Chúa Kitô là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên

Chúa Kitô là Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên

Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành chỉ nghĩ tới chuyện dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở đoàn chiên là Giáo Hội

Chúa Kitô mục tử là một vị hướng dẫn sốt sắng chia sẻ cuộc sống của đoàn chiên, không tìm lợi lộc nào khác, không có tham vọng nào khác ngoài tham vọng dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở đoàn chiên. Và Ngài làm tất cả những điều đó với giá cao nhất, giá của hiến tế chính mạng sống mình. Các linh mục giám mục, giáo hoàng cũng phải noi gương ngài sống như thế với đoàn dân Chúa giao phó.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hanh hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật hôm qua là Ngày quốc tế cầu nguyện cho ơn thiên triệu lần thứ 52.

Trước đó lúc 9 giờ rưỡi sáng ĐTC đã chủ sự thánh lễ truyền chức Linh Mục cho 19 Phó tế thuộc giáo phận Roma, trong đó có 4 thầy thuộc dòng Gia đình các môn đệ. Dòng này do Linh Mục Giovanni Minozzi thành lập năm 1925 tại Amatrice tỉnh Rieti nam Italia, với mục đích dậy chữ cho các binh sĩ, săn sóc trẻ mồ côi nạn nhân của Đệ nhị thế chiến và người nghèo. Năm 1931 dòng đưọc Tòa Thánh chấp nhận và đặt tên là Gia đình các môn đệ. Từ Italia dòng mở các nhà bên châu Brasil và Peru cũng như nhiều nhà tại Italia. Cùng đồng tế thánh lễ với ĐTC có ĐHY Giám quản Agostino Vallini, ĐTGM phó Giám Quản và 6 Giám Mục phụ tá. ĐHY Giám Quản đã giới thiệu các ứng viên lên ĐTC.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã dựa trên văn bản lễ nghi truyền chức và các bài đọc khích lệ các tân chức ý thức được sứ mệnh thừa tác sắp nhận lãnh. Đó là sống kết hiệp mật thiết với Chúa, cộng tác với Chúa trong công trình cứu chuộc, qua việc sống và giảng dậy các giáo huấn của Chúa, ban phát các bí tích, hiệp nhất với Giám Mục và cộng tác với các anh em linh mục và các thành phần khác trong cộng đoàn dân Chúa, noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành hy sinh quên mình chăm sóc đoàn chiên Chúa giao phó.

Tiếp đến là nghi thức công khai dấn thân của các ứng viên nói lên ý muốn thi hành chức thừa tác suốt đời trong hàng linh mục như các cộng sự viên trung thành của hàng giám mục trong việc phục vụ dân Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; chu toàn thừa tác lời Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng và dậy dỗ đức tin công giáo một cách xứng đáng và khôn ngoan; sốt sắng và trung thành cử hành  các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo truyền thống của Giáo Hội, đặc biệt trong hiến tế tạ ơn và bí tích hoà giải, để chúc tụng Thiên Chúa và thánh hóa dân kitô; cùng các chủ chăn khẩn nài lòng thương xót Chúa cho dân được giao phó và kiên trì cầu nguyện như Chúa đã truyền dậy; luôn luôn hiệp nhât với Chúa Kitô Thượng Tế, như là lễ vật tinh tuyền dâng lên Thiên Chúa Cha vì chúng ta, bằng cách tự thánh hiến mình cho Thiên Chúa cùng với Người để cứu chuộc mọi người; vâng lời ĐTC và các người kế vị với lòng tôn trọng con thảo và tuân phục.

Sau đó cộng đoàn đã hát kinh cầu các thánh xin triều thần thánh phù hộ cho các ứng viên. ĐTC đã khẩn cầu Chúa Thánh Thấn xuống trên các tiến chức và đặt tay trên đầu từng vị. Tiếp đến là tất cả các Giám Mục và linh mục đồng tế. Rồi ĐTC đọc công thức truyền chức Linh Mục, xức dầu thánh trên lòng bàn tay từng tiến chức, xin Chúa Giêsu Kitô, mà Thiên Chúa Cha đã thánh hiến trong Chúa Thánh Thần và quyền năng, giữ gìn tân chức cho việc thánh hiến dân Người và dâng của lễ. Rồi ĐTC trao điã đựng bánh và chén thánh và dặn dò các tân chúc hãy ý thức điều mình làm, noi gương điều mình cử hành và đồng hình dạng cuộc sống với mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ Dinh Tông Tòa để đoc Kiinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng với tín hữu. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Chúa Nhật thứ tư Mùa Phục Sinh, là Chúa Nhật hôm nay, cũng gọi là “Chúa Nhật Chúa Chiên Lành”, hằng năm mời gọi chúng ta tái khám phá ra, với sự kinh ngạc ngày càng mới mẻ, định nghĩa mà Chúa Giêsu đã tự cho mình, khi đọc nó dưới ánh sáng cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. “Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11): các lời này đã được hiện thực một cách tràn đầy, khi Chúa Kitô tự do vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hiến tế mình trên Thập Giá. Khi đó trở thành rõ ràng Người là “mục tử nhân lành” có nghĩa là gì: Người cống hiến sự sống mình như hiến tế cho chúng ta, cho tôi, cho anh, cho chị, cho tất cả chúng ta. Chính vì vậy Người là mục tử nhân lành.

Chúa Kitô là mục tử thật, là Đấng hiện thực mẫu gương cao nhất của tình yêu đối với đoàn chiên: Người tự ý hy sinh mạng sống mình, không ai lấy nó đi được, nhưng Người trao ban nó cho đoàn chiên. Công khai trái ngược với các kẻ chăn giả, Chúa Giêsu tự giới thiện như mục tử thật duy nhất của dân; mục tử gian ác chỉ nghĩ tới mình và khai thác chiên; mục tử nhân lành chỉ nghĩ tới chiên và tự trao ban chính mình. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

Khác với kẻ chăn thuê, Chúa Kitô mục tử là một vị hướng dẫn sốt sắng chia sẻ cuộc sống của đoàn chiên, không tìm lợi lộc nào khác, không có tham vọng nào khác ngoài tham vọng dẫn dắt, dưỡng nuôi và che chở chiên. Và tất cả những điều đó Người làm với giá cao nhất, giá của hiến tế chính mạng sống mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Trong gương mặt của Chúa Giêsu mục tử nhân lành, chúng ta chiêm ngưỡng sự Quan Phòng của Thiên  Chúa, sự ân cần hiền phụ của Người đối với từng người trong chúng ta. Người không để chúng ta cô đơn. Hiệu quả của việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Mục Tử thật và nhân lành là lời reo vang ngạc nhiên cảm động, mà chúng ta tìm thấy trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “Anh em hãy xem Thiên Chúa Cha đã yêu thương chúng ta chừng nào… “ (1 Ga 3,1). Anh chị em hãy coi Thiên Chúa Cha đã yêu thương chúng ta chừng nào!

Thật là một tình yêu gây kinh ngạc và mầu nhiệm, bởi vì khi ban Chúa Giêsu như Mục Tử hiến mạng sống mình cho chúng ta, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta tất cả những gì cao cả và quý báu nhất Ngài có thể ban cho chúng ta! Đó là tình yêu cao cả và tinh tuyền nhất, bởi vì nó không do một sự cần thiết nào, nó không bị điều kiện hóa bởi bất cứ tính toán nào, nó không bị lôi kéo bởi bất cứ ước muốn trao đổi lợi lộc nào. Trước tình yêu đó của Thiên Chúa chúng ta kinh nghiệm được một niềm vui mênh mông và rộng mở cho lòng biết ơn đối với những gì chúng ta đã nhận lãnh một cách nhưng không.

Tuy nhiên, chiêm ngưỡng và cảm tạ thôi không đủ. Cũng cần phải theo Mục Tử Nhân Lành nữa. Đặc biệt là những người có sứ mệnh hướng dẫn trong Giáo Hội – các linh mục, Giám Mục và Giáo Hoàng – được mời gọi nhận lấy không phải tâm thức của người quản trị, nhưng của nguời tôi tớ, noi gương Chúa Giêsu, là Đấng lột bỏ chính mình và đã cứu chuộc chúng ta với lòng thương xót của Người. Cũng được mời gọi có kiểu sống này các tân linh mục của giáo phận Roma mà tôi đã sung sưóng truyền chức cho sáng nay trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Và hai vị sẽ ra cửa sổ này để cám ơn và chào anh chị em.

Ước chi Mẹ Maria Rất Thánh xin cho tôi, cho các Giám Mục và các linh mục trên toàn thế giới được ơn phục vụ dân thánh Chúa qua việc tươi vui rao giảng Tin Mừng, sốt sắng cử hành các Bí Tich và kiên nhẫn dịu hiền trong hướng dẫn mục vụ.

Tiếp đến ĐTC đã cất kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và cùng hai tân linh mục ban phép lành cho mọi người.

Sau Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ĐTC đã tái phân ưu với các dân tộc nạn nhân của trận động đất lớn tại Nepal và các nước phụ cận. Như đã biết trận động đất mạnh tới 8.1 độ Richter, khiến cho 1900 người chết, hàng ngàn người bị thương và mất nhà cửa. ĐTC nói ngài gần gũi các nạn nhân, người bị thương và tất cả những ai đang đau khổ vì tai ương này. Ước chi họ được tình liên đới huynh đệ nâng đỡ  trợ giúp. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ. ĐTC và mọi người đã đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho các anh chị em này.

Ngài cũng mời mọi người hiệp ý cảm tạ Chúa vì hôm qua tại Canada đã có lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Elisa Turgeon, sáng lập dòng các Nữ Tu Đức Bà Mân Côi của thánh Germano: chị là một nữ tu gương mẫu, dành cả đời để cầu nguyện, dậy đỗ và làm việc bác ái trong các trung tâm bé nhỏ của giáo phận, nêu gương sáng trong việc nên thánh và phục vụ tha nhân.

ĐTC không quên chào nhiều nhóm tín hữu đến từ nhiều giáo phận Italia cũng như từ nước ngoài, đặc biệt rất đông tín hữu Ba Lan hành hương Roma nhân kỷ niệm một năm ngày phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói: Ước chi lời mời gọi  “Hãy mở của cho Chúa Kitô” vói giọng nới mạnh mẽ thánh thiện của người luôn vang vọng trong tim anh chị em.

ĐTC đã chúc tất cả một ngày Chúa Nhật tươi vui và xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đừng xin dự lễ riêng của Đức Thánh Cha

Đừng xin dự lễ riêng của Đức Thánh Cha

VATICAN. Ban Bí thư riêng của Đức Thánh Cha xin các tín hữu đừng xin dự lễ riêng của ĐTC vì Ban không thể đáp ứng yêu cầu nữa.

Thông cáo phổ biến cho các cơ quan truyền thông Vatican ngày 21-4-2015 có nội dung như sau:

”Ban Bí thư riêng của Đức Thánh Cha gửi lời kính chào và xin thông báo rằng: rất tiếc vì con số những đơn xin đến từ các nơi trên thế giới quá nhiều, nên không thể đón nhận lời xin tham dự Thánh Lễ tại Nhà Nguyện nhà trọ Thánh Marta ở Vatican.

”Ai muốn, có thể tham dự buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha mỗi ngày thứ tư, bằng cách xin vé tại Phủ Giáo Hoàng (Prefettura della Casa Pontificia – 00120 Città del Vaticano – Fax 06.698.85863).”

”Ban Bí thư riêng này mời gọi nhớ đến Đức Thánh Cha Phanxicô trong kinh nguyện, và cầu chúc mọi điều tốt lành trong Chúa, đồng thời gửi lời chào thân ái nhất.”

Cũng nên nhắc lại rằng từ khi làm Giáo Hoàng, mỗi buổi sáng ĐTC Phanxicô vẫn cử hành Thánh Lễ thường nhật dưới dạng bán chính thức tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta với sự tham dự của một nhóm tín hữu tối đa khoảng 80 người. Cuối thánh lễ, ngài thường đứng cuối nhà nguyện, bắt tay chào thăm từng người.

Hồi tháng 2-2014, trong bài giảng, ĐTC đã có nhận xét này: tham dự thánh lễ ban sáng của ngài ”không phải là một cuộc dã ngoại du lịch”, nhưng cũng như mọi buổi lễ phụng vụ khác, đó là ”một cuộc đi vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp 120 thành viên Quỹ Gioan Phaolô 2

Đức Thánh Cha tiếp 120 thành viên Quỹ Gioan Phaolô 2

VATICAN. Sáng ngày 25-4-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến và khích lệ các thành viên và thân hữu của Quỹ Gioan Phaolô 2.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Stanislaw Rylko người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cám ơn ”các sáng kiến có tính chất giáo dục do Quỹ Gioan Phaolô 2 dành cho giới trẻ, qua đó Quỹ góp phần làm cho đoàn sủng và tình phụ tử của thánh Gioan Phaolô 2 tiếp tục mang lại nhiều thành quá. Quỹ cũng cống hiến cho các linh mục và giáo dân cơ hội được huấn luyện, được chuẩn bị hơn để tháp tùng các cộng đoàn, trong việc đương đầu với các thánh đố văn hóa và mục vụ thời nay.”

Sau cùng, ĐTC không quên nhắn nhủ các thành viên của Quỹ Gioan Phaolô 2 ”sống tình liên đới với nhau, luôn nuôi dưỡng tình liên đới vằng tình huynh đệ Kitô, và bằng kinh nguyên, tinh thần ngoan ngoãn đối với Lời Chúa”.

Quỹ Gioan Phaolô 2 là một tổ chức từ thiện phi lợi nhuận, được thành lập với sắc lệnh của ĐGH ngày 16-10 năm 1981 với mục đích hỗ trợ và thực hiện các dự án giáo dục, khoa học, văn hóa, tôn giáo và bác ái có liên hệ tới triều đại của ĐTC Gioan Phaolô 2. Quỹ này cũng có mục đích bảo tồn và phát huy gia sản tinh thần của Đức Gioan Phaolô 2 và văn hóa Kitô, thiết lập các tài liệu và nghiên cứu về triều đại Giáo Hoàng và phổ biến giáo huấn của Đức Gioan Phaolô 2. Cho đến nay Quỹ cấp đã cấp học bổng cho hơn 700 sinh viên Đông Âu, trong số này 3 người đã trở thành giáo sư và 67 người đạt bằng tiến sĩ (SD 25-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Vatican tổ chức xổ số lần thứ 2 làm việc nghĩa

Vatican tổ chức xổ số lần thứ 2 làm việc nghĩa

VATICAN. Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican tổ chức xổ số lần thứ 2 vào ngày 30-6 tới đây để hỗ trợ các hoạt động bác ái của ĐTC.

Lần đầu đã diễn ra vào ngày 8-1 năm nay. Toàn bộ số tiền do việc bán vé số mang lại đã được chuyển cho Sở Từ Thiện của ĐTC. Lô độc đắc hồi đó là một xe Fiat Panda do hãng này tặng cho ngài. Ngoài ra có 30 lô trúng khác. Theo một nguồn tin từ Vatican cho biết đã có 27.920 vé số được bán ra hồi năm ngoái, mỗi vé 10 Euro, và số tiền bán được vào khoảng 279.200 Euro.

Lần xổ số thứ hai này có hơn 40 lô là những quà tặng ĐTC đã nhận được. Ví dụ lô độc đắc là chiếc xe hơi Kia Soul người ta đã tặng cho ngài trong cuộc viếng thăm Hàn Quốc hồi tháng 8 năm ngoái. Mỗi vé số được bán với giá 10 Euro giống như lần trước. Vé được bán tại một số nơi trong Nội thành Vatican như Bảo tàng viện, Văn phòng bán tem và tiền sưu tập, v.v.   Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Ông Diego Ravelli, Chánh văn phòng tại Sở từ thiện của ĐTC cho biết ĐTC đã cám ơn sự tham gia rộng rãi của nhiều người trong đợt sổ số lần đầu tiên. Trong tháng 3 vừa qua, Sở Từ Thiện này đã dành hơn 300 ngàn Euro để giúp đỡ người nghèo.

Mặt khác, một buổi hòa nhạc hỗ trợ các hoạt động bác ái của ĐTC cũng sẽ được tổ chức tại Đại thính đường Phaolô 6 vào ngày 14-5-2015 tới đây, lễ Chúa Lên Trời. Buổi hòa nhạc được sự bảo trợ của Sở từ thiện của ĐTC, Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, Hội đồng Tái Truyền giảng Tin Mừng, và Ngân Quỹ thánh Mathêu tưởng niệm ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Chương trình chi tiết của sáng kiến này sẽ được trình bày trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh sáng thứ năm 30-4 sắp tới (SD 24-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Namibia và Lesotho

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Namibia và Lesotho

VATICAN. ĐTC khuyến khích các GM nước Namibia và Lesotho tăng cường việc mục vụ gia đình đứng trước nhiều thách đố ngày nay.

 Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 24-4-2015 dành cho 7 GM hai nước Namibia và Lesotho ở miền nam Phi châu về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh. Ngài khẳng định rằng:

 ”Tôi cũng nghĩ đến các gia đình Kitô bị phân hóa vì công ăn việc làm xa nhà hoặc vì ly thân hay ly dị. Tôi khuyến khích anh em tiếp tục giúp đỡ và hướng dẫn họ. Hãy quyết liệt chuẩn bị các cặp nam nữ kết hôn theo phép đạo và liên tục nâng đỡ các gia đình bằng cách quảng đại cung cấp các bí tích của Giáo Hội cho họ, đặc biệt làm sao để bí tích lường thương xót được phổ biến rộng rãi. Tôi cám ơn anh em vì những cố gắng thăng tiến gia đình lành mạnh trước những quan niệm lệch lạc đang lan tràn trong xã hội ngày nay”.

 ĐTC nhắc nhở các GM Namibia và Lesotho công khai nói về kinh nghiệm mãn nguyện và vui mừng khi dâng hiến cuộc sốgn cho Chúa Kitô, đứng trước sự suy giảm ơn gọi LM và tu sĩ ngày nay. Vì khi các cộng đoàn Kitô được xây dựng và khích lệ bằng chính tấm gương ”sống những cam kết của chức linh mục trong sự thật và vui tươi, sống sự độc thân trong khiết tịnh và không quyến luyến của cải vật chất, thì ơn gọi LM và đời sống thánh hiến chắc chắn sẽ dồi dào” (Africar Munus, n.111).

 Namimiba rộng hơn 825 ngàn cây số vuông nhưng chỉ có 2 triệu 225 ngàn dân cư thuộc nhiều bộ lạc, trong số này 48% theo Tin Lành Luther và 22% là tín hữu Công Giáo thuộc 3 giáo phận.

 Vương quốc Lesoto chỉ rộng hơn 30 ngàn cây số vuông với 212 ngàn dân trong đó 54% là tín hữu Công Giáo, thuộc 1 tổng giáo phận và 3 giáo phận thuộc hạt. (SD 24-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hiến mạng cho chiên

Hiến mạng cho chiên

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.

Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.

Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:

“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,

Tôi chẳng thiếu thốn gì…

Dầu qua lũng âm u,

Tôi sợ gì nguy khốn,

Vì có Chúa ở cùng..”

Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).

Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Không có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.

Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được”(Ga 10,28).

Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!

Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.

Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.

Mục Tử Nhân Lành

Mục Tử Nhân Lành

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Khi ấy Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là…”

Khi ấy Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là…"

Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các bạn hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những hành vi lạ lùng, Người đã nói "nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ". Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.

Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà nghe lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.

“Ta là Bánh…". -"Ta là ánh sáng trần gian…". -“Ta là cửa…". -"Ta là Đấng chăn chiên lành…". -“Ta là cây nho…". "Ta là sự Phục sinh và là sự sống…".

Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi", có nghĩa "Tôi là".

Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng "Aramên", ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng "Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH", từ bốn chữ này không ai đã dám đọc lên và có nghĩa là "Ta là" (Xuất hành 3-14). Trước bụi gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: "Tên của Người là gì? Và câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: "Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngữ đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu: Để mắt nhìn, thì hiểu là "Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra là "Đức Chúa".

Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám tuyên bố rằng Người là "Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ sai lạc của nhân loại, người là "Đấng chăn chiên" duy nhất.

Tôi chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.

Biểu tượng "người mục tử dẫn đàn chiên" đã có từ lâu trong khắp miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những "Thần Thánh" và "Vua Chúa".

Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa: "Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi" (Tv 22,1). "Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta" Chúa đã nói (Ed 34). "Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn chiên ăn cỏ – Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn cho con bú” (Is 40,11).

Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học" rõ ràng: Người nói Người là "Đấng Mêsia", "sứ giả của Thiên Chúa" để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu này, (rất tiếc là sách "bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và sứ mệnh mà Người đảm nhận: "Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống, và cho loài người có cuộc sống dồi dào" (Ga 10,10).

Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào, những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai, trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những "con người" như chúng ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.

Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng liêng: "Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người ra, không có sự cứu rỗi nào cả".

Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.

“Người chăn chiên lành" ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại với các "vị câu thế" giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn "những điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu, "người làm thuê" chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng. Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình, nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.

Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: "Người hy sinh mạng sống của chính Người". Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền viên, những "chuồng chiên" lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm: "Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng, sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).

Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.

Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một "tác động" yêu thương, yêu thương đến cùng. "Không có tình yêu nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình" (Ga 13,1; 15,13).

Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: "Ta tháo gỡ linh hồn Ta ra". "Ta hiến dâng mạng sống của Ta". Cách nói khác thường này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta "cho chính chúng ta?". Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai? Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sự dâng hiến – tối thượng này không?

Tôi chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi.

Khác với người làm thuê, "không thiết tha gì đến những con chiên”. Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa, Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao?

Đúng, Ta đã yêu thương con thật tình, không phải chuyện đùa giỡn.

Qua những lời thắm thiết nồng nàn "Ta biết chiên của Ta" chứng tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một người chồng nói về vợ mình: "Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai". Sự hiện diện mật thiết của người này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó" và "dấn thân vì người đó".

Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.

Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi "Maria", Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ ơn Chúa, vì tình thương này.

Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.

Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, "sự quen biết riêng” với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự "quen biết" này sẽ lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ "Oicouménè" Hy Lạp có nghĩa là "toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: "Người là ai, mà có những tham vọng như thế? Người có "hơn" Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết "vô ích"? Ở thế kỷ II, có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: "Tôi là môn đệ của một thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi". Chúa Giêsu cũng vậy, Người có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe "tiếng của Người" và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và "đoái nhìn đến", chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người, Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.

Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.

Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như "tháo cởi và mặc lại" áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Năm Tuần Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.

Noel Quesson

Chúa chiên lành

Chúa chiên lành

Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.

Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.

Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.

Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.

Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:

Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.

Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.

Sưu tầm


 

Lớp Sáu – Bài Học 19 – Bố Tôi, Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Bố Tôi, Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

TiecThuong

Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.

Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.

HySinhchoHanhPhucNguoiCon

Tòa Thánh kêu gọi Phật Giáo cộng tác chống nạn nô lệ tân thời

Tòa Thánh kêu gọi Phật Giáo cộng tác chống nạn nô lệ tân thời

ROMA. Trong sứ điệp chúc mừng các tín hữu Phật giáo nhân ngày lễ Vesakh, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mời gọi tín đồ hai tôn giáo cộng tác để bài trừ nạn nô lệ mới.

Đối với tín đồ Phật giáo nguyên thủy, lễ Vesakh kính nhớ các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Phật như đản sinh, thành đạo, viên tịch và nhập niết bàn. Năm nay lễ này được cử hành vào ngày 1-6 tới đây. Tại các nước theo Phật giáo Đại Thừa, như Việt Nam, Đại Hàn và Trung Quốc, các biến cố trên đây được mừng vào những ngày khác nhau.

Trong sứ điệp, công bố hôm 20-4-2015, ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và vị Tổng thư ký của Hội đồng là cha Miguel Ángel Ayuso Guixot, nhắc đến sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới đầu năm 2015 này, với chủ đề ”Không còn là nô lệ, nhưng là anh chị em với nhau”, qua đó ĐTC nhận xét rằng mặc dù nạn nô lệ đã bị chính thức bãi bỏ trên toàn thế giới, nhưng vẫn còn ”hàng triệu người – gồm trẻ em, người nam người nữ thuộc mọi lứa tuổi, – bị tước đoạt mất tự do và buộc lòng phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ” (n.3).

ĐTC Phanxicô cũng nêu một số ví dụ thời nay: nhiều người nam nữ và trẻ em lao công, người di dân bị nhiều lạm dụng về thể lý, cảm xúc và tính dục, phải chịu những điều kiện làm việc thật ô nhục; có nhiều người, trong đó có các trẻ vị thành viên phải hành nghề mại dâm, làm nô lệ tính dục, nam và nữ; có những người bị những kẻ khủng bố bắt cóc và buộc chiến đấu, không kể những người bị tra tấn, bị cắt chặt cơ phận hoặc bị giết”.

Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn nhắc đến giáo huấn của Phật giáo. Trong một phần của Bát chánh đạo, Đức Phật đã tuyên bố rằng việc buôn bán các sinh vật, kể cả những người nô lệ và mại dâm, là một trong những nghề mà các phật tử không được dấn thân vào (AN 5,177). Đức Phật cũng dạy hãy tìm kiếm của cải bằng phương thế ôn hòa, lương thiện và với những phương thế hợp pháp, không cưỡng bách, bạo hành, hoặc lường gạt (Xc AN 4,47; 5,41; 8,54).

Và ĐHY Tauran kết luận rằng ”Trong tư cách là Phật tử và Kitô hữu, ân cần tôn trọng sự sống con người, chúng ta phải cộng tác với nhau để chấm dứt những tệ nạn trên đây. ĐGH Phanxicô mời gọi chúng ta vượt thắng sự dửng dưng và u mê, đảm bảo ”việc cứu giúp các nạn nhân, giúp họ phục hồi về phương diện tâm lý và huấn luyện, cũng như giúp họ tái hội nhập vào xã hội nhập cư hoặc xã hội nguyên quán” (5).

Sau cùng ĐHY cầu mong việc mừng lễ Vesakh có kèm theo cố gắng mang lại hành phúc cho những người kém may mắn hơn chung ta, và là cơ hội để đào sâu cách thức cộng tác giữa các tín hữu Kitô và Phật tử, để không còn những người nô lệ nữa, nhưng là anh chị em với nhau” (SD 20-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Cần trả lại danh dự cho hôn nhân và gia đình

Cần trả lại danh dự cho hôn nhân và gia đình

Cần trả lại cho hôn nhân và gia đình chỗ đứng danh dự

Cần trả lại cho hôn nhân và gia đình chỗ đứng danh dự. Sự kiện xã hội không đánh giá cao khế ước ổn định và truyền sinh của người nam và người nữ chắc chắn là một mất mát lớn đối với tất cả mọi người. Kitô hữu được mời gọi dấn thân say mê giữ gìn giao ước này của người nam và người nữ, cả khi họ là những người tội lỗi và bị thương tích, lẫn lộn và bị hạ nhục, mất tin tưởng và không chắc chắn.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 40,000 tín hữa và du khách hành hương năm châu trong buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói trong bài giáo lý trước ngài đã suy tư về việc tạo dựng con người theo trình thuật chương thứ nhất sách Sáng Thế khẳng định rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh Ngài: “theo hình ảnh Ngài Thiên Chúa tạo dựng nên họ; nam nữ Ngài tạo dựng nên họ” (St 1,27). Trong bài giáo lý này ngài muốn suy tư về trình thuật thứ hai trong chương hai sách Sáng Thế. Ở đây sau khi tạo dựng trời và đất, Thiên Chúa “nắn ra con người với bụi đất và thổi sinh khí vào lỗ mũi con người và con người trở thành một sinh linh. Rồi Thiên Chúa đặt con người vào trong một ngôi vườn rất xinh đẹp để con người vun trồng và giữ gìn nó” (St 2, 15).

Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh ứng toàn Thánh Kinh, trong một lúc chỉ gợi lên hình ảnh của người nam, không có người nữ. Và Người gợi lên tư tưởng của Thiên Chúa, hầu như là tâm tình của Thiên Chúa là Đấng nhìn con người, quan sát Ađam một mình trong vườn: ông đẹp, đế vương… nhưng cô đơn. Và Thiên Chúa thấy rằng điều này không tốt: nó như là một sự thiếu thốn hiệp thông, một sự thiếu thốn cái tràn đầy. “Thiên Chúa nói: Không tốt và thêm: “Ta muốn làm cho con một sự trợ giúp tương xứng với con” (St 2,18).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Khi đó Thiên Chúa giới thiệu với con người mọi thú vật: con người cho mỗi thú vật một tên – và đây là một hình ảnh khác của quyền làm chủ của con người trên thụ tạo – nhưng con người không tìm thấy nơi bất cứ thú vật nào người khác giống nó. Sau cùng khi Thiên Chúa giới thiệu người nữ, người nam vui sướng nhận ra rằng thụ tạo đó và chỉ có nàng thôi, là phần của mình “xương từ xương tôi, thịt từ thịt tôi” (St 2,23). Sau cùng có một sự phản chiếu, một sự hỗ tương. Và khi một người – đây là một thí dụ giúp hiểu điều này – khi một người muốn giơ tay ra cho một người khác, thì phải có người khác trước mặt: nếu một người giơ tay ra và không có gì, không có ai, thì bàn tay ở đó, vì thiếu sự hỗ tương. Con người cũng thế, nó thiếu cái gì đó để đi tới sự toàn vẹn, nó thiếu sự hỗ tương. Và ĐTC định nghĩa người nữ như sau:

.Người nữ không phải là một “lập lại” của người nam; nhưng đến trực tiếp từ cử chỉ tạo dựng của Thiên Chúa. Thật ra hình ảnh “chiếc xương sườn” không diễn tả sự thấp kém hay sự lệ thuộc, nhưng trái lại, nó diễn tả rằng người nam và người nữ có cùng bản thể và bổ túc cho nhau. Họ cũng có sự hỗ tương này. Và sự kiện đó là – luôn luôn trong dụ ngôn – Thiên Chúa nắn ra người nữ trong khi người nam ngủ, nó nhấn mạnh rằng người nữ không phải là một thụ tạo của con người, nhưng là của Thiên Chúa. Nó cũng gợi lên một điều khác: để tìm người nữ và chúng ta có thể nói rằng để tìm thấy tình yêu nơi người nữ, để tìm ra người nữ, người nam phải mơ nàng trước và rồi tìm ra nàng.

Sự tin tưởng của Thiên Chúa đối với người nam và người nữ, mà Ngài giao phó trái đất cho họ, thật quảng đại, trực tiếp và trọn vẹn. Nhưng này đây kẻ dữ đưa vào trong tâm trí họ sự nghi ngờ, không tin và mất tin tưởng. Và sau cùng nó đi tới chỗ bất phục tùng lệnh truyền che chở họ. Họ rơi vào trong sự mê sảng của sự toàn năng làm ô nhiễm mọi sự và phá hủy sư hài hòa. Tất cả chúng ta nữa đã cảm thấy trong chính mình điều này biết bao lần. ĐTC quảng diễn thêm biến cố phạm tội của con người như sau:

Tội lỗi làm nảy sinh ra sự nghi ngờ và chia rẽ giữa người nam và người nữ. Tương quan của họ sẽ bị giăng bẫy bởi hàng ngàn hình thức thực hiện sai trái chức vụ và bắt phục tùng, rủ rê lừa dối và chuyên quyền hạ nhục nhau cho tới các hình thức thê thảm và bạo lực nhất. Lịch sử mang đầy các dấu vết của chúng. Chẳng hạn chúng ta hãy nghĩ tới các thái qúa tiêu cực của các nền văn hóa theo chế độ phụ hệ. Chúng ta hãy nghĩ tới nhiều hình thức đề cao nam giới, trong đó nữ giới bị coi như hạng hai. Chúng ta hãy nghĩ tới việc lèo lái và buôn bán thân xác nữ giới trong nền văn hóa truyền thông ngày nay. Nhưng chúng ta cũng hãy nghĩ tới nạn dịch mớí đây liên quan tới sự mất tin tưởng, chủ thuyết nghi ngờ, và cả thù nghịch đang lan tràn trong nền văn hóa của chúng ta – đặc biệt bắt đầu một thái độ nghi ngờ có thể hiểu được của các chị em phụ nữ – đối với một khế ước giữa ngưòi nam và người nữ có khả năng tinh luyện sự hiệp thông thân tình và giữ gìn phẩm giá của sự khác biệt.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Nếu chúng ta không tìm ra một phản ứng của sự thiện cảm đối với giao ước này, có khả năng che chở  các thế hệ mới khỏi sự mất tin tưởng và sự thờ ơ, thì con cháu chúng ta sẽ chào đời ngày càng bị mất gốc ngay từ trong lòng mẹ. Sự kiện xã hội không đánh giá cao khế ước ổn định và truyền sinh của người nam và người nữ chắc chắn là một mất mát lớn đối với tất cả mọi người. Chúng ta phải đưa hôn nhân và gia đình trở về chỗ danh dự của chúng. Và Thánh Kinh nói một điều hay đẹp: người nam tìm thấy người nữ. họ gặp gỡ nhau, và người nam phải bỏ điều gì đó để tìm thấy người nữ một cách trọn vẹn. Và vì thế người nam bỏ cha mẹ mình để đến với người nữ. Thật là đẹp! Điều này có nghĩa là bắt đầu một lộ trình. Người nam là tất cả cho người nữ và người nữ là tất cả cho người nam.

Như thế, việc giữ gìn giao ước này của người nam và người nữ, cả khi họ có là những người tội lỗi và bị thương tích, lẫn lộn và bị hạ nhục, mất tin tưởng và bị thương đi nữa, đối với tất cả chúng ta là một ơn gọi dấn thân say mê trong điều kiện ngày nay. Chính trình thuật về việc tạo dựng và tội lỗi, vào đoạn cuối của nó, trao ban cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp: “Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ mình các áo quần bằng da và mặc cho họ” (St 3,21). Đó là một hình ảnh sự dịu dàng của Thiên Chúa đối với cặp vợ chồng tội lỗi khiến cho chúng ta ngạc nhiên há miệng. Đó là một hình ảnh của sự giữ gìn hiền phụ đối với cặp vợ chồng. Chính Thiên Chúa lo lắng và che chở kỳ công của Ngài.

ĐTC đã chào nhiều nhóm hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ là Canada và Hoa Kỳ, cũng như các nhóm và Tây âu, đặc biệt nhiều nhóm đến từ Pháp, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ai len, Phần Lan, Na Uy. Cũng có các nhóm đến từ Nam Phi, Australia, Trung quốc, Nhật Bản, hay từ châu Mỹ Latinh như Argentina, Mexico và Brasil.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói ngày hôm nay Giáo Hội cử hành lễ kính thánh Adalberto tử đạo cách đây hơn 1000 năm. Thánh nhân đã trở thành nền tảng của Giáo Hội và quốc gia Ba Lan. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng người là “một vị gợi hứng khôn sánh cho những ai xây dựng một Âu châu được canh tân trong lòng trung thành với các căn cội văn hóa và tôn giáo của mình.” Xin Thánh bổn mạng từ trời cao che chở và củng cố anh chị em trong đức tin và bầu cử cho quê hương anh chị em được hòa bình và phát triển thịnh vượng.

Với các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các nữ tu trẻ tham dự đại hội đào tạo của Liên hiệp các dòng nữ Italia, các tu sĩ dòng Thánh Tâm và các đại chủng sinh nhiều giáo phận Italia. ĐTC cầu chúc mọi người biết tươi vui làm chứng cho ơn gọi đã nhận lãnh và dấn thân rao truyền Tin Mừng.

Ngài cũng nhắc cho mọi người biết hôm qua là “Ngày bảo vệ Trái dất” và khích lệ mọi người biết nhìn thế giới với đôi mắt của Thiên Chúa Tạo Hóa. Trái đất là môi sinh và là ngôi vườn cần vun trồng. Uớc gì tương quan giữa con người với thiên nhiên không được hướng dẫn bởi lòng tham, việc lèo lái và khai thác, nhưng duy trì sự hài hòa thiên linh giữa các thụ tạo và thiên nhiên trong cái luận lý của sự tôn trọng và săn sóc để trái đất phục vụ mọi người kể cả các thế hệ tương lai.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắn nhủ mọi người biết noi gương Mẹ Maria sống Mùa Phục Sinh này bằng cách lắng nghe Lời Chúa và thực thi bác ái yêu thương, sống tươi vui như các môn đệ của Chúa Kitô phục sinh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi

VATICAN. Chúa nhật thứ tư Phục Sinh 26-4-2015, Chúa nhật Chúa Chiên Lành, cũng là Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52.

Trong ngày này, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để truyền chức linh mục cho 19 Phó Tế, như một cử chỉ khích lệ ơn gọi.

Tình hình ơn gọi trong Giáo Hội trên thế giới hiện nay không khả quan lắm. Theo thống kê mới nhất của Tòa Thánh, số tín hữu Công Giáo trong năm 2013 gia tăng và có 1 tỷ 253 triệu người, tức là tăng thêm 25 triệu, tương đương với 2%, so với năm 2012 trước đó. Số LM triều và dòng tăng thêm 1035 vị, và hiện có 415,348 vị: số LM giáo phận liên tục gia tăng tại Phi châu, Á châu và Mỹ châu. Tuy nhiên tại Âu Châu, số LM tiếp tục giảm. Đặc biệt số nữ tu trong Giáo Hội tiếp tục giảm sút trầm trọng và năm 2013 còn 639,575 chị, tức là giảm 1.2% so với năm trước đó, và giảm 6.1% so với tình trạng năm 2008. Bắc Mỹ có số nữ tu giảm nhiều nhất: 16.6% trong vòng 5 năm qua, tiếp đến là Âu Châu: giảm 12.6% trong cùng khoảng thời gian đó.

Một điều đáng lo nữa, đó là số đại chủng sinh triều và dòng trên thế giới liên tục giảm sút trong 2 năm qua, và còn 118,251 thầy tính đến cuối năm 2013, tức là giảm mất 2,365 thầy kể từ cuối năm 2011.

Những sự kiện đó càng thúc đẩy các tín hữu quan tâm, gia tăng cầu nguyện cho ơn gọi và góp phần vào việc khơi dậy, nuôi dưỡng và hỗ trợ việc mục vụ ơn gọi.

Như mọi năm, nhân dịp Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi, ĐTC đã công bố sứ điệp để nhắn nhủ các tín hữu về ngày này. Năm nay Sứ điệp có chủ đề là ”Xuất hành, kinh nghiệm cơ bản về ơn gọi”. Chúng tôi xin gửi đến quí vị toàn văn sứ điệp của ĐTC.

Toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong chúa nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, – như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, – ”xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10,2). Chúa Giêsu diễn tả mệnh lệnh này trong bối cảnh một cuộc sai đi truyền giáo: ngoài 12 tông đồ, Chúa còn gọi 72 môn đệ và sai họ đi từng hai người một để thi hành sứ vụ (Lc 10,1-16). Thực vậy, nếu Giáo Hội ”tự bản chất là truyền giáo” (Ad Gentes 2), thì ơn gọi Kitô chỉ có thể nảy sinh giữa lòng kinh nghiệm truyền giáo. Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Kitô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa”.

Sự hiến dâng cuộc sống của mình trong thái độ truyền giáo chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta có khả năng ra khỏi chính mình. Vì thế, trong Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi lần thứ 52 này, tôi muốn suy tư về sự 'xuất hành' đặc biệt, tức là ơn gọi, hay đúng hơn, là lời đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Thiên Chúa gửi đến chúng ta. Khi chúng ta nghe từ ”xuất hành”, chúng ta nghĩ ngay đến khởi đầu lịch sử tuyệt vời của tình yêu giữa Thiên Chúa và dân tộc con cái ngài, một lịch sử tiến qua những ngày thê thảm, làm nô lệ ở Ai Cập, việc Chúa gọi ông Môisê, biến cố giải thoát và hành trình tiến về đất hứa. Sách Xuất Hành, cuốn thứ hai trong bộ Kinh Thánh, kể lại lịch sử ấy, trình bày một dụ ngôn về toàn thể lịch sử cứu độ, và năng động cơ bản của niềm tin Kitô. Thực vậy, tiến từ trình trạng nô lệ của con người cũ tới cuộc sống mới trong Chúa Kitô chính là công trình cứu độ diễn ra nơi chúng ta nhờ đức tin (Ep 4,22-24). Tiến trình này thực sự là một ”cuộc xuất hành”, là hành trình của tâm hồn Kitô và của toàn thể Giáo Hội, là hướng đi quyết định của cuộc sống hướng về Chúa Cha”.

”Nơi căn cội của mỗi ơn gọi Kitô có một chuyển động cơ bản của kinh nghiệm đức tin: tin có nghĩa là rời bỏ chính mình, ra khỏi tiện nghi thoải mái và sự cứng nhắc của cái tôi để tập trung cuộc sống của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô; giống như Tổ Phụ Abraham rời bỏ quê hương, lên đường trong niềm tín thác, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ chỉ đường cho để tiến về đất mới. Không được hiểu sự ”ra đi” này là sự coi rẻ cuộc sống, coi nhẹ tâm tình và nhân tính của mình, trái lại, ai lên đường theo Chúa Kitô thì sẽ tìm được cuộc sống sung mãn, đặt trọn bản thân phụng sự Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã nói: ”Ai từ bỏ gia cư, hoặc anh em, chị em, cha mẹ, hay con cái, đồng ruộng, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp trăm và sẽ được sự sống đời đời làm gia sản” (Mt 19,29). Tất cả những điều ấy có ăn cội sâu xa nơi tình yêu. Thực vậy, ơn gọi Kitô trước tiên là một lời mời gọi yêu thương, thu hút và gửi chúng ta đi xa hơn bản thân mình, giải tỏa sự tập trung vào mình, khơi lên một ”cuộc xuất hành trường kỳ ra khỏi cái tôi bị khép kín để giải thoát nó qua sự hiến thân, và nhờ đó tiến về sự tìm lại bản thân, hay đúng hơn là sự khám phá Thiên Chúa” (Deus Caritas est, 6).

ĐTC viết tiếp: ”Kinh nghiệm xuất hành chính là mô hình của đời sống Kitô, nhất là những người đón nhận ơn gọi đặc biệt tận hiến phục vụ Tin Mừng. Kinh nghiệm ấy hệ tại thái độ luôn tái hoán cải và biến đổi, luôn luôn tiến bước, đi từ sự chết đến sự sống như chúng ta cử hành trong toàn thể mục vụ: đó là một năng động vượt qua. Xét cho chúng, từ việc Chúa gọi Abraham tới việc kêu gọi Môisê, từ hành trình của Israel trong sa mạc cho đến cuộc hoán cải như các ngôn sứ rao giảng, cho đến hành trình thừa sai của Chúa Kitô, với tột đỉnh là cái chết và sự sống lại của Ngài, ơn gọi luôn luôn là một hoạt động của Thiên Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ban đầu của mình, giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ, kéo chúng ta ra khỏi tập quán và sự dửng dưng, phóng chúng ta hướng về niềm vui hiệp thông với Thiên chúa và anh chị em. Vì thế, đáp lại tiếng gọi của Chúa chính là để cho Chúa làm cho chúng ta ra khỏi tình trạng ổn định giả tạo của mình để lên đường tiến về Chúa Giêsu Kitô là đích điểm đầu tiên và cuối cùng của đời ta, và là hạnh phúc của chúng ta”.

Năng động xuất hành không chỉ liên quan tới mỗi ơn gọi riêng, nhưng còn tới hoạt động truyền giáo và loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội nữa. Giáo Hội thực sự trung thành với Thầy Thánh theo mức độ đó là một Giáo Hội ”đi ra ngoài”, không bận tâm về chính mình, về những cơ cấu và những chinh phục của mình, nhưng có khả năng ra đi, chuyển động, gặp gỡ các con cái Thiên Chúa trong hoàn cảnh thực tế của họ và đồng cảm với những vết thương của họ. Thiên Chúa ra khỏi chính mình, trong tác động yêu thương của Ba Ngôi, lắng nghe lầm than của dân Ngài và can thiệp để giải thoát họ (Xh 3,7). Cả Giáo Hội cũng được mời gọi sống và hành động như vậy: Giáo Hội loan báo Tin Mừng, đi ra ngoài gặp gỡ con người, loan báo lời giải thoát của Tin Mừng, chữa trị những vết thương của các linh hồn và thể xác bằng ơn thánh của Húa, nâng đỡ người nghèo và những người túng thiếu.

Anh chị em thân mến, sự xuất hành có đặc tính giải thoát, hướng về Chúa Kitô và những người anh em, cũng chính là con đường để hiểu trọn vẹn con người và làm tăng trưởng về mặt nhân bản và xã hội trong lịch sử. Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Kitô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giêsu có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, ”họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).

ĐTC cũng khẳng định rằng:

”Tiến trình xuất hành hướng về Thiên Chúa và tha nhân như thế làm cho đời sống chúng ta đầy vui mừng và ý nghĩa”. Tôi muốn nói điều đó nhất là với các bạn trẻ là những người do tuổi và quan niệm của họ về tương lai đang mở ra trước mắt họ, họ biết sẵn sàng và quảng đại. Nhiều khi những điều bất định và lo âu về tương lai và không chắc chắn về cuộc sống thường nhật có nguy cơ làm tê liệt đà tiến của họ, cản trở những giấc mơ của họ, đến độ họ nghĩ là không bõ dấn thân, và Thiên Chúa của đức tin Kitô giới hạn tự do của họ. Trái lại, hỡi bạn trẻ thân mến, các bạn đừng sợ ra khỏi chính mình và lên đường! Tin Mừng là Lời giải thoát chúng ta, biến đổi và làm cho đời sống chúng ta trở nên tươi đẹp hơn. Thật là đẹp dường nào khi để cho tiếng gọi của Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, đón nhận Lời Chúa và bước theo vết của Chúa Giêsu, trong sự thờ lạy mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho tha nhân! Cuộc sống của các bạn ngày càng trở nên phong phú và vui tươi hơn!

”Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ thưa ”Xin vâng” đối với tiếng gọi của Chúa. Mẹ tháp tùng và hướng dẫn chúng ta. Với lòng can đảm quảng đại, Mẹ Maria đã hát lên niềm vui ra khỏi chính mình và phó thác những dự phóng cuộc sống của Mẹ cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ để hoàn toàn sẵn sàng đón nhận ý định của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta; để chúng ta gia tăng ước muốn ra đi và ân cần hướng về người khác (Xc Lc 1,39). Xin Mẹ Maria bảo vệ và chuyển cầu cho tất cả chúng ta.

Vatican ngày 29-3-2015, Chúa nhật lễ lá.

Phanxicô Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha liên đới với Giáo Hội Chính Thống Ethiopie

Đức Thánh Cha liên đới với Giáo Hội Chính Thống Ethiopie

VATICAN. ĐTC bày tỏ kinh hoàng và đau buồn sâu đậm vì vụ 28 tín hữu Chính Thống Ethiopie bị nhóm Hồi giáo cực đoan ở Libia giết hại hôm 19-4-2015.

Trong điện văn ngày 20-4-2015 gửi đến Đức Thượng Phụ Abuna Matthias, Giáo Chủ Chính Thống Ethiopie viết:

”Tôi rất kinh hoàng và đau buồn khi hay tin bạo lực lại xảy ra cho các tín hữu Kitô vô tội tại Libia. Tôi biết Đức Thượng Phụ rất đau khổ vì những hành vi tàn bạo mà nạn nhân là các tín hữu yêu quí của Đức Thượng Phụ, họ bị giết chỉ vì là môn đệ của Chúa Giêsu Cứu Thế của chúng ta. Tôi bày tỏ tình liên đới rất sâu đậm với Đức Thượng Phụ và sự gần gũi của tôi trong kinh nguyện đứng trước cuộc tử đạo liên tục giáng xuống một cách tàn bạo trên các tín hữu Kitô tại Phi châu, Trung Đông và một số miền ở Á châu”.

”Không có sự khác biệt nào giữa các tín hữu Kitô, Copte, Chính Thống hay Tin Lành. Máu của họ đều giống nhau trong sự tuyên xưng Chúa Kitô! Máu của các anh chị em Kitô chúng ta là một chứng tá kêu gào để được sự lắng nghe của tất cả những người chưa biết phân biệt giữa thiện và ác. Và tiếng kêu này phải được lắng nghe, nhất là những người nắm vận mạng của các dân tộc”.

Và ĐTC nhận định rằng: ”Trong thời kỳ này, chúng ta đầy tràn niềm vui Phục Sinh của các môn đệ mà các phụ nữ đã loan báo cho họ ”Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết”. Năm nay, niềm vui của chúng ta không giảm bớt, nhưng bị lu mờ vì đau khổ. Tuy nhiên chúng ta biết rằng cuộc sống chúng đang sống trong tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa mạnh hơn sự đau khổ mà tất cả các tín hữu Kitô đang phải chịu, một sự đau khổ liên kết những người nam nữ thiện chí thuộc mọi truyền thống tôn giáo.”

”Với tâm tình chia buồn sâu đậm, tôi trao đổi với Đức Thượng Phụ vòng tay ôm hòa bình trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”.

Theo Đài phát thanh Đức (Deutsche Welle) và báo trực tuyến ”Phóng viên” (Reporter) của Ethiopie, cái gọi là ”Nhà nước hồi giáo” IS đã truyền đi trên mạng một băng Video dài khoảng 20 phút trình bày vụ chặt đầu 12 tín hữu Kitô trên một bãi biển, và 16 người khác bị bắn vào đầu tại một vùng sa mạc. Các nạn nhân ấy bị những tên lý hình trình bày là ”Đồ đệ của thập giá thuộc Giáo Hội Ethiopie thù địch”. Nhóm thứ I bị nhóm Hồi giáo bắt tại một tỉnh phía đông và nhóm thứ hai ở miền nam Libia.

Một người võ trang bịt mặt trong băng Video tuyên bố rằng ”Các tín hữu Kitô phải trở lại Hồi giáo hoặc phải trả thuế đặc biệt, theo qui luật của sách Coran”.

Người ta chưa biết danh tánh 28 tín hữu Ethiopie bị giết. Theo bộ trưởng truyền thông của Ethiopie, Ông Redwan Hussein, các tín hữu ấy có là là những người di dân Ethiopie bị lực lượng Nhà Nước Hồi giáo IS bắt cóc tại Libia. Có nhiều người Ethiopie đến nước này để tìm công ăn việc làm hoặc hy vọng sẽ vượt biên bằng đường biển để vào Âu Châu (Apic, SD 20-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ an táng ĐHY Tucci, cựu Giám đốc Radio Vatican

Lễ an táng ĐHY Tucci, cựu Giám đốc Radio Vatican

Cardinal Tucci

Thánh lễ cầu nguyện cho ĐHY Roberto Tucci diễn ra hôm thứ sáu tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô. Ngài là Giám Đốc Đài Phát Thanh Vatican từ 1973 đến 1985, đã mất hôm 15/4 thọ 93 tuổi. Chúa nhật 19/4 sẽ là ngày tròn 94 tuổi nếu ngài còn sống.

Sinh tại Napoli (nước Ý), HY Tucci đã gia nhập Dòng Tên lúc còn rất trẻ, thụ phong linh mục năm 1950 và được biết đến nhiều nhất trong vai trò là người tổ chức các chuyến viếng thăm vượt đại dương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Chủ tế thánh lễ án táng ngài là ĐHY Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng y đoàn. Trong bài giảng lễ, Đức Hồng Y Sodano lấy cảm hứng từ Sách Khải Huyền, tường thuật cảnh thánh Gioan Tông đồ đã nghe tiếng từ trời nói rằng “Phúc thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa”. Ngài nói những lời Kinh Thánh này diễn tả kết quả của những ai đã sống trong Chúa, Đấng là đường, là sụ thật và sự sống của chúng ta.

Trích dẫn những lời chia buồn của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Hồng Y Sodano nói cố Hồng y Tucci “lưu lại nơi chúng ta hình ảnh một cuộc sống bận rộn và năng động , trung tín và nhiệt thành với ơn gọi tu sĩ và linh mục của mình, luôn quan tâm tới nhu cầu của người khác và trung thành với Tin Mừng. ” Đây là di sản ngài để lại cho chúng ta.

Sau thánh lễ, ĐTC Phanxicô chủ sự nghi thức tiễn biệt.

Vatican News

Đức Thánh Cha lên án trào lưu bài Do thái tăng tại Âu Châu

Đức Thánh Cha lên án trào lưu bài Do thái tăng tại Âu Châu

VATICAN. Sáng ngày 20-4-2015, ĐTC đã tiếp kiến phái đoàn của Hội đồng các Rabbi Do thái Âu Châu lần đầu tiên và ngài lên án trào lưu bài Do thái đang gia tăng tại đại lục này.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC chia buồn về việc Rabbi Elio Toaff (1915-2015), nguyên Rabbi trưởng của Cộng đoàn Do thái ở Roma mới qua đời tối ngày 19-4-2015, và với lòng biết ơn, ngài nhắc đến Cố Rabbi như một người hòa bình và đối thoại, đã đón tiếp ĐGH Gioan Phaolô 2 tại Đền thờ lớn của Do thái giáo ở Roma.

ĐTC cũng kêu gọi các tín hữu Do thái và Kitô cộng tác với nhau để duy trì cảm thức tôn giáo nơi con người ngày này. Ngài nói: ”Ngày nay tại Âu Châu, một điều rất quan trọng là làm nổi bật chiều kích tinh thần và tôn giáo của đời sống con người. Trong một xã hội ngày càng bị tục hóa và bị trào lưu vô thần đe dọa, người ta có nguy cơ sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu. Con người thường bị cám dỗ đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, coi mình là tiêu chuẩn của mọi sự, nghĩa mình có thể kiểm soát mọi điều, cảm thấy mình được phép sử dụng tất cả những gì xung quanh theo phán đoán của mình. Điều rất quan trọng là nhớ rằng sự sống của chúng ta là một ân huệ của Thiên Chúa và chúng ta phải tín thác vào Chúa.. Các tín hữu Do thái và Kitô có hồng ân và trách nhiệm góp phần duy trì sinh động cảm thức tôn giáo của con người ngày nay và của xã hội chúng ta, làm chứng về sự thánh thiện của Thiên Chúa và của đời sống con người. Thiên Chúa là Đấng thánh và sự sống con người mà Chúa ban cũng là thánh thiêng và bất khả xâm phạm”.

ĐTC cũng bày tỏ lo âu vì xu hướng bài Do thái và một số hành vi oán thù và bạo lực ở Âu Châu. Ngài nói: ”Mỗi tín hữu Kitô phải quyết liệt lên án mọi hình thức bài Do thái, biểu lộ tình liên đới của mình với dân tộc Do thái” (Xc N.A 4). Mới đây chúng ta đã kỷ niệm 70 năm cuộc giải phóng trại tập trung Auschwitz, nơi đã diễn ra đại thảm hạa Shoah, diệt chủng Do thái. Ký ức về những gì đã xảy ra giữa lòng Âu Châu phải là lời cảnh giác cho thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Cũng cần lên án ở mọi nơi những biểu hiện oán thù và bạo lực cHóng các tín hữu Kitô và tín đồ các tôn giáo khác”.

Trong diễn văn chào mừng ĐTC, Rabbi Pinchas Goldschmidt, Rabbi trưởng ở Mascơva và là Chủ tịch Hội đồng Rabbi Âu Châu, nói đến sự kiện nhiều người Do thái ở Âu Châu cũng đang cảm thấy mình giống như các tín hữu Kitô ở Trung Đông hiện nay mặc dù nhiều chính phủ Âu Châu đã đề ra các biện pháp bảo vệ người Do thái. Người Do thái và các cơ sở Do thái bị những thành phần nhập cư cực đoan từ Trung Đông tấn công, và đàng khác người Do thái Âu Châu cũng phải chịu những công hiệu phụ do các chiến dịch bài người Hồi giáo ở Âu Châu gây ra. (SD 20-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Hồng Y Francis George, Tổng Giám Mục Chicago, qua đời

Đức Hồng Y Francis George, Tổng Giám Mục Chicago, qua đời

George-Cardinal-Formal-Portrait-cropped

CHICAGO. ĐHY Francis George, nguyên TGM giáo phận Chicago, Hoa Kỳ, đã qua đời ngày 17-4-2015, hưởng thọ 78 tuổi, sau gần 10 năm chiến đấu với bệnh ung thư.

ĐHY George là người đầu tiên sinh trưởng tại Chicago được bổ nhiệm làm TGM giáo phận này. Ngài thuộc dòng Hiến sinh thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI), làm giáo sư triết học, rồi làm giám tỉnh trước khi làm Tổng đại diện của dòng ở Roma trong 12 năm trời. Năm 1990, ngài được bổ nhiệm làm GM giáo phận Yakima, bang Washington, sau đó thăng TGM giáo phận Portland, Oregon, nhưng chỉ 1 năm sau đó người được thuyên chuyển về Chicago, thăng Hồng Y năm 1998, rồi về hưu hồi năm 2014. ĐHY từng làm Chủ tịch HĐGM Hoa Kỳ.

Đức Cha Blase Cupich, đương kim TGM Chicago, nói rằng trong cuộc đời ĐHY George đã vượt thắng nhiều trở ngại để trở thành LM, không để cho những giới hạn thể lý làm giảm bớt lòng nhiệt thành tông đồ. Ngài bị bệnh sốt tê liệt (polio) hồi còn nhỏ nên đi khập khiễng. Trong gần 10 năm cuối đời, ngài chiến đấu với bệnh ung thư.

ĐTC đã gửi điện chia buồn với Tổng giáo phận Chicago: Đức TGM Cupich, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận. Ngài viết; ”Với lòng biết ơn vì chứng tá của ĐHY George về đời sống thánh hiên như một Hiến sinh thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm. sự phục vụ của Đức Cố Hồng Y trong việc tông đồ giáo dục của Giáo Hội và những năm Người phục vụ như Giám Mục trong các giáo phận Yakima, Portland và Chicago, tôi cùng với Đức Cha phó thác linh hồn vị mục tử khôn ngoan và nhân hậu này cho lòng thương xót của Chúa, là Cha chúng ta trên trời. Tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh như bảo chứng ơn an ủi và niềm an bình trong Chúa, cho tất cả những ai đang khóc thương Đức Cố Hồng Y trong niềm hy vọng chắc chắn về sự phục sinh.”

Với sự qua đi của ĐHY George, Hồng y đoàn còn 223 vị, trong đó có 121 Hồng y cử tri, và chúa nhật 19-4-2015 này, số Hồng y trở lại con mức độ bình thường theo luật định tối đa là 120 vị, khi ĐHY Justin Rigali, nguyên TGM Philadelphia Hoa Kỳ, tròn 80 tuổi. (CNS 17, SD 18-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Trở nên nhân chứng Phục Sinh bằng đời sống

Trở nên nhân chứng Phục Sinh bằng đời sống

VATICAN. Trưa ngày Chúa nhật 19.04.2015, ĐTC đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng vào lúc 12h trưa trước sự hiện diện của vài chục ngàn khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Ngài nhắn nhủ mọi người hãy trở nên nhân chứng cho Đấng Phục Sinh bằng đời sống Kitô hữu của chính mình.

Sau đây là nội dung chính bài giảng của ĐTC, Ngài nói:

"Trong các bài đọc Kinh Thánh của phụng vụ hôm nay, ngôn từ “chứng nhân” được nhắc đi nhắc lại những hai lần. Lần đầu tiên, ngôn từ ấy phát xuất từ môi miệng của Phêrô: sau khi đã chữa lành người què tại cửa Đền thờ, ông đã lớn tiếng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3,15). Ngôn từ ấy xuất hiện lần thứ hai từ môi miệng của Đức Giêsu Phục Sinh: chiều tối ngày lễ Vượt Qua, Ngài đã mở lòng mở trí cho các môn đệ về mầu nhiệm của cái chết và sự sống lại của mình và Ngài nói với họ: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 48).

Các tông đồ, những người đã tận mắt nhìn thấy Đức Kitô Phục Sinh, chẳng thể nào câm nín về kinh nghiệm dị thường của họ. Đức Giêsu đã tự tỏ mình ra cho các tông đồ để rồi chân lý về sự sống lại của Ngài được tất cả mọi người lãnh hội thông qua chứng từ của các tông đồ."

Nhắc đến sứ mạng của Giáo Hội phải làm chứng cho Đấng Phục Sinh, ĐTC nói:

Và Giáo Hội có nghĩa vụ phải tiếp tục sứ mạng này: những ai đã chịu phép rửa đều được kêu gọi để làm chứng, bằng lời nói và đời sống, rằng Đức Giêsu đã sống lại, Ngài hằng sống và hiện diện giữa chúng ta. 

Chúng ta có thể tự chất vấn mình: nhưng nhân chứng là ai? Nhân chứng là người đã chứng kiến nên đã hồi tưởng và thuật lại. Nhìn thấy, hồi tưởng và thuật lại là ba động từ diễn tả căn tính và sứ mạng của nhân chứng. Nhân chứng là người đã nhìn thấy bằng con mắt khách quan một thực tại, nhưng không phải với con mắt dửng dưng; nhân chứng đã nhìn thấy và dính líu đến biến cố. Vì thế, hồi tưởng lại, không phải chỉ bởi vì người ta tái thiết lại biến cố đã diễn ra một cách chính xác, nhưng bởi vì những biến cố này đã ngỏ lời với nhân chứng và người này lãnh hội biến cố ấy một cách sâu xa. Và rồi nhân chứng thuật lại, không phải với một cách thức lạnh lùng và xa cách, nhưng như thể một người để cho mình dính líu đến sự việc và từ ngày đó nhân chứng đã thay đổi  cuộc sống mình. Chứng nhân là người đã làm cho đời sống mình biến đổi.

Nội dung của chứng tá Kitô giáo không phải là một lý thuyết, một ý thức hệ hay một hệ thống phức tạp của giáo huấn và cấm đoán hay là chủ nghĩa duy đạo đức, nhưng như một sứ điệp của cứu độ, một sự kiện cụ thể, đúng hơn là một Con Người: là Đấng Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu chuộc hằng sống và duy nhất của tất cả mọi người. Ngài có thể được minh chứng bởi những ai đã có kinh nghiệm cá nhân với Ngài, trong cầu nguyện và qua Giáo Hội, ngang qua cuộc lữ hành được đặt nền nơi Bí tích Thánh Tẩy, từ sự nuôi dưỡng của Bí tích Thánh Thể, từ dấu ấn của Bí tích Thêm Sức, và sự hoán cải liên lỉ của họ nơi Bí tích Hòa giải. Để biết ơn cuộc lữ hành này, vốn luôn được Lời Chúa hướng dẫn, mỗi Kitô hữu có thể trở nên nhân chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh."

Nhắc đến chứng từ cần thiết của Kitô hữu cho Đấng Phục Sinh, ĐTC nói:

Và chứng từ của họ sẽ càng khả tín hơn nếu nơi họ toát lên sắc nét lối sống của tin mừng là hoan hỷ, can đảm, ôn hòa, bình an, biết thương xót. Ngược lại nếu Kitô hữu để cho mình rơi vào sự tiện nghi, sự kiêu ngạo, hay tính vị kỷ và nếu họ trở nên câm điếc và mù lòa trước đòi buộc phải làm cho  biết bao nhiêu anh chị em khác được “sống lại”, thì làm sao Kitô hữu có thể loan truyền rằng Đức Giêsu hằng sống, Ngài có uy quyền giải thoát và sự âu yếm của Ngài đến vô ngần vô hạn được ?

Đức Maria từ mẫu, phù trợ chúng ta cùng với sự chuyển cầu của Mẹ, để rồi chúng ta có thể trở nên những nhân chứng cho Đấng Phục Sinh, cùng với những giới hạn của mình, và cả với ân huệ của đức tin, hầu mang lại cho mọi người chúng ta gặp gỡ những tặng phẩm của Phục Sinh là niềm vui và bình an."

Sau kinh lạy Nữ Vương Thiên Đàng, ĐTC đã gửi lời chào đến tất cả khách hành hương đến từ nước Ý và khắp mọi nơi trên thế giới. Ngài nhắc đến những tin tức liên quan đến thảm kịch mới xảy ra trước đó ở vùng biển Địa Trung Hải. Một xà lan chở đầy người di dân đã bị lật úp đêm hôm qua cách bở biển Libia khoảng 60 hải ký và người ta lo lắng rằng có hàng trăm nạn nhân nơi đó. ĐTC đã diễn tả nỗi đau buồn của ngài khi đối diện với thảm kịch này và ngài đoan chắc sẽ tưởng nhớ đến những người thiệt mạng và gia đình của họ trong lời cầu nguyện của mình. ĐTC đưa ra lời kêu gọi cách phiền não để cộng đồng quốc tế hành động với tính quả quyết và sự khẩn trương, hầu tránh cho những thảm kịch tương tự khỏi lặp lại.          

ĐTC  nhắn nhủ rằng Chúa nhật hôm nay ở Torino cũng bắt đầu cuộc trưng bày trọng thể tấm khăn liệm thành Turin. Ngài cũng nói rằng nếu Chúa muốn, Ngài sẽ đến viếng khăn liệm vào ngày 21 tháng 06 tới. Ngài nguyện chúc cho hành vi tôn kính này có thể giúp mọi người tìm thấy nơi Đức Giêsu Kitô khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa, và nhận ra Ngài nơi khuôn mặt của anh chị em mình, đặc biệt nơi những người đau khổ nhất. Trước khi chào tạm biệt mọi người, ĐTC không quên nhắn nhủ mọi người cầu nguyện cách đặc biệt cho Ngài.

Jos. Nguyễn Huy Mai – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi gây ý thức về tệ nạn buôn người

Đức Thánh Cha kêu gọi gây ý thức về tệ nạn buôn người

VATICAN. ĐTC kêu gọi Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội nỗ lực gây ý thức nơi dư luận quần chúng về tệ nạn buôn người và những hình thức nô lệ mới.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 18-4-2015, dành cho 45 thành viên khóa họp toàn thể của Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội.

ĐTC nhận xét rằng ”trong chế độ kinh tế hoàn cầu hiện nay chịu sự thống trị của lợi lộc, có những hình thức nô lệ mới nảy sinh, một cách nào đó chúng tệ hại và vô nhân đạo hơn cả những thứ nô lệ trong quá khứ. Vì thế, theo sứ điệp cứu độ của Chúa, chúng ta được kêu gọi tố giác và bài trừ những hình thức ấy. Nhất là chúng ta phải làm cho mọi người ý thức về tai ương mới này trên thế giới mà nhiều khi người ta muốn che giấu.”

ĐTC tái lên án nạn buôn người, cưỡng bách lao động, mại dâm, buôn bán cơ phận người là ”những tội ác rất nặng nề, một vết thương trong thân thể nhân loại ngày nay. Ngoài ra cần tìm những phương thế thích hợp để trừng phạt những người đồng lõa với thị trường vô nhân đạo này, cải tiến cách thức giải thoát và giúp các nạn nhân tái hội nhập vào xã hội, canh tân những qui luật về quyền tị nạn. Cần giúp các nhà cầm quyền dân sự ý thức về tính chất trầm trọng của thạm trạng này, nó là một sự thoái hóa của nhân loại”. (SD 18-4-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến tân Tổng thống Italia

VATICAN. Sáng ngày 18-4-2015, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Tổng thống Italia, Ông Sergio Mattarella, đến viếng thăm ngài lần đầu tiên từ khi được bầu làm tổng thống ngày 31-1 năm nay.

Tổng thống Mattarella năm nay 74 tuổi (1941), đã từng làm đại biểu quốc hội Italia, Bộ trưởng giáo dục, Bộ trưởng quốc phòng, trước khi trở thành thẩm phán tòa bảo hiến.

Trong lời chào mừng Tổng thống, ĐTC ca ngợi quan hệ rất tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia. Ngài cũng nói đến tình trạng nhiều người trẻ Italia bị thất nghiệp và gọi đây là ”một tiếng kêu đau thương đòi chính quyền, các tổ chức trung gian, các doanh nhân và cộng đồng Giáo Hội, nỗ lực hết sức để giải quyết tình trạng đó, dành ưu tiên tìm giải pháp cho vấn đề.”

Tiếp đến, ĐTC cũng đặc biệt lưu ý về việc chăm sóc môi sinh. Ngài nói: ”Để tìm cách làm dịu bớt tình trạng thiếu quân bình ngày càng gia tăng và những ô nhiễm, nhiều khi tạo nên những thảm họa môi sinh, cần ý thức về những hậu quả thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên, nó gắn liền với cách thức con người tự ý thức và xử sự với bản thân mình.”

Sau cùng ĐTC cám ơn Italia dấn thân tiếp đón nhiều người di dân đang xin được đón nhận, và nhiều khi họ chịu những rủi ro tới sinh mạng của mình. ”Hiển nhiên là hiện tượng rộng lớn này đòi phải có sự can dự của nhiều nước. Chúng ta không được mệt mỏi khi yêu cầu một sự dấn thân rộng rãi hơn trên bình diện Âu Châu và quốc tế”.

Sau khi gặp ĐTC, tổng thống Italia đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và tiếp đó, ĐHY đã giới thiệu ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh với Tổng thống Matarella (SD 18-4-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio