Đức Thánh Cha tiếp Huynh Đoàn Công Giáo canh tân trong Thánh Linh

Đức Thánh Cha tiếp Huynh Đoàn Công Giáo canh tân trong Thánh Linh

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích các thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh hiệp nhất với nhau trong sự khác biệt và sống linh đạo ”hô hấp”.

Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 31-10-2014, dành cho 1 ngàn thành viên Huynh Đoàn Công Giáo các cộng đoàn canh tân trong Thánh Linh (Catholic Fraternity of Charismatic Covenant Communities and Fellowships), ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây và giải thích rằng ”hiệp nhất trong sự khác biệt là công nhận và vui mừng đón nhận các hồng ân, các năng khiếu mà Chúa Thánh Linh ban cho mỗi người, và dùng chúng để phục vụ tất cả mọi người trong Giáo Hội. Đó cũng là biết lắng nghe, chấp nhận những khác biệt, có tự do nghĩ khác và biểu lộ ra bên ngoài. Anh chị em đừng sợ những khác biệt!”.

ĐTC cũng nhắc đến cách cầu nguyện của các thành viên Phong trào canh tân trong thánh linh, qua kinh nguyện ngợi khen và chuyển cầu. Ngài ví việc cầu nguyện giống như hai giai đoạn của sự hô hấp: hít vào và thở ra. ĐTC nói:

”Đời sống thiêng liêng được nuôi dưỡng trong kinh nguyện và được biểu lộ qua sứ vụ: hít vào và thở ra. Trong kinh nguyện, khi chúng ta hít vào, chúng ta lãnh nhận không khí mới của Thánh Linh và khi thở ra chúng ta loan báo Chúa Giêsu Kitô phục sinh nhờ Thánh Linh. Không ai có thể sống mà không hô hấp. Cũng vậy đối với Kitô hữu. Nếu không có kinh nguyện ngợi khen và không có sứ vụ thì họ không sống như Kitô hữu”. (SD 31-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP Vatican Radio

Lần đầu tiên từ 125 năm Đức Giáo Hoàng tiếp các Giám Mục Công Giáo Cũ

Lần đầu tiên từ 125 năm Đức Giáo Hoàng tiếp các Giám Mục Công Giáo Cũ

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi đào sâu quan hệ đại kết và sự cộng tác giữa các tín hữu Công Giáo và Công Giáo cũ để đáp ứng tình trạng khủng hoảng tinh thần trong xã hội ngày nay.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-10-2014, dành cho Phái đoàn của Hội đồng quốc tế các GM Giáo Hội Công Giáo cũ, quen gọi là Liên minh Utrecht. Giáo Hội này qui tụ những tín hữu ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo sau Công đồng chung Vatican I hồi năm 1870 vì không chấp nhận tín điều ĐGH được ơn bất khả ngộ khi tuyên tín. Đa số tín hữu Công Giáo cũ sống tại Đức, Hòa Lan, Áo, Thụy Sĩ và Cộng hòa Tiệp. Tổng số tín hữu Công Giáo cũ trên thế giới vào khoảng 115 ngàn người, theo thống kê năm ngoái.

Giáo Hội Công Giáo và Công Giáo cũ bắt đầu đối thoại thần học từ 48 năm nay (1966) và đây là lần đầu tiên kể từ 125 năm nay, ĐGH tiếp kiến một đoàn GM thuộc các Giáo Hội này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận những tiến bộ mà Ủy ban đối thoại giữa Công Giáo và Công Giáo cũ đã đạt được, qua việc xác định những điểm đồng thuận và những dị biệt giữa hai bên. Nhưng ngài cũng bày tỏ đau buồn vì qua dòng thời gian đã có thêm những bất đồng nảy sinh. ĐTC nói: “Những vấn đề thần học và Giáo Hội học nảy sinh giữa chúng ta thời chia cách nay lại trở nên khó vượt thắng hơn vì sự cách biệt rộng lớn hơn giữa chúng ta về vấn đề thừa tác vụ và phân định luân lý”.

Theo ĐTC, thách đố hiện nay đối với hai bên là kiên trì đối thoại thần học và đồng hành với nhau, cầu nguyện chung và cộng tác trong tinh thần hoán cải sâu xa đối với tất cả những gì Chúa Kitô muốn cho Giáo Hội. Trong sự chia cách này, từ cả hai phía đều có những tội nặng và lỗi lầm phàm nhân. Trong tinh thần tha thứ cho nhau và thống hối, nay chúng ta cần củng cố ước muốn hòa giải và hòa bình.

ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác giữa các tín hữu Công Giáo và Công Giáo cũ để đáp ứng cuộc khủng hoảng tinh thần sâu đậm đang đè nặng trên các cá nhân và xã hội. Hiện nay có sự khao khát nồng nhiệt đối với Thiên Chúa, có ước muốn sâu xa phục hồi ý nghĩa cuộc sống và có nhu cầu cấp thiết phải làm chứng tá đầy sức thuyết phục về chân lý và các giá tri Phúc Âm. Trong lãnh vực này chúng ta có thể nâng đỡ và khích lệ nhau, nhất là trên bình diện các giáo xứ và các cộng đoàn địa phương” (SD 30-102014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư 29-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng…Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng ”Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: ”Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như từ Nigeria, Ấn Độ, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình và Ba Tây.

Nhắc tới ngày lễ các Thánh Nam Nữ ngày mùng 1 tháng 11 sắp tới, Đức Thánh Cha xin các tín hữu Ba Lan cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người nam nữ đã biết cộng tác với ơn thánh Chúa và có can đảm làm chứng cho đức tin, đức cậy và đức mến trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy học hỏi nơi họ để trở nên thánh trong thời đại chúng ta.

Ngài khuyến khích các bạn trẻ biết noi gương các Thánh, người đau yếu biết dâng các khổ đau để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những ai cần hoán cải, và các cặp vợ chồng mới cưới lo lắng cho sự trưởng thành của đức tin trong cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô cám ơn sự đóng góp của Đức Biển Đức 16

Đức Thánh Cha Phanxicô cám ơn sự đóng góp của Đức Biển Đức 16

VATICAN. ĐTC Phanxicô nhiệt liệt ca ngợi và cám ơn sự đóng góp của ĐGH Biển Đức 16 cho thần học và khoa học, qua các giáo huấn, tấm gương và hoạt động của Người.

ĐTC bày tỏ lập trường trên đây sáng ngày 27-10-2014 tại trụ sở Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa học ở nội thành Vatican, nhân dịp khánh thành bức tượng bán thân bằng đồng của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tại đây. Hiện diện tại buổi lễ có các HY, GM, LM và cũng như các thành viên Hàn lâm viện Tòa Thánh. ĐTC nói:

”Pho tượng bán thân này của Đức Biển Đức 16 gợi lại trước mắt mọi người con người và khuôn mặt của ĐGH Ratzinger yêu quí. Tượng cũng gợi lại tinh thần của Người: tinh thần các giáo huấn, tấm gương, công trình, lòng tận tụy của Người đối với Giáo Hội, và cuộc sống ”đan tu” của Người hiện nay. Tinh thần này không phai mờ với thời gian, trái lại sẽ trở nên lớn lao và mạnh mẽ từ đời này sang đời khác. Biển Đức 16: một vị Đại Giáo Hoàng. Vĩ đại vì sức mạnh và trí thông minh thấu triệt của Người, thấu triệt vì sự đóng góp quan trọng của Người cho nền thần học, vĩ đại vì lòng yêu mến của Người đối với Giáo Hội và con người, vĩ đại vì nhân đức và lòng đạo đức của Người. Như anh chị em biết, lòng yêu mến của Người đối với sự thật không chỉ giới hạn vào thần học và triết học, nhưng còn cởi mở đối với các khoa học. Lòng yêu mến của Người đối với khoa được được biểu lộ qua sự quan tâm đối với các nhà khoa học, không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, nền văn minh và tôn giáo”.

ĐTC cũng nhắc lại sự kiện lần đầu tiên ĐGH Biển Đức 16 đã mời một vị Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa học tham dự Thượng HĐGM thế giới về việc tái truyền giáo (10-2012), với ý thức về tầm quan trọng của khoa học trong nền văn hóa hiện đại.

ĐTC mời gọi mọi người cảm tạ Thiên Chúa vì món quà Chúa ban cho Giáo Hội và thế giới qua triều đại của ĐGH Biển Đức.

Cũng trong diễn văn, ĐTC đề cập đến đề tài khóa họp vừa kết thúc của Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa học về sự tiến hóa của ý niệm thiên nhiên. Ngài nhấn mạnh rằng Thiên Chúa và Chúa Kitô đang đồng hành với chúng ta và hiện diện cả trong thiên nhiên, như thánh Phaolô Tông đồ đã quả quyết trong diễn văn tại Diễn trường ở thành Athènes Hy Lạp: “Thực vậy chúng ta sống trong Thiên Chúa, chúng ta cử động và hiện hữu trong Chúa” (Cv 17,28).

ĐTC cũng nhận xét rằng khi đọc trong sách Sáng thế trình thuật về việc sáng tạo, chúng ta có nguy cơ tưởng tượng Thiên Chúa như một pháp sư, với chiếc đũa thần, làm mọi sự. Nhưng không phải như vậy. Thiên Chúa đã tạo dựng các sinh vật và để cho chúng phát triển theo các qui luật nội tại mà Chúa ban cho mỗi loại, để chúng phát triển, để đạt tới mức độ viên mãn. Chúa ban cho các sinh vật của vũ trụ sự tự trị đồng thời nơi chúng, Chúa đảm bảo sự hiện diện liên tục của Ngài, mang lại sự hiện hữu cho mỗi thực tại”.

Theo chiều hướng đó, ĐTC khẳng định rằng Big-Bang, vụ nổ vĩ đại mà ngày nay người ta coi là ở nơi nguồn gốc thế giới, không hề mâu thuẫn với sự can thiệp sáng tạo của Thiên Chúa nhưng đòi phải có sự kiện ấy. Sự tiến hóa trong thiên nhiên không tương phản với ý niệm sáng tạo, vì sự tiến hóa giả thiết có sự sáng tạo các hữu thể tiến hóa” (SD 27-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

60 ngàn tín hữu đọc kinh truyền tin với Đức Thánh Cha

60 ngàn tín hữu đọc kinh truyền tin với Đức Thánh Cha

VATICAN. Trưa chúa nhật 26-10, hơn 60 ngàn tín hữu đã đến tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin cùng với ĐTC Phanxicô tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong số các tín hữu hiện diện đặc biệt có 8 ngàn thành viên phong trào Schoenstatt về 50 quốc gia về Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập phong trào. Trước khi dự buổi đọc kinh truyền tin với ĐTC, họ đã tham dự thánh lễ bế mạc cuộc hành hương tại Đền thờ Thánh Phêrô, do ĐHY Erazzuris chủ sự cùng với hơn 200 LM. ĐHY nguyên Bề trên Tổng quyền của tu hội Schoenstatt rồi làm TGM Tổng thư ký bộ Tu Sĩ, rồi TGM Santiago de Chile.

Lúc 12 giờ ĐTC xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc nơi Căn hộ giáo hoàng ở dinh Tông Tòa để bắt đầu buổi đọc kinh. Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã giải thích bài Tin Mừng chúa nhật về sự cao trọng nhất của giới răn mến Chúa yêu người.

Huấn từ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng toàn thể Lề Luật Chúa tóm gọn trong tình yêu đối Thiên Chúa và đối với tha nhân, Thánh Sử Mathêu kể lại rằng một vài người Biệt Phái thỏa thuận với nhau để thử thách Cháu Giêsu (Xc, 22,34-35). Một người trong họ là một tiến sĩ Luật, hỏi Chúa rằng: ”Thưa Thầy, trong Luật, đâu là giới răn trọng nhất?” (v.36). Chúa Giêsu, trích dẫn sách Đệ nhị luật, đáp: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và tâm trí của ngươi. Đó là giới răn thứ I và trọng nhất” (vv.37-38). Và lẽ ra Ngài có thể dừng lại ở đây. Trái lại Chúa Giêsu nói thêm điều mà vị tiến sĩ Luật không hỏi. Thực vậy, Chúa nói: ”Giới răn thứ hai giống như giới răn thứ I: Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình” (v. 39). Cả giới răn thứ hai này Chúa Giêsu không sáng chế ra, nhưng ngài lấy lại từ sách Lêvi. Sự mới mẻ của Ngài hệ tại đặt hai giới răn này chung với nhau – mến Chúa và yêu người – qua đó Ngài tỏ lộ rằng hai giới răn ấy không thể tách biệt, nhưng bổ túc cho nhau, đó là hai mặt của cùng một mề-đai. ĐGH Biển Đức đã để lại cho chúng ta một bình giải rất hay về vấn đề này trong Thông điệp đầu tiên của Ngài ”Deus caritas est, Thiên Chúa là tình thương” (nn.16-18).

Thực vậy, dấu chỉ hữu hình mà Kitô hữu có thể chứng tỏ để làm chứng cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa chính là tình yêu đối với anh em mình. Giới răn mến Chúa yêu người là giới răn đầu tiên không phải vì đứng đầu danh sách các giới răn. Chúa Giêsu không đặt nó lên hàng đầu, nhưng ở trung tâm vì đó là trọng tâm từ đó tất cả phải khởi hành và tất cả phải trở về đó và tham chiếu.

Ngay trong Cựu Ước, đòi hỏi nên thánh, theo hình ảnh Thiên Chúa là Đấng Thánh, cũng bao gồm nghĩa vụ săn sóc những người yếu thế nhất như ngoại kiều, cô nhi và góa phụ (Xc Xh 22,20-26). Chúa Giêsu kiện toàn luật giao ước ấy, chính Ngài liên kết nơi mình, trong thân mình Ngài, thần tính và nhân tính trong một mầu nhiệm tình yêu duy nhất.

Từ nay trở đi, dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu, tình yêu là mực thước đức tin, và đức tin là linh hồn của tình yêu. Chúng ta không còn có thể tách biệt đời sống tôn giáo ra khỏi việc phục vụ anh em, những người anh em cụ thể mà chúng ta gặp. Chúng ta không còn có thể tách biệt kinh nguyện, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong các bí tích, khỏi sự lắng nghe tha nhân, gần gũi cuộc sống của họ, nhất là những vết thương của họ.

Giữa rừng rậm các giới luật và qui tằc – giữa chủ trương vụ luật xưa kia và ngày nay – Chúa Giêsu mở ra một lỗ hổng giúp nhận ra hai khuôn mặt: khuôn mặt Chúa Cha và khuôn mặt người anh em. Ngài không giao cho chúng ta 2 công thức hay hai giới răn, nhưng hai khuôn mặt, đúng hơn chỉ có một khuôn mặt duy nhất, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa phản ánh trong bao nhiêu khuôn mặt, vì trong khuôn mặt của mỗi người anh em, đặc biệt là khuôn mặt bé nhỏ, yếu ớt và vô phương thế tự vệ nhất, có chính hình ảnh của Thiên Chúa hiện diện.

Như thế, Chúa Giêsu trao tặng mỗi người tiêu chuẩn căn bản để họ xếp đặt đời sống của mình. Nhưng nhất là Chúa ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài, giúp chúng ta mến Chúa và yêu người như Ngài, với con tim tự do và quảng đại. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ chúng ta, chúng ta hãy cởi mở đón nhận hồng ân ấy, để tiến bước trong luật yêu thương.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc nhở mọi người rằng: Thứ bẩy hôm qua (25-10) tại thành Sao Paolo Brazil có lễ phong chân phước cho Mẹ Assunta Marchetti, sinh tại Italia, đồng sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Thánh Carlo Borromeo – Scalabrine. Mẹ là một nữ tu gương mẫu trong việc phục vụ các trẻ mồ côi của những người Ý di dân; Mẹ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện nơi người nghèo, các trẻ mồ côi, nơi các bệnh nhân, người di dân. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì người phụ nữ này, mẫu gương về việc truyền giáo không biết mệt mỏi và can đảm tận tụy phục vụ bác ái.

ĐTC cũng chào thăm các tín hữu hành hương đến từ Italia và các nước khác, bắt đầu từ những người sùng kính Đức Mẹ Biển Cả, Bova Marina. Ngài đặc biệt chào thăm cộng đoàn người Peru ở Roma, hiện diện nơi đây với ảnh Đức Mẹ làm phép lạ. ”Tôi cám ơn tất cả và chào thăm với tình thân ái. Xin Anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi, chúc anh chị em chúa nhật tốt đẹp và chúc anh chị em bữa trưa ngon lành.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Luật trọng đại nhất

Luật trọng đại nhất

Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.

Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.

Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.

Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?

Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".

Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.

Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.

Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".

Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.

Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".

Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Sưu tầm

Trò chơi hòa bình

Trò chơi hòa bình

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:

– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?

Đám trẻ nhốn nháo trả lời:

– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.

Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:

– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:

– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.

Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:

– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.

Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?

Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:

– Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.

– Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.

– Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.

Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).

Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).

Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.

Mến Chúa và yêu người

Mến Chúa và yêu người

Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.

Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.

Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.

Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.

Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.

Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.

Sưu tầm

Tình yêu là lẽ sống

Tình yêu là lẽ sống

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:

Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi

Chỉ còn lương thực tăng giá thôi

Lương tâm bán rẻ hơn lương thực

Chân lý chân giò một giá thôi!

Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.

Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.

Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.

Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.

Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.

Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

(Chúa Nhật 30 A; Xh 22,21-26)

Trích sách Xuất Hành. Chúa phán: người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành góa bụa, và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”

SUY NIỆM

Những giáo huấn cụ thể rõ ràng trên đây trong sách Xuất Hành là một trong các trang hay đẹp và ý nghĩa nhất của Thánh Kinh Cựu Ước, vì chúng diễn tả được một trong những điểm nòng cốt sứ điệp của Do thái giáo và Tin Mừng yêu thương của Kitô giáo. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng nhân từ xót thương và Ngài đòi buộc những ai tin nhận Ngài cũng phải biết sống yêu thương cụ thể tất cả mọi người, không trừ ai, cách riêng những người yếu đuối nhất thường không được bênh đỡ trong xã hội loài người như người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ kiều cư, người nghèo phải vay tiền, hay cầm thế đồ vật cần thiết cho cuộc sống như chiếc áo choàng là áo mặc ban ngày và mền đắp ban đêm của dân nghèo.

Trong xã hội nào cũng vậy, những người góa bụa, góa vợ hay góa chồng, đều đáng thương như nhau, đặc biệt là những phụ nữ góa chồng. Họ mất đi người bạn trăm năm, cây cột chống đỡ mái nhà gia đình và phải cô đơn, một thân một mình làm lụng vất vả, tần tảo ngược xuôi để nuôi dậy con cái. Có người nhiều khi phải gánh vác cả các công việc của nhà chồng như phụng đưỡng cha mẹ già yếu bệnh tật. Cuộc sống của họ bấp bênh và không có người bênh đỡ khiến cho họ dễ bị chèn ép, ức hiếp và lạm dụng nhất. Cùng với họ là lũ con mồ côi cha hay mồ côi mẹ. Chúng mất đi điểm tựa yêu thương, tinh thần và vật chất. Cuộc sống và tương lai của chúng vì thế cũng mờ mịt. Chúng thường không có tuổi thơ, vì phải vào đời rất sớm để mưu sinh, lăn lộn giữa cuộc đời ác nghiệt không che chở trẻ thơ. Chúng giống như những trái banh bị đá lăn lóc giữa chợ đời đen bạc, hay như bèo trôi giạt giữa dòng đời.

Tội nghiệp và đáng thương nhất là các trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cơm bánh hằng ngày của chúng là nước mắt, buồn tủi và khổ đau. Và chúng thường là các thành phần yếu đuối và bơ vơ nhất trong xã hội. Bên cạnh đó là những người di cư tỵ nạn, sống xa lạ nhờ vả và bơ vơ trên đất khách quê người. Rồi những người nghèo túng bệnh tật phải đi vay tiền để lo cho chính mình cho gia đình hay con cái, phải cầm bán mọi sự kể cả chiếc áo choàng là áo che thân ban ngày, là mền đắp ban đêm…

Ngày nay trên thế giới này những thành phần yếu đuối kể trên lên đến hàng tỷ người, đặc biệt tại các nước nghèo Phi chậu, Á châu và châu Mỹ Latinh, nhưng cả Âu châu nữa.

Các giáo huấn chúng ta vừa nghe trên đây nảy sinh từ sự kiện mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và từ giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật: ”Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5) và giáo huần của sách Lêvi: ”Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,19).

Tình yêu hai chiều kích ấy được thể hiện ra trong việc tuân giữ Mười Điều Răn Thiên Chúa ban cho dân Israel qua trung gian ông Môshê. Chúng hướng dẫn con người trong các tương quan và bỗn phận đối với Thiên Chúa và đối với tha nhận. Tuy nhiên ở đây trong bối cảnh của sách Xuất Hành, Thiên Chúa mời gọi tín hữu sống bác ái qua chính các kinh nghiệm mà họ đã có trong bao nhiêu năm sống kiếp kiều cư và nô lệ bên Ai Cập, bị ngược đãi bóc lột và ức hiếp bất công. Nói một cách đơn sơ như trong sách Tobia là: ”Những gì con không muốn người ta làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác.”

”Mến Chúa yêu người” đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Pharisêu hỏi Ngài cho biết đâu là điều luật trọng nhất như kể lại trong Phúc Âm Chúa Nhật 30 thường niên năm A.

Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận diện ra nơi tình yêu thương động lực cao quý nhất của cuộc sống con người và là bàn nhún mạnh mẽ nhất của mọi sinh hoạt luân lý. Ngoài ra lý tưởng của tình yêu thương cũng hoàn toàn phù hợp với bản tính của con người có các lựa chọn, hy sinh, chiến đấu, và chết vì tình yêu hay vì thù ghét, mà xét cho cùng chỉ là cái tương ứng tiêu cực của tình yêu. Tuy nhiên, trong quan niêm của Chúa Giêsu tình yêu không chỉ là một luật lệ đơn thuần pháp lý, mà là đặc thái nòng cốt cao cả nhất của toàn giáo lý và luân lý hướng dẫn cung cách sống và hành xử của con người. Vì Tình yêu là chính Thiên Chúa. Do đó khi biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt

VATICAN. Sáng thứ bẩy 25-10-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7,500 thành viên Phong trào Schoenstatt từ 50 nước về Roma hành hương nhân dịp mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Phong trào.

Phong Trào Schoenstatt do cha Giuse Kentenich (1885-1968) thành lập ngày 18-10 năm 1914 tại Schoenstatt cách thành phố Bonn 60 cây số về mạn nam. Cha là linh hướng tiểu chủng viện của các cha dòng Pallottin. Cùng với một nhóm chủng sinh, Cha lập một hiệp hội Đức Mẹ, qua một hành vi gọi là ”Giao ước Tình Yêu với Mẹ Maria”. Các thành viên của Phong trào Schoenstatt hiện nay có mặt tại 110 nước trên thế giới. Họ sống linh đạo gia đình giữa các thành viên, và khích lệ họ hoạt động tông đồ trong môi trường sống của mình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong 2 tiếng đồng hồ dưới hình thức các cuộc đối thoại, trình bày chứng từ và văn nghệ, trình chiếu Video của các cộng đoàn, các đôi vợ chồng và các bạn trẻ. ĐTC đã lắng nghe và trả lời một số câu hỏi được nêu lên. ĐTC khuyến khích các thành viên pong trào Schoenstatt hãy tháp tùng các gia đình và bảo vệ hôn phối, là những thực tại chưa bao giờ bị tấn công như ngày nay.

”Nhiều gia đình ngày nay bị chia rẽ, bị biến thái, coi như một cách kết hiệp nào đó. Bao nhiêu hôn phối bị vỡ tan, bao nhiêu quan niệm duy tương đối về bí tích hôn phối. Gia đình ngày nay đang bị khủng hoảng”. ĐTC nói đến nguyên nhân của tình trạng trên đây là ”nền văn hóa tạm thời”, phá hủy khả năng liên kết lâu bền của con người với nhau, và trong đó các trẻ em chịu đau khổ nhiều nhất vì những cuộc hôn nhân tan vỡ”. Những hình thức kết hiệp mới phá hoại và giới hạn sự cao cả của tình yêu hôn nhân. Có bao nhiêu những vụ sống chung, ly thân và ly dị.

ĐTC nhận xét rằng nhiều cặp kết hôn chỉ coi bí tích hôn phối như một nghi thức, mà họ không hiểu ý nghĩa sâu xa. Nhiều người chẳng biết họ làm gì trong bí tích ấy.

Theo ĐTC, chìa khóa để giúp đỡ, chính là sự tiếp xúc, tháp tùng, chứ không chiêu dụ, vì hành động này không mang lại kết quả. Trái lại cần phải kiên nhẫn tháp tùng. Ngoài ra cần phải chuẩn bị hôn phối kỹ lưỡng. ĐTC phê bình sự kiện có những nơi người ta làm lễ cưới cho các cặp đính hôn chỉ sau hai cuộc gặp gỡ để chuẩn bị.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi canh tân nội tâm

Đức Thánh Cha kêu gọi canh tân nội tâm

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu Kitô canh tân nội tâm để có thể thực thi cuộc đối thoại đại kết Kitô đích thực.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 24-10-2014, dành cho 45 tham dự viên cuộc hành hương của tổ chức Lumen Orientale, Ánh Sáng đông phương, dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Kállistos của giáo phận Diokleia.

ĐTC nói: ”Mỗi cuộc hành hương theo tinh thần Kitô giáo không phải chỉ là một hành trình địa lý, nhưng nhất là dịp hành trình canh tân nội tâm để ngày càng tiến về Chúa Kitô hơn, ”Đấng mang lại nguồn gốc cho đức tin và làm cho đức tin tới độ viên mãn” (Dt 12,2). Những chiều kích này rất quan trọng để tiến bước trên con đường dẫn đến hòa giải và hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Sẽ không có một cuộc đối thoại đại kết chân thực nếu không có sự sẵn sàng can tân nội tâm và tìm kiếm sự trung thành mạnh mẽ hơn đối với Chúa Kitô và thánh ý Chúa”.

ĐTC cũng ca ngợi chủ ý của đoàn hành hương theo vết hai thánh Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2, vì những đóng góp rất lớn của các ngài cho sự phát triển ngày càng thắm thiết giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống. Ngài nói: ”Tấm gương của hai vị thánh này chắc chắn soi sáng cho tất cả chúng ta, vì hai vị luôn chứng tỏ lòng hăng say đối với sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, xuất phát từ sự ngoan ngoãn lắng nghe ý Chúa, trong bữa tiệc ly Chúa đã cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ của Người trở nên một” (Ga 17,21) (SD 24-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình hoạt động của Đức Thánh Cha tháng 11-2014

Chương trình hoạt động của Đức Thánh Cha tháng 11-2014

VATICAN. Hôm 24-10-2014, Ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC đã công bố lịch trình các buổi lễ do ĐTC Phanxicô cử hành trong tháng 11-2014.

Chiều thứ bẩy, 1-11, lễ các thánh, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ lúc 4 giờ tại Nghĩa trang Verano. Chúa nhật hôm sau, 2-11, vào lúc 6 giờ chiều, ngài viếng mộ các vị Giáo Hoàng quá cố tại hầm Đền thờ Thánh Phêrô Sáng thứ hai, 3-11, lúc 11 giờ rưỡi, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô để cầu nguyện cho các Hồng y và GM qua đời trong 12 tháng qua.

Chúa nhật 23-11, lễ Chúa Kitô Vua, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi tại Quảng trường thánh Phêrô, để tôn phong 6 vị chân phước lên bậc hiển thánh. Sau cùng, từ ngày 28 đến 30-11, ngài sẽ viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ (SD 24-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kêu gọi chống chia rẽ, ghen tương

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 60 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 22-10-2014, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các tín hữu tránh chia rẽ, ghen tương trong cộng đoàn Giáo Hội.
Trong số các đoàn tín hữu hành hương, đông nhất vẫn là các đoàn nói tiếng Ý rồi đến tiếng Đức, đặc biệt là 3,500 tín hữu thuộc các giáo phận miền Romana bắc Italia; phái đoàn 1 ngàn người từ giáo xứ Đức Mẹ Núi Cát Minh ở Gela, dưới sự hướng dẫn của Đức GM giáo phận Piazza Amerina. Từ Việt Nam có một nhóm hành hương gồm 16 người thuộc Tổng giáo phận Sàigòn. Từ Nhật Bản có 160 tín hữu thuộc tổng giáo phận Tokyo về đây hành hương dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Takeo Okada.
Sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ thư thứ I của Thánh Phaolô nói về Giáo Hội như thân mình của Chúa Kitô. Đó cũng là đề tài được ĐTC khai triển trong loạt bài về Giáo Hội.
Bài huấn giáo của ĐTC
Anh chị em thân mến, chào anh chị em,
Khi muốn cho thấy rõ các yếu tố họp thành một thực tại liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào và họp thành một thực thể duy nhất, người ta thường dùng hình ảnh một thân thể. Từ thánh Phaolô Tông đồ, thành ngữ này đã được áp dụng cho Giáo Hội và được coi là nét đặc trưng sâu xa nhất và đẹp nhất của Giáo Hội. Vì vậy hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: theo nghĩa nào Giáo Hội họp thành một thân thể? Và tại sao Giáo Hội được định nghĩa là ”thân mình Chúa Kitô?”
Trong sách ngôn sứ Ezechiel có mô tả một thị kiến khá đặc biệt, gây rùng mình, nhưng có khả năng mang lại niềm tín thác và hy vọng cho tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa tỏ cho ngôn sứ thấy một bãi xương, tách biệt nhau và khô cằn. Một cảnh tượng tiêu điều.. Rồi Thiên Chúa bảo ngôn sứ hãy khẩn cầu Thần Khí trên chúng. Thế là các xương ấy bắt đầu xích lại gần nhau và liên kết với nhau, trên các xương đó trước tiên các dây thần kinh tăng trưởng rồi đến các lớp thịt và họp thành một thân mình trọn vẹn và đầy sức sống (Xc Ez 37,1-14). Đó chính là Giáo Hội! là một kiệt tác của Thần Khí, Người phú vào mỗi người sự sống mới của Đấng Phục Sinh và đặt chúng ta cạnh nhau, phần tử này phục vụ và nâng đỡ nhau, và qua đó Chúa biến tất cả chúng ta thành một thân mình duy nhất, được kiến tạo trong tình hiệp thông và tình yêu.
Nhưng Giáo Hội không phải chỉ là một thân mình được kiến tạo trong Thần Khí: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô! Đây không phải chỉ là một kiểu nói: chúng ta thực sự là như vậy! đó là một hồng ân lớn chúng ta nhận lãnh trong ngày chúng ta chịu phép rửa! Thực vậy, trong bí tích rửa tội, Chúa Kitô đã làm cho chúng ta thuộc về Chúa, đón nhận chúng ta trong trọng tâm mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm tột đỉnh tình thương của Ngài đối với chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài, như những thụ tạo mới. Giáo Hội được khai sinh như thế, và Giáo Hội được nhìn nhận là Thân Mình Chúa Kitô! Phép rửa tội tạo nên một sự tái sinh đích thực, tái sinh chúng ta trong Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở nên chi thể của Chúa, liên kết chúng ta với nhau chặt chẽ, như những chi thể của cùng một thân mình, có Chúa là đầu (Xc Rm 12,5; 1 Cr 12,12-13).
ĐTC nhận xét rằng:
”Điều nảy sinh từ đó chính là một sự hiệp thông sâu xa trong tình thương. Theo nghĩa này, lời khuyên nhủ của thánh Phaolô soi sáng, khi Thánh Nhân nhắn nhủ những người chồng ”hãy yêu thương vợ như chính thân thể của mình như Chúa Kitô vẫn yêu thương Giáo Hội, vì chúng ta là chi thể của Chúa” (Ep 5,28-30). Thật là đẹp nếu chúng ta năng nhớ lại mình là gì, Chúa Giêsu đã biến chúng ta thành gì: chúng ta là thân mình của Chúa, thân thể mà không gì và không ai có thể tách rời khỏi Chúa và Ngài bảo bọc thân mình ấy với tất cả lòng say mê và yêu thương của Ngài, như người chồng yêu thương vợ mình. Nhưng tư tưởng này phải làm nổi lên trong chúng ta ước muốn đáp lại tình yêu của Chúa Kitô, chia sẻ tình thương của Ngài giữa chúng ta, như các chi thể sinh động của cùng một thân thể. Thời thánh Phaolô, cộng đoàn Corinto gặp nhiều khó khăn theo chiều hướng này, như thường xảy ra giữa chúng ta, họ sống kinh nghiệm chia rẽ, ghen tương, thiếu thông cảm và gạt ra ngoài lề. Tất cả những điều đó không tốt, vì thay vì xây dựng và làm cho Giáo Hội được tăng trưởng như thân mình của Chúa Kitô, thì lại phân tán Giáo Hội thành bao nhiêu mảnh, cắt chặt Giáo Hội. Điều này cũng xảy ra ngày nay. Chúng ta hãy nghĩ đến các cộng đoàn Kitô, trong một vài giáo xứ, chúng ta hãy nghĩ đến những khu phố với bao nhiêu chia rẽ, ghen tương, bao nhiêu hiểu lầm và tình trạng bị gạt ra ngoài. Sự kiện đó làm cho chúng ta tách biệt nhau. Đó là khởi đầu của chiến tranh. Chiến tranh không bắt đầu nơi chiến trường: chiến tranh bắt đầu trong tâm hồn, với những sự thiếu cảm thông, chia rẽ, ghen tương, tranh giành nhau.
Cộng đoàn Corinto xưa kia cũng như thế, họ vô địch trong lãnh vực này. Vì vậy, thánh Tông Đồ đã gửi đến người dân thành Corinto vài lời khuyên cụ thể, và những lời này cũng có giá trị đối với chúng ta: đừng ghen tương, nhưng trong cộng đoàn chúng ta, hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của các anh chị em chúng ta… Tất cả những gì gây phân rẽ thì cần phải tránh, chẳng vậy sự ghen tương sẽ lớn mạnh và làm đầy tâm hồn. Một con tim ghen tương là một con tim át-xít, một con tim thay vì có máu thì dường như chỉ có dấm; đó là một con tim không bao giờ hạnh phúc, một con tim phân hóa cộng đoàn. Vậy ta phải làm gì đây? Thưa hãy quí chuộng những năng khiếu và đức tính của những người khác trong cộng đoàn, của các anh chị em chúng ta. Khi ý tưởng ghen tương lẻn vào tâm trí chúng ta – vì tất cả chúng ta đều là người tội lỗi – thì ta phải thưa với Chúa: ”Cám ơn Chúa, vì Chúa đã ban năng khiếu đó cho người ấy”. Hãy quí chuộng đức tính của họ, gần gũi và chia sẻ những đau khổ của những ngừơi rốt cùng và túng thiếu; biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả mọi người và đặc biệt đối với những người thi hành những công tác phục vụ khiêm tốn và âm thầm nhất, và sau cùng là lời khuyên của thánh Phaolô cho dân Corinto: đừng nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Bao nhiêu người nghĩ mình cao trọng hơn người khác. Cả chúng ta nữa, bao nhiêu lần chúng ta nói như người Biệt Phái trong dụ ngôn: ”Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì con không như người kia, con cao trọng hơn họ”. Nhưng như thế là xấu, không bao giờ được làm như vây. Khi định làm như thế, thì hãy nhớ đến các tội lỗi của mình, những tội mà chẳng ai biết, và xấu hổ trước mặt Chúa, và nói: ”Lạy Chúa, Chúa biết ai cao trọng hơn. Con im miệng bây giờ”. Và làm như thế là tốt. Trong tình bác ái hãy coi nhau như chi thể của nay, sống và hiến thân mưu ích cho tất cả mọi người (Xc 1 Cr 12,14).
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em thân mến, như ngôn sứ Ezechiele và như thánh Phaolô Tông đồ, chúng ta cũng hãy khẩn cầu Chúa Thánh Linh, cho ân thánh và những hồng ân dồi dào của Ngài giúp chúng ta thực sự sống như thân mình của Chúa Kitô và như dấu chỉ hữu hình và đẹp đẽ nói lên tình thương của Chúa.
Chào thăm và nhắn nhủ
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và các giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các bạn trẻ thuộc giáo phận Bayeux-Lisieux mới chịu phép thêm sức, cũng như những người thuộc giáo phận Lyon đang ở trong tình trạng bấp bênh. Ngài cho biết sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ.
Khi chào thăm các tín hữu Ba Lan, ĐTC nói:
”Hôm nay, chúng ta cử hành lễ kính nhớ Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng theo phụng vụ, Thánh nhân đã mời tất cả chúng ta hãy rộng cửa cho Chúa Kitô; trong cuộc viếng thăm đầu tiên tại quê hương anh chị em, Người đã khẩn cầu Chúa Thánh Linh ngự xuống, canh tân đất nước Ba Lan; Người cũng nhắc nhớ cho mọi người mầu nhiệm lòng từ bi của Chúa. Ước gì gia sản tinh thần của Người không bị lãng quên, nhưng thúc đẩy chúng ta suy tư và hành động cụ thể để mưu ích cho Giáo Hội, cho gia đình và xã hội.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào các tín hữu thuộc các giáo phận ở miền Romagna, bắc Italia, cùng với các GM của mình, Ngài khuyến khích họ hãy tìm trong Phúc Âm những tiêu chuẩn soi sáng cho cuộc sống bản thân và cộng đoàn.
Hiện diện tại Quảng trường có đông đảo các nhân viên hãng hàng không Meridiana ở Italia đang bị đe dọa mất việc vì họ thuộc vào số nhân viên thặng dư. ĐTC nói: ”Tôi muốn hiệp với Cộng đoàn giáo phận Tempio-Ampurias bày tỏ sự gần gũi và liên đới sâu xa với các nhân viên hãng hàng không Meridiana, đang sống những giờ lo âu cho tương lai công ăn việc làm của mình. Tôi nồng nhiệt cầu mong các vị hữu trách có thể tìm được một giải pháp công bình, để ý trước tiên tới phẩm giá con ngừời và nhu cầu không thể loại bỏ của bao nhiêu gia đình.”
Hãng này xác nhận sẽ thải 1,366 nhân viên. Chính phủ Italia đang cố gắng làm trung gian giải quyết vụ này.
Với các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn, ĐTC nhắc nhớ rằng ”tháng 10 mời gọi chúng ta hãy canh tân sự cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Với năng lực tươi mát của tuổi trẻ, với sức mạnh của lời cầu nguyện và hy sinh, và với tiềm năng của đời sống vợ chồng, anh chị em hãy biết trở thành những nhà thừa sai của Tin Mừng, nâng đỡ cụ thể cho những người đang vất vả mang Tin Mừng đến cho những người chưa được nghe biết.
ĐTC cũng ứng khẩu nhắc nhở các tín hữu ngày hôm nay hãy lấy sách ngôn sứ Ezechiel và đọc đoạn thứ 37 kể lại thị kiến Thần Khí Chúa biến những xương khô thành một thành một thân mình sống động.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

Đức Thánh Cha nhóm Công nghị Hồng Y

VATICAN. Sáng 20-10-2014, ĐTC đã chủ tọa công nghị Hồng Y về tình hình các tín hữu Kitô tại Trung Đông và quyết định về việc phong Hiển thánh.

Tham dự công nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng tại Hội trường Thượng HĐGM cũng có các vị Thượng Phụ và một số Giám Mục.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Chúng ta có cùng ước muốn hòa bình và ổn định tại Trung Đông và ý chí cổ võ giải pháp cho các cuộc xung đột bằng cách đối thoại, hòa giải và dấn thân chính trị. Đồng thời chúng ta muốn gia tăng sự trợ giúp có thế cho các cộng đồng Kitô để hỗ trợ họ ở lại vùng miền ấy.

”Như tôi đã có dịp lập lại nhiều lần, chúng ta không thể có thái độ cam chịu khi nghĩ đến miền Trung Đông không còn Kitô hữu nữa, những người từ 2 ngàn năm nay đã tuyên xưng danh Chúa Giêsu tại đó. Những biến cố gần đây, nhất là tại Irak và Siria, gây lo âu rất nhiều. Chúng ta chứng kiến một hiện tượng khủng bố có chiều kích không thể tưởng tượng được trước đây. Bao nhiêu anh chị em chúng ta bị bách hại và đã phải rời bỏ gia cư, cả trong tình thế tàn bạo. Dường như người ta đánh mất ý thức về giá trị sự sống con người, con người dường như không đáng kể gì nữa, và người ta có thể hy sinh con người cho những lợi lộc khác. Rất tiếng là tất cả những điều đó xảy ra trong sự dửng dưng của bao nhiêu người.

Và ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tình trạng bất công này, không những đòi lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng còn cần phải có câu trả lời thích hợp từ phía cộng đồng quốc tế. Tôi chắc chắn rằng với sự phù trợ của Chúa, từ cuộc gặp gỡ hôm nay, sẽ có những suy tư giá trị và những đề nghị để có thể giúp anh chị em chúng ta đang chịu đau khổ và đáp ứng cả thảm trạng suy giảm sự hiện diện của Kitô giáo tại miền đất nơi Kitô giáo được khai sinh và phổ biến.

Đức Hồng Y Parolin
Tiếp lời ĐTC, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã tường trình trước công nghị về khóa họp mới đây tại Vatican, từ ngày 2 đến 4-10 vừa qua của các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, các đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở Genève và New York cùng với các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trước tiên các vị bàn về tình trạng không thể chấp nhận được tại Trung Đông do cái gọi Nhà Nước Hồi giáo, một thực tài chà đạp công pháp và dùng những phương pháp khủng bố để mưu toan mở rộng quyền bính: giết người hằng loạt, chém đầu những kẻ nghĩ khác họ, bán phụ nữ ở chợ, xung các trẻ em vào các cuộc chiến đấu, tàn phá các nơi thờ phượng.. Tình trạng đó khiến hàng trăm ngàn người phải bỏ gia cư đi lánh nạn nơi khác, trong những điều kiện bấp bênh, chịu bao đau khổ về thể lý và tinh thần. Khi lên án rõ ràng những vi phạm đó, không những đối với công pháp quốc tế về nhân đạo, nhưng cả về các nhân quyền sơ đẳng nhất, người ta cũng tái khẳng định quyền của người tị nạn được trở về đất nước của mình và sống trong phẩm giá, trong an ninh. Đó là quyền phải được cộng đồng quốc tế và các quốc gia hỗ trợ và bảo đảm. Điều có liên hệ ở đây là những nguyên tắc căn bản như giá trị sinh mạng và phẩm giá con người, tự do tôn giáo, sự sống chung hòa bình và hòa giữa các cá nhân và giữa các dân tộc.

ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh rằng các cuộc xung đột ở Trung Đông là một trong những đe dọa nghiêm trọng nhất đối với sự ổn định quốc tế. Hòa bình ở Trung Đông không thể tìm kiếm bằng những chọn lựa đơn phương áp đặt bằng võ lực.

ĐHY nhắc đến lời ĐTC lên án nạn buôn bán võ khí là một trong những nguyên nhân tạo nên nhiều nạn nhân ở Trung Đông và cộng đồng quốc tế không thể nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề này.

ĐHY Quốc vụ khanh nói đến nạn xuất cư của các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, vai trò của Giáo Hội và của cộng đồng quốc tế. Ngài kêu gọi đi tới và giải quyết tận căn những nguyên nhân gây ra các vấn đề hiện nay và cổ võ con đường đối thoại và thương thuyết vì con đường bạo lực chỉ đưa tới tàn phá, đồng thời ĐHY xác quyết rằng việc bảo vệ các tín hữu Kitô và tất cả các nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số cần phải đặt trong bối cảnh bảo vệ con người và tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là tự do tôn giáo và tự do lương tâm.

Đề cập đến thảm trạng của bao nhiêu người tị nạn, như một nửa dân số Siria đang cần được cứu trợ về nhân đạo, ĐHY Parolin nói: Giáo hội khuyến khích cộng đồng quốc tế quảng đại đáp ứng thảm trạng này, và về phần mình, Giáo hội cũng đóng góp, đặc biệt qua các Caritas địa phương và các cơ quan cứu trợ Công Giáo, giúp đỡ các nạn nhân, không những các tín hữu Kitô, nhưng tất cả những người đang chịu đau khổ.

Trong công nghị, ĐTC đã ấn định ngày phong hiển thánh cho chân phước LM Joseph Vaz là 14-1-2015, trong chuyến viếng thăm của ngài tại Sri Lanka từ 13 đến 15-1 năm tới. Thánh nhân từ Ấn Độ đến truyền giáo tại Sri Lanka trong thời kỳ người Hòa Lan bách hại các tín hữu Kitô tại đảo này. (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mời gọi các tín hữu Ấn giáo cộng tác để thăng tiến nền văn hóa bao gồm và chống lại nền văn hóa loại trừ.

Trên đây là nội dung sứ điệp của Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn công bố hôm 20-10-2014, để chúc mừng các tín hữu Ấn giáo trên thế giới nhân lễ Deepavali, là lễ ánh sáng siêu việt, sẽ được cử hành vào ngày 23-10-2014. Sứ điệp mang chữ ký của ĐHY Chủ tịch Jean Louis Tauran và vị Tổng thư ký là Cha Mighuel Ángel Ayuso Guixot, người Tây Ban Nha, viết:

”Đứng trước tình trạng gia tăng kỳ thị, bạo lực và loại trừ ở các nơi trên thế giới, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm có thể được coi như một trong những khát vọng chân thành nhất của dân chúng ở mọi nơi”.

Sứ điệp của Tòa Thánh nhìn nhận có những điều tích cực do sự hoàn cầu hóa mang lại cho thế giới, mở ra những biên cương mới, cung cấp những cơ hội phát triển, cơ may giáo dục và săn sóc sức khỏe tốt đẹp hơn, nhưng sự hoàn cầu hóa hiện nay chưa đạt được đối tượng chủ yếu là hội nhập dân chúng địa phương vào cộng đồng hoàn cầu. Đúng hơn, hoàn cầu hóa đã góp một phần lớn làm cho nhiều dân tộc đánh mất căn tính xã hội văn hóa, kinh tế và chính trị của mình.

”Những công hiệu tiêu cực của sự hoàn cầu hóa cũng ảnh hưởng tới các cộng đồng tôn giáo trên thế giới, vì các tôn giáo có liên hệ mật thiết với các nền văn hóa xung quanh. Hoàn cầu hóa góp phần làm phân hóa xã hội, gia tăng trào lưu duy tương đối, tôn giáo hỗn hợp và tư nhân hóa tôn giáo. Trào lưu tôn giáo cực đoan cũng như những xung đột về chủng tộc, bộ tộc và phe phái ở các nơi trên thế giới ngày nay phần lớn là những biểu hiện sự bất mãn, bất an và bấp bênh nơi dân chúng, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, không được hưởng những thiện ích của sự hoàn cầu hóa.

Hội đồng Tòa Thánh cũng nhận xét rằng ”Những hậu quả tiêu cực của sự hoàn cầu hóa như sự lan tràn trào lưu duy vật và duy tiêu thụ làm cho dân chúng vị kỷ hơn, khao khát quyền lực và dửng dưng đối với các quyền, nhu cầu và đau khổ của người khác. Nói theo lời của ĐGH Phanxicô, đó là ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng” khiến chúng ta dần dần lãnh đạm đối với những đau khổ của người khác và khép kín vào mình (Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới 2014). Sự dửng dưng ấy tạo nên nền văn hóa loại trừ, trong đó người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề và dễ bị tổn thương, bị chối bỏ các quyền lợi cũng như cơ may và tài nguyên mà các thành phần khác trong xã hội được hưởng..”

Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn kết luận rằng ”Vì thế, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm trở thành một lời kêu gọi chung và là một trách nhiệm chung mà chúng ta cần cấp thiết lãnh nhận. Đó là một dự phóng bao gồm những người quan tâm đến sự khỏe và sự sống còn của gia đình nhân loại trên trái đất này và cần được thi hành, mặc dù có những thế lực kéo dài nền văn hóa lại trừ” (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Paul VI PP

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.

Khi tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma.
Áo lễ ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.

Trong số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng, trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.

Đầu thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình bày.
Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm (26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài vốn là một luật sư, làm chủ báo ”Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.

Thầy Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.

Sau 28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu.

Đức TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli.
Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng 6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ ”vinh quang và quyền lực phàm nhân”.

Đứng trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích.
Ngài cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì phê bình ĐGH là bất động.

Đức Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima, Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu, và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia.
Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản.
Đức Phaolô 6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội, thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh ngắn, hưởng thọ 81 tuổi.
Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Manila, Philippines.
Bài giảng của ĐTC

”Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn Tin Mừng: ”Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy. Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.

Chắc chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: ”Và hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là – đứng trước bất kỳ loại quyền bính nào – cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.

Chúa không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên, mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống Tin Mừng là ”một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và Thiên Chúa yêu mến ”sự mới mẻ ấy” dường nào! ”Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.

Đây chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại, không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống – với đôi chân đặt vững trên mặt đất – và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.

Chúng ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt – Sinodo có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có hy vọng.
Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: ”chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2). Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn, xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015. Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi (1 Cr 3,6).

Chân phước Phaolô 6

Trong ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: ”Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại, chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp .. với những nhu cầu gia tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc Apostolica sollicitudo).

Đối với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!

Trong nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã ghi chú: ”Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P. Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất hiện ở chân trời.

Đức Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi dành trọn cuộc đời của Người cho ”sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để ”Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu thương của tất cả mọi người và là ngừơi ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp Ecclesiam Suam, Lời Tựa).

Ý nguyện và kinh Truyền Tin

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến tranh.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.

ĐTC cũng nói rằng ”Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii nuntiandi của Người, qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.

ĐTC không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

VATICAN. Bản tường trình chung kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình đã được thông qua và công bố chiều tối thứ bẩy, 18-10-2014.

Trong phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng, trước sự hiện diện của ĐTC, các nghị phụ đã thông qua Bản tường trình gồm 62 đoạn được đánh số theo thứ tự và được các nghị phụ bỏ phiếu từng đoạn.

Có một số đoạn gây nhiều tranh luận, tuy được thông qua, nhưng không đạt tới mức 2 phần 3 số phiếu. Ví dụ đoạn số 41 nói về việc nhận cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ còn bị tranh luận nhiều nhất với 104 phiếu thuận và 74 phiếu chống. Còn đoạn số 55 nói về việc đón nhận những người có xu hướng đồng tính luyến ái, tuy có thay đổi văn bản, và trích dẫn Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo nhưng chỉ được 118 phiếu thuận và 62 phiếu chống.

Đoạn số 51 về tình trạng những người ly dị tái hôn cần được săn sóc mục vụ, được thông qua với 155 phiếu thuận và 19 phiếu chống.

Trước tình trạng một số đoạn không có sự đồng thuận của Thượng HĐGM, tuy được đa số phiếu quá bán, nhưng không được đa số 2 phần 3 như thế, ĐTC Phanxicô quyết định vẫn để cho toàn bộ bản tường trình thuộc văn kiện tạm thời và gửi đến các Giáo Hội địa phương để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ thứ 14 vào tháng 10 năm tới. Ngài cũng cho phép để công chúng, qua các ký giả, được biết mỗi đoạn được bao nhiêu phiếu, để hiểu mức độ đồng thuận của các nghị phụ về từng điểm.

Diễn văn bế mạc

Trong diễn văn bế mạc, sau khi cám ơn các vị trong Văn phòng Tổng thư ký và các vị điều hành khóa họp này cũng như tất cả các nghị phụ, dự thính viên, chuyên viên và cộng tác viên, ĐTC nói:

”Tôi có thể nói một cách thanh thản rằng – với một tinh thần toàn thể tính và công nghị tính – chúng ta đã thực sự sống kinh nghiệm ”Sinodo”, một hành trình liên đới, đồng hành.

Vì là một hành trình – và cũng như mọi cuộc hành trình, đã có những lúc chạy nhanh, hầu như một thắng thời gian và đạt tới đích sớm nhất có thể; có những lúc khác mệt mõi, hầu như muốn nói 'đủ rồi'; có những lúc hăng say phấn khởi. Có những lúc an ủi sâu xa khi nghe chứng tử của các vị mục tử đích thực (Xc Ga 10 và GL 375, 386,387) mang trong con tim một cách khôn ngoan những vui mừng và nước mắt của các tín hữu. Những lúc an ủi và ân phúc, được khích lệ khi nghe những chứng từ của cac gia đình đã tham gia Thượng HĐGM và đã chia sẻ với chúng ta vẻ đẹp và niềm vui đời sống hôn nhân của họ. Một hành trình trong đó người mạnh nhất cảm thấy nghĩa vụ phải giúp đỡ những người yếu nhất, trong đó người giải nhất sẵn sàng giúp đỡ những người khác, kể cả qua những lúc đụng độ với nhau. Và vì là một hành trình của con người, có những an ủi nhưng cũng có những lúc buồn chán, căng thẳng và cám dỗ.

ĐTC đã kể ra một số cám dỗ có thể có:

– Thứ I là cám dỗ cứng nhắc đố kỵ, nghĩa là muốn khép kín trong chữa viết chứ không để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, Thiên Chúa của những ngạc nhiên, là tinh thần; khép kín trong luật lệ, trong sự chắc chắn về những gì chúng ta biết chứ không phải về những điều mà chúng ta còn phải học và đạt tới. Từ thời Chúa Giêsu, đó là cám dỗ của những người nhiệt thành, những người bối rối, những người ân cần và của những người ngày nay gọi là duy truyền thống (traditionalisti) và cả những người duy trí thức.

– Cám dỗ của những người xuề xòa hủy hoại, nhân danh lòng từ bi đánh lừa, băng bó các vết thương trước khi chữa trị, xức thuốc cho nó; họ chữa trị các triệu chứng mà không chữa nguyên nhân và căn cội. Đó là cám dỗ của những người dễ dãi, những người nhát sợ và cả những người gọi là ”cấp tiến và duy tự do”.

– Cám dỗ muốn biến đá thành bánh, để chấm dứt cuộc ăn chay lâu dài, nặng nề và đau thương (Xc Lc 4,1-4) và biến bánh thành đá, để ném vào những ngừơi tội lỗi, những người yếu đuối và bệnh nhân (Xc Ga 8,7) nghĩa là biến nó thành ”những gánh nặng không thể vác nổi” (Lc 10,27).

– Cám dỗ xuống khỏi thập giá, để làm hài lòng dân, chứ không ở lại trên thập gia để thi hành thánh ý Chúa Cha; khuất phục tinh thần trần thế thay vì thanh tẩy nó và làm cho nó tùng phục Thánh Linh của Thiên cHúa.
– Cám dỗ lơ là đối với kho tàng đức tin, coi mình không phải là người bảo quản nhưng là sở hữu chủ và là chủ nhân, hoặc đàng khác, là cám dỗ lơ là thực tại, dùng một ngôn ngữ tỷ mỉ, và một ngôn ngữ chà nhám để nói bao nhiêu sự mà chẳng nói gì cả! Những thứ đó, người ta gọi là bizantinismi..

Anh chị em thân mến, những cám dỗ đó không được làm cho chúng ta kinh hãi hay ngỡ ngàng và càng không được làm cho chúng ta nản chí, vì không môn đệ nào lớn hơn thầy mình; vì thế nếu Chúa Giêsu đã bị cám dỗ – thậm chí Ngài bị gọi là tướng quỉ Beelzebul (Xc Mt 12,24) – thì các môn đệ của Chúa không thể mong đợi được đối xử tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi, tôi sẽ rất lo lắng và buồn nếu không có những cám dỗ ấy và những cuộc tranh luận sôi nổi; nếu không sự chuyển động tinh thần như vậy, như thánh Ignatio (EE, 6) đã gọi, nếu tất cả đều đồng ý và im lặng trong một thứ an bình giả tạo. Trái lại tôi đã thấy và đã nghe – với niềm vui và biết ơn – những diễn văn và những phát biểu đầy niềm tin, lòng nhiệt thành mục vụ và đạo lý, khôn ngoan, thẳng thắn, can đảm và tự do ngôn luận. Và tôi đã cảm thấy rằng thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình và quy luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn (Xc GL 1752) được đặt trước mắt mình. Và điều này – như chúng ta đã nói ở Hội trường này – không bao giờ đặt lại vấn đề các chân lý nền tảng của bí tích Hôn phối là tính chất bất khả phân ly, một vợ một chồng, chung thủy, sinh sản con cái hay là cởi mở đối với sự sống (Xc GL 1055, 1056 và GS 48).

”Giáo Hội là như thế, là vườn nho của Chúa, là Mẹ đông đảo con cái và là Thày dạy ân cần, không sợ phải xắn tay áo lên để đổ dầu và rượu vào vết thương của con người (Xc Lc 10, 25-37); Giáo hội không nhìn nhân loại từ một lâu đài bằng kiếng để phán xét và xếp loại con người….

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta còn một năm để làm cho những ý tưởng đề nghị được chín mùi, với sự phân định tinh thần đích thực, để tìm ra những giải pháp cụ thể cho bao nhiêu khó khăn và vô số các thách đố mà các gia đình phải đương đầu, mang lại câu trả lời cho bao nhiêu nản chí vây bủa và bóp nghẹt các gia đình.

Một năm để làm việc về bản Tường trình của Thượng HĐGM là bản tóm lược trung thành và rõ ràng về tất cả những gì đã được nói và thảo luận tại Hội trường này và trong các nhóm nhỏ và bản này được trình bày cho các HĐGM như tài liệu chuẩn bị (Lineamenta).

Xin Chúa tháp tùng, hướng dẫn chúng ta trong hành trình này để làm vinh danh Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse! Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi!

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Chúng tôi, các nghị phụ họp tại Roma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Cuộc họp Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường, xin gửi lời chào đến tất cả các gia đình khắp nơi tại các châu lục và đặc biệt là những gia đình bước theo Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn bởi chứng tá hằng ngày mà các bạn đã cho chúng tôi và cả thế giới thấy qua sự trung tín, đức tin, niềm hy vọng và tình yêu của các bạn.

Ngay cả chúng tôi, những chủ chăn của Giáo Hội, cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với những hoàn cảnh và lịch sử khác nhau. Với tư cách là các linh mục và các giám mục, chúng tôi đã gặp gỡ và sống bên các gia đình đã cho chúng tôi thấy, bằng lời nói cũng như hành động, một chuỗi dài những điểm niềm vui cũng như những khó khăn của mình.

Việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng này, khởi đi từ những trả lời cho bảng câu hỏi mà Giáo Hội gửi đi trên khắp thế giới, đã giúp chúng tôi nghe được tiếng nói của nhiều kinh nghiệm trong gia đình. Rồi cuộc đối thoại trong những ngày này của Thượng Hội Đồng cũng làm chúng tôi hiểu hơn, giúp chúng tôi nhìn thấy tất cả những thực tại sống động và phức tạp mà các gia đình đang đối mặt.

Chúng tôi muốn gửi đến các bạn lời của Đức Kitô: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta thì Ta sẽ đến và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ở với ta” (Kh 3,20). Trong suốt hành trình dài trên các con đường ở Đất Thánh, Đức Giêsu đã vào nhà tại các làng mạc, Ngài tiếp tục đi qua các ngả đường của thành phố chúng ta. Đối với các bạn, các bạn trải nghiệm lẫn ánh sáng và bóng tối, những thách đố thú vị nhưng đôi khi cũng có những thử thách đầy kịch tích. Sự tăm tối càng trở nên dày đặc hơn cho đến khi nó trở thành bóng đen, khi những sự xấu và tội lỗi thâm nhập vào tận trung tâm của đời sống gia đình.

Trước hết, có một thách đố rất lớn về sự trung tín trong tình yêu hôn nhân. Đức tin suy yếu và các giá trị đạo đức không được quan tâm, chủ nghĩa cá nhân, các mối tương quan bị kiệt quệ, nổ lực loại trừ sự phản tỉnh ghi dấu ấn của nó trong đời sống gia đình. Có không ít những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng, không có sự kiên nhẫn, xác minh, tha thứ cho nhau, hòa giải và thậm chí là hy sinh. Những sai lầm như thế thường thấy ở những tương quan mới, những cặp đôi mới, mối liên hiệp mới và các đôi hôn phối mới, làm gia tăng những tình huống và vấn đề phức tạp trong gia đình cho các chọn lựa Kitô giáo.

Trong những thách đố này, chúng tôi muốn đề cập đến nỗi đau của chính sự hiện hữu. Chúng tôi nghĩ đến những thống khổ có thể có đối với một em bé bị khuyết tật, một chứng bệnh nghiêm trọng, tinh thần bị suy giảm do tuổi già, cái chết của một người thân yêu. Đáng ngưỡng mộ thay sự trung kiên đầy quảng đại của nhiều gia đình sống trong những thử thách này với lòng can đảm, đức tin và tình yêu, không xem nó như một điều gì đó bị cắt đứt hay tổn thương, nhưng như là cái được trao ban cho mình, nhìn thấy Đức Kitô chịu đau khổ nơi phần thân xác bệnh tật ấy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những khó khăn kinh tế do các hệ thống sai lạc, do “chủ nghĩa thờ đồng tiền và sự chuyên chế của một nền kinh tế vô nhân vị và không nhắm tới con người thật sự” (Evangelii Gaudium, 55), vốn hạ thấp nhân phẩm con người. Chúng tôi cũng nghĩ đến những người cha, người mẹ, thất nghiệp, bất lực trước những nhu cầu thiết yếu của gia đình mình và cả đến các bạn trẻ, những người ở không, không có hoài bão, những người có thể sẽ trở thành nạn nhân của những suy đồi do nghiện ngập hay tội ác.

Chúng tôi cũng nghĩ đến rất nhiều các gia đình nghèo, những người phải bám theo một chiếc thuyền để tìm đến một nơi sinh tồn, đến các gia đình đi di cư mà không có chút hy vọng nào nơi các sa mạc, những những gia đình bị bách hại chỉ bởi vì đức tin và vì những giá trị thiêng liêng và nhân bản của mình, đến những ai bị những tàn bạo của chiến tranh và áp bức vây bủa. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ phải gánh chịu những bạo lực, bị bóc lột sức lao động, đến những nạn nhân của nạn buôn người, đến các trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng bởi chính người chịu trách nhiệm chăm sóc và giúp mình lớn lên trong sự tin tưởng, đến các thành viên của những gia đình bị hạ nhục và trong hoàn cảnh khó khăn. “Nền văn hóa sung túc đang gây mê chúng ta và […] tất cả đời sống đó bị còi cọc đi do thiếu vắng những cơ hội dường như là một cảnh tượng đơn thuần chẳng làm cho chúng ta bận tâm tí nào” (Evangelii Gaudium, 54). Chúng tôi thỉnh cầu đến các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế hãy thăng tiến các quyền về gia đình nhằm hướng đến công ích cho mọi người.

Đức Kitô đã muốn Giáo Hội của Ngài trở thành một ngôi nhà mở rộng cửa để đón tiếp mọi người, không trừ một ai. Chúng tôi biết ơn các chủ chăn, các tín hữu và cộng đoàn đã sẵn sàng đồng hành với các các cặp đôi và các gia đình, đồng thời chăm sóc những vết thương cả nội tâm lẫn xã hội của họ.

* * *
Tuy nhiên, cũng có một ánh sáng chiếu rọi giữa đêm đen, đằng sau những cánh cửa sổ của các tòa nhà ở thành phố, của căn nhà giản dị ở thôn quê hay nơi các làng mạc, hay thậm chí là cả những túp lều: nó tỏa sáng và sưởi ấm cả thể xác lẫn linh hồn. Ánh sáng này, dưới ánh sáng của lịch sử hôn nhân, đã tỏa chiếu từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một món quà, một ân sủng được diễn tả – như sách Sáng Thế nói (2,18) – khi khuôn mặt này “đối diện” với khuôn mặt kia, trong một sự “tương trợ đồng vị với nhau”, nghĩa là ngang nhau và hỗ tương với nhau. Tình yêu giữa người nam và người nữ dạy chúng ta biết rằng dù vẫn khác nhau về căn tính, mỗi người cần đến người kia để là chính mình, mỗi người phải mở ra và tỏ lộ cho nhau. Đó là điều mà người nữ diễn tả một cách rất gợi tình trong sách Diễm Ca: “Người yêu tôi là của tôi và tôi là của người yêu tôi… tôi thuộc về người yêu tôi và người yêu tôi thuộc về tôi” (Dc 2,16; 6,3)

Để cuộc gặp gỡ này được chân thành, lộ trình phải bắt đầu với việc đính hôn, khoảng thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó sẽ đi đến sự thành toàn với bí tích, nơi mà Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, sự hiện diện và ân sủng của Người. Hành trình này cũng bao gồm cả tính dục, sự dịu ngọt, sự thân mật, nét đẹp, vốn là những điều luôn tồn tại, vượt trên cả những mãnh liệt và hăng hái của tuổi trẻ. Tự bản chất, tình yêu có xu hướng còn mãi, cho đến khi trao ban cả sự sống cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Dưới ánh sáng này, tình yêu lứa đôi, duy nhất và bất khả phân ly, luôn tồn tại, bất chấp những khó khăn của giới hạn con người; đây là một trong những phép màu tuyệt vời nhất, và có lẽ cũng là phép lạ chung nhất.

Tình yêu này lan tỏa qua việc sinh sản con cái và phát triển nòi giống, vốn không chỉ liên hệ đến việc sinh con nhưng còn liên quan đến quà tặng đời sống thiêng liêng nơi bí tích Thanh Tẩy, giáo dục và dạy giáo lý cho con trẻ. Nó cũng bao gồm đến việc trao tặng sự sống, tình cảm, các giá trị – một kinh nghiệm mà cả người không có khả năng sinh sản vẫn có thể làm được. Những gia đình nào sống được cuộc phiêu lưu chói lọi này sẽ trở nên dấu chỉ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Trong suốt hành trình, vốn đôi khi có lắm chông gai, khó khăn và vấp ngã, luôn có Chúa hiện diện và đồng hành kề bên. Gia đình cảm nghiệm được điều này việc yêu mến và đối thoại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình sống điều này trong việc cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, một nơi nghỉ ngơi nho nhỏ cho tinh thần mỗi ngày. Rồi cùng dấn thân hàng ngày trong việc giáo dục đức tin và đời sống tốt lành của Tin Mừng, những điều thánh thiêng. Cả ông bà cũng cùng chia sẻ và thực thi trách nhiệm này với một sự yêu mến và dấn thân lớn lao. Như thế, gia đình sẽ trở thành một Giáo Hội tại gia chân thực, rồi nới rộng ra thành một gia đình trong các gia đình làm nên cộng đoàn giáo hội. Các cặp vợ chồng Kitô hữu được mời gọi để trở thành những thầy dạy đức tin và tình yêu cho những cặp trẻ hơn.

Một diễn tả khác của sự hiệp thông huynh đệ là sự diễn tả của đức ái, của trao ban, của việc gần gũi với những ai thấp bé, những người bị gạt ra bên ngoài xã hội, những người nghèo, những người đơn chiếc, bệnh nhân, người ngoại quốc, những gia đình khác đang gặp khủng hoảng, ý thức về lời Chúa: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đó là món quà của điều thiện hảo, của việc đồng hành, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá của chân lý, của ánh sáng, của ý nghĩa cuộc sống.

Điểm quy tụ và tóm kết mọi dây hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân chính là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, khi tất cả gia đình và Giáo Hội cùng ngồi bên bàn tiệc của Chúa. Ngài đã trao ban cho tất cả chúng ta, những người hành hương trong lịch sử tiến về điểm gặp gỡ chung kết khi “Đức Kitô trở nên tất cả và trong tất cả” (Cl 3,11). Vì thế, trong chặng đầu tiên của khởi đầu Công Nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy tư về việc trợ giúp mục vụ và về việc tham dự bí tích cho những ai đã ly dị tái hôn.

Chúng tôi, các nghị phụ, xin anh chị em hãy bước đi cùng chúng tôi hướng về Cuộc Họp Thượng Hội Đồng sắp tới. Nguyện xin sự hiện diện của gia đình Giêsu, Maria và Giuse trong ngôi nhà đơn sơ của họ luôn ấp ủ các bạn. Cùng với Thánh Gia Nazaret, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời cầu khẩn của chúng tac ho tất cả gia đình dưới thế:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình có được những người vợ người chồng khôn ngoan và mạnh mẽ để họ có thể là nguồn mạch của một gia đình hiệp nhất và tự do.
Lạy Cha, xin ban cho các bậc cha mẹ có một mái nhà để sống bình an với gia đình của mình.
Lạy Cha, xin giúp những người làm con trở thành một dấu chỉ của niềm tin, niềm hy vọng, và giúp cho người trẻ có được một sự dấn thân vững bền và trung tín.
Lạy Cha, xin giúp cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hằng ngày nhờ đôi tay của mình, có thể hưởng nếm sự thanh thản tinh thần và giữ được ngọn lửa đức tin luôn bừng cháy, dù giữa lúc đêm đen.
Lạy Cha, xin giúp tất cả chúng con thấy được một Giáo Hội nở rộ sự trung tín và đáng tin, một thành phố công chính và nhân bản, một thế giới yêu mến chân lý, công bằng và lòng xót thương.


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Nên nộp thuế chăng?

Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
 
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
 
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
 
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
 
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
 
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
 
Veritas Radio