Luật trọng đại nhất

Luật trọng đại nhất

Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.

Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.

Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.

Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?

Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".

Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.

Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.

Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".

Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.

Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".

Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Sưu tầm

Trò chơi hòa bình

Trò chơi hòa bình

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:

– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?

Đám trẻ nhốn nháo trả lời:

– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.

Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:

– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:

– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.

Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:

– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.

Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?

Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:

– Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.

– Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.

– Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.

Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).

Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).

Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.

Mến Chúa và yêu người

Mến Chúa và yêu người

Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.

Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.

Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.

Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.

Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.

Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.

Sưu tầm

Tình yêu là lẽ sống

Tình yêu là lẽ sống

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi

Chỉ còn lương thực tăng giá thôi

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực

Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

(Chúa Nhật 30 A; Xh 22,21-26)

Trích sách Xuất Hành. Chúa phán: người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành góa bụa, và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”

SUY NIỆM

Những giáo huấn cụ thể rõ ràng trên đây trong sách Xuất Hành là một trong các trang hay đẹp và ý nghĩa nhất của Thánh Kinh Cựu Ước, vì chúng diễn tả được một trong những điểm nòng cốt sứ điệp của Do thái giáo và Tin Mừng yêu thương của Kitô giáo. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng nhân từ xót thương và Ngài đòi buộc những ai tin nhận Ngài cũng phải biết sống yêu thương cụ thể tất cả mọi người, không trừ ai, cách riêng những người yếu đuối nhất thường không được bênh đỡ trong xã hội loài người như người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ kiều cư, người nghèo phải vay tiền, hay cầm thế đồ vật cần thiết cho cuộc sống như chiếc áo choàng là áo mặc ban ngày và mền đắp ban đêm của dân nghèo.

Trong xã hội nào cũng vậy, những người góa bụa, góa vợ hay góa chồng, đều đáng thương như nhau, đặc biệt là những phụ nữ góa chồng. Họ mất đi người bạn trăm năm, cây cột chống đỡ mái nhà gia đình và phải cô đơn, một thân một mình làm lụng vất vả, tần tảo ngược xuôi để nuôi dậy con cái. Có người nhiều khi phải gánh vác cả các công việc của nhà chồng như phụng đưỡng cha mẹ già yếu bệnh tật. Cuộc sống của họ bấp bênh và không có người bênh đỡ khiến cho họ dễ bị chèn ép, ức hiếp và lạm dụng nhất. Cùng với họ là lũ con mồ côi cha hay mồ côi mẹ. Chúng mất đi điểm tựa yêu thương, tinh thần và vật chất. Cuộc sống và tương lai của chúng vì thế cũng mờ mịt. Chúng thường không có tuổi thơ, vì phải vào đời rất sớm để mưu sinh, lăn lộn giữa cuộc đời ác nghiệt không che chở trẻ thơ. Chúng giống như những trái banh bị đá lăn lóc giữa chợ đời đen bạc, hay như bèo trôi giạt giữa dòng đời.

Tội nghiệp và đáng thương nhất là các trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cơm bánh hằng ngày của chúng là nước mắt, buồn tủi và khổ đau. Và chúng thường là các thành phần yếu đuối và bơ vơ nhất trong xã hội. Bên cạnh đó là những người di cư tỵ nạn, sống xa lạ nhờ vả và bơ vơ trên đất khách quê người. Rồi những người nghèo túng bệnh tật phải đi vay tiền để lo cho chính mình cho gia đình hay con cái, phải cầm bán mọi sự kể cả chiếc áo choàng là áo che thân ban ngày, là mền đắp ban đêm…

Ngày nay trên thế giới này những thành phần yếu đuối kể trên lên đến hàng tỷ người, đặc biệt tại các nước nghèo Phi chậu, Á châu và châu Mỹ Latinh, nhưng cả Âu châu nữa.

Các giáo huấn chúng ta vừa nghe trên đây nảy sinh từ sự kiện mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và từ giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật: ”Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5) và giáo huần của sách Lêvi: ”Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,19).

Tình yêu hai chiều kích ấy được thể hiện ra trong việc tuân giữ Mười Điều Răn Thiên Chúa ban cho dân Israel qua trung gian ông Môshê. Chúng hướng dẫn con người trong các tương quan và bỗn phận đối với Thiên Chúa và đối với tha nhận. Tuy nhiên ở đây trong bối cảnh của sách Xuất Hành, Thiên Chúa mời gọi tín hữu sống bác ái qua chính các kinh nghiệm mà họ đã có trong bao nhiêu năm sống kiếp kiều cư và nô lệ bên Ai Cập, bị ngược đãi bóc lột và ức hiếp bất công. Nói một cách đơn sơ như trong sách Tobia là: ”Những gì con không muốn người ta làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác.”

”Mến Chúa yêu người” đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Pharisêu hỏi Ngài cho biết đâu là điều luật trọng nhất như kể lại trong Phúc Âm Chúa Nhật 30 thường niên năm A.

Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận diện ra nơi tình yêu thương động lực cao quý nhất của cuộc sống con người và là bàn nhún mạnh mẽ nhất của mọi sinh hoạt luân lý. Ngoài ra lý tưởng của tình yêu thương cũng hoàn toàn phù hợp với bản tính của con người có các lựa chọn, hy sinh, chiến đấu, và chết vì tình yêu hay vì thù ghét, mà xét cho cùng chỉ là cái tương ứng tiêu cực của tình yêu. Tuy nhiên, trong quan niêm của Chúa Giêsu tình yêu không chỉ là một luật lệ đơn thuần pháp lý, mà là đặc thái nòng cốt cao cả nhất của toàn giáo lý và luân lý hướng dẫn cung cách sống và hành xử của con người. Vì Tình yêu là chính Thiên Chúa. Do đó khi biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt

VATICAN. Sáng thứ bẩy 25-10-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt từ 50 nước về Roma hành hương nhân dịp mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Phong trào.

Phong Trào Schoenstatt do cha Giuse Kentenich (1885-1968) thành lập ngày 18-10 năm 1914 tại Schoenstatt cách thành phố Bonn 60 cây số về mạn nam. Cha là linh hướng tiểu chủng viện của các cha dòng Pallottin. Cùng với một nhóm chủng sinh, Cha lập một hiệp hội Đức Mẹ, qua một hành vi gọi là ”Giao ước Tình Yêu với Mẹ Maria”. Các thành viên của Phong trào Schoenstatt hiện nay có mặt tại 110 nước trên thế giới. Họ sống linh đạo gia đình giữa các thành viên, và khích lệ họ hoạt động tông đồ trong môi trường sống của mình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong 2 tiếng đồng hồ dưới hình thức các cuộc đối thoại, trình bày chứng từ và văn nghệ, trình chiếu Video của các cộng đoàn, các đôi vợ chồng và các bạn trẻ. ĐTC đã lắng nghe và trả lời một số câu hỏi được nêu lên. ĐTC khuyến khích các thành viên pong trào Schoenstatt hãy tháp tùng các gia đình và bảo vệ hôn phối, là những thực tại chưa bao giờ bị tấn công như ngày nay.

”Nhiều gia đình ngày nay bị chia rẽ, bị biến thái, coi như một cách kết hiệp nào đó. Bao nhiêu hôn phối bị vỡ tan, bao nhiêu quan niệm duy tương đối về bí tích hôn phối. Gia đình ngày nay đang bị khủng hoảng”. ĐTC nói đến nguyên nhân của tình trạng trên đây là ”nền văn hóa tạm thời”, phá hủy khả năng liên kết lâu bền của con người với nhau, và trong đó các trẻ em chịu đau khổ nhiều nhất vì những cuộc hôn nhân tan vỡ”. Những hình thức kết hiệp mới phá hoại và giới hạn sự cao cả của tình yêu hôn nhân. Có bao nhiêu những vụ sống chung, ly thân và ly dị.

ĐTC nhận xét rằng nhiều cặp kết hôn chỉ coi bí tích hôn phối như một nghi thức, mà họ không hiểu ý nghĩa sâu xa. Nhiều người chẳng biết họ làm gì trong bí tích ấy.

Theo ĐTC, chìa khóa để giúp đỡ, chính là sự tiếp xúc, tháp tùng, chứ không chiêu dụ, vì hành động này không mang lại kết quả. Trái lại cần phải kiên nhẫn tháp tùng. Ngoài ra cần phải chuẩn bị hôn phối kỹ lưỡng. ĐTC phê bình sự kiện có những nơi người ta làm lễ cưới cho các cặp đính hôn chỉ sau hai cuộc gặp gỡ để chuẩn bị.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi canh tân nội tâm

Đức Thánh Cha kêu gọi canh tân nội tâm

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu Kitô canh tân nội tâm để có thể thực thi cuộc đối thoại đại kết Kitô đích thực.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 24-10-2014, dành cho 45 tham dự viên cuộc hành hương của tổ chức Lumen Orientale, Ánh Sáng đông phương, dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Kállistos của giáo phận Diokleia.

ĐTC nói: ”Mỗi cuộc hành hương theo tinh thần Kitô giáo không phải chỉ là một hành trình địa lý, nhưng nhất là dịp hành trình canh tân nội tâm để ngày càng tiến về Chúa Kitô hơn, ”Đấng mang lại nguồn gốc cho đức tin và làm cho đức tin tới độ viên mãn” (Dt 12,2). Những chiều kích này rất quan trọng để tiến bước trên con đường dẫn đến hòa giải và hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Sẽ không có một cuộc đối thoại đại kết chân thực nếu không có sự sẵn sàng can tân nội tâm và tìm kiếm sự trung thành mạnh mẽ hơn đối với Chúa Kitô và thánh ý Chúa”.

ĐTC cũng ca ngợi chủ ý của đoàn hành hương theo vết hai thánh Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2, vì những đóng góp rất lớn của các ngài cho sự phát triển ngày càng thắm thiết giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống. Ngài nói: ”Tấm gương của hai vị thánh này chắc chắn soi sáng cho tất cả chúng ta, vì hai vị luôn chứng tỏ lòng hăng say đối với sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, xuất phát từ sự ngoan ngoãn lắng nghe ý Chúa, trong bữa tiệc ly Chúa đã cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ của Người trở nên một” (Ga 17,21) (SD 24-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình hoạt động của Đức Thánh Cha tháng 11-2014

Chương trình hoạt động của Đức Thánh Cha tháng 11-2014

VATICAN. Hôm 24-10-2014, Ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC đã công bố lịch trình các buổi lễ do ĐTC Phanxicô cử hành trong tháng 11-2014.

Chiều thứ bẩy, 1-11, lễ các thánh, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ lúc 4 giờ tại Nghĩa trang Verano. Chúa nhật hôm sau, 2-11, vào lúc 6 giờ chiều, ngài viếng mộ các vị Giáo Hoàng quá cố tại hầm Đền thờ Thánh Phêrô Sáng thứ hai, 3-11, lúc 11 giờ rưỡi, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô để cầu nguyện cho các Hồng y và GM qua đời trong 12 tháng qua.

Chúa nhật 23-11, lễ Chúa Kitô Vua, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi tại Quảng trường thánh Phêrô, để tôn phong 6 vị chân phước lên bậc hiển thánh. Sau cùng, từ ngày 28 đến 30-11, ngài sẽ viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ (SD 24-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 22-10-2014, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các tín hữu tránh chia rẽ, ghen tương trong cộng đoàn Giáo Hội.
Trong số các đoàn tín hữu hành hương, đông nhất vẫn là các đoàn nói tiếng Ý rồi đến tiếng Đức, đặc biệt là 3,500 tín hữu thuộc các giáo phận miền Romana bắc Italia; phái đoàn 1 ngàn người từ giáo xứ Đức Mẹ Núi Cát Minh ở Gela, dưới sự hướng dẫn của Đức GM giáo phận Piazza Amerina. Từ Việt Nam có một nhóm hành hương gồm 16 người thuộc Tổng giáo phận Sàigòn. Từ Nhật Bản có 160 tín hữu thuộc tổng giáo phận Tokyo về đây hành hương dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Takeo Okada.
Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô nói về Giáo Hội như thân mình của Chúa Kitô. Đó cũng là đề tài được ĐTC khai triển trong loạt bài về Giáo Hội.
Bài huấn giáo của ĐTC
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Khi muốn cho thấy rõ các yếu tố họp thành một thực tại liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào và họp thành một thực thể duy nhất, người ta thường dùng hình ảnh một thân thể. Từ thánh Phaolô Tông đồ, thành ngữ này đã được áp dụng cho Giáo Hội và được coi là nét đặc trưng sâu xa nhất và đẹp nhất của Giáo Hội. Vì vậy hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: theo nghĩa nào Giáo Hội họp thành một thân thể? Và tại sao Giáo Hội được định nghĩa là ”thân mình Chúa Kitô?”
Trong sách ngôn sứ Ezechiel có mô tả một thị kiến khá đặc biệt, gây rùng mình, nhưng có khả năng mang lại niềm tín thác và hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa tỏ cho ngôn sứ thấy một bãi xương, tách biệt nhau và khô cằn. Một cảnh tượng tiêu điều.. Rồi Thiên Chúa bảo ngôn sứ hãy khẩn cầu Thần Khí trên chúng. Thế là các xương ấy bắt đầu xích lại gần nhau và liên kết với nhau, trên các xương đó trước tiên các dây thần kinh tăng trưởng rồi đến các lớp thịt và họp thành một thân mình trọn vẹn và đầy sức sống (Xc Ez 37,1-14). Đó chính là Giáo Hội! là một kiệt tác của Thần Khí, Người phú vào mỗi người sự sống mới của Đấng Phục Sinh và đặt chúng ta cạnh nhau, phần tử này phục vụ và nâng đỡ nhau, và qua đó Chúa biến tất cả chúng ta thành một thân mình duy nhất, được kiến tạo trong tình hiệp thông và tình yêu.
Nhưng Giáo Hội không phải chỉ là một thân mình được kiến tạo trong Thần Khí: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô! Đây không phải chỉ là một kiểu nói: chúng ta thực sự là như vậy! đó là một hồng ân lớn chúng ta nhận lãnh trong ngày chúng ta chịu phép rửa! Thực vậy, trong bí tích rửa tội, Chúa Kitô đã làm cho chúng ta thuộc về Chúa, đón nhận chúng ta trong trọng tâm mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tột đỉnh tình thương của Ngài đối với chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài, như những thụ tạo mới. Giáo Hội được khai sinh như thế, và Giáo Hội được nhìn nhận là Thân Mình Chúa Kitô! Phép rửa tội tạo nên một sự tái sinh đích thực, tái sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa, liên kết chúng ta với nhau chặt chẽ, như những chi thể của cùng một thân mình, có Chúa là đầu (Xc Rm 12,5; 1 Cr 12,12-13).
ĐTC nhận xét rằng:
”Điều nảy sinh từ đó chính là một sự hiệp thông sâu xa trong tình thương. Theo nghĩa này, lời khuyên nhủ của thánh Phaolô soi sáng, khi Thánh Nhân nhắn nhủ những người chồng ”hãy yêu thương vợ như chính thân thể của mình như Chúa Kitô vẫn yêu thương Giáo Hội, vì chúng ta là chi thể của Chúa” (Ep 5,28-30). Thật là đẹp nếu chúng ta năng nhớ lại mình là gì, Chúa Giêsu đã biến chúng ta thành gì: chúng ta là thân mình của Chúa, thân thể mà không gì và không ai có thể tách rời khỏi Chúa và Ngài bảo bọc thân mình ấy với tất cả lòng say mê và yêu thương của Ngài, như người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng tư tưởng này phải làm nổi lên trong chúng ta ước muốn đáp lại tình yêu của Chúa Kitô, chia sẻ tình thương của Ngài giữa chúng ta, như các chi thể sinh động của cùng một thân thể. Thời thánh Phaolô, cộng đoàn Corinto gặp nhiều khó khăn theo chiều hướng này, như thường xảy ra giữa chúng ta, họ sống kinh nghiệm chia rẽ, ghen tương, thiếu thông cảm và gạt ra ngoài lề. Tất cả những điều đó không tốt, vì thay vì xây dựng và làm cho Giáo Hội được tăng trưởng như thân mình của Chúa Kitô, thì lại phân tán Giáo Hội thành bao nhiêu mảnh, cắt chặt Giáo Hội. Điều này cũng xảy ra ngày nay. Chúng ta hãy nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, trong một vài giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến những khu phố với bao nhiêu chia rẽ, ghen tương, bao nhiêu hiểu lầm và tình trạng bị gạt ra ngoài. Sự kiện đó làm cho chúng ta tách biệt nhau. Đó là khởi đầu của chiến tranh. Chiến tranh không bắt đầu nơi chiến trường: chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn, với những sự thiếu cảm thông, chia rẽ, ghen tương, tranh giành nhau.
Cộng đoàn Corinto xưa kia cũng như thế, họ vô địch trong lãnh vực này. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã gửi đến người dân thành Corinto vài lời khuyên cụ thể, và những lời này cũng có giá trị đối với chúng ta: đừng ghen tương, nhưng trong cộng đoàn chúng ta, hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của các anh chị em chúng ta… Tất cả những gì gây phân rẽ thì cần phải tránh, chẳng vậy sự ghen tương sẽ lớn mạnh và làm đầy tâm hồn. Một con tim ghen tương là một con tim át-xít, một con tim thay vì có máu thì dường như chỉ có dấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phân hóa cộng đoàn. Vậy ta phải làm gì đây? Thưa hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của những người khác trong cộng đoàn, của các anh chị em chúng ta. Khi ý tưởng ghen tương lẻn vào tâm trí chúng ta – vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi – thì ta phải thưa với Chúa: ”Cám ơn Chúa, vì Chúa đã ban năng khiếu đó cho người ấy”. Hãy quí chuộng đức tính của họ, gần gũi và chia sẻ những đau khổ của những ngừơi rốt cùng và túng thiếu; biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả mọi người và đặc biệt đối với những người thi hành những công tác phục vụ khiêm tốn và âm thầm nhất, và sau cùng là lời khuyên của thánh Phaolô cho dân Corinto: đừng nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Bao nhiêu người nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Cả chúng ta nữa, bao nhiêu lần chúng ta nói như người Biệt Phái trong dụ ngôn: ”Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người kia, con cao trọng hơn họ”. Nhưng như thế là xấu, không bao giờ được làm như vây. Khi định làm như thế, thì hãy nhớ đến các tội lỗi của mình, những tội mà chẳng ai biết, và xấu hổ trước mặt Chúa, và nói: ”Lạy Chúa, Chúa biết ai cao trọng hơn. Con im miệng bây giờ”. Và làm như thế là tốt. Trong tình bác ái hãy coi nhau như chi thể của nay, sống và hiến thân mưu ích cho tất cả mọi người (Xc 1 Cr 12,14).
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ezechiele và như thánh Phaolô Tông đồ, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Chúa Thánh Linh, cho ân thánh và những hồng ân dồi dào của Ngài giúp chúng ta thực sự sống như thân mình của Chúa Kitô và như dấu chỉ hữu hình và đẹp đẽ nói lên tình thương của Chúa.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và các giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các bạn trẻ thuộc giáo phận Bayeux-Lisieux mới chịu phép thêm sức, cũng như những người thuộc giáo phận Lyon đang ở trong tình trạng bấp bênh. Ngài cho biết sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Khi chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nói:
”Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng theo phụng vụ, Thánh nhân đã mời tất cả chúng ta hãy rộng cửa cho Chúa Kitô; trong cuộc viếng thăm đầu tiên tại quê hương anh chị em, Người đã khẩn cầu Chúa Thánh Linh ngự xuống, canh tân đất nước Ba Lan; Người cũng nhắc nhớ cho mọi người mầu nhiệm lòng từ bi của Chúa. Ước gì gia sản tinh thần của Người không bị lãng quên, nhưng thúc đẩy chúng ta suy tư và hành động cụ thể để mưu ích cho Giáo Hội, cho gia đình và xã hội.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào các tín hữu thuộc các giáo phận ở miền Romagna, bắc Italia, cùng với các GM của mình, Ngài khuyến khích họ hãy tìm trong Phúc Âm những tiêu chuẩn soi sáng cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn.
Hiện diện tại Quảng trường có đông đảo các nhân viên hãng hàng không Meridiana ở Italia đang bị đe dọa mất việc vì họ thuộc vào số nhân viên thặng dư. ĐTC nói: ”Tôi muốn hiệp với Cộng đoàn giáo phận Tempio-Ampurias bày tỏ sự gần gũi và liên đới sâu xa với các nhân viên hãng hàng không Meridiana, đang sống những giờ lo âu cho tương lai công ăn việc làm của mình. Tôi nồng nhiệt cầu mong các vị hữu trách có thể tìm được một giải pháp công bình, để ý trước tiên tới phẩm giá con ngừời và nhu cầu không thể loại bỏ của bao nhiêu gia đình.”
Hãng này xác nhận sẽ thải 1,366 nhân viên. Chính phủ Italia đang cố gắng làm trung gian giải quyết vụ này.
Với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc nhớ rằng ”tháng 10 mời gọi chúng ta hãy canh tân sự cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Với năng lực tươi mát của tuổi trẻ, với sức mạnh của lời cầu nguyện và hy sinh, và với tiềm năng của đời sống vợ chồng, anh chị em hãy biết trở thành những nhà thừa sai của Tin Mừng, nâng đỡ cụ thể cho những người đang vất vả mang Tin Mừng đến cho những người chưa được nghe biết.
ĐTC cũng ứng khẩu nhắc nhở các tín hữu ngày hôm nay hãy lấy sách ngôn sứ Ezechiel và đọc đoạn thứ 37 kể lại thị kiến Thần Khí Chúa biến những xương khô thành một thành một thân mình sống động.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

VATICAN. Sáng 20-10-2014, ĐTC đã chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông và quyết định về việc phong Hiển thánh.

Tham dự công nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng tại Hội trường Thượng HĐGM cũng có các vị Thượng Phụ và một số Giám Mục.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Chúng ta có cùng ước muốn hòa bình và ổn định tại Trung Đông và ý chí cổ võ giải pháp cho các cuộc xung đột bằng cách đối thoại, hòa giải và dấn thân chính trị. Đồng thời chúng ta muốn gia tăng sự trợ giúp có thế cho các cộng đồng Kitô để hỗ trợ họ ở lại vùng miền ấy.

”Như tôi đã có dịp lập lại nhiều lần, chúng ta không thể có thái độ cam chịu khi nghĩ đến miền Trung Đông không còn Kitô hữu nữa, những người từ 2 ngàn năm nay đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu tại đó. Những biến cố gần đây, nhất là tại Irak và Siria, gây lo âu rất nhiều. Chúng ta chứng kiến một hiện tượng khủng bố có chiều kích không thể tưởng tượng được trước đây. Bao nhiêu anh chị em chúng ta bị bách hại và đã phải rời bỏ gia cư, cả trong tình thế tàn bạo. Dường như người ta đánh mất ý thức về giá trị sự sống con người, con người dường như không đáng kể gì nữa, và người ta có thể hy sinh con người cho những lợi lộc khác. Rất tiếng là tất cả những điều đó xảy ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người.

Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tình trạng bất công này, không những đòi lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng còn cần phải có câu trả lời thích hợp từ phía cộng đồng quốc tế. Tôi chắc chắn rằng với sự phù trợ của Chúa, từ cuộc gặp gỡ hôm nay, sẽ có những suy tư giá trị và những đề nghị để có thể giúp anh chị em chúng ta đang chịu đau khổ và đáp ứng cả thảm trạng suy giảm sự hiện diện của Kitô giáo tại miền đất nơi Kitô giáo được khai sinh và phổ biến.

Đức Hồng Y Parolin
Tiếp lời ĐTC, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình trước công nghị về khóa họp mới đây tại Vatican, từ ngày 2 đến 4-10 vừa qua của các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, các đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở Genève và New York cùng với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trước tiên các vị bàn về tình trạng không thể chấp nhận được tại Trung Đông do cái gọi Nhà Nước Hồi giáo, một thực tài chà đạp công pháp và dùng những phương pháp khủng bố để mưu toan mở rộng quyền bính: giết người hằng loạt, chém đầu những kẻ nghĩ khác họ, bán phụ nữ ở chợ, xung các trẻ em vào các cuộc chiến đấu, tàn phá các nơi thờ phượng.. Tình trạng đó khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn nơi khác, trong những điều kiện bấp bênh, chịu bao đau khổ về thể lý và tinh thần. Khi lên án rõ ràng những vi phạm đó, không những đối với công pháp quốc tế về nhân đạo, nhưng cả về các nhân quyền sơ đẳng nhất, người ta cũng tái khẳng định quyền của người tị nạn được trở về đất nước của mình và sống trong phẩm giá, trong an ninh. Đó là quyền phải được cộng đồng quốc tế và các quốc gia hỗ trợ và bảo đảm. Điều có liên hệ ở đây là những nguyên tắc căn bản như giá trị sinh mạng và phẩm giá con người, tự do tôn giáo, sự sống chung hòa bình và hòa giữa các cá nhân và giữa các dân tộc.

ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh rằng các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự ổn định quốc tế. Hòa bình ở Trung Đông không thể tìm kiếm bằng những chọn lựa đơn phương áp đặt bằng võ lực.

ĐHY nhắc đến lời ĐTC lên án nạn buôn bán võ khí là một trong những nguyên nhân tạo nên nhiều nạn nhân ở Trung Đông và cộng đồng quốc tế không thể nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề này.

ĐHY Quốc vụ khanh nói đến nạn xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, vai trò của Giáo Hội và của cộng đồng quốc tế. Ngài kêu gọi đi tới và giải quyết tận căn những nguyên nhân gây ra các vấn đề hiện nay và cổ võ con đường đối thoại và thương thuyết vì con đường bạo lực chỉ đưa tới tàn phá, đồng thời ĐHY xác quyết rằng việc bảo vệ các tín hữu Kitô và tất cả các nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số cần phải đặt trong bối cảnh bảo vệ con người và tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo và tự do lương tâm.

Đề cập đến thảm trạng của bao nhiêu người tị nạn, như một nửa dân số Siria đang cần được cứu trợ về nhân đạo, ĐHY Parolin nói: Giáo hội khuyến khích cộng đồng quốc tế quảng đại đáp ứng thảm trạng này, và về phần mình, Giáo hội cũng đóng góp, đặc biệt qua các Caritas địa phương và các cơ quan cứu trợ Công Giáo, giúp đỡ các nạn nhân, không những các tín hữu Kitô, nhưng tất cả những người đang chịu đau khổ.

Trong công nghị, ĐTC đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước LM Joseph Vaz là 14-1-2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15-1 năm tới. Thánh nhân từ Ấn Độ đến truyền giáo tại Sri Lanka trong thời kỳ người Hòa Lan bách hại các tín hữu Kitô tại đảo này. (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mời gọi các tín hữu Ấn giáo cộng tác để thăng tiến nền văn hóa bao gồm và chống lại nền văn hóa loại trừ.

Trên đây là nội dung sứ điệp của Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn công bố hôm 20-10-2014, để chúc mừng các tín hữu Ấn giáo trên thế giới nhân lễ Deepavali, là lễ ánh sáng siêu việt, sẽ được cử hành vào ngày 23-10-2014. Sứ điệp mang chữ ký của ĐHY Chủ tịch Jean Louis Tauran và vị Tổng thư ký là Cha Mighuel Ángel Ayuso Guixot, người Tây Ban Nha, viết:

”Đứng trước tình trạng gia tăng kỳ thị, bạo lực và loại trừ ở các nơi trên thế giới, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm có thể được coi như một trong những khát vọng chân thành nhất của dân chúng ở mọi nơi”.

Sứ điệp của Tòa Thánh nhìn nhận có những điều tích cực do sự hoàn cầu hóa mang lại cho thế giới, mở ra những biên cương mới, cung cấp những cơ hội phát triển, cơ may giáo dục và săn sóc sức khỏe tốt đẹp hơn, nhưng sự hoàn cầu hóa hiện nay chưa đạt được đối tượng chủ yếu là hội nhập dân chúng địa phương vào cộng đồng hoàn cầu. Đúng hơn, hoàn cầu hóa đã góp một phần lớn làm cho nhiều dân tộc đánh mất căn tính xã hội văn hóa, kinh tế và chính trị của mình.

”Những công hiệu tiêu cực của sự hoàn cầu hóa cũng ảnh hưởng tới các cộng đồng tôn giáo trên thế giới, vì các tôn giáo có liên hệ mật thiết với các nền văn hóa xung quanh. Hoàn cầu hóa góp phần làm phân hóa xã hội, gia tăng trào lưu duy tương đối, tôn giáo hỗn hợp và tư nhân hóa tôn giáo. Trào lưu tôn giáo cực đoan cũng như những xung đột về chủng tộc, bộ tộc và phe phái ở các nơi trên thế giới ngày nay phần lớn là những biểu hiện sự bất mãn, bất an và bấp bênh nơi dân chúng, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, không được hưởng những thiện ích của sự hoàn cầu hóa.

Hội đồng Tòa Thánh cũng nhận xét rằng ”Những hậu quả tiêu cực của sự hoàn cầu hóa như sự lan tràn trào lưu duy vật và duy tiêu thụ làm cho dân chúng vị kỷ hơn, khao khát quyền lực và dửng dưng đối với các quyền, nhu cầu và đau khổ của người khác. Nói theo lời của ĐGH Phanxicô, đó là ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng” khiến chúng ta dần dần lãnh đạm đối với những đau khổ của người khác và khép kín vào mình (Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới 2014). Sự dửng dưng ấy tạo nên nền văn hóa loại trừ, trong đó người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề và dễ bị tổn thương, bị chối bỏ các quyền lợi cũng như cơ may và tài nguyên mà các thành phần khác trong xã hội được hưởng..”

Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn kết luận rằng ”Vì thế, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm trở thành một lời kêu gọi chung và là một trách nhiệm chung mà chúng ta cần cấp thiết lãnh nhận. Đó là một dự phóng bao gồm những người quan tâm đến sự khỏe và sự sống còn của gia đình nhân loại trên trái đất này và cần được thi hành, mặc dù có những thế lực kéo dài nền văn hóa lại trừ” (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lớp Sáu – Bài Học Bốn – Ca Dao Việt Nam

Khái Niệm:

Xem => Ca Dao Việt Nam

  • Ca dao Việt Nam là văn chương bình dân được truyền tụng trong dân gian từ đời này sang đời nọ.
  • Ca dao Việt Nam (CDVN) thường là những vần thơ ngắn dưới dạng lục bát nghĩa là một câu 6 chữ được tiếp theo bằng câu kế với 8 chữ.
  • Không phải bài thơ lục bát nào cũng là ca dao vì nó đã có tác giả hẳn hòi mà người ta biết đến.
  • Ca dao có thể là những bài thơ hay câu vần có tác giả từ ban đầu nhưng theo thời gian, tên tác giả bị thất lạc thành khuyết danh.
  • Ngôn ngữ trong ca dao thường đơn giản, mộc mạc và thường kể về một câu chuyện nào đó.
  • Câu chuyện trong ca dao thường nhắm đến mục đích giáo dục dân gian.
  • Tuy thế, có nhiều bài ca dao chỉ là những bức tranh mô tả quan cảnh hay sinh hoạt thường ngày của người dân.
  • Ca dao cũng có thể nhằm mục đích giải trí, truyền dạy ngôn ngữ, văn hóa và kiến thức phổ thông.NgayMaiComVang1

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Paul VI PP

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.

Khi tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma.
Áo lễ ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.

Trong số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng, trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.

Đầu thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình bày.
Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm (26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài vốn là một luật sư, làm chủ báo ”Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.

Thầy Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.

Sau 28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu.

Đức TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli.
Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng 6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ ”vinh quang và quyền lực phàm nhân”.

Đứng trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích.
Ngài cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì phê bình ĐGH là bất động.

Đức Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima, Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu, và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia.
Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản.
Đức Phaolô 6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội, thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh ngắn, hưởng thọ 81 tuổi.
Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Manila, Philippines.
Bài giảng của ĐTC

”Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn Tin Mừng: ”Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy. Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.

Chắc chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: ”Và hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là – đứng trước bất kỳ loại quyền bính nào – cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.

Chúa không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên, mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống Tin Mừng là ”một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và Thiên Chúa yêu mến ”sự mới mẻ ấy” dường nào! ”Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.

Đây chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại, không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống – với đôi chân đặt vững trên mặt đất – và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.

Chúng ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt – Sinodo có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có hy vọng.
Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: ”chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2). Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn, xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015. Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi (1 Cr 3,6).

Chân phước Phaolô 6

Trong ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: ”Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại, chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp .. với những nhu cầu gia tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc Apostolica sollicitudo).

Đối với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!

Trong nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã ghi chú: ”Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P. Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất hiện ở chân trời.

Đức Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi dành trọn cuộc đời của Người cho ”sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để ”Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu thương của tất cả mọi người và là ngừơi ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp Ecclesiam Suam, Lời Tựa).

Ý nguyện và kinh Truyền Tin

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến tranh.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.

ĐTC cũng nói rằng ”Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii nuntiandi của Người, qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.

ĐTC không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

VATICAN. Bản tường trình chung kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình đã được thông qua và công bố chiều tối thứ bẩy, 18-10-2014.

Trong phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng, trước sự hiện diện của ĐTC, các nghị phụ đã thông qua Bản tường trình gồm 62 đoạn được đánh số theo thứ tự và được các nghị phụ bỏ phiếu từng đoạn.

Có một số đoạn gây nhiều tranh luận, tuy được thông qua, nhưng không đạt tới mức 2 phần 3 số phiếu. Ví dụ đoạn số 41 nói về việc nhận cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ còn bị tranh luận nhiều nhất với 104 phiếu thuận và 74 phiếu chống. Còn đoạn số 55 nói về việc đón nhận những người có xu hướng đồng tính luyến ái, tuy có thay đổi văn bản, và trích dẫn Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo nhưng chỉ được 118 phiếu thuận và 62 phiếu chống.

Đoạn số 51 về tình trạng những người ly dị tái hôn cần được săn sóc mục vụ, được thông qua với 155 phiếu thuận và 19 phiếu chống.

Trước tình trạng một số đoạn không có sự đồng thuận của Thượng HĐGM, tuy được đa số phiếu quá bán, nhưng không được đa số 2 phần 3 như thế, ĐTC Phanxicô quyết định vẫn để cho toàn bộ bản tường trình thuộc văn kiện tạm thời và gửi đến các Giáo Hội địa phương để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ thứ 14 vào tháng 10 năm tới. Ngài cũng cho phép để công chúng, qua các ký giả, được biết mỗi đoạn được bao nhiêu phiếu, để hiểu mức độ đồng thuận của các nghị phụ về từng điểm.

Diễn văn bế mạc

Trong diễn văn bế mạc, sau khi cám ơn các vị trong Văn phòng Tổng thư ký và các vị điều hành khóa họp này cũng như tất cả các nghị phụ, dự thính viên, chuyên viên và cộng tác viên, ĐTC nói:

”Tôi có thể nói một cách thanh thản rằng – với một tinh thần toàn thể tính và công nghị tính – chúng ta đã thực sự sống kinh nghiệm ”Sinodo”, một hành trình liên đới, đồng hành.

Vì là một hành trình – và cũng như mọi cuộc hành trình, đã có những lúc chạy nhanh, hầu như một thắng thời gian và đạt tới đích sớm nhất có thể; có những lúc khác mệt mõi, hầu như muốn nói 'đủ rồi'; có những lúc hăng say phấn khởi. Có những lúc an ủi sâu xa khi nghe chứng tử của các vị mục tử đích thực (Xc Ga 10 và GL 375, 386,387) mang trong con tim một cách khôn ngoan những vui mừng và nước mắt của các tín hữu. Những lúc an ủi và ân phúc, được khích lệ khi nghe những chứng từ của cac gia đình đã tham gia Thượng HĐGM và đã chia sẻ với chúng ta vẻ đẹp và niềm vui đời sống hôn nhân của họ. Một hành trình trong đó người mạnh nhất cảm thấy nghĩa vụ phải giúp đỡ những người yếu nhất, trong đó người giải nhất sẵn sàng giúp đỡ những người khác, kể cả qua những lúc đụng độ với nhau. Và vì là một hành trình của con người, có những an ủi nhưng cũng có những lúc buồn chán, căng thẳng và cám dỗ.

ĐTC đã kể ra một số cám dỗ có thể có:

– Thứ I là cám dỗ cứng nhắc đố kỵ, nghĩa là muốn khép kín trong chữa viết chứ không để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, Thiên Chúa của những ngạc nhiên, là tinh thần; khép kín trong luật lệ, trong sự chắc chắn về những gì chúng ta biết chứ không phải về những điều mà chúng ta còn phải học và đạt tới. Từ thời Chúa Giêsu, đó là cám dỗ của những người nhiệt thành, những người bối rối, những người ân cần và của những người ngày nay gọi là duy truyền thống (traditionalisti) và cả những người duy trí thức.

– Cám dỗ của những người xuề xòa hủy hoại, nhân danh lòng từ bi đánh lừa, băng bó các vết thương trước khi chữa trị, xức thuốc cho nó; họ chữa trị các triệu chứng mà không chữa nguyên nhân và căn cội. Đó là cám dỗ của những người dễ dãi, những người nhát sợ và cả những người gọi là ”cấp tiến và duy tự do”.

– Cám dỗ muốn biến đá thành bánh, để chấm dứt cuộc ăn chay lâu dài, nặng nề và đau thương (Xc Lc 4,1-4) và biến bánh thành đá, để ném vào những ngừơi tội lỗi, những người yếu đuối và bệnh nhân (Xc Ga 8,7) nghĩa là biến nó thành ”những gánh nặng không thể vác nổi” (Lc 10,27).

– Cám dỗ xuống khỏi thập giá, để làm hài lòng dân, chứ không ở lại trên thập gia để thi hành thánh ý Chúa Cha; khuất phục tinh thần trần thế thay vì thanh tẩy nó và làm cho nó tùng phục Thánh Linh của Thiên cHúa.
– Cám dỗ lơ là đối với kho tàng đức tin, coi mình không phải là người bảo quản nhưng là sở hữu chủ và là chủ nhân, hoặc đàng khác, là cám dỗ lơ là thực tại, dùng một ngôn ngữ tỷ mỉ, và một ngôn ngữ chà nhám để nói bao nhiêu sự mà chẳng nói gì cả! Những thứ đó, người ta gọi là bizantinismi..

Anh chị em thân mến, những cám dỗ đó không được làm cho chúng ta kinh hãi hay ngỡ ngàng và càng không được làm cho chúng ta nản chí, vì không môn đệ nào lớn hơn thầy mình; vì thế nếu Chúa Giêsu đã bị cám dỗ – thậm chí Ngài bị gọi là tướng quỉ Beelzebul (Xc Mt 12,24) – thì các môn đệ của Chúa không thể mong đợi được đối xử tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi, tôi sẽ rất lo lắng và buồn nếu không có những cám dỗ ấy và những cuộc tranh luận sôi nổi; nếu không sự chuyển động tinh thần như vậy, như thánh Ignatio (EE, 6) đã gọi, nếu tất cả đều đồng ý và im lặng trong một thứ an bình giả tạo. Trái lại tôi đã thấy và đã nghe – với niềm vui và biết ơn – những diễn văn và những phát biểu đầy niềm tin, lòng nhiệt thành mục vụ và đạo lý, khôn ngoan, thẳng thắn, can đảm và tự do ngôn luận. Và tôi đã cảm thấy rằng thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình và quy luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn (Xc GL 1752) được đặt trước mắt mình. Và điều này – như chúng ta đã nói ở Hội trường này – không bao giờ đặt lại vấn đề các chân lý nền tảng của bí tích Hôn phối là tính chất bất khả phân ly, một vợ một chồng, chung thủy, sinh sản con cái hay là cởi mở đối với sự sống (Xc GL 1055, 1056 và GS 48).

”Giáo Hội là như thế, là vườn nho của Chúa, là Mẹ đông đảo con cái và là Thày dạy ân cần, không sợ phải xắn tay áo lên để đổ dầu và rượu vào vết thương của con người (Xc Lc 10, 25-37); Giáo hội không nhìn nhân loại từ một lâu đài bằng kiếng để phán xét và xếp loại con người….

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta còn một năm để làm cho những ý tưởng đề nghị được chín mùi, với sự phân định tinh thần đích thực, để tìm ra những giải pháp cụ thể cho bao nhiêu khó khăn và vô số các thách đố mà các gia đình phải đương đầu, mang lại câu trả lời cho bao nhiêu nản chí vây bủa và bóp nghẹt các gia đình.

Một năm để làm việc về bản Tường trình của Thượng HĐGM là bản tóm lược trung thành và rõ ràng về tất cả những gì đã được nói và thảo luận tại Hội trường này và trong các nhóm nhỏ và bản này được trình bày cho các HĐGM như tài liệu chuẩn bị (Lineamenta).

Xin Chúa tháp tùng, hướng dẫn chúng ta trong hành trình này để làm vinh danh Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse! Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi!

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Chúng tôi, các nghị phụ họp tại Roma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Cuộc họp Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường, xin gửi lời chào đến tất cả các gia đình khắp nơi tại các châu lục và đặc biệt là những gia đình bước theo Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn bởi chứng tá hằng ngày mà các bạn đã cho chúng tôi và cả thế giới thấy qua sự trung tín, đức tin, niềm hy vọng và tình yêu của các bạn.

Ngay cả chúng tôi, những chủ chăn của Giáo Hội, cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với những hoàn cảnh và lịch sử khác nhau. Với tư cách là các linh mục và các giám mục, chúng tôi đã gặp gỡ và sống bên các gia đình đã cho chúng tôi thấy, bằng lời nói cũng như hành động, một chuỗi dài những điểm niềm vui cũng như những khó khăn của mình.

Việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng này, khởi đi từ những trả lời cho bảng câu hỏi mà Giáo Hội gửi đi trên khắp thế giới, đã giúp chúng tôi nghe được tiếng nói của nhiều kinh nghiệm trong gia đình. Rồi cuộc đối thoại trong những ngày này của Thượng Hội Đồng cũng làm chúng tôi hiểu hơn, giúp chúng tôi nhìn thấy tất cả những thực tại sống động và phức tạp mà các gia đình đang đối mặt.

Chúng tôi muốn gửi đến các bạn lời của Đức Kitô: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta thì Ta sẽ đến và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ở với ta” (Kh 3,20). Trong suốt hành trình dài trên các con đường ở Đất Thánh, Đức Giêsu đã vào nhà tại các làng mạc, Ngài tiếp tục đi qua các ngả đường của thành phố chúng ta. Đối với các bạn, các bạn trải nghiệm lẫn ánh sáng và bóng tối, những thách đố thú vị nhưng đôi khi cũng có những thử thách đầy kịch tích. Sự tăm tối càng trở nên dày đặc hơn cho đến khi nó trở thành bóng đen, khi những sự xấu và tội lỗi thâm nhập vào tận trung tâm của đời sống gia đình.

Trước hết, có một thách đố rất lớn về sự trung tín trong tình yêu hôn nhân. Đức tin suy yếu và các giá trị đạo đức không được quan tâm, chủ nghĩa cá nhân, các mối tương quan bị kiệt quệ, nổ lực loại trừ sự phản tỉnh ghi dấu ấn của nó trong đời sống gia đình. Có không ít những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng, không có sự kiên nhẫn, xác minh, tha thứ cho nhau, hòa giải và thậm chí là hy sinh. Những sai lầm như thế thường thấy ở những tương quan mới, những cặp đôi mới, mối liên hiệp mới và các đôi hôn phối mới, làm gia tăng những tình huống và vấn đề phức tạp trong gia đình cho các chọn lựa Kitô giáo.

Trong những thách đố này, chúng tôi muốn đề cập đến nỗi đau của chính sự hiện hữu. Chúng tôi nghĩ đến những thống khổ có thể có đối với một em bé bị khuyết tật, một chứng bệnh nghiêm trọng, tinh thần bị suy giảm do tuổi già, cái chết của một người thân yêu. Đáng ngưỡng mộ thay sự trung kiên đầy quảng đại của nhiều gia đình sống trong những thử thách này với lòng can đảm, đức tin và tình yêu, không xem nó như một điều gì đó bị cắt đứt hay tổn thương, nhưng như là cái được trao ban cho mình, nhìn thấy Đức Kitô chịu đau khổ nơi phần thân xác bệnh tật ấy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những khó khăn kinh tế do các hệ thống sai lạc, do “chủ nghĩa thờ đồng tiền và sự chuyên chế của một nền kinh tế vô nhân vị và không nhắm tới con người thật sự” (Evangelii Gaudium, 55), vốn hạ thấp nhân phẩm con người. Chúng tôi cũng nghĩ đến những người cha, người mẹ, thất nghiệp, bất lực trước những nhu cầu thiết yếu của gia đình mình và cả đến các bạn trẻ, những người ở không, không có hoài bão, những người có thể sẽ trở thành nạn nhân của những suy đồi do nghiện ngập hay tội ác.

Chúng tôi cũng nghĩ đến rất nhiều các gia đình nghèo, những người phải bám theo một chiếc thuyền để tìm đến một nơi sinh tồn, đến các gia đình đi di cư mà không có chút hy vọng nào nơi các sa mạc, những những gia đình bị bách hại chỉ bởi vì đức tin và vì những giá trị thiêng liêng và nhân bản của mình, đến những ai bị những tàn bạo của chiến tranh và áp bức vây bủa. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ phải gánh chịu những bạo lực, bị bóc lột sức lao động, đến những nạn nhân của nạn buôn người, đến các trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng bởi chính người chịu trách nhiệm chăm sóc và giúp mình lớn lên trong sự tin tưởng, đến các thành viên của những gia đình bị hạ nhục và trong hoàn cảnh khó khăn. “Nền văn hóa sung túc đang gây mê chúng ta và […] tất cả đời sống đó bị còi cọc đi do thiếu vắng những cơ hội dường như là một cảnh tượng đơn thuần chẳng làm cho chúng ta bận tâm tí nào” (Evangelii Gaudium, 54). Chúng tôi thỉnh cầu đến các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế hãy thăng tiến các quyền về gia đình nhằm hướng đến công ích cho mọi người.

Đức Kitô đã muốn Giáo Hội của Ngài trở thành một ngôi nhà mở rộng cửa để đón tiếp mọi người, không trừ một ai. Chúng tôi biết ơn các chủ chăn, các tín hữu và cộng đoàn đã sẵn sàng đồng hành với các các cặp đôi và các gia đình, đồng thời chăm sóc những vết thương cả nội tâm lẫn xã hội của họ.

* * *
Tuy nhiên, cũng có một ánh sáng chiếu rọi giữa đêm đen, đằng sau những cánh cửa sổ của các tòa nhà ở thành phố, của căn nhà giản dị ở thôn quê hay nơi các làng mạc, hay thậm chí là cả những túp lều: nó tỏa sáng và sưởi ấm cả thể xác lẫn linh hồn. Ánh sáng này, dưới ánh sáng của lịch sử hôn nhân, đã tỏa chiếu từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một món quà, một ân sủng được diễn tả – như sách Sáng Thế nói (2,18) – khi khuôn mặt này “đối diện” với khuôn mặt kia, trong một sự “tương trợ đồng vị với nhau”, nghĩa là ngang nhau và hỗ tương với nhau. Tình yêu giữa người nam và người nữ dạy chúng ta biết rằng dù vẫn khác nhau về căn tính, mỗi người cần đến người kia để là chính mình, mỗi người phải mở ra và tỏ lộ cho nhau. Đó là điều mà người nữ diễn tả một cách rất gợi tình trong sách Diễm Ca: “Người yêu tôi là của tôi và tôi là của người yêu tôi… tôi thuộc về người yêu tôi và người yêu tôi thuộc về tôi” (Dc 2,16; 6,3)

Để cuộc gặp gỡ này được chân thành, lộ trình phải bắt đầu với việc đính hôn, khoảng thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó sẽ đi đến sự thành toàn với bí tích, nơi mà Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, sự hiện diện và ân sủng của Người. Hành trình này cũng bao gồm cả tính dục, sự dịu ngọt, sự thân mật, nét đẹp, vốn là những điều luôn tồn tại, vượt trên cả những mãnh liệt và hăng hái của tuổi trẻ. Tự bản chất, tình yêu có xu hướng còn mãi, cho đến khi trao ban cả sự sống cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Dưới ánh sáng này, tình yêu lứa đôi, duy nhất và bất khả phân ly, luôn tồn tại, bất chấp những khó khăn của giới hạn con người; đây là một trong những phép màu tuyệt vời nhất, và có lẽ cũng là phép lạ chung nhất.

Tình yêu này lan tỏa qua việc sinh sản con cái và phát triển nòi giống, vốn không chỉ liên hệ đến việc sinh con nhưng còn liên quan đến quà tặng đời sống thiêng liêng nơi bí tích Thanh Tẩy, giáo dục và dạy giáo lý cho con trẻ. Nó cũng bao gồm đến việc trao tặng sự sống, tình cảm, các giá trị – một kinh nghiệm mà cả người không có khả năng sinh sản vẫn có thể làm được. Những gia đình nào sống được cuộc phiêu lưu chói lọi này sẽ trở nên dấu chỉ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Trong suốt hành trình, vốn đôi khi có lắm chông gai, khó khăn và vấp ngã, luôn có Chúa hiện diện và đồng hành kề bên. Gia đình cảm nghiệm được điều này việc yêu mến và đối thoại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình sống điều này trong việc cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, một nơi nghỉ ngơi nho nhỏ cho tinh thần mỗi ngày. Rồi cùng dấn thân hàng ngày trong việc giáo dục đức tin và đời sống tốt lành của Tin Mừng, những điều thánh thiêng. Cả ông bà cũng cùng chia sẻ và thực thi trách nhiệm này với một sự yêu mến và dấn thân lớn lao. Như thế, gia đình sẽ trở thành một Giáo Hội tại gia chân thực, rồi nới rộng ra thành một gia đình trong các gia đình làm nên cộng đoàn giáo hội. Các cặp vợ chồng Kitô hữu được mời gọi để trở thành những thầy dạy đức tin và tình yêu cho những cặp trẻ hơn.

Một diễn tả khác của sự hiệp thông huynh đệ là sự diễn tả của đức ái, của trao ban, của việc gần gũi với những ai thấp bé, những người bị gạt ra bên ngoài xã hội, những người nghèo, những người đơn chiếc, bệnh nhân, người ngoại quốc, những gia đình khác đang gặp khủng hoảng, ý thức về lời Chúa: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đó là món quà của điều thiện hảo, của việc đồng hành, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá của chân lý, của ánh sáng, của ý nghĩa cuộc sống.

Điểm quy tụ và tóm kết mọi dây hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân chính là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, khi tất cả gia đình và Giáo Hội cùng ngồi bên bàn tiệc của Chúa. Ngài đã trao ban cho tất cả chúng ta, những người hành hương trong lịch sử tiến về điểm gặp gỡ chung kết khi “Đức Kitô trở nên tất cả và trong tất cả” (Cl 3,11). Vì thế, trong chặng đầu tiên của khởi đầu Công Nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy tư về việc trợ giúp mục vụ và về việc tham dự bí tích cho những ai đã ly dị tái hôn.

Chúng tôi, các nghị phụ, xin anh chị em hãy bước đi cùng chúng tôi hướng về Cuộc Họp Thượng Hội Đồng sắp tới. Nguyện xin sự hiện diện của gia đình Giêsu, Maria và Giuse trong ngôi nhà đơn sơ của họ luôn ấp ủ các bạn. Cùng với Thánh Gia Nazaret, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời cầu khẩn của chúng tac ho tất cả gia đình dưới thế:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình có được những người vợ người chồng khôn ngoan và mạnh mẽ để họ có thể là nguồn mạch của một gia đình hiệp nhất và tự do.
Lạy Cha, xin ban cho các bậc cha mẹ có một mái nhà để sống bình an với gia đình của mình.
Lạy Cha, xin giúp những người làm con trở thành một dấu chỉ của niềm tin, niềm hy vọng, và giúp cho người trẻ có được một sự dấn thân vững bền và trung tín.
Lạy Cha, xin giúp cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hằng ngày nhờ đôi tay của mình, có thể hưởng nếm sự thanh thản tinh thần và giữ được ngọn lửa đức tin luôn bừng cháy, dù giữa lúc đêm đen.
Lạy Cha, xin giúp tất cả chúng con thấy được một Giáo Hội nở rộ sự trung tín và đáng tin, một thành phố công chính và nhân bản, một thế giới yêu mến chân lý, công bằng và lòng xót thương.


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Nên nộp thuế chăng?

Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
 
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
 
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
 
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
 
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
 
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
 
Veritas Radio

Nên giống Chúa

Nên giống Chúa

Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?

Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
 
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu đón nhận.
 
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.
 
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
 
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp… nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
 
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
 
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
 
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
 
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
 
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
 
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
 
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
 
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
 
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
 
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
 
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
 
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
 

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Trả về

Trả về

Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
 
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
 
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
 
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
 
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
 
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
 
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
 
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. 
 
Sưu tầm

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp Thủ tướng Việt Nam

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp Thủ tướng Việt Nam

VATICAN. Trưa thứ bẩy, 18-10-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam.
Toàn văn Thông cáo báo chí của Tòa Thánh nói rằng:

”Hôm nay ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Thủ Tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng. Sau đó Thủ tướng đã gặp ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, có Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti tháp tùng.

”Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị bày tỏ sự hài lòng về cuộc gặp gỡ hôm nay, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong tiến trình củng cố những quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, vì đây là lần thứ hai, Thủ Tướng Dũng thực hiện cuộc viếng thăm tại Vatican sau cuộc viếng thăm hồi năm 2007. Trong cuộc hội kiến có nêu bật sự dấn thân của Giáo Hội đóng góp vào việc phát triển đất nước, nhờ sự hiện diện của Giáo Hội trong nhiều lãnh vực để mưu ích cho toàn thể xã hội. Trong bối cảnh đó có tái khẳng định sự đánh giá cao đối với sự nâng đỡ của Chính Quyền dành cho Cộng đồng Công Giáo trong khuôn khổ những phát triển được Hiến Pháp năm 2013 khẳng định liên quan đến chính sách tôn giáo, cũng như về sự trợ giúp cho Vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam trong việc thi hành sứ mạng của Ngài, nhắm thăng tiến quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước, hướng tới mục tiêu chung là các quan hệ ngoại giao. Rồi cũng đề cập tới một vài vấn đề mà hai bên cầu mong sẽ được đào sâu và giải quyết qua các kênh đối thoại hiện có.

Sau cùng, hai bên trao đổi ý kiến về một vài đề tài thời sự trong miền và quốc tế, đặc biệt là những sáng kiến nhắm thăng tiến hòa bình và sự ổn định tại Á châu”. (SD 18-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio