Đức Thánh Cha đi Cuba gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga

Đức Thánh Cha đi Cuba gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga

Đức Thánh Cha đi Cuba gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga

VATICAN. Sáng ngày 12-2-2016, ĐTC Phanxicô đã rời Roma, lên đường thực hiện chuyến tông du thứ 12 ở nước ngoài, trong vòng 1 tuần lễ, với chặng dừng đầu tiên tại La Habana, thủ đô Cuba.

Ngài dừng lại đây hơn 3 tiếng đồng hồ để gặp gỡ lần đầu tiên trong lịch sử với Đức Thượng Phụ Kirill I, Giáo chủ Chính Thống Nga. Sau cuộc gặp gỡ, ĐTC quá 5 giờ chiều giờ địa phương, ngài tiếp tục hành trình đến Mêhicô để viếng thăm tại 6 thành phố ở nước này.

Cùng tháp tùng ĐTC trên máy bay Airbus A330 của hãng Alitalia, ngoài 30 vị thuộc đoàn tùy tùng, đứng đầu là ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin, và 76 ký giả Italia và quốc tế.

Lẽ ra máy bay chở ĐTC có thể cất cánh lúc 8 giờ, nhưng đến gần phi đạo, máy bay chở ĐTC đã dừng lại để máy bay của hãng Easyjet đáp xuống khẩn cấp..

Chào thăm các ký giả tháp tùng

Trên máy bay, ĐTC đã chào thăm các ký giả tháp tùng, trong đó có 10 ký giả Mêhicô, phần còn lại thuộc các nước khác. Con số này không kể 3,500 ký giả đăng ký tại Phòng báo chí của Ban tổ chức cuộc viếng thăm của ĐTC tại Mexico.

ĐTC đặc biệt cám ơn Ông Alberto Gasbarri, giám đốc hành chánh của đài Vatican và là người tổ chức các chuyến viếng thăm của ngài tại nước ngoài. Từ 47 năm nay ông làm việc tại Vatican và ngày 1-3-2016 này ông về hưu. Đức Ông Mauricio Rueda, người Colombia, thuộc bộ ngoại giao Tòa Thánh, thay thế ông Gasbarri trong việc tổ chức các chuyến viếng thăm của ĐTC tại hải ngoại.

Tiếp đến, bà Valentina, người Mêhicô, niên trưởng các ký giả tháp tùng ĐTC, đã tặng ngài chiếc mũ vành rộng của Mêhicô, để ngài không bị nắng và giống người Mêhicô hơn!

Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga

Đức Thượng Phụ Kirill đã đến Cuba một ngày trước ĐTC trong chuyến viếng thăm dài 11 ngày tại Cuba, rồi Paraguay và Brazil, cho đến ngày 22-2 tới đây. Tháp tùng Đức Thượng Phụ cũng có 30 người thuộc đoàn tùy tùng, 30 ký giả, và một ca đoàn gồm 20 ca viên thuộc một giáo phận Chính Thống ở Mascơva. Ngài đến thăm Cuba theo lời mời của chủ tịch Raoul Castro nhân dịp kỷ niệm 45 năm khánh thành nhà thờ Chính Thống Nga đầu tiên tại La Habana. Tại đây có khoảng 15 ngàn tín hữu Chính Thống Nga.

Đức Thượng Phụ Kirill năm nay 70 tuổi, sinh ngày 20-11 năm 1946 tại thành phố Leningrad, nay là Petroburgo, trong một gia đình thân phụ là một linh mục Chính Thống giáo và thụ phong linh mục năm 1969 lúc mới 23 tuổi, rồi làm GM lúc 30 tuổi, trước khi được thăng TGM năm sau đó. Năm 1984, ngài được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga và là thành viên thường trực thánh Hội đồng, tức là cơ quan cai quản Giáo Hội này. Năm 2009, ngài được bầu làm Thượng Phụ Chính Thống Moscow và toàn nước Nga thứ 16, với số phiếu rất lớn.

Tòa Thượng Phụ Chính Thống Moscow đứng hàng thứ 5 trong số 14 Giáo Hội Chính Thống, xét về niên thứ được nâng lên hàng Thượng Phụ, sau Constantinople ở Thổ Nhĩ kỳ, Alessandria bên Ai Cập, Antiokia nay thuộc lãnh thổ Thổ Nhĩ kỳ và Jerusalem, nhưng xét về số tín hữu, thì đây là Giáo Hội Chính Thống quan trọng nhất, vì trong số hơn 200 triệu tín hữu Chính Thống trên thế giới, có tới 2 phần 3 thuộc Chính Thống Nga.

Chương trình gặp gỡ

Theo chương trình, sau chuyến bay dài 12 giờ 15 phút, từ phi trường Fiumicino, máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng đáp xuống phi trường José Martí của thủ đô La Habana, Cuba, lúc 14 giờ giờ địa phương.

Ngài được chủ tịch Raoul Castro của Cuba tiếp đón cùng với ĐHY Jaime Ortega, TGM La Habana sở tại, một vài GM nước này và các chức sắc thuộc Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô đón tiếp. Liền đó, Chủ tịch Raoul Castro hướng dẫn ĐTC vào phòng khách của Ông, để rồi từ đây tiến vòng phòng khánh tiến của phi trường, cùng lúc Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Nga tiến vào phòng này từ một cửa khác.

Tại đây hai vị giáo chủ nói chuyện với nhau, Đức Thượng Phụ dùng tiếng Nga còn ĐTC dùng tiếng Tây Ban Nha, có thông dịch viên giúp hai vị trao đổi với nhau. Hiện diện trong dịp này có ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, và Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga.

Theo Cha Lombardi và Đức TGM Hilarion, chủ đề chính cuộc hội kiến là những cuộc bách hại các tín hữu Kitô tại Trung Đông và nhiều nơi khác trên thế giới. Cả ĐTC lẫn Đức Thượng Phụ Kirill nhiều lần lên tiếng tố giác các cuộc bách hại Kitô hữu tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Trung Đông trong thời gian gần đây.

Tiếp sau cuộc hội kiến là phần trao đổi quà tặng. Rồi chủ tịch Raoul Castro tiến vào phòng khánh tiết vào lúc 4 giờ rưỡi chiều. ĐTC và Đức Thượng Phụ ký vào một tuyên ngôn chung với hai bản bằng tiếng Nga và Italia, trước khai trao đổi hai văn bản.

Sau khi ký kết và trao đổi, có một diễn văn ngắn của ĐTC bằng tiếng Tây Ban Nha và của Đức Thượng Phụ bằng tiếng Nga, rồi có phần giới thiệu các thành phần của hai phái đoàn.

Lúc 5 giờ chiều, ĐTC giã từ Đức Thượng Phụ Kirill và được Chủ Tịch Raoul của Cuba tháp tùng đến máy bay của hãng Alitalia. Lúc 5 giờ rưỡi chiều máy bay cất cánh chở ĐTC đến phi trường thủ đô Mexico để khởi sự cuộc viếng thăm như chương trình đã định.

Theo chương trình, sau 3 giờ bay, vượt qua 1,780 cây số, máy bay chở ĐTC đáp xuống phi trường thủ đô Mexico lúc 7 giờ rưỡi chiều giờ địa phương. Tại đây sau nghi thức đón tiếp ngài sẽ về tòa Sứ Thần ở thành phố Mexico cách phi trường 19 cây số để dùng bữa và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô

Ngày thứ ba chuyến viếng thăm mục vụ Cuba của ĐTC Phanxicô

ĐTC giảng trong Đền Thánh Đức Mẹ Đồng

Tường thuật ngày thứ ba ĐTC Phanxicô viếng thăm Cuba

22 tháng 9  là ngày thứ 3 và cũng là ngày chót ĐTC viếng thăm Cuba.  Tại Santiago de Cuba ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: đó là chủ sự thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng lúc 8 giờ sáng, và gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà Santiago lúc 11 giờ, trưóc khi ra phi trường quốc tế Antonio Maceo từ giã Cuba và đáp máy bay sang Washington, bắt đầu chuyến viếng thăm Hoa Kỳ.

Sau đây xin kính mời quý vị cùng chúng tôi trở lại với các sinh họat của ĐTC chiều thứ hai 21 tháng 9 và sáng thứ ba 22 tháng 9.

Lúc ba giờ rưỡi chiều thứ hai 21 tháng 9 ĐTC   đã rời toà giám mục Holguín để đến đồi Thánh Giá Loma de la Cruz cách đó 6 cây số. Loma de la Cruz là ngọn đồi nhỏ cao 261 mét, nằm ở mạn bắc thành phố Holguín, và gắn liền với lịch sử xã hội và văn hóa của thành phố này. Cây thánh giá đầu tiên đã do tu sĩ Antonio de Alegría, bề trên tu viện dòng Phanxicô  Holguín, dựng trên đồi vào năm 1790. Cây thánh giá hiện nay thuộc thập niên 1990 thay cho cây thánh giá cũ bị sét đánh hư hại. Tín hữu có thể leo lên đồi theo cầu thang có 458 bậc, hay theo một đường vòng rất đẹp nhìn xuống quang cảnh thành phố. Trên đỉnh đồi cũng có một tháp canh của quân đội gọi là “Torre di Numancia” xây trong cuộc chiến hồi năm 1868-1878. Đồi thánh giá là nơi hành hương nổi tiếng của thành phố, và hàng năm có “lễ hội tháng Năm”. Trên đồi thánh giá du khách có thể nhìn thấy hết nước đảo Cuba.

Từ Holguín đến Santiago de Cuba

ĐTC đã dừng lại cầu nguyện dưới chân Thánh Giá, và ban phép lành cho toàn thành phố Holguín. Tiếp đến ngài đã ra phi trường để lấy máy bay đến Santiago de Cuba, cách đó 150 cây số. Chiếc máy bay A 330 của hãng hàng không Alitalia chở ĐTC và đoàn tuỳ tùng đã tới Santiago de Cuba sau 50 phút bay.

Thành phố Santiago de Cuba nằm trong một cảng thiên nhiên rất lớn trên bờ biển đông nam của đảo Cuba, và là thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400,000 dân cư, tranh đua với thủ đô La Habana về phương diện văn học, âm nhạc và chính trị. Thành phố này đã do ông Diego Velazquez thành lập năm 1514, và đã là thủ đô của Cuba từ năm 1515 dến 1607. Santiago có một lịch sử văn hóa đã bắt đầu từ khi xây nhà thờ chính toà Đức Mẹ hồn xác lên trời năm 1520 và việc thành lập ca đoàn nhà thờ, do nhạc sĩ Estéban Salas điều khiển. Ông đã sáng tác rất nhiểu thánh ca cho ca đoàn, đặc biệt là các thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng, từng là các thánh ca hay nhất thời đó.

Trong số các xây cất nổi tiếng có lâu đài El Morro, nằm trong danh sách gia tài văn hóa nhân loại của UNESCO, ngôi nhà của ông Parque Céspendes thời thuộc địa ở trung tâm thành phố, và vương cung thánh đường Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng. Ngoài ra trong thành phố còn có nhiều nhà thờ khác, trong đó có nhà thờ Đức Bà Camêlô, nhà thờ thánh Phanxicô và nhà thờ thánh Tôma, cả ba đều  thuộc thế kỷ XVIII. Santiago cũng là quê hương của điệu vũ “Son” là cha đẻ của điệu vũ “Salsa”  và của rượu Rum nổi tiếng gọi là “Ron”. Thành phố Santiago cũng đang chuẩn bị các lễ mừng 500 năm thành lập.

Tổng giáo phận Santiago de Cuba được thành lập năm 1522, trở thánh giáo tỉnh năm 1803, rộng hơn 6,150 cây số vuông, có 1 triệu 50 ngàn dân trong đó có hơn 254,000 tín hữu công giáo, gồm 16 giáo xứ, 22 nhà thờ và cứ điểm truyền giáo. Nhân lực gồm 16 linh mục giáo phận, 13 linh mục dòng, 21 tu huynh, 34 nữ tu, 4 đại chủng sinh, và 2 phó tế vĩnh viễn. ĐTGM Santiago de Cuba là ĐC Dionisio Guillermo Garcia Ibánhez.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐTGM Santiago de Cuba, vài giới chức địa phương và mấy trăm giáo dân cùng  một ca đoàn thiếu nhi.

Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Chủng viện thánh Basilio Cả, cách đó 30 cây số. Chủng viện này được xây năm 1722, và là một trong các cơ cấu cổ xưa nhất trên toàn đảo Cuba. Tên đại chủng viện do ĐC Jerónimo Valdes Nosti GM Santiago, đặt cho, vì ngài thuộc dòng thánh Basilio Cả. Ban đầu chủng viện tiếp nhận đào tạo các chủng sinh và cả giáo dân. Nhưng với việc cải tổ của thánh Antonio Maria Claret, TGM Santiago giữa thế kỷ XIX, đại chủng viện chỉ được dành cho các chủng sinh. Năm 1908 khi từ Pháp tới đây đảm trách việc giáo dục, các tu huynh Lasan đã thành lập một trường từ tiểu học cho tới trung học. Các ứng sinh của các dòng tu khác nhau như Dòng Thừa sai, sư huynh Lasan và dòng Tên, cũng được đào tạo tại đây. ĐC Francisco de Paula Barnada Aguilar, cựu học sinh, giáo sư, rồi sau này là TGM Santiago de Cuba, đã tổ chức chủng viện cho có quy củ hơn. Năm 1961 chủng viện bị nhà nước Cuba quốc hữu hóa, và biến thành trường công. Năm 1997 trường tái hoạt động và cộng tác với đại học giáo hoàng công giáo Cộng hòa Dominicana.

Tại chủng viện ĐTC đã gặp gỡ riêng các Giám Mục Cuba. Tiếp đến ngài đã cùng các vị sang Vương cung thánh đường Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng cách đó 300 mét để kính viếng và cùng đọc kinh kính Đức Mẹ.

Viếng thăm và cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng

Đây cũng là Trung tâm thánh mẫu quốc gia Cuba. Đền thánh Đức Trinh Nữ Bác Ái Mỏ Đồng gắn liền với các biến cố xã hội chính trị của Cuba. Tất cả đã bắt đầu hồi năm 1606, khi ba người đánh cá là hai anh em Juan và Rodrigo de Hoyos, và một người nô lệ da đen là Juan Moreno, tìm ra một tượng Đức Mẹ nhỏ bằng gỗ nổi trên nước biển vịnh Bahia de Nipe, ở mạn đông bắc quần đảo Cuba với hàng chữ “Ta là Trinh Nữ Bác Ái”. Bức tượng Đức Mẹ được đem tới mỏ đồng El Cobre, và tại đây năm 1684 tín hữu xây đền thánh đầu tiên kính Đức Mẹ. Năm 1801 chính tại đền thánh này Tuyên ngôn tự do của các  nô lệ mỏ đồng đã được tuyên đọc. Cha Alejandro Escanio, tuyên uý đền thánh, đã là người có công dấn thân tranh đấu cho sự tự do và quyền của người nô lệ. Năm 1868 ông Carlos Manuel de Céspendes, người tranh đấu cho việc huỷ bỏ chế độ nô lệ và cho nền độc lập của Cuba, đã đến hành hương đền thánh  và câu nguyện cho sự tự do của Cuba trước tượng Đức  Mẹ. Ngày 12 tháng 7 năm 1898 một thánh lễ tạ ơn cho việc giải phóng đảo Cuba đã được cử hành tại Đền Thánh, trước sự hiện diện của các sĩ quan của đoàn Quân Giải Phóng.

 

Trưóc lòng sùng mộ gia tăng của người dân Cuba đối với Đức Mẹ, cũng như lời xin của các cựu chiến binh Chiến tranh giành độc lập, do ông Jesus Rahí dẫn đầu, ngày 16 tháng 5 năm 1916 ĐGH Biển Đức XV đã tuyên bố Trinh Nữ Bác Ái Mổ Đồng là Bổn Mạng dân nước Cuba. Ngày mùng 8 tháng 9 năm 1927 đền thánh hiện nay được khánh thành. Ngày 20 tháng 12 năm 1936 ĐC Valentín Zubizarreta, TGM Santiago de Cuba, đã chủ sự lễ đội triều thiên cho Đức Mẹ.  Năm 1952 tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đã thánh du toàn nưóc Cuba như dấu chỉ của đức tin và niềm hy vọng. Năm 1959 Đại hội công giáo toàn quốc Cuba đã được khai mạc tại đền thánh dưới sự chở che hiền mẫu của Mẹ. Sau cùng ngày 30 tháng 12 năm 1977, ĐGH Phaolô VI ban tước Tiểu vương cung thánh đường cho đền thánh, qua vị đặc sứ của ngài là ĐHY Bernardin Gantin. Trong chuyến công du Cuba hồi năm 1998, Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đội triều thiên cho Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng. Tiếp đến tín hữu đã hát quốc ca trong khi huy hiệu và quốc kỳ Cuba đã được đặt dưới chân Đức Mẹ, như dấu chỉ lòng sùng mộ của người dân Cuba đối với Đức Mẹ.

ĐTC đã đọc lời nguyện sau đây trước khi ban phép lành cho toàn thành phố:

“Lạy Chúa Cha toàn năng, trước Chúa mọi gối trên trời và dưới đất đều phải quỳ xuống, chúng con khiêm tốn xin Chúa khấng nhìn các con cái Chúa trên trần gian này đang khẩn nài phưóc lành của Chúa.”

Tiếp đến ĐTC đã ban phép lành cho mọi người và kết thúc với lời nguyện sau đây: “Xin việc ngắm nhìn Thánh Giá được nâng cao trên đỉnh núi này, soi sáng cuộc sống của các gia đình, của các trẻ em và người trẻ, của những người đau yếu, và xin cho tất cả những ai đau khổ nhận được sự ủi an và đồng hành của Chúa, và cảm thấy được mời gọi bước theo Con Chúa, là đường duy nhất dẫn tới Chúa. Ước chi tình yêu của Chúa kéo đổ xuống trên mọi người sự trợ giúp của Chúa và gia tăng các ơn thiêng liêng của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa là Cha, vì Đức Giêsu Kitô Con Chúa, Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. Amen.”

ĐTC đã dâng quà kính Đức Mẹ là một bình hoa bằng bạc với các cọng bằng bạc và hoa bằng gốm, qua đó ĐTC muốn diễn tả cử chỉ mà mọi người dân Cuba thường làm: đó là dâng lên Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng một bó hoa. Rồi ngài về chủng viện để dùng bữa tối và nghỉ ngơi, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Cuba.

Noi gương Mẹ Maria thực hiện cuộc cách mạng của tình yêu thương, phục vụ, của lòng dịu hiền, thương xót, cảm thông và gặp gỡ

Sáng thứ ba 22 tháng 9, lúc 7 giờ rưỡi sáng ĐTC đã đi xe tới Đền Thánh để chủ sự thánh lễ kính Đức Trinh Nữ Mỏ Đồng cho tín hữu. Vì Tiểu vương cung thánh đường nhỏ nên hàng ngàn tín hữu đã phải theo dõi thánh lễ trên màn truyền hình ở bên ngoài đền thờ.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã khích lệ tín hữu Cuba noi gương Mẹ Maria, mau mắn lên đường phục vụ và sống cuộc cách mạng của tình yêu thương, lòng dịu hiền, thương xót và cảm thông, biết đồng hành với tha nhân trong tất cả mọi trạng huống cuộc đời, trong cuộc sống, trong nền văn hóa, trong xã hội. Mở đầu bài giảng ĐTC nói:

Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đặt để chúng ta trước năng động của Chúa, là năng động sinh ra mỗi lần Ngài viếng thăm chúng ta: Chúa làm cho chúng ta ra khỏi nhà. Đây là các hình ảnh mà chúng ta đã được mời gọi chiêm ngắm nhiều lần. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta  không để cho chúng ta yên thân, nhưng luôn luôn thúc đẩy chúng ta cử động. Khi Thiên Chúa viếng thăm chúng ta, Ngài luôn luôn kéo chúng ta ra khỏi nhà. Được thăm viếng để thăm viếng, được gặp gỡ để gặp gỡ, được yêu thương để thương yêu.

Ở đây chúng ta thấy Đức Maria, môn đệ đầu tiên. Một thiếu nữ khoảng 15-17 tuổi đã được Chúa viếng thăm trong một làng quê đất Palestina, và báo cho biết rằng sẽ trở thành mẹ của Đấng Cứu Thế. Thay vì nghĩ rằng mình là nhân vật quan trọng, và tất cả mọi người sẽ đến để trợ giúp và hầu hạ mình, thì mẹ ra khỏi nhà để đi phục vụ. Mẹ đi giúp bà chị họ Elidabét. Niềm vui nảy sinh từ việc biết rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, với người dân của chúng ta, thức tỉnh con tim, và khiến cho đôi chân chúng ta chuyển động, “kéo chúng ta ra ngoài”, đưa chúng ta tới chỗ chia sẻ niềm vui đã nhận lãnh như một việc phục vụ, như sự tận hiến trong tất cả mọi trạng huống “khó xử”, mà những người láng giềng hay bà con của chúng ta đang sống. Tin Mừng nói với chúng ta rằng Đức Maria vội vã ra đi, với bưóc đi chậm nhưng liên tục, các bưóc chân biết đi đâu; các bước chân không chạy để đến một cách quá nhanh, hay đi một cách qúa chậm chạp như không bao giờ tới nơi. Không náo động cũng không thiếp ngủ, Đức Maria vội vã ra đi để trợ giúp bà chị họ cao niên có thai. Đức Maria môn đệ đầu tiên, được thăm viếng đã ra đi viếng thăm. Và từ ngày đầu tiên ấy nó đã luôn luôn là đặc tính của Mẹ. Mẹ là người phụ nữ đã viếng thăm biết bao nhiêu người nam nữ, các trẻ em, và người già, người trẻ. Mẹ đã biết thăm viếng và đồng hành trong các tình trạng thê thảm của nhiều dân tộc chúng ta. Mẹ đã che chở cuộc chiến đấu của tất cả những người đã đau khổ để bảo vệ các quyền lợi của con cái họ. Và giờ đây Mẹ không ngừng đem đến cho chúng ta Lời sự sống, là Con của Mẹ, Chúa chúng ta.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Cả các vùng đất này cũng đã được sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ viếng thăm. Quê hương Cuba đã chào đời và lớn lên trong hơi ấm của lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Bác Ái. Mẹ đã trao ban cho linh hồn cuba một hình thái riêng và đặc biệt. Các Giám Mục của vùng đất này đã viết như thế – bằng cách dấy lên trong con tim của người dân Cuba các lý tưởng tốt đẹp nhất của tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với gia đình và quê hương.

Các người đồng hương của anh chị em cũng đã khẳng định điều này cách đây 100 năm khi họ thỉnh cầu ĐGH Biển Đức XV tuyên bố Đức Trinh Nữ Bác Áí là Bổn Mạng Cuba, và họ đã viết như sau: “Không có các tai ương nào, không có các thiếu thốn nào đã dập tắt đuợc đức tin và tình yêu mà người dân công giáo  của chúng con tuyên xưng nơi Đức Trinh Nữ này, trái lại, trong các biến cố lớn lao nhất của cuộc sống, khi cái chết hay nỗi tuyệt vọng gần kề, đã luôn luôn vọt lên ánh sáng đánh tan mọi hiểm nguy, như sương sa an ủi… Quan niệm về Đức Trinh Nữ được chúc phúc này, là người Cuba tuyệt vời… bởi vì các bà mẹ không thể quên được của chúng con đã yêu Mẹ như vậy, và các người vợ của chúng con chúc tụng Mẹ như thế.” Đề cập đến Đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng ĐTC nói:

Trong Đền thánh này, nơi giữ ký ức của Dân trung thành của Thiên Chúa bước đi tại Cuba, Đức Maria được tôn kính như Mẹ Bác Ái. Từ đây Mẹ giữ gìn các gốc rễ của chúng ta, căn tính của chúng ta, để chúng ta đừng đánh mất chúng trên các nẻo đường của sự tuyệt vọng. Linh hồn của nhân dân Cuba, như chúng ta vừa mới nghe, đã được rèn luyện giữa các khổ đau, thiếu thốn, nhưng chúng đã không thành công trong việc dập tắt đức tin ; đức tin ấy đã đuợc duy trì sống động nhờ biết bao nhiêu bà nội bà ngoại đã làm cho có thể tiếp tục cuộc sống gia đình, sự hiện diện sống dộng của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa Cha giải thoát, củng cố, chữa lành, trao ban can đảm, là nơi nương náu chắc chắn và là dấu chỉ của sự sống lại mới. Các bà nội bà ngoại, các bà mẹ và biết bao nhiêu người khác, với sự hiền dịu và trìu mến đã là các dấu chỉ của sự thăm viếng, của lòng can đảm, của đức tin đối với cháu chắt, trong gia đình họ. Họ đã để  mở một kẽ hở, bé nhỏ như một hạt cải, qua đó Chúa Thánh Thần đã tiếp tục đồng hành với nhịp đập của dân tộc này.

ĐTC nói thêm trong bài giảng: Và mỗi lần chúng ta nhìn lên Mẹ Maria, chúng ta lại tin nơi “sức mạnh cách mạng của sự dịu hiền và của tình thương mến” (Evangelii Gaudium, 288). Hết thế hệ này sang thế hệ khác, hết ngày này sang ngày khác, chúng ta đuợc mời gọi canh tân đức tin của chúng ta. Chúng ta được mời gọi “đi ra khỏi nhà”, mở đôi mắt và con tim cho tha nhân. Cuộc cách mạng của chúng ta đi qua sự dịu hiền, đi qua niềm vui lớn trở thành sự gần gữi, luôn trở thánh sự cảm thương và đem chúng ta tới chỗ bị lôi cuốn liên lụy với cuộc sống của người khác, để phục vụ. Đức tin của chúng ta khiến cho chúng ta ra khỏi nhà  và đi gặp người khác để chia sẻ các niềm vui nỗi buồn, các hy vọng và bị tước đoạt. Đức tin của chúng ta đưa chúng ta ra khỏi nhà để đi thăm viếng người đau yếu, kẻ bị tù tội, người khóc lóc, và cũng biết  cười với người cười, vui với các niềm vui của người bên cạnh. Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội phục vụ, ra khỏi nhà, ra khỏi các đền thờ của mình, ra khỏi các phòng thánh của mình, để đồng hành với cuộc sống, để nâng đỡ các niềm hy vọng, để là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Như Mẹ Maria, Mẹ Bác Ái, chúng ta muốn là một Giáo Hội ra khỏi nhà để bác các cây cầu, đập bể các bức tường, ngăn cách, để gieo vãi hoà giải.

Như Mẹ Maria chúng ta muốn là một Giáo Hội biết đồng hành với tất cả mọi tình trạng “bối rối” của dân chúng, dấn thân trong cuộc sống, trong văn hóa, trong xã hội, không ẩn nấp, nhưng bước đi với các anh chị em khác.

Đó là “đồng” quý báu nhất của chúng ta, đó là kho tàng lớn nhất của chúng ta và là gia tài tốt nhất  mà chúng ta có thể để lại: như Mẹ Maria học đi ra khỏi nhà trên các nẻo đường của việc thăm viếng. Và học cầu nguyện với Mẹ, dể lời cầu của chúng ta tràn đầy ký ức và lời cám tạ. Đó là thánh thi của Dân Thiên Chúa bước đi trong lịch sử. Đó là ký ức sống động của Thiên Chúa giữa chúng ta. Đó là ký ức vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã doái nhìn sự khiêm hạ của dân Ngài, đã cứu giúp tôi tớ của Ngài như đã hứa với cha ông chúng ta và con cháu họ đến muôn đời.”

Thánh lễ đã kết thúc lúc 10 giờ sáng giờ Cuba, ĐTC đã rời đền thánh đi xe tới viếng thăm nhà thờ chính tòa Santiago de Cuba, cách đó 19 cây số.

Nhà thờ này được dâng kính Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhà thờ có hai tháp cao một tháp mầu trắng, một tháp mầu vàng, tọa lạc gần công viên Céspendes. Nhà thờ được xây hồi đầu thế kỷ XIX và là một trong một loạt các nhà thờ đã bị tàn phá vì các lý do khác nhau như động đất, bị cướp bóc vv… Bên trong nhà thờ có các bức bích họa rất đẹp trên các vòng cung và mái vòm nhà thờ. Trong nhà thờ cũng có mộ của ông Diego Velazquez người Tây Ban Nha đã chinh phục và thành lập thành phố. Việc trùng tu nhà thờ và mái vòm bằng gỗ mới đây nằm trong dự án cộng tác giữa vùng Toscana bên Italia và vài tổ chức địa phương như tổng giáo phận Santiago, Văn phòng duy trì thành phố và Đại học Đông phương. Mục đích việc trùng tu đã bắt đầu hồi năm 2010 nhằm cải tiến khu vực phát triển chung quanh nhà thờ chính toà, nhân dịp kỷ niệm 500 năm thành lập thủ đô cũ của đảo Cuba.

Trong ngày thứ ba 22 tháng 9 ĐTC còn một sinh hoạt khác nữa là buổi gặp gỡ các gia đình Cuba trong nhà thờ chính toà lúc 11 giờ trưa giờ địa phương và ban phép lành cho thành phố trước khi ĐTC ra phi trường từ giã Cuba đế lấy máy bay đi Washington, bắt đầu những ngày viếng thăm Hoa Kỳ. Chúng tôi sẽ tường thuật các biến cố này trong buổi phát ngày thứ năm.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Lịch sử tượng và Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ Đồng, Cuba

Đền thờ Đức Mẹ Bác Ái ở Mỏ đồng

SANTIAGO DE CUBA. Chiều thứ hai, 21-9-2015, ĐTC Phanxicô đã từ thành phố Holguín bay đến Santiago ở mạn cực nam Cuba, chặng thứ 3 và cũng là chặng chót trong chuyến viếng thăm 3 ngày của ngài tại Cuba.

Tại Santigio, thành phố 400 ngàn dân cư, vào lúc 7 giờ tối ĐTC gặp gỡ các GM Cuba tại đại chủng viện thánh Basil Cả, rồi cùng với các vị cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba. Sáng thứ ba, 22-9, vào lúc 8 giờ, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Bác Ái, trước khi gặp gỡ các gia đình tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu của tổng giáo phận Santiago, rồi ra phi trường để bay sang Mỹ.

Trong cuộc viếng thăm của 3 vị Giáo Hoàng tại Cuba, từ Đức Gioan Phaolô 2, đến Đức Biển Đức 16, rồi tới Đức đương kim Giáo Hoàng, đều có cuộc kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng ở Santiago.

 Vài nét lịch sử của tượng Đức Mẹ và Đền Thánh Đức Mẹ Bác Ái

Cách đây 403 năm, tức là vào năm 1612, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã muốn biểu lộ tình thương của Người cho con cái ở lãnh thổ Cuba. Tài liệu về sự tích này có từ năm 1687, dựa theo lời kể của ông Juan Moreno, một người nô lệ da đen. Khi lên 10 tuổi, Juan cùng hai anh em thổ dân bản xứ là Juan và Rodrigo de Hoyos, ở làng Nipe, đi tìm muối, và họ đã vớt một tượng Đức Mẹ ở khu vực Vịnh Nipe thuộc mạn đông bắc quần đảo Cuba.

Khi kể lại chuyện này thì Ông Juan Moreno bấy giờ đã 85 tuổi và là người duy nhất còn sống sót sau biến cố ấy. Ông thuật lại những ký ức thời thơ ấu với một giọng đơn sơ của những người khiêm hạ, và nói:

”Một buổi sáng, biển lặng, họ ra khỏi một đảo nhỏ của Pháp để tìm muối, trước khi mặt trời mọc, hai anh Juan và Rodrigo de Hoyos cùng với người kể lại đây. Khi cả ba lên một xuồng và rời đảo Pháp, thì thấy một vật gì màu trắng cạnh những bọt biển và họ không phân biệt vật ấy là gì. Khi đến gần hơn, họ có cảm tưởng đó là một con chim và những cành cây. Những người thổ dân ấy nói: ”Hình như là một bé gái”, nhưng khi đến nơi, họ thấy đó là một tượng Đức Mẹ rất thánh tay bồng Chúa Hài Đồng Giêsu, bên dưới có một bảng nhỏ có những chữ lớn mà Rodrigo de Hoyos đọc lên: ”Ta là Đức Trinh Nữ Bác Ái”. Và mặc dù áo của pho tượng bằng vải, cả ba đều ngạc nhiên vì áo ấy không bị ướt, và đầy vui mừng, họ trở về và họ chỉ lấy 1 phần 3 số lượng muối mà thôi”.

Ít lâu sau, pho tượng Đức Mẹ cao 60 centimét ấy được đưa về làng El Cobre, là nơi có mỏ đồng lộ thiên đầu tiên tại Mỹ châu. Từ sau vụ tìm được tượng Đức Mẹ, lòng sùng mộ đối với Đức Mẹ Bác Ái lan rộng mau lẹ trên toàn đảo, mặc dù việc thông tin và giao thông khó khăn.

Thoạt đầu các thổ dân khám phá pho tượng đã dựng một chòi đầu tiên tại ”Hato de Bajaragua” để đặt ”Bà thánh” ở trong đó. Năm 1648, một chiếc am nhỏ được dựng lên và 32 năm sau đó, 1680, một nhà thờ nhỏ được kiến thiết.

Thiết lập đền thánh

Qua dòng thời gian, nhiều nhà nguyện khác nhau và nhà thờ nhỏ đã được dựng lên tại đây, nhưng do điều kiện khí hậu, các nơi thờ phượng này dễ bị hư hỏng, nên các tín hữu đã quyết định xây thánh đường mới cho tượng Đức Mẹ mà họ gọi bằng danh từ thân mật là ”Cachita”. Nhiều lần, tượng Đức Mẹ được giữ trong các ngôi nhà nghèo nàn của các nông dân và những người thợ mỏ.

Người ta phải đợi gần 2 thế kỷ mới có được một đền thánh đầu tiên được kiến thiết vào cuối năm 1800. Năm sau đó, tại Đền thánh này có tuyên đọc ”Hiến chương tự do cho những người nô lệ ở Mỏ Đồng”, nhờ sự vận động và can thiệp của LM tuyên úy Alejando Escanio.

106 năm sau đó, tức là 1906, Đền thánh ấy hoàn toàn bị phá hủy vì những vụ nổ và lở đất ở mỏ đồng. Với thời gian, người ta kiếm được một khu đất vộng lớn hơn để xây Đền thánh trên núi ”La Cantera”, đúng hơn là một ngọn đồi nhỏ gọi là “Maboa” có thể tiếp đón số tín hữu hành hương ngày càng gia tăng.

Những nhân vật nổi bật trong lịch sử Cuba, trong đó có các vị lập quốc và những người giữ vai chính trong việc dành độc lập cho Cuba, như ông Carlos Manuel de Céspedes, và tượng Calixto García, là những người rất gắn bó với Đức Mẹ Bác Ái. Ông Manuel de Céspedes là người đã giải phóng và dành độc lập cho Cuba, đồng thời cũng là người cổ võ bãi bỏ chế độ nô lệ. Ông đến hành hương tại Đền thánh để cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ cho nền tự do của Cuba. Sau khi chiến thắng, ông lại đến Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái để cảm tạ vì ơn tự do cho Cuba.

Vào cuối năm 1895, tướng Calixto García đã cử tướng Agustin Cebreco và bộ tham mưu của ông đến Đền thánh để cử hành lần đầu tiên ”Lễ Đức Trinh Nữ Bác ái của Cuba tự do”. Biến cố này được coi là cử chỉ chính thức đầu tiên của nước Cuba độc lập.

Ngày 12-7-1898, tại Đền thánh đã cử hành thánh lễ tạ ơn vì cuộc giải phóng Cuba, trước sự hiện diện của các vị sĩ quan Quân đội giải phóng.

Trong thời chiến tranh dành độc lập, các đoàn quân phó thác cho Đức Mẹ Bác Ái. Năm 1915, sau chiến tranh độc lập, các cựu chiến binh xin ĐGH Biển Đức 15 tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái ở làng El Cobre là Bổn mạng của Cuba. Trong một văn kiện ngày 10-5 năm 1916, ĐHY GM giáo phận Ostia, thông báo rằng ĐGH đã chấp thuận lời thỉnh cầu và tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là Bổn Mạng chính của Cộng hòa Cuba, và ấn định ngày lễ là 8 tháng 9 hằng năm.

Ngày 8-9 năm 1927, Đền thánh mới dâng kính Đức Mẹ Bác Ái được thánh hiến và tượng Đức Mẹ Bác Ái được rước đến đây.

Tượng Đức Mẹ này được Đức Cha Valentín Zubizarreta, TGM giáo phận Santiago de Cuba sở tại, đội triều thiên ngày 20 tháng 12 năm 1936.

Vương cung thánh đường quốc gia

Ngày nay, Vương cung thánh đường Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là một nhà thờ có hình thánh giá latinh, với 3 gian, mặt tiền cân đối và có một mái vòm. Cả hai gian bên hông cũng có mái vòm, nhưng nhỏ hơn, và tại đây có các quả chuông. Đền thánh có 8 cửa và một tiền đường phía trước dài 240 mét và rộng 15 mét. Có nhiều bậc thang dẫn lên tiền đường này. Bàn thờ chính của thánh đường được làm bằng nhiều loại cẩm thạch và phía trên bàn thờ có giữ tượng Đức Mẹ.

Dưới bàn thờ Đức Mẹ trong Đền Thánh, có một nhà nguyện phép lạ, là nơi giữ các đồ dâng cúng Đức Mẹ và nhiều vật dụng khác do các tín hữu mang đến để tạ ơn Đức Mẹ.

Ngày 24-1 năm 1998, ĐTC Gioan Phaolô 2 cũng đã đến viếng thăm tại tổng giáo phận Santiago de Cuba này, một thành phố lớn thứ hai của Cuba với 400 ngàn dân cư, cách thủ đô La Habana 750 cây số về mạn đông nam.

Hồi đó, Đức Cố Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ tại Santiago de Cuba trước sự tham dự của hơn 200 ngàn tín hữu. Thánh lễ được cử hành với chủ đề ”Sự hiện diện của Mẹ Maria trong lịch sử quốc gia Cuba. Tượng Đức Mẹ Bác Ái đã được rước từ Đền thánh và đặt trên lễ đài gần bàn thờ. Đồng tế với ĐTC có 14 GM Cuba, và hàng trăm HY, GM khách, đến thăm Cuba trong dịp trọng đại này, cùng với đông đảo các linh mục.

Ngày 26-3 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã đến kính viếng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng và cử hành thánh lễ trước 200 ngàn tín hữu trước tượng Đức Mẹ. Trong số những người hiện diện cũng có Chủ tịch Raúl Castro 80 tuổi và một số quan chức chính quyền Cuba.

Trong bài giảng, ĐTC Biển Đức nói: ”Tôi rất vui mừng chia vui với anh chị em về việc mừng 400 năm tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái ”Mỏ Đồng”. Ngay từ đầu, Đức Mẹ đã hiện diện sâu rộng trong đời sống bản thân của người dân Cuba, trong các biến cố lớn của đất nước, đặc biệt là trong nền độc lập, được mọi người tôn kính như người Mẹ đích thực của dân tộc Cuba. Lòng sùng kính đối với Đức Mẹ ”Mambisa” đã nâng đỡ đức tin và khuyến khích bảo vệ cũng như thăng tiến những gì làm cho thân phận con người được xứng đáng hơn và các quyền căn bản của con người, và còn mạnh mẽ tiếp tục ngày nay, chứng tỏ một cách cụ thể về sự rao giảng Tin Mừng một cách phong phú tại lãnh thổ này, cũng như những căn cội Kitô sâu xa, tạo nên căn tính sâu đậm hơn của tâm hồn người Cuba. Theo vết bao nhiêu tín hữu hành hương qua dòng lịch sử, tôi cũng muốn đến Mỏ Đồng để phủ phục dưới chân Mẹ Thiên Chúa, để cảm tạ Mẹ vì Mẹ đã can thiệp bênh đỡ mọi người con Cuba của Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu, hướng dẫn hành trình của đất nước yêu quí này trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba

Đức Thánh Cha dâng thánh lễ tại Holguín, Cuba

ĐTC dâng thánh lẽ ngày thứ Bảy

HOLGUÍN. Trong thánh lễ thứ hai tại Cuba, cử hành trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu tại thành phố Holguín, ĐTC kêu gọi các tín hữu hoán cải theo gương thánh Mathêu và các linh mục hãy luôn dịu dàng và ban ơn tha thứ.

Sáng thứ hai 21-9-2015, ĐTC đã tiến sang giai đoạn thứ 2 trong cuộc viếng thăm mục vụ 3 ngày tại Cuba. Ngài giã từ thủ đô La Habana, đáp máy bay tiến về thành phố Holguín, cách đó 700 cây số và đến nơi vào lúc gần 9 giờ rưỡi sau hơn 1 giờ bay.

Holguín là thành phố đứng thứ 3 ở Cuba xét về dân số, với 1 triệu rưỡi dân cư, do nhà chinh phục García Holguín người Tây Ban Nha thành lập hồi năm 1454, và mang danh là thành phố các công viên, vì tại đây có nhiều quảng trường và những đại lộ có nhiều cây cối. Giáo phận tại đây có hơn 440 ngàn tín hữu Công Giáo, tương đương với 27% dân số, với 28 giáo xứ, 56 giáo họ có thánh đường, và chỉ có 33 linh mục.

Các tín hữu Công Giáo tại đây rất hãnh diện vì chính các ngư phủ hồi thế kỷ 16 đã tìm thấy tượng Đức Mẹ Bác Ái mỏ đồng bổn mạng của Cuba khi họ đánh cá ở vinh Nipe, ngoài khơi tỉnh Holguín. Ngoài ra, các nhà truyền giáo cũng đến vịnh Bariay ở địa phương để khởi sự công trình truyền giáo Mỹ châu. Thực vậy, Cristoforo Colombo đã đổ bộ lên nơi ngày nay gọi là Cảng Chúa Cứu Thế hồi năm 1492.  Tại Quảng trường cách mạng mang tên Calixto García Iniguez, vào lúc 10 giờ rưỡi, ĐTC đã cử hành thánh lễ, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ trước sự tham dự của hàng trăm ngàn tín hữu. Cho đến nay Quảng trường này chỉ được dùng vào các mục tiêu chính trị và xã hội, nhưng đây là lần đầu tiên một lễ nghi tôn giáo được cử hành tại đây.

Các tín hữu, từ Holguín và các giáo phận lân cận đã đến tham dự thánh lễ ĐTC cử hành lúc 10 giờ rưỡi, lễ kính thánh Mathêu Tông Đồ. Đồng tế với ngài còn có các GM và hàng trăm linh mục Cuba.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt quảng diễn sự tích Chúa Giêsu kêu gọi ông Mathêu người thu thuế, người bị dân Do thái coi là kẻ tội lỗi công khai, kẻ phản bội vì thu thế cho kẻ thống trị. Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn ông, chạnh lòng thương và kêu gọi ông. Sự tích này cũng là khẩu hiệu GM và Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô. Ngài nói:

”Chúa Giêsu dừng lại, ngài không vội vã đi qua, Ngài bình tĩnh chậm rãi nhìn Mathêu. Cái nhìn của Chúa với đôi mắt từ bi thương xót; Chúa nhìn ông như chưa bao giờ có người nào trước đó nhìn ông như vậy. Và chính cái nhìn ấy đã mở con tim của ông, làm cho tâm hồn ôn được tự do, được chữa lành, Ngài ban cho ông một niềm hy vọng, một đời sống mới, như Zakêu, như Bartimeo, Maria Madalena, như Phêrô và mỗi người chúng ta..

Đó cũng là lịch sử bản thân mỗi người chúng ta; như bao nhiêu người khác, mỗi người chúng ta có thể nói: Tôi cũng là một người tội lỗi mà Chúa Giêsu nhìn đến. Tôi mời gọi anh chị em, ở nhà hay ở nhà thờ, hãy dành một lúc thinh lặng để nhớ lại với lòng biết ơn và vui mừng trường hợp đã xảy ra, lúc mà cái nhìn từ bi của Thiên Chúa đặt trên cuộc sống của chúng ta”.

Sau khi nhìn Mathêu với lòng thương xót, Chúa gọi ông: ”Hãy theo tôi”, và ông đứng lên theo Ngài. Sau cái nhìn là lời nói của Chúa Giêsu. Sau tình thương là sứ mạng. Matheu không còn như trước nữa, ông đã thay đổi trong nội tâm. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, với lòng yêu thương từ bi của Chúa, đã biến đổi ông. Ông bỏ lại bàn thu thế, tiền bạc, tình trạng bị gạt ra ngoào. Trước kia ông ngồi đó để thu thuế, để lấy của người khác; giờ đây với Chúa Giêsu, ông phải đứng lên để cho đi, để tặng, để hiến thân cho tha nhân… Cái nhìn của Chúa Giêsu đã tạo nên một hoạt động thừa sai.

ĐTC nhận xét rằng Chúa Giêsu đi trước, mở đường cho chúng ta, mời gọi chúng ta theo ngài. Ngài mời gọi chúng ta từ từ tiến bước, vượt lên trên mọi thành kiến của chúng ta, vượt lên sự kháng cự không muốn thay đổi của người khác và cả chúng ta nữa. Chúa thách thức chúng ta ngày qua ngày: con có tin không? Con có tin là một người thu thuế có thể trở thành một người phục vụ hay không?.. Chúng ta hãy để cho Chúa nhìn chúng ta trong kinh nguyện, trong Thánh Lễ, trong việc xưng tội, trong các anh chị em của chúng ta, nhất là những người cảm thấy bị bỏ rơi và đơn độc nhất. Và chúng ta hãy học nhìn như Chúa nhìn chúng ta. Chúng ta hãy chia sẻ sự dịu dàng và từ bi của Chúa với các bệnh nhân, tù nhân, người già và những gia đình đang gặp khó khăn.

Sau cùng ĐTC khích lệ Giáo Hội tại Cuba tiếp tục cố gắng và hy sinh thi hành công tác loan truyền lời Chúa, sự hiện diện của Chúa và việc mục vụ cho tất cả mọi người, kể cả tại những nơi xa xăm nhất. Ngài ca ngợi sáng kiến ”các căn nhà truyền giáo”, để đáp ứng tình trạng thiếu nhà thờ, thiếu LM tại nước này, để nhiều người có nơi cầu nguyện, nghe Lời Chúa, học giáo lý và có đời sống cộng đoàn. Đó là những dấu chỉ bé nhỏ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong các khu phố của chúng ta và là một trợ giúp thường nhật để lời thánh Phaolô tông đồ trở nên sống động: "Tôi khuyên bảo anh chị em hãy cư xứ xứng với ơn gọi anh chị em đã nhận lãnh, với tất cả lòng khiêm tốn, dịu dàng, quảng đại, chịu đựng nhau trong tình yêu thương, quan tâm duy trình tinh thần hiệp nhất nhờ mối dây hòa bình” (Ep 4,1-3)

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai

Đức Thánh Cha khuyến khích giới trẻ Cuba mơ ước tương lai

Pope talks to young people in Cuba

LA HABANA. Chiều chúa nhật 20-9-2015, ĐTC đã gặp giới trẻ Cuba tại thủ đô La Habana, và ngài mời gọi họ vượt thắng bi quan, mơ ước và dấn thân xây dựng tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và đất nước.

Sau khi ban phép lành kết thúc buổi hát kinh chiều với các LM, tu sĩ và chủng sinh Cuba, ĐTC đã tiến sang trung tâm nghiên cứu văn hóa mang tên của Vị Tôi Tớ Chúa, LM LM Félix Varela. Cha sống vào thế kỷ 18 và được là ”thầy của các thầy dạy” ở Cuba. Cha giảng dạy trong 10 năm trời tại Học viện kiêm chủng viện thánh Carlo ở La Habana, góp phần vào sự tiến bộ khoa học và văn chương của Cuba. Về sau, cha sang Mỹ, bênh vực quyền độc lập của Cuba và bênh vực nhân dân nước này. Trong 30 năm hoạt động tại Mỹ cha Felix Varela đã thiết lập nhiều trường học, thánh đường và loan báo Tin Mừng cho những người sống ngoài lề xã hội. Cha Qua đời năm 1853 và án phong chân phước cho cha được khởi sự cách đây 30 năm, tức là năm 1985.

Trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ chiều ở Trung tâm Varela, ĐTC cũng bỏ bài huấn dụ dọn sẵn và ứng khẩu nói chuyện với các bạn trẻ.

Huấn dụ ứng khẩu của ĐTC

Ngỏ lời với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ rưỡi chiều chúa nhật vừa qua ở Trung tâm Cha Varela, ĐTC trả lời một bạn trẻ trình bày mơ ước được thấy một nước Cuba tốt đẹp hơn, ngài trích dẫn một văn sĩ Mỹ châu la tinh nói rằng con người có 2 con mắt, một con bằng thịt và một con bằng thủy tinh. Với con mắt thịt chúng ta thấy điều chúng ta nhìn. Với con mắt bằng kiếng, chúng ta thấy điều mà chúng ta mơ ước. Một người trẻ không có khả năng mơ ước, là một người khép kín vào mình.

ĐTC mời gọi các bạn trẻ hãy mơ ước những điều vĩ đại:

”Trong sự khách quan của cuộc sống cần để cho khả năng mơ ước đi vào. Và một người trẻ không có khả năng mơ ước, thì bị khép kín trong chính mình.. Nhiều khi mỗi người mơ ước những gì không bao giờ xảy ra, nhưng hãy mơ ước, hãy ước mong, hãy tìm kiếm những chân trời..

Ngài cũng nói đến khả năng đón tiếp và chấp nhận người nghĩ khác với mình. Trong thực tế, nhiều khi chúng ta khép kín. Chúng ta bước vào trong thế giới bé nhỏ và khép kín trong khuôn khổ ý thức hệ hoặc tôn giáo. Khi tôn giáo trở thành một thứ tu viện nhỏ, thì nó đánh mất phần tốt đẹp nhất của mình, đánh mất thực tại tôn thờ Thiên Chúa, tin nơi Chúa. Đó là một thứ hội lời nói, cầu nguyện, với những qui luật luân lý. Và khi tôi theo ý thức hệ của tôi, cách tư duy của tôi, và các bạn theo ý thức hệ của các bạn thì tôi khép kín trong cái hộp ý thức hệ.

ĐTC nhắn nhủ các bạn trẻ hãy cởi mở tâm trí, đừng chỉ quan tâm đến những gì làm cho chúng ta chia rẽ, hãy nghĩ đến những điểm chung, làm việc chung cho công ích. Sự hận thù xã hội tàn phá, phá hủy gia đình, xã hội, thế giới, sự hận thù lớn nhất về mặt xã hội chính là chiến tranh, chúng ta thấy chiến tranh đang tàn phá thế giới.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đón tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cuba

Đón tiếp Đức Thánh Cha Phanxicô tại Cuba

Đón tiếp ĐTC tại Cuba

LA HABANA. Trong diễn văn đầu tiên tại Cuba, ĐTC Phanxicô cổ võ các vị lãnh đạo chính trị tiếp tục tiến trình cởi mở và hòa giải.

 

Sau gần 12 giờ bay từ Roma, máy bay của hãng Alitalia, chở ĐTC Phanxicô, đoàn tùy tùng và 75 ký giả quốc tế, đã đáp xuống phi trường José Marti ở La Habana, thủ đô Cuba, lúc gần 4 giờ chiều thứ bẩy, 19-9-2015, mở đầu cho các hoạt động của ngài trong 10 ngày viếng thăm tại Cuba, Hoa Kỳ và LHQ, chuyến đi dài nhất trong 10 cuộc tông du ngài thực hiện trong 2 năm rưỡi qua.

 

Cuộc viếng thăm của ĐTC Phanxicô tại Cuba có chủ đề là ”Thừa sai của lòng thương xót”, ám chỉ tới Năm Thánh ngoại thường về lòng xót thương của Chúa sẽ được chính thức khai mạc vào ngày 8-12 tới đây, kỷ niệm đúng 50 năm bế mạc công đồng chung Vatican 2.

 

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC ngài đã được chủ tịch Raoul Castro cùng với ĐHY Jaime Ortega, TGM giáo phận La Habana sở tại tiếp đón, trong khi 21 phát đại bác nổ vang chào mừng vị quốc khách. 5 em bé đã tặng hoa cho ngài, và ngài dừng lại hỏi thăm các em và tặng mỗi em một xâu chuỗi mân côi.

 

Trong diễn văn chào mừng, chủ tịch Raoul Castro đã bày tỏ lòng quí mến, kính trọng và tâm tình nồng nhiệt của nhân dân Cuba được đón tiếp ĐGH và ông nói rằng: ”Chúng tôi rất quí chuộng và biết ơn vì sự nâng đỡ của ngài dành cho cuộc đối thoại giữa Hoa Kỳ và Cuba.. Việc tái lập quan hệ ngoại giao là bước đầu tiên trong tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, giải quyết các vấn đề và sửa chữa những bất công.. Sự cấm vận đã gây ra những thiệt hại cho con người và những khó khăn cho các gia đình Cuba. Việc cấm vận ấy là điều tàn ác, vô luân và bất hợp pháp. Cần phải loại bỏ cấm vận”.

 

Chủ tịch Castro cũng gọi chế độ kinh tế quốc tế hiện nay là bất công vì nó hoàn cầu hóa tư bản và biến tiền bạc thành thần tượng. Ông hãnh diện vì những chinh phục của chế độ xã hội chủ nghĩa Cuba, nhất là trong lãnh vực y tế, học đường, nhưng ông cũng nhìn nhận cần hải thực thi kiểu mẫu này về mặt kinh tế và xã hội.

 

Diễn văn đầu tiên của ĐTC tại Cuba

 

Về phần ĐTC, lên tiếng sau lời chào mừng của Chủ tịch Castro, ĐTC cám ơn chính quyền, giáo quyền, và tất cả những người đã chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ngài và nhắc đến các vị tiền nhiệm đã đến thăm nước này:

 

”Trong năm 2015 này, có kỷ niệm 80 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Cuba và Tòa Thánh. Chúa Quan phòng cho tôi được đến đây ngày hôm nay, tại đất nước yêu quí này, theo vết không thể xóa nhòa trên con đường đã được các cuộc tông du đáng ghi nhớ mở ra, các cuộc viếng thăm của hai vị tiền nhiệm của tôi tại nước này, Thánh Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16. Tôi biết rằng việc nhớ lại các vị gợi lên lòng biết ơn và quí mến nơi dân chúng và chính quyền Cuba. Hôm nay, chúng ta canh tâm những quan hệ cộng tác và thân hữu để Giáo Hội tiếp tục tháp tùng và khích lệ nhân dân Cuba trong niềm hy vọng và lo âu, với tự do và những phương thế, cũng như những không gian cần thiết để đưa việc loan báo Nước Trời đến tận các môi trường ngoại ô của cuộc sống trong xã hội”.

 

ĐTC cũng nhận xét rằng cuộc tông du này cũng trùng với dịp kỷ niệm 100 năm tuyên bố Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng là bổn mạng của Cuba, do ĐGH Biển Đức 15 xác định. Chính các cựu chiến binh dành độc lập, do tâm tình đức tin và lòng yêu nước thúc đẩy, đã xin Đức Trinh Nữ mambisa là bổn mạng của Cuba như một nước tự do và có chủ quyền. Từ đó Mẹ đã tháp tùng lich sử nhân dân Cuba, nâng đỡ niềm hy vọng giữ gìn phẩm giá con người trong những hoàn cảnh khó khăn nhất và bảo vệc sự thăng tiến tất cả những gì mang lại phẩm giá cho con người. Lòng sùng kính gia tăng đối với Đức Trinh Nữ Bác Ái mỏ đồng là một chứng tá hữu hình về sự hiện diện của Đức Mẹ trong tâm hồn người dân Cuba. Trong những ngày này tôi sẽ được cơ hội đến Đền thánh Mỏ Đồng như người con và như người lữ hành, để cầu xin Mẹ cho tất cả những người con Cuba của Mẹ và cho đất nước yêu quí này, để tiến bước trên con đường công lý, hòa bình, tự do và hòa giải.

 

”Về mặt địa lý, Cuba là một quần đảo quay về mọi hướng, với một giá trị đặc biệt như ”chìa khòa” giữa bắc và nam, giữa đông và tây. Ơn gọi tự nhiên là ơn gọi trở thành điểm gặp gỡ để tất cả mọi dân tộc ở trong tình thân hữu, như José Martí vẫn mơ ước, ”vượt lên trên những chật hẹp của eo biển và những hàng rào của biển cả” (Hội nghị tiền tệ của các cộng hòa Mỹ châu, Obras escogidas II, La Habana 1992, 505). Đây cũng chính là ước muốn của thánh Gioan Phaolô 2 với lời kêu gọi nồng nhiệt của ngài ”để Cuba cởi mở đối với tất cả những khả thể tuyệt vời của mình với thế giới và thế giới cởi mở với Cuba” (diễn văn 21-1-1998,5).

 

Nhắc đến những biến cố gần đây, ĐTC nói: ”Từ vài tháng nay, chúng ta chứng kiến một biến cố khiến chúng ta đầy hy vọng: đó là tiến trình bình thường hóa những quan hệ giữa hai dân tộc, sau bao năm xa cách. Đó là một dấu chỉ về sự trổi vượt của nền văn hóa gặp gỡ, đối thoại, hệ thống giá trị đại đồng.. trên chế độ triều đại và phe nhóm đã chết mãi mãi” (José Martí, ibid.). Tôi khuyến khích các vị lãnh đạo chính trị hãy tiếp tục con đường này và phát huy mọi tiềm năng của nó, như bằng chứng về sự phục vụ cao quí mà họ được kêu gọi thực hiện cho hòa bình và an sinh của các dân tộc của mình, của toàn Mỹ châu và như mẫu gương về sự hòa giải cho toàn thế giới.

 

”Tôi phó thác những ngày này cho sự chuyển cầu cảu Đức Trinh Nữ Bác ái Mỏ đồng, chân phước Olallo Valdés và José López Pieteira và Đấng đáng kính Félix Varela, nhà đại phổ biến tình thương giữa người Cuba và tất cả mọi người, để gia tăng những mối liên hệ hòa bình, tình liên đới và tôn trọng lẫn nhau”.

 

Rời phi trường, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa chiều và qua đêm. Cha Lombardi, giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết dọc đường dài 18 cây số, có hơn 100 ngàn người đứng hai bên đường để chào đón ngài. Theo báo chí, số người phải đông đảo hơn nhiều, với những hàng dài ngày càng dầy đặc hơn khi xe chở ĐTC đến gần tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Cuba và Hoa Kỳ

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Cuba và Hoa Kỳ

ĐTC lên đường sang Cuba

VATICAN. Lúc 10 giờ 35 phút sáng thứ bẩy 19-9-2015, ĐTC Phanxicô đã rời Roma lên đường viếng thăm mục vụ trong vòng 10 ngày tại Cuba rồi tại Hoa Kỳ.

Đây là chuyến viếng thăm thứ 10 của ĐTC tại nước ngoài và là chuyến đi dài nhất, phức tạp nhất, theo lời Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh.

Theo thói quen từ lâu, chiều tối thứ sáu 18-9 vừa qua, ĐTC đã đến Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma để cầu nguyện và phó thác cuộc viếng thăm của ngài cho sự bảo trợ của Đức Mẹ.

Tháp tùng ĐTC trên máy bay Airbus A330-200 của hãng Alitalia, có 75 ký giả quốc tế, không kể đoàn tùy tùng của ngài khoảng 30 người, đứng đầu là ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức TGM Phụ tá Quốc vụ khanh Angelo Becciu, và lần này đặc biệt có thêm Đức TGM ngoại trưởng Paul Gallagher, người Anh, xét vì khía cạnh ngoại giao được nhấn mạnh hơn trong chuyến đi ngày của ĐTC.

Trong những ngày viếng thăm, ĐTC sẽ đọc 26 bài diễn văn và bài giảng, trong đó chỉ có 4 bài hoàn toàn bằng tiếng Anh, phần còn lại bằng tiếng Tây Ban Nha, hoặc xen lẫn tiếng Anh. Bài diễn văn của ngài trước Đại hội đồng LHQ hoàn toàn bằng tiếng Tây Ban Nha.

Theo chương trình, sau gần 12 giờ bay, ĐTC sẽ đến phi trường thủ đô La Habana của Cuba vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày 19-9-2015, giờ địa phương, tức là lúc 3 giờ sáng chúa nhật, 20-9, giờ Việt Nam.

Sáng chúa nhật 20-9-2015, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô Cuba. Ban chiều lúc 4 giờ ngài sẽ đến viếng thăm Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước cùng với Hội đồng Bộ trưởng tại Dinh Cách Mạng.

Tiếp đến lúc 5 giờ 15, ngài sẽ chủ sự kinh chiều với các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà Thờ Chính tòa La Habana. 1 giờ 15 phút sau đó, ngài sẽ gặp gỡ và chào thăm giới trẻ tại Trung tâm Văn hóa LM Felix Varela.

ĐTC còn viếng thăm giáo phận Holguín ở mạn đông Cuba cách thủ đô La Habana hơn 1 giờ bay, rồi thăm tổng giáo Santiago ở mạn cực nam Cuba, nơi có Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba. Ngài sẽ rời Roma chiều ngày 22-9 để sang Hoa Kỳ.

Vài tin bên lề

Trong khi đó, báo chí nói đến nhiều chi tiết liên quan đến cuộc viếng thăm của ĐTC.

– Tại Vatican, lúc 9 giờ 45 sáng 19-9-2015, trước khi lên đường ra phi trường Fiumicino, ĐTC đã chào thăm gia đình tị nạn đầu tiên được giáo xứ thánh Anna đón tiếp tại Nội thành Vatican. Gia đình này người Siria, được Đức TGM Konrad Krajewski, chánh sở từ thiện của ĐTC, dẫn đến chào ngài và cám ơn vì sự đón tiếp và cho tị nạn.

– Tại trụ sở LHQ, cờ Tòa Thánh sẽ được trương lên ngày 25-9 tới đây khi ngài đến viếng thăm tại đây. Hôm 10-9 vừa qua, Đại Hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết cho các quốc gia không thành viên, như Palestine và Vatican, cũng được treo cờ của mình tại trụ sở LHQ.

– Các hãng tin quốc tế truyền đi ngày 18-9 cũng nói đến cuộc điện đàm giữa tổng thống Obama và chủ tịch Raoul Castro và hai vị ca ngợi vai trò của ĐGH trong việc giúp làm tan băng giá giữa Mỹ và Cuba. Cuộc điện đàm diễn ra đúng ngày chính phủ Mỹ giảm bớt việc cấm vận chống Cuba và cho phép thực hiện dễ dàng các cuộc viếng thăm của người dân giữa hai nước. Đặc biệt từ thứ hai 20-9 này, người Mỹ có thể du hành sang Cuba dễ dàng hơn để viếng thăm hoặc để kinh doanh. Việc mở tài khoản ngân hàng cũng dễ dàng hơn.

Tổng thống Obama nhấn mạnh với chủ tịch Castro tầm quan trọng của việc mở lại hai sứ quán của nhau tại La Habana và Washington, chấm dứt một trong những trang sử đau thương nhất của cuộc chiến tranh lạnh. Hai vị nguyên thủ cũng nói về những biện pháp sắp tới cần thực hiện, để đẩy mạnh sự cộng tác song phương mặc dù vẫn còn có những dị biệt giữa hai nước về những vấn đề quan trọng. (SD 19-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Phỏng vấn ĐHY Parolin về chuyến công du của ĐTC tại Cuba và Hoa Kỳ

Phỏng vấn ĐHY Parolin về chuyến công du của ĐTC tại Cuba và Hoa Kỳ

ĐHY Pietro Parolin 1

VATICAN: Vẫn liên quan tới chuyến công du Cuba và Hoa Ký, ngày 17-9 ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh,  đã dành cho đài truyền hình Vaticăng một cuộc phỏng vấn liên quan tới hai quốc gia này.

Ngài cho biết Tòa Thánh đã luôn luôn chống lại quyết định cấm vận của chính quyền Hoa Kỳ dối với Cuba, vì nó chỉ gây ra các khó khăn và đau khổ cho người dân Cuba. Trong các đại hội của Liên Hiệp Quốc Toà Thánh đã luôn luôn ủng hộ việc yêu cầu Hoa Kỳ thu hồi lệnh cấm vận Cuba. Giờ đây hy vọng việc bỏ cấm vận cũng đem lại tiến triển kinh tế và việc rộng mở lơn hơn cho sự tự do và các quyền con người và sự triển nở cho các khía cạnh nền tảng trong cuộc sống của người dân Cuba và các dân tộc.

Việc viếng thăm đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng có tầm quan trọng lớn, vì lòng sùng kính của các dân tộc châu Mỹ Latinh đối với Đức Mẹ nói chúng, và đối với người dân Cuba nói riêng. Vì Đức Mẹ đã đồng hành với tín hữu Cuba trong mọi thăng trầm cuộc sống, đặc biệt trong những giai đoạn khó khăn gian khổ nhất. Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đã trở thành biểu tượng của lịch sử dân nước Cuba.

Sự kiện ĐTC từ Cuba vào Hoa Kỳ nhắc nhớ cho toàn dân Mỹ biết họ cũng đã là những người di cư và Hoa Kỳ là một quốc gia của người di cư với một truyền thống dài của sự quảng đại, tiếp đón, liên đới huynh đệ và hội nhập. Đây là một nền tảng tốt giúp tìm ra các giải pháp cho hiện tượng di cư tỵ nạn trên thế giới hiện nay.

Lễ phong thánh cho chân phước Junipero Serra, một trong những vị sáng lập ra đất nước Hoa Kỳ, thừa sai và bổn mạng của ngưòi Mỹ nói tiếng Tây Bn Nha,  sẽ là dịp để ĐTC đề cập tới sứ mệnh rao truyền và làm chứng cho Tin Mừng và phần đóng góp quan trọng của các anh chị em gốc Mỹ Latinh cho quốc gia này.

Việc phát biểu trước Quốc Hội Mỹ sẽ là dịp ĐTC đề cập đến vấn đề môi sinh, bản chất siêu việt của con người, từ đó nảy sinh ra phẩm giá và các  quyền căn bản của con người, nhất là quyền sống và tự do tôn giáo. Và chắc chắn ĐTC sẽ kêu gọi thay đổi kiểu sống để là những người bảo vệ thiên nhiên,  chứ không phải là những người thống trị và tấn công thụ tạo.

Khi tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình DTC chắc chắn sẽ nêu bật vẻ đẹp và sứ mệnh cao quý của gia đình, cũng như các khó khăn và thách đố mà gia đình phải đương đầu trên thế giới hiện nay và mời gọi toàn Giáo Hội loan báo Tin Mừng của gia đình và trợ giúp các gia đình chu toàn nhiệm vụ quan trọng không thể thay thế được này (SD 17-9-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cuba chuẩn bị nơi cử hành Thánh Lễ của Đức Thánh Cha

Cuba chuẩn bị nơi cử hành Thánh Lễ của Đức Thánh Cha

Havana Cuba

LA HABANA. Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô La Habana của Cuba đã được chuẩn bị cho thánh lễ ĐTC Phanxicô sẽ cử hành tại đây sáng chúa nhật 20-9 sắp tới.

 

Một bàn thờ lớn và một nhà mặc áo lễ với màu cờ vàng trắng của Vatican, cùng với 3 bục cao dành cho giới báo chí, và ca đoàn cũng đã được chuẩn bị xong hôm 26-8 vừa qua.

 

Giới báo chí ghi nhận rằng từ hơn 40 ngày nay, khoảng 50 công nhân đã làm việc để chuẩn bị cho khu vực ĐTC sẽ cử hành thánh lễ vào ngày hôm sau khi ngài từ Roma bay đến Cuba.

 

Cũng tại Quảng trường Cách mạng này, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã cử hành thánh lễ hồi năm 1998 và ĐGH Biển Đức 16 hồi năm 2012. Quanh Quảng trường có nhiều trụ sở của các bộ và tượng đài Ông José Marti, anh hùng độc lập của Cuba.

 

Theo báo chí địa phương, chỉ cần thiết lập một số dụng cụ trang trí và các hàng rào cho buổi lễ.

 

Chủ tịch Raoul Castro đứng đầu trong số 4 ngàn khách mời dự lễ, cùng với hàng trăm ngàn tín hữu.

 

Sau thủ đô La Habana, ĐTC sẽ đến thăm và cử hành thánh lễ tại giáo phận Holguin ở mạn đông bắc Cuba, trước khi bay đến thành phố Santiago de Cuba ở mạn cực nam Cuba, nơi có Đền thánh Đức Mẹ bác ái mỏ đồng, bổn mạng của nước này. Theo các cơ quan truyền thông Cuba, công việc chuẩn bị đón tiếp ĐTC tại các nơi này cũng đang được hoàn thành (AFP 26-8-2015)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha không gặp các lãnh tụ phiến quân Colombia

Đức Thánh Cha không gặp các lãnh tụ phiến quân Colombia

Lãnh tụ phiến quân Colombia

VATICAN. Phó Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, LM Ciro Benedettini, cho biết trong cuộc viếng thăm mục vụ tại Cuba từ ngày 19-9 tới đây, ĐTC sẽ không gặp các lãnh tụ phiến quân tả phái ”Mặt trận võ trang cách mạng Colombia”, gọi tắt là FARC.

Trong những ngày trước đây, các đại diện của phiến quân FARC đã thỉnh cầu được gặp ĐTC tại Cuba và xin Giáo Hội Công Giáo bổ nhiệm một đại biểu thường trực tại các cuộc hòa đàm giữa chính phủ Colombia và lực lượng FARC.

Từ lâu chính phủ Colombia và phiến quân FARC đã có những cuộc hòa đàm tại Cuba, nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt tới một hiệp định chung kết. Hôm 17-8-2015, Ông Ivan Marquez, đại diện lực lượng FARC nói với giới báo chí rằng: ”Chúng tôi muốn nồng nhiệt chào mừng ĐGH Phanxicô và chúng tôi hy vọng được cơ hội này”.

Tuy nhiên, Cha Benedettini nói: ”Dĩ nhiên ĐGH vui mừng hoạt động cho hòa bình và có lẽ ngài sẽ tìm một thời điểm thuận tiện hơn để bày tỏ sự hỗ trợ của ngài đối với các cuộc hòa đàm Colombia. Tuy nhiên, không có dự trù cuộc gặp gỡ giữa ĐGH và đại diện lực lượng FARC trong cuộc viếng thăm của ngài tại Cuba”.

Phiến quân FARC chiến đấu chống chính phủ Colombia từ 50 năm nay và cuộc xung đột đã làm cho khoảng 220 ngàn người thiệt mạng. (CNS, SD 19-8-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Cuba và Hoa Kỳ

Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Cuba và Hoa Kỳ

Love our mission Pope visit Cuba and America

VATICAN. ĐTC Phanxicô sẽ dành 9 ngày trọn để viếng thăm Cuba và Hoa kỳ vào hạ tuần tháng 9 tới đây.

– Theo chương trình do Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 30-6-2015, ĐTC sẽ rời Roma lúc 10 giờ 15 phút sáng thứ bẩy, 19-9, và đến phi trường thủ đô La Habana của Cuba vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày.

Sáng chúa nhật hôm sau, 20-9, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô Cuba. Ban chiều lúc 4 giờ ngài sẽ đến viếng thăm Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước cùng với Hội đồng Bộ trưởng tại Dinh Cách Mạng.

Ban chiều cùng ngày lúc 5 giờ 15, ngài sẽ hát kinh chiều với các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà Thờ Chính tòa La Habana. 1 giờ 15 phút sau đó, ngài sẽ gặp gỡ và chào thăm giới trẻ tại Trung tâm Văn hóa LM Felix Varela.

Sáng thứ hai, 21-9, ĐTC sẽ đến thăm giáo phận Holguín ở mạn đông Cuba cách thủ đô La Habana hơn 1 giờ bay. Tại đây vào lúc 10 giờ rưỡi ngài sẽ cử hành thánh lễ ở Quảng trường Cách Mạng. Ban chiều lúc 3 giờ 45, ngài chúc lành cho thành Holguin từ Đồi Thánh Giá (Loma de la Cruz), rồi đáp máy bay đến thành phố Santiago ở mạn cực nam Cuba. Tại đây vào lúc 7 giờ tối ĐTC gặp gỡ các GM Cuba tại đại chủng viện thánh Basil Cả, rồi cùng với các vị cầu nguyện tại Đền thánh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng, Bổn mạng của Cuba.

Sáng thứ ba, 22-9, vào lúc 8 giờ, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ tại Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Bác Ái, trước khi gặp gỡ các gia đình tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu của tổng giáo phận Santiago, rồi ra phi trường lúc quá 12 giờ trưa để bay sang Hoa Kỳ. Ngài sẽ đến căn cứ không quân Andrews ở thủ đô Washington vào lúc 4 giờ chiều và tại đây sẽ diễn ra nghi thức đón tiếp chính thức.

– Lúc 9 giờ 15 sáng hôm sau, thứ tư 23-9, có nghi thức chào đón tại Tòa Nhà Trắng và ngài hội kiến với tổng thống Mỹ. Sau đó lúc 11 giờ rưỡi, ĐTC sẽ gặp các GM Mỹ tại Nhà thờ chính tòa Washington.

Ban chiều cùng ngày vào lúc 4 giờ 15, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ tai Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm cũng tại thủ đô để tôn phong chân phước Junipero Serra lên bậc hiển thánh.

Sáng thứ năm 24-9 vào lúc 9 giờ 20, ĐTC sẽ viếng thăm và đọc diễn văn tại Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ, rồi thăm Trung tâm bác ái của giáo xứ thánh Patrick cũng ở Washington vào lúc 11 giờ 15 và gặp gỡ những người không có gia cư.

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 24-9, đTC sẽ đáp máy bay đi New York và đến phi trường Kennedy 1 giờ sau đó. Lúc 6 giờ 45, ĐTC sẽ hát kinh chiều với hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ tại Nhà thờ chính tòa thánh Patrick của giáo phận New York.

Sáng thứ sáu, 25-9, vào lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC sẽ viếng thăm và đọc diễn văn tại Trụ sở LHQ cũng ở New York, rồi dự cuộc gặp gỡ liên tôn lúc 11 giờ rưỡi tại nơi tưởng niệm các nạn nhân vụ khủng bố tháp song đôi, gọi là Ground Zero ở New York.

Sau đó lúc 4 giờ chiều, ĐTC sẽ viếng thăm trường ”Đức Mẹ các thiên thần” và gặp các trẻ em, các gia đình di dân ở khu phố nghèo Harlem. Sau đó lúc 6 giờ, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại Công viên Madison Square ở New York.

Sáng thứ bẩy 26-9, lúc 8 giờ 40, ĐTC sẽ đáp máy bay đi Philadelphia nơi diễn ra Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới.

Tại nhà thờ chính tòa thánh Phêrô và Phaolô của giáo phận Philadelphia vào lúc 10 giờ rưỡi, ngài sẽ cử hành thánh lễ với các GM, giáo sĩ trước sự tham dự của các tu sĩ nam nữ.

Ban chiều vào lúc 4 giờ 45, ĐTC sẽ có cuộc gặp gỡ về tự do tôn giáo với cộng đoàn người nói tiếng Tây Ban Nha, và những người nhập cư tại Công viên Independence Mall, sau đó ngài chủ sự lễ hội gia đình vào lúc 7 giờ rưỡi tối tại khu vực đại lộ Benjamin Franklin Parkway cũng ở Philadelphia.

Sáng chúa nhật 27-9 là ngày chót trong chuyến viếng thăm 9 ngày, tại Đại chủng viện thánh Carlo Borromeom, ĐTC sẽ gặp gỡ các GM khách đến dự Đại Hội các gia đình, rồi viếng thăm các tù nhân vào lúc 11 giờ tại Trung tâm cải huấn Curran-Fromhold ở Philadelphia.

Sau đó vào ban chiều, lúc 4 giờ, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ bế mạc Đại hội kỳ 8 các gia đình Công Giáo thế giới, cũng tại khu Đại lộ B. Franklin.

Sau cùng lúc 7 giờ chiều, ngài chào thăm và cám ơn ban tổ chức cũng như những người thiện nguyện, rồi đáp máy bay trở về Roma, dự kiến sẽ tới phi trường Ciampino vào lúc 10 giờ sáng thứ hai 28-9. (SD 30-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Phỏng vấn ông Marco Roncalli, chắt của Đức Gioan XXIII

Chúa Nhật 27-4-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự thánh lễ tôn phong Hiển Thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Giữa những người tham dự có bà con thân nhân của Đức Gioan XXIII, trong đó có ông Marco Roncalli, chắt của thánh Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông. Marco Roncalli là nhà báo kiêm văn sĩ và là tác giả cuốn sách tựa đề ”Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII”, liên quan tới cuộc sống và tương quan của Đức Gioan XXIII với châu Mỹ Latinh.

Hỏi: Thưa ông Marco, đâu là nét nổi bật trong gương mặt của Đức Gioan XXIII, ”Vị Giáo Hoàng tốt lành”?

Đáp: Trước hết là sợi chỉ dẫn đường xuyên suốt lộ trình cuộc sống nhân bản và tinh thần của Đức Roncalli, là ngưỡng vọng liên tục sự thánh thiện mà chúng tôi đã chứng minh với các tài liệu. Có thể nói rằng nó lộ hiện từ năm này sang năm khác, tháng này qua tháng khác, mùa này sang mùa khác trong một bức thư, một trang nhật ký, một văn bản hay một ghi chú…

Nhưng chúng tôi cũng tìm ra ý thức rằng sự thánh thiện giả thiết thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Thiên Chúa uốn nắn. Thế rồi chắc chắn là nó đã được tóm tắt trong các đề nghị thiên thần tỏa thoát ra từ cuốn ”Nhật ký tâm hồn” của ngài. Trong đó đã có dấu ấn đầu tiên là khẩu hiệu ngài chọn khi làm Giám Mục: đó là ”Obedientia et Pax Vâng lời và hòa bình”. Tôi tin rằng chính tại đây cần nhấn mạnh rằng đoạn này đã là tột đỉnh ý nghĩa toàn vẹn của cuộc tôn phong hiển thánh này: đó là sự gắn bó hoàn toàn với Tin Mừng, ý muốn sống trong sự thánh thiện, tìm kiếm nó như mục đích có thể đạt được, mà không coi nó là điều qúa xa vời. Phó thác cho ý muốn của Thiên Chúa cũng có nghĩa là rồi Thiên Chúa cho phép đạt các mục tiêu ấy, mà tự chúng trong quan niệm của Đức Roncalli, không phải là điều gì siêu phàm, nhưng ở tầm tay của tất cả mọi người, khi một người dấn thân hoàn toàn, nhưng cũng để cho Thiên Chúa uốn nắn.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã muốn tôn phong hiển thánh cho Đức Roncalli và Đức Wojtila cùng một trật. Đây có phải là một sự lựa chọn chính xác không?

Đáp: Đây là điều đã xảy ra với chính Đức Gioan Phaolô II hồi năm 2.000. Ngài đã tôn phong Chân phước Đức Pio IX và Đức Gioan XXIII cùng một lần. Lần này Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II. Có vài nhà bình luận lịch sử nói tới một loại cân bằng. Nhưng mà cân bằng trong nghĩa nào? Ý niệm về sự thánh thiện cũng có thể tới với chúng ta qua các nhậy cảm rất khác nhau. Bởi vì thật là vô ích chối cãi rằng hai vị Giáo Hoàng có hai kiểu sống, hai nhậy cảm và có lẽ cả hai cung cách sống sự thánh thiện khác nhau. Nơi Đức Gioan Phaolô II chiều kích thần bí xem ra được nhấn nạnh hơn, có lẽ được vun trồng trong tương quan của ngài với Thiên Chúa. Nơi Đức Roncalli có lẽ hiển nhiên hơn sự chồng lên nhau giữa chiều kích riêng tư và chiều kích công cộng. Dầu sao đi nữa trong cả hai trường hợp chắc chắn có cùng sự trung thành với Tin Mừng.

Hỏi: Ngay trong các ngày đầu tiên triều đại của Đức Gioan XXIII đã có các dấu chỉ khác nhau của sự mới mẻ, khiến cho nhiều quan sát viên kinh ngạc, có đúng thế không, thưa ông?

Đáp: Vâng, đã có các dấu chỉ rất mạnh mẽ: chẳng hạn như từ sự bình thường hóa giáo triều cho tới việc nới rộng con số các Hồng Y với Công Nghị tấn phong Hồng Y mới, là điều đã không được làm từ lâu. Và cả điều này nữa cũng lập tức trao ban một dấu chỉ mới rất mạnh, từ gương mặt của Đức Giovanni Battista Montini. Nhưng rồi tôi nghĩ tới các hình ảnh rất mạnh mẽ in sâu trong tâm trí của những người đã trông thấy chúng hồi đó, hay của những người đọc lại chúng ngày nay. Chẳng hạn như sự kiện Đức Gioan XXIII đến thăm các trẻ em trong nhà thương nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu và các bệnh nhân trong các nhà thương ở Roma. Tôi nghĩ tới cuộc viếng thăm các tù nhân nhà tù Regina Coeli ngày lễ thánh Stefano, cũng như buổi lễ nhận nhà thờ chính tòa Gioan Laterano. Đức Gioan XXIII đã trở lại đây vào cuối tháng 11 năm 1958, khi ngài đến thăm đại chủng viện nơi ngài đã theo học.

Những gì ngài nói buông với các trẻ em giúp lễ cũng rất hay. Ngài không chỉ nhắc tới các năm đào tạo mà cũng nhắc tới các chủng sinh, và nói rằng ngài bối rối khi nghe người ta gọi ngài là ”Đức Thánh Cha”. Rồi ngài kết luận: ”Các con hãy cầu xin Chúa cho cha để Người ban cho cha ơn thánh thiện mà người ta gán cho cha. Bởi vì nói tới hay tin vào sự thánh thiện là một chuyện, còn có sống thánh không lại là chuyện khác”.

Hỏi: Thưa ông Marco, chúng ta cũng nhớ là ngày 25 tháng giêng năm 1959 khi Đức Gioan XXIII loan báo tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành rằng ngài muốn triệu tập Công Đồng Chung, chúng ta đang ở trong một thời đại lịch sử, trong đó các thần học gia tin rằng thời đại của Công Đồng phải được coi như là khép lại hoàn toàn, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Bề ngoài cùng với ý nghĩ đó còn có định nghĩa về sự không thể sai lầm của Giáo Hoàng nữa. Có cần phải khiến cho 2.800 nghị phụ khắp nơi trên thế giới quy tụ về Roma không? Trái lại, đây chính là sức mạnh và lòng can đảm của Đức Gioan XXIII, khi đưa ra quyết định ngoại thường có tính cách cá nhân này, bởi vì ngài đã hỏi ý kiến của một vài cộng sự viên lập tức, chứ không đưa ra chương trình nghiên cứu dự án Công Đồng cách sâu rộng như bao Giáo Hoàng trước ngài đã làm. Ngài cũng đã cảm thấy được linh hứng và được củng cố bởi Đức Hồng Y Tardini và những vị khác. Việc Ngài loan báo triệu tập Công Đồng gây kinh ngạc và khiến cho nhiều Hồng Y câm nín khi nghe loan báo ngày 25 tháng Giêng năm 1959. Rồi từ đó trở đi, như qúy vị đã rõ, đó là con đường chuẩn bị, dài hơn thời gian họp Công Đồng, với các thời điểm quan trọng, với các sứ điệp qua đài phát thanh, qua đó Đức Gioan XXIII thực sự mời gọi toàn thể Giáo Hội suy tư về chính mình và trách nhiệm của mình đối với con người, và có thái độ sống mới. Chỉ cần nhớ tới vài câu của bài diễn văn nổi tiếng ”Gaudet Mater Ecclesia”, khi Công Đồng khai mở sau thời gian chuẩn bị. Tôi chỉ xin trích một câu thôi, điều này nhấn mạnh rằng Giáo Hội ưa thích dùng phương thuốc của lòng thương xót, là một từ khác nữa trong các từ rất thường được dùng trở lại trong các ngày đó.

Hỏi: Liên quan tới châu Mỹ Latinh đâu đã là âu lo đầu tiên của Đức Gioan XXIII đối với vai trò của Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh?

Đáp: Âu lo của ngài cũng là những âu lo đối với các vùng khác của đại lục này: đó là nền hòa bình, hạnh phúc tinh thần và vật chất. Đương nhiên là trong ý thức Châu Mỹ Latinh là một vùng đất có nhiều nguy cơ vì chính sách cai trị của các chính quyền địa phương, và cũng vì sợ rằng với Cuba các nước này có thể chịu cùng số phận như thế. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng Đức Cha Antonio Samorè, hồi đó là Thư ký phân bộ ngoại vụ Phủ Quốc Vụ Khanh, đã tham dự nhiều phiên họp của các đại diện các Hội Đồng Giám Mục Bắc và Nam Mỹ, và đã nghĩ ra các hình thức cộng tác mới trong công tác tông đồ. Và không phải là bí mật gì việc đôi khi ngài đã phải vất vả ”dung hòa” lập trường chiến thuật liên quan tới Châu Mỹ Latinh đối với các vị khác của Phủ Quốc Vụ KHanh Tòa Thánh. Và công việc phải làm bên Châu Mỹ Latinh thì bao la: ngày 24 tháng Giêng Đức Gioan XXIII viết trong nhật ký: ”Buổi tiếp kiến Đức Cha Samorè sáng nay đã cảm hóa và đưa tôi vào trong công việc rộng rãi đối với Châu Mỹ Latinh mà Phủ Quốc Vụ Khanh chú ý”. Ngày 13 tháng 8 năm 1962 Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng còn ghi: ”Đã tiếp: Đức Hồng Y Giám Quản xác nhận với tôi sự hài lòng của người đối với dự án tòa giám quản Laterrano. Đức Cha Samorè là người thường có cái nhìn về các điều kiện chính trị tôn giáo trong các nước khác trên thế giới, cách riêng Châu Mỹ Latinh. Đức Cha Luigi Centoz, Sứ Thần Tòa Thánh tại Cuba, đã rất là hay, giờ đây được nâng lên hàng Phó nhiếp chính của Giáo Hội công giáo Roma, khi trống ngôi Giáo Hoàng. Tôi đã cám ơn người rất nhiều về công việc phục vụ quý báu tại Cuba, nơi người đã vượt quá mọi chờ mong”.

Hỏi: Thưa ông, vào năm 1960 Đức Gioan XXIII đã gửi một sứ điệp lịch sử đọc bằng tiếng Bồ Đào Nha cho Brasil nhân dịp lễ khánh thành thủ đô Brasilia. Đức Gioan XXIII đã học ngôn ngữ của ông Camões là nhà thơ lớn nhất người Bồ Đào Nha, và ngài đã có các chú ý đặc biệt nào đối với Brasil?

Đáp: Brasil quốc gia mênh mông có thủ đô đã được Đức Gioan XXIII chào mừng. Nhưng trước đó ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1959 vài nhà ngoại giao Brasil đã được ngài tiếp kiến. Ghi chú đầu tiên liên quan tới Brasil là ngày 21 tháng 7 năm 1959, khi Đức Gioan XXIII tiếp thủ tướng Nhật Nobosuke Kishi và ngài đã viết: ”Nhật Bản là quốc gia lớn đối với các lợi lộc của Nước Chúa Kitô: siêu dân số gây ấn tượng và di cư không lay chuyển. Brasil hầu như là quốc gia mênh mông duy nhất có khả năng nhận điều mà Nhật Bản không thể chứa đựng”… Rồi ngày 31 tháng 7 năm 1959 Đức Gioan XXIII tiếp Bộ trưởng Hải quân Brasil, Đô đốc Jorge Do Passo Mattoso Maia, phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngày 7 tháng 9 Đức Cha Armando Lombardi Sứ Thần Tòa Thánh tại Brasil được Đức Gioan XXIII tiếp kiến. Ngày mùng 2 tháng Giêng năm 1960 đại sứ các nước Bolivia, Haiti, Venezuela cùng đại sứ Brasil đến gặp Đức Gioan XXIII, Và Đức Thánh Cha ghi trong nhật ký: ”Đại sứ Bolivia xin một Hồng Y cho nước mình”. Đây là điều sẽ được thực hiện dưới thời Đức Phaolô VI.

Ngài cũng dành mấy hàng cho Brasil trong nhật ký ngày 21 tháng 4 năm 1960: ”Hôm nay lễ Giáng Sinh tại Roma và là ngày khánh thành thủ đô Brasilia, thủ đô thứ ba của quốc gia mênh mông này, nơi có hơn 60 triệu tín hữu công giáo. Tối vừa qua tôi đã gửi một sứ điệp chúc mừng và phép lành bằng tiếng Bồ Đào Nha. Đại sứ Ribeiro Briggs Moacyr, trưa hôm nay sẽ đến đọc cho tôi nghe một sứ điệp đặc biệt của tổng thống, bầy tỏ lòng kính trọng Giáo Hoàng và Giáo Hội công giáo nhân danh quốc gia này. Tôi đã mời ông đại sứ cùng tôi đọc kinh Truyền Tin trong sự hiệp thông và cầu phúc lành của trời cao cho toàn nước Brasil”. Còn có một ghi chú khác ngày 1 tháng 8 năm 1960: ”Ôi, bầu trời tại một vài phần trên thế giới đen tối chừng nào! Và có biết bao bất an cho Hội Thánh! Chủ thuyết cộng sản tiếp tục sự len lỏi tai hại của nó: từ Brasil có các tin tức đớn đau liên quan tới vài Giám Mục hoạt động cho sự ly giáo”. Đó là vụ Đức Cha Carlos Duarte Costa, Giám Mục giáo phận Botacatù, bị vạ tuyệt thông năm 1964 vì đã thành lập ”Giáo Hội công giáo tông truyền Brasil”, bằng cách truyền chức bất hợp pháp 15 Giám Mục và một số linh mục. Mục sư tin lành Salomon Ferraz cũng đi theo và được phong Giám Mục, nhưng sau này sẽ thành lập một giáo phái riêng rẽ. Nhưng cuộc ly giáo thứ hai này được giải quyết êm thắm, khi Đức Cha Ferraz trở về với Giáo Hội công giáo tháng 12 năm 1959 và chức giám mục được thừa nhận. Tiếp theo đó nhật ký của Đức Gioan XXIII nhắc tới các cuộc gặp gỡ với các Giám Mục và giới chức ngoại giao đến từ Brasil.

(SD 18-4-2014; RG 21-4-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio