biện minh cho lối chú giải ấy. Chỉ dưới cái nhìn ấy mới hiểu được ý nghĩa đích xác của Kinh Thánh, bất cứ lối giải thích nào chỉ căn cứ vào nghĩa chữ bề ngoài, thì không hiểu được sâu xa mầu nhiệm và tinh thần sâu đậm nhất của Kinh Thánh.

Hơn nữa, Đức Giêsu mặc khải chính mình qua việc bẻ bánh “Khi ấy mắt họ mở ra và nhận biết Ngài” thêm vào những lời giải thích Kinh Thánh là mầu nhiệm bẻ bánh, cả hai sự việc ấy đều là một sự hy sinh mà nhờ đó Chúa tỏ mình ra. Con người có thể tìm hiểu, suy nghĩ, kiếm tìm và cầu nguyện để nhận ra Chúa. Nhưng dù sao, con người cũng cần được Chúa ban ơn cách riêng mới nhận ra Chúa Kitô. Nếu Chúa chẳng ban cho đặc ân ấy, con mắt ta vẫn khép kín. Và chỉ khi nào Chúa tỏ mình ra cho biết thì mới được, cũng như đã xảy ra cho các môn đệ trên đường Emmau: “mắt họ mở ra và nhận biết Ngài”. Bẻ bánh chính là dự phần vào bàn tiệc của Chúa. Chỉ ai được Chúa mời tham dự yến tiệc mới nhận ra Ngài cách đích thực.

3) Với Chúa Giêsu.

Trước khi các môn đệ thành Emmau nhận ra Ngài, thì Ngài đã ở giữa họ và đã có ảnh hưởng nơi họ rồi: “Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với ta, và giải nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” Tâm hồn họ ngầm cháy. Theo nguỵ thư ghi lại: “Ta là lửa cháy, Ngài nói, ai gần Ta là gần lửa cháy”. Sự kết hợp với Chúa Kitô nung nấu các linh hồn mà nếu không có Ngài, các tâm hồn đó sẽ lạnh ngắt và chết mất.

Khi nhận ra Chúa Giêsu họ liền “chỗi dậy trở về Giêrusalem”. Đó là một kết quả trước mắt, một biến đổi tận gốc rễ đã xảy ra: họ đổi buồn thành vui, sầu tan vui đến, tuyệt vọng biến thành hy vọng, tản lạc quy tụ về, nhát sợ kinh hoàng thành tin tưởng sướng vui. Khi họ gặp được nhóm Mười Một trong phòng hội, họ hiểu rằng Chúa đã hiện ra với ông Simon. Các trình thuật khác nhau đều quả quyết sự kiện không thể chối cãi được: Chúa đã sống lại thật. Trình thuật về các môn đệ đi làng Emmau cho thấy cuộc sống khi không có Chúa, sự can thiệp của Ngài, và sức biến đổi trọn vẹn cuộc đời. Sau kinh ngạc trước ngôi mộ trống, sau sững sờ trước sứ điệp các thiên thần, giờ đây thực sự đã hoàn tất: Chúa đã sống lại thật và còn hiện ra cho những kẻ thân cận: trước nhất và đặc biệt nhất là hiện ra với ông Simon rồi với hai môn đệ thành Emmau và sau với toàn thể các môn đệ đang hội họp.

Sưu tầm

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần

Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.

Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?

Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).

Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).

Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến

Chị ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.

Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.

Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu

Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.

Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước

Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bấtthường này?

Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.

Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.

Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.

Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).

Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.

Ông đã thấy và đã tin.

Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.

Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.

Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.

Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.

Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết

Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".

Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).

Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.

Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.

Noel Quesson

Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014

ROMA. Giống như năm ngoái và theo vết các vị tiền nhiệm, lúc quá 9 giờ tối thứ sáu Tuần Thánh 18-4-2014, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại Hý trường Colosseo ở Roma, nơi đã có nhiều tín hữu Kitô chịu khổ hình vì đức tin.

Tham dự buổi Buổi đi đàng thánh giá này sẽ có hàng chục ngàn tín hữu hiện diện không kể hàng trăm triệu khán thính giả trên thế giới tham dự qua truyền hình.

Bài suy niệm cho buổi đi đàng thánh giá năm nay do Đức Cha Giancarlo Bregantini, TGM giáo phận Campobasso ở miền nam Italia biên soạn. Năm nay ngài 66 tuổi (1948), thuộc dòng các dấu thánh Chúa Giêsu (CSS) và nổi tiếng về lập trường quyết liệt chống các tổ chức bất lương mafia. Qua 14 chặng đàng thánh giá, Đức TGM Brigantini đề nghị một suy tư về những đề tài khác nhau liên quan đến thực tại ngày nay, đặc biệt là ở miền nam Italia, với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo theo những hậu quả trầm trọng về mặt xã hội, như nạn thất nghiệp, cho vay ăn lời ”cắt cổ”. Đức TGM cũng nhắc đến thảm trạng những người tị nạn, ma túy, rượu chè, và bao nhiêu người bị ung thư bì các chất độc phế thải chôn trong lòng đất; tình trạng các nhà tù đông nghẹt, nạn bàn giấy và nền tư pháp chậm như rùa, nạn tra tấn ở nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo hành chống phụ nữ.Sau đây là bản dịch bài suy niệm của Đức TGM Brigantin do Đức Anh OP (1-6), Mai Anh (7-10) và Hoàng Nam SJ (11-14)

Chặng thứ I: Chỉ tay lên kết án

”Philatô lại nói với họ, vì ông muốn tha Chúa Giêsu. Nhưng họ lại gào to lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!”. Và lần thứ ba ông nói với họ: ”Nhưng người này có làm gì gian ác đâu? Tôi không thấy nơi ông ta có điều gì làm cho ông đáng chết. Vậy tôi sẽ trừng phạt rồi tha cho ông ta”. Nhưng đám ông lại gào lớn tiếng hơn, đòi đóng đanh Chúa; và tiếng gào của họ ngày càng mạnh. Bấy giờ Philatô quyết định làm theo lời họ yêu cầu. Ông tha cho người đã bị tống ngục vì nổi loạn và giết người, như dân chúng đòi hỏi, và ông giao nộp Chúa Giêsu theo ý muốn của họ” (Lc 23,20-25)

Một quan Philato sợ hãi không tìm kiếm sự thật, chỉ tay lên án và tiếng kêu gào ngày càng lớn của đám đông dữ tợn, đó là những bước đầu tiên trong cái chết của Chúa Giêsu. Ngài vô tội như con chiên, máu Ngài cứu chuộc dân. Đức Giêsu ấy đã đi qua giữa chúng ta, chữa lành và chúc phúc, giờ đây Ngài bị kết án tử hình. Chẳng có lời biết ơn nào từ phía đám đông, trái lại họ chọn Baraba. Đối với quan Philatô, sự kiện này làm ông lúng túng. Ông đổ lỗi cho đám đông và rửa tay, nhưng đồng thời ông tiếp tục bám chặt vào quyền hành. Ông giao nạp Chúa Giêsu để họ đóng đanh Ngài! Ông không muốn biết gì về Ngài. Đối với ông, vụ này như vậy là xong rồi!

Sự vội vã kết án Chúa Giêsu như thế dựa trên những lời cáo buộc dễ dàng, những phán đoán hời hợt nơi dân chúng, những điều ám chỉ và những thành kiến khép kín con tim và trở thành một thứ văn hóa kỳ thị chủng tộc, loại trừ và ”gạt bỏ”, với những lá thư nặc danh và những lời vu khống kinh khủng. Những người vừa bị tố cáo, thì tức khắc bị đăng trên những trang nhất; nhưng khi họ được trả tự do, thì tin đó đăng ở phần cuối cùng!

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết đạt tới một lương tâm ngay thẳng và trách nhiệm, trong sáng, không bao giờ quay lưng lại với với người vô tội, nhưng can đảm liên kết để bênh vực người yếu thế, chống lại bất công và bảo vệ ở mọi người sự thật bị chà đạp hay không?

Chặng thứ II: Thập giá nặng nề của cuộc khủng hoảng

”Chúa Giêsu đã mang tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài, trên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính; chúng ta được chữa lành nhờ những vết thương của Ngài. Trước kia anh em lang thang như những chiên lạc, nhưng nay anh em được quay trở về với vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn anh em” (1 Pr 2,24-25).

Cây thập giá ấy đè nặng, vì trên đó Chúa Giêsu vác cả tội lỗi của tất cả chúng ta, Ngài lảo đảo bước đi dưới gánh nặng ấy, gánh nặng quá lớn đối với một người đơn độc (Ga 19,17). Đó cũng là gánh nặng của tất cả những bất công tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế, với những hậu quả nặng nề về mặt xã hội: công ăn việc làm bấp bênh, thất nghiệp, sa thải, tiền bạc cai trị thay vì phục vụ, nạn đầu cơ tài chánh, những vụ tự tử của các chủ xí nghiệp, nạn tham nhũng và cho vay ăn lãi cao, nhiều xí nghiệp di chuyển sang nước khác.

Đó là thập giá nặng nề của giới lao động, bất công đè trên vai công nhân. Chúa Giêsu vác lấy thánh giá trên vai và dạy chúng ta đừng sống trong bất công nữa, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có khả năng kiến tạo những nhịp cầu liên đới và hy vọng, để không là những con chiên lang thang hay lưu lạc trong cuộc khủng hoảng này.
Vì thế, chúng ta hãy trở về cùng Chúa Kitô, vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta. Chúng ta cùng nhau tranh đấu cho công ăn việc làm của nhau, chiến thắng sợ hãi và lẻ loi, phục hồi sự tín nhiệm đối với chính trị và cùng nhau tìm cách khắc phục các vấn đề.

Như thế thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn, nếu ta cùng vác với Chúa Giêsu và tất cả cùng nâng thập giá lên, vì từ những vết thương của Chúa – chúng ta được chữa lành (Xc 1 Pr 2,24)

Chặng thứ III: Sự mong manh làm cho chúng ta cởi mở đón tiếp

”Người đã mang lấy những đau khổ của chúng ta, đã gánh chịu những đớn đau của chúng ta; mà chúng ta lại nghĩ Người bị phạt, bị Thiên Chúa đánh đập và hạ nhục. Người đã bị đâm thấu qua vì tội lỗi chúng ta, bị đè bẹp vì những bất chính của chúng ta. Hình phạt mang lại ơn cứu độ cho chúng ta đã giáng xuống trên Người” (Is 53,4-5).
Đó là một Đức Giêsu yếu đuối, mong manh, rất con người, vị mà chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm trong chặng rất đau thương này. Nhưng chính cái ngã của Chúa, trên đất bụi, càng tỏ lộ tình thương vô biên của Ngài. Ngài bị đám đông chen lấn, bị điếc tai vì những tiếng la của binh sĩ, bị sưng phồng vì những vết thương đánh đòn, đầy cay đắng trong nội tâm vì sự vô ơn vô biên của loài người. Ngài ngã xuống đất! Nhưng trong lần ngã này, trong sự chiều theo sức mạnh và vất vả, Chúa Giêsu một lần nữa trở thành Thầy dạy Sự Sống. Ngài dạy chúng ta chấp nhận sự dòn mỏng yếu đuối của mình, đừng nản chí vì những thất bại của chúng ta, hãy chân thành nhìn nhận những giới hạn của mình. Thánh Phaolô đã nói: ”Trong tôi có ước muốn làm điều thiện nhưng tôi lại không có khả năng thực hiện ước muốn ấy” (Rm 7,18). Với sức mạnh nội tâm đến từ Chúa Cha, Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận sự mong manh của người khác; không vùi dập người bị ngã, không dửng dưng đối với sa ngã. Và Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để không khép kín đối với người gõ cửa nhà chúng ta, xin tị nạn, xin phẩm giá và tổ quốc. Ý thức về sự mong manh của chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận nơi mình sự mong manh của những người di dân, để họ tìm được an ninh và hy vọng.

Thực vậy, chính trong nước dơ nơi chậu nước của nhà Tiệc Ly, nghĩa là trong sự dòn mỏng yếu đuối của chúng ta, có phản ánh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa chúng ta! Vì thế, ”thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4,2)

Chặng thứ IV: Những giọt lệ liên đới

”Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà và nói với Maria, Mẹ Ngài: 'Này đây, Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cơ cho nhiều người ở Israel vấp ngã hay được chỗi dậy và về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Bà' (Lc 2,34-35). ”Anh chị em hãy khóc với người khóc. Hãy có cùng những tâm tình như vậy đối với nhau' (Rm 12,15-16)

Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với Mẹ Ngài đầy xúc động và nước mắt, qua đó có biểu lộ sức mạnh vô địch của tình mẫu tử vượt lên trên mọi chướng ngại và biết mở mọi con đường. Nhưng cái nhìn liên đới của Mẹ Maria càng sinh động hơn nữa, cái nhìn chia sẻ và mang lại sức mạnh cho Chúa Con. Và như thế, tâm hồn chúng ta đầy kinh ngạc khi chiêm ngắm sự cao cả của Mẹ Maria, khi Mẹ là thụ tạo, trở nên gần gũi với Thiên Chúa của Mẹ và là Chúa của Mẹ.

Mẹ gồm tóm tất cả mọi nước mắt của các bà mẹ đối với những người con xa xăm, đối với những người trẻ bị kết án tử hình, bị giết hại hoặc ra chiến trường, nhất là những binh sĩ trẻ em. Chúng ta nghe thấy tiếng than xé lòng của những bà mẹ đối với con, đang sinh thì vì những thứ bệnh ung thư do việc đốt những đồ phế thải độc hại gây ra.
Những dòng lệ cay đắng dường nào! Chia sẻ liên đới với những người con đang hấp hối! Những bà mẹ canh thức đêm khuya dưới ngọn đèn sáng, hồi hộp vì những người trẻ đang bị tình trạng bấp bênh đè bẹp hoặc bị ma túy và rượu nuốt chửng, nhất là những đêm thứ bẩy!

Quanh Mẹ Maria, chúng ta sẽ không bao giờ là một dân tộc mồ côi! Không bao giờ bị lãng quên. Như thánh Juan Diego, Mẹ Maria cũng mơn trớn và an ủi chúng ta như những người con và nói với chúng ta: ”Tâm hồn các con đừng xao xuyến.. Mẹ là mẹ con, chẳng ở đây sao?” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm. 286).

Chặng thứ V: Bàn tay thân hữu nâng đ

”Họ bắt một người đi qua đường vác đỡ thập giá cho Người. Ông tên là Simon người xứ Xirênê, thân phụ của Alessandro và Rufo” (Mc 15,21)

Tình cờ, ông Simon Xirênê đi qua đó. Nhưng sự kiện này trở thành một cuộc gặp gỡ quyết định trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lam lũ và khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc bác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết án tử hình ô nhục (Xc Pl 2,,8). Nhưng từ sự tình cờ, cuộc gặp gỡ ấy sẽ biến thành một cuộc đi theo Chúa Giêsu một cách quyết liệt và sinh tử, mang thập giá mỗi ngày, từ bỏ chính mình (Xc Mt 16,24-25). Thực vậy, ông Simon được thánh Marcô nhắc đến như thân phụ của hai tín hữu Kitô được biết đến trong cộng đoàn Roma là Alessandro và Rufo. Một người cha chắc chắn đã in dấu trong tâm hồn các con sức mạnh của thập giá Chúa Giêsu. Vì nếu bạn giữ sự sống chặt quá, thì nó sẽ mốc meo và khô lại. Nhưng nếu bạn trao tặng, thì sự sống sẽ tươi nở và sinh đầy bông hạt cho bạn và cho toàn thể cộng đoàn!

Đây chính là bí quyết thực sự chữa trị tính ích kỷ vẫn luôn rình mò chúng ta. Tương quan với người khác chữa lành chúng ta và sinh ra tình huynh đệ huyền nhiệm, chiêm niệm, biết nhìn đến sự cao cả thánh thiêng của tha nhân, biết khám phá Thiên Chúa trong mọi người, biết chịu đựng những phiền toái trong cuộc sống, bám chặt vào tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mở rộng con tim cho tình yêu Chúa, ta mới được thúc đẩy tìm kiếm hạnh phúc cho tha nhân qua bao nhiêu cử chỉ thiện nguyện: một đêm ở nhà thương, cho mượn mà không đòi lãi cao, một dòng nước mắt được lau khô trong gia đình, sự nhưng không chân thành, sử dụng công ích một cách sáng suốt, chia sẻ cơm bánh và công ăn việc làm, vượt thắng mọi hình thức ghen tương.

Chặng thứ VI: Bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu

”Tim con lập lại lời mời của Chúa: Hãy tìm kiếm nhan thánh Ta!”. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài. Xin Ngài đừng ẩn mặt, đừng giận mà ruồng rẫy tôi tớ Ngài. Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng bỏ con, đừng xua đuổi con, lạy Thiên Chúa Đấng cứu độ con” (Tv 27,8-9).

Chúa Giêsu lê lết bước đi, thở hổn hển. Nhưng ánh sáng trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn. Những vết khạc nhổ không làm lu mờ ánh sáng. Những cái tát không làm cho ánh sáng trên mặt Ngài bị tắt lịm. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ, khi càng bị xúc phạm,. thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Những dòng lệ âm thần chảy xuống từ đôi mắt của Thầy. Ngài mang gánh nặng của sự bị bỏ rơi. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái lại đàng sau. Ngài chịu đựng sự đè nén. Ngài bị giao động vì sự tàn ác, nhưng Ngài biết rằng cái chết của Ngài không phải là uổng công vô ích.

Bấy giờ Chúa Giêsu dừng lại trước một phụ nữ đến gặp Ngài không chút do dự. Đó là bà Veronia, hình ảnh đích thực sự dịu hiền của phụ nữ!

Ở đây Chúa là hiện thân nhu cầu của chúng ta mong được sự yêu thương nhưng không, cảm thấy được yêu mến và được bảo vệ nhờ những cử chỉ ân cần săn sóc. Những săn sóc an ủi của phụ nữ ấy thật quí giá đối với Chúa Giêsu và dường như cất đi những hành vi xúc phạm mà Ngài đã chịu trong những giờ tra tấn ấy. Bà Veronica đã đánh động được Chúa Giêsu dịu dàng, chạm đến được sự tinh trắng của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để tham gia vào sự đau khổ của Ngài. Trong Chúa Giêsu, bà nhìn thấy mỗi người cần an ủi dịu dàng, để đi tới tiếng rên xiết đau thương của những người ngày nay không nhận được sự giúp đỡ và hơi ấm của sự tình người. Họ chết trong cô đơn.

Chặng thứ VII: Sự kinh hoàng của tù ngục và tra tấn

Chúng bủa vây tôi (..) Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong, chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng, nhờ Danh Chúa tôi đã trừ diệt chúng. Chúng đã xô đẩy tôi, xô thật mạnh cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Sửa phạt tôi, vâng Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết. (Tv 118, 11.12 – 13.18) Quả thật, trong Chúa Giêsu đã hiện thực những lời tiên tri cổ xưa về Người Đầy Tớ khiêm hạ và vâng phục, đã mang trên vai toàn bộ lịch sử thương đau của loài người chúng ta. Và như thế, Chúa Giêsu, bị xô đẩy thô bạo, té ngã vì mệt nhọc và hành hạ, bị bạo lực vây bủa tứ bề, không còn sức chịu đựng nữa. Ngày càng cô đơn hơn, càng chìm sâu trong đen tối hơn! Tan da nát thịt, xương cốt mỏi mòn!

Chúng ta nhận ra trong Người kinh nghiệm đắng cay của những tù nhân trong mọi ngục tù, với tất cả những trái ngược vô nhân của nó. Bị vây bủa, bị xô đẩy tàn bạo cho té ngã. Nhà tù ngày nay vẫn còn bị tránh xa, bị quên lãng, bị xã hội dân sự bỏ rơi. Có bao nhiêu điều phi lý của bộ máy hành chánh, có bao nhiêu chậm trễ của hệ thống tư pháp. Rồi thêm bản án đôi là sự quá tải: đây là một đau khổ trầm trọng hơn, một đàn áp bất công, làm hao mòn thịt xương. Một vài người, quá nhiều người, không thể chịu đựng nổi.. Và ngay cả khi một người anh chị em của chúng ta ra khỏi ngục tù, chúng ta vẫn xem họ là ”cựu tù nhân, và như thế, khép kín cánh cửa giúp họ tìm lại phẩm giá trước mặt xã hội và hội nhập thế giới lao động.. Nhưng trầm trọng hơn cả là hiện tượng tra tấn vẫn còn quá thịnh hành tại nhiều nơi trên trái đất, bằng mọi kiểu. Cũng như trong trường hợp Chúa Giêsu: Chính Người cũng đã bị đánh đập, bị bọn lính chế nhạo khinh dễ, tra tấn hành hạ với chiếc mão gai, roi đòn tàn nhẫn.

Ngày nay, chúng ta thấy đúng làm sao câu nói của Chúa Giê Su khi bị té ngã lần đó: Ta bị tù và các ngươi đã đến thăm Ta. (Mt 25,26) Trong mọi nhà tù, bên cạnh những người bị tra tấn, đều có Người, Đức Ki Tô đau khổ, bị giam tù và tra tấn. Chúng ta chỉ có thể cùng nhau đứng dậy, với sự đồng hành của các chuyên viên, được bàn tay huynh đệ của các nhân viên thiện nguyện hỗ trợ và được nâng đỡ bởi một xã hội dân sự biết ôm lấy cả mọi bất công bên trong những bức tường nhà giam.

Chặng thứ VIII: Chia sẻ chứ không thương hại.

Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. (Lc 23, 28) Như những ngọn đuốc cháy sáng, có bao nhiêu khuôn mặt phụ nữ xuất hiện hai bên con đường khổ nạn. Những người nữ trung thành và can đảm, không sợ hãi vì bọn lính hay kích động vì những vết thương của Thầy nhân lành. Họ sẵn sàng gặp gỡ và ủi an Người. Chúa Giêsu đứng đó, trước mặt họ. Có những người chà đạp Chúa khi Người ngã gục mỏi mòn trên mặt đất. Nhưng các phụ nữ đứng đó, sẵn sàng dâng tặng Chúa nhịp đập nồng ấm của một con tim không thể kềm hãm được. Các bà đã đứng nhìn Người từ xa, nhưng rồi cố tiến đến gần, như mỗi người bạn, mỗi người anh chị em đều làm khi thấy người mình yêu đang gặp khó khăn.

Chúa Giêsu khích động vì tiếng khóc đắng cay của họ, nhưng mời gọi họ đừng tan nát con tim khi thấy Chúa bị hành hạ đọa đày, đừng khóc lóc thở than nhưng hãy trở thành những người có lòng Tin. Người kêu mời một niềm đau được chia sẻ chứ không muốn một lòng thương hại cằn cỗi và đẫm nước mắt. Không còn những than van khóc lóc, nhưng là khao khát tái sinh, nhìn thẳng về đàng trước, tiến bước với tràn đầy lòng Tin và hy vọng hướng về rạng đông chan hòa ánh sáng trên đầu những ai đang trên đường hướng về Chúa. Chúng ta hãy khóc cho chính mình nếu chúng ta còn chưa tin vào Đức Giêsu, Người đã loan báo với chúng ta Nước Trơi Cứu chuộc. Chúng ta hãy khóc cho những tội lỗi chưa xưng thú của chính chúng ta.

Và còn nữa, chúng ta hãy khóc cho những người nam chỉ biết trút mọi bạo lực chứa đựng trong lòng trên những phụ nữ. Chúng ta hãy khóc cho những phụ nữ nô lệ của sự sợ hãi và lạm dụng. Nhưng đấm ngực than van và thương hại thôi thì không đủ. Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn nữa. Người đòi hỏi phải trấn an các phụ nữ như Chúa đã làm, phải yêu thương họ như một món quà không thể xúc phạm đến của toàn thể nhân loại. (Một món quà) Để nuôi dạy con cái chúng ta, trong phẩm giá và trong hy vọng.

Chặng thứ IX: Chiến thắng sự luyến tiếc não nùng không tốt

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (…) Nhưng trong tất cả mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta (Rm 24, 35-37) Thánh Phaolô liệt kê những thử thách của mình, nhưng biết rõ là trước thánh nhân, Chúa Giêsu đã trải qua những thử thách ấy; trên đường lên Núi Sọ, Chúa đã té ngã một, rồi hai rồi ba lần. Tan nát bởi những hành hạ, bách hại, bởi gươm đao, bị gỗ thánh giá đè bẹp. Kiệt quệ! Dường như Chúa thốt lên, như chúng ta trong những lúc tối tăm u ám: Tôi không còn chịu nổi nữa! Đó là tiếng kêu của những kẻ bị đàn áp bách hại, của người hấp hối, của các bệnh nhân cuối đời, của những ai đang bị gánh nặng đè bẹp.

Nhưng trong Chúa Giêsu, cũng thể hiện rõ sức mạnh của Người: ”Có làm khổ, Người cũng xót thương. Chúa cho chúng ta thấy rằng trong đau khổ, luôn luôn có lòng Chúa xót thương, vượt lên trên mọi đau khổ và thấy trước được trong hy vọng. Cũng như là Chúa Cha khôn ngoan tỉa bớt những nhánh để cây sinh trái lành (Gv 15,8). Không bao giờ Người tỉa để chặt bỏ cây, nhưng để cây đơm hoa kết trái tốt lành hơn. Hay như một sản phụ sắp đến giờ sinh con: bà đau đớn, rên rỉ, quằn quại khi sinh. Nhưng bà biết rằng đó là những cơn đau của sự sống mới, của một mùa xuân nở đầy hoa chính nhờ việc tỉa cành ấy. Chiêm ngắm hình ảnh Chúa ngã gục, nhưng rồi lại chỗi dậy được, giúp chúng ta biết chiến thắng những khép kín mà sự sợ hãi tương lai đóng ấn trong con tim chúng ta, đặc biệt trong thời đại khủng hoảng ngày nay. Chúng ta sẽ chiến thắng được sự luyến tiếc quá khứ không tốt, sự thuận tiện của chủ nghĩa bất động, của ”trước giờ vẫn như vậy!Ể. Hình ảnh Chúa Giêsu loạng choạng và té ngã, nhưng rồi lại đứng dậy, đã trở thành sự chắc chắn của niềm hy vọng một khi được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện liên lỉ, sẽ nảy sinh từ chính trong thử thách chứ không sau thử thách hoặc không có thử thách. Chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta

Chặng thứ X: Hiệp nhất và phẩm giá

Đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm 4 phần, mỗi người một phần, họ lấy cả áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: ”Áo xống tôi, họ đem chia chác, cả áo dài cũng bắt thăm luôn. Đó là điều lính tráng đã làm. (Ga 19, 23.24)

Không một miếng vải nào được bọn lính để lại để che thân thể Chúa Giêsu. Họ lột trần Người. Chúa không còn áo xống hay áo dài, không còn quần áo gì cả. Họ lột trần Người như là hành vi hạ nhục cuối cùng. Thân xác Người chỉ còn được che đậy bằng dòng máu tuôn trào ra từ những vết thương sâu rộng. Chiếc áo dài được giữ nguyên vẹn là hình ảnh của sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp nhất đang được cố gắng tìm lại trên con đường kiên nhẫn, trong một nền hòa bình dày công xây dựng từng ngày, trên một khung cửi dệt tấm vải bằng sợi vàng của tình huynh đệ trong niềm hòa giải và trong sự tha thứ lẫn nhau.. Trong Chúa Giêsu, Đấng vô tội, bị lột trần và bị tra tấn, chúng ta nhìn nhận phẩm giá bị xúc phạm của tất cả mọi người vô tội, đặc biệt là của những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không hề can thiệp, ngăn cản không để cho thân thể trần trụi của Người bị phơi bày trên thập giá. Người đã làm như thế để chuộc lại mọi lạm dụng, được che đậy cách bất công, và chứng tỏ rằng Người, Thiên Chúa, chắc chắn đứng về phía những nạn nhân cách không thể quay lui được.

Chặng thứ XI: Tại giường các bệnh nhân

”Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Dothái”. Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp” (Mc 15,24-28)

Và họ đã đóng đinh Người! Hình phạt dành cho những người bị tước quyền công dân, những tên phản bội, những nô lệ nổi loạn. Đây là một bản án dành cho Chúa Giêsu của chúng ta: những đinh nhọn xù xì, nỗi đau khổ tê buốt, nỗi sầu buồn của Mẹ, sự nhục nhã vì bị xếp ngang hàng với hai tên trộm cướp, bị quân lính tước hết áo để chia nhau, bị những người đi ngang qua chế giễu: ”Nó cứu được người khác nhưng không thể tự cứu mình! Xuống khỏi thập giá đi thì chúng tôi sẽ tin vào ông” (Mt 27,42)

Họ đã đóng đinh Người! Giêsu đã không đi xuống khỏi thập giá, đã không từ bỏ thập giá. Ngài ghi nhớ và vâng phục ý Cha cho đến cùng. Ngài yêu và Ngài tha thứ.

Giống như Giêsu, ngày nay, rất nhiều anh chị em của chính ta đang bị đóng đinh vào giường bệnh, trong bệnh viện, nhà thương, trong gia đình. Đó là thời gian thử thách, những ngày cay đắng của cô đơn và thậm chí là thất vọng: ”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài lại bỏ con?” (Mt 27,46) Bàn tay của chúng ta chưa bao giờ bị đâm qua, nhưng luôn luôn ở kề bên, an ủi và nâng đỡ những bệnh nhân, nâng họ dậy từ giường bệnh. Căn bệnh xảy đến chẳng bao giờ xin phép ai, nó đến bất thình lình. Đôi khi nó gây khó chịu, nó giới hạn phạm vi của chúng ta, thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Nó rất cay đắng. Chỉ khi nào chúng ta thấy bên cạnh mình có ai đó lắng nghe chúng ta, gần gũi chúng ta, ngồi bên giường chúng ta… căn bệnh mới có thể trở thành trường dạy khôn ngoan vĩ đại, trở thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa Nhẫn Nại. Khi nào có ai đó mang trên mình những nỗi đau vì tình yêu thì ngay nơi đêm tối của khổ đau vẫn bừng lên ánh sáng vượt qua của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Điều đối với con người là một bản án cũng có thể biến thành một hy lễ cứu chuộc vì lợi ích cho cộng đoàn và gia đình chúng ta. Các thánh đã cho chúng ta thấy điều đó.

Chặng thứ XII: Bẩy lời than van

”Sau đó, Giêsu Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ”Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.” (Ga 19,28-30).

Bẩy lời cuối cùng của Giêsu trên thập giá là một kiệt tác của niềm hy vọng. Một cách từ từ từng bước một, Đức Giêsu đã đi qua tất cả sự tăm tối của đêm đen, để làm hài lòng Cha, tin tưởng trong vòng tay Cha. Đó là tiếng than van của người đang hấp hối, tiếng kêu của người tuyệt vọng, lời cầu cứu của người lạc mất. Là chính Đức Giêsu đó!

”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Đây là tiếng kêu của Giob, của những ai đang bị vận rủi bủa vây. Thiên Chúa im lặng. Im lặng vì lời đáp trả của Ngài đã ở đó, trên cây thập giá: chính Ngài, Đức Giêsu, là lời đáp trả của Thiên Chúa, Lời vĩnh cửu đã nhập thể vì tình yêu. ”Xin hãy nhớ đến tôi…” (Lc 23,42). Lời kêu cứu của người phạm pháp cũng đang bị tử hình bên kia đã đi vào con tim của Giêsu, nghe vọng vang từ chính nỗi đau của Người. Và Giêsu đã lắng nghe lời kêu xin đó: ”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”. Những nỗi đau của người khác thường giải thoát chúng ta vì nó khiến chúng ta ra khỏi chính mình. ”Này bà, đây là con bà!…” (Ga 19,26). Chính mẹ của Ngài, Mẹ Maria, đang cùng với Gioan đứng dưới chân thập giá, đã phá tan nỗi sợ. Một sự dịu dàng và hy vọng đổ đầy lòng mẹ. Giêsu không hề cảm thấy đơn độc chút nào. Cũng giống như chúng ta, nếu bên cạnh giường bệnh có ai đó mà chúng ta thương mến! Một cách trung tín. Cho đến cùng.

”Tôi khát” (Ga 19,28). Giống như đứa trẻ xin mẹ mình cái gì đó để uống; giống như bệnh nhân bị cơn sốt làm nóng người… Cơn khát này của Giêsu là cơn khát của tất cả những ai đang khát khao sự sống, tự do, công bình. Và cơn khát lớn nhất là khát Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối lớn hơn chúng ta, đang khát ơn cứu độ của chúng ta.
”Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19,30). Tất cả: mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi lời tiên báo, mọi khoảnh khắc của đời sống Giêsu. Tấm thảm hoa đã hoàn thành. Hàng ngàn sắc màu của tình yêu giờ đây tỏa ra nét đẹp lấp lánh. Chẳng có gì vô ích. Chẳng có gì bị vứt bỏ. Tất cả đều trở thành tình yêu. Tất cả đều được dành cho tôi, cho bạn! Ngay cả cái chết của Ngài cũng có một ý nghĩa! ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,24). Giờ đây, một cách anh hùng, Đức Giêsu thoát ra khỏi nỗi sợ chết. Vì nếu chúng ta sống trong tình yêu nhưng không, tất cả sẽ là sự sống. Sự tha thứ sẽ đổi mới, chữa lành, biến đổi và an ủi! Làm nên một dân mới. Chấm dứt chiến tranh.

”Lạy Cha, trong tay Cha, con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46). Nỗi thất vọng không còn nữa, nhưng chỉ còn niềm tin tưởng tràn đầy trong tay Cha, tựa mình vào tim Cha. Bởi vì trong Thiên Chúa, từng mảnh phần cuối cùng sẽ được gắn lại với nhau trong sự hiệp nhất!

Chặng thứ XIII: Tình yêu mạnh hơn sự chết

”Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxép, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (Mt 27,57- 58).

Trước khi được mai táng trong mồ, Đức Giêsu rốt cuộc cũng được trao cho mẹ Ngài. Đó là hình ảnh con tim bị đâm thâu, nói với chúng ta rằng cái chết không ngăn cản được nụ hôn cuối cùng của người mẹ dành cho con mình. Bên xác Giêsu, Mẹ Maria tiến sát bên Ngài bằng một cái ôm trọn vẹn dành cho Ngài. Hình ảnh này thường được gọi là ”Lòng Thương Xót”. Thật đau buồn nhưng nó cho thấy cái chết không phá vỡ được tình yêu, vì tình yêu thì mạnh hơn sự chết! Tình yêu thuần khiết thì luôn còn mãi. Đêm đã đến. Trận chiến đã phân định thắng thua rạch ròi. Tình yêu vẫn còn nguyên trọn vẹn. Những ai sẵn sàng hiến mạng sống vì Đức Kitô, sẽ lại tìm thấy được nó, một sự sống được biến đổi sau cái chết.

Máu và nước mắt đã hòa lẫn trong tấn thảm kịch này. Cũng như cuộc sống của gia đình chúng ta, đôi khi cũng bị vây hãm bởi những mất mát bất ngờ và đau xót, với khoảng trống không thể khỏa lấp được, đặc biệt khi con cái của chúng ta qua đời.

Lòng thương xót có nghĩa là biến anh chị em thành người thân cận, những người đang trong cơn đau buồn và cảm thấy bất an. Thật là một lòng bác ái cao cả khi ta biết chăm sóc cho những ai đang chịu đau khổ nơi thân xác tổn thương, nơi tinh thần sa sút, nơi linh hồn tuyệt vọng. Tình yêu bao giờ cũng là một bài học cao cả mà Đức Giêsu và Mẹ Maria để lại cho chúng ta. Đó là sứ mạng an ủi anh chị em trong cuộc sống hàng ngày, một sứ mạng được trao ban trong chúng ta trong cái ôm thành tín giữa Đức Giêsu chịu chết và Đức Mẹ sầu bi của Ngài.

Chặng thứ XIV: Ngôi mộ mới

”Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.” (Ga 19,41-42)
Khu vườn, nơi có ngôi mộ mai táng Đức Giêsu, nhắc nhớ chúng ta về một khu vườn khác: Vườn Êđen. Một khu vườn đã bị mất đi nét đẹp và trở thành nỗi sầu khổ, nơi chết chóc và không còn sự sống nữa bởi sự bất tuân của con người. Những nhành cây hoang dại vốn ngăn cản chúng ta hít thở thánh ý Thiên Chúa, cũng như sự gắn bó với tiền tài, danh vọng, lối sống phóng đãng, giờ đây đã bị cắt bỏ và đính chặt vào gỗ cây Thập Giá. Đây là khu vườn mới: cây thánh giá được cắm vào thế gian!

Trên cao ấy, Đức Giêsu đã mang lại tất cả cho cuộc sống. Một lần nữa, từ nơi hố thẳm địa ngục, nơi Satan đã giam giữ rất nhiều linh hồn, tất cả mọi sự đã bắt đầu được phục hồi. Ngôi mộ tượng trưng cho cái kết của con người xưa cũ. Cũng giống như Giêsu và tất cả chúng ta, Thiên Chúa đã không để cho con cái mình phải chịu hình phạt là cái chết đời đời. Trong cái chết của Đức Kitô, vương quyền của sự dữ, thứ vương quyền đặt nền trên tham vọng và con tim cứng cỏi, bị bẻ gãy.

Cái chết sẽ tước đoạt hết mọi thứ của chúng ta, làm cho chúng ta hiểu rằng đấy là lúc chúng ta phơi bày ra điểm dừng của sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian này. Nhưng trước thân xác Đức Giêsu, một thân xác chịu mai táng trong mồ, chúng ta ý thức được chúng ta là ai. Chúng ta là những thụ tạo cần đến Đấng Tạo Hóa của chúng ta để không phải chết. Sự thinh lặng đang phủ kín khu vườn cho phép chúng ta lắng nghe được thanh âm của làn gió nhẹ: ”Ta là Đấng hằng sống và ta luôn ở với các con” (Xh 3,14) Tấm màn trướng trong đền thờ đã bị xé toạt ra. Cuối cùng, chúng ta cũng được thấy dung nhan của Thiên Chúa chúng ta. Chúng ta biết được tên đầy đủ của Người: lòng thương xót và sự trung tín, để ta không còn phải bối rối sợ hãi dù khi phải đối diện với cái chết vì Con Thiên Chúa đã được giải thoát giữa những người chết (X. Tv 88,6)

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Phim ‘Noah’ dẫn đầu làn sóng phim mới dựa trên Kinh Thánh

Daniel Burke cho CNN Belief Blog

Noah  6

Hãy tha thứ cho Darren Aronofsky nếu ông có đồng cảm với nhân vật có cùng tên với bộ phim mới của mình là “Noah”.

Giống như người đóng thuyền nổi tiếng này, nhà đạo diễn 45 tuổi đã vượt qua cơn bão giống như được miêu tả trong Kinh Thánh, và vẫn chưa kết thúc.

Bộ phim sử thi của Aronofsky, do Russell Crowe đóng vai chính và có kinh phí 130 triệu Mỹ kim, lướt trên làn sóng tranh cãi đang dâng cao để vào trong các rạp hát của Mỹ hôm thứ Sáu.

Mặc dù bị một số Kitô hữu bảo thủ chỉ trích dữ dội, “Noah” đứng đầu danh sách phim ăn khách nhất vào cuối tuần qua, thu về 44 triệu Mỹ kim tại Mỹ.

Bộ phim thuộc thể loại thần thoại này là tham vọng của Anronofsky, đạo diễn nổi tiếng với các phim như “Black Swan” và “The Wrestler”. Cả hai phim này đều nhận được rất nhiều lời khen ngợi và giải thưởng, trong khi “Noah” lại vấp phải làn sóng phản đối ở nhiều nơi.

Glenn Beck và mục sư Tin lành Rick Warren nguyền rủa bộ phim. Hiệp hội National Religious Broadcasters khẳng định “Noah” từ chối thừa nhận các nhà làm phim có “giấy phép nghệ thuật” sử dụng câu chuyện Kinh Thánh này. Một số nước Hồi giáo cấm chiếu bộ phim này, vì nói việc miêu tả các tiên tri đi ngược lại giáo huấn Hồi giáo.

Ngay cả Paramount, công ty điện ảnh phát hành phim “Noah” cũng khiến Aronofsky bối rối khi thử nghiệm ít nhất 5 phiên bản khác nhau của bộ phim với các nhóm được thăm dò ý kiến.

“Tôi có thể hiểu được có sự nghi ngờ vì đã 50 năm kể từ khi có câu chuyện sử thi trong Kinh Thánh Cựu Ước được đưa lên màn ảnh rộng”, Aronofsky nói gần đây. “Và trong thời gian đó đã có nhiều phim của Hollywood khiến người ta bực tức”.

Năm 2014 được xem là năm Tinsel Town đảo ngược xu hướng đó và cuối cùng chấp nhận tôn giáo.

Một thập niên sau khi bộ phim “The Passion of the Christ” làm Hollywood kinh ngạc, làm phật lòng những người theo chủ nghĩa tự do và thu về 600 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các hãng phim lớn đang ủng hộ các nhà sản xuất phim dựa trên tín ngưỡng.

Ngoài phim “Noah”, còn có phim “Son of God” của hãng 20th Century Fox, phát hành hồi tháng 3 và được chọn lọc từ loạt phim truyền hình hết sức ăn khách của kênh History Channel, “The Bible”. Vào tháng Tư, Sony Pictures sẽ phát hành phim “Heaven is For Real”, dựa trên cuốn sách rất được ưa chuộng, do Bishop T.D. Jakes, mục sư Tin lành và là nhà doanh nghiệp đa phương tiện ở Texas sản xuất.

Bộ phim “Exodus”, do Ridley Scott đạo diễn và Christian Bale đóng vai nhân vật chính Môsê, dự kiến phát hành vào tháng 12. Ngoài ra còn có phim “Mary, Mother of Christ”, được miêu tả là phần tiếp theo của bộ phim “Passion” của Mel Gibson.

Có thể sắp có thêm các phim sử thi Kinh Thánh. Được biết, Steven Spielberg đang đàm phán đạo diễn một bộ phim khác nói về Môsê, và mới đây Warner Brothers đã mua một kịch bản nói về Phongxiô Philatô.

Phòng vé chưa chứng kiến nhiều phim dựa trên tín ngưỡng như thế này từ khi Charlton Heston đóng vai trong phim “The Ten Commandments” sử dụng quy trình làm phim màu Technicolor. Và chưa kể phim “God is Not Dead”, bất ngờ mang về 8,5 triệu Mỹ kim vào cuối tuần vừa rồi.

Thế đằng sau sự phục hồi các phim dựa trên tôn giáo của Hollywood là gì?

“Nhân tố lớn nhất là sự thu hút người xem tăng không ngừng trên thị trường quốc tế”, phó giám đốc hãng Paramount Rob Moore nói, một trong những động lực đằng sau phim “Noah”.

Khi mà dường như nguồn cung cấp các nhân vật chính diện trong truyện tranh của Hollywood đã cạn, các hãng phim biết rằng Kinh Thánh đi kèm hàng tỷ khán giả. Các nhân vật chính diện và phản diện trong Kinh Thánh bị chế nhạo và được hoan hô gần như trên tất cả các châu lục. Các câu chuyện phức tạp về luân lý của nó đầy dẫy những nét đặc biệt dễ dàng tạo ra bom tấn giống như dịch châu chấu, các trận lũ trong khải huyền và lừa biết nói.

Nhưng cuộc tranh cãi về “Noah” minh họa triển vọng và mối nguy khi đưa Kinh Thánh lên màn ảnh rộng.

Đúng vậy, có sẵn khán giả yêu thích cuốn sách này, nhưng liệu họ có chấp nhận một kịch bản lạc ra ngoài Kinh Thánh không? Mặt khác, người trẻ Mỹ ngày càng tục hóa có kéo nhau đi xem các bộ phim trông có vẻ giống các bài giảng lễ không?

Nguồn: CNN Belief Blog

UCANEWS VN

Niềm tin tín thác

Niềm tin tín thác

Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.

Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.

Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian".

Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.

Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,

Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.

Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.

* * *

Sống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười".

Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết.

Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy.

Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu.

Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ".

LM Tạ Duy Tuyền

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

DÕI BƯỚC THEO CHÚA

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,

Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

Veritas Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Mùa Chay – canh tân lời hứa khi lãnh Bí tích Rửa Tội

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Mùa Chay – canh tân lời hứa khi lãnh Bí tích Rửa Tội

VATICAN. Trưa Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay, 9.3 vừa qua, đông đảo tín hữu hành hương lại quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha, cùng đọc kinh Truyền Tin với ngài và nhận phép lành từ ngài.

Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha đã lấy gợi hứng từ bài Tin Mừng Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc của Tin Mừng Mt 4,1-11. Ngài nói:
“Tin Mừng của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giordan, rồi đưa Ngài vào hoang đa để chiến đấu với Satan trong bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ công khai.”

Bằng những lời lẽ đơn sơ, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng mục đích các cơn cám dỗ của kẻ thù là muốn Đức Giêsu đi ra khỏi con đường hiến tế và tình yêu, cũng như từ bỏ kế hoạch của Thiên Chúa Cha để đi tìm hạnh phúc và thoải mái cho chính mình. Ngài nói:

“Tên cám dỗ tìm cách kéo Đức Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình yêu đ đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và quyền lực. Cả Đc Giêsu và tên Satan đều trích dẫn những đoạn Kinh Thánh. Thực ra, đ kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường thập giá, tên quỷ đã bày ra trước mắt Đức Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Đấng Messia: sự sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với việc thờ phượng Satan.”

Thế nhưng, Đức Giêsu đã chống trả lại những cơn cám dỗ đầy sức hấp dẫn ấy một cách quyết liệt và trước sau vẫn trung thành với Chúa Cha. Đức Thánh Cha cũng nhắc lại những lời nói của Đức Giêsu và xem đó như là những gì Đức Giêsu muốn nhắn nhủ từng người chúng ta, là hãy biết cậy dựa vào Lời Chúa, đừng thử thách Thiên Chúa và chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ rằng:

Đc Giêsu đã quyết liệt chống trả lại tất cả những cám dỗ này và biểu lộ ý muốn đi theo con đưng mà Cha đã vạch ra mà không có sự thỏa hiệp với tội lỗi và lý luận của thế gian. Khi đáp trả lại Satan, Ngài đã nhắc chúng ta rằng "con người sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4); và điều này ban cho chúng ta sức mạnh và nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến chống lại tinh thần thế gian vốn đy con người xuống cấp độ của những nhu cầu chính yếu, khiến con ngưi quên đi những gì là chân, là thiện, là mỹ, cơn đói khát Thiên Chúa và tình yêu của Ngưi. Hơn nữa, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta rằng "có lời Kinh Thánh viết rằng: ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi", bởi vì con đưng đức tin phải trải qua bóng tối, nghi ngờ và chính điu đó bi đắp cho sự kiên nhẫn và sự chờ đợi lâu bền. Cuối cùng, ngài nhắc nhở rằng "có lời Kinh Thánh nói: Ngươi chỉ thờ pợng một mình Thiên Chúa mà thôi; có nghĩa là chúng ta phải loại bỏ mọi ngẫu tượng, mọi thứ phù phiếm và xây dựng cuộc sống của chúng ta trên những gì là thiết yếu.”

Đức Thánh Cha còn chia sẻ thêm rằng Đức Giêsu đã luôn trung tín với Chúa Cha. Sự trung tín ấy được đặc biệt thể hiện nơi cuộc Thương Khó của Ngài. Sự trung tín ấy đã đưa Ngài đến chiến thắng chung cuộc, và Satan, thủ lãnh thế gian đã bị kết án. Ngài nói:

“Những lời này của Đc Giêsu sau đó đã được chuyển thành hành động cụ thể. Sự trung tín tuyệt đối của Ngài vào kế hoạch tình yêu của Chúa Cha ba năm sau đã đưa dn Ngài đến việc hạ bệ "thủ lãnh thế gian này (Ga 16,11), trong cuộc Tử Nạn và Thập Giá và nơi đó Giêsu đã đi đến cuộc chiến thắng chung cuộc, chiến thắng của tình yêu.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy tận dụng thời gian mùa Chay này để làm mới lại những gì ta đã cam kết khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là từ bỏ Satan cùng những âm mưu thâm độc của nó và chỉ hướng về một mình Chúa mà thôi. Ngài chia sẻ:

Anh chị em thân mến, thời gian mùa chay là cơ hội thuận lợi để tất cả chúng ta thực hiện cuộc hành trình hoán cải, chân thành đối diện với chính mình cùng với những trang Tin Mừng này. Chúng ta hãy làm mới lại lời hứa chúng ta đã có khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội: từ bỏ Satan và tất cả những hành vi và cám dỗ của nó đc đi trên con đường của Thiên Chúa và "đt đến sự Phục sinh trong niềm vui của Thánh Thần"
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha ban phép lành và gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các nhóm, đoàn, hội đang hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô và ngài xin họ hãy cầu nguyện cho ngài.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

NHỮNG CUỘC CÁM DỖ BẤT TẬN

Khởi đầu công cuộc cứu chuộc, Chúa Giêsu đã trải qua biến cố chịu thử thách, chịu ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng. Những cám dỗ của Chúa Giêsu xét cho cùng cũng có thể rút về hai điểm chính, là cám dỗ về thực thể mình là ai? Đến sống trên trần gian này để làm gì?

Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về thực thể mình là Con Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành thức ăn”.

Thử thách đòi có dấu lạ để trắc nghiệm xem mình có thật là Con Thiên Chúa hay không. Ma quỷ cám dỗ Chúa nghi ngờ thay đổi sứ mạng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha: “Nếu ông sấp mình thờ lạy ta, thì ta sẽ cho ông tất cả”.

Sứ mạng của Chúa Giêsu là con người trở về cùng Thiên Chúa, chứ đâu phải con người làm nô lệ cho tội lỗi để củng cố vinh quang cho riêng mình Ngài. Chúa Giêsu nhắc lại: “Con chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Sống vâng phục Thiên Chúa, thi hành thánh ý Ngài đã là sứ mạng căn bản nhất của con người, của mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc để trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống Thần Linh của Thiên Chúa. Chúng ta được Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường để chiến thắng những cám dỗ, và chúng ta không thể nào tránh khỏi con đường này trong cuộc sống của mình, đó là con đường vâng phục, lắng nghe Lời Chúa.

Hôm nay chúng ta bắt đầu Mùa Chay, và chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta dốc quyết một điều cụ thể cho đời sống của mình trong Mùa Chay này. Mỗi người chúng ta hãy nhìn về cuộc sống của mình, xem mình đã có ý thức về thực thể mình là ai và xác tín mình là con của Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc hay không? Có ý thức rõ ràng là sứ mạng của mình trên trần gian này là sống vâng phục Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa không?

Chúng ta hãy dốc quyết một cách cụ thể trong Mùa Chay này, đọc Lời Chúa, ít ra không đọc hàng ngày thì mỗi tuần một lần để cho Lời Chúa chỉ dẫn cuộc sống chúng ta, nhắc cho chúng ta luôn luôn nhớ mình là con cái Thiên Chúa và sống trên trần gian này bằng cuộc sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Dám nói không

Đời Tam Quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã, phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo. Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.

Quan Văn Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.

Mọi người thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó, danh từ “Ngọn đuốc Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục quyến rũ lòng mình.

Những con người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm trí họ lúc nào cũng là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ thánh thiêng.

Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc.

Cuộc đời Đức Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng. Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay chính khi lại ngay trong bản thân Người.

Tin Mừng hôm nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Người biến đá thành bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày. Chúng khiêu khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng, Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời Kinh Thánh.

Kinh Thánh chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi lời Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi của người tín hữu, thì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua, không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.

Cám dỗ nào cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn thánh ý Chúa hoặc là chọn chính mình. Người không có lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình. Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.

Đức Giêsu đã không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người sẽ thua ma quỷ, nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là “Thánh ý Cha”. Người suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh ý Cha. Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).

Muốn vâng theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày đó sao?

Mùa chay là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.

Nếu so sánh vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cần nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương quyết nói “không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.

Dù bầu trời đen mênh mông bao trùm địa cầu, thì trong một bờ đá nào đó, cánh hoa mảnh mai vẫn hồn nhiên nở trong đêm khuya. Cánh hoa mỏng manh là thế mà sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! Nếu hoa lá là ngôn sứ của Thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho lời Chúa đưa chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời lại sáng.

Veritas Radio

PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

PHƯƠNG THẾ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Phụng vụ Giáo hội đã bước vào Mùa Chay Thánh.

Mùa Chay trải dài 40 ngày.Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa.Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện.Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện.Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

1. Chịu cám dỗ

Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này.Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.

Thiên Chúa cho phép ma qủy cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể chứng minh đức tin của mình.

Thiên Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma qủy cũng lợi dụng triệt để mà cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.

Thiên Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ qúa sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma qủy với những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.

2. Ma qủy thường cám dỗ như thế nào?

Ma qủy lừa dối con người.Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu, là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma qủy lừa dối cho rằng việc làm đó là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma qủy không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói rằng ăn trái này thì Bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai dám phạm tội. Ma qủy khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn trộm một qủa trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma qủy cũng vậy, nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới phạm những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không ai nghiện rượu ngay khi uống chén đầu tiên. Nhưng dần dần nếu lập đi lập lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập (x. Buồn vui cùng kiếp người, ĐTGM Ngô Quang Kiệt, trang 33).

Chuyện kể rằng : khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi :

– Ông đang trồng cây gì thế ?

– Cây nho.

– Nó có lợi gì không ?

– Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

– Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu uống nữa thì… hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

Ma qủy luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.

3. Phương thế chiến thắng cám dỗ

Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.

a. Lời Chúa

Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.

Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)

– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)

– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.

Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.

b. Ăn chay cầu nguyện

Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.

Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta !

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.

Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Cám dỗ

Cám dỗ

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay Thánh, câu truyện của sách Sáng Thế Ký dẫn chúng ta trở lại sự khởi nguyên của dòng dõi loài người. Thiên Chúa sáng tạo con người từ bùn đất và thổi sinh khí ban cho con người có sự sống. Thiên Chúa đặt sẵn một mảnh vườn tuyệt đẹp để con người được vui hưởng hạnh phúc. Ngay từ giây phút đầu tiên, Thiên Chúa đã nhắc nhở hai ông bà tổ tiên Ađam và Evà về sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Con rắn, biểu hiện của ma quỷ, đã cám dỗ lòng thèm khát của ông Ađam và bà Evà muốn trở nên giống Chúa qua sự hiểu biết về sự lành và sự dữ. Ma quỷ mon men dụ dỗ người đàn bà trước, Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết.” (St 3,2-3). Bà Evà đã sa ngã nghe theo lời cám dỗ và cùng kéo lôi Ađam vào bẫy của ma quỷ. Ông bà đã chọn lựa sự bất tuân lệnh của Chúa và trong phút chốc sự ngây thơ vô tội đã biến mất.

Cám dỗ là sự ước muốn một hành động mà chúng ta có thể hưởng lạc ngay trong khoảnh khắc nhưng sau đó lại hối hận. Cám dỗ là hướng chiều về tội. Cám dỗ cũng là dịp hay cơ hội dẫn đến những ước muốn tò mò thực hiện những hành động xấu. Những đòi hỏi ước muốn của bản năng len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta không thể nào thoả mãn tất cả mọi khao khát của lòng ham muốn hay dục vọng. Lòng ước muốn có thể là điều tốt hoặc xấu và điều phải hoặc trái. Chúng ta có quyền chọn lựa thái độ sống tốt. Dịp tội đưa dẫn chúng ta thoả mãn sự tò mò của tâm trí và đáp ứng những khao khát của ngũ quan thèm muốn. Vì nhùng nhằng với cơn cám dỗ, bà Evà bị rơi vào bẫy xập của ma quỷ. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn (x. St 3,6). Hậu quả của sự tò mò tìm kiếm những kinh nghiệm sống thực là: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.” (St 3,7). Bài học kinh nghiệm sống đời giống như thế đã gây nên biết bao nhiêu thất bại nơi nhiều người. Thôi lỡ rồi!

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” Chúng ta khó có thể tránh khỏi các cơn cám dỗ, vì nó xảy đến bất ngờ mọi nơi và mọi lúc dưới nhiều hình thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tỉnh thức phấn đấu và thắng vượt. Thường thì các cơn cám dỗ đến rất nhẹ nhàng và xem ra hợp tình hợp lý. Nó đáp ứng đúng những nhu cầu đòi hỏi của lòng ao muốn thoả mãn thân xác và tâm linh. Muốn thắng các cơn cám dỗ, chúng ta cần tỉnh thức cầu nguyện và ăn chay hãm mình. Đôi khi chúng ta còn phải trốn chạy, người ta nói “đào vi thượng sách” là thế! Chúng ta phải biết lượng sức mình, nếu chúng ta coi thường mà cứ quanh quẩn trong thách đố, ma quỷ sẽ không buông tha cho chúng ta. Chúng ta thường đối diện với những cám dỗ về danh vọng, ham muốn quyền lực, đức công bằng, sự tham lam của cải vật chất, sự ghen tương, thù ghét và lòng ước muốn dâm dục.

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu về những ước muốn thoả mãn của ăn vật chất, quyền lực và danh vọng. Chúa Giêsu đã dứt khoát chống trả các chước cám dỗ một cách mau lẹ bằng cách dựa vào lời Kinh Thánh: “Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: ‘Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.’” (Mt 4,4). Lời Chúa là lẽ sống và là khí giới vạn năng giúp chúng ta chiến đấu thắng vượt những cạm bẫy của ma quỷ. Với sức riêng, chúng ta khó vượt qua các mưu mô của quỷ dữ. Chúng ta cần phải cậy nhờ vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức. Hằng ngày chúng ta đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Trong khi lựa chọn thái độ sống là khi chúng ta chạm trán với sự cám dỗ giữa lành và dữ, tốt và xấu. Bảy mối tội đầu là bảy loại cám dỗ hay xuất hiện: tội kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và lười biếng phụng thờ Thiên Chúa.

Tập trung hướng nhìn về Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài. Chúa Giêsu thắng vượt các cơn cám dỗ dễ dàng bởi sự tỉnh thức và ăn chay nguyện cầu. Chúa đã dùng lời Kinh Thánh để đối đáp với những lạm dụng của ma quỷ: “Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.’” (Mt 4,10). Ma quỷ cũng thấu đạt lời Kinh Thánh, cũng khéo léo áp dụng, tuy nhiên không đúng nơi đúng chỗ và không có ý hướng ngay lành. Ma quỉ đã thất bại và bỏ cuộc. Lời Chúa là vũ khí rất lợi hại giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc và khiêu khích của ma quỷ. Trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy cố gắng đọc, học hỏi, suy niệm và tin vào Lời Chúa. Nghi thức xức tro mời gọi: Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.

Lòng con người hay hướng chiều về điều dữ là do bởi bản tính mỏng giòn, ô nhiễm bởi tội nguyên tổ. Thánh Phaolô Tông đồ trong thở gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Nếu ai nói rằng mình không bao giờ phạm tội, đó là người nói dối và lừa đảo chính mình. Đôi khi chúng ta chỉ xét mình một cách hời hợt bên ngoài và chỉ xưng thú một vài lỗi lầm quen thuộc. Thí dụ: Một năm chúng ta có cơ hội xưng tội vào Mùa Chay, khi vào toà cáo giải, có người xưng: Thưa cha, trong năm qua con có bỏ lễ Chúa Nhật 2 lần, xin hết. Có lẽ chúng ta chưa xét mình cho đủ. Không dám nhìn vào đời sống nội tâm và không biết cách xét mình. Chúng ta có thể xét mình bằng cách dựa vào 10 giới răn của Chúa và 6 điều răn của Hội Thánh. Chúng ta có thể xét mình về những tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Chúng ta có thể xét mình về bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Càng xét mình kỹ, càng xưng thú rõ ràng và thật lòng ăn năn chừa cải, chúng ta mới có cơ hội thăng tiến trên đường nhân đức.

Truyện minh hoạ: Có một thiếu phụ đem quần áo ra giếng chung để giặt nhưng vì sợ người ta thấy quần áo mình quá dơ bẩn, nên vội vàng giặt sơ sơ rồi gấp mang về phơi. Vì thế, quần áo không có cái nào sạch cả. Ngày nay, nhiều người cũng làm như thế trước mặt Chúa và trong toà cáo giải với linh mục. Vì sợ linh mục nghe biết tội mình quá ô uế, nên họ không dám xưng từng tội một và chỉ trình bày cách tổng quát. Họ giấu những tội trọng hay cố tình nói cho nhẹ bớt, nên linh hồn họ dơ vẫn hoàn dơ.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần hy sinh chịu chết trên thập giá để cứu độ. Chúa có uy quyền để tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta đã phạm. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế (x. Rm 5,19). Chúa đến để cứu độ chứ không phải để luận phạt chúng sinh. Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã tha tội cho nhiều người: Chúa tha tội cho người đàn bà tội lỗi khi xức dầu chân Chúa, tha tội cho phụ nữ Samaria tại giếng Giacob, tha tội cho người bất toại và tha tội cho kẻ trộm bị đóng đinh cùng… Chúa cũng đã trao quyền tháo cởi cho Thánh Phêrô, các tông đồ và những người kế vị. Chúng ta tin tưởng vào quyền năng tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa, bước vào Mùa Chay Thánh là chúng con bắt đầu bước vào mùa tập luyện. Xin cho chúng con biết can đảm xét mình và nhận diện tình trạng tâm hồn yếu đuối và tội lỗi. Chúng con là kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa xót thương và tha thứ tội lỗi chúng con.

LM Giuse Trần Việt Hùng

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến

AFP và ucanews.com từ Hà Nội, Việt Nam

Việt Nam y án luật sư bất đồng chính kiến thumbnail

Luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân tại tòa phúc thẩm (ảnh AFP/Vietnam News Agency)

Phiên tòa khinh thường phản đối của quốc tế và biểu tình địa phương

Một trong những nhà bất đồng chính kiến ​​nổi bật nhất Việt Nam mất quyền kháng cáo án tù tội trốn thuế vào hôm thứ Ba, trong khi hàng chục người ủng hộ biểu tình bên ngoài tòa án phản đối nhà nước cộng sản đàn áp bất đồng chính kiến​​.

Đông đảo cảnh sát chung quanh tòa phúc thẩm Hà Nội nơi xử ý án hai năm rưỡi tù cho luật sư và blogger Công giáo Lê Quốc Quân. Ông bị kết án tháng Mười năm ngoái và các nhà vận động nhân quyền cho là có động cơ chính trị.

“Bị cáo không hối tiếc và thiếu thái độ tôn trọng hội đồng xét xử,” chánh án Nguyễn Văn Sơn cho biết, xác nhận án tù và khoản tiền phạt tương đương 57.000 USD.

Đường truyền truyền hình từ phòng quan sát phiên toàn ngay lập tức bị cắt sau khi tuyên án.

Trước đó luật sư nói với tòa rằng ông “hoàn toàn vô tội” trước cáo buộc chống lại ông.

“Tôi là nạn nhân của âm mưu chính trị. Tôi phản đối phiên tòa,” ông nói.

Ông Quân đang tuyệt thực 17 ngày nay, em trai ông cho biết, trông ông mệt mỏi và ốm yếu khi đứng trước vành móng ngựa và có lúc bị ngất khiến nhân viên an ninh phải đỡ ông đứng dậy.

Ông Quân bắt đầu tuyệt thực sau khi yêu cầu có cuốn Kinh Thánh và được gặp linh mục xưng tội của ông bị từ chối. Ông sẽ tiếp tục tuyệt thực nếu kháng cáo của ông bị phản bác, theo bản tin đài phát thanh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.

Luật sư bào chữa Bùi Quang Nghiêm nói, phiên tòa với cáo buộc trốn thuế là một trò hề.

“Nếu hội đồng muốn xét xử ông Lê Quốc Quân vì những hoạt động của ông ta, thì quý vị không cần phải mang ông ra tòa vì tội trốn thuế,” ông nói.

Luật sư Quân năm nay 43 tuổi, đã viết hàng loạt chủ đề nhạy cảm trên blog, bao gồm các quyền dân sự, đa nguyên chính trị và tự do tôn giáo, bị giam giữ từ tháng 12 năm 2012.

Ông Lê Quốc Quyết, em trai luật sư Quân cho biết bên ngoài tòa án rằng gia đình đã không được phép tham dự phiên tòa.

Khoảng 150 người tụ tập bên ngoài tòa án la to “Tự do cho Lê Quốc Quân” và vẫy các biển hiệu kêu gọi thả ngay lập tức vị luật sư Công giáo, đã gây hỗn loạn giao thông vào giờ cao điểm.

Quy mô cuộc biểu tình là bất thường tại Việt Nam, nơi nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ bất đồng chính kiến​​.

Hàng trăm người lưu thông trên đường bị kẹt trong cuộc biểu tình vào sáng sớm.

Việt Nam, quốc gia độc đảng, thường xuyên bị các tổ chức nhân quyền và chính phủ phương Tây lên án đàn áp bất đồng chính kiến và vi phạm tự do tôn giáo có hệ thống.

Hồi đầu tháng, tổ chức Phóng viên Không Biên giới cho biết Việt Nam chỉ xếp sau Trung Quốc số lượng các blogger bị giam giữ, với ít nhất 34 blogger hiện đang ngồi tù.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội cho biết hồi tháng Mười rằng phán quyết dành cho ông Lê Quốc Quân là một phần của xu hướng “đáng lo ngại” ở Việt Nam khi sử dụng luật thuế để bỏ tù những ai bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa.

Trong bài đăng trên Facebook, nhóm vận động pháp lý Tù nhân Lương tâm cho biết: “Nhóm Công tác Liên hợp quốc về Giam giữ Tùy tiện đã xem xét vụ việc và yêu cầu chính phủ Việt Nam thả ông ngay lập tức.”

UCANEWS VN

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

 CUỐN SÁCH HAI CHỮ

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy "chớ giết người". Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi : "Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu,

2. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: "Chớ dâm dục", và điều răn thứ 9 dạy: "chớ ngoại tình". Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội "dâm dục" hay "ngoại tình", nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!

3. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra" (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.

4. Cuốn sách hai chữ : Yêu Thương.

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa : muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.

Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng  Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: "Yêu thương là chu toàn lề luật" (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu,xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An