Đừng làm gương xấu sống hai mặt

Đừng làm gương xấu sống hai mặt

Một khuyết điểm thông thường của những người có quyền bính, quyền bính dân sự cũng như quyền bính tôn giáo, là đòi hỏi nơi những người khác các điều cả khi đúng đắn, nhưng họ lại là những người đầu tiên không thực hành chúng. Thái độ này là một gương xấu trong việc thực thi quyền bính, đáng lý ra phải nêu gương tốt. Quyền bính là một trợ giúp, nhưng nếu được thực thi một cách xấu xa thì nó trở thành áp bức, không để cho con người lớn lên và tạo ra một bầu khí mất tin tưởng thù nghịch và cả thối nát nữa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua.

Giải thích Phúc Âm Chúa Nhật 31 thường niên ghi lại lời Chúa Giêsu quở trách giới lãnh đạo Do thái ĐTC nói: Trình thuật được lồng khung trong các ngày cuối cùng cuộc đời của Chúa tại Giêrusalem; những ngày tràn đầy chờ mong và cũng căng thẳng. Một đàng Chúa Giêsu đưa ra lời phê bình các ký lục và biệt phái, đàng khác Ngài để lại các huấn thị cho các tín hữu kitô thuộc mọi thời đại, vì thế bao gồm cả chúng ta nữa.

Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ”. Điều này có nghĩa là họ có quyền giảng dậy điều phù hợp với Luật của Thiên Chúa. Nhưng ngay sau đó Chúa Giêsu nói thêm: “còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (cc.2-3). ĐTC giải thích sự kiện này như sau:

Anh chị em thân mến, đây là một khuyết điểm thông thường của những người có quyền bính, quyền bính dân sự cũng như quyền bính tôn giáo, là đòi hỏi nơi những người khác các điều,  cả các điều đúng đắn, nhưng họ lại là những người đầu tiên không thực hành chúng. Họ có cuộc sống hai mặt. Chúa Giêsu nói: “ Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (c.4)”. Thái độ này là một việc thực thi xấu quyền bính, đáng lý ra phải có được sức mạnh đầu tiên của nó trong việc nêu gương tốt. Quyền bính nảy sinh từ gương tốt, để giúp các người khác thi hành điều đúng đắn và phải làm, bằng cách yểm trợ họ  trong các thử thách gặp phải trên con đường sự thiện. Quyền bính là một trợ giúp, nhưng nếu thực thi xấu, thì nó trở thành áp bức, không để cho con người lớn lên và tạo ra một bầu khí không tin tưởng và thù nghịch, và đưa tới cả sự thối nát nữa. Đó là thái độ chỉ sống bề ngoài.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Chúa Giêsu công khai tố cáo vài thái độ tiêu cực của các ký lục và của vài người pharisêu: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráb-bi" (cc. 6-7). Đây là một cám dỗ tương xứng với sự kiêu ngạo và không luôn luôn dễ mà thắng vượt được nó.

Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra các huấn thị cho các môn đệ Ngài: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "ráb-bi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.” (cc.8-11). Áp dụng vào cuộc sống tín hữu ĐTC nói:

Là các môn đệ của Chúa Giêsu chúng ta không được tìm kiếm các tước hiệu danh dự, quyền bính hay sự tối cao. Tôi nói với anh em rằng riêng cá nhân tôi tôi rất đau lòng, khi thấy những người có tâm lý chạy theo các danh dự hư không. Chúng ta là các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không được làm điều này, bởi vì giữa chúng ta phải có một thái độ đơn sơ và huynh đê. Chúng ta tất cả là anh em và chúng ta không được chèn ép các người khác và nhìn họ từ trên cao xuống. Không, chúng ta tất cả là anh em với nhau. Nếu chúng ta đã nhận được các phẩm tính từ Cha trên trời, chúng ta phải dùng chúng để phục vụ các anh em khác, và không lợi dụng chúng cho sự thoả mãn của chúng ta và lợi lộc cá nhân. Chúng ta không được coi mình cao hơn người khác, lòng khiêm tốn là điều nòng cốt cho một cuộc sống muốn phù hợp với giáo huấn của Chúa Giêsu, là Đấng dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và đã đến không khải để được phục vụ, mà là để phục vụ.

Xin Đức Trinh Nữ Maria “là thụ tạo khiêm nhường và cao cả nhất” (Dante, Thiên Đàng, XXXIII,2) giúp chúng ta với sự bầu cử hiền mẫu của Mẹ, xa lánh sự kiêu ngạo và hư danh, biết khiêm nhường và ngoan ngoãn đối  với  tình yêu đến từ Thiên Chúa, để phục vụ các anh em của chúng ta và cho niềm vui của họ cũng sẽ là niềm vui của chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh  Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới lễ phong chân phước tại Indore bên Ấn Độ cho  chị Maria Vattalil nữ tu dòng Clarist Phan Sinh, bị giết vì đức tin kitô năm 1995. Nữ tu Vattalil đã làm chứng cho Chúa Kitô trong tình yêu và sự dịu hiền, và kết hiệp với đạo binh đông đúc các vị tử đạo của thời đại chúng ta. Ước chi hy lễ  của chị  là hạt giống đức tin và hoà bình đặc biệt trên đất Ấn Độ. Chị đã rất là tốt lành. Người ta đã gọi chị là “nữ tu của nụ cười”.

ĐTC đã chào các nhóm tín hữu và khách hành hương đến từ Gomel bên Bạch Nga, các thành viên Hiệp hội Trung tâm hàn lâm viện Roma Madrid, cũng như tín hữu các thành phố Valencia, Murcia và Torrente bên Tây Ban Nha, và các nữ tu chị em Chúa Quan Phòng mừng 175 năm thành lập. Ngài cũng chào ca đoàn trẻ Minipolifonici tỉnh Trento bắc Italia và mời họ hát một chút sau đó. ĐTC cũng chào các ca đoàn Candiana, Maser và Bagnoli di Sopra, cũng như các tham dự viên đại nhạc hội và nghệ thuật thánh đến từ nhiều nước khác nhau, và tín hữu đến từ Altamura, Guidonia và Lodi và giáo xứ thánh Luca ở Roma. Sau cùng ngài chúc tất cả ngày Chúa Nhật tươi vui và xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải

Hãy từ bỏ lối sống hai mặt

Hãy từ bỏ lối sống hai mặt

Đừng gây ra những cú sốc với lối sống hai mặt, đừng gây cớ vấp phạm cho những người bé nhỏ, vì những điều ấy hủy hoại cuộc sống; và đừng trì hoãn việc hoán cải. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống hai mặt là gì?

Trong bài Tin Mừng, Chúa nói đến chuyện thà “chặt tay, móc mắt” và đừng “gây cớ vấp phạm cho những người bé nhỏ”. Điều ấy có nghĩa là hãy sống ngay thẳng đơn thành và tin tưởng Thiên Chúa. Vì gây cớ vấp phạm có nghĩa là đang phá hủy.

Sống hai mặt là gì? Gây cớ vấp phạm, có nghĩa là nói một đàng làm một nẻo, là sống kiểu hai mặt, là sống hai mặt. Lối sống hai mặt là thế này. Một mặt, tôi nói tôi là người Công giáo, tôi luôn đi Lễ, tôi tham gia hiệp hội này hội đoàn kia. Mặt khác, đời sống của tôi thì không Công giáo chút nào, vì tôi trả lương bất công cho nhân viên, tôi chơi bẩn khi kinh doanh, tôi khai thác con người, tôi rửa tiền… Đó là cuộc sống hai mặt. Và nhiều người Công giáo là như vậy. Đó là những thứ chướng tai gai mắt. Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe giữa chúng ta nơi các góc phố hoặc nhiều nơi khác rằng, là người Công giáo mà sống tệ thế, chẳng thà là người vô thần. Thế đó, những cú sốc ấy, những vụ bê bối ấy có sức mạnh hủy hoại. Những thứ đó hủy hoại bạn. Chúng ta thấy nhan nhản những vụ bê bối trên báo chí, thậm chí là những vụ lớn. Những thứ tệ hại đó đang ra sức phá hủy.

Chúa nói gì với kẻ sống hai mặt?

Có ví dụ về công ty lớn đang trên bờ phá sản. Các nhà hữu trách muốn tránh một cuộc đình công chính đáng, nhưng họ lại không làm tốt việc này, và họ muốn nói chuyện với giới lãnh đạo của công ty. Những ngày sau đó, người dân không có tiền để chi trả cho các nhu cầu hàng ngày vì họ không nhận được tiền lương. Trong khi đó, người có trách nhiệm giải quyết vụ việc, là một người Công giáo, lại thản nhiên thực hiện kỳ nghỉ trên bãi biển vùng Trung Đông. Thế đấy! Đó là một vụ bê bối, đó là lối sống hai mặt.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về những người sống hai mặt thế này: “Khi bạn đến Cửa Thiên Đàng, gõ cửa và nói: Con đây, lạy Chúa!” Nhưng Ta sẽ nói: “Ta không biết ngươi. Ta không nhớ ngươi.”. Người ấy có thể nói tiếp: “Con đã đi nhà thờ, con đã tham gia hội đoàn đó, con đã làm điều ấy… Chúa không nhớ sao?”. Chúa đáp lại: “Ừ. Ta nhớ. Ta nhớ tất cả những gì tệ hại, tất cả những gì ngươi ăn cắp từ người nghèo. Ta không biết ngươi.”. Thế đó, Chúa Giêsu sẽ trả lời như thế cho những kẻ sống hai mặt.

Xin ơn mau mắn hoán cải

Thật là tốt cho tất cả chúng ta, cho mỗi người chúng ta, là hôm nay nghĩ về điều gì đó mang tính hai mặt trong cuộc sống chúng ta, những gì xem ra là công bằng, những gì có vẻ như là người tín hữu tốt, có vẻ là người Công giáo tốt, nhưng thực tế lại khác. Nếu có cái gì đó còn là kiểu sống hai mặt, nếu tôi còn quá tự tin theo kiểu: “Chúa sẽ tha thứ tất cả cho tôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục hai mặt”. Nếu có điều gì đó để tôi nói: “Vâng, điều ấy thật không tốt, tôi sẽ thay đổi, sẽ hoán cải, nhưng không phải là hôm nay, để ngày mai”. Nếu chúng ta vẫn còn nghĩ như thế, thì hãy ngẫm suy Lời Chúa ngày hôm nay, để cảm thấy rằng, khó mà có Chúa trong những thứ ấy. Vì lối sống hai mặt chỉ ra sức hủy hoại mà thôi.

Tứ Quyết SJ

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh giác các Kitô hữu trước một lối sống hai mặt, phô diễn ra cho người khác thấy vẻ bên ngoài sáng láng, thánh thiện nhưng trong tâm hồn lại vô cùng đen tối. Đức Thánh Cha cũng khuyến khích các tín hữu biết bước đi trong ánh sáng chứ đừng lún sâu vào con đường tối tăm, vì chân lý của Thiên Chúa không thể được tìm thấy nơi đó.

Khởi đi từ bài đọc được trích từ thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ, Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của mình về trận chiến bất tận với tội lỗi. Ngài nói rằng chúng ta phải trở nên tinh tuyền như Chúa Cha, nhưng nếu chúng ta phạm tội chúng ta vẫn có thể cậy dựa vào sự tha thứ và lòng xót thương của Chúa. Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến sự khuyến cáo của các Tông đồ với các tín hữu: phải nói sự thật và đừng sống hai mặt, đừng nói một đường mà lại làm một nẻo.

Nếu bạn nói bạn kết hiệp với Chúa, thì phải bước đi trong ánh sáng, không sống hai mặt. Chúng ta thấy quen với những lời dối trá và cũng có cám dỗ nói dối nữa đúng không? Nói điều này nhưng lại làm điều khác đúng không? Cám dỗ sẽ không bao giờ ngừng. Chúng ta đã biết sự dối trá đến từ đâu. Trong Phúc Âm, Đức Giêsu gọi ma quỷ là ‘cha của sự dối trá’; là kẻ lừa dối, xảo quyệt. Chính vì điều này mà các giáo phụ khuyên nhủ Giáo hội thời sơ khai với sự yêu mến và đầy tình thương là: ‘Đừng dối trá! Anh chị em kết hợp với Chúa, thì hãy bước đi trong ánh sáng. Làm việc ngay chính, đừng nói một đường mà lại  làm một nẻo. Đừng sống hai mặt.’

Hãy để ý Thánh Gioan bắt đầu lá thư với lời chào ‘các con’. Đây cũng chính là lời của các giáo phụ nói với con cái mình trong thời Giáo hội sơ khai vời tràn đầy tình yêu, sự an ủi và vỗ về. Lời này cũng nhắc nhớ lại lời hứa của Đức Giêsu là sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Cũng vậy, Thánh Gioan khuyến cáo các tín hữu đừng phạm tội, nhưng nếu ai có lỡ phạm tội thì cũng đừng thất vọng nản chí.

Chúng ta có Đấng Bào Chữa luôn chuyển cầu cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha, đó là Đức Giêsu, Đấng Công Chính. Ngài thánh hóa chúng ta nên thánh thiện, tinh tuyền. Chính Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Các giáo phụ đã khuyên chúng ta như thế này: ‘Còn điều gì xấu xa hơn là phạm tội nữa không? Xin thưa là không. Tội lỗi là thứ xấu xa nhất. Nhưng nếu phạm tội, hãy nhìn lên Đấng đang chờ đợi để tha thứ cho anh chị em. Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi của chúng ta.’”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Chính nhờ lòng thương xót và sự cao cả của Thiên Chúa mà chúng ta có được sức mạnh. Chúng ta phải bước đi trong ánh sáng vì Chúa là sự sáng. Đừng bước một chân trong ánh sáng còn chân kia lại trong bóng tối. Đừng là kẻ dối trá. Chúng ta nên biết rằng tất cả chúng ta đều tội lỗi. Bởi vậy, không ai có thể nói người khác rằng: ‘Ông này có tội hay cô kia có tội. Còn tôi, tạ ơn Chúa, tôi công chính, thánh thiện.’ Không. Chỉ có một Đấng Công Chính mà thôi. Ngài đã chuộc tội cho chúng ta. Và nếu có ai trong chúng ta phạm tội, Ngài sẽ chờ đợi và sẵn sàng tha thứ, vì Thiên Chúa đầy lòng xót thương và biết rõ rằng chúng ta được tạo dựng nên bằng gì và chúng ta chỉ là thân phận cát bụi mà thôi. Ước mong rằng niềm vui từ bài đọc một ngày hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống một đời Kitô đơn sơ và trong sáng, trên hết là khi chúng ta hướng về Thiên Chúa với tất cả sự thật.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Pope answer on the plane when come back to Rome

Chiều Chúa Nhật 12-7 vừa qua trên chuyến bay từ Paraquay về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài, liên quan tới chuyến viếng thăm tại ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay, cũng như liên quan tới một vài vấn đề thời sự như cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cuộc đối thoại giữa Cuba và Hoa Kỳ, tình hình Colombia và Venenezuela vv…

Say đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn. Bốn câu đầu ĐTC đã trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, các câu sau bằng tiếng Ý.

Nhà báo Anibal Velazquez của nhật báo ABC Color Paraguay hỏi: thưa ĐTC, dân chúng vui mừng vì ĐTC đã nâng đền thánh Caacupé lên hàng Vương cung thánh đường, nhưng họ tự hỏi Paraguay có tội gì mà chưa có Hồng Y?

Đáp: Không có Hồng Y không phải là một tội. Đa số các nước trên thế giới không có Hồng Y. Quốc tịch của các HY là thiểu số. Đúng thật là cho tới nay Paraguay chưa có HY nào. Tôi không biết lý do. Đôi khi để chọn các HY người ta cân nhắc, đọc và nghiên cứu các hồ sơ của từng vị, xem xét con người, nhất là đặc sủng của HY sẽ được chọn để cố vấn cho ĐGH và trợ giúp Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ. HY tuy thuộc về một Giáo Hội địa phương nhưng được gia nhập vào Giáo Hội Roma và có một cái nhìn đại đồng. Điều này không có nghĩa là tại Paraguay không có các Giám Mục có quan điểm vũ hoàn. Nhưng lý do vì không thể chỉ định qúa 120 HY có quyền bầu Giáo Hoàng. Uruguay đã có hai vị. Một vài nước Trung Mỹ cũng đã có HY, nhưng tất cả tuỳ thuộc các hoàn cảnh, con người và đặc sủng. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là các Giám Mục Paraguay không có giá trị gì. Paraguay có các Giám Mục thiên tài. Tôi nhớ là có hai Giám Mục Bogarin đã làm nên lịch sử Paraguay. Nếu nhìn vào Giáo Hội Paraguay thì Paraguay đáng có hai HY, nhưng nó không liên quan gì tới công nghiệp. Paraguay là một Giáo Hội sống động, tươi vui, một Giáo Hội chiến đấu và có một lịch sử vinh quang.

Hai chị Priscilla Quiroga của đài truyền hình Kênh A và chị Cecillia Dorado Nava của nhật báo El Deber Bolivia thì hỏi: xin ĐTC cho biết ý kiến liên quan tới ước muốn  của Bolovia trong cuộc thương thuyết với Chile để có lối ra Thái Bình Dương. Trong trường hợp hai nước xin Tòa Thánh làm trung gian ĐTC có nhận không?

Đáp: Làm trung gian là một việc rất tế nhị và như là bước cuối cùng. Cũng như trong trường hợp giữa Argentina và Chile để tránh một cuộc chiến. Tình hình đã rất là căng thẳng nên Tòa Thánh đã dấn thân, vì thế Thánh Gioan Phaolô II đã luôn chú ý, ngoài ra có thiện chí của cả hai nước muốn thương thuyết. Có điều lạ, ít nhất là bên Argentina có một nhóm không muốn sự trung gian này, và khi tổng thống Alfonsin tổ chức trưng cầu dân ý có muốn chấp nhận đề nghị trung gian không, thì đương nhiên đa số dân nói là có, nhưng có một nhóm không muốn. Luôn luôn khi có vấn đề trung gian, thì khó có chuyện toàn dân đều đồng ý. Nhưng việc làm trung gian là bước cuối cùng, vì luôn luôn có các gương mặt ngoại giao và các người tạo thuận tiện khác trợ giúp giàn xếp vấn đề.

Trong lúc này thì tôi cho rằng phải rất tôn trọng để cho Bolivia đưa vấn đề ra một toà án quôc tế. Vì vậy, nếu tôi bình luận trong lúc này – tôi là thủ lãnh của một quốc gia – nó sẽ có thể bị giải thích như là xen mình vào hay gây áp lực hoặc gì khác. Tôi cho rằng cần tôn trọng quyết định của nhân dân Bolivia. Và cũng cần xem trước đây đã có các yêu cầu đối thoại hay chưa. Tôi không rõ. Điều tôi biết đó là vào thời tổng thống Lagos của Chile, tôi không nhớ rõ thời gian chính xác, người ta đã tìm một giải pháp. Đây là bình luận mà ĐHY Errazuris nói với tôi. Do đó, tôi không muốn nói gì về điều này cả.

Điểm thứ ba mà tôi muốn thừa nhận rõ ràng. Đó là trong nhà thờ chính tòa Bolivia tôi đã đề cập đến một vấn đề rất tế nhị, khi chú ý tới tình hình cậy nhờ toà án quốc tế. Tôi nhớ rõ mình đã nói: “Là anh em thì cần đối thoại, các dân tộc mỹ latinh cần đối thoại để tạo dựng quốc gia lớn, đối thoại cần thiết” Tới đó tôi thinh lặng rồi nói “Tôi nghĩ tới biển”, và tiếp tục nói: “đối thoại và đối thoại”. Tôi tin rằng sự can thiệp của tôi nhắc tới vấn đề này, nhưng tôn trọng tình hình hiện nay. Vì trong một tòa án quốc tế thì không thể nói tới việc làm trung gian, cũng như tạo thuận tiện, mà chỉ hy vọng thôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, như thế ước vọng của nhân dân Bolivia có chính đáng không?

Đáp: Luôn luôn có một nền tảng công lý, khi có việc thay đổi ranh giới, và nhất là sau một cuộc chiến. Cần phải liên tục xem xét lại. Tôi sẽ nói rằng việc đề nghị một chuyện thuộc loại này, ước vọng này không phải là không chính đáng. Tôi nhớ là hồi năm 1961, khi đang học triết học năm thứ nhất, chúng tôi nhận được một tài liệu về Bolivia do một cha từ Bolivia đem sang, tôi tin nó có đề tựa là “Mười ngôi sao”. Cha hỏi: “Bolivia có mấy vùng?” Chúng tôi trả lời là có 9 vùng. Cha trả lời “có 10 vùng”, rồi giới thiệu từng vùng một ,và sau cùng là vùng thứ 10 cha nhìn biển và không nói lời nào cả. Tôi rất xúc động. Đó là hồi năm 1961. Nếu người ta thấy là có một khát vọng, thì rõ ràng rồi, sau một trận chiến loại này dấy lên các mất mát, thì tôi tin điều quan trọng nhất là đối thoại, là thương thuyết lành mạnh. Giờ đây trong lúc này việc đối thoại có được là chạy tới tòa án La Haye.

Ông Fredy Paredes, thuộc nhật báo Teleamazonas Ecuador hỏi: Thưa ĐTC, trước chuyến viếng thăm của ĐTC nưóc Ecuador náo loạn, sau khi ĐTC rời nước này, những người chống đối chính quyền lại xuống đường biểu tình. Xem ra sự hiện diện của ĐTC tại Ecuador bị sử dụng cho mục đích chính trị đặc biệt câu ĐTC nói: “Nhân dân Ecuador đã đứng lên với phẩm giá”. Con xin hỏi ĐTC theo thứ tự nếu được: “Câu này trả lời cho cái gì? ĐTC có thiệm cảm với dự án chính trị của tổng thống Correa không? ĐTC có tin rằng các lời nhắn nhủ chung mà ĐTC đã đưa ra trong chuyến viếng thăm tại Ecuador nhằm khích lệ sự tăng trưởng, đối thoại, xây dựng dân chủ và không tiếp tục đường lối chính trị gạt bỏ như ĐTC nói, có được thực thi tại Ecuador hay không?

Đáp: Đương nhiên là có các vấn đề chính trị và các cuộc biểu tình. Điều này thì người ta biết rồi. Tôi không biết các khó khăn của nền chính trị tại Ecuador, nên việc đưa ra một ý kiến từ phía tôi sẽ là điều vô nghĩa. Thế rồi người ta nói với tôi,  như một dấu ngoặc trong chuyến viếng thăm của tôi, là tôn trọng chuyến viếng thăm của ĐGH, đó là diều tôi xin cám ơn và trân trọng. Giờ đây các sự vật biến chuyển, và đương nhiên là các vấn đề và các thảo luận chính trị tiếp diễn. Liên quan tới câu nói mà anh đề cập đến, tôi có ý ám chỉ ý thức lớn hơn mà người dân Ecuador có đối với giá trị của họ. Một trận chiến biên giới với Peru không làm được nhiều. Có các lịch sử chiến tranh. Rồi có một ý thức lớn hơn đối với sự khác biệt và phong phú chủng tộc của Ecuador. Và diều này trao ban phẩm giá. Ecuador không phải là một nước bị gạt bỏ. Nó quy chiếu toàn dân và tất cả phẩm giá của dân tộc này, sau cuộc chiến biên giới, họ đã đứng lên với phẩm giá, và đã có ý thức hơn về phẩm giá và sự phong phú của sự hiệp nhất trong khác biệt của mình. Không thể gán cho một tình hình cụ thể, bởi vì cũng chính câu này – người ta bình luận, nhưng tôi không thấy như thế – bị lèo lái để giải thích cả hai tình trạng: chính quyền đã đứng lên tại Ecuador hay những người chống chính quyền đã dứng lên. Một câu nói có thể bị lèo lái, và vì thế tôi tin là cần rất thận trọng. Tôi xin cám ơn câu hỏi cuả anh, bởi vì đó là một kiểu cẩn thận. Và anh đang nêu gương cẩn thận đấy.

Nếu anh chị em cho phép. Việc giải thích một văn bản thật rất quan trọng trong công việc của anh chị em. Không  thể giải thích nó chỉ với một câu. Có những câu là chià khóa  của việc giải thích, và có những câu không là chìa khóa nhưng là những câu qua đi, hay linh động. Vì vậy, cần xem xét hết bối cảnh, tình hình và lịch sử. Nhìn lịch sử của lúc này, hay chúng ta đang nói tới qúa khứ, giải thích một sự kiện quá khứ với kiểu giải thích của thời đó. Chẳng hạn như các cuộc chiến của thập tự quân cần phải giải thích chúng với kiểu giải thích của thời bấy giờ. Điều nòng cốt là giải thích một diễn văn, hay bất cứ bản văn nào, với một loại giải thích toàn vẹn, chứ không cô lập.

Chị Stefania Falasca của nhật báo Avvenire của Italia hỏi: Thưa ĐTC, trong bài nói chuyện với các Phong trào bình dân tại Bolivia ĐTC  đã đề cập tới phong trào tân thực dân và việc tôn thờ thần tiền khống chế nền kinh tế và áp đặt các chính sách thắt lưng buộc bụng luôn luôn thiệt thòi cho dân nghèo. Từ nhiều tuần nay bên Âu châu chúng ta có trường hợp của Hy Lạp và số phận của nước này có nguy cơ ra khỏi khối Euro. ĐTC nghĩ gì về những điều đang xảy ra tại Hy Lạp và cũng liên quan tới Âu châu?

Đáp: Trước hết bởi vì sự can thiệp này cuả tôi trong đại hội của các Phong trào bình dân là lần can thiệp thứ hai. Lần thứ nhất là tại Vaticăng trong phong họp cũ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, hồi đó có 120 tham dự viên. Cuộc hội này đã do Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình tổ chức. Tôi gần gũi với nó, bởi vì nó là một hiện tượng trên toàn thế giới. Kể cả bên Đông phương, bên Philippines, Ấn Độ, Thái Lan. Chúng là các phong trào được tổ chức giữa chúng, không phải chỉ để phản đối mà để tiến tới và có thể sống. Và chúng là các phong trào có sức mạnh, và các anh chị em này đông biết bao. Họ không cảm thấy được đại diên bởi các nghiệp đoàn, vì họ nói rằng các nghiệp đoàn ngày nay là một nghiệp hội, không tranh đấu nữa – tôi đang đơn giản hóa một chút – nhưng ý tưởng của biết bao nhiêu người của các anh chị em này đó là các nghiệp đoàn không tranh đấu cho các quyền lợi của người nghèo. Và Giáo Hội không thể thờ ơ. Giáo Hội có một Giáo lý xã hội  và đối thoại với phong trào này và đối thoại tốt. Anh chị em đã thấy lòng hăng hái cảm nhận được rằng Giáo Hội không xa cách chúng ta, Giáo Hội có một giáo lý giúp chúng ta tranh đấu cho điều này. Đó là một cuộc đối thoại. Không phải Giáo Hội lựa chọn con đường vô chính phủ. Không. Họ không vô chính phủ. Họ là những người làm việc, tìm làm biết bao công việc, kể cả với  những gì bị vứt bỏ, những gì thừa thãi. Họ  thực sụ là các công nhân. Đó là tầm quan trọng của sự kiện này.

Liên quan tới Hy Lạp và hệ thống quốc tế: tôi rất dị ứng với kinh tế, bởi vì cha tôi đã là một kế toán viên và khi không làm xong việc ở sở, thì người đem về nhà làm, cả ngày thứ bẩy và Chúa Nhật, với các sách thời đó, viết theo kiểu chữ gô tích, và người làm việc… và tôi trông thấy cha tôi như vậy, và tôi dị ứng. Tôi không hiều rõ sự việc  ra sao, nhưng chắc chắn sẽ đơn sơ khi nói rằng lỗi chỉ là tại phần này. Các chính quyền Hy Lạp đã đưa tình trạng nợ nần quốc tế tới diểm này cũng có phần trách nhiệm của họ. Với chính quyền mới người ta đã đi tới một việc duyệt xét hơi đúng. Tôi cầu mong và đây là điều duy nhất tôi có thể nói với chị, vì tôi không biết  rõ… tôi cầu mong họ tìm ra một con đường dể giải quyết vấn đề Hy Lạp, và cả một con đường để giám sát không để xảy ra vấn đề này trong các nước khác; và ước gì điều này giúp chúng ta tiến tới, bởi vì con đường vay mượn và nợ nần sau cùng không bao giờ tận. Người ta đã nói với tôi cách đây một năm rằng Liên Hiệp Quốc có một chương trình (nếu ai trong anh chị em biết thì xin giải thích ), một chương trình theo đó một quốc gia có thể tuyên bố mình vỡ nợ, không phải là tình trạng default, nhưng một chương trình tôi đã nghe và không biết nó đã đi tới đâu rồi, và có thật hay không. Tôi nói thể để minh giải thôi, nếu một hãng xưởng có thể tuyên bố mình vợ nợ, thì tại sao một nước lại không thể làm như thế, và đi tới sự trợ giúp của các nước khác? Đó đã là các nền tảng của dự án, nhưng tôi không thể nói thêm gì khác.

Liên quan tới các tân thực dân: đương nhiên là chúng liên quan tới mọi giá trị rồi. Thực dân của chủ thuyết tiêu htụ. Chiếc áo của huynh hướng tiêu thụ đã là một tiến bộ của thực dân. Vì nó đưa tới cho bạn một thói quen không phải là của bạn, và nó cũng khiến cho bạn mất thăng bằng. Chủ thuyết tiêu thụ cũng khiến cho nền kinh tế bên trong một nước mất thăng bằng, cả công lý xã hội và sức khoẻ thể lý và tâm thần cũng mất thăng bằng. Đó là một thí dụ thôi.

Chị Anna Matranga, phóng viên của đài trruyền hình CBS hỏi: Thưa ĐTC một trong các sứ điệp mạnh mẽ nhất của chuyến công du này đó là hệ thống kinh tế toàn cầu thường áp đặt tâm thức của lợi nhuận bằng mọi giá, gây thiệt hai cho dân nghèo. Điều này bị dân Mỹ coi như là lời chỉ trích trực tiếp hệ thống kinh tế và kiểu sống của họ. ĐTC trả lời thế nào cho nhận thức này? Và đâu là lượng định của ĐTC đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên  thế giới?

Đáp: Điều tôi đã nói, câu nói ấy không mới mẻ. Tôi đã nói trong Thông điệp Niềm Vui Phúc Âm: “nền kinh tế này giết chết”. Tôi nhớ rõ câu này. Có một bối cảnh. Và tôi cũng nói trong Thông điệp “Laudato si’ “, việc chỉ trích không phải là một điều mới lạ, người ta biết đó. Tôi đã nghe rằng bên Hoa Kỳ đã có vài lời chỉ trích. Tôi đã nghe, nhưng tôi chưa đọc và nghiên cứu để rồi đối thoại. Chị sẽ hỏi  tôi nghĩ gì, nhưng nếu tôi chưa đối thoại với những người đã chỉ trích, thì tôi không có quyền đưa ra một tư tưởng, cô lập khỏi cuộc đối thoại.

Hỏi: Thưa ĐTC giờ đây ĐTC sẽ sang Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ mình sẽ được tiếp đón như thế nào không, ĐTC có ý tưởng nào về quốc gia này không?

Đáp: Không, bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu, bởi vì cho tới nay tôi đã nghiên cứu ba nước rất xinh đẹp mới viếng thăm này, chúng là một sự phong phú và là một vẻ đẹp. Bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu nước Cuba, vì tôi sẽ viếng thăm trong hai ngày rưỡi, rồi Hoa Kỳ, ba thành phố miền Đông – vì tôi không thể đi đến miền Tây – là Whasington, New York và Philadelphia, tôi phải bắt đầu nghiên cứu các chỉ trích này rồi đối thoại một chút.

Chị Aura Vistas Miguel hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã cảm thấy gì khi trông thấy cây thánh giá hình búa liềm và Chúa Kitô trên đó, do tổng thống Morales dâng tặng? Và cây Thánh Giá ấy đâu rồi?

Đáp: Thật là lạ, tôi không biết điều này và tôi cũng không biết là cha Espinal đã là một nhà điêu khắc và cũng là thi sĩ. Tôi mới chỉ biết trong các ngày này thôi. Tôi đã thấy cây thánh giá, và đối với tôi nó đã là một ngạc nhiên. Điều thứ hai, có thể coi nó như loại nghệ thuật phản đối. Chẳng hạn tại Buenos Aires, cách đây vài năm, đã có một cuộc triển lãm của một điêu khắc gia rất giỏi, có óc sáng tạo, người Argentina. Bây giờ ông ta chết rồi. Nó đã là nghệ thuật phản kháng, và tôi nhớ có một tác phẩm là “Chúa Kitô bị đóng đanh trên một máy bay bỏ bom đang lao đầu xuống”. Đó đã là một chỉ trích chống lại Kitô giáo liên minh với chế độ tư bản là máy bay bỏ bom. Như thế, điểm thứ nhất tôi đã không biết, điểm thứ hai tôi định tính nó như là nghệ thuật phản kháng, trong một vài trường hợp có thể gây xúc phạm. Thứ ba, trong trường hợp cụ thể ở đây Cha Espinal thuộc loại này. Điều này thì tôi biết, vì hồi đó tôi là phân khoa trưởng phân khoa thần học, và người ta đã nói nhiều tới chuyện này, tới các khuynh hướng khác nhau và ai là các người đại diện. Trong cùng năm ấy Cha Bề Trên tổng quyền dòng Tên Arrupe đã viết một bức thư cho toàn dòng liên quan tới việc phân tích  thực tại thần học theo khuynh hướng mác xít, và khẳng định rằng làm như thế là không được. Chúng là các điều khác nhau, làm như thế là không được và không đúng đắn. Và bốn năm sau, năm 1984 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tập sách nhỏ đầu tiên chỉ trích điều này, đó là tuyên bố đầu tiên về nền thần học giải phóng. Rồi đến tập thứ hai mở ra các viễn tượng có tính chất kitô hơn. Tôi đang đơn giản hoá một chút có phải thế không ạ? Chúng ta hãy giải thích thời đó Espinal đã là một người hứng khởi đối với phân tích này của thực tại mác xít, cũng như của thực tại thần học, bằng cách dùng chủ thuyết mác xít. Tác phẩm này phát xuất từ đó. Cả các bài thơ của cha Espinal cũng thuộc loại phản kháng này, nhưng đó đã là cuộc sống, tư tưởng của cha, cha đã là một người đặc biệt, với biết bao nhiêu tài năng thiên phú, và cha tranh đấu trong ý hướng ngay lành. Tôi đã phải giải thích như thế và nói với anh chị em để đừng có các ý kiến sai lầm. Cây thánh giá ấy giờ đây tôi mang theo với tôi, đi với tôi. Có lẽ chị đã nghe biết là tổng thống Morales đã muốn trao tặng tôi hai huân chương, huân chương quan trọng nhất nước Bolivia và huân chương kia thuộc Hội  cha Espinal, một hội mới. Tôi  đã không bao giờ nhận một huân chương, nó không thích hợp với tôi. Nhưng tổng thống đã làm điều này với tất cả thiện chí với ưóc mong khiến cho tôi hài lòng. Và tôi nghĩ rằng chúng đến từ nhân dân Bolivia. Tôi đã cầu nguyện trên  các huân chương ấy, và tôi đã nghĩ, nếu tôi đem về Vaticăng, thì chúng sẽ nằm trong một viện bảo tàng, và sẽ không có ai trông thấy. Do đó tôi đã nghĩ để chúng lại cho Đức Bà Copacabana, là Mẹ của dân nước Bolivia. Chúng sẽ được đem đến đền thánh Đức Mẹ Copacabana, tôi đã giao hai huân chương ấy rồi. Trái lại Chúa Kitô thì tôi đem theo với tôi.

Chị Anaiis Feuga hỏi: Thưa ĐTC, trong thánh lễ tại Guayaquil ĐTC đã nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục phải làm chín mùi một sự phân định để tìm ra các giải pháp cụ thể cho các khó khăn của gia đình. Rồi ĐTC đã xin tín hữu cầu nguyện cho những gì đối với chúng ta xem ra là ô uế, gây gương mù gương xấu, hay khiến cho chúng ta sợ hãi, để Thiên Chúa có thể biến đổi thành phép lạ. Xin ĐTC xác định đâu là các tình trạng ô uế hay gây hoảng sợ hoăc gây gương mù gưong xấu mà ĐTC muốn ám chỉ.?

Đáp: Ở đây nữa tôi cũng sẽ giải thích bối cảnh văn bản. Tôi đã nói tới phép lạ rượu ngon, và tôi nói rằng các vại nước đầy, nhưng là để cho việc thanh tẩy. Mỗi người vào dự lễ cưới đều thanh tẩy và để các dơ nhớp tinh thần của mình ở ngoài. Đó là lễ nghi thanh tẩy trưóc khi vào một nhà nào hay vào đền thờ. Một lễ nghi mà bây giờ chúng  ta có trong nước thánh: nó là phần còn lại của lễ nghi do thái xưa kia. Tôi đã nói rằng chính Chúa Giêsu đã làm ra rượu ngon nhất với nước để rửa các nhơ nhớp, rửa cái tồi tệ nhất. Nói chung chung, tôi đã nghĩ tới việc chú giải này: gia đình bị khủng hoảng – chúng ta tất cả đều biết – chỉ cần đọc tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình mà anh chị em biết đó, vì nó đã được trình bầy trong đó rồi. Chúng tôi đã ám chỉ tất cả những điều ấy: ước chi Chúa thanh tẩy chúng ta khỏi cuộc khủng hoảng này, khỏi biết bao nhiêu điều được miêu tả trong Tài liệu làm việc. Nó là một điều chung chung, chứ tôi đã không nghĩ đến một điểm đặc biệt nào. Xin Chúa khiến cho chúng ta trở nên tốt lành hơn, cho gia đình của chúng ta trưởng thành và tốt lành hơn. Gia đình đang gặp khủng hoảng, xin Chúa thanh tẩy chúng ta và chúng ta tiến tới. Nhưng các điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này thì ở trong Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà anh chị em có.

Anh Javier Martinez Brocal của hãng thông tin  Romereports hỏi: Thưa ĐTC, xin cám ơn ĐTC vì cuộc đối thoại giúp cá nhân chúng con cũng như công việc của chúng con. Con hỏi thay mặt tất cả các nhà báo nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta đã thấy việc trung gian giữa Cuba và Hoa Kỳ xuôi chảy. ĐTC có nghĩ là có thể làm điều gì đó giống như thế trong các tình hình tế nhị khác của Châu Mỹ Latinh hay không, con nghĩ tời Venezuela và cả Colombia nữa? Rồi con có một tò mò: con nghĩ tới cha con ít hơn ĐTC vài tuổi, nhưng chỉ có phân nửa năng lực của ĐTC thôi. Chúng con đã trông thấy năng lực ấy của ĐTC trong chuyến viếng thăm này, và từ hai năm rưỡi nay. ĐTC có bí quyết nào vậy?

Đáp: Đâu là loại “ma tuý” ĐTC dùng, anh ấy muốn hỏi vậy ấy mà.  Đó đã là câu hỏi.

Tiến trình giữa Cuba và Hoa Kỳ đã không có sự trung gian nào. Nó đã không có tính cách trung gian. Đã có ước muốn từ hai phía. Và tôi xin nói thật, điều này đã xảy ra hồi tháng giêng năm ngoái và ba tháng trôi qua trong đó tôi đã chỉ cầu nguyện cho việc này thôi, tôi đã không quyết định gì: mà có thể làm gì cho hai nước này sau 50 năm họ ở trong tình trạng như thế? Nhưng Chúa đã làm cho tôi nghĩ tới một Hồng Y. Ngài đã qua đó, đã nói chuyện, rồi tôi cũng đâu có biết gì đâu, rồi một hôm ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, cũng hiện diện ở đây, đến nói vơi tôi: Ngày mai chúng con có cuộc họp với hai phái đoàn… “Mà làm sao?” “Vâng họ nói chuyện với nhau giữa hai nhóm và họ đang làm điều đó”. Nó đã chạy một mình, đã không có việc làm trung gian. Đó đã là thiện chí của hai nước: công lao là của họ, chính họ đã làm điều này. Chúng tôi hầu như đã không làm gì cả, chỉ làm các điều bé nhỏ thôi, và giữa tháng 12 thì tin được loan ra. Câu chuyện là như thế, thực sự không có gì khác nữa. Điểu tôi lo lắng là trong lúc này đây tiến trình hòa bình đừng ngưng lại, và trong nghĩa này chúng tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ, trong biết bao cách thế. Nhưng sẽ là điều xấu, nếu câu chuyện không tiến tới. Bên Venezuela HĐGM làm việc để đem lại một chút hòa bình, nhưng ở đây cũng thế đã không có việc làm trung gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ đó đã là do Chúa và hai việc tình cờ, rồi nó tiến tới một mình. Đối với Colombia tôi cầu mong và cầu nguyện,  và chúng ta phải cầu nguyện để tiến trình này đừng dừng lại. Nó là một tiến trình đã kéo dài hơn 50 năm nay rồi, và đã có biết bao nhiêu người chết! Tôi nghe nói là có hàng triệu. Liên quan tới Venzuela tôi không có gì để nói.

Ah còn chuyện “ma tuý”. Nhưng mà chỉ có trà mate giúp tôi thôi, tôi đã không nếm coca. Điều này rõ rồi chứ?

Anh Ludwig Ring-Eifel thuộc hãng thông tấn KNA của Đức hỏi: Thưa ĐTC, trong chuyến công du này chúng con đã nghe biết bao nhiêu sứ điệp mạnh mẽ cho người nghèo, cả các sứ điệp mạnh mẽ và đôi khi nghêm khắc nữa đối với người giầu và kẻ quyền th. Nhưng có một điều mà chúng con đã nghe nói tới rất ít đó là các sứ điệp cho giới trung lưu, nghĩa là những người làm việc, trả thuế, dân thường. Con muốn hỏi tại sao trong huấn quyền của ĐTC lại có ít sứ điệp cho lớp trung lưu như vậy? Và nếu có thì đó là sứ điệp nào?

Đáp: Xin cám ơn anh rất nhiều, đó là một sửa sai rất đẹp. Xin cám ơn. Anh có lý, đó là một sai lầm từ phía tôi. Tôi phải nghĩ tới điều này. Tôi sẽ đưa ra vài bình luận, nhưng không phải để biện minh cho tôi. Anh có lý, tôi phải suy nghĩ một chút. Thế giới này có nhiều cực. Lớp trung lưu trở thành bé nhỏ hơn. Có sự  toàn cầu hóa lớn giữa người giầu và người nghèo. Đây là điều có thật, và có lẽ điều này khiến cho tôi đã không chú ý tới giới trung lưu. Tôi nói về thế giới, vài nước thì không, chúng  chạy rất tốt, nhưng trên thế giới nói chung người ta trông thấy việc tạo thành hai cực này và con số người nghèo rất lớn. Thế rồi tại sao tôi nói tới người nghèo? Bởi vì nó là trọng tâm của Tin Mừng, và tôi luôn luôn nói từ Tin Mừng về sự nghèo khó, tự nó có tính cách xã hội học. Tôi cũng có vài lời nói về lớp trung lưu, nhưng chỉ lướt qua. Nhưng người dân đơn sơ, ngưòi dân thường, lớp công nhân, giai tầng ấy có giá trị lớn. Nhưng tôi tin rằng anh đã nói tới một điều mà tôi phải làm, tôi phải đào sâu hơn giáo huấn về điểm này, Tôi xin cám ơn anh về sự trợ giúp.

Chị Vania De Luca thuộc chương trình truyền hình Rainews 24 giờ hỏi: Thưa ĐTC, trong các ngày này DTC đã nhấn mạnh trên sự cần thiết của các lộ trình hội nhập, bao gồm xã hội, chống lại tâm thức gạt bỏ. ĐTC đã ủng hộ cả các dự án đi theo hướng này của việc sống hạnh phúc. Cả khi ĐTC đã cho biết phải nghĩ tới chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ tới việc đề cập tới các vấn đề này tại Liên Hiệp Quốc, tại Tòa Bạch Ốc hay không? ĐTC có nghĩ tới chuyến công du này khi nói  tới các vấn đề này hay không?

Đáp: Không, tôi đã chỉ nghĩ đến chuyến viếng thăm cụ thể này và tới thế giới nói chung. Nhưng nợ nần của các nước trên thế giới trong lúc này thật kinh khủng, Tất cả mọi nước đều nợ, và có một vài nước đã mua nợ của các nước lớn. Đây là một vấn đề quốc tế. Nhưng với điều này tôi đã không đặc biệt nghĩ tới chuyến đi Hoa Kỳ.

Anh Courtney Wals của đài Fox News hỏi: Thưa ĐTC, chúng ta đã nói một chút về Cuba, nơi ĐTC sẽ viếng thăm vào tháng 9 tới đây trước khi đi Hoa Kỳ, cũng như nói tới vai trò của Vaticăng trong việc làm cho hai nước xích lại gần nhau. Bây giờ Cuba sẽ có một vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, theo ĐTC chính quyền La Habana có phải cải tiến danh tiếng của mình liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người kể cả quyền tự do tôn giáo không? Và ĐTC có tin rằng Cuba có nguy  cơ mất đi điều gì trong liên hệ mới này với quốc gia mạnh nhất thế giới hay không?

Đáp: Các quyền con người là để cho tất cà mọi người và người ta tôn trọng các quyền con người chỉ trong một hai nước mà thôi. Tôi sẽ nói rằng trong biết bao nhiêu nước, trong biết bao nhiêu miền trên thế giới này người ta không tôn trọng các quyền con người.

Cuba mất cái gì và Hoa Kỳ mất cái gì? Điều mà cả hai nước đều có được đó là hòa bình. Đây là điều chắc chắn. Sự gặp gỡ, tình bạn, sự cộng tác: đó là điều chiếm được. Nhưng hai nước mất cái gì thì tôi chưa nghĩ ra được; sẽ là những điều cụ thể, nhưng luôn luôn trong một cuộc thương thuyết nguời ta  được và mất. Trở lại với các quyền con người và tự do tôn giáo, anh chị em hãy nghĩ trên thế giới có các nưóc, kể cả vài nước âu châu, vì các lý do khác nhau người ta không để cho bạn làm một dấu chỉ tôn giáo nữa. Và trong các đại lục khác cũng thế, đúng không? Điều này đúng, Tự do tôn giáo không được tôn trọng trên toàn thế giới, trong biết bao nhiêu nước xảy ra như thế.

Anh Benedicte Lutaud hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC như là vị lãnh đạo quốc tế mới của các chính sách thay thế , con muốn biết tại sao ĐTC lại chú ý tới các Phong trào bình dân, và ít chú ý tới thế giới kinh doanh như vậy, và ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay ra cho các phong trào bình dân rất đời hay không?

Đáp: Thế giới của các Phong trào bình dân là một thực tại; nó là một thực tại rất to lớn trên toàn thế giới. Vậy tôi đã làm gì? Điều tôi đã làm là trao ban giáo lý xã hội của Giáo Hội cho nó, đó cũng là điều tôi làm đối với giới kinh doanh. Có một giáo lý xã hội của Giáo Hội. Nếu anh đọc điều tôi đã nói với các Phong trào bình dân, là một diễn văn khá dài, nó là một tóm lược giáo lý của Giáo Hội. Tất cả những gì tôi đã nói là giáo lý xã hội của Giáo Hội, và khi tôi phải nói với thế giới kinh doanh tôi cũng nói cùng điều đó, nghĩa là Giáo lý xã hội của Giáo Hội nói gì với thế giới kinh doanh. Thí dụ trong Thông điệp “Laudato si’” có một đoạn về công ích và cả nợ nần xã hội của tư sản đi theo chiều hướng này đó là áp dụng giáo lý xã hội của Giáo Hội.

Hỏi: ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay này không?

Đáp: Ở đây chính tôi theo Giáo Hội, bởi vì tôi chỉ đơn sơ rao giảng Giáo Lý xã hội của Giáo Hội cho Phong trào này. Đó không phải là một bàn tay giang ra cho một kẻ thù, nó không phải là một sự kiện chính trị, không. Nó là một sự kiện dậy giáo lý. Tôi muốn rằng điều này rõ ràng.

Chị Cristina Cabrejas hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có sợ hãi rằng các diễn văn của ĐTC bị lèo lái bởi các chính quyền, các nhóm quyền lực, các phong trào không?

Đáp: Tôi lập lại một chút những gì đã nói từ đầu. Mỗi một lời nói, mỗi một câu của một diễn văn có thể bị lèo lái. Đó là điều nhà báo Ecuador đã hỏi tôi. Cùng một câu ấy nhưng có vài nguời nói là phò chính quyền, và người khác thì nói là chống chính quyền. Đôi khi có các tin tức chỉ lấy một câu và bên ngoài bối cảnh. Vâng, tôi không sợ, tôi chỉ nói một cách đơn sơ nhưng anh chị em hãy nhìn bối cảnh. Nếu tôi sai, thì với một chút xấu hổ tôi xin lỗi thôi và tiếp tục.

Hỏi: Thưa ĐTC, xin cho phép con hỏi đùa một chút. ĐTC nghĩ gì về tất cả các hình tự chụp giữa thánh lễ mà giới trẻ, trẻ em và các bạn bè họ làm?

Đáp: Tôi nghĩ gì ấy à? Đó là một nền văn hóa khác. Tôi cảm thấy mình là ông cố nội. Hôm nay khi từ giã, một anh cảnh sát to lớn, có lẽ khoảng 40 tuổi, đã nói với tôi: con xin chụp một bức hình vói ĐTC. Tôi đã nói với anh: mà anh là một thiếu niên. Vâng, đó là một nền văn hóa khác, nhưng tôi tôn trọng nó.

Anh Andrea Tornielli hỏi: Thưa ĐTC, đúc kết lại, ĐTC đã muốn để lại cho Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh sứ điệp nào trong những ngày này? Và Giáo Hội Mỹ Latinh có vai trò nào, kể cả như dấu chỉ trong thế giới?

Đáp: Giáo Hội Mỹ Latinh có một sự phong phú lớn: đó là một Giáo Hội trẻ và điều này quan trọng. Một Giáo Hội trẻ với một sự tươi mát, cả với một vài không hình thức. Nó cũng có một nền thần học, một nghiên cứu phong phú. Tôi đã muốn trao ban tâm hồn cho Giáo Hội trẻ này và tôi tin rằng Giáo Hội trẻ này có thể cho chúng ta biết bao nhiêu điều hay đẹp. Trong cả ba quốc gia dọc đường có các người cha các bà mẹ với trẻ em; họ cho thấy các em. Chưa bao giờ tôi đã lại trông thấy nhiều trẻ em như vậy, biết bao nhiêu trẻ em. Đó là một dân, và Giáo Hội cũng như vậy, đó là một bài học cho chúng ta, cho Âu châu, nơi số sinh giảm sút gây hoảng sợ một chút, và cả việc cũng ít có các đường lối chính trị trợ giúp các gia đình đông con. Tôi nghĩ tới nước Pháp có một đường lối chính trị đẹp trợ giúp các gia đình đông con nên đã đạt hơn 2% số sinh, trong khi các nước khác thì có số sinh gần zero, cả khi không phải mọi nước đều như thế. Tôi tin rằng bên Albania có 45%, nhưng bên Paraguay có tói hơn 70% dân số từ 40 tuổi trở xuống. Sự phong phú của dân tộc và Giáo Hội này đó là một Giáo Hội sống động. Đó là một sự phong phú, một Giáo Hội của sự sống. Điều này quan trọng. Tôi tin rằng chúng ta phải học hỏi từ điều này và sửa chữa lại, bởi nếu không, nếu không có con cái… Đó là điều mà tôi đã nói biết bao lần về sự gạt bỏ! Người ta gạt bỏ trẻ em, người ta gạt bỏ người già, và với sự kiện thiếu công ăn việc làm người ta gạt bỏ người trẻ. Vì thế các dân tộc mới, các dân tộc trẻ trao ban cho chúng ta nhiều sức mạnh hơn. Đối với Giáo Hội tôi sẽ nói rằng một Giáo Hội trẻ – với biết bao nhiêu vấn đề, bởi vì có các vấn đề – tôi tin rằng đó là sứ điệp mà tôi tìm thấy: đừng sợ hãi cho tuổi trẻ này và cho sự tươi mát này của Giáo Hội.  Có thể đó là một Giáo Hội hơi vô kỷ luật một chút, nhưng với thời gian sẽ kỹ luật và trao ban cho chúng ta biết bao điều tốt đẹp.

(SD 13-7-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

(Chúa Nhật 30 A; Xh 22,21-26)

Trích sách Xuất Hành. Chúa phán: người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành góa bụa, và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”

SUY NIỆM

Những giáo huấn cụ thể rõ ràng trên đây trong sách Xuất Hành là một trong các trang hay đẹp và ý nghĩa nhất của Thánh Kinh Cựu Ước, vì chúng diễn tả được một trong những điểm nòng cốt sứ điệp của Do thái giáo và Tin Mừng yêu thương của Kitô giáo. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng nhân từ xót thương và Ngài đòi buộc những ai tin nhận Ngài cũng phải biết sống yêu thương cụ thể tất cả mọi người, không trừ ai, cách riêng những người yếu đuối nhất thường không được bênh đỡ trong xã hội loài người như người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ kiều cư, người nghèo phải vay tiền, hay cầm thế đồ vật cần thiết cho cuộc sống như chiếc áo choàng là áo mặc ban ngày và mền đắp ban đêm của dân nghèo.

Trong xã hội nào cũng vậy, những người góa bụa, góa vợ hay góa chồng, đều đáng thương như nhau, đặc biệt là những phụ nữ góa chồng. Họ mất đi người bạn trăm năm, cây cột chống đỡ mái nhà gia đình và phải cô đơn, một thân một mình làm lụng vất vả, tần tảo ngược xuôi để nuôi dậy con cái. Có người nhiều khi phải gánh vác cả các công việc của nhà chồng như phụng đưỡng cha mẹ già yếu bệnh tật. Cuộc sống của họ bấp bênh và không có người bênh đỡ khiến cho họ dễ bị chèn ép, ức hiếp và lạm dụng nhất. Cùng với họ là lũ con mồ côi cha hay mồ côi mẹ. Chúng mất đi điểm tựa yêu thương, tinh thần và vật chất. Cuộc sống và tương lai của chúng vì thế cũng mờ mịt. Chúng thường không có tuổi thơ, vì phải vào đời rất sớm để mưu sinh, lăn lộn giữa cuộc đời ác nghiệt không che chở trẻ thơ. Chúng giống như những trái banh bị đá lăn lóc giữa chợ đời đen bạc, hay như bèo trôi giạt giữa dòng đời.

Tội nghiệp và đáng thương nhất là các trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cơm bánh hằng ngày của chúng là nước mắt, buồn tủi và khổ đau. Và chúng thường là các thành phần yếu đuối và bơ vơ nhất trong xã hội. Bên cạnh đó là những người di cư tỵ nạn, sống xa lạ nhờ vả và bơ vơ trên đất khách quê người. Rồi những người nghèo túng bệnh tật phải đi vay tiền để lo cho chính mình cho gia đình hay con cái, phải cầm bán mọi sự kể cả chiếc áo choàng là áo che thân ban ngày, là mền đắp ban đêm…

Ngày nay trên thế giới này những thành phần yếu đuối kể trên lên đến hàng tỷ người, đặc biệt tại các nước nghèo Phi chậu, Á châu và châu Mỹ Latinh, nhưng cả Âu châu nữa.

Các giáo huấn chúng ta vừa nghe trên đây nảy sinh từ sự kiện mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và từ giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật: ”Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5) và giáo huần của sách Lêvi: ”Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,19).

Tình yêu hai chiều kích ấy được thể hiện ra trong việc tuân giữ Mười Điều Răn Thiên Chúa ban cho dân Israel qua trung gian ông Môshê. Chúng hướng dẫn con người trong các tương quan và bỗn phận đối với Thiên Chúa và đối với tha nhận. Tuy nhiên ở đây trong bối cảnh của sách Xuất Hành, Thiên Chúa mời gọi tín hữu sống bác ái qua chính các kinh nghiệm mà họ đã có trong bao nhiêu năm sống kiếp kiều cư và nô lệ bên Ai Cập, bị ngược đãi bóc lột và ức hiếp bất công. Nói một cách đơn sơ như trong sách Tobia là: ”Những gì con không muốn người ta làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác.”

”Mến Chúa yêu người” đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Pharisêu hỏi Ngài cho biết đâu là điều luật trọng nhất như kể lại trong Phúc Âm Chúa Nhật 30 thường niên năm A.

Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận diện ra nơi tình yêu thương động lực cao quý nhất của cuộc sống con người và là bàn nhún mạnh mẽ nhất của mọi sinh hoạt luân lý. Ngoài ra lý tưởng của tình yêu thương cũng hoàn toàn phù hợp với bản tính của con người có các lựa chọn, hy sinh, chiến đấu, và chết vì tình yêu hay vì thù ghét, mà xét cho cùng chỉ là cái tương ứng tiêu cực của tình yêu. Tuy nhiên, trong quan niêm của Chúa Giêsu tình yêu không chỉ là một luật lệ đơn thuần pháp lý, mà là đặc thái nòng cốt cao cả nhất của toàn giáo lý và luân lý hướng dẫn cung cách sống và hành xử của con người. Vì Tình yêu là chính Thiên Chúa. Do đó khi biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Ngày toàn xá Porziuncola tại Assisi

Ngày toàn xá Porziuncola tại Assisi

Phỏng vấn cha Michael Perry, Bề trên tổng quyền dòng Anh em Phanxicô hèn mọn

Sáng ngày mùng 1-8-2014 các lễ nghi cử hành ”Ngày toàn xá Porziuncola” đã được các tu sĩ dòng Phan Sinh Hèn Mọn bắt đầu tại Assisi. Năm nay lời cầu nguyện được dành để xin ơn hòa bình cho các dân tộc sống tại Thánh Địa.

Như đã biết, chiến tranh giữa người Israel và lực lượng Hamas Palestine tại Gaza đã kéo dài từ một tháng qua trong vùng Gaza, nơi có 2 triệu người Palestine sinh sống. Các cuộc dội bom, oanh kích và pháo kích từ phía Israel đã khiến cho hơn 1,500 người chết, hàng chục ngàn người bị thương và mấy trăm ngàn người phải di cư lánh nạn. Đa số các nạn nhân là phụ nữ và trẻ em Palestine.

Từ trưa ngày mùng 1 cho tới nửa đêm ngày mùng 2 tháng 8 tín hữu có thể lãnh ơn toàn xá Porziuncola trong tất cả các nhà thờ giáo xứ và nhà thờ do các cha dòng Phanxicô trông coi trên toàn thế giới, sau khi đã xưng tội, tham dự thánh lễ và đọc một Kinh Tin Kính, một Kinh Lậy Cha và một lời cầu theo các ý chỉ của Đức Giáo Hoàng. Ngày mùng 2 tháng 8 đã có hàng ngàn ban trẻ từ khắp nơi trong nước Italia và nhiều nước Âu châu tham dự cuộc tuần hành Phanxicô.

Ơn toàn xá này đã được Đức Giáo Hoàng Onorio III ban cho tất cả mọi tín hữu vào năm 1216, thể theo lời thỉnh cầu của thánh Phanxicô thành Assisi. ”Giấy ban phép của Teobaldo”, cũng có khi gọi là ”Luật teobaldino” là tài liệu lich sử chính liên quan tới việc ban phép đại xá này, đã do tu sĩ và Giám Mục giáo phận Assisi là Teobaldo soạn và ban hành từ Tòa Giám Mục Assisi ngày mùng 10 tháng 8 năm 1310.

Chuyện truyền thống kể rằng vào môt đêm tháng 7 năm 1216, trong khi thánh Phanxicô đang cầu nguyện trong nhà thờ Porziuncola, là nhà thờ nơi thánh nhân đã thành lập dòng Phanxicô và viết Hiến pháp, thì có một thị kiến. Thánh nhân trông thấy Chúa Giêsu và Đức Mẹ có một đoàn ngũ các thiên thần vây quanh. Các ngài hỏi thánh nhân muốn xin gì, vì thấy thánh nhân đã cầu nguyện biết bao cho các kẻ tội lỗi như thế. Thánh Phanxicô trả lời là muốn xin ơn tha hết mọi tội cho những người đã xưng tội, thống hối, viếng thăm nhà thờ. Do lời bầu cử của Đức Mẹ lời xin được chấp nhận, với điều kiện là thánh Phanxicô xin Đức Giáo Hoàng, như là Đấng đại diện của Chúa Kitô dưới thế, để xin ngài thành lập ơn toàn xá ấy.

Sáng hôm sau thánh Phanxicô cùng với thầy Masseo thành Marignano đến Perugia để gặp Đức Giáo Hoàng Onorio III, được bầu làm Giáo Hoàng trong những ngày đó bởi một Mật Nghị Hồng Y quy tụ 19 Hồng Y tại Perugia, nơi vị tiền nhiệm là Đức Giáo Hoàng Innocenzo III đã qua đời. Thánh Phanxicô và thầy Masseo được Đức Giáo Hoàng Onorio III tiếp kiến. Thánh nhân xin Đức Giáo Hoàng ban một ơn toàn xá, mà không bắt phải trả tiền hay làm một

cuộc hành hương thống hối như thói quen thời đó đòi hỏi. Các lý lẽ thánh nhân nêu ra đã thắng các nghi ngờ và sự bối rối của Đức Giáo Hoàng và các Hồng Y. Nhưng ơn toán xá chỉ được hạn chế vào một ngày trong năm là ngày mùng 2 tháng 8, ”tha hết mọi tội và hình phạt trên trời cũng như dưới đất cho tín hữu từ ngày rửa tội cho cho đến ngày bước vào trong nhà thờ này”. Ban đầu ơn toàn xá chỉ được dành cho nhà thờ Porziuncola, nhưng sau đó được trải dài ra trong tất cả mọi nhà thờ do các tu sĩ Phanxicô trông coi, rồi tiếp đến trải rộng ra trong tất cả mọi nhà thờ giáo xứ trên toà thế giới. Nhưng Assisi và Vương cung thánh đường Thánh Maria bên trong có nhà thờ Porziuncola, là đích điểm hành hương của tín hữu từ khắp nước Italia và các nước khác, tuốn về đây để lãnh ơn toàn xá ngày mùng 2 tháng 8 là lễ đã được cử hành long trọng trong hơn 8 thế kỷ qua.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của cha Michael Perry, Bề trên Tổng quyền dòng Anh em Phanxicô Hèn Mọn.

Hỏi: Thưa cha, đâu là ý nghĩa của ngày Toàn Xá, mà dòng Anh em Phanxicô Hèn Mọn cử hành hành hằng năm vào đầu tháng 8?

Đáp: Đây là ngày lễ cử hành tình yêu vô hạn và lòng thương xót của Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta sống hiệp thông với Người, hiệp thông với nhau và với toàn Thụ Tạo. Thật là quan trọng nhớ lại điều thánh Phaolô đã nói với chúng ta trong thư thứ II gửi tín hữu Côrintô: chúng ta đã được rửa tội trong Chúa Kitô và điều này có nghĩa là trở thành một thụ tạo mới. Và như là thụ tạo mới, kitô hữu chúng ta được mời gọi là môn đệ và là những người ”cùng được sai đi truyền giáo”. Như Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi trở thành các thừa tác viên của sự hòa giải, của lòng thương xót và của hòa bình của Chúa Kitô đối với toàn thế giới. Tôi tin rằng thánh Phanxicô, trong cuộc sống của ngài, cũng đã sống biết bao nhiêu kinh nghiệm bất hòa cả giữa các tu sĩ hèn mọn, trong Giáo Hội hay trong thế giới. Vì thế thánh Phanxicô muốn cử hành và nhớ lại điều nòng cốt của cuộc sống chúng ta trong Chúa Kitô, trong Giáo Hội và trong thế giới, trong thời của thánh nhân cũng như ngày nay.

Hỏi: Đức Thánh Cha không mệt mỏi nói với thế giới về lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thanh với câu “Tôi muốn gửi tất cả anh chị em lên Thiên Đàng”, mà thánh Phanxicô đã nói và dựa trên lễ trọng của ơn Toàn Xá này…

Đáp: Tôi tin rằng ngày lễ này cũng trao ban cho chúng ta ý thức về tương lai: chúng ta bị hạn hẹp trong thế giới này, chúng ta có một cái nhìn bị hạn hẹp nơi các kinh nghiệm của thế giới ngày nay đầy đau khổ và bạo lực, nhưng chúng ta có một ơn gọi rất rộng lớn, được gắn liến với chương trình mà Thiên Chúa có đối với chúng ta, đối với thế giới, đối với thụ tạo… Một tương lai hy vọng chờ đón chúng ta, chứ không phải một tương lai tuyệt vọng, một tương lai của sự tươi vui chứ không phải của bần cùng khốn khổ.

Hỏi: Khi nghĩ tới biết bao mặt trận chiến tranh mở ra ngày nay, sự tha thứ đến để nói lên cái gì, thưa cha?

Đáp: Ơn toàn xá Assisi có thể nói với chúng ta về tình hình trên toàn thế giới, trong các vùng có chiến tranh như Siria, Libia, Nam Sudan, Ucraina, Thánh Địa, Cộng hòa dân chủ Congo, nhưng cũng như bên Hoa Kỳ, bên Mêhicô và trên toàn thế giới. Lễ này nói với chúng ta, mời gọi chúng ta, và đề nghị chúng ta suy tư và tái suy tư về chương trình của Thiên Chúa đối với hiện tại và tương lai.

Hỏi: Ơn tha thứ là một thực tại thời sự trong một xã hội đã đánh mất đi ý thức về tội lỗi, và có lẽ bị đè nén bởi một ý thức về tội, và vì thế hướng chiều hơn về sự tuyệt vọng; một sự tuyệt vọng không dính dáng gì tới sứ điệp tin mừng. Xã hội này có cảm thấy cần sự tha thứ hay không?

Đáp: Các người trẻ tham dự cuộc tuần hành Phanxicô đến từ Italia, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Slovac, Thụy Sĩ, Croazia, và các nước khác của Âu châu, tất cả họ đều đang kiếm tìm cái an ninh nơi sự hiện diện của Thiên Chúa, bởi vì có một nỗi âu lo lớn giữa giới trẻ ngày nay. Tôi tin rằng Ơn Toàn Xá Assisi có thể đánh động và bước vào trong khoảng trống này nơi giới trẻ, và làm đầy nó với lòng thương xót, niềm vui, sự hiện diện và sự chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong đời sống chúng ta.

Hỏi: Thất là quan trọng tái khám phá ra mình là người có tội, mà không sợ hãi rộng mở cho vòng tay thương xót của Thiên Chúa, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Chắc chắn rồi. Thánh Phanxicô đã bắt đầu như thế khi nói: ”Tôi là kẻ tội lỗi nhất giữa tất cả mọi người”. Thừa nhận điều này giúp chúng ta rộng mở cho Thiên Chúa, nếu không chúng ta cứ đóng kín trong thế giới bé nhỏ của mình, trong các não trạng bé nhỏ của chúng ta và trong các tội lỗi của chúng ta.

Hỏi: Cha có lời cầu chúc nào cho dịp lễ Toàn Xá của Assisi này không?

Đáp: Lời cầu chúc của tôi là xin Chúa làm cho chúng ta trở thành dụng cụ hòa bình của Ngài. Ở đâu có oán thù xin cho chúng con đem vào đó tình yêu, sự tha thứ. Ước chi chúng ta đem sự hiệp nhất, đức tin, đức cậy, niềm vui và ánh sáng đến cho mỗi người, đến cho thế giới và cả thụ tạo ngày nay nữa.

(RG 1-8-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio