Tường thuật chuyến ĐTC công du Ecuador, Bolivia và Paraguay

Tường thuật chuyến ĐTC công du Ecuador, Bolivia và Paraguay

ĐTC dâng hoa cho Đức Mẹ El Quinche

Tường thuật chuyến viếng thăm mục vụ ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay

** Trong các sinh hoạt ngày thứ ba viếng thăm Ecuador còn có hai cuộc gặp gỡ khác vào ban chiều: đó là cuộc gặp gỡ giới sinh viên học sinh tại Đại học công giáo Ecuador và với các đại diện giới dân sự.

Sau khi dùng bữa trưa và nghỉ ngơi tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh lúc sau 16 giờ ĐTC đã đi xe papamobil tới Đại học giáo hoàng công giáo Ecuador cách đó 3 cây số. Hai bên đường đã có rất đông tín hữu chào đón ĐTC.

Đại học giáo hoàng công giáo Ecuador được thành lập năm 1946 thuộc tổng giáo phận Quito do các cha Dòng Tên điều khiển. Đại học gồm 14 học viện và phân khoa gồm Kiến trúc, Quản trị, Sư phạm, Khoa học, Triết học, Thần học, Khoa học nhân văn, Truyền thông, Văn chương, Kinh tế, Y tá, Kỹ sư, Luật, Y khoa, Sinh học, Trợ giúp xã hội. Có tất cả 30.000 sinh viên.

Vào thời thực dân Giáo Hội đã thành lập Đại học San Fulgencio do các cha dòng Agostino điều khiển; đại học thánh Gregorio do các cha dòng Tên điều khiển cho tới khi các vị bị trục xuất; và đại học San Tomas do các cha dòng Đa Minh điều khiển.

ĐTC đã được viện trưởng César Fabián Carrasco Castro tiếp đón trong khuôn viên đại học có chỗ cho 5.000 người. Sau lời chào của ĐC Alfredo José Espinoza Mateus, GM Loja và là chủ tịch Ủy ban giáo dục và văn hóa của HĐGM Ecuador, các sinh viên học sinh đã tặng qùa cho ĐTC. Tiếp đến mọi người đã nghe chứng từ của một nữ sinh viên, một giáo sư và viện trưởng đại học.

Ngỏ lời trong dịp này ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa của dụ ngôn người gieo giống và lệnh Thiên Chúa truyền cho con người phải vun trồng và giữ gìn thụ tạo. ĐTC nói:

Thiên Chúa không chỉ ban cho con người sự sống, nhưng cũng ban cho con người trái đất, thụ tạo. Ngài không chỉ ban cho con người một người bạn đường và các khả thể vô tận. Nhưng Ngài cũng đưa ra một lời mời gọi, và trao ban cho con người một sứ mệnh nữa. Ngài mời gọi họ tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài và nói: hãy vun trồng! Ta ban cho con các hạt giống, trái đất, nước, mặt trời, Ta ban cho con đôi bàn tay và tay của anh em con. Nó cũng là của con. Nó là một món quà, một ơn, một sự cống hiến. Nó không phải là cái gì được chiếm hữu, được mua.  Nó đi trước chúng ta và sẽ tiếp nối chúng ta… Thụ tạo là một ơn phải được chia sẻ. Nó là không gian Thiên Chúa ban cho chúng ta để xây dựng với chúng ta, để xây dựng một “chúng ta”. Thế giới, lịch sử, thời gian là nơi chúng ta đi xây dựng chúng ta với Thiên Chúa, với người khác và với trái đất. Cuộc sống của chúng ta luôn dấu ẩn lời mời gọi này, một lời mời gọi ít nhiều ý thức nhưng tồn tại luôn mãi. Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận một điểm đặc biệt. Trong trình thuật của sách Sáng Thế, cùng với từ “vun trồng” Thiên Chúa nói ngay một lời khác “giữ gìn”, chăm sóc. Từ này được hiểu nhờ từ kia. Một bàn tay giơ ra cho một bàn tay khác. Ai không vun trồng thì không chăm sóc, ai không chăm sóc thì không vun trồng. Chúng ta không chỉ được mời gọi là phần của công trình sáng tạo bằng cách vun trồng nó, làm cho nó lớn lên, phát triển nó, nhưng chúng ta cũng được mời gọi chăm sóc, che chở, giữ gìn nó nữa. Ngày nay lời mời gọi này càng mạnh mẽ hơn nữa. Không phải chỉ như là một lời nhắn nhủ, nhưng như là một đòi buộc nảy sinh từ “sự dữ mà chúng ta đã gây ra, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và lạm dùng các tài nguyên Thiên Chúa đã đặt để trong trái đất. Chúng ta lớn lên và nghĩ rằng chúng ta là chủ và là kẻ thống trị, được phép cướp bóc nó, vì thế giữa các người nghèo bị bỏ rơi và đối xử tàn tệ nhất có trái đất của chúng ta bị áp bức và tàn phá” (Laudato sì, 2).

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Có một tương quan giữa cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của mẹ đất, giữa sự hiện hữu của chúng ta và ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. “Môi sinh nhân bản và môi sinh thiên nhiên cùng nhau trở nên đồi tệ, và chúng ta không thể đương đầu với sự suy đồi môi sinh một cách thích hợp, nếu không chú ý tới các lý do có tương quan với sự suy đồi nhân bản và xã hội” (ibid., 48). Nhưng chúng cũng nâng đỡ nhau và có thể thay đổi hình dạng. Đó là một tuơng quan giữ gìn một khả thể của sự rộng mở, thay đổi, của sự sống cũng như của tàn phá và chết chóc.

Có một điều chắc chắn: đó là chúng ta không thể tiếp tục quay lưng lại với thực tại của mình, với các anh em mình, với mẹ đất. Chúng ta không được phép không biết điều đang xảy ra chung quanh chúng ta, làm như thể là các tình trạng xác định không hiện hữu hay không liên quan gì tói thực tại của chúng ta. Một lần nữa câu Thiên Chúa hỏi lại vang lên: “Em ngươi đâu?”. Tôi tự hỏi không biết câu trả lời của chúng ta có tiếp tục là “Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu?” (St 4,9).

Trong bối cảnh đại học này, sẽ rất đẹp nếu chúng ta tự vấn liên quan tới nền giáo dục của chúng ta trước trái đất đang kêu lên tới trời. Các trường học của chúng ta là một vườn ương cây, một khả thể, là đất phì nhiêu mà chúng ta phải chăm sóc, kích thích, và che chở. Đất phì nhiều khát sự sống.

Cùng anh chị em là các giáo sư tôi tự hỏi: Anh chị em có thức tỉnh trên các sinh viên học sinh bằng cách trợ giúp họ phát triển một óc phê bình, một tinh thần tự do có khả năng chăm sóc thế giới ngày nay hay không? Một tinh thần có khả năng tìm ra các câu trả lời mới cho nhiều thách đố mà xã hội ngày nay đưa ra hay không? Anh chị em có khả năng khích lệ họ đừng không biết tới thực tại bao quanh họ hay không? Làm thế nào để bước vào trong các chương trình khác nhau của đại học hay trong các lãnh vực khác nhau của công việc giáo dục cuộc sống chung quanh chúng ta với các đòi hỏi, các vấn nạn và các cật vấn của nó? Chúng ta làm nảy sinh ra và đồng hành với cuộc thảo luận xây dựng này  việc đối thoại sinh tử cho một thế giới nhân bản hơn như thế nào?

Tiếp đến ĐTC khẳng định như sau:

Có một suy tư lôi cuốn tất cả chúng ta: các gia đình, học đường và nhà giáo, đó là làm thế nào để người trẻ đừng đồng hóa bằng biếu đại học với địa vị cao hơn, với tiền bạc và uy tín xã hội. Chúng ta làm thế  nào để giúp họ nhận diện việc chuẩn bị này như dấu chỉ của một trách nhiệm lớn hơn đối với các vấn đề  ngày nay, tôn trọng và săn sóc người nghèo, tôn trọng việc cứu vãn môi sinh. Và với các  các bạn trẻ thân mến, là hiện tại và tương lại của Ecuador, là hạt giống biến đổi của xã hội này, tôi muốn tự hỏi: các bạn có biết thời gian học hành các bạn có không phải chỉ là một quyền lợi mà cũng là một đặc ân không? Biết bao nhiêu bạn bè, quen và không quen, muốn có một chỗ trong nơi này, mà vì các hoàn cảnh khác nhau đã không có được? Việc học hành của chúng ta giúp liên đới với họ trong mức độ nào?

Các cộng đoàn giáo dục có một vai trò sinh động, nòng cốt trong việc xây dựng xã hội và nền văn hóa. Phân tích, miêu tả thực tại thôi không đủ, cần phải trao ban sự sống cho các môi trường, nơi chốn nghiên cứu đích thật, cho các thảo luận làm nảy sinh ra các giải pháp cho các vấn đề hiện hữu đặc biệt ngày nay.

Trước sự toàn cầu hóa của mô thức kỹ thuật hướng tới chỗ tin rằng mỗi chiếm hữu quyền lực là tiến bộ, gia tăng an ninh, hữu ích, hạnh phúc, sức sống, gia trị tràn đầy, làm như thể thực tại, thiện ích và sự thật phát sinh một cách tự phát từ chính quyền lực của kỹ thuật và kinh tế” (Laudato si’, 105), chúng ta được hỏi một cách cấp thiết mau chóng suy tư, tìm tòi, thảo luận về tình trạng của chúng ta hiện nay. Chúng ta muốn và yêu sách cho con cháu chúng ta loại văn hóa nào đây? Trái đất này mà chúng ta đã nhận như gia tài, như một ơn, một món quà, chúng ta muốn để lại nó như thế nào? Chúng ta muốn in các chỉ dẫn nào trên cuộc sống? “Chúng ta đi qua trái đất này với mục đích nào? Chúng ta đến trên trái đất này với mục tiêu nào? Chúng ta làm việc và chiến đấu cho mục đích nào? (ibid., 160). Các sáng kiến cá nhân luôn luôn tốt và nền tảng, nhưng chúng ta phải nhìn thực tại một cách tổng quát, có trật tự  và không rời rạc, đưa ra các vấn nạn bao gồm tất cả mọi người. Như là đại học, như là các cơ cấu, các giáo sư và sinh viên cuộc sống thách đố các bạn trả lời cho câu hỏi này: tại sao chúng ta cần trái đất này? Người anh em con ở đâu? Ước chi Chúa Thánh Thần linh hứng và đồng hành với các bạn và ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng cần thiết để chu toàn sứ mạng giáo dục này.

Sau khi từ giã giới trí thức lúc 6 giờ chiều ĐTC đã đi xe đến nhà thờ thánh Phanxicô cách đó 4 cây số để gặp gỡ các đại diện giới dân sự trong lãnh vực văn hóa, kinh tế, doanh thương kỹ nghệ và nông nghiệp, cũng như các tổ chức thiện nguyện và đại diện của các thổ dân Amazzonia.

Nhà thờ thánh Phanxicô là nhà thờ cổ kính nhất trong toàn Châu Mỹ Latinh, được khởi công xây năm 1536, ba năm sau ngày thành lập thủ đô Quito, và hoàn thành năm 1680. Toàn bộ kiến trúc nghệ thuật rất phong phú vì cũng chứa đựng 3.500 tác phẩm nghệ thuật thuộc trường phái Quito và một thư viện vào bậc nhất của các cha Phanxicô.

Sau lời chào của ĐC Luis Cabrera Herrera, TGM Cuenca, Chủ tịch Ủy ban giáo dân của HĐGM Ecuador, đã có phần chia sẻ chứng từ của ba giáo dân: ông Francisco Jarrin, đại diện Hiệp hội các doanh thương kitô, bà Lidia Marlene Arcos Miranda, doanh thương tỉnh Ambato, và bà Imelda Caicedo Vega, giáo lý viên 85 tuổi, dậy giáo lý cho dân quê tỉnh Los Rios từ 60 năm qua. Họ đã nói lên các ưu tư, các khó khăn và thách đố của cuộc sống đức tin trong môi trường xã hội ngày nay. Dàn nhạc Sunamune gồm các người trẻ tàn tật và bị bệnh khờ cũng đã trình tấu chào mừng ĐTC.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khích lệ mọi người dấn thân xây dựng một xã hội bao gồm sự hiện diện và tham gia của mọi thành phần xã hội, chiến thắng ích kỷ và nền văn hóa gạt bỏ. Xã hội hãy học nơi gia đình để không ai bị loại bỏ ra ngoài. Trong gia đình con người nhận được các giá trị nền tảng của tình yêu thương, tình huynh đệ và sự tôn trọng lẫn nhau, được diễn tả ra bằng các giá trị xã hội nòng cốt là sự nhưng không, tình liên đới và sự phụ đới.

Trong tương quan xã hội, hay trong lãnh vực chính trị, nhiều khi người ta dựa trên sự đối đầu, trên việc gạt bỏ. Nhưng xã hội phải là một gia đình, gồm cha mẹ, con cái, anh chị em, trong đó khi gặp khó khăn, người ta tương trợ nhau, trong đó nỗi đau đớn của một người là nỗi đau của tất cả. Trong gia đình tất cả mọi người đều góp phần vào chương trình chung, tất cả đều làm việc cho lọi ích chung, nhưng không hủy bỏ cá nhân. Trái lại, họ nâng đỡ và thăng tiến cá nhân. Và ĐTC cầu mong người ta có thể nhìn đối thủ chính trị, và người hàng xóm với đôi mắt mà chúng ta nhìn người thân của mình trong gia đình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC đưa ra câu hỏi: Chúng ta có yêu thương quê hương đất nước, cộng đoàn mà chúng ta đang tìm xây dựng không? Nếu yêu thương thật, thì phải yêu thương bằng việc làm nhiều hơn là bằng lời nói. Trong lãnh vực xã hội sự nhưng không không phải là một bổ túc, nhưng là một đòi buộc cần thiết của công lý. Cái mà chúng ta là và có đã được ban cho chúng ta để phục vụ tha nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho nó sinh hoa trái trong các công việc lành.

Các tài nguyên được chỉ định cho tất cả mọi người, vì thế khi một người chiếm làm của riêng, là việc hợp pháp, thì một quyền sai áp luôn luôn đè nặng trên chúng. Hướng tới các anh chị em thổ dân đến từ vùng Amazzonia ĐTC nêu bật rằng việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên dư đật tại Ecuador không được tìm lợi nhuận tức khắc. Là người giữ gìn sự phong phú mà chúng ta đã lãnh nhận phải khiến cho chúng ta dấn thân với toàn hội và với các thế hệ tương lai. Có những nơi cần phải được săn sóc đặc biệt vì tầm quan trọng khổng lồ của chúng đối với hệ thống sinh thái thế giới. Liên quan tới tình liên đới ĐTC khẳng định như sau:

Từ tình liên đới sống trong gia đình nảy sinh tình liên đới trong xã hội. Nó không hệ tại việc cho những người cần được giúp đỡ, nhưng là có trách nhiệm đối với nhau. Nếu chúng ta trông thấy nơi tha nhân một người anh em, thì không ai có thể bị loại bỏ, bị tách rời.

Các điều khoản và luật lệ cũng như các dự án của cộng đoàn dân sự phải tìm kiếm sự bao gồm, để tạo thuận tiện cho các không gian đối thoại, gặp gỡ, và như thế để lui vào ký ức đau đớn bất cứ loại đàn áp, kiểm soát vô giới hạn và lấy mất đi sự tự do nào. Hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn đòi hỏi cống hiến các khả thể thực thụ  cho các công dân, nhất là cho giới trẻ, bằng cách tạo ra công ăn việc làm. Tới đây ĐTC đã ứng khẩu và mạnh mẽ tố cáo nền văn hóa gạt bỏ gây thương tích cho người trẻ và người già với các hậu quả kinh khủng dẫn đưa tới các vụ tự tử. Tình trạng này thuận lợi cho các kẻ phục vụ sự ích kỷ, thần tiền bạc ở trung tâm của một hệ thống đè bẹp tất cả chúng ta.

Sau cùng ĐTC đã đề cập tới sự phụ đới và nói : Khi nhận biết những gì là hay đẹp nơi người khác, cả với các hạn hẹp của họ, chúng ta thấy sự phong phú định tính sự khác biệt  và giá trị của việc bổ túc. Các con người, các nhóm có quyền thành toàn lộ trình của mình, cả khi điều này có đưa tới các sai lầm đi nữa. Đối thoại là điều cần thiết để đạt sự thật, không thể bị áp đặt, nhưng được tìm kiếm với lòng chân thành và óc phê bình. Trong việc tôn trọng sự tự do, xã hội dân sự được mời gọi thăng tiến mọi người và mọi tác nhân xã hội để họ nhận lãnh vai trò của họ và góp phần chuyên môn vào công ích. Trong một nền dân chủ được tham gia mọi lực lượng xã hội phải là tác nhân. Cả Giáo Hội cũng muốn cộng tác vào việc tìm kiếm công ích, với các hoạt động xã hội, giáo dục của mình bằng cách thăng tiến các gia trị luân lý đạo đức và tinh thần, vì Giáo Hội là dấu chỉ ngôn sứ đem lại ánh sáng và niềm hy vọng cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người cần được trợ giúp nhất. Và ĐTC kết luận : Có nhiều người hỏi tại sao tôi hay nói tới các người cần được trợ giúp, những người bị gạt bỏ, bị loại ra bên lề xã hội nhiều như thế. Một cách đơn sơ bởi vì thực tại này và câu trả lời cho thực tại này là trọng tâm của Tin Mừng.

Sau khi từ giã các đại diện thế giới dân sự, ĐTC đã đi xe đến thăm nhà thờ của dòng Tên cách đó một cây số. Nhóm tu sĩ dòng Tên đầu tiên đến Quito năm 1586. Năm 1602 cha Nicolas Duran Mastrilli, giám đốc tiên khởi của Trường dòng Tên đến Quito mang theo sơ đồ nhà thờ. Nhà thờ này được xây bởi kiến trúc sư Domenico Zampilli cũng là kiến trúc sư đã xây nhà thờ Chúa Giêsu của dòng Tên ở Roma. Tiếp đến có hai kiến trúc sư khác tới tiếp tục việc xây cất, và nhà thờ đã hoàn thành năm 1765. Tháp chuông bị sập trong trận động đất năm 1859, đuợc xây lại nhưng lại bị sập trong trận động đất năm 1868 và không bao giờ được tái thiết. Nhà thờ bị hư hại trong trận động đất năm 1987 và việc trùng tu hoàn tất năm 2005.

Trong nhà thờ này có tượng Đức Mẹ Sầu Bi với trái tim bị 7 lưỡi gươm đâm thâu. Vào năm 1906 Ecuador tuyên bố tính cách đời của nhà nước, cấm các biến cố tôn giáo và tịch thu các tài sản của Giáo Hội. Ngày 20 tháng 4 cùng năm xảy ra phép lạ Đức Mẹ Sầu Bi. 35 sinh viên dòng Tên đã trông thấy mắt Đức Mẹ chuyển động trong nhà cơm trường San Gabriel. Phép lạ được thừa nhận ngày 31 tháng 5 năm 1907. Và kể từ đó trường San Gabriel trở thành trung tâm thánh mẫu. Hằng năm tượng Đức Mẹ được rước trong toàn nước.

Sau khi viếng thăm nhà thờ ĐTC đã về Toà Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm kết thúc ngày thứ 3 viếng thăm Ecuador.

Ngày thứ tư mùng 8 tháng 7 ĐTC đã chỉ có hai sinh hoạt : thăm viện dưỡng lão do các nữ tu Thừa Sai Bác Ái trông coi, và gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ chủng sinh tại đền thánh Đức Bà El Quinche. Trung tâm Đức Bà El Quinche đưọc xây năm 1928 và được tuyên bố là trung tâm thánh mẫu quốc gia năm 1985. Tượng Đức Bà el Quinche bằng gỗ trắc bá cao 60 cm, do ông Don Diego de Robles thuộc trường phái Quito tạc năm 1586, theo lời xin của các thổ dân Lumbici. Vì các thổ dân không có tiền trả công, nên nhà điêu khắc nhường tượng lại cho các thổ dân Oyacachi muốn có bức tượng này vì giống hình Đức Mẹ đã nhiều lần hiện ra với họ.

Sau khi dâng thánh lễ riêng lúc 7 giờ rưỡi và điểm tâm, ĐTC đã từ giã Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đi xe đến nhà dưỡng lão tại Tumbaco là một vùng phụ cận cách xa Quito 21 cây số.

Ngài đã được nữ tu bề trên và 10 nữ tu tiếp đón. ĐTC đã gặp các cụ già trong sân nhà dưỡng lão, bắt tay và hỏi chuyện từng người.

Sau khi từ biệt các cụ lúc 10 giờ ĐTC đi xe đến đền thánh Đức Bà El Quinche cách đó 27 cây số. Đã có hàng chục ngàn người quy tụ về đây để chào đón ngài. Khi xe vào thành phố tín hữu đứng hai bên đường đã tung hoa chào mừng ĐTC trong một bầu khí lễ hội tươi vui. Mui chiếc xe papamobil đầy cánh hoa hồng. ĐTC đã được linh mục quản đốc đền thánh tiếp đón tại thềm đền thờ và đưa vào trong để ĐTC dâng hoa kính Đức Mẹ. Ngài đã đứng cầu nguyện một lát trước tượng Đức Mẹ Sầu Bi. Tiếp đến ĐTC đã vào nhà dòng và viết vào sổ lưu niệm lời cầu sau đây : « Lạy Me là Đức Trinh Nữ đền thánh  Quinche, xin chăm sóc nhân dân Ecuador. Họ là con cái Mẹ, Mẹ ơi » Ký tên Phanxicô Giáo Hoàng.

Tiếp đến ĐTC đã ra khán đài bên ngoài đền thánh để gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh. Sau lời chào mừng của ĐC Celmo Lazzari, đặc trách những người sống đời thánh hiến của HĐGM Ecuador, đã có phần chứng từ của cha Silvino Mina, thuộc Toà Giám quản tông toà Esmeraldes và nữ tu Marisol Sandoval dòng Agostino.

ĐTC đã không đọc diễn văn dọn sẵn nhưng ứng khẩu. Ngài cám ơn các linh mục tu sĩ và chủng sinh đã quảng đại đáp lại lời kêu mời của Chúa dấn thân trong các hoạt động khác nhau lo cho dân Chúa. Ngài khích lệ mọi người sống thân tình với Chúa, biết săn sóc sức khoẻ thể lý, nhưng nhất là săn sóc sức khỏe tinh thần và đời sống thiêng liêng, không bị bệnh lão hóa tinh thần, luôn biết tin yêu phó thác, cậy dựa vào ơn thánh Chúa, ý thức mình là người phục vụ, và tận dụng các tài khéo Chúa ban cho công tác rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa lòng trần gian, tránh bệnh lão hóa tinh thần và khuynh hướng tìm chức tước. Vì không phải là người làm thuê ăn lương, nên công tác mục vụ phải nhưng không. Đừng để người ta trả tiền cho ơn thánh.

Trong diễn văn dọn sẵn ĐTC phó thác cho trái tim Mẹ Sầu Bi người già, người bệnh và mọi cuộc gặp gỡ trong chuyến công du của ngài. Ngài cũng để tất cả mọi thành phần dân Chúa trong con tim của những người sống đời thánh hiến. Dựa trên trình thuật Đức Mẹ dang mình vào đền thánh, ĐTC rút tỉa ra vài suy tư và áp dụng vào đời sống thánh hiến. Trước hết ơn gọi thánh hiến là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban. Ngài tuyển chọn và sai chúng ta đi. Sự kiện này giải thoát chúng ta khỏi nguy hiểm lấy mình làm điểm tham chiếu, vì chúng ta không thuộc về mình nữa, và ơn gọi xin chúng ta  từ bỏ mọi ích kỷ, tìm lợi lộc vật chất hay bù trừ tình cảm. Chúng ta là những người phục vụ, chứ không phải là lính đánh thuê, không phải đến để đuợc hầu hạ nhưng để phục vụ, hoàn toàn không dính bén, không gậy, không bị, không chạy theo vinh quang giả tạo và tinh thần thế tục, xa lánh các tham vọng, các lợi lộc thấp hèn ích kỷ, các chú ý tới mình một cách thái quá.

Cũng như quyền bính của các Tông Đồ các ơn chúng ta nhận được là để canh tân và xây dựng Giáo Hội. Không khước từ chia sẻ, cho đi và khép kín trong tiện nghi dễ dãi, biết là suối mát bổ dưỡng, đặc biệt cho những người bị tội lỗi, thất vọng và thù hận đè bẹp.

Điểm thứ hai là sự kiên trì. Cũng như Mẹ Maria đã không quay lại đàng sau, nhưng cương quyết tiến vào đền thánh, người sống đời thánh hiến cũng phải kiên trì trong sứ mệnh, không lang thang tìm nơi dễ dãi tiện nghi hơn, kiên trì cả khi có gặp đêm đen và lạc lối hay nguy hiểm, vì biết rằng dân thánh Chúa đồng hành với chúng ta, những người thân thương và Giáo Hội đồng hành và đỡ nâng chúng ta. Cần tiến buớc trong hiệp nhất, tương trợ lẫn nhau và sống tươi vui vì được sống trong nhà Chúa, tham dự cuộc sống thân tình với Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng và đem ơn cứu độ đến cho mọi ngưòi. Ý thức được trách nhiệm của mình đối với các dân tộc Mỹ châu la tinh, vun trồng, linh họat và giáo dục lòng đạo đức bình dân, để tín hữu biết biểu lộ đức tin với ngôn ngữ và kiểu cách riêng của họ, thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ để Giáo Hội là căn nhà chung cho mọi người, một Giáo Hội ra đi, một Giáo Hội tới gần và thích ứng để không xa cách con người, một Giáo Hội ra khỏi tiện nghi dễ dãi của mình và có can đảm tới với mọi vùng ngoại biên cần đến ánh sáng Tin Mừng.

ĐTC đã ban phép lành và từ giã mọi người để ra phi trường lấy máy bay sang thủ đô La Paz của Bolivia, bắt đầu chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm ba nước Eucador, Bolivia và Paraguay.

Lễ nghi tiễn biệt đã diễn ra tại phi trường rất long trọng. Tổng thống và phu nhân đứng hai bên ĐTC trên bục trải thảm đỏ. Ban nhạc và ban vũ thiếu nhi đã cử hành quốc thiều Vaticang và quốc thiều Ecuador. ĐTC đã bắt tay từ biệt các Giám Mục và nhiều bộ trưởng chính phủ. Khi tiến tới chân máy bay ĐTC đã dừng lại bắt tay và ôm hôn các trẻ em cầm cờ toà thánh đứng hai bên. Các em ùa đến vây quanh ngài và vô cùng sung sướng. Trước khi lên máy bay ĐTC đã ôm hôn tổng thống và bắt tay phu nhân rồi cầm lấy chiếc cặp da của ngài. Ngài đã quay lại lần cuối chào từ biệt mọi người trước khi bước vào trong máy bay.

Chiếc boeing 737 của hãng hàng không Bolivia đã cất cánh lúc sau 12 giờ trưa và đến La Paz sau 3 giờ 15 phút bay. Chúng tôi sẽ tường thuật lễ nghi tiếp đón ĐTC tại La Paz và thánh lễ ĐTC chủ sự sáng thứ năm 9-7 để khai mạc Đại Hội Thánh Thể Bolivia tại quảng trường Chúa Kitô Cúu Thế tại Santa Cruz trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hằng triệu người dự Lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại Bolivia

Hằng triệu người dự Lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại Bolivia

Hàng triệu người dự thánh lễ tại Bolivia

SANTA CRUZ. Hằng  triệu tín hữu đã tham dự thánh lễ đầu tiên ĐTC Phanxicô cử hành tại thành phố Santa Cruz, thủ đô kinh tế của Bolivia, sáng ngày 9-7-2015.

ĐTC đã rời tòa nhà ĐHY Terrazas Sandoval, nguyên TGM Santa Cruz từ lúc quá 9 giờ sáng. Ngài đi xe díp mày trắng có mái kiếng che tiến qua các đại lộ rộng rãi dài 1 cây số dười dẫn đến quảng trường Chúa Kitô Cứu Thế để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tụ tập tại đây. Ngoài những người da trắng còn có đông đảo các tín hữu thuộc 36 bộ tộc thổ dân tại Bolivia, nhiều người mặc y phục truyền thống.

Nhiều màn hình khổng lồ đã được bố trí dọc theo đại lộ để những người ở xa lễ đài cũng có thể tham dự thánh lễ ĐTC cử hành bắt đầu lúc 10 giờ sáng.

Thánh lễ này cũng là lễ khai mạc Đại Hội Thánh Thể toàn quốc kỳ 5 của Bolivia và sẽ được tiếp nối tại thành phố Tarija. Ngoài tiếng Tây Ban Nha, còn có những phần của thánh lễ, kinh nguyện, bài đọc bằng các tiếng thổ dân như Guaranì, Quechua và Aimara.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 50 GM Bolivia và các GM khách, và hàng trăm Linh Mục trong phẩm mục màu trắng. Phần thánh ca do một ca đoàn hùng hậu 500 ca viên đồng phục màu đen và vàng đảm trách.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đi từ sự kiện các môn đệ đứng trước tình trạng 4 ngàn người nghe Chúa Giêsu giảng và không có gì để ăn. Các môn đệ xin Chúa giải tán họ vì không thể kiếm đủ lương thực cho đám đông ấy. Từ đó ngài nêu bật trách nhiệm của mọi người góp phần làm việc để không ai bị loại trừ trong xã hội. ĐTC nói:

”Đứng trước bao nhiêu tình trạng đói khổ trên thế giới, có thể chúng ta nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta.

”Đường hướng người ta chủ trương áp đặt trong thế giới ngày nay thật dễ chiếm chỗ trong một con tim tuyệt vọng. Đường hướng đó tìm cách biến đổi mọi sự thành đối tượng trao đổi, tiêu thụ, tất cả đều có thể thương lượng được. Đường hướng ấy chủ trương chỉ dành chỗ cho một thiểu số, và gạt bỏ tất cả những người ”không sản xuất”, không được coi là thích hợp và xứng đáng, vì họ có vẻ là không có lợi gì. Một lần nữa Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ”Không cần phải bảo họ ra đi, chính các con hãy cho họ ăn!”

” Đó là một lời mời gọi ngày nay vẫn còn vang vọng mạnh mẽ đối với chúng ta: ”Không cần một ai phải ra đi; hãy chấm dứt tình trạng bị gạt bỏ, chính các con hãy cho họ ăn”. Chúa Giêsu tiếp tục nói với chúng ta điều ấy tại quảng trường này. Đúng vậy! Hãy chấm dứt tình trạng gạt bỏ người, chính các con hãy cho họ ăn. Quan niệm của Chúa Giêsu không chấp nhận sự gạt bỏ những người yếu nhất, những người đang túng thiếu hơn cả. Khi chấp nhận sự thách đố ấy, thì chính Chúa nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. Chỉ dẫn của Chúa được tóm gọm trong 3 câu: Ngài cầm lấy một chút bánh và vài con cá, chúc tụng, phân chia và giao cho các môn đệ phân phát cho người khác. Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật hay là tôn thờ thần tượng. Qua 3 hành động ấy, Chúa Giêsu biến đổi được chủ trương gạt bỏ thành một đường hướng hiệp thông, cộng đồng. Tôi muốn nhấn mạnh vắt tắt 3 hành động ấy.

Người cầm lấy. Điểm khởi hành là: Chúa rất nghiêm túc coi trọng sinh mạng những người của Ngài. Ngài nhìn tận mắt và qua đó ngài hiểu cuộc sống, tâm tình của họ. Ngài thấy trong cái nhìn ấy điều đang đập và điều ngưng đập trong ký ức và con tim của dân Ngài. Ngài cứu xét và đề cao giá trị của điều ấy. Ngài đề cao giá trị của tất cả những gì tốt mà họ có thể cống hiến, tất cả những gì tốt đẹp trên đó có thể xây dựng được. Nhưng Chúa không nói về những đồ vật hoặc tài nguyên văn hóa hay ý tưởng, nhưng là những con người. Sự phong phú đích thực của một xã hội được đo lường trong cuộc sống của dân chúng, được đo lường nơi những người già có khả năng thông truyền sự khôn ngoan và ký ức của dân tộc cho những người bé nhỏ nhất. Chúa Giêsu không lơ là, không coi nhẹ phẩm giá của một ai, không viện cớ là họ không có gì để cho hoặc để chia sẻ.

– Hành động thứ hai là chúc tụng. Chúa cầm lấy và chúc tụng Cha ở trên trời. Ngài biết rằng những món quà đó là một hồng ân của Thiên Chúa, vì thế Ngài không đối xử với những vật ấy như bất kỳ vật nào, vì tất cả sự sống ấy là thành qủa của tình yêu thương xót. Chúa nhìn nhận điều ấy. Ngài đi xa hơn cái vẻ bề ngoài và trong cử chỉ chúc tụng, ngợi khen, Ngài xin Chúa Cha ban hồng ân Thánh Linh. Chúc phúc hay làm phép bao gồm 2 cái nhìn ấy, một đàng là cảm tạ và đàng khác là có thể biến đổi. Có nghĩa là nhìn nhận rằng sự sống luôn luôn là một hồng ân, một món quà khi đặt trong tay Chúa thì đạt được một sức mạnh tăng thêm nhiều. Chúa Cha của chúng ta không tước bỏ điều gì, Ngài làm tăng thêm nhiều.

– Sau cùng là trao ban. Trong Chúa Giêsu không có sự cầm lấy mà đồng thời không có một sự chúc lành, và không có một sự chúc lành mà không có trao ban. Chúc lành luôn luôn là một sứ mạng, có một mục tiêu, chia sẻ, cùng phân chia điều mình đã nhận lãnh, vì chỉ qua sự trao ban, chia sẻ, chúng ta mới tìm được nguồn mạch vui mừng, chúng ta mới cảm nghiệm được ơn cứu độ.

Từ những giải thích trên đây, ĐTC đề cập đến Đại hội Thánh Thể toàn quốc kỳ 5 của Giáo Hội tại Bolivia, được khai mạc hôm nay nhưng sẽ tiến hành tại Tarija. Ngài nói:

”Đó là Bí tích hiệp thông, làm cho chúng ta thoát khỏi cá nhân chủ nghĩa để cùng nhau sống ơn gọi theo Chúa, và làm cho chúng ta xác tín rằng điều chúng ta sở hữu và chính con người của chúng ta, nếu được đón nhận, chúc phúc và dâng hiến, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa, do quyền năng tình thương của Chúa, có thể trở thành bánh cho tha nhân.

Giáo hội là một cộng đoàn tưởng niệm. Vì thế, trung thành với mệnh lệnh của Chúa, được lập lại mỗi lần ”Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Giáo Hội hiện tại hóa từ đời nay sang đời kia, nơi mọi góc trên trái đất, mầu nhiệm Bánh Sự Sống. Giáo hội làm cho mầu nhiệm ấy hiện diện và trao tặng chúng ta. Chúa Giêsu muốn chúng ta tham gia vào sự sống của Ngài và qua chúng ta, sự sống ấy hóa ra nhiều trong xã hội chúng ta. Chúng ta không phải là những người cô lập, phân cách, nhưng là một dân tộc có ký ức được hiện tại hóa và luôn được dâng hiến”.

Một cuộc sống tưởng niệm cần những người khác, cần những quan hệ, cần gặp gỡ, cần tình liên đới thực sự, có khả năng đi vào con đường đón nhận, chúc phúc và dâng hiến, theo đường hướng của tình yêu.

Cuối thánh lễ, sau lời cám ơn của Đức Cha Sergio Gualberti Calandrina, TGM sở tại, ĐTC đã trao Thánh Giá truyền giáo cho một số thừa sai.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hàng chục ngàn người ngủ đêm chờ dự lễ với ĐTC tại Santa Cruz

Hàng chục ngàn người ngủ đêm chờ dự lễ với ĐTC tại Santa Cruz

ĐTC tại Santa Cruz nước Bolivia

SANTA CRUZ. Hàng chục ngàn tín hữu đã quyết định ngủ đêm 8-7-2015 bên vệ đường để chờ dự lễ với ĐTC lúc 10 giờ sáng ngày thứ năm, 9-7-2015 tại Quảng trường Chúa Kitô Cứu Thế ở thành phố Santa Cruz, Bolivia.

ĐTC đã từ Ecuador bay tới phi trường El Alto của Bolivia, ở cao độ 4 ngàn mét, chiều ngày 8-7-2015, chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại 3 nước Nam Mỹ.

Sau khi về thủ đô La Paz để hội kiến với Tổng thống Evo Morales và gặp gỡ chính quyền dân sự tại Nhà thờ chính tòa thủ đô, ngài bay tiếp tới thành phố Santa Cruz cách đó gần 570 cây số để qua đêm tại tòa TGM. Khác với thủ đô La Paz ở cao độ 3.600 mét, Santa Cruz chỉ ở cao độ 400 mét và có hơn 1 triệu 700 ngàn dân cư, là thành phố lớn nhất của Bolivia.

Hồi xưa, khi còn là Giám tỉnh dòng Tên ở Argentina, Cha Jorge Bergolio SJ nay là ĐGH, đã tháp tùng cha Bề trên Tổng quyền Pedro Aruppe đến La Paz, nhưng vì ngài không chịu được cao độ của thành này nên đã bị xỉu. Có lẽ vì thế lần này ngài chỉ dừng lại ở thủ đô vài tiếng đồng hồ.

Chính quyền Bolivia ước lượng có tới hàng triệu người dự lễ với ĐTC sáng ngày 9-7 giờ địa phương. Ban tổ chức đã chuẩn bị nửa triệu bánh lễ.

Bà Patricia Sanzetenea, thành viên một nhóm 100 tín hữu đến dự lễ, nói với phái viên hãng tin Ansa của Italia: ”Chúng tôi sẽ ở lại đường phố này suốt đêm, cho đến 7 giờ sáng, khi người ta mở rào cho vào Quảng trường. Chúng tôi đến từ thủ đô La Paza với tất cả lòng hăng say phấn khởi, với tất cả lòng yêu mến, chúng tôi chờ đợi phép lành của ĐGH”.

Nhiệt độ thấp và độ ẩm cao ở thành phố Santa Cruz. Vì thế, các tín hữu đã trang bị áo ấm, áo khoác, găng tay và nón để chống lạnh.

ĐGH Phanxicô, các GM và các chức sắc khác sẽ dùng tiệm Burger King gần Quảng trường Chúa Kitô Cứu Thế, để làm nhà mặc áo, trước thánh lễ. Giám đốc hãng Burger King ở Bolivia đã đồng ý tạm thời ngưng bán tại tiệm đó và cho sử dụng tiệm như nhà thánh.

Lễ đài đã được bố trí tại Quảng trường với hàng ngàn ghế ngồi. (Ansa 8-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cha Lombardi và sinh hoạt của Đức Thánh Cha ngày 7-7-2015

 Cha Lombardi và sinh hoạt của Đức Thánh Cha ngày 7-7-2015

Thứ ba 7-7-2015 là ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm mục vụ của ĐTC tại Ecuador. Ban sáng ngài đến ”Công viên 200 năm”, rộng 125 hécta, ở thủ đô Quito, cách tòa Sứ Thần 11 cây số để gặp gỡ 40 GM thuộc HĐGM Ecuador, trước khi cử hành thánh lễ cho khoảng 1 triệu rưỡi tín hữu vào lúc 10 giờ rưỡi cũng tại Công viên này, với chủ đề là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

 Ban chiều vào lúc 4 giờ rưỡi, ĐTC đã gặp gỡ giới học đường và đại học tại Đại học Công Giáo Ecuador. Sau đó lúc 6 giờ, ngài gặp xã hội dân sự ở nhà thờ thánh Phanxicô là thánh đường cổ kính nhất của Mỹ châu la tinh, thuộc khu trung tâm lịch sử của thành Quito. Sau cùng ĐTC viếng thăm thánh đường của dòng Tên, ”Iglesia de la Compania”. Nhà thờ này được xây từ năm 1606 và có bức ảnh baroc nổi tiếng năm ngoái có 150 ngàn người đến viếng.

 Ký giả Mario Galgano, thuộc ban tiếng Đức, đài Vatican, đã phỏng vấn Cha Federico Lombardi, SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh và cũng là Tổng giám đốc Đài Vatican:

 H. Tình trạng sức khỏe của ĐTC thế nào, thưa cha?

 Lombardi: ĐTC vẫn khỏe mạnh, không phải chỉ vì tôi phải nói như vậy, nhưng đó là sự thực và vì nếu ai thấy những gì ngài làm thì không thể không cảm thấy ngưỡng mộ vì nghị lực khác thường của ngài, đặc biệt khi nhìn ngài ở gần kề, mặc dù bao nhiêu công việc trong ngày, thấy ngài luôn thanh thản, an bình, tự chủ, quan tâm đến những người ở chung quanh, chú ý đến cả những chi tiết nhỏ.. quả thực ĐTC tỏ ra có một khả năng sống những giai đoạn đặc biệt với nhiều công tác như thế, với một khả năng hoàn toàn đương đầu với mọi khía cạnh của vấn đề.

 H. Chương trình hoạt động trong ngày 7-7-2015 của ĐTC rất khẩn trương: cử hành thánh lễ tại Công viên 200 năm ở thủ đô Quito, gặp gỡ các sinh viên, nghĩa là giới đại học, rồi giới xã hội của Ecuador.. Đâu là những điểm mạnh trong ngày thứ ba 7-7 của ĐTC?

 Lombardi: Ngày 7-7 này có lợi điểm là diễn ra hoàn toàn trong cùng một thành phố, vì thế không phải di chuyển xa như trong ngày 6-7 bằng máy bay, đi tới phi trường và trở về … Mọi hoạt động trong ngày thứ ba này đều diễn ra tại thủ đô, vì thế ĐTC có thể thi hành một chương trình với một loạt những sinh hoạt quan trọng, bắt đầu từ cuộc gặp gỡ với các GM, tuy là cuộc gặp gỡ riêng nhưng có một tầm quan trọng trong một cuộc viếng thăm mục vụ trong Giáo Hội, rồi đến thánh lễ đặc biệt tại Công viên kỷ niệm 200 năm độc lập, thánh lễ được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, không những với nội dung phong phú, nhưng cả về việc chuẩn bị tinh thần.

 Ban chiều ngày 7-7, ĐTC đã có hai biến cố quan trọng: trước tiên là gặp giới giáo dục. Giáo hội Ecuador rất muốn có cuộc gặp gỡ này với ĐTC để ngài khích lệ nỗ lực giáo dục qui mô của Giáo hội, nhưng được hội nhập vào trong một thực tại rộng lớn và phức tạp hơn. Cuộc gặp gỡ này là cơ hội để ĐTC đề cập đến một loạt các vấn đề lớn, không những liên quan tới giáo dục, nhưng cả những giá trị lớn đang được thông truyền qua giáo dục, những vấn nạn lớn của thế giới ngày nay. ĐGH đặc biệt nhắc đến những vấn nạn mà ngài bàn tới trong thông điệp mới đây ”Laudato sì”. Những câu hỏi ấy giúp xếp đặt việc giáo dục, nhắm giúp người trẻ chuẩn bị trả lời cho các vấn nạn ấy của nhân loại ngày nay, với trách nhiệm của họ và với sự chẩn bị thích hợp.

 H. Về giới văn hóa, dân sự xã hội, trong cuộc gặp gỡ ĐTC đã có một bài diễn văn rất sâu xa, đề cập đến nhiều đề tài. Có gì gây ấn tượng mạnh nhất không?

 Lombardi. Chắc chắn đó là một bài diễn văn người ta chờ đợi rất nhiều, vì tình trạng hiện nay của xã hội Ecuador, cũng như nhiều xã hội khác, đang ở trong tình cảnh khó khăn, với những căng thẳng. Chắc chắn có một sự tiến bộ rất tích cực ở Ecuador, trong nhiều năm, nhưng cũng có nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Vậy ĐGH có thể góp phần thế nào cho nhân dân Ecuador trong tình trạng như thế? Đó là một câu hỏi lớn. Và ĐTC, trong tất cả các bài diễn văn của cuộc viếng thăm ở Ecuador, một cách này hay cách khác, đều chuyển đạt một sứ điệp đối thoại, liên đới, hướng dẫn việc xây dựng một xã hội hài hòa, bao gồm mọi người, có thả năng hội nhập tất cả các thành phần khác nhau của xã hội, hội nhập tinh thần sáng tạo của các thành phần ấy cũng như trách nhiệm của họ, cùng quan tâm đến công ích của đất nước. Và phương pháp mà ĐTC chọn trong bài diễn văn của ngài là đi từ kinh nghiệm cụ thể của gia đình, các giá trị gia đình, và nới rộng các giá trị ấy, từ việc xây dựng gia đình đến xã hội. Vì thế ĐTC đã chỉ một con đường rất cụ thể để trình bày diễn văn của ngài, tập trung vào những thái độ mà mỗi người phải có để góp phần tích cực vào tương lai đất nước của mình (SD 8-7-2015)

 G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Ngày thứ ba chuyến ĐTC viếng thăm mục vụ Ecuador

Ngày thứ ba chuyến ĐTC viếng thăm mục vụ Ecuador

ĐTC giảng trong thánh lễ tại Công viên 200 Năm trong thủ đô Quito của Ecuador

** Ngày thứ ba mùng 7 tháng 7 ĐTC đã có 5 sinh hoạt. Lúc 9 giờ sáng giờ địa phương ĐTC đã gặp Hội Đồng Giám Mục tại Công viên 200 năm trong thủ đô Quito. Tiếp đến ngài đã chủ sự thánh lễ đồng tế cho giáo dân với các Giám Mục và Linh Mục. Vào lúc 16 giờ rưỡi chiều ngài đã gặp gỡ thế giới học đường và đại học  và lúc 18 giờ ĐTC đã gặp gỡ thế giới dân sự, rồi viếng thăm nhà thờ dòng Tên. Sau đây là bài tường thuật hai sinh hoạt sáng thứ ba.

Lúc 8 giờ sáng ĐTC đã rời Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để đến Công viên 200 năm cách đó 11 cây số trong thủ đô Quitô. Công viên này đã được khánh thành ngày 27 tháng 4 năm 2013, tại phi trường cũ của thủ đô. Công viên rộng 125 héc ta cây xanh, và đã được gọi là “lá phổi” của thủ đô Quito. Trong số các cơ cấu cũng có một trung tâm, nơi tổ chức các biến cố đặc biệt như các đại nhạc hội và các biến cố tranh tài thể thao ngoài trời.

Cuộc gặp gỡ của ĐTC với 40 Giám Mục đã diễn ra trong một phòng ở tầng trệt của trung tâm. Sau lời chào của ĐC Fausto Gabriel Trávez Trávez, TGM Quito, Chủ tịch HĐGM Ecuador, ĐTC đã nói chuyện với các Giám Mục một cách thân tình, không hình thức và cũng không có diễn văn.

Lúc 10 giờ ĐTC đã lên xe díp đi một vòng dài 4 cây số chào tín hữu. Khu vực phi trường cũ, nơi trực thăng của Thánh Gioan Phaolô II đã đáp hồi năm 1985, có thể chứa tới 1,5 triệu người. Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ 30 và có đề tài là “rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.”

Khán đài có cây thánh giá cao 25 mét được trang hoàng với 100.000 bông hồng mầu trắng và mầu vàng, trong khi bàn thờ được trang hoàng với hai bức khảm gồm 85.000 hoa hồng nhiều mầu, do các nông dân trồng hoa toàn nước dâng tặng ĐTC. Đảm trách phần thánh ca có một ca đoàn tổng hợp gần 1000 ca viên.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói:

** Lời Chúa mời gọi chúng ta sống sự hiệp nhất để thế gian tin. Tôi tưởng tượng ra tiếng nói thì thầm của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly như một tiếng kêu, trong Thánh Lễ mà chúng ta cử hành tại Quảng trường 200 Năm này. Hai trăm năm của tiếng kêu độc lập của Mỹ châu nói tiếng Tây Ban Nha. Đó đã là một tiếng kêu nảy sinh từ ý thức về sự thiếu tự do, bị vắt cạn và cướp bóc, bị thống trị bởi các thích hợp tình cờ của các kẻ mạnh thay phiên nhau cai trị (Niềm Vui Phúc Âm, 213).

Tôi muốn rằng ngày hôm nay hai tiếng kêu đó hoà hợp với nhau trong dấu chỉ của thách đố đẹp của việc loan báo Tin Mừng. Không phải với các lời nói vang cao, hay với các từ phức tạp, nhưng với một sự hoà hợp nảy sinh từ « niềm vui của Tin Mừng », «tràn đầy con tim và cuộc sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho Ngài cứu rỗi được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi sự buồn sầu, khỏi sự trống rỗng  nội tâm, khỏi sự cô lập » (ibid., 1), khỏi ý thức bị lẻ loi. Chúng ta tụ tập nhau nơi đây, tất cả chung quanh bàn tiệc với Chúa Giêsu, chúng ta trở thành một tiếng kêu, một lời cầu nguyện nảy sinh từ xác tín rằng sự hiện diện của Ngài  thúc đẩy chúng ta tới sự hiệp nhất và « đánh dấu một chân trời xinh đẹp, cống hiến một bữa tiệc đáng ao ước » (ibid., 14)

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói : « Lạy Cha, ước chi chúng nên một để thế gian tin » (Ga 17,21) : như thế, khi nhìn trời Chúa Giêsu biểu lộ ước muốn của Người. Trong tim của Chúa Giêsu dấy lên lời xin này trong một bối cảnh của việc sai đi : « Như Cha đã sai con vào trần gian, con cũng sai họ vào trần gian » (Ga 17,18). Trong lúc này Chúa sống kinh nghiệm trong chính thịt xác Ngài cái tồi tệ nhất của thế giới này, mà Ngài yêu thương đến điên dại : các âm mưu, sự mất tin tưởng, sư phản bội, nhưng Ngài không lẩn trốn, không than van. Cả chúng ta mỗi ngày cũng nhận thấy rằng mình sống trong một thế giới bị xâu xé bởi chiến tranh và bạo lực. ĐTC giải thích thêm điểm này như sau :

Sẽ là hời hợt, khi cho rằng sự chia rẽ và thù ghét chỉ liên quan tới các căng thẳng giữa các nước hay các nhóm xã hội. Thật ra, chúng là các biểu lộ của « cá nhân chủ nghĩa phổ biến », chia cách chúng ta và đặt để chúng ta trong thế chống đối nhau (x. Niềm vui Tin Mừng, 99), hoa trái vết thương của tôi lỗi trong trái tim con người, mà các hậu quả cũng đổ ập trên xã hội và tất cả thụ tạo. Chúa Giêsu gửi chúng ta tới với chính thế giới này, đang thách đố chúng ta với các ích kỷ của nó, và lời đáp trả của chúng ta không phải là giả bộ như không có gì, hay cho rằng chúng ta không có các phương tiện, hoặc thực tại vượt qúa sức lực của chúng ta. Câu trả lời của chúng ta vang vọng tiếng kêu của Chúa Giêsu và nhận lấy ơn thánh và nhiệm vụ của sự hiệp nhất.

** Không thiếu xác tín, cũng không thiếu sức mạnh cho tiếng kêu của tự do ùa nhập vào hơn 200 năm qua, nhưng lịch sử nói với chúng ta rằng nó chỉ định đoạt, khi nó bỏ ra một bên các khuynh hướng cá nhân, các khát vọng một quyền bính duy nhất, thiếu cảm thông đối với các tiến trình giải thoát khác, với các đặc tính khác nhau, nhưng không vì thế mà kình chống nhau.

Và việc rao truyền Tin Mừng có thể là một phương tiện của sự hiệp nhất các khát vọng, sư nhậy cảm, các giấc mơ và cả vài không tưởng nữa. Chắc chắn nó là điều có thể, và chúng ta tin và kêu lên. Tôi đã nói rằng: « Trong khi trên thế giới, tại một vài nước tái xuất hiện các hình thức chiến tranh và xung đột khác nhau, chúng ta kitô hữu, chúng ta nhấn mạnh trên đề nghị hiểu biết tha nhân, chữa lành các vết thương, xây các cây cầu, thắt chặt các tương quan và trợ giúp nhau vác các gánh nặng của nhau » (ibid., 67). Ước mong hiệp nhất giả thiết niềm vui êm dịu và củng cố của việc rao truyền Tin Mừng, xác tín có một thiện ích mênh mông cần thông truyền, và khi thông truyền nó đâm rễ ; và bất cứ ai đã sống kinh nghiệm này cũng chiếm hữu được một sự nhậy cảm cao hơn đối với các nhu cầu của người khác (x, ibid., 9). Từ đó nảy sinh ra sự cần thiết chiến đấu cho việc quy nạp trên mọi bình diện, chiến đấu cho việc quy nạp trên mọi bình diện, bằng cách tránh các ích kỷ, bằng cách thăng tiến sự hiệp thông và đối thoại, bằng cách thúc đẩy sự cộng tác. « Cần tín thác con tim cho người bạn đồng hành, không nghi ngờ, không tin tưởng… Tin tưởng nơi tha nhân là một cái gì có tính cách thủ công, hòa bình là thủ công » (ibid., 244). Thật không thể nghĩ rằng sự hiệp nhất rạng ngời, nếu tinh thần thế tục khiến chúng ta giao chiến với nhau, tìm kiếm quyền bính khô cằn, tìm kiếm uy tín hay an ninh kinh tế. Và làm điều này trên vai của những người nghèo nhất, bị loại trừ nhất, không đuợc bệnh đỡ nhất, của những người không đánh mất đi phẩm giá của họ, không chú ý tới sự kiện nó bị tấn kích mỗi ngày.

ĐTC nói thêm trong bài giảng : Sự hiệp nhất này đã là một hoạt dộng truyền giáo « để thế gian tin ». Truyền giáo không hệ nơi việc chiêu dụ tín đồ – chiêu dụ tín đồ là chế nhạo truyền giáo – nhưng hệ nơi việc thu hút những người ở xa với chứng tá của chúng ta, trong việc tới gần những người cảm thấy xa Thiên Chúa và Giáo Hội, tới gần những người cảm thấy họ bị phán đoán và kết án một cách tiên thiên bởi những người cảm thấy họ toàn thiện và trong trắng. Đến gần những người sợ hãi hay những người thờ ơ để nói với họ rằng : « Chúa cũng kêu mời bạn là thành phần của dân Ngài, và Ngài làm điều đó với lòng tôn trọng lớn lao và tình yêu thương » (ibid., 113). Bởi vì Thiên Chúa của chúng ta tôn trọng chúng ta cả trong sự thấp hèn và tội lỗi của chúng ta. Lời mời gọi này của Chúa, văn bản sách Khải Huyền miêu tả với biết bao khiêm tốn và tôn trọng : « Con có thấy không ? Ta đứng  ngoài cửa và gọi ; nếu con muốn mở… ; Ngài không dùng sức mạnh, không bẻ khóa, mà chỉ bấm chuông, gõ cửa một cách nhẹ nhàng và chờ đợi. Đó là Thiên Chúa của chúng ta !.

** Sứ mệnh của Giáo Hội, như bí tích cứu độ, là trung thực với căn tính Dân đang bước đi, với ơn gọi sát nhập vào sự phát triển của mình tất cả mọi quốc gia trên trái đất.

Sự hiệp thông giữa chúng ta càng sâu đậm bao nhiêu, thì việc truyền giáo lại càng được thuận tiện bấy nhiêu (x. Gioan Phaolô II, Pastores gregis, 22). Đặt để Giáo Hội trong tình trạng truyền giáo đòi hỏi chúng ta tái tạo sự hiệp thông, như thế, đây không phải chỉ là một hành động hướng tới bên ngoài. Chúng ta cũng là các thừa sai hướng tới bên trong và hướng tới bên ngoài bằng cách biểu lộ mình như biểu lộ « một bà mẹ đi gặp gỡ, một mái nhà tiếp đón, một trường học thường xuyên của sự hiệp thông truyền giáo » (Tài liệu Aparecida, 370).

Giấc mơ đó của Chúa Giêsu có thể, bởi vì Ngài đã thánh hiến chúng ta : « vì họ con xin thánh hiến chính minh con, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật » (Ga 17,19). Cuộc sống tinh thần của người rao giảng Tin Mừng nảy sinh từ sự thật sâu xa ấy, mà không lẫn lộn với vài thời điểm tôn giáo cống hiến một vài nhẹ nhõm – một nền tu đức xem ra phổ biến –  Chúa Giêsu thánh hiến chúng ta để dấy lên một cuộc gặp gỡ với Ngài, giữa người với người, một cuộc gặp gỡ dưỡng nuôi cuộc gặp gỡ với các người khác, dấn thân trong thế giới, đam mê loan báo Tin Mừng (x. Niềm Vui Tin ừng, 78).

Sự thân tình của Thiên Chúa, không thể hiểu được đối với chúng ta, vén mở cho chúng ta thấy với các hình ảnh nói với chúng ta về sự hiệp nhất, hiệp thông, trao tặng, tình yêu. Vì thế sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu xin không phải là sự đồng nhất, mà là « sự hòa hợp da dạng lôi cuốn » (ibid., 117). ĐTC giải thích thêm điểm này như sau :

Cái phong phú mênh mông của sự khác biệt, cái đa dạng đạt sự hiệp nhất mỗi lần chúng ta tưởng niệm Ngày Thứ Năm Thánh, làm cho chúng ta xa rời các cám dỗ của các đề nghị duy toàn vẹn, giống các chế độ độc tài, các ý thức hệ hay các giáo phái. Đề nghị của Chúa Giêsu cụ thể, nó không phải là một ý tưởng,  nó cụ thể : « Hãy ra đi và cũng làm như thế » Ngài nói với người hỏi Ngài : « Ai là người thân cận của tôi ? », sau khi Ngài kể lại dụ ngôn người Samaritano nhân hậu : « Hãy ra đi và làm cùng điều đó ».

** Đề nghị của Chúa Giêsu cũng không phải là một sắp xếp vừa với tầm mức của chúng ta, trong đó chúng ta đặt ra các điều kiện, chúng ta lựa chọn các phe liên hệ, và loại trừ các người khác. Một thứ tôn giáo của những thành phần ưu tú… Chúa Giêsu cầu nguyện để chúng ta là thành phần của một gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha chúng ta và tất cả là anh em. Không có ai bị loại trừ, và điều này không tìm ra nền tảng trong việc có các khẩu vị giống nhau, có cùng các lo lắng, các tài khéo. Chúng ta là anh em với nhau, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta vì tình yêu, và đã định cho chúng ta là con cái Ngài, chỉ do sáng kiến của Ngài mà thôi (x. Ep 1,5). Chúng ta là anh em, bởi vì « Thiên  Chúa đã đổ vào lòng chúng ta Thần Khí của Con Ngài, kêu lên Abba, Cha ơi » (Gl 4.6). Chúng ta là anh em, bởi vì được máu Chúa Giêsu Kitô làm cho nên công chính (x. Rm 5,9), chúng ta đã từ cái chết bước vào sự sống bằng cách trở thành « những người đồng thừa tự » của lời hứa (x. Gl 3,26-29 ; Rm 8,17). Đó là ơn cứu độ mà Thiên Chúa thành toàn và Giáo Hội tươi vui loan báo : là thành phần của một « chúng ta » đưa lên cho tới « chúng ta » thiên linh.

Tiếng kêu của chúng ta, tại nơi này, nhắc lại tiếng kêu của sự tự do, thực hiện tiếng kêu của thánh Phaolô : « Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng » (1 Cr 9,16). Nó cấp bách và thôi thúc biết bao, như tiếng kêu tỏ lộ ước muốn độc lập. Nó có một sự hấp dẫn giống như thế, nó có cùng ngọn lửa lôi cuốn. Hỡi anh em, hãy có các tâm tình của Chúa Giêsu ! Hãy là một chứng tá của sự hiệp thông huynh đệ trở thành nền độc lập !

Và thật đẹp đẽ biết bao, nếu tất cả có thể khâm phục chúng ta vì biết lo lắng cho nhau chừng nào,  an ủi nhau và đồng hành với nhau chừng nào ! Việc trao ban chính mình đó là việc trao ban thiết lập tương quan liên bản vị. Nó không nảy sinh từ việc cho đi « các sự vật », nhưng cho đi chính mình. Trong bất cứ việc trao ban nào người ta cho đi chính mình. « Cho đi chính mình » có nghĩa là  để cho tất cả quyền năng tình yêu thương là Thần Khí của Thiên Chúa hành động trong chính mình và như thế rộng mở cho sức mạnh tạo dựng của Ngài. Và trao ban chính mình trong cả những lúc khó khăn nhất, như ngày Thứ Năm của Chúa Giêsu, trong đó Ngài đã biết các phản bội và các âm mưu được đan dệt thế nào, nhưng Ngài trao ban chính mình, trao ban chính mình cho chúng ta với dự án cứu độ của Ngài. Khi trao ban chính mình, con người lại găp gỡ mình với căn tính thực của mình là con của Thiên Chúa, giống Thiên Chúa Cha và trong sự hiệp thông với Ngài, Đấng trao ban sự sống, là em của Chúa Giêsu, mà họ làm chứng tá. Đó là rao giảng Tin Mừng, đó là cuộc cách mạng của chúng ta, bởi vì đức tin của chúng ta luôn luôn cách mạng, đó là tiếng kêu sâu xa liên lỉ của chúng ta.

** Bài giảng của ĐTC đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay tán đồng của tín hữu.

Trước khi ĐTC ban phép lành cuối lễ ĐC Fausto Gabriel Trávez Trávez, TGM Quito, Giáo chủ Ecuador, kiêm Chủ tịch HĐGM Ecuador, đã nhiệt liệt cám ơn ĐTC. ĐC bầy tỏ lòng biết ơn và nói lên niềm vui lo lớn của mọi thành phần Giáo Hội và nhân dân nước này vì các lời khích lệ trao ban hy vọng của ĐTC. Nó thôi thúc mọi người dấn thân rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá cuộc sống mỗi ngày, và hiệp nhất với nhau trong nỗ lực thăng tiến xã hội và quê hương Ecuador. Mọi người sẽ nhớ mãi các giáo huấn của ĐTC cũng như đã nhớ mãi các lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

ĐTC đã ứng khẩu và nói : Anh chị em thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì buổi cử hành này, vì việc hiệp nhất chung quanh bàn thờ Chúa, là Đấng xin chúng ta là một, thật sự là anh em với nhau, xin Giáo Hội là một ngôi nhà huynh đệ. Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em, và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.

Sau khi từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về Tòa Sứ Thần Toà Thánh  để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi trước khi gặp giới sinh viên học sinh và giới dân sự vào ban chiều. Chúng tôi sẽ tường thuật hai các sinh hoạt này trong buổi phát ngày mai.

Sáng thứ năm hôm nay ĐTC sẽ viếng thăm nhà dưỡng lão do các nữ tu thừa sai bác ái trong coi tại Tumbaco, ngoại ô thủ đô Quito. Sau đó ngài đến đền thánh Đức Bà Quinche để gặp gỡ hàng giáo sĩ tu sĩ và chủng sinh lúc 10 giờ 30, rồi ra phi trường lấy máy bay sang La Paz thủ đô Bolivia, chặng thứ hai chuyến công du mục vụ của ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Hoạt động của Đức Thánh Cha chiều 6-7-2015 tại Quito

Hoạt động của Đức Thánh Cha chiều 6-7-2015 tại Quito

QUITO. Chiều ngày 6-7-2015, ĐTC đã từ Guayaquil bay về thủ đô Quito để tiếp tục chương trình viếng thăm.

Khác với Guayaquil ẩm thấp và nóng, Quito mưa lạnh và sương mù. Dầu vậy vẫn có hàng trăm ngàn người đứng dọc theo hai bên đường từ Phi trường về trung tâm thành phố để chào đón ĐTC. Thật là một biển người mênh mông.

Thăm Tổng thống

Ngài về trung tâm thủ đô để thăm xã giao Tổng thống Correa của Ecuador tại dinh Carondelet. Một ca đoàn hát mừng vị thượng khách, rồi ĐTC gặp riêng tổng thống với gia đình Ông, gồm phu nhân, bà mẹ, và các con của ông.

Trong dịp này ĐTC tặng tổng thống bức tranh khảm Đức Mẹ đang bồng Chúa Con, bản sao bức ảnh cổ kính được giữ tại Nhà Nguyện Mình Thánh Chúa ở Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma. Trước bức ảnh này, ngày 22-8 năm 1541, thánh Ignaxio cùng với các tu sĩ đầu tiên của dòng Tên đã khấn dòng. Ngài cũng tặng tổng thống hai văn kiện: trước tiên là Tông huấn 'Niềm vui Phúc Âm' và tiếp đến là Thông điệp Laudato sì về việc bảo vệ môi trường. Tổng thống đã tặng ĐTC một bức tranh rất đẹp diễn tả mặt tiền Nhà thờ dòng Tên ở thủ đô Quito.

Trong khi ĐTC gặp tổng thống, thì ĐHY Quốc vụ khanh Parolin, Đức Sứ Thần và ĐHY Vela hội kiến với một số quan chức chính quyền Ecuador.

Chào thăm các tín hữu

Sau khi gặp gỡ Tổng thống, ĐTC đã tiến ra bao ơn dinh Carondelet để chào thăm hàng ngàn tín hữu tụ tập trước dinh này, rồi ngài đi bộ đến viếng nhà thờ chính tòa Quito chỉ cách đó 50 mét. Sau khi kính viếng Mình Thánh Chúa, ngài tiến ra quảng trường bên ngoài để chào thăm rất đông tín hữu tụ tập tại đây và chúc lành cho họ và nói rằng: ”Tôi chúc lành cho toàn thể nhân dân Ecuador, để họ không còn phân biệt nhau, để không còn ai bị loại trừ, để không ai bị gạt bỏ, để không ai phải ở ngoài lề đại quốc này”.

ĐTC ám chỉ đến tình trạng 2% dân Ecuador là giới đại điền chủ và chủ các xí nghiệp, và 20% dân chúng sống trong nghèo đói. Cách đây 5 năm, tỷ số người nghèo này là 40%. Ngài chúc lành cho những cải tổ xã hội tại nước này.

Trong lời chào đã dọn sẵn cho dịp này, ĐTC viết:

”Tôi đến Quito này như người lữ hành, để chia sẻ với anh chị em niềm vui loan báo Tin Mừng.

Tôi đã cầu nguyện với thánh Marianna Chúa Giêsu người Ecuador có tượng ở phía sau Đền thờ Thánh Phêrô và phó thác cho thánh nữ thành quả chuyến viếng thăm này, và xin cho tất cả chúng ta biết noi gương thánh nữ: sự hy sinh và nhân đức anh hùng của Thánh nữ được tượng trưng bằng một hoa huệ.

”Các thánh mời gọi chúng ta noi gương các vị, theo học tại trường các vị như thánh nữ Narcisa Chúa Giêsu và chân phước Mercedes di Gesù Molina noi gương thánh nữ Marianna. Với những người đang ở đây, chịu đau khổ hoặc đã chịu đau khổ như cô nhi, và những người tuy còn nhỏ, đã phải chăm sóc các em mình, những người dấn thân hằng ngày chăm sóc các bệnh nhân hoặc người già, tôi nói rằng thánh nữ Marianna cũng đã làm như vậy và thánh Narcisa cũng như chân phước Mercedes đã noi gương ấy. Không phải là khó khăn nếu Chúa ở cùng chúng ta. Các ngài không làm những điều ngoại thường, trước mặt thế gian. Các ngài đã yêu mến nhiều và chứng tỏ điều ấy trong cuộc sống hằng ngày đến độ động chạm đến thân mình đau khổ của Chúa Kitô trong dân (Ev. Gaudium 24).

ĐTC nhắc đến công trình xây cất nhà thờ Chính tòa này với bao nhiêu vất vả theo phương pháp và thói quen của các thổ dân: đó là một công việc của tất cả mọi người để giúp cộng đoàn, một công việc vô danh, không có bảng quảng cáo cũng chẳng có vỗ tay. ”Ước gì Chúa làm cho những viên đá của nhà thờ chính tòa này, chúng ta cũng đặt trên vai các nhu cầu của người khác, giúp kiến tạo hoặc tái thiết cuộc sống của bao nhiêu anh chị em không có sức lực để kiến tạo hoặc thấy sức lực bị hao mòn”.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 40 cây số về dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Chương trình hoạt động ngày 7-7-2015

Thứ ba 7-7, lúc 9 giờ sáng, ĐTC đến ”Công viên 200 năm”, rộng 125 hécta, ở thủ đô Quito, cách tòa Sứ Thần 11 cây số để gặp gỡ 40 GM thuộc HĐGM Ecuador, trước khi cử hành thánh lễ cho các tín hữu vào lúc 10 giờ rưỡi cũng tại Công viên này. Công viên này có thể chứa được 1 triệu 500 ngàn người. Thánh lễ có chủ đề là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc.

Ban chiều vào lúc 4 giờ rưỡi, ngài đã gặp gỡ giới học đường và đại học tại Đại học Công Giáo Ecuador. Tiếp đến lúc 6 giờ, ĐTC gặp xã hội dân sự ở nhà thờ thánh Phanxicô là thánh đường cổ kính nhất của Mỹ châu la tinh, thuộc khu trung tâm lịch sử của thành Quito. Sau đó, ngài sẽ viếng thăm thánh đường của dòng Tên. Nhà thờ này được xây từ năm 1606 và có bức ảnh baroc nổi tiếng năm ngoái có 150 ngàn người đến viếng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Ecuador

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Ecuador

Pope visit Ecuador

QUITO. Chiều chúa nhật 5-7-2015, ĐTC Phanxicô đã đến Quito, khởi sự chuyến viếng thăm dài 8 ngày tại 3 nước Ecuador, Bolivia và Paraguay.

Việc ngài chọn 3 nước này để thực hiện chuyến viếng thăm đầu tiên tại Mỹ châu la tinh theo đúng nghĩa không phải là tình cờ: 3 nước này thuộc hàng nhỏ nhất, nghèo nhất, ít được để ý tới trong chính trị đại lục và quốc tế. Cả trong trường hợp này, ĐTC muốn khởi hành từ ”ngoại ô”, nhưng cũng là nơi người ta cảm nghiệm một năng động mạnh mẽ về chính trị và xã hội. Đây cũng là những nơi đang có những thách đố lớn về mặt xã hội: nghèo đói, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, mong ước hòa bình, đấu tranh cho công bằng xã hội.

Trên chuyến bay dài 13 tiếng đồng hồ, ĐTC đã chào thăm 75 ký giả Italia và quốc tế tháp tùng và cầu chúc họ làm việc tốt đẹp trong 8 ngày viếng thăm. Trong lời giới thiệu giới báo chí lên ĐTC, cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cũng nhắc đến hơn 1 ngàn ký giả quốc tế khác đăng ký tại các phòng báo chí 3 nước để theo dõi và tường thuật về các hoạt động của ĐGH. Cha Lombardi cho biết có 100 ký giả làm đơn xin tháp tùng ĐTC trong chuyến máy bay, nhưng chỉ có 75 chỗ thôi. Rồi ĐTC chào từng ký giả và cám ơn họ.

 Tiếp đón tại phi trường Quito

Sau khi vượt qua 10,100 cây số, tức là hơn 1 phần tư vòng trái đất, ĐTC đã đến phi trường quốc tế Thống Chế Sucre ở Quito, thủ đô nước Ecuador vào lúc gần 3 giờ chiều giờ địa phương.

Tổng thống Rafael Correa cùng với các quan chức chính quyền, các GM và đông đảo dân chúng đã dành cho ĐTC một sự tiếp đón rất nồng nhiệt tại sân bay, cùng với ban nhạc và một nhóm các trẻ em trong y phục truyền thống.

Diễn văn của ĐTC

Trong bài diễn văn đầu tiên, ngài đã kêu gọi các thành phần xã hội tại Ecuador đối thoại và hòa giải với nhau:

”Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được trở lại Mỹ Châu la tinh và hôm nay được ở đây với quí vị và anh em, tại đất nước Ecuador xinh đẹp này. Tôi cảm thấy vui mừng và biết ơn khi thấy sự tiếp đón nồng nhiệt quí vị và anh chị em dành cho tôi: điều này thêm một bằng chứng về đặc tính hiếu khách của dân chúng tại Quốc gia cao quí này.

Sau khi cám ơn tổng thống và chào thăm và cám ơn chính quyền, các GM và các tín hữu, ĐTC nói:

“Tôi đã viếng thăm Ecuador nhiều lần vì lý do mục vụ; cũng vậy ngày hôm nay, tôi đến đây như chứng nhân về lòng thương xót của Thiên Chúa và về niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Cũng niềm tin ấy qua bao thế kỷ đã hình thành căn tính của dân tộc này và đã mang lại bao nhiêu hoa trái tốt đẹp, trong đó có những nhân vật sáng ngời như thánh nữ Marianna Chúa Giêsu, thánh tu huynh Micae Febres, thánh nữ Narcisa Chúa Giêsu hoặc chân phước Mercedes di Gesù Molina được phong chân phước tại Guayquil này cách đây 30 năm trong cuộc viếng thăm của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Các vị đã sống đức tin nồng nhiệt và hăng say, và thực thi lòng thương xót bằng cách góp phần trong nhiều lãnh vực vào việc cải tiến xã hội Ecuador thời các ngài.

ĐTC nói thêm rằng:

”Ngày hôm nay, cả chúng ta cũng có thể tìm thấy trong Tin Mừng những chìa khóa giúp chúng ta đương đầu với những thách đố hiện nay, quí chuộng những khác biệt, thăng tiến đối thoại và sự tham gia không loại trừ ai, để những bước tiến bộ và phát triển hiện nay đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, đặc biệt chú ý đến các anh chị em mong manh nhất của chúng ta và các nhóm thiểu số dễ bị tổn thương nhất. Thưa tổng thống, để đạt tới mục đích ấy, tổng thống luôn có thể kỳ vọng nơi sự dấn thân và cộng tác của Giáo Hội.

”Tất cả các bạn thân mến, trong niềm mong đợi và hy vọng, tôi bắt đầu những ngày này. Tại Ecuador, điểm gần nhất với không gian bên ngoài là Chimborazo, được gọi như thế vì đó là nơi ”gần mặt trời nhất”, gần mặt trăng và các tinh tú. Các Kitô hữu chúng ta ví Chúa Giêsu với mặt trời, và ví mặt trăng với Giáo hội, cộng đoàn; ngoại trừ Chúa Giêsu, không ai chiếu tỏa bằng ánh sáng của riêng mình. Ước gì trong những ngày này, tất cả chúng ta càng thấy rõ sự gần gũi với ”mặt trời từ trên cao” (Xc Lc 1,78) và chúng ta là ánh phản chiếu ánh sáng và tình thương của Chúa.

Từ nơi đây, tôi muốn chào thăm toàn thể Ecuador. Từ đỉnh núi Chimborazo cho đến bờ biển Thái Bình Dương; từ vùng rừng Amazonia cho đến các đảo Galapagos; anh chị em đừng bao giờ đánh mất khả năng cảm tạ Chúa vì những gì Ngài đã và đang làm cho anh chị em; khả năng bảo vệ người bé nhỏ và đơn sơ, chăm sóc các trẻ em và người già của anh chị em, tín nhiệm nơi giới trẻ, cảm thấy ngưỡng mộ vì sự cao quí của dân tộc anh chị em và vẻ đẹp đặc biệt của đất nước anh chị em.

Giã từ phi trường Sucre, sau bài diễn văn và hội kiến riêng với Tổng thống Correa, ĐTC đã về tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 40 cây số. Chiếc xe ngài đi là xe Fiat Idea, bé nhỏ nhất trong số các xe trong đoàn, kể cả các xe hộ tống, giống như chiếc xe ngài đã đi khi tới Rio de Janeiro cách đây 2 năm. Rồi chuyển sang chiếc xe dip màu trắng có mái che bằng kiếng.

Dọc đường có rất đông dân chúng đứng hai bên đường để chào ĐTC, nhất là trên quãng đường 8 cây số trước tòa Sứ Thần tòa Thánh. Quang cảnh thật là cảm động.

Chương trình hoạt động trong ngày 6-7-2015

Sáng thứ hai 6-7, ĐTC sẽ rời thủ đô Quito đáp máy bay xuống Guayaquil cách đó 265 cây số và chỉ cách mặt biển 4 mét. Đây thành phố lớn nhất của Ecuador với hơn 3 triệu 600 ngàn dân cư, ở ngang với mặt biển.

Về phương diện tôn giáo, Tổng giáo phận Guayaquil hiện có hơn 2 triệu 800 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 85% dân số, với 206 giáo xứ và 920 giáo họ.

Đến nơi vào lúc gần 10 giờ sáng, ĐTC sẽ dùng xe đi tới Đền thánh quốc gia kính Lòng Thương Xót Chúa, cách đó 33 cây số. Đây là nơi thờ phượng đứng thứ hai của tổng giáo Guayaquil với chiều kích chỉ đứng sau Nhà thờ chính tòa thánh Phêrô Tông đồ.

Sau khi kính viếng Đền thánh vào lúc 10 giờ rưỡi sáng, ĐTC đến công viên Los Samanes cách đó 25 cây số để cử hành thánh lễ cho các tín hữu vào lúc quá 11 giờ sáng, vì khu vực trước đền thành không đủ chỗ để đón tiếp hàng trăm ngàn tín hữu.

Sau thánh lễ ngài dùng bữa lúc 2 giờ chiều với cộng đoàn dòng Tên và đoàn tùy tùng. ĐTC có liên hệ đặc biệt với 1 LM trong cộng đoàn này và khi còn làm Giám tỉnh dòng Tên ở Argentina, ngài thường gửi một số tu sĩ trẻ đến học kinh nghiệm tại Học viện dòng Tên tại đây.

Ban chiều ĐTC đáp máy bay trở về thủ đô Quito khoảng 6 giờ, rồi đến viếng thăm Tổng thống Ecuador tại dinh Carondelet. Sau đó ngài đi bộ đến viếng nhà thờ chính tòa Quito gần đó.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

ĐTC đến thăm viếng Ecuador, một trong 3 nước trong chuyến tông du

Pope Francis and Ecuador's President Rafael Correa walk after Pope Francis landed in Quito

Theo thông tấn xã AFP đưa tin, ĐTC Phanxicô đã vừa đến nước Ecuador vào trưa ngày Chúa Nhật ngày 5 tháng 7 năm 2015 vào lúc 2:43 giờ địa phương. Đây là chuyến viếng thăm các nước Nam Mỹ kể từ 2 năm trước. Trong chuyến này Ngài cũng sẽ đi thăm nước Bolivia và Paraguya sau đó, Ngài cũng sẽ chú trọng về hoàn cảnh của các người nghèo.

Chiếc máy bay dân sự của hãng Alitalia chở Ngài và đoàn tùy tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế Mariscal Sucre tại Quito. ĐTC đã được Tổng Thống Rafael Correa đón rước tại phi trường. ĐTC sẽ chủ tế thánh lễ tại Ecuador vào ngày thứ Hai và cũng sẽ gặp gở tổng thống Rafael Correa tại tư dinh.

Nước Ecuador có 16 triệu dân, lúc trước có khoảng 94% theo đạo Công Giáo nhưng gần đây số người theo đạo Công giáo bị giảm dần chỉ còn 80%, vì một số đã chuyển sang đạo Tin Lành, một trong những lý do chánh là một số người dân bản xứ rất mệt mỏi trước sự thiếu chăm sóc từ hàng giáo phẩm. ĐTC dự kiến ​​sẽ quan tâm đặc biệt đối với các cộng đồng dân bản xứ này .

Trước khi lên máy bay Ngài có nói " Tôi muốn làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng và mang lại sự dịu dàng và chăm sóc của Thiên Chúa, " và Ngài còn nói thêm "Đặc biệt là trẻ em có nhu cầu, người già, người bệnh, người bị bắt giam, người nghèo, những người là nạn nhân của nền văn hóa thối nát này . "

Đây là cuộc thăm viếng lần thứ 2 sau lần đầu vào năm 1985 đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đến.

 

Video ĐTC đến Ecuador

Đức Thánh Cha gặp 30 ngàn thành viên Canh tân Thánh Linh

Đức Thánh Cha gặp 30 ngàn thành viên Canh tân Thánh Linh

ĐTC gặp gở 30 ngàn thành viên canh tân

VATICAN. Chiều thứ sáu 3-7-2015, ĐTC đã gặp gỡ 30 ngàn thành viên Phong trào Canh tân trong Thánh Linh, nhân dịp khai mạc Đại hội lần thứ 38 của Phong trào này.

Chủ đề cuộc gặp gỡ và đại hội là ”Những con đường hiệp nhất và hòa bình. Những tiếng nói trong kinh nguyện cho những người tử đạo ngày nay, và cho Phong trào đại kết tinh thần”.

Hiện diện tại cuộc gặp gỡ còn có hơn 10 GM và chức sắc và tín hữu Kitô thuộc các hệ phái Kitô khác, như Đức TGM Policarpo Eugenio Aydin, Đại diện Đức Thượng phụ Chính Thống Siriac ở Hòa Lan, Đức TGM David Moxon, Đại diện Đức TGM Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo cạnh Tòa Thánh, và một Mục sư thuộc Giáo Hội Tin Lành Luther Thụy Điển.

Trong khi chờ đợi ĐTC đến Quảng trường thánh Phêrô, các tham dự viên đã hát thánh ca, cầu nguyện, nghe trình bày chứng từ, xoay quanh chủ đề ”đại kết bằng máu”, tức là các tín hữu Kitô thuộc các hệ phái khác nhau, đã chịu chết vì niềm tin nơi Chúa Kitô.

Khi ĐTC đến quảng trường, có 2 chứng từ đã được trình bày với ĐTC: trước tiên của Ông Vittorio Aliquò, người thành Palermo trên đảo Sicilia, đã làm Ủy viên công tố trong 48 năm trời và đã điều tra về những hoạt động của các tổ chức bất lương mafia: trong 20 năm trời ông luôn phải sống trong sự hộ tống, kể cả khi đi nghỉ hè, và đi lễ chúa nhật thì luôn phải thay đổi nhà thờ, và ông lấy làm tiếc vì không thể tham dự các buổi cầu nguyện Thánh Linh. Ông đã thấy bao nhiêu đồng nghiệp, nhân viên công lực, chủ xí nghiệp và cả LM chân phước Pino Puglisi bị mafia giết chết. Ông Aliquò nói:

”Con đã thấy bao nhiêu máu vô tội đổ ra trước mắt con. Khi nhìn các vị tử đạo ngày nay và trước đây, và nghĩ đến các thế hệ trẻ, con muốn nói rằng việc nhớ đến máu đổ ra như thế trên các đường phố của chúng ta không thể bị xóa bỏ”.

Chứng từ thứ hai của anh Ugo Esposto, 17 tuổi, sau một thời niên thiếu với bao nhiêu xáo trộn, bị gia đình bỏ rơi khiến anh ta không còn tin tưởng và sống trong cô đơn, sau cùng Ugo đã tìm lại niềm tín thác nhờ được biết đại gia đình Canh tân trong Thánh Linh. Anh nói: ”Với lời cầu nguyện xin Chúa Thánh Linh đổ ơn thiêng xuống, cuộc sống của con đã được hoàn toàn biến đổi. Bây giờ con cũng như điều để nói và để đóng góp với thế giới. Lời Chúa đã đốt lên một ngọn lửa mà con không thể cầm giữ. Lời Chúa đã tỏ cho con thấy con được yêu mến và không bị bỏ rơi, con quí giá, và cuộc sống của con có ý nghĩa và có một mục đích. Nếu Chúa Giêsu có thể tái ban hy vọng này cho cuộc sống của con, Ngài cũng có thể ban cho mọi thiếu niên như con”.

 Huấn từ

Trong bài huấn từ, ĐTC Phanxicô đề cao phong trào đại kết bằng máu và ngài khích lệ các thành viên Phong trào canh tân trong Thánh Linh nỗ lực cầu nguyện và hoạt động cho sự hiệp nhất. Ngài ứng khẩu nói:

”Hoạt động cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô bắt đầu bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện với nhau. Hiệp nhất vì máu các vị tử đạo ngày nay làm cho chúng ta hiệp nhất. Có một phong trào đại kết bằng máu. Chúng ta biết rằng khi những người oán ghét Chúa Kitô giết hại một Kitô hữu, trước khi giết họ không hỏi tín hữu: ”Ngươi là tin lành Luther, là tín hữu Chính Thống hay tin Lành, Baptist hay Methodist?” Ngươi là Kitô hữu, và họ chém đầu người ấy.”

ĐTC cũng nhắc đến các vị tử đạo ở Uganda được phong thánh cách đây 50 năm, các vị ấy là tín hữu Công Giáo và Anh giáo.

Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong Thánh Linh, tức là hiệp nhất trong sự khác biệt, chứ không phải sự đồng nhất. Sự hiệp nhất ấy là công trình của Chúa Thánh Linh chứ không phải của chúng ta.

ĐTC nói đến việc phục vụ quan trọng của các vị lãnh đạo, các thủ lãnh giáo dân, là làm tăng trưởng về tinh thần và mục vụ những người sẽ thay thế khi họ mãn nhiệm. Và ngài nói: ”Điều thích hợp là mọi việc phục vụ trong Giáo Hội có một thời hạn, đừng có những thủ lãnh trọn đời trong Giáo Hội. Điều này xảy ra tại vài nước có chế độ độc tài… Người duy nhất không thể thay thế được trong Giáo Hội là Chúa Thánh Linh và Chúa duy nhất chính là Đức Giêsu Kitô”.

Trước khi ban phép lành kết thúc, ĐTC đã ủy thác cho các thành viên Phong trào Thánh Linh sứ vụ: ”Với Kinh Thánh, với Lời Chúa, anh chị hay ra đi, rao giảng sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Hãy rao giảng cho người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề, người mù, các bệnh nhân, tù nhân và mọi người nam nữ. Nơi mỗi người có tinh thần bên trong muốn được giúp đỡ để mở toang cánh cửa để làm cho họ được sống”.

Sau cuộc gặp gỡ với ĐTC, Đại hội của Phong trào Canh tân trong Thánh Linh đã tiếp tục vào thứ bẩy 4-7-2015, tại Sân vận động Olimpic ở Roma. (SD 4-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hai văn bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Biển Đức 16

Hai văn bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Biển Đức 16

Nguyên Giáo Hoàng Benedict 16

CASTEL GANDOLFO. Sáng 4-7-2015, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã được trao tặng 2 văn bằng tiến sĩ danh dự từ Ba Lan.

Bằng thứ I của Học Viện thánh nhạc và bằng thứ II của Đại học Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, cả hai đều ở thành phố Cracovia bên Ba Lan.

Từ lâu Đức Biển Đức 16 cho biết ngài không nhận các văn bằng danh dự do các đại học trao tặng, nhưng ngài chấp nhận thi hành luật trừ trong trường hợp này vì mối liên hệ đặc biệt với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2.

Hiện diện tại buổi trao tặng văn bằng tại dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo có các chức sắc và giáo sư của Học viện và Đại học liên hệ.

 ĐHY Stanislaw Dziwisz TGM Cracovia, trong tư cách là Đại chưởng ấn của hai cơ sở giáo dục Công Giáo nói trên, đã trao hai Văn bằng tiến sĩ danh dự và nói đề lòng gắn bó đặc biệt của Đức nguyên Giáo Hoàng với Cracovia. ĐHY nói: ”Chúng con không quên những lời ngài đã nói ngày 28-5-2006 khi viếng Cracovia: ”Cracovia của Đức Karol Wojtila và Cracovia của Đức Gioan Phaolô 2, cũng là Cracovia của tôi”.

Trong diễn từ tại buổi nhận Văn bằng, Đức Biển Đức 16 cho biết qua cử chỉ này, liên hệ của ngài với Ba Lan, với Cracovia càng sâu đậm hơn, liên hệ với quê hương của vị đại thánh của chúng ta Gioan Phaolô 2. Vì không có người, thì hành trình linh đạo và thần học của tôi cũng không thể tưởng tượng được. Qua tấm gương sinh động, Ngài cũng chỉ cho chúng ta thấy làm sao có thể đi song song giữa niềm vui của thánh nhạc và nghĩa vụ chung phải tham gia phụng vụ thánh, niềm vui long trọng và sự đơn sơ của sự cử hành đức tin”.

Đức nguyên Giáo Hoàng cũng nói đến sự kiện do sự hiểu sai Công đồng chung Vatican 2, nhiều người đã làm mất kho tàng thánh nhạc long trọng trong phụng vụ. Trong Hiến chế về phụng vụ, đoạn số 114, Công đồng dạy rằng ”cần hết sức bảo tồn và tăng cường gia sản thánh nhạc”. Phong trào phụng vụ sau đó cho rằng các tác phẩm lớn về thánh nhạc chỉ nên dành cho các phòng hòa nhạc chứ không nên dùng trong phụng vụ. Trong phụng vụ chỉ nên có những thánh ca và kinh nguyện thường của giáo dân. Từ đó người ta nhận thấy có sự nghèo nàn văn hóa trong Giáo Hội. (SD 4-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa

Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế ? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…

Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.

Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.

Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Đừng để lỡ cơ hội

Đừng để lỡ cơ hội

Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.

Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.

Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.

Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.

Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?

3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đánh giá theo lý lịch

Đánh giá theo lý lịch

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.

Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.

Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.

Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.

Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.

Bụt nhà không thiêng

Bụt nhà không thiêng

Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:

– Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.

Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?

Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.

Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.

Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

“Tu đâu cho bằng tu nhà –

Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.

Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.

Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.

Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.

Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.

Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.

Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa…, vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Sứ điệp Tòa Thánh nhân Ngày Thế giới về du lịch

Sứ điệp Tòa Thánh nhân Ngày Thế giới về du lịch

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động kêu gọi tận dụng rất nhiều cơ hội do ngành du lịch mang lại để thăng tiến cuộc sống con người.

Trên đây là nội dung sứ điệp do Hội đồng công bố ngày 2-7-2015, nhân Ngày Thế giới về du lịch sẽ được cử hành vào ngày 27-9 tới đây với chủ đề ”Một tỷ du khách, một tỷ cơ hội”.

Trong sứ điệp, ĐHY Chủ tịch Antonio Maria Vegliò, và vị Tổng thư ký là Đức Cha Joseph Kalathiparampil người Ấn độ, liệt kê bao nhiêu cơ hội mà ngành du lịch mang lại cho cuộc sống con người và nhận xét rằng: hồi năm 2012, đã có một tỷ du khách quốc tế và con số này tiếp tục gia tăng, dự kiến vào năm 2030 tới đây, sẽ lên tới 2 tỷ người, đó là không kể số du khách trong ngành du lịch ở địa phương.

Ngày thế giới về du lịch là dịp để chúng ta quan tâm đến những cơ hội và thách đố do các con số thống kê ấy gợi lên. Những thách đố ấy có liên hệ đến các du khích, các xí nghiệp, chính quyền, các cộng đồng địa phương và cả Giáo Hội nữa.

Trong số những cơ may mà sự gia tăng ngành du lịch mang lại, Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh nói đến cơ may cho sự tiến bộ, nhất là đối với các nước đang trên đường phát triển. Gia tăng du lích, đặc biệt là với những hình thức trách nhiệm nhất, sẽ giúp tiến về tương lai, vững mạnh về đặc tích, lịch sử và văn hóa của mình. Sự gia tăng lợi tức và thang tiến gia sản đặc thù giúp thức tỉnh niềm hãnh diện và tự tín củng cố phẩm giá của cộng đoàn tiếp đón..

Đối với Giáo Hội, ngành du lịch gia tăng cũng có nghĩa là gia tăng những cơ hội cho sứ mạng truyền giảng Tin Mừng, và là dịp để giáo dục các tín hữu về cách sống thời gian rảnh rỗi.

Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân nhấn mạnh rằng ”Giáo Hội và các tổ chức phải luôn cảnh giác để tránh cho một tỷ cơ hội trở thành một tỷ những rủi ro nguy hiểm, bằng cách cộng tác trong việc bảo tồn phẩm giá con người, các quyền của người lao động, căn tính văn hóa, tôn trọng môi trường.. Giữa ngành du lịch và môi trường có một sự lệ thuộc sâu xa với nhau. Lãnh vực du lịch tận dụng những phong phú thiên nhiên và văn hóa, có thể tăng tiến sự bảo trì, hoặc trái lại có thể gây ra sự phá hủy. Trong tương quan ấy, Thông điệp Laudato sì của ĐTC Phanxicô là một người đồng hành tốt” (SD 2-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh lo âu về tình hình Hy Lạp

Tòa Thánh lo âu về tình hình Hy Lạp

VATICAN. Tòa Thánh lo âu về tình hình Hy Lạp và ĐTC bày tỏ sự gần gũi với nhân dân nước này.

Hôm 1-7-2015, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cha Lombardi, ra thông cáo nói rằng: ”Những tin tức đến từ Hy Lạp gây lo âu về tình trạng kinh tế và xã hội của nước này. ĐTC muốn bày tỏ sự gần gũi của ngài với toàn dân Hy Lạp, ngài đặc biệt nghĩ đến bao nhiêu gia đình bị thử thách nặng về vì cuộc khủng hoảng về nhân sự và xã hội, rất phức tạp và khó khăn.”

“Phẩm giá con người phải được đặt ở vị trí trung tâm của mọi cuộc thảo luận về chính trị và kỹ thuật chuyên môn, cũng như trong việc quyết định những chọn lựa trách nhiệm.”

”ĐTC Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu hiệp với ngài cầu nguyện cho thiện ích của nhân dân Hy Lạp quí mến”.

 Hy Lạp đang ở bên bờ vực thẳm vì phá sản, không còn khả năng trả các món nợ 1 tỷ 500 triệu Euro đã vay mượn của quốc tế và 12 giờ đêm ngày 1-7 là hạn chót phải trả cho Quỹ tiền tệ quốc tế. Sự trợ giúp của Liên hiệp Âu châu dành cho Hy lạp cũng kết thúc, khiến cho nước này không còn được 16 tỷ Euro viện trợ.

Chính phủ Hy Lạp tuyên bố tổ chức cuộc trưng cầu dân ý vào chúa nhật 5-7 tới đây về việc có chấp nhận kế hoạch do các chủ nợ đề nghị hay không. (SD 1-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Cuba và Hoa Kỳ

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Cuba và Hoa Kỳ

Love our mission Pope visit Cuba and America

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ dành 9 ngày trọn để viếng thăm Cuba và Hoa kỳ vào hạ tuần tháng 9 tới đây.

– Theo chương trình do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 30-6-2015, ĐTC sẽ rời Roma lúc 10 giờ 15 phút sáng thứ bẩy, 19-9, và đến phi trường thủ đô La Habana của Cuba vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày.

Sáng chúa nhật hôm sau, 20-9, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô Cuba. Ban chiều lúc 4 giờ ngài sẽ đến viếng thăm Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước cùng với Hội đồng Bộ trưởng tại Dinh Cách Mạng.

Ban chiều cùng ngày lúc 5 giờ 15, ngài sẽ hát kinh chiều với các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà Thờ Chính tòa La Habana. 1 giờ 15 phút sau đó, ngài sẽ gặp gỡ và chào thăm giới trẻ tại Trung tâm Văn hóa LM Felix Varela.

Sáng thứ hai, 21-9, ĐTC sẽ đến thăm giáo phận Holguín ở mạn đông Cuba cách thủ đô La Habana hơn 1 giờ bay. Tại đây vào lúc 10 giờ rưỡi ngài sẽ cử hành thánh lễ ở Quảng trường Cách Mạng. Ban chiều lúc 3 giờ 45, ngài chúc lành cho thành Holguin từ Đồi Thánh Giá (Loma de la Cruz), rồi đáp máy bay đến thành phố Santiago ở mạn cực nam Cuba. Tại đây vào lúc 7 giờ tối ĐTC gặp gỡ các GM Cuba tại đại chủng viện thánh Basil Cả, rồi cùng với các vị cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba.

Sáng thứ ba, 22-9, vào lúc 8 giờ, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ tại Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Bác Ái, trước khi gặp gỡ các gia đình tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu của tổng giáo phận Santiago, rồi ra phi trường lúc quá 12 giờ trưa để bay sang Hoa Kỳ. Ngài sẽ đến căn cứ không quân Andrews ở thủ đô Washington vào lúc 4 giờ chiều và tại đây sẽ diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

– Lúc 9 giờ 15 sáng hôm sau, thứ tư 23-9, có nghi thức chào đón tại Tòa Nhà Trắng và ngài hội kiến với tổng thống Mỹ. Sau đó lúc 11 giờ rưỡi, ĐTC sẽ gặp các GM Mỹ tại Nhà thờ chính tòa Washington.

Ban chiều cùng ngày vào lúc 4 giờ 15, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tai Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng tại thủ đô để tôn phong chân phước Junipero Serra lên bậc hiển thánh.

Sáng thứ năm 24-9 vào lúc 9 giờ 20, ĐTC sẽ viếng thăm và đọc diễn văn tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ, rồi thăm Trung tâm bác ái của giáo xứ thánh Patrick cũng ở Washington vào lúc 11 giờ 15 và gặp gỡ những người không có gia cư.

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 24-9, đTC sẽ đáp máy bay đi New York và đến phi trường Kennedy 1 giờ sau đó. Lúc 6 giờ 45, ĐTC sẽ hát kinh chiều với hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ tại Nhà thờ chính tòa thánh Patrick của giáo phận New York.

Sáng thứ sáu, 25-9, vào lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC sẽ viếng thăm và đọc diễn văn tại Trụ sở LHQ cũng ở New York, rồi dự cuộc gặp gỡ liên tôn lúc 11 giờ rưỡi tại nơi tưởng niệm các nạn nhân vụ khủng bố tháp song đôi, gọi là Ground Zero ở New York.

Sau đó lúc 4 giờ chiều, ĐTC sẽ viếng thăm trường ”Đức Mẹ các thiên thần” và gặp các trẻ em, các gia đình di dân ở khu phố nghèo Harlem. Sau đó lúc 6 giờ, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Công viên Madison Square ở New York.

Sáng thứ bẩy 26-9, lúc 8 giờ 40, ĐTC sẽ đáp máy bay đi Philadelphia nơi diễn ra Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới.

Tại nhà thờ chính tòa thánh Phêrô và Phaolô của giáo phận Philadelphia vào lúc 10 giờ rưỡi, ngài sẽ cử hành thánh lễ với các GM, giáo sĩ trước sự tham dự của các tu sĩ nam nữ.

Ban chiều vào lúc 4 giờ 45, ĐTC sẽ có cuộc gặp gỡ về tự do tôn giáo với cộng đoàn người nói tiếng Tây Ban Nha, và những người nhập cư tại Công viên Independence Mall, sau đó ngài chủ sự lễ hội gia đình vào lúc 7 giờ rưỡi tối tại khu vực đại lộ Benjamin Franklin Parkway cũng ở Philadelphia.

Sáng chúa nhật 27-9 là ngày chót trong chuyến viếng thăm 9 ngày, tại Đại chủng viện thánh Carlo Borromeom, ĐTC sẽ gặp gỡ các GM khách đến dự Đại Hội các gia đình, rồi viếng thăm các tù nhân vào lúc 11 giờ tại Trung tâm cải huấn Curran-Fromhold ở Philadelphia.

Sau đó vào ban chiều, lúc 4 giờ, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ bế mạc Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới, cũng tại khu Đại lộ B. Franklin.

Sau cùng lúc 7 giờ chiều, ngài chào thăm và cám ơn ban tổ chức cũng như những người thiện nguyện, rồi đáp máy bay trở về Roma, dự kiến sẽ tới phi trường Ciampino vào lúc 10 giờ sáng thứ hai 28-9. (SD 30-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp Hội nghị quốc tế Kitô và Do thái

Đức Thánh Cha tiếp Hội nghị quốc tế Kitô và Do thái

ĐTC tiếp hội nghị công giáo Do Thái

VATICAN. ĐTC Phanxicô cổ võ gia tăng cộng tác giữa các tín hữu Kitô và Do thái trong tinh thần tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng chung Vatican 2.

 

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-6-2015, dành cho hơn 250 tham dự viên Hội nghị quốc tế do Hội đồng quốc tế các tín hữu Kitô và Do thái tổ chức.

 

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc lại sự kiện một cuộc đối thoại huynh đệ đích thực đã được khai triển từ Công đồng chung Vatican 2 sau khi công bố tuyên ngôn ”Nostra Aetate”. Ngài nói: Văn ”kiện này là một sự nhìn nhận chung kết của Công Giáo đối với các căn cội Do thái giáo của Kitô giáo, và là một sự phủ nhận không thể hồi lại chống trào lưu bài Do thái. Khi mừng kỷ niệm 50 năm tuyên ngôn Nostra Aetate cũng ta có thể thấy những thành quả phong phú do cuộc đối thoại giữa Do thái và Công Giáo mang lại”.

 

ĐTC cũng nhắc đến những điểm chung giữa Kitô giáo và Do thái giáo, nhất là sự tuyên xưng cùng một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và là chủ tể của lịch sử. Ngài cũng nói đến sự thành lập Hội đồng quốc tế các tín hữu Kitô và Do thái, một tổ chức qui tụ các nhóm đối thoại giữa Kitô và Do thái tại 38 nước trên thế giới, theo tinh thần của 10 luận đề được soạn hồi năm 1047 tại Seelisberg bên Thụy Sĩ. Hồi năm 1974, Ủy ban Tòa Thánh đặc trách quan hệ tôn giáo với Do thái giáo đã được thành lập và qua Ủy ban này Tòa Thánh luôn quan tâm theo dỗi các hoạt động của các tổ chức cũng như các Hội nghị quốc tế đối thoại giữa hai tôn giáo. (SD 30-6-2015)

 

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiễn Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đi hè

Đức Thánh Cha tiễn Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đi hè

ĐTC Phanxicô tiễn Nguyên Giáo Hoàng Benedict 16 đi nghỉ hè

VATICAN. Lúc 10 giờ sáng 30-6-2015, ĐTC Phanxicô đã đến cựu Đan viện Mẹ Giáo Hội, nay là nhà của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 ở Nội thành Vatican để chào thăm và cầu chúc Người đi nghỉ hè tốt đẹp tại Castel Gandolfo.

 Hai vị đã nói chuyện với nhau khoảng nửa tiếng đồng hồ và sau đó, Đức Biển Đức 16 đã lên đường đi dinh thự mùa hè ở Castel Gandolfo cách Roma 30 cây số và sẽ lưu lại đây khoảng 2 tuần lễ, cho đến ngày 14-7.

 Thứ bẩy 4-7 tới đây, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 sẽ được trao tặng 2 văn bằng tiến sĩ danh dự từ Ba Lan.

 Bằng thứ I của Học Viện thánh nhạc và bằng thứ II của Đại học Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 ở thành phố Cracovia bên Ba Lan. ĐHY Stanislaw Dziwisz TGM Cracovia, trong tư cách là Đại chưởng ấn của hai cơ sở giáo dục Công Giáo nói trên, sẽ trao hai Văn bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Biển Đức 16 trong buổi lễ tại Castel Gandolfo.

 Từ lâu Đức Biển Đức 16 cho biết ngài không nhận các văn bằng danh dự do các đại học trao tặng, nhưng ngài chấp nhận thi hành luật trừ trong trường hợp này vì mối liên hệ đặc biệt với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2.

 Thông cáo về tiếp kiến của ĐTC

 Mặt khác, Phủ Giáo Hoàng thông báo: các buổi tiếp kiến chung hằng tuần vào ngày thứ 4 của ĐTC bị ngưng lại trong trọn tháng 7 và sẽ được mở lại vào tháng 8 tới đây tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican.

 Ngoài ra, ngoại trừ buổi tiếp kiến chiều ngày 3-7-2015 tới dây tại Quảng trường Thánh Phêrô, dành cho Phong trào Canh tân trong Thánh Linh, tất cả các buổi tiếp kiến khác của ĐTC đều bị tạm ngưng trong tháng 7. ĐTC vẫn duy trì buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa ngày chúa nhật.

 Thánh lễ riêng ban sáng của ĐTC dành cho các nhóm tín hữu tại nguyện đường Nhà trọ thánh Marta cũng bị ngưng trong tháng 7 và tháng 8. Thánh lễ này chỉ được mở lại vào tháng 9 (SD 30-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha làm phép Pallium cho 46 Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha làm phép Pallium cho 46 Tổng Giám Mục chính tòa

ĐTC trong buổi lễ phát dây Pallium cho 46 giám mục chính tòa

VATICAN. Sáng ngày 29-6-2015, lễ thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để làm phép dây Pallium cho 46 vị TGM chính tòa được bổ nhiệm trong 12 tháng qua.

Giây Pallium màu trắng, có 6 hình thánh giá màu đen, vị TGM đứng đầu giáo tỉnh đeo ở cổ khi hành lễ, biểu hiệu tình hiệp thông với ĐTC, và phẩm giá của vị TGM chính tòa. Dây làm bằng lông chiên tượng trưng vị mục tử vác chiên lên vai.

Như thông báo ngày 12-1 năm 2015 của Đức Ông Guido Marini, trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC, từ nay ngài không choàng dây này cho vị TGM trong thánh lễ, nhưng lễ trao giây Pallium sẽ được cử hành tại giáo phận địa phương do vị đại diện Tòa Thánh chủ sự, và với sự tham dự của các GM trong giáo tỉnh và các tín hữu.

Trong số 46 vị TGM chính tòa thuộc 34 quốc gia nhận dây Pallium có 6 vị từ Á châu, trong số này có 2 vị người Ấn độ, và 4 vị còn lại đến từ Nhật bản, Indonesia, Malaysia và Philippines. Từ Hoa Kỳ có hai vị TGM giáo phận Chicago và Sante Fe bang New Mexico.

 Đầu thánh lễ, 4 thầy Phó tế mang các dây Pallium từ mộ thánh Phêrô lên bàn thờ, rồi ĐHY trưởng đẳng Phó tế Renato Martino xướng danh 46 vị TGM chính tòa, trước khi các vị cùng tuyên xưng đức tin. Rồi ĐTC đọc lời nguyện làm phép các dây Pallium.

Trong số 9 ngàn người hiện diện trong thánh lễ sáng 29-6-2015, đặc biệt có phái đoàn 3 vị thuộc Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople ở vị trí danh dự trước bàn thờ chính do Đức TGM Ioannis Zizioulas Adamakis làm trưởng đoàn.

Đồng tế với ĐTC, ngoài 46 vị TGM Chính tòa, còn có 40 HY, 50 GM và 400 Linh mục. Phần thánh ca, ngoài Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh và Ca đoàn ”Mẹ Giáo Hội” còn có ca đoàn Tân Đại Học Oxford của Anh giáo gồm 30 ca viên đảm trách.

 Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi diễn giải các bài đọc của ngày lễ và rút ra những bài học về lòng can đảm của các Tông đồ và cộng đồng Kitô tiên khởi đương đầu với những bách hại, sự chuyên chăm cầu nguyện, xác tín về sự gần gũi và nâng đỡ của Chúa trước những nghịch cảnh khó khăn, dấn thân làm chứng tá cho đến độ sẵn sàng đổ máu, ĐTC nhắc nhở các vị TGM chính tòa về ý nghĩa dây Pallium mà các vị lãnh nhận: đó là hình ảnh con chiên mà vị mục tử vác trên vai như Chúa Kitô, vị Mục Tử nhân lành đã làm, đó là biểu hiệu sự hiệp thông giữa Tòa Thánh Phêrô, và người Kế Nhiệm với các vị TGM chính tòa, và qua các vị với các GM khác trên thế giới. Và ĐTC nói rằng:

”Ngày hôm nay, với dây Pallium, tôi muốn ủy thác cho anh em lời kêu gọi cầu nguyện, tin tưởng và làm chứng tá”:

– ”Giáo Hội muốn anh em là những người cầu nguyện, thầy dậy về sự cầu nguyện; dạy cho dân được Chúa ủy thác cho anh em rằng sự giải thoát khỏi mọi tù ngục chỉ là công trình của Thiên Chúa và là kết quả của việc cầu nguyện, Thiên Chúa trong lúc thuận tiện gửi sứ thần của Ngài đến cứu chúng ta khỏi bao nhiêu sự nô lệ và vô số những xiềng xích trần tục. Cả anh em cũng hãy trở thành những thiên thần và sứ giả bác ái đối với những người túng quẫn nhất”.

– Giáo Hội muốn anh em là những con người của đức tin, thầy dậy đức tin: dạy cho các tín hữu đừng sợ bao thiêu thứ Hêrôđê đang bách hại, với những thập giá đủ loại. Không Hêrôđê nào có thể dập tắt ánh sáng hy vọng, tin yêu của người tin nơi Chúa Kitô”.

– Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các vị TGM chính tòa hãy trở thành những người làm chứng tá. ”Thánh Phanxicô đã nói với các tu sĩ của mình: Hãy luôn giảng Tin Mừng, và nếu cần anh em cũng hãy giảng bằng lời nói nữa! (Xc Fonti Francescane, 43). Không có chứng tá nếu không có cuộc sống hợp với niềm tin và lời dạy! Ngày nay không cần các thầy dạy cho bằng cần những chứng nhân can đảm, xác tín và sống thực điều mình tin và dạy; cần những chứng nhân không hổ thẹn vì danh Chúa Kitô và thập giá của Chúa, hoặc đứng trước những sư tử gầm vang, hay trước những quyền lực của trần thế này”..

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh em hãy dạy cầu nguyện bằng cách cầu nguyện; hãy loan báo niềm tin bằng cách tin tưởng; hãy làm chứng tá bằng cách sống thực!”

Sau thánh lễ, ĐTC đã trao các dây Pallium cho các vị TGM chính tòa.

Đến 12 giờ trưa, ngài đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài gợi lại ý nghĩa của ngày lễ và mời gọi các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho thành Roma nhân lễ bổn mạng, để dân thành này được an sinh tinh thần và vật chất, xin ơn thánh Chúa nâng đỡ toàn dân Roma để họ sống trọn vẹn đức tin Kitô, can đảm làm chứng tá với lòng nhiệt thành kiên cường của thánh Phêrô và Phaolô” (SD 29-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio