Năm chiếc bánh và hai con cá

Năm chiếc bánh và hai con cá

Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).

Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy"( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.

Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.

Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.

Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.

Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.

Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.

Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.

Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.

Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).

Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).

Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).

Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.

Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.

Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).

Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.

Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.

Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.

Tất cả là hồng ân!

Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.

LM Giuse Trần Việt hùng

ĐỨC HỒNG Y CHỦ TỊCH CARITAS QUỐC TẾ CẦU MONG HÒA BÌNH VÀ HÒA GIẢI GIỮA HAI DÂN TỘC DO THÁI VÀ PALESTINE

ĐỨC HỒNG Y CHỦ TỊCH CARITAS QUỐC TẾ CẦU MONG HÒA BÌNH VÀ HÒA GIẢI GIỮA HAI DÂN TỘC DO THÁI VÀ PALESTINE

ROMA: Đức Hồng Y Rodriguez Maradiaga, Chủ tịch Caritas Quốc Tế, cầu mong hai dân tộc Do thái và Palestine can đảm chấm dứt chiến tranh thù hận, hòa giải với nhau để chung sống hòa bình và thăng tiến công ích.

Trích lại Thông điệp ”Hòa bình dưới thế” của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, Đức Hồng Y viết trong thông cáo công bố hôm 31-7-2014 như sau: ”Xin Chúa Kitô đốt lên các ước mong của mọi người bẻ gẫy các hàng rào ngăn cách họ với nhau, củng cố các mối dây yêu thương nhau, học hiểu biết nhau và tha thứ cho những ai gây ra sai lầm cho họ”.

Từ đầu tháng 7 tới nay 2 triệu người Palestine sống trong dải Gaza và dân Israel đã bị cuốn hút vào một cuộc chiến tàn hại. Dân chúng không có chỗ an ninh để trú ẩn, khi bom đạn rơi trên các vùng đông dân cư ở Gaza. Ho trông thấy con cái của họ bị tàn sát, nhà cửa của hàng xóm láng giềng bị san bình địa, và mọi hy vọng nơi tương lai bị tan vỡ. Chiến trường là hàng xóm đầy trẻ em, phụ nữ và nam giới. Các nhà thương đầy người bị thương và người chết, và cả trường học là nơi trú ẩn của người dân cũng bị bỏ bom. Caritas chúng tôi đã kêu gọi ngưng chiến, nhưng đây chỉ là bước đầu dẫn đến hòa bình công bằng, dựa trên các cuộc thương thuyết trong toàn vùng. Con đường hòa giải còn dài, nhưng nó bắt đầu với chính chúng ta. Israel và Hamas tại sao enh em vẫn muốn lấy cọng rơm khỏi mắt người anh em, mà lại không thấy cài xà trong mắt mình? Hãy bỏ khí giới xuống, và lấy ống nhòm để nhìn đa số các nạn nhân của anh em là thường dân vô tội.

Đức Hồng Y Maradiaga cũng ghi nhận rằng đây là chiến cuộc thứ ba trong năm năm qua giữa người Do thái và lực lượng Hamas tại Gaza. Trong các năm qua người dân Gaza đã phải sống trong cảnh thiếu nước uống, đa số thực phẩm đến từ các tổ chức trợ giúp nhân đạo, và phẩm giá con người bị hạ nhục vì không tìm ra công ăn việc làm. Tổ chức Caritas đã trợ giúp vật chất và tinh thần cho người dân tại đây trong các thời điểm kkó khăn. Đức Hồng Y kêu gọi thôi cấm vận Gaza và che chở cuộc sống và các phương kế sinh nhai của người dân. Lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi hai tổng thống Perez và Abbas vẫn còn văng vẳng trong tai mọi người: phải có can đảm để kiến tạo hòa bình, và hành động ngược lạơi nhừng gì đã làm cho tới nay. Caritas chúng tôi cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh Địa, cho các gia đình Palestine và Israel đã mất con cái và người thân, cho các trẻ em phải sống trong kinh hoàng và bị chấn thương tinh thần. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho các nhân viên Caritas Giêrusalem và công tác cứu trợ của họ. Chúng tôi cầu xin cho các anh chị em Israel và Palestine được tự do tin vào một tương lai công bằng và hòa bình, trong thời điểm chiến tranh và đàn áp kinh khủng này.

Tin cuối cùng cho biết hai bên Israel và Hamas đã chấp thuận ngưng chiến 72 giờ đồng hồ để cho các tổ chức nhân đạo có thể cứu trợ các nạn nhân tại Gaza (SD 31-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC HỒNG Y VINCENT NICHOLS KÊU GỌI NGƯNG CHIẾN TẠI GAZA

ĐỨC HỒNG Y VINCENT NICHOLS KÊU GỌI NGƯNG CHIẾN TẠI GAZA

LUÂN ĐÔN: Đức Hồng Y Vincent Nichols, Giáo chủ Anh quốc và vùng Galles, đã kêu gọi ngưng chiến ngay tức khắc để kết thúc cảnh tàn sát tại Gaza, và tìm ra giải pháp cho hòa bình giữa hai dân tộc Israel và Palestine.

Đức Hồng Y đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thông cáo công bố ngày 31-7-2014 tại Luân Đôn. Trước nạn bạo lực gia tăng đang nuốt trửng người dân sống trong vùng Gaza, Đức Hồng Y nghĩ tới và cầu nguyện cho tất cả những ai đã mất người thân, và cuộc sống bị phá hủy bởi cuộc xung khắc. Các khổ đau lo âu và tuyệt vọng của những người nam nữ và trẻ em kêu lên rằng chiến tranh không phải là câu trả lời cho các vấn đề. Như xung khắc cho thấy bạo lực sinh ra bạo lực. Cùng với bao nhiêu người khác, tôi nài xin qúy vị ngưng cuộc tàn sát tại Gaza, và tìm ra giải pháp cho các vấn đề nòng cốt của cuộc xung đột giữa Israel và Palestin đã tàn phá cuộc sống của mọi dân tộc tại Thánh Địa (SD 31-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chiến tranh: lò sa thải và thử nghiệm khí giới

Chiến tranh: lò sa thải và thử nghiệm khí giới

Như chúng tôi đã liên tục đưa tin, trong ba tuần qua chiến cuộc giữa quân đội Israel và lực lựơng Hamas của người Palestine đã khiến cho 1,500 người chết, hơn 5,000 người bị thương và mấy trăm ngàn người phải bỏ nhà cửa di tản. Từ hơn mười ngày qua quân đội Israel đã cảnh báo người dân Palestine sống tại miền bắc dải Gaza phải mau chóng rời bỏ nhà cừa ruộng vườn, vì họ sẽ bỏ bom và bắn đại bác vào các vùng này, để tiêu diệt các căn cứ của lực lượng Hamas, rải rác trà trộn giữa nhà người dân.

Cho tới nay phía Israel đã phá hủy 50 hầm bí mật, mà lực lượng Hamas đã đào sang đất Israel để mở các cuộc tấn công hay bắn các hỏa tiễn vào làng mạc và thành phố của người do thái, kể cả Tel Aviv, Haipha và Giêrusalem. Đa số các hỏa tiễn này đã bị lực lượng phòng không của Israel phá hủy trên không trung. Tuy không chính xác, nhưng hàng ngàn hỏa tiễn này có tiếng rú rất mạnh khiến cho dân chúng kinh hoàng sợ hãi, vì phải liên tục nghe tiếng còi báo động và sống trong bất an.

Mấy cuộc ngưng bắn do Ai cập đề nghị và làm trung gian, cũng như qua trung gian của ngoại trường Hoa Kỳ John Kerry và ông Ban Ki Moon, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đã chỉ kéo dài vài giờ, vì không được phe Hamas tôn trọng. Phe Hamas đòi chính quyền Israel hủy bỏ lệnh cấm vận Gaza đã kéo dài từ 12 năm qua, khiến cho vùng Gaza hoàn toàn bị cô lập với thế giới bên ngoài. Nhưng đó là điều Israel không muốn. Do đó, chiến tranh vẫn tiếp diễn nên các tổ chức cứu trợ nhân đạo đã không thể trợ giúp các nạn nhân, đa số là người Palestine sống trong dải Gaza.

Tin cuối cùng cho biết hôm 1 tháng 8-2014 Israel và lực lượng Hamas đã chấp thuận ngưng bắn 72 giờ đồng hồ, để các tổ chức nhận đạo có thể đem các phẫm vật cứu trợ tới cho người Palestine dang phải chịu cảnh đói khát, không có nước uống và thiếu thực phẩm cũng như mọi thứ cấn thiết. Các nhà thương trong dải Gaza đầy ắp người bị thương và người chết. Từ 5 năm qua đây là lần thứ ba xảy ra xung khắc giữa người Israel và lực lượng Hamas.

Mặc dù các lời kêu gọi liên tục và sáng kiến cầu nguyện cho hòa bình của Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng như của nhiều Hội Đồng Giám Mục quốc gia và các giới chức lãnh đạo tôn giáo trên thế giới, cả hai bên đều ”giả điếc làm ngơ”, không bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Và thế là cứ ”hòn đất ném qua, hòn chì ném lại”. Chỉ tội nghiệp cho các thường dân vô tội phải gánh hết mọi hậu quả tiêu cực của chiến tranh: chết chóc, thương đau và tàn phá. Chỉ một quả bom hay một trái đại bác, cả gia tài cơ nghiệp mà họ cố gắng gầy dựng với biết bao nhiêu hy sinh chắt bóp và mồ hôi nước mắt bỗng thành mây khói.

Thật ra, chúng ta đều biết rằng tất cả mọi cuộc chiến trên thế giới hiện nay đều là cách sa thải các vũ khí cũ, và thử nghiệm các vũ khí mới tối tân và tàn sát hữu hiệu và nặng nề hơn. Trong trường hợp tại Thánh Địa các nước A rập trong đó có A rập Sauđi, Iran, Ai Cập và các nước khác trong khối A rập thù nghịch với Israel cung cấp vũ khí cho lực lượng Hamas và người Palestine. Trong khi Hoa Kỳ yểm trợ khí giới cho Israel. Các quốc gia có kỹ nghệ sản suất chế tạo và buôn bán khí giới mạnh nhất vẫn là các cường quốc Hoa Kỳ, Nga, các nước Âu châu như Đức, Anh quốc, Pháp, Italia. Và các nước kỹ nghệ đang lên như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Brasil, Nam Phi, Camerun, cũng sản xuất và buôn bán khí giới.

Để có thể tiêu thụ mọi thứ vũ khí ngày càng tối tân, cần phải tạo ra chiến tranh, với tất cả các lý do chính đáng và thường khi là không chính đáng. Và không cần phải tìm tòi và lý luận dài dòng ai cũng biết ngay rằng các quốc gia có kỹ nghệ chế tạo và buôn bán khí giới thường tìm cớ gây ra chiến tranh, xúi dục cho các lực lượng và phe phái khác nhau thù hằn bắn giết nhau, rồi rêu rao là trợ giúp các quốc gia hay các phe lâm chiến ấy, vì muốn bảo vệ các nền dân chủ, hay du nhập nền dân chủ kiểu tây âu vào các xã hội Phi châu, châu Mỹ Latinh và Á châu. Các kho chứa vũ khí đã đầy ứ, vì thế cần phải thải bớt và bán các vũ khí cũ đi, để lấy chỗ cho các khí giới mới tối tân và có sức tàn phá mạnh hơn. Chiến tranh trở thành dịp sa thải các khí giới cũ, đồng thời cũng là dip thử các vũ khí mới tinh vi hơn.

Đó là các lý do ngoại tại của chiến tranh. Các lý do nội tại của chiến tranh thường là các bất công, đàn áp, trong các đường lối chính trị, kinh tế tài chánh và xã hội của một nước, trong đó hàng lãnh đạo có khuynh hướng cai trị độc tài, bưng bít và ngu dân.

Dầu sao đi nữa, trong cái luận lý của kỹ nghệ chế tạo buôn bán vũ khí, chiến tranh cần thiết, vì nó là chợ trời sa thải vũ khí, cũ và là lò thử nghiệm các vũ khí mới tối tân, có khả năng giết người và tàn phá môi sinh mạnh mẽ hữu hiệu hơn. Qua đó chúng ta hiểu tại sao thế giới này lại không có hòa bình.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

GIÁO HỘI CHILE PHÊ BÌNH DỰ LUẬT CẢI TỔ GIÁO DỤC CỦA CHÍNH QUYỀN

GIÁO HỘI CHILE PHÊ BÌNH DỰ LUẬT CẢI TỔ GIÁO DỤC CỦA CHÍNH QUYỀN

SANTIAGO OF CHILE: Đức Cha Ricardo Ezzati Andrello, Tổng Giám Mục Santiago de Chile, đã mạnh mẽ phê bình dự luật cải tổ giáo dục của chính quyền là thiếu nền tảng vững chắc.

Trong một bài viết đăng trên nhật báo El Mercurio, Đức Cha Andrello nhận định răng các thay đổi mà chính quyền Chile muốn đề ra cho nền giáo dục khiến cho ngài nhận ra nỗ lực khổng lồ trong việc làm các cửa chính và cửa sổ, mà không biết dùng chúng cho ngôi nhà nào cần xây. Có vài khía cạnh được coi là nền tảng và được ưu tiên, nhưng không có sự chú ý đúng đắn tới hệ thống giáo dục cho sự trưởng thành của tất cả mọi người và là phần của một cộng đoàn công bằng, liên đới và huynh đệ. Một trong những mục tiêu chính trong chương trình cải tổ giáo dục của chính quyền Chile là gia tăng phẩm chất và rộng mở cho mọi mức độ. Nhưng các dự án được gửi tới chỉ đáp ứng một phần của mục tiêu này nhằm đưa vào đó ý niệm lợi lộc trong các cơ cấu giáo dục phải trả tiền, và việc tuyển lựa các sinh viên học sinh trong các trường nhận trợ cấp của chính phủ.

Cho tới nay chính quyền không đưa ra các câu hỏi muốn làm gì với việc giáo dục người trẻ Chile, muốn xây dựng loại người và xã hội nào. Các đảng phái đã trình bầy ý kiến, nhưng thiếu liên kết. Đức Tổng Giám Mục còn tỏ ra lo âu đối với những gì không được chính quyền nêu lên như: quan niệm về con người và về xã hội, vai trò của nhà nước, và vai trò không thể khước từ của gia đình trong việc giáo dục con cái họ.

Giáo Hội Chile, cũng như tại đa số các nước châu Mỹ Latinh, rất hiện diện trong lãnh vực giáo dục qua hàng loạt các trường tư cấp tiểu, trung và đại học, do Giáo Hội điều khiển hay do các tổ chức điều hành không có mục đích lợi nhuận. Chính quyền nói việc cải cách sẽ thiết định các nội dung giáo dục cần thông truyền trong các trường học, nhưng không can thiệp vào các chương trình chuyên biệt gợi ý, trong đó có việc đào tạo tôn giáo.

Đức Cha Andrello cảnh cáo hệ thống giáo dục bị tiền bạc điều khiển, và nhà nước có thể rơi vào cám dỗ áp đặt các tiểu chuẩn ý thức hệ hạn chế hay kiểm soát sự độc lập của các chương trình giáo dục. Không thể chấp nhận một nền giáo dục lèo lái bản vị con người và biến nó thành một con số vô danh (SD 30-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CÁC GIÁM MỤC NAM PHI TỎ TÌNH LIÊN ĐỚI VỚI CÁC TÍN HỮU KITÔ TẠI GAZA

CÁC GIÁM MỤC NAM PHI TỎ TÌNH LIÊN ĐỚI VỚI CÁC TÍN HỮU KITÔ TẠI GAZA

THÀNH PHỐ CAPE: Trong các ngày vừa qua Hội Đồng Giám Mục Nam Phi đã viết thư cho Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal, để bầy tỏ tình liên đới với các Kitô hữu Gaza.

Thư mang chữ ký của Đức Cha Stephen Brislin, Tổng Giám Mục giáo phận thành phố Cape, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Nam Phi. Đức Cha đã nhắc tới chuyến viếng thăm Tòa Thượng Phụ Giêrusalem và giáo xứ công giáo tại Gaza hồi tháng giêng năm nay nhân cuộc họp của Ủy ban phối hợp Thánh Địa.

Đức Cha Brislin viết: ”Chúng tôi đã nhớ tới các câu chuyện kể lại nổi khổ đau, sự nhục nhã và áp bức gia tăng mà anh chị em phải gánh chịu, trong khi các đường lối chính trị toàn vùng khiến cho cuộc sống của anh chị em ngày càng không thể chịu đựng nổi. Hằng ngày chứng kiến tình hình bạo lực gia tăng, chúng tôi muốn bầy tỏ tình liên đới sâu xa, các lời cầu nguyện và dấn thân hợp tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế gây áp lực trên các giới hữu trách để giúp đạt tới một nền hòa bình công bằng và lâu bền.

Với kinh nghiệm chấm dứt chính sách kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi chúng tôi biết rằng tình liên đới quốc tế và các cuộc biểu tình lớn là sức mạnh có khả năng thay đổi các tình trạng bất công. Chúng tôi hy vọng rằng sự ủng hộ của chúng tôi trao ban cho anh chị em và toàn Giáo Hội tại Thánh Địa sức mạnh tìm ra niềm hy vọng của sự Phục Sinh trong những lúc khó khăn này. Chúng tôi xin Đức Thượng Phụ chuyển thư này tới tín hữu giáo xứ Thánh Gia tại Gaza, đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu trong chuyến viếng thăm hồi tháng giêng năm nay. Chúng tôi xin bảo đảm với anh em lời cầu nguyện của toàn dân Nam Phi, cách riêng của toàn tổng giáo phận thành phố Cape (SD 30-7-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

KHỦNG BỐ VÀ BẤT KHOAN NHƯỢNG LÀ HAI TỆ NẠN TẠI PAKISTAN

KHỦNG BỐ VÀ BẤT KHOAN NHƯỢNG LÀ HAI TỆ NẠN TẠI PAKISTAN

LAHORE: Khủng bố và bất khoan nhượng tôn giáo là các tệ nạn trầm trọng nhất đang gây đau buồn cho dân nước Pakistan. Linh Mục Ynayat Bernard, giám đốc đại chủng viện Thánh Maria tại Lahore đã khẳng định như trên.

Cha cho biết Giáo Hội tại Pakistan đang trả lời cho các thách đố này qua Caritas Isalamabad-Rawalpindi tại miền Bắc trong việc trợ giúp làn sóng người ty nạn trong vùng Bắc Waziristan, nơi xảy ra các vụ giao tranh giữa quân đội chính phủ và các lực lượng khủng bố. Chúng tôi muốn hòa bình và Hồi giáo cũng là một tôn giáo hòa bình. Toàn dân Pakistan ủng hộ cố gắng của quân đội nhằm nhổ tận gốc rễ nạn khủng bố. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn có một tâm thức hồi taleban, bất khoan nhượng và đầy thành kiến, cần phải thay đổi. Cha Ynayat cũng cho biết trong nhiều trường học Coran và trong các hội đường hồi giáo người ta dậy tín hữu rằng những người không theo hồi giáo là các kẻ bất trung, và người ta nuôi dưỡng sự bất khoan nhượng và bạo lực.

Theo cha, để có thể thay đổi não trạng này cần phải cố gắng củng cố cuộc đối thoại liên tôn. Nhờ sự yểm trợ của nhiều vị lãnh đạo tôn giáo cuộc đối thoại cuộc sống với tín hữu hồi đã được bắt đầu. Cha nói chúng tôi tổ chức các cuộc găp gỡ và các biến cố để cho thấy những gì là chung cho mọi người. Các lời nói và cử chỉ này có ảnh hưởng trên xã hội. Chúng tôi sẽ tiếp tục xây cầu và gieo vãi hạt giống để chúng có thể nẫy mầm giúp thay đổi não trạng. Trong các trường học, sách giáo khoa và chương trình học người ta cũng thường có thành kiến đối với các nhóm thiểu số. Nhưng điều quan trọng là phải luôn luôn đối thoại với các giới lãnh đạo dân sự và tôn giáo (FIDES 28-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thánh Inhaxiô, Tổ Phụ Dòng Tên

 Thánh Inhaxiô, Tổ Phụ Dòng Tên

Từ Lộ Đức (Pháp) đến Burgos (Tây Ban Nha) hơn 400km. Tại Burgos có Đền Thánh Loyola nổi tiếng. Từ xa, nhìn Nhà thờ với dáng vẻ cổ kính và khuôn viên rộng lớn. Bên trong Nhà thờ có nhiều Nhà nguyện ở chung quanh với những cột đá cẩm thạch nhiều màu sắc khác nhau thật lộng lẫy, có nhiều tác phẩm nghệ thuật trên cung thánh, trên trần và trên các bức tường.

 

dongten1
 

Chúng tôi viếng thăm những nơi liên hệ đến cuộc hoán cải của Thánh Inhaxiô. Hướng dẫn chương trình tham quan đã được thu âm bằng nhiều ngôn ngữ. Chọn phần tiếng Việt, chúng tôi lắng nghe về hành trình hoán cải và nên thánh của Inhaxiô, đi đến những căn phòng giới thiệu về cuộc đời của thánh nhân và đến Nhà nguyện “hoán cải” dâng thánh lễ.

1. Đôi dòng tiểu sử Thánh Inhaxiô

Thánh Inhaxiô sinh tại Loyola vào năm 1491, trong một gia đình quí tộc xứ Basque của Tây Ban Nha. Inhaxiô là người em út trong số 13 người con. Thời niên thiếu, Ignatiô được nhà vua chọn làm người hầu cận, tiếp đến là chiến sĩ trong quân đội hoàng gia.
 

http://www.righteousnessislove.org/wp-content/uploads/2013/06/Ignatius_von_Loyola-IHS.jpg
 

Năm 1509, Inhatiô tòng quân Antonio Manrique de Lara, Duke thành Najera và Viceroy thành Navarre với mục đích là được thăng tiến thành một công tước. Dưới sự lãnh đạo của Duke, Inhaxiô đã tham gia nhiều trận đánh mà không bị thương tích gì.

Ý Chúa thật nhiệm mầu. Sức mạnh lại bày tỏ qua sự yếu đuối như lời thánh Phaolô: “…vì quyền năng của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9). Ngày 20 tháng 5 năm 1521, cột mốc ghi dấu đặc biệt. Quân Pháp đánh chiếm thành Pamplona. Inhaxiô bị một viên đạn đại bác bắn gảy chân và bị thương nặng. Bức tượng bằng đồng phía ngoài hành lang kể lại sự kiện này.Trở về sống dưỡng bệnh trong lâu đài của gia đình, Inhaxiô giết thời giờ bằng cách đọc những sách kể lại những hành động phi thường và lãng mạng của các hiệp sĩ. Các Nữ tu đã đem đến cho ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và cuốn “Hạnh các thánh”. Dần dần, những quyển sách này đã thu hút ngài. Khi đọc về cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi, thánh Đaminh và nhiều tu sĩ nổi tiếng khác, Inhaxio quyết tâm noi gương các bậc thánh nhân hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Giáo Hội.

Sau khi phục hồi, Inhaxio đến thăm tu viện Santa Maria de Montserrat của dòng Biển Đức. Tại đây, ngài treo bộ quân phục của mình trước một bức hình Đức Mẹ Maria. Sau đó, ngài đến thị trấn Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống trong một hang động để thực hành khổ hạnh khắt khe. Tại Manresa, Inhaxio bắt đầu thay đổi lối sống và cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen lẫn niềm vui và nỗi khổ đau.Lương tâm bị đánh động, từ đó ngài khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô. Có một lời cầu nguyện cho các hối nhân mà Inhaxiô rất tâm đắc: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa".

dongten2
 

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria, thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này, Linh Thao là con đường thiêng liêng đặc biệt và ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, đó là cuốn “Những Thao Luyện Tâm Linh”.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài, các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng, kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Paris.

Sau khi đi hành hương ở Đất Thánh về, Inhaxiô quyết định trở thành một linh mục. Việc này đòi hỏi ngài phải bắt đầu lại việc học hành. Inhaxiô đã cố gắng học tiếng La tinh và ghi tên vào học ở Đại học Paris.Trong lúc theo học ở Paris, ngài đã thu phục được một nhóm nhỏ sinh viên thành lập một hội đoàn trong đó có Phanxicô Xaviê và Pierre Fabre.

2. Sáng lập Dòng Tên

https://news4themasses.files.wordpress.com/2012/02/ignatios-loyola.jpg
 

Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15-8-1534, bảy sinh viên Đại Học Paris cùng nhau đến nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre (Crypte du Martyrium de Montmartre) để tuyên khấn. Chân phước Phêrô Favre, linh mục duy nhất của nhóm, dâng lễ, một lễ dành riêng cho họ. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, mỗi người lần lượt đọc lời khấn đã viết sẵn. Trong tinh thần này, bảy anh em đã ý thức được một tâm tình: Tất cả là những người Bạn của Chúa Kitô. Trong số bảy người đó, ngoài Thánh Inhaxiô ra còn có Thánh Phanxicô Xaviê. Khi viếng thăm nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre, chúng tôi đọc được một bảng bằng đồng viết bằng tiếng La tinh: “Societas Jesu Quae Sanctum Ignatium Loyolam Patrem agnoscit, Lutetiam matrem Hic nata est. – Dòng Tên sinh tại nơi đây. Cha: Thánh Inhaxiô, Mẹ: Paris”.

Sau thời gian sống ở Paris, Inhaxiô và nhóm bạn bảy người đã nuôi mộng sẽ đi Giêrusalem và dấn thân ở đó. Tuy nhiên, họ cũng có một ý tưởng thứ hai, là nếu điều kiện không cho phép họ đi Giêrusalem, thì tất cả sẽ xin tự nguyện tùng phục Đức Thánh Cha, và sẽ đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để phục vụ Giáo Hội.

Khi từng người lần lượt đã đến Roma, họ nhận được sự chúc lành của Đức Thánh Cha, Ngài cũng cho phép họ đi Đất Thánh và Ngài còn cho phép tất cả được chịu chức Linh Mục.

Trong năm đó, năm 1537, vì điều kiện không cho phép, nên việc đi Giêrusalem phải hoãn lại, và với thời gian, Chúa đã muốn hướng đi khác cho những người trẻ này. Đặc biệt trong thời gian này Inhaxiô đã có được một thị kiến tại La Storta: “Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà thờ, Inhaxiô nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài. Inhaxiô không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt mình cùng Chúa Con” (Hồi ký I-nhã số 96). Đó chính là một trong những kinh nghiệm giúp Inhaxiô và các anh em nhận ra được ơn gọi để trở nên những người kết thân với Chúa Kitô, trở nên những môn đệ của Ngài và cùng Ngài lên đường phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn.

Trong thời gian này, các anh em tiếp tục sống tinh thần tông đồ, giúp các các linh hồn, và đưa mọi người về với Đức Kitô đúng theo tinh thần của Linh Thao. Đây cũng là một trong những trọng tâm sống của họ. Các anh em đều tiếp tục xây dựng cuộc sống của mình trên đặc sủng Linh Thao. Họ cũng nhận định và suy nghĩ về tương lai của mình. Một trong những điều họ suy nghĩ là: “Nên đặt tên cho nhóm bạn mình là gì đây?”. Với tâm tình “là những người bạn trong Chúa Kitô”, tất cả đều đồng tâm chọn chính tên của Đấng đã làm cho mọi người yêu mến và ao ước phục vụ. Vì thế, họ đã chọn tên cho nhóm là: “Societatis Jesus – Cộng đoàn Giêsu hữu”.

Sau đó, vào mùa Chay năm 1539 tại Rôma, Inhaxiô và các bạn đã nhất trí xin lập một dòng tu mới. Đức Thánh Cha Phaolô III đã chính thức phê chuẩn Dòng Chúa Giêsu vào năm 1540, với tên gọi “Cộng đoàn Giêsu hữu”. Thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên đầu tiên. Ở đây xin mở ngoặc để phần nào trả lời cho câu hỏi: “Tại sao ở Việt Nam lại kêu Dòng Chúa Giêsu là Dòng Tên?“ Vì khi Dòng Chúa Giêsu vào Việt Nam, thì trong bối cảnh xã hội thời đó, ai kêu tên của Ông Bà Cha Mẹ, đặc biệt tên của Chúa, thì rất phạm thượng, nên “Dòng Chúa Giêsu” đã được kêu là “Dòng Tên”, để không phạm húy, để mọi người dễ chấp nhận, và cũng dễ dàng cho anh em Giêsu Hữu thời đó trong việc truyền giáo.

Khi Dòng Tên được phê chuẩn và hình thành, Inhaxiô và các anh em đã quyết định một vài điều liên quan đến đời sống thiêng liêng và phục vụ. Cộng đoàn Dòng Tên sẽ không có giờ kinh phụng vụ chung, tu sĩ dòng không có áo dòng như các tu viện và dòng Tu thời đó, và Dòng Tên cũng không là một tu viện với một “chỗ gối đầu” êm ấm, được bao quanh bởi bốn bức tường kiên cố. Nhưng tại sao lại có những quyết định như thế? Đơn giản là các tu sĩ Dòng Tên cần phải sống ơn gọi tông đồ mà Thiên Chúa đã mời gọi. Vì thế, họ đã chọn lựa một số cách thức giúp họ dễ dàng thi hành sứ mạng tông đồ hơn. Vì thế, tu viện của Dòng Tên sẽ là phố phường và thế giới, nơi các tu sĩ Dòng Tên đặt chân tới để giúp các linh hồn và phục vụ anh chị em. Đó chính là tinh thần sống của Inhaxiô, một người lữ hành, và của những anh em Dòng Tên từ xưa cũng như hôm nay.

Từ đó trở đi, theo gương của Chúa Giêsu, các tu sĩ Dòng Tên đã đi đến từng phố phường, làng mạc…, để đem Tin Mừng của Chúa đến khắp mọi nơi, cùng chia sẻ và giúp đỡ từng tâm hồn nhận ra được tình yêu của Chúa, tin vào Tin Mừng của Ngài, và tập sống theo mẫu gương của Đức Kitô. Đặc biệt, ở đâu cần giúp đỡ hơn, ở đâu khó khăn hơn, ở đâu Tin Mừng Chúa cần “nở hoa” hơn thì các anh em Dòng Tên quyết tâm lên đường dấn thân nơi đó. Vì vậy mà Phanxicô Xaviê đã phải xa lánh nhóm bạn, đáp tàu đến một vùng đất xa xôi và lạ lẫm ở Ấn Độ và Nhật Bản, Mattheo Ricci và Adam Schall ở Trung Quốc, Alexandre de Rhode (cha Đắc Lộ) ở Việt Nam, và còn bao tu sĩ Dòng Tên khác đã đặt chân lên Nam Mỹ, Châu Phi.

Ngoài ra, môi trường phục vụ của dòng Tên ngày xưa, cũng như hiện nay với trên 20 ngàn tu sĩ tại 127 quốc gia, không giới hạn ở một chân trời nào cả. Không chỉ có chân trong triều đình nhà Vua thời xưa, mà còn ở những góc phố dơ bẩn tại Manila thời nay. Không chỉ ở tại những đại học danh tiếng như Georgetown University – Hoa Kỳ, mà còn tại những vùng hoang vu đất đỏ ở Việt Nam. Thực vậy, nơi nào Vinh Danh Thiên Chúa hơn, thì các tu sĩ Dòng Tên có mặt ở đó. (Lm Nguyễn Ngọc Thế, SJ).

3. Inhaxiô một vị thánh lớn của Giáo hội

Trong khi các bạn đồng hành được Đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Inhaxiô vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Rôma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.
 

dongten3
 

Trong thị kiến ở La Storta, Inhaxiô xin và đã được “Chúa Cha xin Đức Giêsu vác thập giá nhận Inhaxiô làm người phục vụ”, và Đức Giêsu vác thập giá đã nói với Inhaxiô: “Ta muốn con phục vụ chúng ta”.

Thánh Inhaxiô qua đời ngày 31-7-1556, hưởng thọ 90 tuổi. Đức giáo hoàng Phaolô V tuyên Chân phước cho ngài vào ngày 27-7-1609. Đức giáo hoàng Grêgôriô XV tuyên hiển thánh ngày 13-3-1622. Lễ kính thánh Inhaxiô vào ngày 31-7 hàng năm.

Thánh Inhaxiô đích thực là một nhà thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên “ad majorem Dei gloriam” nghĩa là "để Thiên Chúa được vinh danh hơn". Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện. Vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà Đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Các linh mục Dòng Tên gồm những nhà bác học, thần học, giáo dục, khoa học cho đến những nhà truyền giáo danh tiếng và nhiều đấng tử đạo. Những thần học gia vĩ đại, con cái của thánh Inhaxiô như: Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) và Henri de Lubac (1896-1991) của Pháp, Karl Rahner (1904-84) của Đức, Bernard Lonergan (1904-84) của Canađa và John Courtney Murray (1904-67) của Hoa Kỳ, Hans Urs von Balthasar (1905-88), người Thụy Sĩ… Đức giáo hoàng Phanxicô cũng là tu sĩ Dòng Tên.

Đến ngày 1 tháng 1 năm 2012, tổng số tu sĩ Dòng Tên là 17.637 tu sĩ, trong đó có 12.526 linh mục, 1.470 tu huynh, 2.896 học viên và 745 tập sinh, phục vụ tại 133 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới trong 84 tỉnh dòng, 5 miền độc lập và 10 miền phụ thuộc. Các tu sĩ của Dòng có mặt trong hầu hết các hoạt động của Giáo Hội (suy tư thần học, giảng thuyết, mục vụ giới trẻ, giúp Linh thao, truyền giáo…) cũng như của xã hội (giáo dục, truyền thông, phục vụ người tị nạn và di dân,…) nhằm phục vụ và thăng tiến con người. Họ là các thần học gia, các vị linh hướng, giáo sư, kỹ sư, nhạc sĩ, nhân viên xã hội, tâm lý gia, bác sĩ, luật sư, nhà báo, nhà truyền giáo…(x. dongten.net).

Khi dâng lễ ở Nhà nguyện “hoán cải”, tôi suy gẫm về ơn trở lại của thánh nhân. Nhờ đọc sách thiêng liêng mà Inhaxiô được biến đổi.Thiên Chúa đã dùng sách thiêng liêng như một khí cụ để hoán cải Inhaxiô. Việc đọc sách thiêng liêng đã tạo nên nhiều vị thánh. Nhờ việc đọc sách thiêng liêng, con người trau dồi tri thức về giáo lý Kitô Giáo, đồng thời tìm được những kiến thức cho cuộc thưa chuyện mỗi ngày với Thiên Chúa. Một cuốn sách thiêng liêng hay có thể được coi như một người bạn tốt.

Thời đại kỹ thuật số hôm nay, các phương tiện truyền thông hằng ngày luôn tấn công con người bằng những âm thanh và hình ảnh thế tục, nó muốn tách lìa từng người ra khỏi Thiên Chúa. Một quyển sách tốt có thể trở thành một người bạn tuyệt vời, một nhà tư vấn khôn ngoan. Một quyển sách tốt là một kho tàng tâm linh. Một vài phút suy niệm về một bài đọc thiêng liêng sẽ giúp chúng ta gần Chúa hơn.

Inhaxiô là một vị đại thánh cho Giáo Hội và một nhân cách lớn cho xã hội. Ngài là một thiên tài trong lịch sử loài người. Nơi ngài, ân sủng và tự nhiên hòa hợp cách mỹ mãn để biến đổi một hiệp sĩ đầy tham vọng thế tục thành một vị thánh lớn để bước theo Chúa Kitô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa và phục vụ mọi người.Thật khó mà mô tả đầy đủ những đức tính phong phú và có phần đối nghịch của Inhaxiô: hăng hái nhưng biết kềm chế; dũng cảm, quyết tâm, nhưng đơn sơ, cẩn trọng; mạnh mẽ, cương nghị nhưng dịu dàng, yêu thương. Một con người của những khát vọng lớn lao. Cả những tham vọng, đam mê thế tục. Trước khi hoán cải, phục vụ vua chúa trần gian, tìm kiếm danh vọng cho bản thân. Sau khi hoán cải, cũng với khát vọng và hoài bão lớn lao cố hữu, nhưng được thanh luyện, để không còn tìm kiếm chính mình mà tìm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Mừng lễ kính thánh Inhaxiô, xin Chúa cho mỗi người chúng ta được noi gương ngài luôn sống và làm việc "Để Thiên Chúa được vinh hiển hơn".

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

PHỦ QUỐC VỤ KHANH TÒA THÁNH YÊU CẦU CÁC VỊ ĐẠI SỨ CẠNH TÒA THÁNH CHÚ Ý TỚI THẢM CẢNH CỦA CÁC KITÔ HỮU VÙNG TRUNG ĐÔNG

PHỦ QUỐC VỤ KHANH TÒA THÁNH YÊU CẦU CÁC VỊ ĐẠI SỨ CẠNH TÒA THÁNH CHÚ Ý TỚI THẢM CẢNH CỦA CÁC KITÔ HỮU VÙNG TRUNG ĐÔNG

VATICAN: Trong hai ngày 28-29 tháng 7 năm 2014 Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã gửi văn thư cho các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh, yêu cầu chú ý tới thảm cảnh của các kitô hữu vùng Trung Đông và tích cực dấn thân tìm giải pháp hóa bình cho các dân tộc vùng này.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình Ý ngữ hôm 29-7-2014 Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh, đã cho biết như trên.

Văn bản của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh bao gồm các lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô cho hòa bình tại vùng Trung Đông. Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh rất lo âu theo dõi tình hình của các cộng đoàn kitô Trung Đông. Họ đang đau khổ một cách bất công, lo sợ và bị bắt buộc phải di cư. Chỉ trong thành phố Mosul đã có 30 nhà thờ và đan viện bị các lực lượng hồi cuồng tín chiếm đóng, phá hoại và tháo gỡ thánh giá. Trong biết bao năm nay đây là lần đầu tiên đã không có thánh lễ Chúa Nhật. Cần phải nhớ rằng tại Irak cũng như trong các nước vùng Trung Đông, các kitô hữu đã hiện diện ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội, và đã có một vai trò ý nghĩa trong sự phát triển xã hội; và họ muốn tiếp tục hiện diện như các tác nhân hòa bình và hòa giải.

Tòa Thánh đã hoạt động trên nhiều bình diện khác nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần bầy tỏ sự gần gũi với các cộng đoàn kitô, đặc biệt với các gia đình kitô tại Mosul, bằng cách mời gọi mọi người cầu nguyện cho họ. Ngài đã bầy tỏ sự gần gũi của ngài qua Đức Thượng Phụ Can đê Babilonia và Đức Thượng Phụ Siri Antiokia, khích lệ tín hữu mạnh mẽ trong hy vọng. Ngài cũng đã gửi trợ giúp kinh tế cho các gia đình qua Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm.

Về phía mình Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã hoạt động qua các ngã ngoại giao, khích lệ các chính quyền quốc gia và hàng lãnh đạo quốc tế chú ý tới số phận của các kitô hữu vùng Trung Đông, trong thông tư gửi cho mọi tòa đại sứ cạnh Tòa Thánh. Phủ Quốc Vụ Khanh hy vọng cộng đoàn quốc tế lưu tâm tới vấn đề này, vì nó liên quan tới nhân phẩm và các quyền căn bản của con người, sự sống chung hòa bình và hòa hợp giữa các cá nhân và các dân tộc. Irak và các quốc gia khác của vùng Trung Đông được mời gọi là một mô thức sống chung giữa các cộng đoàn khác nhau, nếu không sẽ là một mất mát rất lớn và là một dấu hiệu rất xấu cho toàn thế giới.

Liên quan tới thảm cảnh của người Palestine sống trong dải Gaza thật là đáng tiếc sự kiện người ta coi nó như điều không thể tránh được, nhưng không đúng như vậy. Đức Thánh Cha đã đưa ra nhiều lời kêu gọi mọi người cầu nguyện nài xin ơn hòa bình, và tiếp nhận lời Thiên Chúa mời gọi bẻ gẫy vòng luẩn quẩn của thù hận và bạo lực đẩy xa hòa bình.

Đức Tổng Giám Mục Mamberti nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha đã yêu cầu các giới chức trách nhiệm chính trị địa phương cũng như thế giới làm tất cả những gì có thể để ngưng thù nghịch và đạt tới hòa bình mong mỏi cho thiện ích của tất cả mọi người. Cần có nhiều can đảm để tạo dựng hòa bình hơn là để gây chiến tranh. Ngoài ra, phải đặt để công ích và việc tôn trọng mọi người vào trung tâm, chứ không phải các lợi lộc riêng tư (SD 29-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican  Radio

CARITAS ROMA PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP CỨU TRỢ NGƯỜI DÂN GAZA

CARITAS ROMA PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP CỨU TRỢ NGƯỜI DÂN GAZA

ROMA: Đáp lời kêu gọi của Caritas quốc tế, Caritas Roma đã phát động chiến dich quyên góp trong mọi giáo xứ thủ đô để trợ giúp người dân Palestine sống tại Gaza.

Ba tuần chiến tranh giữa người Israel và người Palestine đã khiến cho gần 1,200 người của cả hai bên thiệt mạng, hàng ngàn người bị thương và mấy trăm ngàn người phải tản cư tránh bom đạn. Đa số các nạn nhân là phụ nữ và trẻ em Palestine. Ngày 15-7-2014 Caritas Roma đã tổ chức buổi canh thức cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh Địa, quy tụ các tín hữu kitô, do thái và hồi giáo.

Thầy Raed Abusahlia, giám đốc Caritas Giêrusalem nói: Chúng tôi tin rằng Giáo Hội không thể im lặng trước các sự kiện như thế này. Chúng ta không thể đứng yên nhìn mà không làm gì. Gaza đã ở trong tình trang thê thảm, bị bó buộc sống trong cảnh cấm vận và bị bao vây từ 12 năm qua và với 3 cuộc xung đột tiếp theo nhau trong 8 năm qua, một cuộc chiến khác sẽ chỉ khiến cho các điều kiện sống tồi tệ hơn. Trong các giờ ngưng bắn, Caritas đã phân phát những gì còn lại, vì các cuộc hành quân tiếp tục và số người bị thương, các bệnh nhân, các trẻ em mồ côi hay bị chấn thương gia tăng. Dân chúng đau khổ vì đói khát và cái nóng của mùa hè, thiếu nước uống và điện thường xuyên bị cắt.

Chương trình trợ giúp cấp thời do Caritas đưa ra bao gồm thuốc men, thực phẩm và dụng cụ y khoa cho các nhà thương. Caritas đã bắt đầu phân phát các gói thực phẩm cho hơn 2,000 gia đình, các hộp thuốc cho hơn 3,000 gia đình và khăn trải giường cùng chăn mền cho cho hơn 500 gia đình.

Đợt hai của công tàc cứu trợ dự trù việc yểm trợ tài chánh cho hơn 2,000 gia đình để họ có thể mua những vật dụng cần thiết. Đồng thời sự trợ giúp cũng bao gồm việc săn sóc cho các trẻ em bị chấn thương tâm thần và phân phát thuốc men cho mọi người đã phải bỏ nhà cửa chạy nạn (SD 28-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI PERÙ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG ÍCH KỶ, THÁO THỨ TÍNH DỤC VÀ TƯƠNG ĐỐI HÓA LUÂN LÝ

GIÁO HỘI PERÙ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG ÍCH KỶ, THÁO THỨ TÍNH DỤC VÀ TƯƠNG ĐỐI HÓA LUÂN LÝ

LIMA: Trong những ngày vừa qua Hội Đồng Giám Mục Perù đã phát động trong toàn nước chiến dịch chống lại chủ trương ích kỷ, tháo thứ tính dục và tương đối hóa luân lý.

Trong sứ điệp gửi tín hữu toàn nước Đức Cha Salvador Pigneiro, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Perù, khẳng định rằng các tệ nạn này giảm thiếu căn tính công dân Perù, phá phá vỡ hình ảnh tự nhiên và kinh thánh của gia đình, là tế bào nòng cốt của xã hội và là hoa trái của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, và chúng cũng chống lại sự sống của những người vô tội không được bênh đỡ là các trẻ em còn trong lòng mẹ.

Các vị anh hùng vĩ đại của chúng ta không phải là những người chỉ anh hùng trong một lúc, nhưng anh hùng mỗi ngày bằng cách trung thành đáp trả lại lương tâm của mình, bênh vực các giá trị bất khả nhượng của con người, ủng hộ cơ cấu xã hội, bắt đầu là gia đình, là điều kiện cần thiết, nếu không xã hội sẽ giòn mỏng và nghèo nàn đi.

Nhắc tới nhiều thách đố mà chính quyền và đất nước Perù đang phải đương đầu hiện nay, Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Perù minh xác rằng dân nước Perù có thể thắng vượt được chúng nếu biết đoàn kết, tránh mọi kỳ thị, trân trọng các truyền thống lành mạnh, và cố dấn thân sống liêm chính, trong sáng, thăng tiến công lý và hòa bình. Sau cùng ngài cầu xin Chúa qua lời bầu cử của Đức Bà Mercede, các thánh Perù, thánh Rosa thành Lima và thánh Martino de Porres, chúc lành cho quốc gia và toàn dân Perù sống ở trong cũng như ngoài nước (ACI 27-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÁC NẠN NHÂN TAI NẠN MÁY BAY TẠI MALI

THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÁC NẠN NHÂN TAI NẠN MÁY BAY TẠI MALI

OUAGADOUGOU: Ngày 27-7-2014 rất đông tín hữu đã tham dự thánh lễ cầu hồn cho các nạn nhân tai nạn máy bay bên Mali và gia đình họ, trong nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vộ Nhiễm Nguyên Tội tại Ouagadougou, thủ đô Burkina Faso.

Thánh lễ đã do Đức Cha Raphael Dabiré, Giám Mục Diébougou, là giáo phận gốc của một linh mục bị chết trong tai nạn máy bay, chủ sự. Chiếc máy bay thuộc hãng hàng không Algeria đã cất cánh rời phi trường Ouagadougoou lúc không giờ 45 phút để đi Alger, nhưng gần một giờ sau đó đã bị rơi bên Mali khiến cho 116 người thiệt mạng. Tham dự thánh lễ có nhiều Giám Mục và ông đại sử Pháp tại Burkina Faso. Chính Đức Hồng Y Philippe Ouedraogo, Tổng Giám Mục Ouagadougou đã muốn có thánh lễ cầu hồn này và kêu gọi mọi người cầu nguyện cho gia đình của các nạn nhân nữa. Giảng trong thánh lễ Đức Cha Dabiré đã nhắc tới gương mặt của ông Gióp, là người đã không tìm ra các câu trả lời cho các rủi ro và khổ đau khốn khó xảy ra cho ông, cũng như chúng ta trước các đau khổ không thể giải thích nổi. Chúng là phản ánh của Thiên Chúa mà chúng ta tưởng tượng ra, mà chúng ta ước mong mà quên rằng vì ”Thiên Chúa đã được mạc khải cho chúng ta là sự điên dại và gương mù gương xấu”. Đức Cha mời gọi mọi người sống thời điểm này trong đức tin và xin Chúa ơn khôn ngoan tín thác nơi Chúa (SD 28-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TÍN HỮU CÔNG GIÁO TẠI THÁNH ĐỊA ĐAU BUỒN VÌ TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ

TÍN HỮU CÔNG GIÁO TẠI THÁNH ĐỊA ĐAU BUỒN VÌ TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ

GIÊRUSALEM: Tín hữu công giáo tại Thánh Địa rất đau buồn vì tình hình chiến sự tại đây khiến cho bao nhiêu người của cả hai bên phải chết. Trong thánh lễ họ đã cầu nguyện cho mọi người đang phải đau khổ.

Linh Mục Gioele Salvaterra, cha sở giáo xứ Beer Sheva, nam Israel gần dải Gaza, đã cho biết như trên. Cha nói: Điều chúng tôi có thể làm là cầu nguyện để cho bạo lực chấm dứt và các binh sĩ trở về nhà bằng yên. Các vụ bỏ bom, pháo kích và oanh tạc trong hai tuần qua đã khiến cho hơn 800 người chết, 5,000 người bị thương và hơn 200,000 người Palestine phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy trốn chiến tranh. Phía Isarael cũng đã có hàng chục người chết.

Tại Haifa tín hữu công giáo đã thực hiện một video với một bài hát xin hòa bình. Trong khi tại Beer Sheva là nơi bị pháo kích nhiều nhất tín hữu công giáo gốc Do thái đã cùng với dân chúng chia sẻ nỗi khổ đau của những người đã mất thân nhân. Nhiều gia đình là các kitô hữu A rập đến từ Galilea. Sau tuần đầu tiên của chiến cuộc phụ nữ và trẻ em đã bỏ về quê sinh, chỉ còn nam giới ở lại trong thành phố để làm việc.

Cha Gioele cho biết nói chung giới trẻ cần kể lại những gì các em sống với các xúc cảm, sự sợ hãi, hồi hộp phải chạy trốn bom đạn. Cả các trẻ em cũng cảm thấy sự kinh hoàng và khóc thét lên khi nghe tiếng còi báo động. Tại Beer Sheva cũng có các tín hữu gốc Ấn Độ và Philipines làm việc như những người coi giữ người già và các bệnh nhân. Từ nhiều ngày nay tín hữu tụ tập nhau cầu nguyện trong nhà tư, chứ không đến nhà thờ nữa. Họ cầu nguyện cho hòa bình và thiện ích của mọi người dân sống tại Thánh Địa, và mời gọi mọi người tin tưởng nơi hạt giống hòa bình, mà Đức Thánh Cha đã cùng các vị lãnh đạo của hai dân tộc Israel và Palestine đã gieo, đem lại hoa trái (SD 24-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI TRUNG PHI KÊU GỌI TÌM GIẢI PHÁP CHO CUỘC XUNG ĐÔT TẠI ĐÂY

GIÁO HỘI TRUNG PHI KÊU GỌI TÌM GIẢI PHÁP CHO CUỘC XUNG ĐÔT TẠI ĐÂY

BANGUI: Đức Cha Dieudonné Nzapalainga, Tổng Giám Mục Bangui, thủ đô Trung Phi, khẩn thiết kêu gọi tìm các giải pháp cho cuộc xung đột đã kéo dài hơn một năm qua tại Cộng hoa Trung phi.

Đức Cha Nzapalainga đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho nguyệt san Phi châu. Từ hơn một năm qua cuộc nội chiến đẫm máu đã khiến cho gần 2000 người thiệt mạng, và hàng chục ngàn ngưởi phải tản cư tỵ nạn. Hai phe lâm chiến là các phiến quân Seleka và các binh sĩ trung thành với tổng thống Bozizé bị truất phế hồi tháng 3 năm 2013. Đức Cha tự hỏi: ”Cho tới bao giờ người ta cho phép những người có vũ trang tiếp tục tàn sát những người dân vô tội khát khao hòa bình? Nhắc tới vụ 17 người tỵ nạn ẩn trú trong nhà thờ chính tòa thánh Giuse ở Bambari bị giết chết, Đức Cha nói: ”Ai ở trong nhà thờ là ở dưới sự bảo trợ của Thiên Chúa, phải để cho họ yên”. Đức Cha gọi những người sát hại dân lành là những kẻ ”không đức tin, vô luật lệ, không tôn trọng cái gì hết”. Ngài cực lực lên án các tội phạm ấy của những kẻ có vũ trang. Đã đến lúc cộng đồng quốc tế nghiêm chỉnh dấn thân trong việc trợ giúp Trung Phi tái lập hòa bình và an ninh.

Liên quan tới Diễn đàn quốc tế kết thúc ngày 23-7-2014 tại Brazzaville Đức Cha nói: ”Tôi đau lòng thấy rằng người ta phải luôn luôn ra nước ngoài để thảo luận về các vấn đề nội bộ. Vì điều này có nghĩa là trong nước thiếu đối thoại chính trị”. Dầu sao đi nữa Đức Cha cũng cầu mong Diễn đàn đã cống hiến cơ may cho người Trung Phi nói lên sự thật với nhau để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một lần cho luôn mãi, bởi vì cầm vũ khí giết nhau để chiếm quyền không ích lợi gì hết. Điều quan trọng là biết đối thoại trên bình diện chính trị, xã hội để góp phần xây dựng đất nước” (SD 24-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cuộc đối thoại đại kết và các tương quan với Do thái giáo

Cuộc đối thoại đại kết và các tương quan với Do thái giáo


Phỏng vấn linh mục Hur Young-Up, phát ngôn viên Tổng giáo phận Seoul

Trong các ngày từ 13 tới 18 tháng 8 tới đây Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm mục vụ Nam Hàn để chủ sự ngày Giới Trẻ Á châu và lễ phong hiển Thánh cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Lúc 16 giờ chiều ngày 13 tháng 8 máy bay chở Đức Thánh Cha cất cánh từ phi trường Fiumicino và sẽ đến phi trướng quốc tế Seoul lúc 10 giờ rưỡi sáng 14-8. Sau đó lúc 12 giờ Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh lễ riêng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Lễ nghi tiếp đón sẽ diễn ra vào lúc 15 giờ 45 tại ”Tòa nhà xanh”. Sau đó lúc 16 giờ 30 ngài gặp gỡ hàng lãnh đạo Nam Hàn trong phong khánh tiết Chungmu. Lúc 17 giờ 30 ngài gặp gỡ càc Giám Mục Nam Hàn tại trụ sở của Hội Đồng Giám Mục.

Thứ sáu 15-8 lúc 8 giờ 45 phút sáng Đức Thánh Cha đi trực thăng tới Daejeon, và lúc 10 giờ 30 ngài chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ hồn xác lên trời và đọc Kinh Truyền Tin tại vận động trường quốc tế thành phố. 13 giờ 30 ngài dùng bữa với giới trẻ tại đại chủng viện Daejeon. Ban chiều lúc 16 giờ 30 ngài đi trực thăng đến Đền thánh Solmoe để gặp gỡ giới trẻ Á châu gần đền thánh. Lúc 19 giờ 15 ngài đi trực thăng trở về Seoul.

Ngày 17-8 lúc 8 giờ 55 phút Đức Thánh Cha viếng thăm Đền thánh tử đạo Seo So mun và lúc 10 giờ ngài chủ tế thánh lễ phong hiển Thánh cho Paul Yun-Ji Chung và 123 vị tử đạo tại cửa Gwanghwamun ở Seoul. Vào ban chiều Đức Thánh Cha viếng thăm Trung tâm phục hồi người tàn tật tại ”Nhà hy vọng” ở Kkhotongnae. Tiếp đến lúc 18 giờ 30 ngài găp gỡ giới lãnh đạo Tông đồ giáo dân tại Trung tâm tu đức Kkhotongnae, sau đó Đức Thánh Cha trở về Seoul.

Chúa Nhật 17-8 lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha đi trực thăng tới đền thánh Haemi và chủ sự thánh lễ bế mạc Ngày giới trẻ Á châu lần thứ sáu trong lâu đài Haemi.

Ngày thứ hai 18-8 lúc 9 giờ sáng Đức Thánh Cha gẵp gỡ giới lãnh đạo các tôn giáo trong dinh cũ của tòa Tổng Giám Mục Seoul. Sau đó lúc 9 giờ 45 ngài chủ sư thánh lễ cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải trong nhà thờ chính tòa Myeong Dong trong thủ đô Seoul. Lúc 12 giờ 45 là lễ tiễn biệt tại phi trường Seoul. Máy bay rời phi trường Seoul lúc 12 giờ và dự kiến về tới phi trường Ciampino của Roma Roma lúc 17 giờ 45.

Nam Hàn rộng 99.268 cây số vuông, có hơn 5 triệu tín hữu công giáo trên tổng số 43 triệu dân. Giáo Hội công giáo có 16 giáo phận, 1.673 giáo xứ và 843 trung tâm mục vụ. Nhân lực của Giáo Hội gồm 35 Giám Mục, 3.606 linh mục triều, 655 linh mục dòng, 10 Phó tế trọn đời, 516 tu huynh, 9.016 nữ tu, 56 giáo dân tận hiến, 123 giáo dân thừa sai và 14.195 giáo lý viên. Tính trung bình mỗi linh mục trông coi 1.266 tín hữu. Ngoài ra, Giáo Hội còn có 395 tiểu chủng sinh và 1.489 đại chủng sinh. Giáo hội công giáo Nam Hàn hiện đảm trách 235 trường tiểu học với gần 30 ngàn học sinh, 59 trường trung học với hơn 35 ngàn học sinh, và 34 trường cao học và đại học với hơn 156 ngàn sinh viên. Bên cạnh đó Giáo Hội cũng điều hiển 40 nhà thương, 4 trạm xá, 9 trại phong cùi, 513 nhà hưu dưỡng cho người già, người tàn tật và người bệnh tâm thần, 513 nhà mồ côi, 277 vườn trẻ, 83 trung tâm gia đình và trung tâm bảo vệ sự sống, 49 trung tâm giáo dục chuyên biệt hay cải huấn xã hội và 200 trung tâm thuộc các loại khác.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phong vấn linh mục Hur Young-Up phát ngôn viên tổng giáo phận Seoul.

Hỏi: Thưa cha, cha có cảm nghĩ gì về chuyến công du sắp tới của ĐTC tại Nam Hàn?

Đáp: Giáo Hội Đại Hàn là Giáo Hội đầu tiện tại Á châu được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Qua biến cố ý nghĩa này Giáo Hội Đại Hàn trở thành cánh cửa rao giảng Tin Mừng tại Á chậu. Đức Thánh Cha đến Nam Hàn như là một chủ chăn để gặp gỡ dân chúng và gặp gỡ giới trẻ Á châu. Chúng ta có thể nói rằng Đại Hàn là quốc gia biểu tượng cho các nhu cầu của hòa bình và hòa giải. Vì thế, chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể mang lại một sứ điệp quan trọng của niềm hy vọng và hoa bình cho đất nước chúng tôi.

Hỏi: Người dân Đại Hàn nghĩ gì về Đức Thánh Cha Phanxicô, thưa cha?

Đáp: Không phải chỉ có các tín hữu công giao mà tất cả mọi người dân Đại Hàn đều thích Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi qúy trọng các kiểu cách thân thiện và sự đơn sơ của ngài, chúng tôi đanh giá cao kiểu ngài lo lắng cho cho người mghèo và những người bị gạt bỏ bên lề xã hội. Toàn dân Đại Hàn nóng lòng chờ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Việc chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha tiến hành như thế nào thưa cha?

Đáp: Cùng với Giáo Hội chính quyền của chúng tội cũng ủng hộ việc chuẩn bị cho chuyên công du mục vu này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vì thế tôi tin rằng các chuẩn bị bên ngoài cũng như bên trong đều quan trọng. Chuyến viếng thăm của Đức Thnah Cha không chỉ là một dịp đặc biệt cho Giáo Hội, mà cũng là một cơ may quan trọng cho các cuộc cải cách nội bộ và công tác rao truyền Tin Mừng nữa.

Hỏi: Thưa cha, cách đây 25 năm, hồi năm 1989, Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Nam Hàn lần thứ hai. Đâu là các hoa trái của chuyến viếng thăm đó?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đã đem lại các kết qủa tích cực cho Giáo Hội Đại Hàn. Giáo Hội đã được biết tới nhiều hơn trong xã hội và đã gây được ấn tượng tốt nơi người dân.

Hỏi: Tiến trình tục hóa liện quan tới Nam Hàn cũng giống như tại tất cả mọi quốc gia kỹ nghệ. Giáo Hội Nam Hàn đã trả lời ra sao?

Đáp: Ngày nay đất nước chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ chủ thuyết duy vật, cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, và vô cảm tôn giáo. Bên trong Giáo Hội cũng có cùng vấn đề đó. Vì thế thật là điều quan trọng, khi Giáo Hội tìm ra các con đường mới và các phương thức mới để đương đầu với các vấn đề như thế. Tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và là một mục tiêu đói với việc rao giảng Tin Mừng.

Hỏi: Các tín hữu Nam Hàn có sẵn sàng đương đầu với thách đố của công tác rao truyền Tin Mừng mới hay không?

Đáp: Tái truyền giảng Tin Mừng là một phương pháp mới giúp chúng ta canh tân đức tin của mình trong thế giới thay đổi nhanh chóng này. Thật là quan trọng việc chính Giáo hội thay đổi trước để đi ra hướng về thế giới, và phổ biến Tin Mừng qua các phương tiện mới và với các kết qủa mới. Con đường Giáo Hội Đại Hàn phải đi còn dài, nhưng chúng tôi đang làm tốt chừng nào có thể để biến đổi việc rao giảng Tin Mừng thành hành động.

Hỏi: Chúng ta nhớ là Tin Mừng đã được phổ biến tại Đại Hàn năm 1700, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đạo Công giáo đã được đem vào trong đất nước chúng tôi sau khi các sách công giáo được dịch ra tiếng Đại Hàn, và các học sinh đại hàn bắt đầu học. Tiếp theo đó các tín hữu thành lập các cộng đoàn công giáo và rao giảng đức tin của họ cho các người khác. Như thế điều đặc biệt nhất của Giáo Hội Đại Hàn là nó đã bắt đầu qua các giáo dân, chứ không qua các thừa sai. Giáo Hội Đại Hàn đã chịu nhiều bách hại ngay lập tức. Nhưng cha ông chúng tôi đã duy trì được đức tin của họ, và tiếp tục phổ biến tin vui của Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa cha, đâu là dấn thân của Giáo Hội cho việc thống nhất đất nước?

Đáp: Đây là sứ mệnh của Giáo Hội Đại Hàn: làm việc cho hòa giải và thống nhất đất nước chúng tôi. Tôi tin rằng việc yểm trợ nhân đạo và các cuộc đối thoại chân thành là điều cần thiết nhất. Giáo Hội đã tiếp tục yểm trợ nhân đạo cả khi tương quan giữa Bắc và Nam Hàn căng thẳng.

Hỏi: Liên quan tới việc tái thống nhất đất nước việc đối thoại liên tôn có tầm quan trọng nào giúp đạt mục đích này không?

Đáp: Đối thoại liên tôn là một vấn đề quan trọng, nhưng không liên quan gì tới các mục tiêu chính trị. Tôi nghĩ rằng thật là một điều hay đẹp, khi con người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau và trân trọng vẻ đẹp mà mội tôn giáo đã đem đến cho con người.

(RG 16-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thảm cảnh của người dân Nam Sudan ba năm sau ngày độc lập

Thảm cảnh của người dân Nam Sudan ba năm sau ngày độc lập

Phỏng vấn bà Enrica Valentini, giám đốc đài phát thanh Công giáo Nam Sudan

Cách đây ba năm, ngày mùng 9 tháng 7 năm 2011, miền Nam Sudan được độc lập tách rời khỏi miền Bắc và trở thành quốc gia trẻ nhất thế giới. Nhưng rất tiếc người dân nước này đã không được hưởng hòa bình, vì xung đột bùng nổ hồi tháng 12 năm ngoái 2013 giữa tổng thống Salva Kiir, thuộc bộ tộc Dinka, và nguyên phó tổng thống Riek Machar, thuộc bộ tộc Nuer. Bẩy tháng chiến tranh đã khiến cho hơn 10.000 người thiệt mạng và 1 triệu người phải di cư tỵ nạn trên tổng số 8 triệu dân.

Nam Sudan là một vùng có nhiều mỏ dầu hỏa và có tiềm năng kinh tế rất lớn, nhưng hiện đang phải chứng kiến cảnh đói khát nguy hiểm cho tính mạng của 900 ngàn trẻ em. Chính dầu hỏa và các tài nguyên của mình đã khiến cho Nam Sudan liên miên lâm cảnh nội chiến, ban đầu là giữa chính quyền Bắc Sudan là vùng có đa số dân theo Hồi giáo và các bộ lạc miền nam Sudan có đa số dân theo Kitô giáo và đạo thờ vật linh.

Cuộc nội chiến đã rất là khốc liệt trong vùng Darfur giữa các năm 2003-2006 khiến cho gần 200 ngàn người chết và 300 ngàn người phải di cư lánh nạn. Các cuộc giao tranh xảy ra giữa quân đội chímh phủ và hàng chục lực lượng và đảng phái chính trị khác nhau, trong đó có ”Phong trào công lý và bình đẳng” gồm hai nhóm với hãi lãnh tụ, ”Phong trào quốc gia cải cách và phát triển”, ”Mặt trận các lực lượng cách mạng dân chủ”, ”Mặt trận lực lượng cách mạng thống nhất”, ”Phong trào giải phóng Sudan” gồm hai nhóm với hai lãnh tụ, ”Liên minh liên bang dân chủ Sudan”, ”Phong trào hiệp nhất giải phóng Sudan”.

Để đánh chiềm Darfur chính quyền Khartum phát động các cuộc hành quân đánh phá các làng mạc của các bộ lạc trong vùng, khiến cho hai bộ lạc Zaghawa và Fur nổi lên phản kháng để bảo vệ các quyền lợi của họ. Hầu hết người dân sống tại Darfur theo Hồi giáo, bao gồm cả bộ tộc Janjaweed và nhiều thân nhân nhân viên của chính quyền Khartum. Các phiến quân tấn công các đồn bót cảnh sát và đe dọa việc xây hệ thống dẫn dầu mới. Các lực lượng phiến quân được chính quyền Eritrea trợ giúp khí giới áp dảo các binh sĩ của chính quyền Khartum không thiện chiến trong sa mạc. Nhưng không lực của chính quyến Khartum gây ra nhiều tổn thất cho các phiến quân. Năm 2003 ba nhóm ”Quân đội giải phóng Sudan”, ”Phong trào Công lý và Bình đẳng”, và ”Quân đội giải phong nhân dân Sudan” nhập cuộc. Cuộc nội chiến Băc Nam Sudan đã kéo dài trong 20 năm lại bùng lên. Tiếp đến bộ lạc Janjaweed nhập cuộc và thi hành chính sách hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc và đốt phá các làng mạc, khiến cho làn sóng di cư tỵ nạn tăng mạnh. Trong khi đó thì không lực của chính quyền Khartum liên tục bỏ bom và oanh kích khiến cho người dân phải sống giữa hai lằn đạn. Chiến tranh kéo dài cho tới tháng 9 năm 2007 mới chấm dứt với các cuộc thương thuết hòa bình tổ chức tại Sirte bên Lybia. Nhưng đã có 4 nhóm phiến quân không tham dự.

Trong chiến tranh Sudan đã có sự tham gia của nhiều nước A rập và Tây Âu cung cấp khí giới cho chính quyền Khartum, trong khi Nga và Trung Quốc yểm trợ khí giới cho các lực lượng Nam Sudan để nhận nhận được dầu hỏa, cần thiết cho nền kinh tế đang lên của Trung Quốc. Chiến cuộc kéo dài cho tới năm 2011 khi Nam Sudan tuyên bố độc lập. Nhưng sau đó lại xảy ra nội chiến giữa hai lực lượng phò tổng thống và phò phó tổng thống.

Trong các ngày vừa qua Đức Cha Eduardo Hiiboro Kussala, Giám Mục giáo phận Tombura-Yambio bên Uganda giáp giới với Nam Sudan, đã viếng thăm trụ sở trung ương của Hồi Đồng Tòa Thánh ”Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ”. Đề cập tới tình hình tại Sudan ngài nhận định rằng mặc dù Hiến pháp Sudan bảo đảm sự bình quyền cho mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng, nhưng các tín hữu kitô bị xem như các công dân hạng nhì. Các giáo sĩ không được cấp thông hành và khi rời khỏi đất nước, họ không biết có được phép trở lại quê hương hay không. Đã có nhiều linh mục tu sĩ bị trục xuất và các Giám Mục không được lên tiếng hay tự do phát biểu tư tưởng. Các tín hữu kytô được tham dự các lễ nghi phụng tự, nhưng nhà cầm quyền Sudan không bảo vệ tự do tôn giáo. Điển hình nhất là trường hợp của bà Meriam Yahia Ibrahim Ishaq mới đây. Đức tin của bà đã được mọi người biết rõ. Bà bị cha là tín hữu hồi giáo bỏ rơi từ năm lên 5 tuổi, và đã lớn lên trong đức tin chính thống của mẹ, rồi xin gia nhập Giáo Hội công giáo hồi năm 2011 chỉ ít lâu trước khi gặp và lập gia đình với chồng là Daniel Wani. Thế nhưng bà bất ngờ bị bắt giam và kết án tử hình vì tội bỏ đạo. Bà đã phải sanh đứa con gái trong tù và được thả ra sau đó chỉ vì áp lực của dư luận thế giới.

Sự kiện tín hữu ky tô bị kỳ thị không phải là điều mới mẻ tại Sudan, nhưng tình hình trở nên tồi tệ hơn kể từ tháng 7 năm 2011, khi miền Nam Sudan tách ra thành một quốc gia độc lập. Giáo Hội công giáo Sudan công khai ủng hộ quyết định này và đã nhiều lần yêu cầu chính quyền Sudan tôn trọng ý chí của dân chúng. Chính vì thế, giáo hội bị xem là có trách nhiệm trong việc này, mặc dù giáo hội chỉ giới hạn trong lời kêu gọi chính quyền bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tự do lương tâm.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và ác bạn bài phỏng vấn bà Enrica Valentini, giám đốc đài phát thanh công giáo Nam Sudan, do Hội Đồng Giám Nước này thành lập.

Hỏi: Thưa bà Enrica, ba năm sau ngày độc lập tình hình Nam Sudan hiện nay ra sao?

Đáp: Tình hình không có mầu hồng khiến cho nhiều người dân ngã lòng chán nản. Mọi niềm hy vọng họ đã có sau khi được độc lập với ước mong đất nước phát triển tốt đẹp hơn, đều đã tan biến hết. Điều mà dân chúng hiện chờ đợi đó là không có một giải pháp cho cuộc xung đột và các khác biệt giữa các phe phái liên hệ trong thời gian ngắn hạn. Nhưng đàng khác, cũng có người còn hy vọng: nhiều người nói rằng còn có ý chí cho một thay đổi, và dịp kỷ niệm độc lập này là một thời điểm giúp tất cả mọi người suy tư. Đề tài đã được chọn cho ngày kỷ niệm độc lập năm nay là ”Một dân tộc, một quốc gia”. Nó như là một lời mời gọi tất cả mọi người nhớ lại rằng ý tưởng độc lập là hiệp nhất con người trong một nước với nhau.

Hỏi: Theo bà, thì trong bối cảnh cuộc khủng hoảng hiện nay tình hình chính trị nam Sudan như thế nào?

Đáp: Cảm tưởng đó là người ta không thực sự muốn ngồi lại với nhau để thảo luận. Liên quan tới các kết qủa của các cuộc thương thảo tại Addis Abeba thì chúng chỉ có trên giấy tờ hơn là trong thực tế, bởi vì mỗi bên đều bám chặt vào các tư tưởng, lập trường và các quyết định của mình… Có một yếu tố khác nữa: đó là trong các tuần qua người ta thảo luận về chủ thuyết liên bang, được coi như là một trong những giải pháp khả thể cho tình hình chính trị Nam Sudan. Nhưng dân chúng không hiểu rõ liên bang là g và ngay cả các giới chức chính trị cũng lờ mờ; người ta không hiểu rõ liên bang có nghĩa là gì. Và sự kiện này lại càng gia tăng căng thẳng hơn nữa.

Hỏi: Thưa bà Valentini, trong tình hình như thế thì Giáo Hội có thể làm gì?

Đáp: Giáo Hội tiếp tục nhấn mạnh trên ỳ nghĩa của từ ”hiệp nhất” và điều này Giáo Hội có thể làm bằng lời nói, nhưng cũng qua gương sáng. Tôi tin rằng sự cộng tác giữa các Giáo Hội khác nhau đã được thực thi trong bao nhiều năm nay, cũng như các cuộc đối thoại hòa bình, là một thí dụ cụ thể mà người dân có thể giữ lại trong tâm trí, và bắt chước lập lại trong cuộc sống thường ngày.

Hỏi: Mới đây từ Nam Sudan đã có các báo động trên bình diện cứu trợ nhân đạo. Theo một loạt các tổ chức phi chính quyền Anh quốc, người dân có nguy cơ gặp nạn đói kém, có đúng thế không thưa bà?

Đáp: Đúng vậy. Có một loạt các yếu tố đưa đến chỗ khiến cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Mùa mưa là lúc dân chúng bắt đầu trồng tỉa, nhưng mùa mưa này đã không được tận dụng tối đa, bởi vì dân chúng đã không thể nhận hạt giống và các dụng cụ canh tác thường được phân phát cho họ. Có một yếu tố khác liên quan tới các người tỵ nạn: họ đã phải rời bỏ ruộng vườn đất đai của họ nên không có ai có thể trồng tiả tại các thửa ruộng ấy. Rất nhiều nông dân hiện đang phải sống trong các trại tỵ nạn nhưng họ lo sợ, không dám đi ra ngoài để trồng tỉa: họ sợ bi trả thù. Trong các vùng khác mưa đã không rơi nhiều như thường lệ, vì thế cả các việc trồng cấy có thể đã phải bắt đầu, không được tốt vì thiếu nước mưa.

Hỏi: Ngoài các khó khăn trên đây vẫn cón có nút thắt khó khăn trong tương quan với Băc Sudan, với chính quyền Khartum. Các khó khăn này ảnh hưởng trên hiện tình của Nam Sudan như thế nào thưa bà Valentini?

Đáp: Khó mà có thể hiểu nổi… Một cách chính thức Băc Sudan đã lựa chọn giải pháp hòa bình, lam sao để vùng này được ổn định, bời vì sự ổn định cũng tạo thuân tiện cho các lợi lộc kinh tế. Nhưng đàng khác, cũng có tin đồn rằng chính quyền Băc Sudan yểm trợ cho các nhóm dân quân khác nhau. Và ở đây nữa cũng không đơn sơ, vì khó mà hiểu được các lực lượng dân quân này có gắn liền với chính quyền Khartum, hay đó chỉ la các phong trào khác nhau chống Khartum hiện diện bên Sudan.

(RG 9-7-2014; ZENIT 11-7-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kho báu Nước Trời là Đức Kitô

Kho báu Nước Trời là Đức Kitô

Xuyên suốt trong các Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng đất, và Chúa nhật hôm nay là kho báu chôn giấu trong ruộng lúa.

Palestine là miền đất có nhiều tranh chấp và nguy hiểm rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ…hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài sản và cuộc sống của người dân. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.

Dụ ngôn “Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng” là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.

Ngày hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên. Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: – Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.

Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.

Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.

Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.

Ý nghĩa của dụ ngôn, chính là thái độ của người nông dân: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho tàng quí giá ấy.

Dụ ngôn “Viên ngọc quý”: thương gia khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.

Dụ ngôn “Kho báu chôn trong ruộng” và “Viên ngọc quí” diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. “Kho báu” và “Viên ngọc quý” ở đây, là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta “những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh”, trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh, chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời.

1. Nước Trời có một giá trị tối thượng

Chúa Giêsu nói về kho báu và viên ngọc mà người cày ruộng và thương gia dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó (GLCG # 546).

Tính chất cao quý nầy được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von.

Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình “trẻ người non dạ” và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông, không ai như ông và sau ông, không ai bằng ông.

Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như “Kho báu chôn trong ruộng” như “Viên ngọc quý”.

Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.

2. Chọn lựa và quyết định.

Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định.

Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì?

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: ‘Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm…Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6,31-33).

Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: “Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi” (GLCG # 546).

Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.

3.Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời

Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt, thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.

Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu, chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa, mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa, mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.

Thái độ “vui mừng bán tất cả”, không phải ai cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm “Người thanh niên giàu có” là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Anh hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Ta…”.

Làm sao bán hết Chúa ơi khi con đã một đời vất vả tảo tần để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay? Làm sao vui mừng để từ chối một mối tình vụng trộm mà con mới cất công xây nên? Làm sao con từ bỏ một thói đã đem lại cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng lười? Làm sao con có thể bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa Nhật? Làm sao con có thể bố thí nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi con là đấng bậc vị vọng? Làm sao con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học giáo lý?…Và cuối cùng, chắc con cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá nhiều tham vọng và của cải…

Cuộc đời vẫn luôn có những “chàng thu thuế Lêvi” sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô Xaviê, Phanxicô Asissi, vẫn còn những Têrêxa Calcutta… bỏ cả cuộc đời để ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ người nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe, Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp đền mạng sống…

Điều quan nhất, là phải biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, được dựng nên “giống Thiên Chúa” (St 1,26.27; 9,6), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4).

Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.

Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại.

Ai chân thành với Đức Kitô, sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu.

Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô, sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy.

Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô, sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

TRÊN 280 LUẬT GIA TÂY BAN NHA KÝ TÊN VÀO TUYÊN NGÔN YÊU CẦU BẢO VỆ QUYỀN CỦA THAI NHI

TRÊN 280 LUẬT GIA TÂY BAN NHA KÝ TÊN VÀO TUYÊN NGÔN YÊU CẦU BẢO VỆ QUYỀN CỦA THAI NHI

MADRID: Trong những ngày vừa qua trên 280 luật gia Tây Ban Nha ký tên ủng hộ một tuyên ngôn kêu gọi bảo về quyền căn bản của các thai nhi.

Tuyên ngôn nói trên đã được đề ra trong khuôn khổ các giới hàn lâm tại Madrid và Barcelona và rồi truyền đi qua mạng Internet. Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, đã có trên 270 luật gia tên tuổi ký tên ủng hộ. Trong số này, có trên 100 giáo sư thuộc 39 đại học Tây Ban Nha, cùng với nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ và nhiều nhân vật nổi bật trong ngành lập pháp và hành pháp. Các luật gia này yêu cầu chú trọng đến việc nhìn nhận và bảo vệ các quyền căn bản của sự sống con người ngay cả trong giai đoạn tiên khởi của nó, khi còn ở trong lòng mẹ. Tuyên ngôn nói trên, theo các luật gia, là cơ hội duy nhất để xã hội có thể tiến triển trên lãnh vực luân lý và xã hội, nhìn nhận toàn bộ quyền pháp nhân của các phôi thai và bảo vệ cho phụ nữ trước khi mang thai.

Các luật gia ký tên ủng hộ tuyên ngôn này minh xác quyền của phôi thai được bảo vệ sự sống, hoàn toàn tách biệt ra khỏi phạm vi quyền của người mẹ. Họ xác tín rằng phá thai không phải là quyền của phụ nữ theo tinh thần hiến chương quốc gia và hiến pháp của tòa án châu Âu về quyền con người. Chính quyền phải đề ra những chính sách bảo vệ thai nghén nhất là đối với những phụ nữ mang thai và khẳng định rằng quy chế cho phép phá thai phải tôn trọng quyền phản kháng vì lương tâm của các nhân viên y tế trong lãnh vực này. (SD 22-7-2014)

Mai Anh – Vatican Radio

BẢNG ĐỨC KẾT CỦA HIỆP HỘI THIỆN NGUYỆN TÂY BAN NHA MANOS UNIDAS, NHỮNG BÀN TAY KẾT HIỆP

BẢNG ĐỨC KẾT CỦA HIỆP HỘI THIỆN NGUYỆN TÂY BAN NHA MANOS UNIDAS, NHỮNG BÀN TAY KẾT HIỆP

MADRID: Ngày 21-7 vừa qua, hiệp hội thiện nguyện công giáo Tây Ban Nha có tên gọi là ”Manos Unidas” ”Những bàn tay hiệp nhất”, đã công bố báo cáo tổng kết những hoạt động trong năm vừa qua và khẳng định rằng nạn nhân chính và đầu tiên của nạn nghèo đói và chậm phát triển bao giờ cũng là giới phụ nữ.

Hiệp hội Những bàn tay hiệp nhất trực thuộc Giáo Hội Công Giáo Tây Ban Nha chuyên về những hoạt động cứu trợ và thăng tiến phát triển các nước nghèo vùng Nam bán cầu. Năm ngoái, hiệp hội đã dành 37 triệu euro để thực hiện các chương trình phát triển ở những nơi nghèo nhất trái đất, trong đó có chương trình ủng hộ chiến dịch ”Không thể có công lý mà không có công bình”.

Bà Soledad Suárez, chủ tịch Những bàn tay hiệp nhất, giải thích: Đây là một chương trình cảnh giác ý thức xã hội về vấn đề bình quyền. Nữ giới là những người bị thiệt hại nhiều nhất vì nạn nghèo đói, thiếu dinh dưỡng và mù chữ. Trong nhiều nền văn hóa, họ không được tự do đi lại, không thể tự quyết định điều gì, và thường là nạn nhân bạo hành tính dục cũng như thể lý hay tâm lý. Chỉ cần nghĩ đến hiện tượng phá thai chọn lựa, các vụ giết trẻ gái và sự kiện 70% tổng số nạn nhân các dịch vụ buôn người là các thiếu nữ hay phụ nữ trẻ. Hiệp hội Những bàn tay hiệp nhất tiếp tục tố giác những tệ nạn này và ủng hộ những chương trình hành động nhằm bảo vệ phẩm giá nữ giới, ngăn ngừa và đồng hành với phụ nữ trong những hoàn cảnh nghèo khổ cùng cực, thăng tiến sự hiện diện trong xã hội và sự phát triển của nữ giới như bản vị con người.

Giới chức lãnh đạo hiệp hội cũng cho biết thêm là ngân khoản quyên góp của hội trong năm ngoái đã giảm 8.9%, phần lớn là vì cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Tuy nhiên, nhờ sự đóng góp và ủng hộ nhiệt thành vô điều kiện của các thành viên, hiệp hội vẫn bảo trợ được hơn 600 chương trình trợ giúp phát triển trong 57 quốc gia tại Phi, Mỹ và Á châu, nhắm thực hiện lời kêu mời của ĐTC Phanxicô là giúp “tất cả các dân tộc tiến tới chỗ trở thành người tự mình gây dựng cơ đồ cho mình”. (SD 21-7-2014)

Mai Anh – Vatican Radio

CHIẾN TRANH KHÔNG ĐƯA TỚI ĐÂU HẾT

CHIẾN TRANH KHÔNG ĐƯA TỚI ĐÂU HẾT

GENÈVE: Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh, kêu gọi hai phe Israel và Palestin chấm dứt cái vòng luẩn quẩn của bạo lưc, oán thù và chiến tranh. Vì chiến tranh không đưa tới đâu hết, nó chỉ gieo tàn phá, chết chóc thương đau cho nhau thôi.

Đức Tổng Giám Mục Tomasi đã đưa ra lời kệu gọi trên đây trong bài phát biểu trong khóa họp đặc biệt của Ủy ban Liên hiệp quốc về các quyền con người tại Genève hôm 23-7 vừa qua. Vị đại diện Tòa Thánh nhấn mạnh rằng các bất công kéo dài và việc vi phạm các quyền con người, đặc biệt là quyền sống và sống trong an ninh hòa bính, chỉ gieo rắc thù ghét và oán hân. Người ta đang củng cố một nền văn hóa của bạo lực, mà hoa trái là tàn phá và chết hóc. Trong thời gian dài sẽ không có kẻ chiến thắng trong thảm cảnh hiện nay, mà chỉ có khổ đau mà thôi. Đa số các nạn nhân là thường dân đáng lý ra phải được che chở theo quyền nhân đạo quốc tế. Liên Hiệp Quốc ước tính có 70% các người Palestin nạn nhân là thường dân vô tội. Đây là điều không thể khoan nhượng được, cũng như các hỏa tiễn bắn trên các thường dân Israel. Các lương tâm đã bị tệ liệt vì bầu khí bạo lực kèo dài, tìm cách áp đặt giải pháp qua việc hủy diệt người khác. Nhưng coi người khác là qủy không loại bỏ được các quyền của họ. Trái lại con đường cho tương lai là nhận biết nhân bản tính chung của chúng ta.

Trích lời Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức Tổng Giám Mục Tomasi nói: ”Vì thiện ích của tất cả mọi người cần gia tăng các nỗ lực và sáng kiến hướng tới chỗ tạo ra các điều kiện cho một nền hòa bình ổn định, dựa trên công lý, việc thừa nhận các quyền của từng người và trên an ninh của nhau. Đã đến lúc mọi người cần phải có can đảm quảng đại có óc sáng tạo phục vụ thiện ích, can đảm hòa bình, dựa trên việc tất cả mọi người đều thừa nhận mọi quyền của hai quốc gia hiện hữu và được hưởng hòa bình và an ninh trong biên giới được quốc tế thừa nhân.

Tiếp tục bài phát biểu Đức Tổng Giám Muc Tomasi nói rằng khát vọng an ninh hợp pháp và các điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá con người, được có các phương tiện sống bình thường như thuốc men, nước uống và chỗ làm việc phản ánh một quyền nền tảng của con người, mà không có nó sẽ khó mà duy trì được hòa bình. Tình hình tồi tệ tai Gaza là một lời mời gọi liên lỉ cần đi đến một cuộc ngưng bắn tức khắc, và bắt đầu các cuộc thương thuyết cho một nền bình lâu bền. Hòa bình sẽ đem lại các lợi thé cho các dân tộc trong vùng vàcho toàn thế giới. Vì thế cần theo đuổi với sự cương quyết, cả khi mỗi bên có phải chịu vài hy sinh. Trách nhiệm của cộng đoàn quốc tế là dấn thân nghiêm chỉnh để tìm hiếm hòa bình và trợ giúp hai phe lâm chiến trong cuộc xung khắc kinh hoàng này, đạt được sự cảm thông, để chấm dứt bạo lực và tin tưởng lẫn nhau tìm về tương lai.

Sau cùng vị Đại diện Tòa Thánh nói rằng bạo lực không bao giờ đem lại lợi lộc nào. Bạo lực sẽ chỉ đem lại khổ đau, tàn phá và chết chóc mà thôi, và nó đs ngăn cản hàa bình trở thành một thực tại. Chiến thuật của bạo lực có thể lây lan và trở thành không thể kiểm soát nổi.

Để chống lại bạo lực và các hậu qủa tiêu cực của nó chúng ta phải tránh quen thuộc với việc giết chóc. Trong lúc sự xấu xa trở thánh bình thường và càc vụ vi phạm quyền con người hiện diện khắp nơi, chúng ta không được thờ ơ, nhưng phải đáp trả lại một cách tích cực hầu bớt mọi xung khắc liên lụy đến tất cả mọi người. Cac phương tiện truyền thông phải kể lại một cách trung thực, vô tư, thảm cảnh của tất cả mọi người đang đau khổ vì cuộc xung đột, hầu tạo dễ dàng cho một cuộc đối thoại không thiên tư nhưng thừa nhận quyền của tất cả mọi người. Phải ngưng cái vòng luẩn quẩn của báo oán và trả thù. Với bạo lực con người sẽ tiếp tục sống với nhau như thù địch, nhưng với hòa bình họ có thể sống như anh chị em với nhau”. (SD 23-7-2014).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio