Theo Thầy Giêsu

Theo Thầy Giêsu

Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

 Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

 Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

 Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

 Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.

 Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.

 Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải "đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Theo Thầy không phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn dân. Muốn theo Thầy, không những phải "từ bỏ chính mình", tức là "tư tưởng của loài người", mà còn phải mang thân phận như Thầy với thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát. Muốn theo Thầy "anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1).

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.

Từ bỏ là một quy luật.

– Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.

– Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.

– Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.

– Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác. (sợi chỉ đỏ).

Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần "mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô khác" hoàn toàn.

Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.

Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống

 Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.

 Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý căn bản "mất mạng sống mình vì Thầy". Con người ta cứ tưởng rằng, chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng "nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?" (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có thể tìm lại được mình là "mất mạng sống mình vì Thầy" (Mt 16,25). Như thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được? Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: "Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng" (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được nghịch lý của cây thập giá để "ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Mt 16,21) từ cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể làm cho người môn đệ "tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25), vì Thầy là "sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ hơn cả vũ trụ vì Thầy là "con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).

 Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau. Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.

 Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

 Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.

Cầu nguyện

"Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.

Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.

Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.

Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.

Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen." (Mẹ Têrêxa Calcutta).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mất trước được sau

Mất trước được sau

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.

Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.

Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.

Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.

Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.

Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.

Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).

Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.

Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?

2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?

3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Con đường thập giá

Con đường thập giá

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta tiếp xúc với một khuôn mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô trong Chúa nhật tuần trước.

Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được Thiên Chúa mạc khải để ông nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa Giêsu ca ngợi, đặt làm nền tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút, Phêrô lại là người đầu tiên vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó.

Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ về cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau khổ, bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã xuất phát từ niềm tin của ông vào tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng cánh chim, từng bông hoa. Thiên Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt cho con cái. Một người cha thế gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó xin cái bánh, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm sao có thể xảy ra được.

Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được chứng kiến quyền năng của Thầy mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão táp, thì làm sao Ngài lại để cho mình gặp phải sự khốn khó?

Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời, vì ông đã đơn giản hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan. Thực vậy, khi Satan đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để chân Người khỏi vấp phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng trở nên một thứ phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù phiến của mình.

Sự thực thì đây không phải là một cơn cám dỗ đặt ra cho một mình Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã gặp phải. Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao Chúa không cho tôi trúng số để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời giờ làm những công việc đạo đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí. Tại sao Chúa không cho Giáo Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho Nước Chúa được mở rộng và danh Chúa được cả sáng.

Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để cứu độ trần gian là con đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội lại sứ mệnh của mình, và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và đối với bản thân chúng ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc phục vụ người khác, thì chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi riêng tư của chúng ta.

Phải từ bỏ mình

Phải từ bỏ mình

Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi các tông đồ: "Người ta bảo Con Người là ai?", và Chúa Giêsu hỏi chính các tông đồ; "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?", Phêrô đại diện cho các tông đồ tuyên xưng đức tin: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống".

Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó là con đường khổ nạn mà Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại can ngăn Chúa: "Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng Chúa Giêsu quở trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo Chúa: "Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà mất lình hồn thì được ích gì!".

Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ về cuộc đời của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có hai con người: Một con người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người chấp nhận cộng tác với ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ vững đức tin của mình. Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó cần phải thanh tẩy để mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.

Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về đề tài này, về đời sống của người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một câu chuyện vui như sau:

Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên Thập tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Kitô". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, anh Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng lại sao giờ đây anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên Thập tự như vậy?”

Anh Intyra giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp hèn tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ. Vì tránh được sự đau khổ này thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.

Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người Kitô chấp nhận đau khổ vì người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời gọi hiểu ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ, thì niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất này. Đó là lý do tôi cảm thấy lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập giá và muốn làm môn đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người Kitô sống để được trở thành người Kitô.

Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận theo làm môn đệ, Ngài không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: "Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá hằng ngày mà theo Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống muôn đời".

Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà có thể nhiều người hay mỗi người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích lợi gì, chúng ta cần phải sống và thực hành những chân lý ấy

Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ Makia còn một đoạn kết thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào làng của người Công giáo thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây thì có nhóm những người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp giết nhau, nơi công cộng thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà đạo sĩ: "Đây là đâu vậy?" Đạo sĩ Makia trả lời: "Đây là làng của người Công giáo". Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ: Chúng ta hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô nữa.

Nếu chúng ta chỉ nói: "Lạy Chúa, Lạy Chúa" ngoài môi miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình, có thể chúng ta sẽ rơi vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên. Chúng ta nói mình sẵn sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận những hy sinh, chấp nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng ta có thự hành điều này hay không?

Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự sống những gì mỗi người chúng ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không phải để khoe khoang, nhưng để góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta đang sống, góp phần giúp anh chị em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta là người đầu tiên phải đi trên con đường này để đến với Chúa trước tiên, thì mới có thể hy vọng giúp anh chị em đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Xin cho các Kitô hữu được Lời Chúa linh hứng dấn thân phục vụ người nghèo và những ai đau khổ (Ý chỉ truyền giáo tháng 9)

Xin cho các Kitô hữu được Lời Chúa linh hứng dấn thân phục vụ người nghèo và những ai đau khổ (Ý chỉ truyền giáo tháng 9)

Trong tháng 9 năm 2014 Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới ”Cầu xin cho các Kitô hữu được Lời Chúa linh hứng dấn thân phục vụ người nghèo và những ai đau khổ”.

Khi đọc các Phúc Âm kể lại cuộc đời Đức Giêsu thành Nagiarét, chúng ta nhận ra rất nhiều nét trong gương mặt của Người: Người là hiện thân tình yêu và lòng xót thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giêsu không chỉ giảng dạy, nhưng Người còn làm rất nhiều phép lạ chữa lành mọi tật bệnh, vực dậy những kẻ còng lưng dưới sức nặng của cuộc sống, tái trao ban ánh sáng cho người mù, mở tai cho kẻ điếc, mở lưỡi cho người câm, cho người què đi được, người phong cùi được lành sạch, cho kẻ chết sống lại, nuôi dưỡng đám đông dân chúng để họ khỏi đói và dậy dỗ mọi người con đường mới đưa đến sự sống thật. Gương sống đó của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa nhập thể làm người, phải luôn luôn linh hứng cho chúng ta ra khỏi chính mình và sự thờ ơ của mình, để lắng nghe tiếng khóc của những anh chị em nghèo túng và khổ đau. Yêu thương phục vụ người nghèo là dụng cụ loan báo Tin Mừng mạnh mẽ và hữu hiệu nhất.

Đó đã là con đường mà nhiều vị thánh đã đi. Điển hình như Mẹ thánh Têrexa thành Calcutta. Mẹ đã từ bỏ nếp sống an lành trong dòng các Nữ tu Loreto, nơi mẹ đã dậy môn lịch sử và địa lý 17 năm, để ra đi trợ giúp những kẻ bần cùng nhất trong xã hội Ấn Độ và thành lập dòng các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái cho công tác yêu thương phục vụ dân nghèo, những người bị bỏ rơi, sống lang thang trên hè phố, bần cùng, khốn khổ, bệnh tật, hấp hối không đươc ai đoái hoài. Sau này dòng có thêm nhánh nam nữa. Và các tu sĩ nam nữ thừa sai bác ái này hằng ngày noi theo gương sống của Chúa Giêsu xưa kia.

Trước đó nữa trong lịch sử Giáo Hội cũng có thánh Phanxicô thành Assisi, thánh Vincent de Paul hay thánh Gioan Bosco. Bên cạnh các nam nữ tu sĩ của hàng ngàn dòng tu, cũng còn có nhiều giáo dân nam nữ đó đây trên thế giới này hy sinh tiền của, thời giờ, sức lực để trợ giúp các anh chị em nghèo khổ, đói khát, đau yếu, tàn tật, mồ côi, các tù nhân, các người nghiện ma túy, nghiện rượu, các người tỵ nạn và những người bị xã hội gạt bỏ ra bên lề, thuộc đủ mọi lứa tuổi, mầu da và tiếng nói.

Đó cũng là mục đích của rất nhiều tổ chức công giáo, trong đó có các tổ chức Caritas giáo phận và Caritas quốc tế, Misereor, Adveniat, Renovabis của Giáo Hội Đức, cũng như hàng ngàn hiệp hội bác ái tông đồ. Chẳng hạn ở Roma có cộng đoàn thánh Egidio thường xuyên trợ giúp người nghèo, người vô gia cư, người tỵ nạn, và dấn thân giảng hòa các quốc gia có chiến tranh.

Ngày 27 tháng 12 năm 2009 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đến thăm cộng đoàn và dùng bữa với mấy trăm anh chị em nghèo, vô gia cư và người tỵ nạn thuộc mọi quốc tịch. Ngỏ lời trong dịp này Đức Thánh Cha nói: qua các cử chỉ yêu thương của những người theo Chúa Giêsu, sự thật hiển hiện, theo đó ”Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, vì thế chúng ta cũng có thể đáp trả lại bằng tình yêu” (Thiên Chúa là Tình Yêu, s. 17). Chúa Giêsu đã nói: ”Vì Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han…. Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,35-36.40).

Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với những anh chị em bần cùng khốn khổ và bị khinh miệt nhất trong xã hội loài người. Chính Chúa Giêsu đã phải sống trong những hoàn cảnh đó: sinh ra khó nghèo trong chuồng bò vì gia đình đã không được ai trong làng Bếtlêhem tiếp đón, còn bé tí đã phải chạy trốn và sống kiếp tỵ nạn bên Ai Cập, rồi sau này lang thang rao giảng Tin Mừng cho mọi người sống như một kẻ vô gia cư.

Anh chị em biết khó khăn có nghĩa là gì, nhưng nơi đây trong cộng đoàn thánh Egidio này, anh chị em tìm thấy người yêu thương và trợ giúp anh chị em, và anh chị em còn tìm thấy một gia đình cống hiến cho anh chị em dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa nữa… Dấn thân của cộng đồng thánh Egidio trợ giúp những người cô đơn và nghèo túng thật đáng ca ngợi! Các hoạt động ấy nảy sinh từ việc chăm chú lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Tôi muốn khuyến khích từng người kiên trì trên con đường lòng tin này. Với các lời của thánh Chrysostomo tôi muốn nhắc lại cho anh chị em rằng: ”Hãy nhớ rằng bạn trở thành linh mục của Chúa Kitô, khi cho đi bánh ăn của bạn, không phải thịt, nhưng là bánh của bạn, không phải máu, nhưng là một ly nước lã” (Các Bài giảng về Phúc Âm thánh Mátthêu, 42, 3). Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ ra trong việc phục vụ cụ thể đối với các anh chị em nghèo túng cống hiến cho cuộc sống sự giầu có biết bao! Vào thời đó khi các quan tòa Roma đe dọa ra lệnh cho phó tế Laurenxô của Giáo Hội Roma phải giao nộp các kho tàng của Giáo Hội, người đã chỉ các người nghèo của thành Roma như là kho tàng đích thật của Giáo Hội. Khi nhắc lại cử chỉ của Phó tế Laurenxô, chúng ta có thể nói: hỡi các anh chị em nghèo, anh chị em cũng là kho tàng qúy báu của Giáo Hội.

Với các tư tưởng trên đây trong tháng 9 tới này hiệp ý với Đức Thánh Cha và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy ”Cầu xin cho các Kitô hữu được Lời Chúa linh hứng dấn thân phục vụ người nghèo và những ai đau khổ”.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiến hành 2 bổ nhiệm quan trọng tại Tây Ban Nha

Đức Thánh Cha tiến hành 2 bổ nhiệm quan trọng tại Tây Ban Nha

VATICAN. Hôm 28-8-2014, ĐTC đã bổ nhiệm ĐHY Antonio Canizares Llovera, cho đến nay là Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, làm tân TGM giáo phận Valencia là giáo phận nguyên quán của ngài.

Ngoài ra, ĐTC cũng nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của ĐHY Antonio Maria Rouco, 78 tuổi, TGM giáo phận thủ đô Madrid, đồng thời bổ nhiệm người kế vị là Đức TGM Carlos Osoro Sierra, cho đến nay là TGM giáo phận Valencia.

ĐHY Antonio Canizares Llovera, tân TGM giáo phận Valencia, sinh tại Valencia cách đây 69 năm (1945), nguyên là giáo sư thần học huấn giáo ở Đại học Salamanca, và được bổ nhiệm làm GM giáo phận Avila năm 1992, 4 năm sau đó ngài thăng TGM giáo phận Granada, và 6 năm sau làm TGM giáo phận Toledo là giáo phận cổ kính nhất tại Tây Ban Nha, rồi được bổ nhiệm làm Hồng Y năm 2006. Năm 2008, ngài được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ phụng tự và kỷ luật bí tích.

Trang thông tin Vatican Insider, trích thuật những nguồn tin ở Vatican, cho biết ĐHY Canizares đã nhiều lần xin ĐTC Phanxicô cho trở về Tây Ban Nha coi sóc giáo phận.

Đức Cha Carlos Osoro Sierra, tân TGM giáo phận thủ đô Madrid, năm nay cũng 69 tuổi (1945) thuộc giáo phận Santander. Năm 1996, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Orense, và 6 năm sau thăng TGM giáo phận Oviedo, nhưng chỉ 4 năm sau, 2009, ngài được thuyên chuyển về Valencia. Giáo phận này hiện có 3 triệu 51 ngàn tín hữu Công Giáo, trong khi Tổng giáo phận Madrid có 3 triệu 615 ngàn tín hữu Công Giáo. Đức TGM Osoro hiện là Phó Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha. Giới báo chí cũng gọi ngài là ”Đức Phanxicô Tây Ban Nha” vì ngài rất phù hợp với lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô mong một Giáo Hội ”đi ra ngoài”. (SD 28-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo Hội duy nhất thánh thiện, nhưng bao gồm các người yếu đuối phạm tội chống lại sự hiệp nhất và thánh thiện ấy

Giáo Hội duy nhất thánh thiện, nhưng bao gồm các người yếu đuối phạm tội chống lại sự hiệp nhất và thánh thiện ấy

Giáo Hội ”duy nhất” và ”thánh thiện” vì phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được xây dựng trên nền tảng là Đức Giêsu Kitô, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, và tràn đầy tình yêu và ơn cứu độ của Người. Nhưng Giáo Hội bao gồm những người tội lỗi mỗi ngày sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các bần cùng của mình và phạm biết bao nhiêu tội chống lại sự hiệp nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 30,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 27-8-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục suy tư về Kinh Tin Kính. Ngài nói: Anh chị em thân mến, mỗi lần chúng ta tuyên xưng đức tin bằng cách đọc Kinh Tin Kính, chúng ta khẳng định rằng Giáo Hội là ”duy nhất” và ”thánh thiện”. Giáo Hội là một, bởi vì nó có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của sự hiệp nhất và hiệp thông tràn đầy. Thế rồi Giáo Hội thánh thiện, vì được xây dựng trên Đức Giêsu Kitô, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, được tràn đầy tình yêu và ơn cứu độ của Người. Tuy nhiên đồng thời Giáo HỘi cũng bao gồm các người tội lỗi hằng ngày phải sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các bần cùng của mình. Như vậy lời tuyên xưng đức tin thúc đẩy chúng ta hoán cải, có can đảm sống mỗi ngày sự hiệp nhất và thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điểm này như sau:

Chúa Giêsu Kitô là suối nguồn sự hiệp nhất và thánh thiện của chúng ta, và nếu chúng ta không hiệp nhất, nếu chúng ta không thánh thiện, thì chính bởi vì chúng ta không trung thành với Người. Nhưng Người không bỏ chúng ta một minh, Người không bỏ Giáo Hội Người!

Sự an ủi đầu tiên đến từ sự kiện Chúa Giêsu đã cầu nguyện biết bao cho sự hiệp nhất của các môn đệ. Nhất là Người đã làm điều đó khi cuộc Khổ Nạn gần kề, và khi Người sắp sửa hiến dâng toàn cuộc sống Người cho chúng ta. Đó là điều chúng ta được liên tục mời gọi đọc lại và suy gẫm, trong chương 17 là một trong những trang sâu đậm và cảm động nhất của Phúc Âm thánh Gioan (x. cc.11.21-23). Thật đẹp biết bao khi biết rằng trước khi chết, Chúa đã không lo lắng cho chính Người, nhưng đã nghĩ tới chúng ta! Và trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, Người đã cầu nguyện để chúng ta có thể là một với Người và giữa chúng ta với nhau. Đó, với các lời này Chúa Giêsu trở thành người bầu cử cho chúng ta bên Thiên Chúa Cha, để chúng ta cũng có thể bước vào trong sự hiệp thông tình yêu với Người; đồng thời, Người giao phó nó cho chúng ta như di chúc tinh thần, để sự hiệp nhất có thể ngày càng trở thành nét đặc thù của các cộng đoàn kitô, và là câu trả lời đẹp nhất cho bất cứ ai hỏi chúng ta lý lẽ niềm hy vọng nơi chúng ta (x. 1 Pr 3,15).

”Ước chi tất cả chúng chỉ là một; như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng được như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Ngay từ ban đầu Giáo Hội đã tìm thực hiện đề nghị mà Chúa Giêsu đã ước muốn này. Sách Công vụ các Tông Đồ nhắc nhớ cho chúng ta rằng các kitô hữu tiên khởi đã được nhận ra bởi sự kiện họ ”đồng tâm nhất trí” (Cv 4,32).

Thế rồi tông đồ Phaolô đã khích lệ các cộng đoàn của người đừng quên rằng họ là ”một thân thể” (1 Cr 12,13). Tuy nhiên, kinh nghiệm nói với chúng ta rằng có biết bao nhiêu tội chống lại sự hiệp nhất. Và chúng ta không chỉ nghĩ tới các tà thuyết lớn, các ly giáo, nhưng cũng nghĩ tới các thiếu sót rất thông thường trong các cộng đoàn, tới các tội “giáo xứ”. Thật thế, đôi khi các giáo xứ của chúng ta, được kêu mời trở thành nơi chia sẻ và hiệp thông, đáng buồn thay lại bị ghi dấu bởi các đố kỵ, ghen tương, ác cảm… Điều này nhân loại, đúng, nhưng không kitô! Điều này xảy ra, khi chúng ta nhắm các chỗ nhất; khi chúng ta đặt mình vào trung tâm với các tham vọng cá nhân và các kiểu nhìn sự vật, và chúng ta phán xử người khác. Điều này xảy ra, khi chúng ta nhìn các thiếu sót của các anh em khác, thay vì nhìn các tài khéo của họ; khi chúng ta coi trọng điều chia rẽ chúng ta, thay vì coi trọng điều nối kết chúng ta…

Đứng trước tất cả những điều này chúng ta phải nghiêm chỉnh xét mình. Rồi Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định như sau:

Trong một cộng đoàn kitô sự chia rẽ là một trong những tội nặng nhất, bởi vì nó không là dấu chỉ công trình của Thiên Chúa mà là của ma qủy, là kẻ bởi định nghĩa chia rẽ, làm hư hỏng các tương quan, khiến cho các thành kiến len lỏi vào tâm trí chúng ta… Trái lại, Thiên Chúa muốn rằng chúng ta lớn lên trong khả năng tiếp đón nhau, tha thứ cho nhau và yêu thương nhau, để ngày càng giống Người hơn, Đấng là sự hiệp thông và tình yêu thương. Chính đó là sự thánh thiện của Giáo Hội: trong việc nhận ra mình giống hình ảnh của Thiên Chúa, được tràn đầy bởi lòng thương xót và ơn thánh của Người.

Các bạn thên mến, chúng ta hãy làm vang lên trong tim các lời này của Chúa Giêsu: ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình, bởi vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Chúng ta hãy chân thành xin lỗi vì tất cả những lần, trong đó chúng ta đã là dịp gây chia rẽ hay hiểu lầm bên trong các cộng đoàn của chúng ta, dầu biết rằng không thể đạt sự hiệp thông nếu không phải là qua một sự hoán cải liên tục. Và chúng ta hãy xin cho các tương quan thường ngày của chúng ta có thể trở thành một phản chiếu ngày càng xinh đẹp và tươi vui hơn tương quan của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương. Ngài khích lệ các nhóm nói tiếng Pháp khi trở về giáo xứ của mình trở thành những người xây dựng hòa bình và hòa giải để thực sự là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Với các nhóm nói tiếng Anh ngài xin Chúa Giêsu củng cố đức tin của họ và làm cho họ trở thành các chứng nhân sự thánh thiện và hiệp nhất của Giáo Hội.

Với các nhóm nói tiếng Đức Ngài đặc biệt chào các học sinh đến từ Lennestadt và các bạn trẻ đang tham dự trại hè tại Ostia ở Roma; cũng như các tín hữu đến từ Tây Ban Nha, Venezuela, Chile, Argentina và Mehicô và một nhóm các Giám Mục Cuba về Roma hành hương nhân ngày mai có lễ nghi đặt bức tượng Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng trong vườn Vaticăng.

Chào các đoàn hanh hương Ba Lan Đức Thánh Cha nhắc tới lễ kính Đức Mẹ Jasna Gora cử hành hôm thứ ba. Ngài phó thác cho sự chở che hiền mẫu của Mẹ mọi gia đình và đất nước Ba Lan.

Chào các nhóm nói tiếng Ý Đức Thánh Cha nhắc tới các nữ tu dòng thánh Anna đang họp tổng tu nghị tại Roma; nhóm ”đua xe đạp cho hòa bình” vùng Toscana được Đức Cha Tardelli, Giám Mục Miniato tháp tùng. Ngài cầu chúc chuyến viếng mộ hai thánh Tông Đồ gia tăng ý thức của họ thuộc về Giáo Hội.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói hôm nay Giáo Hội cử hành lễ nhớ thánh Monica, thân mẫu thánh Agostino. Ngài xin tình yêu của thánh nữ đối với Chúa giúp các bạn trẻ biết lấy Chúa làm trọng tâm cuộc sống của mình. Xin thánh nữ cũng giúp các người đau yếu biết đương đầu với khổ đau trong đức tin, và khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới biết giáo dục con cái mà Chúa ban cho theo tinh thần kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho moi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

Cha Lombardi bác bỏ tin của báo New York Times

VATICAN. Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cha Federico Lombardi, bác bỏ tin của tờ New York Thời Báo cho rằng Tòa Thánh muốm ém nhẹm vụ Đức TGM Wesolowski bị cáo lạm dụng tính dục trẻ em.

Đức TGM Joseph Wesolowski người Ba Lan, năm nay 65 tuổi, làm Sứ thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Dominicana cho đến tháng 8 năm 2013, thì bị giáo quyền địa phương bá cáo với ĐTC về vụ vị này đi ”dụ dỗ” các trẻ em đánh giầy ở đường phố và lạm dụng tính dục các em.

ĐTC triệu vị này về Roma và bãi nhiệm. Ngày 27-6 năm nay, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Bộ giáo lý đức tin đã xét xử cấp I và ban hành phán quyết buộc vị GM phải hồi tục, không còn quyền lợi và nghĩa vụ như một giáo sĩ, ngoại trừ nghĩa vụ giữ độc thân. Bị can đã kháng án trong vòng 2 tháng theo luật, và việc xét xử cấp II có thể bắt đầu vào tháng 10 tới đây. Sau khi bản án theo giáo luật được coi là chung kết thì đương sự sẽ bị xét xử về hình luật.

Trong một bài đăng tải 23-8-2014, tờ New York Thời Báo cho rằng ”năm ngoái Tòa Thánh bí mật triệu hồi Wesolowski trước khi đương sự có thể bị điều tra, và viện cớ ông Wesolowski được miễn trừ vì là nhà ngoại giao để khỏi bị tòa án ở Cộng hòa Dominicana xét xử”.

Trong thông cáo công bố tối ngày 25-8-2014 tại Vatican, Cha Lombardi trả lời rằng ”ngay từ khi vụ này được đệ trình, Tòa Thánh đã hành động mau lẹ và đúng đắn, dưới ánh sáng qui chế đặc biệt mà Đức TGM Wesolowski hưởng như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh. Khi gọi đương sự về Roma, cũng như trong việc xử lý vụ này, Tòa Thánh vẫn tiếp xúc với Nhà chức trách Cộng hòa Dominicana. Không hề có ý ém nhẹm, việc làm này chứng tỏ phía Tòa Thánh lãnh nhận trách nhiệm một cách trọn vẹn và trực tiếp, cả trong một vụ trầm trọng và tế nhị như thế. Và ĐTC Phanxicô được thông báo tường tận, ngài muốn vụ này được xử lý một cách công minh và với sự nghiêm ngặt cần thiết”.

Sau cùng, Cha Lombardi nhận xét rằng vì Đức TGM Wesolowski đã ngưng các chức năng ngoại giao và không được hưởng sự miễn trừ đi kèm, đương sự có thể bị xét xử do các tòa án khác có danh nghĩa thực hiện việc này”.

Hồi tháng 5-2014, ĐTC Phanxicô nói với giới báo chí rằng có 3 GM đang bị điều tra về vị cáo lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Một người đã bị lên án và hình phạt cho đương sự đang được cứu xét. Dường như đó là Wesolowski.

ĐTC cũng nói với các ký giả rằng lạm dụng tính dục trẻ em là một ”tội ác xấu xa” và ngài tái khẳng định chính sách tuyệt đối không dung thứ những kẻ lạm dụng. (CNS 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

Đức Thánh Cha tái lên án bạo lực vô lý

VATICAN. Trong thư chia buồn với thân nhân ký giả James Wright Folley người Mỹ, bị lực lượng thánh chiến Hồi giáo ISIS chặt đầu, ĐTC Phanxicô tái lên án bạo lực vô nghĩa lý và kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại.

Thư chia buồn của ĐTC được ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin chuyển đến cho song thân của ký giả Folley qua trung gian của Đức TGM sở tại và được công bố trong thánh lễ cầu nguyện cho ký giả James Folley 40 tuổi, ở Rochester, New Hampshire hôm 24-8-2014, với sự tham dự của hàng trăm người.

ĐTC cho biết ngài hiệp với nỗi đau buồn của thân nhân, bạn hữu và đồng nghiệp của ký giả Folley, cầu nguyện và bày tỏ sự gần gũi tinh thần với nhau. Ngài ”phó thác anh James cho lòng từ bi yêu thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và hiệp với những người đang khóc thương anh cầu nguyện cho sự chấm dứt bạo lực vô nghĩa lý và khởi đầu sự hóa giải và hòa bình giữa mọi thành phần của gia đình nhân loại”.

Thánh lễ do Đức Cha Peter Libasci chủ sự. Ngài nhấn mạnh tới sức mạnh mà ký giả Folley cũng như gia đình anh luôn kín múc từ đức tin Công Giáo. Ngài cũng cầu nguyện cho một ký giả khác người Mỹ, Steven Sotloff, 31 tuổi, cũng bị giam như con tin với ký giả Folley, cũng như cho các con tin khác đang ở trong tay nhóm thánh chiến Hồi giáo ở Iraq.

Trước thánh lễ, song thân của anh James Folley, là ông bà John và Diane, đã cầu mong rằng cuộc sống và công việc của người con ông bà là một tấm gương cho tất cả những người bênh vực tự do báo chí và hòa bình trên thế giới. Ông bà cũng kêu gọi trả tự do cho các ký giả bị bắt cóc, đặc biệt là anh Steven Sotloff bị nhóm thánh chiến Hồi giáo đe dọa giết. (SD 25-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine

Cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine

Một số nhận định của nữ ca sĩ Noa người Israel

Một tháng chiến tranh trong vùng Gaza giữa quân đội Israel và lực lượng Kamas đã khiến cho hơn 2,100 người thiệt mạng, đa số là thường dân Palestine, hàng chục ngàn người bị thương, 20,000 người không còn nhà cửa và hơn 200,000 người phải tản cư lánh nạn. Cảnh hoang tàn đổ nát xảy ra khắp nơi đặc biệt là tại mạn bắc dải Gaza, nơi đã bị quân đội Israel liên tục bỏ bom, oanh kích và bắn trọng pháo nhằm phá hủy các đường hầm của lực lượng Hamas. Cuộc ngưng bắn 72 giờ đồng hồ xem ra đã được hai bên tôn trọng. Nhưng các cuộc hóa đàm do Ai Cập làm trung gian vẫn bế tắc, không có tiến triển cụ thể nào, và đã thất bại, vì không bên nào tin tưởng và nhượng bộ bên nào.

Trong các ngày qua nữ ca sĩ Noa, người Israel, đang trình diễn bên Italia đã đưa ra một số nhận định liên quan tới cuộc xung đột vũ trang nói trên.

Bà Noa tên thật là Akhinoam Nini, sinh tại Tel Aviv trong một gia đình do thái Yemen, bị bó buộc phải chạy trốn vì sự thù nghịch sau biến cố thành lập nước Israel. Noa cùng gia đình sang sống bên New York, nơi thân phụ là giáo sư đại học đã tìm được việc làm. Năm 17 tuổi Noa bị khủng hoảng căn tính trầm trọng, vì nàng thấy mình ”không phải là người da trắng cũng không phải là người da đen”. Cô về Israel, đi quân dịch 2 năm, và sống rất cô đơn giữa các thiếu nữ khác nói tiếng Do thái mà cô không hiểu. Noa gặp bắc sĩ nhi khoa Asher Barak, rồi lập gia đình với ông và có ba người con.

Năm 1991 Noa bất đầu bước vào nghề ca sĩ và mau chóng gặt hái nhiều thành công, vì giọng hát rất truyền cảm và nội dung các bài ca diễn tả các ước mơ, các khổ đau, chiến tranh, nạn khủng bố và các niềm hy vọng của các dân tộc vùng Trung Đông. Nhiều Album nhạc của bà theo nhau chào đời. Bà được mời đi trình diễn tại nhiều nơi trên thế giới, và được các cha dòng Phanxicô mời hát trong các ”đại nhạc hội hòa bình” tại Assisi, cùng với nữ ca sĩ người Palestine có quốc tịch Israel là Mira Awad. Năm 2001 bà đươc giải thưởng ”Nghệ sĩ của hòa bình”. Năm 2006 bà được ba giải thưởng. Tiếp đến có thêm ba giải thưởng khác vào năm 2007, 2009 và 2012. Năm nay bà Noa vừa cho ra CD mới tựa đề ”Tình yêu là thuốc chữa”. Bà là ca sĩ Do thái không chỉ nổi tiếng hát hay và là nghệ sĩ dấn thân thăng tiến hòa bình xã hội, đặc biệt là sự chung sống giữa mọi dân tộc và mọi tôn giáo, nhưng bà còn nổi tiếng là một nghệ sĩ ”cứng rắn”, dám can đảm thẳng thắn nói lên những cảm nghĩ của mình liên quan tới các vấn đề chính trị, luân lý, xã hội, mà không xu thời và không sợ dư luận.

Theo bà Noa ”cả hai dân tộc Israel và Palestine đều đã bị các người lãnh đạo phản bội. Và cả hai dân tộc đang phải trả giá mắc mỏ cho sự ngạo mạn, ngu đần và tham lam của họ. Tại khắp nơi người Israel và người Palestine đã đánh mất đi mục tiêu đích thật, sự tiếp cận với lý do bầu họ lên hàng lãnh đạo”.

Hỏi: Thưa bà Noa, tựa đề CD mới ”Tình yêu là thuốc chữa” có phải là một sáo ngữ hay không, hay là một sự thật?

Đáp: Vâng, xem ra nó là môt sáo ngữ, nhưng trên thực tế nó lại là sự thật. Tôi nghĩ tới tất cả những người đã sống tình yêu thương và biết tới mãnh lực lớn lao của nó. Nhưng họ cũng biết cuộc sống khó khăn chừng nào, nếu người ta đánh mất tình yêu thương. Như thế tình yêu thương đi theo cả hai chiều: nó có thể là suối nguồn của khổ đau to lớn, nhưng cũng là suối nguồn của sức mạnh, sự ủi an và chữa lành vĩ đại. Chồng tôi là một bác sĩ nhi khoa mà tôi đã lập gia đình với anh ấy từ 22 năm nay, vì thế tôi hiểu biết thế giới y khoa từ gần. Chúng tôi nói rằng chúng tôi làm việc trong cùng lãnh vực: một người chữa lành thân xác, một người chữa lành linh hồn, và tôi thực sự tin rằng âm nhạc có năng lực chữa lành tâm hồn, nếu nhà nghệ sĩ có ý đó.

Hỏi: Bà đã kể cho chúng tôi nghe dấn thân không mỏi mệt và can đảm tranh đấu cho hòa bình, đặc biệt là tại Israel, dấn thân mà trong các tuần qua cũng đã khiến cho bà gặp không ít khó khăn. Bà cảm thấy thế nào, khi kiểu diễn tả nghệ thuật cũng phải trả giá cho một cuộc chiến không kiểm soát được nữa?

Đáp: Tôi tìm hy vọng hai điều. Trước hết tôi là một người, một công dân của thế giới. Tôi có các trách nhiệm chiến đấu cho những gì tôi tin tưởng, nói chúng lên một cách rõ ràng, bởi vì tôi có một tiếng nói và tôi sống trong một nước dân chủ. Tôi có một tiếng nói mà tôi có thể gióng lên, và tôi luôn luôn làm đối với những gì tôi tin tưởng. Thế rồi, tôi cũng cho rằng các nghệ sĩ, nói chung, phải là các người lãnh đạo xã hội. Có một sự khác biệt giữa nghệ sĩ và người giúp vui. Những người giúp vui có nhiệm vụ làm cho người ta lo ra, nghĩa là làm dịu sự việc, còn nghệ sĩ là một người khác. Nghệ sĩ phải là người đi sâu vào trong linh hồn và tâm trí con người, và phải phục vụ Thiên Chúa qua âm nhạc, chứ không phải phục vụ ông chúa tiền bạc hay danh vọng. Nghệ sĩ phải là một người lãnh đạo, nhất là khi liên quan tới các quyền con người, và phải đào tạo một dư luận rõ ràng và cởi mở. Tôi tin rằng nghệ thuật có sức mạnh nối kết con người với nhau trên một bình diện cao hơn, đôi khi tôi nghĩ tới đường bay của một con chim. Khi một con chim bay cao, thì không trông thấy các ranh giới giữa các nước và không trông thấy sự khác biệt của mầu da, hay sự khác biệt của các tôn giáo, nhưng chỉ trông thấy tấm thảm vô cùng xinh đẹp của các điều này chung với nhau, và tạo thành một sự hài hòa điều mà chúng ta gọi là trái đất của chúng ta.

Và xét rằng chúng ta tất cả đều là thành phần của trái đất này, chúng ta phải thử làm trên một bình diện cao hơn như con chim, thử tạo ra sự hài hòa ấy. Các nghệ sĩ có khả thể thực hiện viễn tượng này, và trách nhiệm của họ là kéo con người lên cao, nâng nó dậy, chứ không hạ nó xuống thấp. Đôi khi có một giá phải trả cho điều này, và tôi không chỉ nghĩ tới các phạm trù thành công thương mại thôi. Nếu họ nói tôi phải câm miệng để được thành công, thì tôi sẽ khước từ thành công, chứ tôi sẽ không thể nào thinh lặng được.

Hỏi: Bà không sợ trở thành người không được dân chúng ưa thích ngưỡng mộ hay sao?

Đáp: Tôi đã nhận được rất nhiều câu trả lời tiêu cực từ một vài người, bên Israel và ngoài nước Israel, nhưng tôi cũng đã nhận được rất nhiều tình yêu thương và nâng đỡ đến độ không tin nổi. Và tôi biết rằng đối với vài người thì tôi là ma qủy, và đối với những người khác thì tôi là một nữ anh hùng. Tôi nghĩ rằng thật là quan trọng điều những người khác nghĩ về tôi và về công danh của tôi, nhưng điều thật sự quan trọng là tính nhân bản của chúng ta. Tôi cho rằng mọi người phải góp phần vào một loại làn sóng đẩy đưa xã hội của chúng ta tới một bến bờ tốt đẹp hơn. Tôi tin rằng một trong những điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra cho con người đó là trở thành vô cảm, như bị đánh thuốc mê… khi họ nói: ”có qúa nhiều quyền lực lớn hơn tôi, không thể làm gì được…” Tôi không nhớ triết gia nào đó đã nói rằng: ”… để xảy ra một tai ương lớn, không cần các người gian ác làm một cái gì đó, mà chỉ cần các người tốt không làm gì cả”.

Hỏi: Xin bà minh xác thêm vai trò của nhà nghệ sĩ.

Đáp: Đó là tạo dựng một tác phẩm nghệ thuật rất đẹp, và lôi kéo con người tới nghệ thuật. Ngoài ra, tôi còn luôn nói rằng có vài người trong số các nghệ sĩ lớn nhất trong lịch sử chết nghèo, trong các điều kiện đáng thương. Đã không có ai nhận ra họ, nếu không phải là nhiều năm sau khi họ qua đời. Tôi không tin rằng nhà nghệ sĩ phải thức dậy ban sáng với các lời nịnh hót và các thừa nhận. Điều duy nhất mà họ phải làm, trái lại, là đòi hỏi nơi chính mình một mức độ diễn tả cao hơn.

Hỏi: Bà nghĩ sao về cuộc xung đột gia tăng giữa người Israel và người Palestine?

Đáp: Chúng tôi đang phải trả giá cho sự ngạo mạn, ngu đần và sự tham lam của các người lãnh đạo chúng tôi, ở khắp mọi nơi. Tôi nghĩ rằng ở khắp mọi nơi người Israel cũng như người Palestin và các người khác đã đánh mất đi mục tiêu đích thật, hay sự tiếp cận với lý do của việc lựa chọn họ. Tôi nghĩ rằng trách nhiệm của các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, và có lẽ của các vị lãnh đạo tôn giáo nhiều hơn, đó là tạo ra các hoàn cảnh, trong đó sự sống, chứ không phải cái chết, được coi là thánh thiêng, bất khả xâm phạm. Và đây không phải là sự thành công. Như vậy riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy bị phản bội bởi các người lãnh đạo của tôi, và tôi hoàn toàn xác tín rắng các người Palestine cũng cảm thấy bị phản bội như vậy. Tôi tin rằng trong giai đoạn lịch sử này phải có một loại nổi loạn của xã hội dân sự. Thật thế, nếu nó tùy thuộc nơi tôi, thì sẽ có hàng triệu người xuống đường biểu tình, như đã xảy ra với ông Gandhi, và nói rằng: ”Đủ rồi. Chúng tôi đã qúa chán ngấy với cảnh cãi lộn giữa các đảng phái, với các lời cáo buộc nhau liên tục. Đủ rồi với thái độ tự phụ”. Một trong những vấn đề chính trong vùng của chúng tôi là người ta nói tới sự thật tuyệt đối, công lý tuyệt đối… Tôi thì tôi không tin vào các sự thật tuyệt đối… Chúng ta phải ngặn chặn loại hùng biện này lại.

Hỏi: Trên liên mạng người ta có thể tìm thấy đầy các bài viết, các video chứng minh tất cả và chống lại tất cả. Bà có thể chọn một quan điểm và minh chứng cho nó. Và như thế thì đâu là ý nghĩa của sự thật?

Đáp: Trái lại, chúng tôi phải nghĩ một cách đơn sơ rằng chúng tôi liên lụy tới các người khác. Chúng tôi phải thôi nhìn về đàng sau, nó không giúp gì cả. Trong lúc này đây phải hiểu rằng chỉ có đối thoại với các người chúng tôi không ưa sẽ giúp chúng tôi giải quyết các vấn đề của chúng tôi, người Isrel cũng như người Palestine phải ý thức được điều này. Chúng tôi phải làm điều này bắng cách mỗi bên thừa nhận các quyền lợi của người khác. Còn hơn thế nữa chúng tôi phải nghĩ tới các bổn phận của chúng tôi. Người ta cứ luôn kêu lên: quyền của chúng tôi, quyền của chúng tôi! Chúng quan trọng, chắc chắn rồi. Nhưng đâu là các bổn phận của bạn? Như là người các bổn phận của bạn là phải lo lắng cho tha nhân, không chỉ luôn luôn nghĩ tới chính mình. Bạn hãy lo lắng cho người khác, và người khác sẽ lo lắng cho bạn. Cả hai dân tộc Israel và Palestine đều ước muốn vun trồng sự lớn lên về trí thức. Tôi tin rằng yếu tố này là một trong các điều đẹp nhất, mà chúng tôi chia sẻ với nhau, và tôi tuyệt đối xác tín rằng chúng tôi có thể chung sống bên cạnh nhau.

Cách đây 20 năm kinh nghiệm trình diễn trước Đức Gioan Phaolô II đã thay đổi đời tôi, và nó đã gợi hứng cho tôi mờ lăng kính ra cho thế giới, như xảy ra với một bức hình. Nó đã cho phép tôi đi từ chiều kích chiếc vi âm bé nhỏ các bài ca của tôi tới chiều kích to lớn cho phép vòng tay của bạn ôm được nhiều người hơn, nhiều ngôn ngữ, nhiều nền văn hóa hơn trong một thế giới sâu thẳm. Tôi đầy tràn lòng biết ơn đối với Đức Gioan Phaolô II vì đã mời tôi. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên một phụ nữ do thái hát trước mặt ngài. Gương mặt của ngài vẫn in sâu trong tôi. Tôi đã rất hài lòng và nghĩ ngay rằng ngài là típ người lãnh đạo mà chúng ta cầu mong có được trên thế giới này. Chính vì vậy mà trong cuốn ”Album Tình yêu là thuốc chữa” có bốn bài ca dành cho cuộc đời của Đức Karol Wojitila, là người đã cứu sống vài người do thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, trong đó có bài ”Ngội sao nhỏ”, là cố gắng đầu tiên của tôi viết về cuộc diệt chủng Do thái.

Hỏi: Thế bà coi Đức Thánh Cha Phanxicô như thế nào?

Đáp: Tôi trân qúy nhất là sự khiêm tốn và đơn sơ của ngài. Các con người của Thiên Chúa có thể tìm ra một thứ ngôn ngữ chung, nếu họ muốn. Đây là một thách đố lớn và tôi hy vọng là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ hướng dẫn Giáo Hội công giáo trong chiều hướng này. Thiên Chúa phải là dụng cụ của tình yêu thương, tình bạn, tình liên đới và sự ủi an, chứ không phải của thù hận và chiến tranh. Các giới lãnh đạo tôn giáo càng tin vào điều này bao nhiêu, thì họ càng nói lên điều đó một cách công khai bấy nhiêu, và chúng ta lại càng có nhiều hy vọng hơn cho hòa bình bấy nhiêu. Đây là một trách nhiệm rất lớn lao!

Thế rồi còn có việc hòa giải gia đình với công ăn việc làm, các giá trị gia đình rất mạnh mẽ giúp cộng đoàn nhỏ này hiệp nhất và tình yêu luôn luôn trợ giúp. Tuy nhiên, tôi cũng có vài khuyết điểm là không kiên nhẫn và bốc đồng.

Hỏi: Thưa bà Noa, có điều gì làm bà tức giận không?

Đáp: Đó là khi người ta đánh gía các sự vật hoặc là đen hoặc là trắng. Nó không chỉ khiến tôi tức giận, mà còn làm cho tôi buồn nữa. Khi tôi coi các sự vật một cách mù quáng, một cách triệt để như vây, thì tôi trở thành hoàn toàn mù trước tha nhân. Và như thế là tôi bắt đầu vô nhân hóa người khác. Từ đó bước đi dẫn tới bạo lực kinh hoàng sẽ rất là ngắn. Cần phải coi chừng, hết sức coi chừng!

(6-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giáo Hội là một dân tộc được xây dựng trên đức tin

Giáo Hội là một dân tộc được xây dựng trên đức tin

Giáo Hội mà Chúa Giêsu có ý khai sinh là một dân tộc không dựa trên huyết thống nữa mà dựa trên đức tin, nghĩa là dựa trên tương quan với chính Người, một tương quan của tình yêu thương và sự tin tưởng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24-8-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu chương 16 kể lại biến cố Chúa Giêsu hỏi các môn đệ cho biết người ta nói Người là ai, và đối với các ông Chúa là ai. Đại diện cho Nhóm Mười Hai ông Phêrô nói: ”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa Giêsu gọi ông là ”có phước” vì lòng tin mà Thiên Chúa Cha đã ban cho ông, và Ngài nói với ông: ”Con là Phêrô nghĩa là Đá Tảng, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

Chúng ta hãy dừng lại một chút trên điểm này, trên sư kiện Chúa Giêsu gán cho Simon tên gọi mới này: Phêrô trong tiếng nói của Chúa Giêsu là ”Kêpha”, có nghĩa là ”đá tảng”. Trong Thánh Kinh từ ”đá tảng” được quy chiếu về Thiên Chúa. Chúa Giêsu gán cho Simon tên gọi này không phải vì các đức tính hay công nghiệp loài người của ông, mà vì lòng tin tinh tuyền và vững chắc của ông, lòng tin đến từ trên cao.

Chúa Giêsu cảm nhận trong tim Người một niềm vui lớn lao, bởi vì Người nhận ra nơi ông Simon bàn tay của Thiên Chúa Cha và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Người nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đã ban cho ông Simon một đức tin ”có thể tin cậy được”, trên đó Chúa Giêsu có thể xây dựng Giáo Hội Người, nghĩa là cộng đoàn của Người. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chúa Giêsu có trong tâm trí ý muốn khai sinh ra Giáo Hội ”của Người”, một dân tộc không xậy dựng trên huyết thống, nhưng trên đức tin, nghĩa là trên tương quan với chính Người, một tương quan của tình yêu thương và sự tin tưởng. Như thế để bắt đầu Giáo Hội của Người Chúa Giêsu đã cần tìm ra nơi các môn đệ một đức tin ”có thể tin cậy đươc”. Và đó là điều Người phải kiểm thực tại thời điểm này của lộ trình.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Chúa đã có trong trí hình ảnh của vịệc xây dựng, hình ảnh của một cộng đoàn như một ngôi nhà. Chính vì thế khi nghe lời tuyên xưng đức tin thẳng thắn của ông Simon, Người gọi ông là ”đá tảng”, và bầy tỏ ý định xây dựng Giáo Hội của Người trên đức tin ấy.

Anh chị em thân mến, điều đã xảy ra một cách duy nhất nơi thánh Phêrô, cũng xảy ra nơi mọi tín hữu kitô có niềm tin chín chắn và chân thành nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Phúc Âm hôm nay cũng gọi hỏi từng người trong chúng ta. Đức Thánh Cha nói thêm:

Nếu Chúa tìm thấy trong con tim chúng ta một đức tin, tôi không nói là toàn vẹn, nhưng chân thành, tinh tuyền, thì khi đó Người cũng thấy nơi chúng ta các viện đá sống động để xây dựng cộng đoàn của Người. Đá tảng của cộng đoàn này là Chúa Kitô, viên đá góc duy nhất. Về phần mình, thánh Phêrô là đá tảng, vì là nền tảng hữu hình sự hiệp nhất của Giáo Hội. Nhưng mỗi một tín hữu đã được rửa tội đều được mời gọi cống hiến cho Chúa Giêsu niềm tin nghèo nàn, nhưng chân thành của họ, để Người có thể tiếp tục xây dựng Giáo Hội của Người ngày hôm nay trên mọi phần đất của thế giới này.

Cả ngày nay nữa ”người ta” nghĩ rằng Chúa Giêsu là một ngôn sứ lớn, một bậc thầy của sự khôn ngoan, một mẫu gương của sự công chính… Và cả ngày nay Chúa Giêsu cũng hỏi các môn đệ Người: “Còn các con, các con nói Thầy là ai?” Chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Hãy nghĩ tới điều đó. Nhưng nhất là hãy cầu xin Thiên Chúa Cha, để qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta ơn trả lời với con tim chân thành:
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người cầu nguyện cho hòa bình tại Ucraina. Ngài nói: Tôi đặc biệt nghĩ tới vùng đất Ucraina yêu dấu, mà ngày hôm nay là lễ quốc khánh, tới tất cả các con cái và những người khao khát hòa bình và an ninh, bị đe dọa bới một tình trạng căng thắng và xung khắc không lắng dịu, gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho thường dân. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria toàn quốc gia này, và hiệp ý cầu nguyện cho mọi nạn nhân, gia đình họ và cho những người đang đau khổ.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hiện diện đến từ Tây Ban Nha, Chile, Pháp. Ngài cũng chào đặc biệt các tân đại chủng sinh trường Bắc Mỹ về Roma để học thần học, trong đó có một thày gốc Việt Nam. Ngài cũng chào 600 bạn trẻ giáo phận Bergamo cùng Đức Giám Mục sở tại hành hương đi bộ từ Roma tới Assisi. Đức Thánh Cha cầu chúc các bạn trẻ trở về nhà sống làm chứng cho vẻ đẹp của đức tin kitô.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

 CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

Peter and heaven's key

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao “Chìa Khóa Nước Trời", tức là quyền lãnh đạo Dân Chúa. Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, như Thiên Chúa ban cho Êliakim quyền điều hành nhà Ðavít (Is 22,20-22), hay quyền hành của Chúa Giêsu trên sự chết (Kh 1,17-18).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh (GLHTCG, số 553). Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết nghiêm trọng (NJBC,659).

Ngoài ra, theo một số nhà chú giải Thánh Kinh như Kevin O’Sullivan, OFM và Paul J Achtemeier, “Chìa khóa Nước Trời” ám chỉ đến hình ảnh một người đầy tớ với chìa khóa trong tay để mở cửa các phòng trong nhà. Người có chìa khóa trong tay không chỉ có quyền xác định ai được vào và ai không được vào, mà còn có trách nhiệm toàn quyền trông coi để ý mọi sự trong nhà của chủ mình (Harper’s Dict 524-525).

Nếu trách nhiệm được trao không chu toàn, nếu quyền hành được ban bị lạm dụng, và bị mất tin tưởng, thì chắc chắn chìa khóa sẽ bị lấy lại. Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 đã minh chứng điều đó. Sobna, quan cai đền thờ đã bị cách chức và trục xuất khỏi địa vị cũng chỉ vì đã lạm dụng quyền hành. Ông đã lạm dụng quyền hành bắt ép vua Hezekiah (716-687) nổi dậy chống lại Assyria và chạy đến Ai cập cầu cứu. Tiên tri Isaia đã hoàn toàn phản đối việc này. Ngài kêu gọi Giuđa phải nên tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, chứ không phải nơi sự trợ giúp của dân ngoại. Nhưng Giuđa đã không tin tưởng nơi Thiên Chúa, và cuối cùng vào những thế kỷ sau đó, Giuđa và Giêrusalem đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Và như chúng ta được biết, chìa khóa của Sobna đã bị lấy lại và trao cho Êliaqim, con trai Helcia (Kevin O’Sullivan, OFM, The Sunday Readings (A) 309-314).

Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khóa mở cửa Nhà thờ. Đức Giám mục trao chìa khóa cho Linh mục Quản xứ để ngài mở cửa Nhà thờ. Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn giáo phận là thuộc Đức Giám mục giáo phận, còn Linh mục Quản xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám mục, thay mặt Đức Giám mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.

Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Giáo hội, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa.

Đức tin dạy rằng, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính. Còn chúng ta cũng là con Thiên Chúa theo ân sủng. Quyền làm con Thiên Chúa và trách nhiệm đi kèm là một ơn rất trọng đại và cũng chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích. “Với Chúa, mọi sự đều có thể”; “ơn được làm con Thiên Chúa”, đó là chìa khóa Nước Trời mà Thiên Chúa trao cho mỗi người tín hữu.

Chìa khóa mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.

Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Chúa đã đặt Ngài là: “Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta?’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách Ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa khóa Nước Trời”.

Có câu chuyện “Chìa khóa và ổ khóa Thiên Đàng” thật ý nghĩa
 
Một hôm nọ,
khóa cửa Thiên Đàng bị hư, thánh Phêrô đích thân mang cả chìa lẫn khóa xuống trần gian để tìm người sửa chữa. Ngài tới nhà anh thợ khoá đầu tiên.

– Chào anh, tôi có cái ổ khóa bị hư, anh làm ơn sửa giùm.

– Cụ làm nghề gì mà cửa nhà cụ lại có cái ổ khóa to và quý thế này?

– Tôi làm nghề đánh cá, sau đổi sang nghề chăn chiên anh ạ.
 
– Ừ! Nhìn quần áo và chân tay của cụ, tôi tin. Nhưng cụ nói thật đi, cụ “chôm” cái vật qúy bằng vàng ròng này ở đâu vậy?

Thánh Phêrô tần ngần trả lời:

– Của tôi đó, vì đây là khoá cửa của Thiên Đàng, còn tôi là Phêrô.

Anh thợ vồn vã:

– À! Thế thì lại khác, chỉ 1 giờ là tôi sửa xong cho cụ thôi, cụ cho xin 100.000 đồng.

Thánh Phêrô giật mình:

– Đắt thế à? Tôi chỉ có 1.000 thôi.

– Không được đâu cụ ơi. Tôi nghe ngày xưa cụ đứng đầu Hội Thánh, hẳn là cụ giàu có lắm?

– Anh hiểu lầm rồi! Trong Hội Thánh chúng tôi, ai càng đứng đầu thì lại càng là người tôi tớ phục vụ, sống khiêm hạ khó nghèo như Đức Giêsu làng Nadarét. Thôi anh cố sửa nó đi, có thể vì công khó của anh mà tôi sẽ xin Chúa cho anh vào Thiên Đàng.

Anh thợ mỉm cười lắc đầu.

– Tôi cần cái thực tế. Tiền thôi cụ ạ, còn Thiên Đàng thì xa lạ quá. Vả lại ở Thiên Đàng mà nghèo như cụ thì tôi chẳng ham. Thôi cụ đi xoay xở đâu đó thêm đi, rồi quay lại đây.

Thánh Phêrô bước đi, buồn bã nghĩ thầm : Anh thợ này sửa được nhiều thứ khóa, chỉ trừ khóa của Thiên Đàng. Đồng tiền quý đến thế kia ư?

Ngài lại tìm đến nhà một anh thợ khác, nổi tiếng khéo tay và giàu có nhất vùng, hy vọng gặp được người yêu mến Thiên Đàng hơn chuyện tiền bạc.

Anh thợ đon đả chạy ra đón mừng.

– Tôi nhận ra ngài rồi. Tay cầm chìa khóa vàng, khuôn mặt và thân hình lại giống hệt bức tượng trong nhà thờ xứ tôi. Vào đây, gia đình tôi hân hạnh tiếp đón Thánh Cả.

Thánh Phêrô vui mừng, nhưng cũng ngần ngại dò hỏi:

– Tôi có cái khóa cửa Thiên Đàng bị hỏng, tôi chỉ có 1.000 đồng, nhờ anh sửa giúp.
 
– Xin cất đi, tôi còn phải biếu ngài thêm lộ phí nữa kìa. Còn cái
khóa thì không thành vấn đề, chỉ độ nửa tiếng là xong thôi. Có điều là, xin ngài hứa cho tôi một việc.

– Tốt lắm, anh cứ nói.

– Xin ngài đưa tôi vào Thiên Đàng và cho tôi làm trùm phường khóa ở trên đấy. Ngồi trên Các Thánh hay Các Thiên Thần thì tôi không dám, nhưng làm sếp đám thợ khóa thì tôi dư sức. Ngài sẽ thấy tay nghề của tôi khi sửa khóa cho ngài, xem tôi có đáng ngồi chỗ tốt hay không.

Bỗng có tiếng ầm ầm từ đầu ngõ, hàng trăm dân làng ùa chạy tới nhà anh thợ khóa  khi nghe nói thánh Phêrô đang ở nhà anh. Tiếng hò hét vang lừng từ ở cổng ra vào.

– Lạy thánh Phêrô, ngài cho vợ chồng con vào Thiên Đàng với.

– Đứa nào xô tao vậy, đây là cổng nhà anh thợ khóa chứ đã phải là cửa Thiên Đàng đâu mà chen dữ thế? Phải có hàng lối chứ.

– Gặp thánh Phêrô chứ có phải đi mua vé xi-nê hoặc đi mua thịt, mua cá đâu mà phải xếp hàng cha nội.

– Chúng mày biết gì? Ông Trùm nói có lý đấy. Thế chúng mày không nghe cha giảng là ở trên Trời có ”Đám rước mặc quần áo trắng tinh tay cầm cành thiên tuế” à? Phải trật tự chứ!

– Chúa ơi ! Chết con rồi.
 


 

Thánh Phêrô lắc đầu ngán ngẩm. Cần phải “gửi” đi đâu nữa, họ đang ở hỏa ngục rồi còn gì! Họ cãi nhau chí chóe, chửi thề, dẫm đạp lên nhau để “tranh” Thiên Đàng. Có kẻ đã dúi được vào túi thánh Phêrô phong bì, hoa, nến. Rồi hí hửng vì đã “hối lộ” được người giữ cửa đầy quyền uy.

Bỗng có một cơn gió mù mịt cuốn lấy thánh Phêrô. Thiên Thần đã đưa ngài đi trong gió. Để lại đám dân làng khóc la tiếc nuối, và anh thợ khoá tiu nghỉu vì tan giấc mộng vàng.

Thiên Thần đưa Phêrô tới bên một bờ suối rồi chào tạm biệt ra đi. Thánh nhân nhẹ gật đầu từ tạ. Ngài vẫn còn bực bội vì chuyện xảy ra vừa rồi. Tại sao con người lại coi nhẹ Thiên Đàng để kiếm tìm tiền tài danh vọng nhỉ ? Ngay cả đám dân muốn “xấn xổ” vào Thiên Đàng, họ có nghĩ gì tới Chúa và anh em mình đâu, lợi lộc riêng tư đã che mắt họ. Người ta có thể nhân danh một Thiên Đàng tốt đẹp để giành giật, đấu đá nhau đến vậy hay sao? Ôi! Nếu có Gioan và Giacôbê ở đây, "những người con của sấm sét” chắc cũng sẽ như xưa, muốn xin lửa Trời xuống đốt tiệt cái đám dân nông cạn này.

– Hãy uống bát nước này cho mát đi, cụ đang có lửa trong lòng đó.

Thánh Phêrô giật mình quay lại. Một cậu bé thật xinh trai, tay cầm ly nước, đã đứng sau lưng mình từ lúc nào. Ngài cầm lấy ly nước, uống một hơi thật sảng khoái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt bụng.

Cậu bé lém lỉnh nhìn cái ổ khóa trên tay thánh Phêrô.

– Ổ khóa này đẹp quá, cụ cho tôi xem tí nào.

– Khóa cửa Thiên Đàng đó mà. Cậu có muốn lên đấy không, tôi dẫn cậu đi?

– Chả cần cụ dẫn đâu, tôi thừa biết nó ở đâu rồi.

– Thật không?

– Thật chứ! Thiên Đàng thuộc về những người bé nhỏ như tôi mà, cụ quên rồi à?
 
Ngạc nhiên trước câu trả lời ngộ nghĩnh, thánh Phêrô cảm thấy mến cậu bé thông minh này. Ngài đưa cả ổ
khóa lẫn chìa cho cậu bé.

– Cẩn thận kẻo rơi nhé.

Cậu bé cầm cả hai ngắm nghía, rồi cậu tinh nghịch trả lại chìa khóa cho Phêrô.
 
– Cụ giữ lấy chìa
khóa này như một kỷ niệm hay một biểu tượng cho bổn phận và quyền uy. Còn cái này thì… Chưa dứt lời, cậu đã ném ổ khóa đánh “tõm” xuống giữa lòng suối sâu.

Thánh Phêrô giật mình lớn tiếng:

– Ôi Chúa ơi! Cậu làm gì vậy?

Cậu bé mỉm cười trả lời:

– Thật ra cửa Thiên Đàng đâu cần ổ khoá. Điều quan trọng không phải là nó đóng hay mở, mà là sự “đóng hay mở” của lòng người. Phải giải quyết chuyện này ở dưới đất chứ không phải trên trời cụ ạ. "Điều gì con cầm buộc dưới đất, trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì con tháo mở dưới đất, trên Trời cũng tháo mở ". Có người đã nói với cụ câu đó, cụ không nhớ sao?

Thánh Phêrô ngẩn ngơ hỏi lại:

– Nhưng làm sao để họ mở hay đóng để tôi cầm buộc hay tháo gỡ? Vì họ cứ khép kín trước vẻ đẹp của Thiên Đàng, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra với tiền tài, danh vọng. Làm sao để họ làm ngược lại đây, cậu bé?

– Cụ đừng chỉ trỏ lên trời và nói những chuyện cao xa của Thiên Đàng với họ nữa. Ngược lại, phải dẫn họ tới một nơi để họ học biết khó nghèo, khiêm hạ, hy sinh. Cụ có muốn tôi đưa cụ tới đó, để rồi sau cụ có thể dẫn họ đi không?

Thánh Phêrô sốt sắng:

– Được rồi, tôi theo cậu. Nhưng đi đâu mới được chứ?

Cậu bé mỉm cười, nheo mắt nhìn Phêrô:

– Đi Bê-lem, rồi lên Núi Sọ.

Nói xong, cậu quay lưng, lững thững bước đi về phía có ánh nắng chói chang, phía của Mặt Trời.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha giúp 1 triệu mỹ kim cho người tị nạn Iraq

Đức Thánh Cha giúp 1 triệu mỹ kim cho người tị nạn Iraq

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã giúp 1 triệu Mỹ kim để góp phần cứu trợ các tín hữu Kitô và những người tị nạn khác ở Iraq.

Số tiền này được chính ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đặc sứ của ĐTC, mang tới cho dân tị nạn trong cuộc viếng thăm của ngài tại thành phố Erbil ở miền bắc Irak từ ngày 12 đến 20-8 vừa qua.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ, ĐHY Filoni cho biết 75% ngân khoản được trao cho các tín hữu Công Giáo và 25% dành cho cộng đoàn người Yézidi theo một tôn giáo hỗn hợp gồm Hồi giáo và các yếu tố tôn giáo truyền thống địa phương. ĐHY cũng nói: ”ĐTC sai tôi đi thực hiện một sứ vụ nhân đạo chứ không phải sứ vụ ngoại giao. Đó cũng là điều tôi nhấn mạnh với các vị lãnh đạo chính quyền”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho 3 tờ báo ở Italia (Corriere della sera, Avvenire và La Repubblica), ĐHY đề nghị LHQ tổ chức một đội quân mũ xanh để bảo vệ các tín hữu Kitô bị quân Hồi giáo ISIS trục xuất khỏi gia cư vì không chịu trở lại Hồi giáo. ĐHY cũng nói đến các nhóm khủng bố Hồi giáo: ”Các nhóm này hoạt động mạnh, với võ khí đầy đủ và tối tân, và nhiều tiền bạc. Người ta đặt câu hỏi: làm sao việc chuyển những số tiền và các võ khí như thế có thể chuyển giao mà những người có nhiệm vụ kiểm soát lại không làm gì?” (Ansa 23-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phêrô tuyên tín

Phêrô tuyên tín

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: “Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?”.

Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina cách đây hơn 2,000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng thời với Ngài, họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một E?lia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.

Câu hỏi thứ nhất: “Người ta nghĩ Thầy là ai?”, chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông, ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: “Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân”. Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: “Không ai đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến” (Jn 6,43.45). Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: “Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”.

Mỗi người chúng ta đều cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: “Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn”. Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo”. Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.

Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người “khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con”. Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.

Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Veritas Radio

“Con Thiên Chúa hằng sống”

“Con Thiên Chúa hằng sống”

Trong những giờ chầu Thánh Thể, ta vẫn hát: “Này con là Đá…”, để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Lời hát như vang vọng tiếp nối một truyền thống thật xa lên đến giờ phút ở Xêđarê Philipphê khi Chúa Giêsu lập Giáo Hội với một nhóm nhỏ còn lang thang dong ruổi hành trình rao giảng Nước Trời, chưa hình thành một cơ cấu chặt chẽ và ổn định.

Không biết mỗi lần hát chúng ta có đủ lắng sâu để chiêm ngấm biến cố lạ lùng khi Chúa Giêsu quyết định đặt một con người mỏng manh đến thế để làm đầu Giáo Hội và làm đá tảng để Ngài xây dựng Giáo Hội của Ngài trên đó. Ngay chính khi vào giờ đó Phêrô cũng chưa mường tượng ra được Giáo Hội mà ông được trao phó cho trách nhiệm thánh thiêng và cao quý ngần ấy sẽ như thế nào và sẽ thành hình ra sao?

1. Một quyết định dựa trên mạc khải

Ở một địa điểm xa với những sinh hoạt chính trị và tôn giáo, Đức Giêsu đã muốn cho các môn đệ của mình có dịp đào sâu mối tương quan thân tình và sâu đậm với Ngài để rồi đến một lúc nào đó khi ân sủng đã đầy tràn, đã tác động nơi những con người mỏng dòn và nhỏ bé này thì Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi trở nên căn bản cho mọi thời: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu là ai đối với các môn đệ quả thật là hệ trọng vì nó xác định mối tương quan thật sự giữa họ và Thầy mình. Điều nầy đã trở nên cốt thiết đến nỗi nó sẽ chi phối toàn thể cung cách sống và hoạt động của họ.

Nếu người ta không gặp và biết Đức Giêsu là ai. Thực sự là ai thì mọi nỗ lực xây dựng đều không có nền móng vững chắc. Chỉ cần một khủng hoảng, một biến động nào đó của hoàn cảnh đủ làm sụp đổ toàn bộ những kiến tạo vừa mới được thiết lập. Người ta có thể theo Chúa Giêsu một khoảng thời gian nào dó để rồi sẽ hối tiếc vì mình đã lầm tưởng và không thể đáp trả trước một đòi hỏi cho là quá lớn của một Đấng, mà mình chưa coi là số một của đời mình. Chúng ta thường thấy Chúa Giêsu nói câu này: “Lòng tin của con đã cứu chữa con” Ngài luôn muốn nối một cây cầu gặp gỡ với những ai lãnh nhận ơn lành của Ngài. Như vậy Ngài không chỉ bằng lòng với việc họ đã nhận được điều nầy điều nọ mà Ngài phải là ai đối với họ.

“Đức Giêsu thực sự là ai? “

Câu trả lời chính xác vẫn không nằm trong tầm tay của ta mà chỉ có ân sủng mới cho ta lời giải đáp trọn vẹn. Lời tuyên tín của Phêrô không phải là thành quả của việc tổng kết các lời nói việc làm của Đức Giêsu dẫn Phêrô đến chỗ khám phá ra chân tính của Đức Giêsu mà là một tác động thần linh đã soi tỏ cho Phêrô biết.

“Anh thật có phúc vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy mà là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17)

Bởi vì những gì thuộc về máu thịt, trí tuệ cùng lắm chỉ là một tiên tri hay tệ hơn chỉ là một vĩ nhân dù đó là vĩ nhãn số một của nhân loại. Nhưng hơn thế nữa: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Để nghiệm được điều đó, đón nhận được mầu nhiệm ấy, không chỉ cần khiêm tốn của trí tuệ mà cần nhận được mặc khải từ nơi Thiên Chúa.

Lời tuyên tín của Phêrô tỏ cho thấy ông được Chúa Cha mặc khải cho mầu nhiệm cơ bản của Nước Trời và là dấu sự chọn lựa của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng đã đến lúc Ngài có thể khởi đầu việc đặt nền móng xây dựng một tòa nhà kiên cố liên quan đến toàn bộ chiều dài của lịch sử? “Trên táng đá nàyThầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” Một quyết định thật bất ngờ nhưng lai dựa trên ý định của Cha nơi mặc khải cua Ngài.

2. Hội thánh trên tảng đá sống

Khi thoáng nhìn một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên biển cả bao la, ta chợt có ý tưởng nghi ngại: một con thuyền như vậy liệu có thể vượt đại dương đầy sóng gió hãi hùng, đầy bão tố hiểm nguy để về đến bến bình yên không.

Cũng như vậy, tự nhiên ta sẽ nghĩ về Phêrô: ông cũng chỉ là một con người với vô vàn khuyết điểm, yếu đuối mà ta đã thấu rõ chất người của ông lúc ông sợ hãi can ngăn Chúa Giêsu lên Giêrusalem, khi ông nhát đảm chối bỏ Thầy trong dinh thượng tế. Thế mà ông lại được chọn để làm nền cho Giáo Hội và mọi quyền lực âm phủ không lay chuyển nổi.

Sự an toàn không ở nơi tảng đá sống đó mà ở nơi lời tác tạo của Đức Giêsu, lời bảo đảm cho công trình của Ngài. Chỉ có lời của Đức Giêsu làm nền tảng thực sự cho Giáo Hội vừa được chính thức thiết lập.

Phêrô – người và những đấng kế vị mãi là những viên đá sống động nên không thiếu những yếu hèn và khuyết điểm. Nhưng Thiên Chúa thì mạnh mẽ và trung tín với lời hứa của Ngài. Nhờ đó chúng ta sẽ không nao núng, hay thất vọng trước những yếu kém nào đó của những con người trong Giáo Hội. Chính Chúa sẽ thi thố quyền năng, giữ gìn và bảo vệ công trình tay Ngài dựng nên.

3. Cộng tác với ân sủng và khiêm tốn đón nhận

Chúa Giêsu đã không khen Phêrô có công trong lời tuyên tín chuẩn mực của ông. Tất cả đều là ơn nhưng không của Thiên Chúa, nhưng Phêrô diễm phúc vì đã để cho mặc khải của Thiên Chúa được tự do hành động trong con người của mình. Mặc khải đã đến trong tâm hồn, trí tuệ và lời nói của Phêrô đã bật ra thành lời tuyên xưng. Ông đã không cản trở tác động của ơn thánh mà cộng tác để làm lộ ra mặc khải Thiên Chúa ông đã nhận được nơi bản thân. Điều nầy có vẻ là một thái độ thụ động, nhưng thật ra đây cũng là một thái độ cần thiết đòi hỏi nỗ lực đón nhận và tự do ưng thuận. Thiên Chúa luôn để cho ta được tự do đáp trả điều Ngài muốn làm nơi ta, vì thế sẵn sàng mở cửa cho ơn thánh cũng là một thái độ cộng tác với ơn của Thiên Chúa. Ngài muốn dùng ta như trung gian ân huệ Thiên Chúa.

4. Câu hỏi dành cho mỗi người: “Đức Giêsu là ai đối với bạn?”

Câu hỏi ấy vẫn mãi vang lên trong Hội Thánh và giữa nhân loại. Không biết Đức Giêsu và không biết Ngài là ai đối với mình thì mọi chức vụ đều vô nghĩa. Người ta không thể phục vụ mà lại không biết rõ người sai gởi mình. Chính trong mối tương quan với đức Giêsu mà sau ngày Phục Sinh Đức Giêsu lại tiếp tục hỏi Phêrô về lòng yêu mến. Có biết đức Giêsu và yêu mến Ngài người ta mới có thể sống tận cùng sự phục vụ và yêu mến tha nhân.

Để biết Đức Giêsu, người ta sẽ phải tìm kiếm Ngài, hiểu biết Ngài và nhất là gặp gỡ Ngài. Nhờ những giờ phút gần gũi, những khoảnh khắc lắng nghe Lời Ngài, những thời gian sống cho Ngài, người ta sẽ có được một kinh nghiệm, một tương quan cá vị, và điều này sẽ giúp tăng tiến mối quan hệ với đức Giêsu.

“Đức Giêsu ai đối với tôi? “

Câu hỏi ấy dành cho chính tôi – Tôi sẽ trả lời thế nào? Không thể lấy lại những gì tôi đã nghe người khác nói về Ngài. Còn bản thân thì chưa biết Ngài như một em bé học giáo lý đã phải khóc thốt nên rằng “Sao ai cũng nói về một người tên là Giêsu, nhưng con chẳng biết ông là ai? Con chưa bao giờ gặp ông ấy!”

Tệ hơn nữa có khi ta vẫn cứ tuyên xưng: Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống mà thực sự ta chẳng hề tin, chẳng hề hiểu và chẳng hề sống lòng tin của mình.

Có lẽ chính chúng ta sẽ phải đi tại hành trình khám phá Đức Giêsu: nhìn lại những sợi dây nối kết chúng ta với đức Giêsu hơn là bằng lòng với những gì người khác nói cho ta về Ngài.

Lời Chúc phúc cho Phêrô hôm nay cũng sẽ là Lời chúc phúc cho tất cả những ai nhận thực Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, để rồi thể hiện rõ nét trong đời sống mình tuyên xưng mà chúng ta vẫn đọc trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô Con một Thiên Chúa…”

 

Hội Thánh của Chúa

Hội Thánh của Chúa

“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.

Đó là một Hội Thánh cho con người.

Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.

Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.

Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.

Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.

Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.

Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)

Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.

Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai?

Đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai?

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày nay, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba, vẫn còn đặt lại câu hỏi đã được đặt từ lúc Đức Giêsu giáng sinh: “Đức Giêsu Kitô là ai?”

Ngài đã trở thành “siêu sao” (Jesus, Super Star) trong các tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh, cả đối với các tác giả không chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu nữa. Nhà văn Aimatov trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Dumbatze trong tác phẩm “Quy luật muôn đời” hay Abuladze trong phim “Sám hối”và Nikos Kazantzakis trong tác phẩm “Chúa lại bị đóng đinh”hay trong “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tất cả đều đặt vấn đề về Đức Giêsu.

Tuy nhiên, những Đức Giêsu mang tính thời sự đó, dẫu có hay và lôi cuốn, vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của lịch sử, cũng không phải là đức Giêsu của lòng tin, Đức Giêsu của Tin Mừng. Chẳng qua các tác giả đó chỉ mượn dung mạo của Đức Giêsu để ký thác một điều gì trong thâm tâm mình. Cùng lắm, đối với họ, Đức Giêsu cũng chỉ là một bậc thầy rất có thế giá của quá khứ, hay một con người đáng nguyền rủa, nhục mạ của hiện tại.

Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Người ta bảo Thầy là ai?” các ông cho biết: có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một Ngôn sứ có tầm cỡ, như Êlia hay Giêrêmia là những ngôn sứ nổi danh bậc nhất trong lịch sử Do Thái. Trái lại, có những đối thủ lại coi Ngài như một người Samari lạc đạo, như một người bị quỷ nhập, như một tên phỉnh gạt hay một tay xách động dân chúng… Riêng đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu, chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài hơn. Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định nhận thức của họ về Ngài. Dân chúng thì nghĩ về Thầy như thế, “còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô đã nói lên nhận xét của các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Lời tuyên xưng đức tin này chúng ta đã gặp trong giai thoại của Chúa Giêsu cứu Phêrô khỏi chết chìm và khiến sóng gió im lặng. Khi Ngài bước lên thuyền, những người ở trong thuyền, tức là các môn đệ, sấp mình dưới chân Ngài mà nói: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. Ở đây, Chúa Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải “do Thiên Chúa Cha của Ngài trên trời”, càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy được một số nét đặc biệt siêu phàm trong con người của Thầy mình. Chúa Giêsu còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác cũng quan trọng đặc biệt không kém đối với bản thân ông: “Này, anh tên là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu còn trao cho Phêrô trách nhiệm giữ “chìa khóa Nước Trời”, trách nhiệm “cầm buộc hay tháo gỡ”được cả trên trời dưới đất đều chấp hành.

Trao chìa khóa nhà mình cho ai, có nghĩa là tín nhiệm và nhờ cậy người ấy coi sóc nhà mình. Người được trao chìa khóa có quyền đóng mở, ra vào, mà không bị coi là kẻ trộm, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề canh chừng kẻ xấu, người gian. Chọn lựa, trao gởi trách nhiệm vẫn làđường lối của Chúa đối với Giáo Hội, đối với chúng ta. Tiêu chuẩn để được chọn lựa, tín nhiệm trao gởi trách nhiệm không phải là sự trổi trang về tài năng hay đức độ, mà là lòng tin. Không phải là một Phêrô yếu đuối tầm thường nữa, nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin, có sức nâng đỡ cả Giáo Hội của Chúa Kitô. Phêrô đã tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, không chỉ một lần bằng lời tuyên xưng ấy mà thôi, mà bằng cả một cuộc đời không ngừng tuyên xưng lòng tin cho đến lúc tuyên xưng quyết liệt cuối cùng bằng cái chết đóng đinh thập giá như Thầy mình.

“Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ nay đến chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết. Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Phản ứng đầu tiên là im lặng, suy nghĩ, có khi với niềm vui, có khi có một sự ngại ngùng vì câu hỏi mang nặng hậu quả. Câu hỏi chạm đến tận cõi thâm sâu của cuộc đời tôi. Nó buộc tôi phải chọn, một chọn lựa kéo theo nhiều việc khác nữa. Nhưng vì là câu hỏi hệ trọng nhất, nên tôi không thể lẫn tránh được. Chúng ta không thể chỉ tuyên xưng bằng hành động, bằng việc làm cụ thể. Lắm khi sự tuyên xưng chân chính còn đòi buộc chúng ta phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Phải, một khi chúng ta đã thực sự tin Đức Giêsu rồi, thì đời ta sẽ phải gắn chặt vào Ngài cho đến chết thôi. Và chết cũng chưa hết, còn cả cuộc sống đời đời nữa.

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới thực nghiệm và duy vật chất. Lời nói trên lý thuyết có hay ho cao siêu đến mấy, nếu không được chứng minh bằng đời sống cụ thể, thì thiên hạ sẽ chẳng ai tin chúng ta. Đức Giêsu Kitô là ai? Chúng ta có giảng giải cặn kẽ về nguồn gốc và thân thế của Ngài, người ta có lắng nghe, có theo dõi, nhưng điều người ta theo dõi nhất là coi những người tin theo Đức Giêsu sống ra sao, ăn ở như thế nào, có thái độ thế nào với những công việc mưu cầu lợi ích chung, hạnh phúc chung của mọi người. Và từ đó, người ta sẽ suy nghĩ coi Chúa Giêsu của chúng ta là ai. Việc sống đạo của chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, là phải chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách chúng ta sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu Kitô là ai?

Thưa anh chị em, Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho cả xã hội ngày nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

Công bố chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới 2015

VATICAN. ĐTC đã chọn chủ đề cho Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 48 cử hành ngày 1-1 năm 2015 là ”Không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em”.

Trong thông cáo hôm 21-8-2014 để công bố chủ đề do ĐTC chọn, Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình giải thích rằng người ta thường nghĩ nạn nô lệ là một điều thuộc về quá khứ, trong thực tế tệ đoan này vẫn nhan nhản trong xã hội ngày này.

Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới 1-1 năm 2014 đã bàn về ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình”. Sự kiện tất cả là con cái Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau, có phẩm giá bình đẳng. Nạn nô lệ giết chết tình huynh đệ đại đồng ấy, và do đó nó cũng giết chết hòa bình. Thực vậy, chỉ có hòa bình khi con người nhìn nhận tha nhân là anh chị em có cùng phẩm giá.

Trên thế giới, nạn nô lệ có nhiều bộ mặt kinh tởm khác nhau, như nạn buôn người, buôn bán những người di dân, nạn mại dâm, bó buộc lao động như nô lệ, người bóc lột người, não trạng đối xử với phụ nữ và trẻ em như nô lệ.
Hội đồng Công lý và hòa bình cũng tố giác rằng có nhiều cá nhân và nhóm đầu cơ nô lệ một cách ô nhục, họ lợi dụng bao nhiêu cuộc xung đột hiện nay trên thế giới, bối cảnh khủng hoảng kinh tế và tham ô hối lộ. Nạn nô lệ thực là một vết thương kinh khủng trong xã hội hiện nay và là một vết thương rất trầm trọng trong thân mình của Chúa Kitô!”

Để ngăn chặn hữu hiệu nạn nô lệ, trước tiên cần nhìn nhận phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, và kiên trì tham chiếu tình huynh đệ, vượt thắng sự chênh lệch có thể làm cho người này trở thành nô lệ cho người khác.
Đối tượng cần nhắm tới là xây dựng một nền văn minh dựa trên phẩm giá bình đẳng của mọi người, không phân biệt ai. Để được vậy cần dấn thân thông tin, huấn luyện, xây dựng một nền văn hóa cổ võ một xã hội được đổi mới và thấm đượm tinh thần tự do, công lý và hòa bình.

Ngày Hòa bình thế giới do Đức Phaolô 6 thiết lập và cử hành vào ngày 1 tháng giêng mỗi năm. Sứ điệp của của các vị Giáo Hoàng nhân ngày này được gửi đến các chính phủ trên thế giới và cũng cho thấy hướng đi ngoại giao của Tòa Thánh trong năm mới bắt đầu (SD 21-8-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chúa Kitô không loại bỏ các nền văn hóa nhưng đưa chúng tới chỗ thành toàn

Chúa Kitô không loại bỏ các nền văn hóa nhưng đưa chúng tới chỗ thành toàn

Trong lịch sử đức tin tại Đại Hàn người ta thấy Chúa Kitô không hủy bỏ các nền văn hóa, không xóa bỏ con đường của các dân tộc, qua các thế kỷ và các kỷ nguyên tìm kiếm sự thật và thực thi tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúa Kitô không loại bỏ điều tốt lành, nhưng làm cho nó tiến tới và đưa nó tới chỗ thành toàn.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buoi tiếp kiến sáng thứ tư 20-8-2014 trong đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vaticăng.

Như qúy vị và các bạn biết, Đức Thánh Cha vừa mới công du Nam Hàn về, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu kinh nghiệm và một số cảm tưởng của ngài. Đức Thánh Cha nói: Trong những ngày vừa qua tôi đã hoàn thành chuyến tông du bên Đại Hàn, và hôm nay cùng anh chị em tôi cảm tạ Thiên Chúa vì ơn trọng đại này. Tôi đã có thể viếng thăm một Giáo Hội trẻ trung và năng động, được xây dựng trên chứng tá của các vị tử đạo và được linh hoạt bởi tinh thần truyền giáo, trong một đất nước, nơi các nền văn hóa á châu và sự mới mẻ trường tồn của Tin Mừng gặp gỡ nhau.

Tôi muốn một lần nữa bầy tỏ lòng biết ơn của tôi đối với các anh em Giám Mục thân mến của Đại Hàn, với bà tổng thống Cộng hòa, các giới chức lãnh đạo và tất cả những ai đã cộng tác vào chuyến viếng thăm này.

Ý nghĩa của chuyến tông du có thể được cô đọng trong ba từ: ký ức, hy vọng và chứng tá. Cộng Hòa Đại Hàn là một quốc gia đã có một sự phát triển kinh tế đáng kể và nhanh chóng. Dân chúng là những người làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, trật tự và phải duy trì sức mạnh đã thừa hưởng của cha ông.

Trong tình trạng này Giáo Hội là người giữ gìn ký ức và niềm hy vọng: đó là một gia đình thiêng liêng trong đó người lớn thông truyền cho giới trẻ ngọn đuốc đức tin đã nhận được từ người già; ký ức của các chứng nhân trong hiện tại và niềm hy vọng trong tương lai. Trong viễn tượng này có thể đọc hai biến cố chính của chuyến viếng thăm: việc phong chân phước cho 124 vị Tử Đạo Đại Hàn, thêm vào số các vị đã được phong hiển Thánh cách đậy 30 năm bởi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II; và cuộc gặp gỡ với giới trẻ nhân Ngày giới trẻ công giáo Á châu kỳ 6.

Người trẻ luôn luôn là một con người tìm kiếm cái gì đáng để sống, và vị Tử đạo làm chứng tá cho cái gì đó, còn hơn thế nữa cho Một Ai Đó, đáng để hiến mạng sống mình cho Vị ấy. Thực tại này là Tình Yêu của Thiên Chúa, đã nhập thể nơi Đức Giêsu, Chứng Nhân của Thiên Chúa Cha. Trong hai thời điểm của chuyến viếng thăm dành cho giới trẻ Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã làm cho chúng tôi tràn ngập niềm vui và niềm hy vọng, mà các người trẻ sẽ đem theo về trong các quốc gia khác nhau, và nó sẽ sinh biết bao thiện ích!

Giáo Hội tại Đại Hàn cũng giữ gìn ký ức và vai trò ưu tiên, mà các giáo dân đã có ngay từ thời bắt đầu của đức tin, cũng như trong công tác rao truyền Tin Mừng. Thật thế, trên phần đất này cộng đoàn kitô đã không được thành lập bởi các thừa sai, nhưng bởi một nhóm người trẻ đại hàn thuộc hậu bán thế kỷ 18. Họ bị hấp dẫn bởi vài văn bản kitô, họ học hiểu chúng và chọn chúng làm luật sống. Một người trong nhóm họ đã được gửi sang Bắc Kinh để lãnh nhận bí tích Rửa Tội, và rồi, tới lượt mình, giáo dân đó đã rửa tội cho các bạn. Từ hạt nhân đầu tiên đó đã phát triển một cộng đoàn lớn, ngay từ ban đầu và trong khoảng một thế kỷ đã chịu các bắt bớ tàn bạo, với hàng ngàn vị tử đạo. Như vậy Giáo Hội tại Đại Hàn đã được xây dựng trên đức tin, trên dấn thân truyền giáo và sự tử đạo của các giáo dân trung thành.

Các kitô hữu đại hàn đầu tiên lấy cộng đoàn kitô tiên khởi Giêrusalem thời các tông đồ làm mô thức, bằng cách thực thi tình yêu thương huynh đệ vượt mọi khác biệt xã hội. Vì thế tôi đã khích lê các kitô hữu ngày nay quảng đại trong việc chia sẻ với các anh chị em nghèo túng và các người bị gạt bỏ, theo Tin Mừng thánh Mátthêu chương 25: ”Tất cả những gì các ngươi đã làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta, là đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Anh chị em thân mến, trong lịch sử đức tin tại Đại Hàn người ta thấy Chúa Kitô không hủy bỏ các nền văn hóa, không xóa bỏ con đường của các dân tộc, qua các thế kỷ và các kỷ nguyên tìm kiếm sự thật và thực thi tình yêu thương đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Chúa Kitô không loại bỏ điều tốt lành, nhưng làm cho nó tiến tới và đưa nó tới chỗ thành toàn.

Trái lại, điều mà Chúa chiến đấu và đánh bại là kẽ dữ, kẻ gieo cỏ lùng giữa con người với nhau, giữa các dân tộc với nhau. Nó gieo thuốc độc của hư vô trong trái tim người trẻ. Điều này thì Chúa Giêsu Kitô đã chiến đấu và đã thắng với Hy tế tình yêu của Người. Và nếu chúng ta ở trong Người, trong tình yêu của Người, thì cả chúng ta nữa, như các vị Tử Đạo, chúng ta có thể sống và làm chứng cho chiến thắng của Người. Với niềm tin này chúng tôi đã cầu nguyện và giờ đây chúng tôi cũng cầu nguyện để mọi con cái của đất nước Đại Hàn, đang chịu đau khổ vì các hậu qủa của chiến tranh và chia rẽ, có thể hoàn thành con đường của tình huynh đệ và sự hòa giải.

Chuyến công du này đã được soi sáng bởi lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Từ trên cao, nơi Mẹ hiển trị với Chúa Kitô, Mẹ Giáo Hội đồng hành với lộ trình của dân Chúa, nâng đỡ các bước chân mệt mỏi nhất, an ủi những người đang sống trong thử thách, và giữ gìn cho chân trời của niềm hy vọng được rộng mở. Nhờ lời bầu cử hiền mẫu của Mẹ, xin Chúa luôn chúc lành cho dân tôc Đại Hàn, ban cho họ bòa bình và thịnh vượng, và xin Chúa chúc lành cho Giáo Hôi sống trên vùng đất này, để Giáo Hội luôn luôn phong phú và tràn đầy niềm vui của Phúc Âm.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện. Chào các nhóm nói tiếng Pháp ngài mời gọi mọi người cầu nguyện cho toàn Giáo Hôi và các cộng đoàn Á châu, cũng như cho tất cả các kitô hữu bị bách hại trên thế giới, cách riêng các kitô hữu tại Irak, cũng như cho các nhóm tôn giáo thiểu số không kitô nhưng cũng bi bách hại. Ngài chào một gia đình Pháp về Roma hành hương với 6 người con và hai con lừa.

Đức Thánh Cha cũng chào các trẻ em giúp lễ đảo Malta và cám ơn các em đã giúp lễ tại đền thờ Thánh Phêrô trong tháng vừa qua. Ngỏ lời với các đoàn hành hương nói tiếng Đức ngài chào các anh chị em Đại Hàn sống tại Đức, Áo và Thụy Sĩ về hành hương Roma. Ước chi chúng ta có thể học từ nhau và nâng đỡ nhau trong đức tin. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin Thiên Chúa để nhân dân Đại Hàn khổ đau vì các hậu qủa của chiến tranh và chia rẽ có thể hoàn thành con đường hòa giải trọn vẹn.

Chào các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha nói ngài hướng tới Ngày quốc tế giới trẻ tại Cracovia, và cầu xin cho các chuẩn bị là dịp cho tất cả mọi người đào sâu đức tin, đức cậy và đức mến. Ngài đặc biệt cám ơn các bạn trẻ đã tham dự các buổi tĩnh tâm hay hành hương trong mùa hè để bầy tỏ lòng yêu mến và cầu nguyện theo các ý chỉ của ngài.

Chào các tín hữu Italia Đức Thánh Cha ca ngợi lòng can đảm của các tham dự viên hành hương bằng canô từ Loreto về Roma, cũng như đoàn hành hương Pháp đi lừa về Roma. Bên cạnh đó là các tham dự viên cuộc hành hương Phanxicô cho hóa bình đi bộ từ đảo Siclila về Assisi. Ngài cầu chúc các sáng kiến này thúc đẩy mọi người dấn thân cho hòa bình trên thế giời.

Ngài cũng cám ơn tín hữu về các lời chia buồn vì tai nạn xe hơi xảy ra cho gia đình ngài bên Argentina, khiến cho vợ và hai con của môt người cháu ruột tử nạn. Ngài nói: Đức Giáo Hoàng cũng có một gia đình. Chúng tôi gồm 5 anh em, tôi có 16 đứa cháu, và một trong các người cháu này đã bị tai nạn xe hơi. Vợ và hai con nhỏ một tuổi và mấy tháng bị chết, còn anh ta đang trong tình trạng nguy kịch ở nhà thương. Tôi xin cám ơn anh chị em rất nhiều về các lời chia buồn và cầu nguyện.

Chào các bạn trẻ Đức Thánh Cha mời gọi họ luôn học nhìn lên Mẹ Maria và khẩn cầu Mẹ để đừng bị tội lỗi chiến thắng, và có thể sống các hoa trái của ơn thánh mà Chúa Giêsu Con Mẹ đem đến cho chúng ta.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Philippines

Đức Thánh Cha Phanxicô công du mục vụ Philippines

Phỏng vấn Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila

Ngày 29-7-2014 Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã loan báo Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Sri Lanka trong các ngày 12-15 tháng giêng năm 2015, và tại Philippines trong các ngày 15-19 tháng giêng năm 2015.

Philippines rộng 300,000 cây số vuông, bao gồm 7,107 đảo lớn nhỏ, có 100 triệu dân thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, trong đó 10 nhóm chính sau đây: Bisayaa hơn 20 triệu người, Tagalog hơn 13 triệu, Ilocani hơn 9 triệu, Hiliganon hơn 8 triệu, Bicolani hơn 3 triệu, Waray-Waray hơn 3 triệu, Kapampangan hơn 2.5 triệu, Hispanofilippini hơn 2.5 triệu, Albay Bicolani hơn 2.1 triệu, và Panggasinan hơn 1.6 triệu. Ngoài ra còn có 11 triệu người Philippines sống tại các nước ngoài, đa số là các công nhân có hợp đồng làm việc.

Nếu chia theo vùng địa lý, Philippines gồm ba miền Luzon, Visayas và Mindanao. Trong nhiều thập niên qua các cải cách kinh tế đã khiến cho lãnh vực thứ ba vượt nông nghiệp là nguồn lợi kinh tế chính, và hiện nay lãnh vực này đem lại hơn phân nửa lợi tức quốc gia. Tuy nhiên Philippines vẫn còn phải đương đầu với nhiều thách đố trong các lãnh vực cơ cấu hạ tầng, y tế và phát triển nhân bản.

Vào thời tiền sử, cách đây 30,000 năm người da đen Philippines đã là các nhóm dân đầu tiên của quần đảo này. Tiếp theo đó có các làn sóng di cư của các dân tộc khác như Malaysia, Ấn độ và người Hồi. Trong khi nền thương mại đã đem theo các ảnh hưởng văn hóa Tàu.

Năm 1521 nhà thám hiểm người Tây Ban Nha là Ferdinando Magellano đến đảo Homonhon, nằm ở mạn đông nam đảo Samar ngày mùng 6 tháng 3 năm 1521, bắt đầu một kỷ nguyên ảnh hưởng của Tây Ban Nha, rồi sau đó là ách thống trị của người Tây Ban Nha trên người dân bản địa. Manila trở thành trung tâm kinh tế của đế quốc Tây Ban Nha tại Á châu. Tên gọi Philippines bắt nguồn từ tên của vua Filippo của Tây Ban Nha. Trong các cuộc thám hiểm của mình ông Ruy López de Villalobos gọi vùng này là các Islas filippinas, các Đảo Philippines, nhằm vinh danh ông Hoàng của vùng Asturie, ban đầu chỉ có ý ám chỉ hai đảo Leyte và Samar. Sau đó từ Filippinas được dùng để chỉ toàn vùng quần đảo này.

Chế độ thực dân của Tây Ban Nha bắt đầu với đoàn quân viễn chinh của Miguel López de Legazpi trấn đóng trên đảo Cebu. Sau đó nhiều căn cứ khác được thành lập tại mạn bắc và trong vịnh Manila trên đảo Luzon. Người Tây Ban Nha xây một thành phố mới tại đây và chế độ thực dân kéo dài hơn ba thế kỷ.

Người Tây Ban Nha đem lại sự thống nhất chính trị của quần đảo trước đó bao gồm các đảo độc lập, và làm nảy sinh ra cộng đoàn sau này là nước Philippines. Chính quyền Tây Ban Nha du nhập các yếu tố của nền văn minh Tây âu như ấn loát và lịch.

Philippines bị độ hộ như là vùng đất của nước Tây Ban Nha Mới từ năm 1565 cho tới năm 1821, và do triều đình Madrid trực tiếp quản nhiệm. Trong thời thực dân Tây Ban Nha có nhiều thành phố được thành lập, các cơ sở hạ tầng được xây cất, việc canh tác và chăn nuôi súc vật mới được đẩy mạnh, và sinh hoạt thương mại trở nên phồn thịnh. Các thừa sai rao giảng Tin Mừng cho người dân bản địa và đa số theo Kitô giáo. Giáo Hội xây cất các nhà thờ, thành lập các giáo xứ, xây các trường tiểu, trung và đại học, cũng như các nhà thương, bệnh xá rải rác trên toàn nước.

Trong hai thế kỷ XIX và XX đã xảy ra một loạt các cuộc xung đột như cuộc cách mạng Philippines chống lại Tây Ban Nha năm 1896, chiến tranh Tây Ban Nha – Hoa Kỳ và chiến tranh Philippines Hoa Kỳ. Năm 1898 Philippines tuyên bố độc lập, trở thành Cộng Hóa Philippines. Tuy nhiên, với Thỏa hiệp Paris năm 1898 kềt thúc cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha, việc kiểm soát Philippines được chuyển giao cho Hoa Kỳ. Nhưng chính quyền Philippines không chấp nhận thỏa hiệp này và tháng 6 năm 1899 Philippines tuyên chiến với Hoa Kỳ.

Chiến tranh đã gây ra rất nhiều thiệt hại vật chất và nhân mạng cho Philippines. Tổng thống Emilio Aguinaldo bị bắt năm 1901. Đa số các vị lãnh đạo Philippines chấp nhận chiến thắng của Hoa Kỳ, nhưng sự thù nghịch giữa hai bên kéo dài cho tới năm 1913. Chế độ thực dân Hoa Kỳ chính thức bắt đầu năm 1905. Năm 1935 Philippines được phần nào tự trị để chuẩn bị cho ngày độc lập dự kiến vào năm 1946. Nhưng Philippines bị Nhật chiếm đóng trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 có các cuộc biểu tình của sinh viên học sinh chống chính sách cai trị độc tài và gian tham hối lộ của chính quyền khiến tổng thống Ferdinand Marcos ra lệnh thiết quân luật năm 1972. Nhưng cuộc cách mạng của nhân dân năm 1986 đã lật đổ chế độ Marcos và đưa Philippines vào chế độ đân chủ. Tuy nhiên, bất ổn chính trị đã ngăn cản sự tăng trưởng kinh tế của nước này.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám Mục Manila, về chuyến công du này của Đức Thánh Cha.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Giáo Hội và nhân dân Philippines phản ứng ra sao khi Tòa Thánh chính thức loan tin Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Philippines vào tháng giêng năm tới 2015?

Đáp: Nhân dân Philippines yêu mến Đức Thánh Cha và việc loan báo chuyến viếng thăm Á châu, đặc biệt là tại Philippines, vào năm tới đã khiến cho người dân rất vui sướng. Đây thật là một điều tuyệt vời. Các tín hữu không công giáo, các phương tiện tryền thông xã hội, các đài phát thanh truyền hình, tất cả mọi người dân Philippines đều luôn luôn nói tới chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha vào tháng giêng năm tới như là một tháng ơn phúc. Và cũng còn có một lý do khác nữa: ngày 14 tháng giêng năm 1995 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viếng thăm Philippines nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Năm tới đây Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến Philippines ngày 15 tháng giêng, tức 20 năm sau. Nhân dân Philippines sẽ lại trông thấy một vị Đại Diện Chúa Kitô thăm mình, nơi con người của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Hỏi: Đức Thánh Cha nói rằng ngài đến Philippines nhất là để cầu nguyện và gần gũi các nạn nhân của trận bão đổ ập trên Philipines hồi năm ngoái, khiến cho nhiều người chết và gây ra các thiệt hại to lớn. Đức Thánh Cha đến để bầy tỏ sự gần gũi với người dân đau khổ…

Đáp: Vâng đúng thế, một dân tộc đau khổ, đang ở trong tiến trình tái thiết cuộc sống: không phải chỉ tái thiết nhà cửa, các trường học, nhưng đặc biệt là tái thiết cuộc sống. Nỗi khổ đau tiếp tục, nhưng sự gần gũi của tất cả mọi dân tộc thiện chí thật là ngoại thường và là một lý do giúp cho người dân có niềm hy vọng và sức mạnh tiến tới. Tuy nhiên, sự gần gũi của Đức Thánh Cha xảy ra trong một cách thế đặc biệt, bởi vì cách đây một năm Đức Thánh Cha đã làm phép bức chân dung khảm đá mầu của Thánh Pedro Calungsod, trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, sau trận bão, và ngài đã nhắn gửi người dân đau khổ Philippines: ”Anh chị em không mệt mỏi hỏi: Tại sao? Tại sao?” để lôi kéo sự chú ý và đôi mắt của Thiên Chúa Cha”. Đó là sứ điệp đánh động người dân Philippines.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, vào trung tuần tháng 8 Đức Thánh Cha Phanxicô thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên tại Á châu. Ngài đến Nam Hàn để tham dự Ngày Giới Trẻ Á châu và chủ sự lễ phong chân phước cho 124 vị tử đạo Đại Hàn. Giáo phận cũ của Đức Hồng Y đã là nơi tổ chức Ngày Giới Trẻ Á châu lần thứ V. Đức Hồng Y có thể chia sẻ một chút về thực tại này và cho biết sự chờ đợi Đức Thánh Cha tại Á châu ra sao không?

Đáp: Vâng, cách đây 4-5 năm giáo phận trước của tôi đã được chọn như là nơi diễn ra Ngày Giới Trẻ công giáo Á châu. Đó đã là một đại hội bé của người trẻ Á châu, nếu so sánh với Ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Tuy nhiên, những ngày ấy đã là là những ngày có nhiều sinh hoạt đào tạo, cầu nguyện, hiệp thông và truyền giáo. Và tôi nghĩ rằng nó cũng xảy ra như thế tại Seoul bên Nam Hàn, với một chi tiết rất đặc biệt đó là sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đây là một yểm trợ cho một Giáo Hội đau khổ nhưng sinh động tại Đại Hàn.

(RG 1-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio