Chỉ là một nhịp đập của tim

Chỉ là một nhịp đập của tim

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:

1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.

Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.

2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.

Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.

Cây nho và nhánh

Cây nho và nhánh

(Trích trong Phúc Âm hằng ngày)

Mở đầu cho vở kịch mang tên: "Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột chặt người vào chiếc cột buồm.

Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giờ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc sẽ cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn".

Anh chị em thân mến!

Được gần và giống Chúa, được hiệp nhất với Chúa, không đơn thuần chỉ là những ước mơ trong cuộc sống của người Kitô hữu, mà chúng là những điều kiện căn bản cho sự sống Kitô hữu như lời Ngài dạy cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

Anh chị em thân mến!

"Vườn nho" hay "cây nho" là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh Cựu Ước. Vườn nho được ví là nhà Israel. Các tiên tri lớn như Isaia, Giêrêmia, Ézekiel đều nhìn mối liên lạc giữa người trồng nho và cây nho để nói lên sự quan tâm của Giavê Thiên Chúa đối với dân Ngài, cũng như để khiển trách dân tộc Israel vì vườn nho đã trở nên hoang tàn, dây nho biến thành dây nho dại không còn sinh hoa kết trái.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lấy hình ảnh "cây nho" để ví Ngài như là cây nho: "Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho". Vườn nho của Thiên Chúa phát xuất từ một gốc duy nhất là Chúa Giêsu. Ngoài Ngài không có sự sống: "Thầy là cây nho, các con là ngành". Ngành không thể sống, nếu tách lìa xa thân cây.

"Ở trong Thầy và Thầy ở trong các con", đó là điều mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc đi nhắc lại. Cần thông hiệp với Ngài để có sự sống. Tuy nhiên, một khi đã có sự sống từ thân chuyển sang thì ngành cần phải sinh hoa trái. Sinh hoa trái sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, và đây cũng là điều kiện cho ngành tồn tại. Ngành nào không sinh trái sẽ bị chặt đi ném vào lò lửa. Muốn được sinh hoa trái, ngành nho phải được cắt tỉa. Chẳng có sự cắt bỏ nào mà không gây đau đớn, dù cho phần cắt tỉa chỉ là phần thừa thãi tác hại đến cơ thể. Thế nhưng, chẳng thấy được hoa trái nếu không chấp nhận sự đau đớn của việc cắt tỉa. Chắc hẳn người trồng nho sẽ đau lòng khi cắt tỉa, sẽ xót xa vì phải bỏ đi những phần không sinh lợi, nhưng vì lợi ích của cây nho nên chẳng thế nào làm khác đi được.

Khi thông hiệp vào Đức Kitô, đời sống của người môn đệ sẽ được cắt tỉa nhờ lời của Ngài. Lời của Ngài sẽ đặt các môn đệ trước những quyết định chọn lựa. Chọn lựa con đường hẹp nhọc nhằn, chọn lựa Thập Giá khổ đau. Những hy sinh đau đớn ở đời này sẽ mang lại phần thưởng mai sau. Và những hy sinh ấy tạo cho họ có cơ hội để được trở nên giống Thầy: "Họ ở trong Thầy và Thầy ở trong họ".

Thật thế, mọi đau khổ sẽ trở nên phí phạm, nếu không hướng về Thập Giá Đức Kitô, nguồn ơn cứu độ. Cắt tỉa chỉ là cắt bỏ, nếu không nhằm mục đích sinh hoa trái. Mọi hy sinh của người tín hữu cũng sẽ không mang lại hoa trái, nếu từ đầu không vì Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, Ngài là cây nho đích thực. Xin cho chúng con luôn gắn chặt và hiệp thông với Chúa, để được hưởng nguồn sức sống dồi dào từ Ngài. Chúng con vẫn biết rằng, một khi gắn chặt với Chúa, chúng con sẽ phải đón nhận sự cắt tỉa, phải chấp nhận hy sinh. Xin cho chúng con xác tín rằng: cần phải có hy sinh để mang lại hoa trái. Đó là điều làm vinh hiển cho Cha, Đấng ngự trên trời. Amen.

Veritas Radio

Bình an cho các con

Bình an cho các con

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta "ăn không ngon, ngủ không yên". Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.

Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giêsu. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.

Chúa đã quở trách các ông "sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!". Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. "Sao lòng anh em còn ngờ vực?". Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo "Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại". Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.

Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.

Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:

– Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!

– Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại

– Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.

– Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.

Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.

Xin Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

Những ánh đèn pha hy vọng cho năm 2015 trên thế giới

** Năm 2014 vừa qua đi với biết bao căng thẳng gây ra bởi chiến tranh, xung đột và bạo lực đủ loại, trong đó có thảm cảnh các cuộc nội chiến tại Iraq, Syria và Ukraine, cũng như tại Trung Phi, Somalia, Afghanistan và nhiều nơi khác. Biến cố Hoa Kỳ tái lập ngoại giao với Cuba, mở lại tòa đại sứ và bỏ cấm vận sau 53 năm đoạn tuyệt ngoại giao và thù hận, như được hai quốc trưởng tuyên bố ngày 17 tháng 12 xem ra là tin vui duy nhất của năm 2014. Có ánh sáng hy vọng nào cho năm 2015 vừa mới bắt đầu hay không?

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị một số nhận định của ông Natalino Ronzitti, nguyên giáo sư Luật quốc tế đại học Luiss và cố vấn khoa học Học viện bang giao quốc tế Italia.

Hỏi: Thưa giáo sư Ronzitti, năm 2014 đã có quá nhiều chiến tranh xung khắc gây chết chóc thương đau cho người dân trên thế giới, đặc biệt trong vùng Trung Đông. Không có sự kiện nào tích cực hay sao?

Đáp: Có chứ. Ít nhất có thể nêu bật hai sự kiện: trước hết là việc Hoa Kỳ và Cuba tái lập liên lạc ngoại giao với nhau sau hơn nửa thế kỷ cấm vận. Thứ hai là sự cởi mở của Hoa Kỳ đối với Iran. Khi nào Iran vĩnh viễn từ bỏ ý muốn có vũ khí nguyên tử, thì Hoa Kỳ cũng sẽ bỏ cấm vận đối với Iran.

Thế rồi khi nhìn vào tình hình thế giới, chúng ta cũng thấy có các sự kiện tích cực khác, chẳng hạn như liên quan tới việc chiến đấu chống lại nạn cướp biển, đã có các tiến bộ hữu hiệu khiến cho nạn cướp biển giảm nhiều. Điều này là một thiện ích cho các dịch vụ thương mại quốc tế. Còn có một sự kiện khá quan trọng khác nữa, thường không được biết tới: đó là Thỏa hiệp quốc tế về buôn bán vũ khí đã bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24 tháng 12 vừa qua. Thỏa hiệp này không loại bỏ việc buôn bán khí giới, nhưng điều hợp nó. Đây là một bước tiến tích cực, bởi vì người ta đã thử đưa ra một Hiệp ước tương tự vào thời của Hiệp hội các quốc gia, nhưng nó đã không bao giờ có hiệu lực. Trái lại, lần này Thỏa hiệp đã có hiệu lực, tất cả mọi nước thành viên của Liên Hiệp Âu châu đã phê chuẩn, và người ta hy vọng rằng có sự tuân giữ đại đồng.

Hỏi: Thưa giáo sư, 2015 cũng là năm của Hội nghị tái duyệt xét Thỏa hiệp không để vũ khí hạt nhân lan tràn triệu tập vào mùa xuân bên New York. Có dấu hiệu nào đến từ hội nghị này hay không?

Đáp: Rất tiếc là trong lãnh vực này thì không có nhiều hy vọng. Tuy nhiên, có một sự kiện tích cực đó là ít nhất chương trình nghị sự đã được chấp nhận, và như thế Hội nghị sẽ tiến hành. Sẽ rất ư là nguy hiểm, nếu các hội nghị loại này không được triệu tập.

Hỏi: Trong trường hợp có các dấu hiệu xích lại gần nhau giữa Hoa Kỳ và Iran, theo giáo sư, nó có tạo ra một hậu quả domino trong vùng hay không?

Đáp: Liên quan tới hiệu quả domino thì khó mà nói, nhưng nó có thể gây ra một hiệu qủa đáng kể đối với việc tái lập hòa bình, đặc biệt trong vùng Vịnh Ba Tư, là vùng đã trải qua các tranh cãi biên giới, tranh cãi đường thủy, và sự kiện các quốc gia thứ ba muốn nhảy vào vùng Vịnh. Vì thế có thể nói nó có một hiệu qủa nào đó. Nhưng nếu quý vị ám chỉ một giải pháp khả thể cho cuộc xung đột gây hậu qủa domino liên quan tới Nhà nước Hồi IS và liên quan tới Siria và Iraq, thì đương nhiên là khó mà nói được. Bởi vì ở đây các xung khắc vẫn đang tiếp diễn, và phong trào khủng bố này đang kiểm soát một vùng rộng lớn. Ngoài chuyện liên quan tới “Bin Laden” thực tế mà nói đây là lần đầu tiên một phong trào nổi loạn mang huy hiệu khủng bố kiểm soát được một vùng đất đáng kể. Theo tôi, trong trường hợp này sẽ không có một hiệu qủa domino, nếu không phải là trong nghĩa tất cả các quốc gia trong vùng cùng liên minh với nhau giúp đánh bại phong trào quốc gia hồi IS này. Nhưng đương nhiên liên quan tới điều này chúng ta không thể nói tới hòa bình, bởi vì nó sẽ bị thua sức mạnh của vũ khí. Và không có phương thế nào khác giúp đánh bại phong trào khủng bố này cả.

** Trong khi đó bên châu Mỹ Latinh có một mặt trận khác, trong đó tiến trình hòa bình tiếp tục được củng cố, mặc dù hiện nay vẫn không thiếu các vụ bạo lực và đó là trường hợp nước Colombia. Sau đây là một vài nhận xét của ông ông Raul Caruso, giáo sư khoa Chính trị kinh tế Đại học Công giáo Milano, kiêm giám đốc mạng lưới âu châu các “Khoa học gia cho hòa bình”.

Hỏi: Thưa giáo sư Caruso, giáo sư nghĩ gì về trường hợp của Colombia, là quốc gia đã có cuộc nội chiến lâu nhất thế giới, kéo dài 60 năm qua?

Đáp: Nước Colombia là một quốc gia đã bị xâu xé bởi một cuộc xung khắc triền miên hết thập niên này sang thập niên khác giữa quân chính phủ và các lực lượng bán quân sự và phiến quân, với những giai đoạn khó khăn và vài lúc gia tăng. Tuy nhiên, cũng đã có các cuộc thương thuyết hòa bình đang tiến hành bên Cuba, và xem ra Cuba trong lúc này là vùng phân chia ranh giới của biết bao nhiêu hy vọng. Rõ ràng là Colombia khiến cho chúng ta cũng nghĩ tới một khía cạnh khác nữa: đó là quốc gia này đang ở trong một tình trạng rất khó khăn về mặt chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, bất công xã hội, và đương nhiên là các nút thắt chính của tiến trình hòa bình đi qua việc giải quyết nạn bất công xã hội sâu xa, đã biến thành tinh thể tại Colombia từ nhiều năm qua.

Hỏi: Thưa giáo sư, các cuộc thương thuyết tiếp tục, thực ra chúng đã không bao giờ bị gián đoạn, nhưng mặc dù vậy đã không có đình chiến giữa các phe liên hệ, như vậy là thế nào?

Đáp: Cuộc xung đột tại Colombia rất đặc biệt, bởi vì các cuộc hòa đàm đã bắt đầu từ lâu, nhưng tổng thống Santos và cả các phiến quân đã luôn luôn khẳng định rằng các hoạt động chiến tranh bình thường vẫn tiếp tục. Đã không có cuộc ngưng chiến thực sự nào, chỉ có một cuộc ngưng bắn đơn phương thực sự từ phía các Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia FARC và Quân đội giải phóng quốc gia ELN là tổ chức du kích mác xít, nhân dịp bầu cử tổng thống cách đây vài tháng. Nhưng một cách kỹ thuật đã không có các cuộc thương thuyết hòa bình theo sau một cuộc ngưng bắn đích thực, như chúng ta thường nghĩ. Do đó, khi xảy ra các vụ bạo lực không cần tưởng tượng rằng chúng gây thiệt hại cho các cuộc thương thuyết hòa bình đang diễn tiến.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô đã công du Sri Lanka, là quôc gia cũng đã bị xâu xé bởi cuộc nội chiến trong bao nhiêu năm trời. Trong các thời gian qua xem ra đã có tiến trình hòa giải giữa các lực lượng đối nghịch, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Quốc gia đảo Sri Lanka tuy bé nhỏ, nhưng là một trường hợp rất đặc biệt, bởi vì cuộc nội chiến đã kéo dài tại đây ít nhất 25 năm. Hiện nay tình hình đang trở lại bình thường liên quan tới hòa bình, đến độ tin tức mấy ngày vừa qua cho biết đường xe lửa nối liền Bắc Nam đã được mở trở lại. Như thế tiến trình hòa bình tiếp tục, cả trong viễn tượng tái hội nhập đang thành hình trong xã hội Sri Lanka.

(RG 1-1-2015)
Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam

Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam

ROMA. Sáng ngày 26-1-2015, Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đã về đến Roma bằng an sau một tuần lễ viếng thăm khẩn trương tại Việt Nam, từ bắc chí nam.

Tháp tùng Đức Hồng Y trên đường về có Linh Mục Inhaxio Hồ Văn Xuân, Tổng đại diện Giáo Phận Sàigon.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Roberto Piermarini, Trưởng các ban tin tức của Đài Vatican, Đức Hồng Y Filoni đã bày tỏ sự hài lòng rất lớn về chuyến viếng thăm ngài thực hiện tại Việt Nam.

H. Cuộc viếng thăm ca Đức Hồng Y có âm vang nào từ phía Giáo Hội tại Việt Nam?

Đ. Giáo Hội địa phương không những đón tiếp tôi rất tốt đẹp nhưng còn vượt quá tất cả những mong đợi của tôi. Dĩ nhiên với các Giám Mục tôi đã có một cuộc gặp rỡ rất huynh đệ, cuộc gặp gỡ rất đẹp với các linh mục, các nữ tu, các chủng sinh. Tại Việt Nam chúng ta có một Giáo Hội thật phong phú về ơn gọi – cả nam lẫn nữ – và tôi thấy các linh mục làm việc tốt đẹp và dấn thân trong rất nhiều hoạt động, một số hoạt động ấy tôi có dịp viếng thăm trong các giáo phận khác nhau. Rồi từ phía các tín hữu: tôi nói rằng lòng quí mến của các tín hữu Việt Nam phần nào giống như sóng thần (tsunami). Trước hết họ có một ý thức rất đặc biệt mình là Kitô hữu, một lòng đạo đức thật đáng khen và một lòng quí mến nồng nhiệt mà họ biểu lộ dào dạt một cách tự nhiên. Điều này cũng là nhân cách tiêu biểu của các tín hữu việt Nam, họ cảm thấy rất gần gũi và kính mến các linh mục, các Giám Mục, và hiển nhiên là trong trường hợp này, đối với Tổng trưởng Bộ truyền giào, và nhất là họ có một lòng quí mến sâu đậm đối với Đức Thánh Cha như nhiều lần họ bày tỏ. Vì thế, đó thực là một Giáo Hội hết sức sinh động, dấn thân, ngày qua ngày đáp ứng được những mong đợi, cả về mặt xã hội và nhân bản của đất nước. Tôi phải nói rằng đối với tôi, Việt Nam là một sự khám phá, mặc dù tôi đã có nhiều dịp được biết và đọc. Tôi cũng muốn nói lên một sự đánh giá cao về những gì đã và đang được Giáo Hội tại Việt Nam thực hiện.

H. Thưa Đức Hồng Y, có một sự đáp ứng, những phản ứng nào trong các cuộc nói chuyện ở cấp cao nhất đối với chính quyền Hà Nội hay không?

Đ. Tôi phải nói rằng tất cả các báo chí địa phương, tiếng Việt cũng như tiếng Anh, đã đăng tải, kể cả ở trang nhất, ngoài hình ảnh, cuộc gặp gỡ, và đánh giá cao sự cộng tác hiện có, sự cảm thông tốt đẹp giữa Giáo Hội Công Giáo, Tòa Thánh và dĩ nhiên là chính quyền địa phương. Và rồi tôi đích thân cảm nghiệm thấy điều đó trong các cuộc gặp gỡ mà tôi có dịp thực hiện: ngoài cuộc gặp gỡ ở cấp cao nhất với Ban tôn giáo chính phủ, tôi đã được mời gặp thủ tướng và ông bí thư đảng cộng sản ở Hà Nội. Thậm chí, khi tôi giã từ, Ông Phó trưởng ban tôn giáo đã đến Hà Nội tiễn chào tôi ở sân bay. Vì thế, ở mọi cấp, tôi thấy có sự quan tâm rất nhiều và tôi cũng muốn nói lên sự hài lòng, vì họ rất hài lòng về các cuộc gặp gỡ mà chúng tôi đã có, như vị đại diện Tòa Thánh không thường trú, Đức TGiám Mục Girelli đã có dịp thấy; như Đức Tổng Giám Mục Chủ tịch Hội đồng Giám Mục đã tháp tùng tôi và các Giám Mục khác hiện diện tại những cuộc gặp gỡ ấy. Vì thế tôi có thể nói rằng cả trên bình diện truyền thông – không kể báo chí – cả truyền hình cũng đã nhiều lần chiếu các cuộc gặp gỡ ấy, như họ đã nói với tôi.

H. Thưa Đức Hồng Y Filoni, xét về những giới hạn mà Giáo Hội Việt Nam còn gặp phải, cuộc viếng thăm mục vụ của Đức Hồng Y mở ra hy vọng nào?

Đ. Những giới hạn không thuộc lãnh vực đức tin và không nhắm chống lại đức tin: – như họ đã nói với tôi -, nhiều khi những giới hạn đó là những vấn đề đặc thù, một cách nào đó cần tìm ra một cuộc đối thoại đúng. Tôi muốn nói rằng những viễn tượng ở đây là viễn tượng truyền giáo: Việt Nam là một xã hội đang thay đổi mau lẹ trên bình diện kinh tế, xã hội, nhưng vẫn còn gắn liền theo truyền thống với những giá trị thuộc thế giới Phật giáo, Khổng giáo, những giá trị truyền thống của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc loan báo Tin Mừng cần tìm ra những hình thức, hội nhập làm sao để Tin Mừng có thể được hiểu và chấp nhận. Cũng có vấn đề các nhóm dân thiểu số, nơi mà chúng tôi có được những điều hài lòng về phương diện truyền giáo: ví dụ trong Giáo phận Hưng Hóa, khi viếng thăm một giáo xứ (Hòa Bình) tôi đã được thấy hơn 200 người chịu phép rửa tội, hầu hết là người dân tộc; và cả trong cuộc gặp gỡ ở Đà Nẵng, kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận, hơn 50 người dân tộc người lớn được rửa tội. Vì thế có một công việc có thể được thực hiện tốt đẹp nơi những người dân tộc. Tôi cũng đã thấy bao nhiêu nữ tu là người dân tộc và đây là điều mới mẻ mà dĩ nhiên trước đó tôi chưa được biết và sự kiện ấy giải thích một cách nào đó hoạt động mục vụ của những người đến từ môi trường những người dân tộc phục vụ cho những người dân tộc. Chúng tôi chưa có các linh mục trong lãnh vực này, nhưng có một sự dấn thân từ phía tất cả mọi người làm sao để có thể tìm ra những ơn gọi linh mục làm việc tốt cả trong môi trường những người dân tộc.

H. Cuộc viếng thăm ca Đức Hồng Y diễn ra sau cuộc viếng thăm lần thứ hai của ĐGH ti Á châu: đâu là những viễn tưng được mở ra cho việc loan báo Tin Mừng tại Á châu, thưa Đức Hồng Y?

Đ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng tại Á châu – giống như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 nay là thánh, đã đặc biệt quan tâm, làm sao để ngàn năm này phải được dành cho việc loan báo Tin Mừng tại Á châu, với một quyết tâm xứng với đại lục to lớn này. Vì thế cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng, tại Sri Lanka cũng như tại Philippines, nói lên một sự chú ý đặc biệt của ĐGH Phanxicô đối với đại lục này. Do đó chúng tôi hy vọng và cầu mong – chính các tín hữu Công Giáo cũng nói như vậy: bao nhiêu lần họ với với tôi: ”Xin Đức Hồng Y xin Đức Thánh Cha đến thăm chúng con. Không phải ngài chỉ bay trên Việt Nam chúng con, nhưng còn xuống thăm chúng con nữa”. Đây là điều thật đẹp vì hiển nhiên họ cảm thấy rằng Đức Giáo Hoàng mang theo mình một đà tiến truyền giáo mà tôi tin rằng tại đại lục này có thể tìm được một không gian rộng lớn”

G. Trần Đức Anh, O.P, chuyển ý

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay: 19-01-2015

Trên chuyến bay dài gần 15 tiếng từ Manila về Roma, ĐTC đã mở cuộc họp báo dài hơn 1 tiếng đồng hồ với 76 ký giả tháp tùng, để tổng kết chuyến viếng thăm tại Philippines và ngài cũng đề cập đến nhiều vấn đề thời sự: từ nạn tham nhũng trong các tổ chức dân sự và Giáo Hội đến vấn đề ”thực dân hóa gia đình về ý thức hệ”, từ lý thuyết về giống (Gender theory) cho đến vấn đề ngừa thai. Ngài cũng nói đến một loạt những cuộc tông du có thể thực hiện trong năm nay, 2015.

– Trả lời câu hỏi: ”Dân Philippines đã học được nhiều từ các sứ điệp của ĐTC. Vậy ĐTC đã học đưc điều gì nơi dân Philippines? Ngài đáp:

”Những cử chỉ.. những cử chỉ làm cho tôi cảm động. Không phải những cử chỉ theo nghi thức, nhưng là những cử chỉ xuất phát từ con tim, hầu như những cử chỉ ấy làm rơi lệ (ĐGH rướm lệ). Đức tin, tình yêu, gia đình, tương lai, nơi cử chỉ của những người cha nâng bổng các đứa con của họ.. như thể họ nói: đây là kho báu của tôi, đây là tương lai của tôi và làm việc và chịu đau khổ vì kho báu này thật là điều bõ công”. Một cử chỉ độc đáo, xuất phát từ con tim.

Điều thứ hai làm tôi xúc động nhiều: lòng nhiệt thành không giả bộ, niềm vui, sự hân hoan, khả năng mừng lễ. Dù dưới trời mưa. Một trong những người trong ban nghi lễ phụng vụ nói với tôi là rất cảm động, vì thấy những người giúp lễ ở Tacloban, dưới trời mưa, vẫn không bao giờ mất nụ cười. Một niềm vui không giả dối, không phải là một nụ cười gượng gạo, nhưng đó là một nụ cười đàng sau đó có cuộc sống bình thường, có những đau khổ, các vấn đề. Những người mẹ mang những đứa con bệnh tật.. Bao nhiêu trẻ em tàn tật, với những tật nguyền có thể gây ấn tượng, họ không giấu kín con của họ, họ mang đến để ĐGH chúc lành: đây là con tôi, bé tàn tật như thế, nhưng đó là con tôi. Tất cả những bà mẹ làm điều ấy, nhưng cách họ làm khiến tôi xúc động. Một cử chỉ của tình mẫu tử, phụ tử… Philippines là một dân tộc biết chịu đau khổ và có khả năng trỗi dậy, tiếp tục tiến bước. Hôm qua (18-1-2015), trong cuộc nói chuyện với thân phụ cô Krystel, thiếu nữ thiện nguyện bị thiệt mạng ở Tacloban, tôi cảm thấy được khích lệ vì điều mà ông nói: ”Cháu đã chết trong lúc phục vụ”. Ông tìm những lời để diễn tả sự chấp nhận tình trạng bị mất con như vậy”.

Những cử chỉ đã đánh động sâu xa con tim của ĐGH Phanxicô cũng là những cử chỉ của các nạn nhân sống sót sau cuồng phong ở Tacloban. Ngài nói: ”Khi nhìn thấy toàn thể dân Chúa cầu nguyện sau thiên tai ấy, tôi cảm thấy như bị tiêu diệt, hầu như không nói nên lời nữa”.

– Và thực sự khi gợi lại điều ấy, ĐGH vẫn còn cảm thấy xúc động, nhưng giọng nói của ngài thay đổi khi một ký giả hỏi ngài: đâu là những cuộc viếng thăm ngài d định thực hiện trong những tháng tới đây. Như thói quen, ngài chỉ trả lời lướt qua, và cho biết đây chỉ là những dự án đang ở trong vòng cứu xét:

”Tôi chỉ trả lời như giả thuyết. Chương trình dự tính là đến thăm Cộng hòa Trung Phi và Uganda. Hai nước trong năm nay. Tôi nghĩ là cuộc viếng thăm sẽ diễn ra vào khoảng cuối năm, vì lý do thời tiết, làm sao để thời tiết không bị mưa làm cho cuộc viếng thăm trở nên khó khăn hơn. Cuộc viếng thăm này hơi bị trể, vì có vấn đề bệnh dịch Ebola. Thật là trách nhiệm lớn khi tổp chức các cuộc tập họp lớn vì có nguy cơ bị lây bệnh. Tại hai nước vừa nói không có vấn đề”.

ĐTC cũng cho biết ngài có thể thăm 3 nước Mỹ châu la tinh, dự kiến cho năm nay – vẫn còn ở trong vòng dự định – đó là Ecuador, Bolovia và Paraguay. ”Rồi năm tới (2016), nếu Chúa muốn, tôi muốn thăm Chile, Argentina và Uguray, nhưng chưa dự kiến gì cả.”

Vì lý do thực tiễn trong việc tổ chức (cần thêm 2 ngày), ĐTC loại bỏ giả thuyết ngài sẽ đến California để phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra O.F.M. Lễ tôn phong sẽ diễn ra trong Đền thánh quốc gia ở Washington. Cũng vì lý do tương tự, không có vấn đề từ Mêhicô đi vào Hoa Kỳ, tuy rằng cử chỉ đó có thể có giá trị ”huynh đệ” đối với những người nhập cư. ”Đi vào Hoa Kỳ từ biên giới Mêhicô sẽ là một điều đẹp như một dấu chỉ huynh đệ, nhưng bạn biết rằng đi Mêhicô mà không đến viếng Đức Mẹ (Guadalupe) thì sẽ là một thảm trạng, ”một chiến tranh sẽ bùng nổ!.. Tôi nghĩ tôi sẽ thăm 3 thành phố Hoa Kỳ thôi.”

ĐTC cũng cho biết ngài không đến El Salvador để phong chân phước cho Đức Cha Oscar Romero (TGM San Salvador).

– Trả lời câu hỏi về việc nhiều lần ngài tố giác nạn tham ô hối lộ, ĐTC tái khẳng định rằng đó là một điều ác, một hành động xấu xa có những hậu quả tai hại, đó là một ”vấn đề thế giới” thường ẩn nấp dễ dàng trng các tổ chức, các cơ quan, không kể nơi mỗi cá nhân, và tệ nạn này thường tạo nên nạn nhân nhiều nhất nơi người nghèo. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi những kẻ thối nát thuộc về Giáo Hội và ở trong Giáo Hội. ĐGH Phanxicô kể lại một giai thoại khi ngài còn làm GM ở Buenos Aires, khi hai quan chức chính phủ đến gặp và đề nghị sẽ chuyển một ngân khoản lớn (400.000 USD) cho những ”Villas miserias” (những khu phố nghèo) mà ngài thành lập, với điều kiện là ngài phải lấy một nửa số tiền đó bỏ vào ngân hàng để trao cho họ. Ngài đã nói với họ những lời này:

”Quí vị biết là chúng tôi trong các giáo hạt không có tài khoản ở ngân hàng; quí vị phải gửi tiền ở tòa Giám Mục với giấy chứng nhận”. Họ đáp: ”Ồ chúng con không biết như vậy”. Rồi họ ra đi.. Tham nhũng thật là điều dễ làm. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này: tội lỗi thì có, tham nhũng thì không! Không bao giờ được tham nhũng. Chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ cho những tín hữu Công Giáo ấy, gây gương mù vì sự tham nhũng của họ. Đó cũng là một tai ương trong Giáo Hội, nhưng cũng có bao nhiêu vị thánh, những vị thánh tội nhân, nhưng không tham nhũng.. Nhưng chúng ta cũng hãy nhìn sang phía bên kia, Giáo Hội Thánh Thiện”.

– Một ký giả Italia đã nhắc đến tấm gương cách đây 40 năm một vị Hồng Y (Léger) đã từ bỏ mọi sự đi đến ở nơi người cùi và phục vụ họ. ĐHY ấy là người duy nhất. Tại sao rất khó noi gương phục vụ người nghèo, kể cả đối với các Hồng Y?

ĐTC đáp: ”Về sự thanh bần, tôi nghĩ là Giáo Hội ngày càng phải nêu gương hơn về vấn đề này, từ khước mọi thứ trần tục. Đối với chúng tôi, những người được thánh hiến, các giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân có lòng tin thực sự, thì sự đe dọa trầm trọng nhất chính là tinh thần trần tục. Thật là điều đau buồn dường nào khi thấy một người thánh hiến, một người của Giáo Hội, một nữ tu, có tinh thần thế gian trần tục như vậy. Thật là xấu! Đó không phải là con đường của Chúa Giêsu, nhưng là của một tổ chức phi chính phủ (ONG) gọi là Giáo Hội. Đó không phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu, nhưng là con đường của ONG”.

– Hai ký giả xin ĐGH làm sáng tỏ hai nhận xét mà ngài đã nói trong cuộc họp báo trên đường từ Colombo, Sri Lanka, đến Manila. Một câu hỏi về 'cú đm' cho người dám xúc phạm đến mẹ ngài – như từ vài ngày nay, báo chí vẫn đăng như một tựa đề -, nghĩa là ”đâu là những giới hạn của tự do ngôn luận. ĐGH tái khẳng định rằng ”trên lý thuyết” tất cả đều đồng ý về việc giơ má bên kia trong trường hợp bị khiêu khích, nhưng thực tế chúng ta là những con người và vì thế sự xúc phạm lập đi lập lại có thể tạo nên một phản ứng sai lầm. Vì thế, ĐGH quả quyết, có thái độ thận trọng, đó không phải là một điều xấu.

– Trả lời câu hỏi về thành ngữ mà ĐGH sử dụng, ”thực dân ý thức hệ”, ngài kể lại một sự kiện cách đây 20 năm, một bà bộ trưởng giáo dục đã yêu cầu (các tổ chức quốc tế) cho vay mượn một ngân khoản lớn để thiết lập những trường học cho người nghèo ở vùng nông thôn. Các tổ chức ấy cho mượn tiền với điều kiện là phải du nhập vào trường học một cuốn sách giáo khoa dạy lý thuyết về giống. Bà bộ trưởng ấy cần tiền và đó là điều kiện.. Bà trả lời là đồng ý, nhưng bà cũng ”khôn ngoan”, bà cho soạn một cuốn sách thứ II, có chiều hướng khác, và cho phân phát cùng với cuộc sách thứ I về lý thuyết giống.

ĐTC nhận xét: ”Đó thực là một sự thực dân hóa ý thức hệ: họ đi vào một dân tộc với một ý tưởng chẳng có liên hệ gì với dân chúng; đúng vậy, nó có liên hệ với những nhóm dân, nhưng không phải với nhân dân, và người ta thực dân hóa nhân dân với một ý tưởng thay đổi hoặc muốn thay đổi một não trạng hoặc một cơ cấu (…). Dầu sao đó không phải là điều mới mẻ. Các chế độ độc tài trong thế kỷ trước cũng đã làm như vậy. Họ đề ra các lý thuyết của họ. Các bạn hãy nghĩ đến ”Balilla”, đến giới trẻ Hitler. Họ đã thực dân hóa dân chúng và muốn làm như vậy. Bao nhiêu là đau khổ. Các dân tộc không được đánh mất tự do của mình”.

– Một đề tài khác được đề cập đến trong cuộc họp báo là vấn đề ngừa thai. Ký giả hỏi:

ĐTC đã nói về bao nhiêu trẻ em và niềm vui của ngài, nhưng theo các cuc thăm dò, phần lớn dân Philippines nghĩ rằng sự tăng trưởng quá lớn về dân số là một trong những lý do tạo nên nghèo đói ti nước này. Bình thường một phụ nữ sinh hơn 3 đứa con. Lập trường của Giáo hội về vấn đề ngừa thai là một trong những điều mà nhiều ngưi không đồng ý với Giáo Hội.” ĐTC đáp:

”Tôi nghĩ rằng con số 3 người con cho mỗi gia đình mà bạn nói, theo những điều mà các chuyên gia nói, là con số quan trọng để duy trì dân số. Khi xuống dưới mức đó thì người ta rơi vào thái cực khác, đó là điều đang xảy ra ở Italia, nơi mà tôi nghe nói – không biết có đúng không, – vào năm 2024 sẽ không đủ tiền để trả lương hưu.. Chìa khóa để trả lời – Giáo hội sử dụng và tôi cũng sử dụng – đó là sinh sản có trách nhiệm và mỗi người trong cuộc đối thoại với mục tử của mình tìm cách thực hiện việc làm cha làm mẹ trách nhiệm. Thí dụ mà tôi đã vừa nhắc đến là người phụ nữ đang mang thai đứa con thứ 8 và bà đã có 7 người con sinh bằng giải phẫu (parto cesareo). Làm như thế là vô trách nhiệm. Bà nói: ”Không, nhưng con tin tưởng nơi Thiên Chúa..”. Đúng vậy, Thiên Chúa ban cho bà các phương tiện, nhưng xin lỗi, có người nghĩ rằng để là tín hữu Công Giáo tốt, thì chúng ta phải như ”thỏ”. Phải sinh sản có trách nhiệm: vì thế trong Giáo Hội có những nhóm hôn nhân, những chuyên gia trong vấn đề này, và có các vị mục tử và tôi biết có bao nhiêu lối thoát hợp pháp, giúp trong vấn đề này. Một điều khác: đối với những người nghèo nhất, con cái là một kho tàng, dĩ nhiên là phải thận trọng, nhưng người con chính là một khó tàng. Sinh sản có trách nhiệm, nhưng cũng phải nhìn đến lòng quảng đại của người cha và người mẹ nhìn thấy nơi con cái họ là một kho tàng”.

ĐTC cũng nhắc đến thông điệp ”Humanae vitae” của Đức Phaolô 6, một vị ngôn sứ, chứ không phải là một vị Giáo Hoàng ”khép kín”. Ngài nói:

”Đức Phaolô 6 nhìn chủ thuyết tân Malthus (cho rằng nghèo đói là do dân số quá đông gây ra) đang lan tràn bấy giờ. Chủ thuyết ấy tìm cách kiểm soát nhân loại từ phía các cường quốc.

– Về lời ngài kêu gọi các nước Hồi giáo có lập trường chống lại các nhóm khủng bố, ĐTC nói là ngài tin tưởng rằng với thời gian, nhiều ”người tốt” trong thế giới Hồi giáo sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ hơn. Ngài cũng minh xác về việc không tiếp kiến Đc Đạt Lai Lạt Ma, vì ”thói quen trong nghi thức ngoại giao của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh” không đón tiếp các vị Quốc Trưởng hoặc các vị ở cấp tương đương như vậy, khi các vị ấy đến Roma để tham dự một cuộc gặp gỡ quốc tế. ”Trong những ngày hội nghị thượng đỉnh FAO ở Roma, tôi không tiếp vị quốc trưởng nào. Không phải tôi không tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma vì sợ Trung Quốc. Ngài đã xin được tiếp kiến – và chúng tôi có quan hệ – nhưng lý do ở đây không phải là từ khước một nhân vật hoặc vì sợ Trung Quốc. Chúng tôi cởi mở và muốn có hòa bình với tất cả mọi người. Vậy quan hệ với Trung Quốc thế nào? Chính Phủ Trung Quốc thông thạo và cả chúng tôi cũng thông thạo và chúng tôi tiến hành sự việc từng bước một, cũng như sự việc tiến hành trong lịch sử. Chúng tôi không biết, nhưng họ biết rằng tôi sẵn sàng tiếp kiến hoặc đi tới Trung Quốc. Họ biết điều đó”.

Vào cuối cuộc họp báo, ĐTC đã chúc mừng sinh nhật bà Valentina Alazraki, ký giả truyền hình của Mexico, niên trưởng các ký giả tháp tùng ngài trên các chuyến bay. Ngài tặng quà riêng cho bà và cũng tặng bà và tất cả các ký giả tháp tùng một bánh ngọt lớn để mừng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tường thuật ngày thứ ba chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Sri Lanka (1/3)

Tường thuật ngày thứ ba chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Sri Lanka (1/3)

** Hôm qua thứ năm 15 tháng giêng là ngày chót trong chuyến viếng thăm Sri Lanka ĐTC Phanxicô đã chỉ có một sinh Hoạt chính là thăm Học viện văn hóa Biển Đức XVI tại Bolawalana, cách Colombo 35 cây số, trước khi từ giã Sri Lanka để lên đường sang Philippines. Tuy nhiên ngài cũng đã có một sinh hoạt ngoài chương trình, đó là thăm một ngôi chùa Phật giáo và gặp nguyên tổng thống Mahinda Rajapaksa.

Lúc 6 giờ rưỡi sáng ĐTC đã dâng thánh lễ riêng trong nhà nguyện Tòa Sứ Thần. Sau đó lúc 7 giờ 45 ĐTC đi xe đến Bolawalana. ĐTC đã được Linh Mục Mahamalage Quintus Fernando viện trưởng Học Viện Biển Đức XVI tiếp đón và tháp tùng vào nhà nguyện Học viện. ĐTC đã qùy cầu nguyện trong thinh lặng. Bên trong nhà nguyện cũng có 10 linh mục dòng Tên thuộc cộng đoàn gần Học viện, một ca đoàn và vài dân chài của vùng này. Bên ngoài nhà nguyện có 250 công nhân đã cộng tác trong việc xây cất Học viện. Nhà nguyện được dâng kính “Đức Bà Lanka”. Đền thánh Đức Bà Lanka tại Colombo có từ năm 1911 ban đầu dược dâng kính Đức Mẹ Lộ Đức, năm 1917 có thêm một hang đá và là nơi thu hút tín hữu hành hương. Sau đó đền thánh được nới rộng và hồi Đệ nhị thế chiến bùng nổ ĐHY Jean Marie Masson thuộc dòng Hiến sinh vô nhiễm, TGM Colombo, khấn hứa dâng một đền thánh với tên “Đức Bà Lanka”, nếu Sri Lanka không bị chiến tranh tàn phá. Đền thánh được hoàn thành năm 1974 và được Đức Phaolô VI nâng lên hàng Tiểu vương cung thánh đường trong ngày thánh hiến cùng năm.

Học viện Biển Đức XVI thành hình năm 2011 do sáng kiến của ĐHY Malcom Ranjith, TGM Colombo. Học viện có mục đích cộng tác với các giới chức chính quyền và các tổ chức khác trong việc tái thiết quốc gia sau ba mươi năm nội chiến. Học viện bao gồm một ban đối thoại liên tôn và cộng tác, một ban ngữ học chuyên dậy các thứ tiếng ngoại quốc bắt đầu bằng tiếng Anh đang trở thành ngôn ngữ chung của Sri Lanka, và một ban nghiên cứu các môn học cao đẳng gồm các khoa nhân văn, triết học, thần học, kinh tế, thương mại, tin học vv…

Sau khi thăm Học viện Biển Đức XVI lúc 8 giờ rưỡi ĐTC đã đi ra phi trường cách đó 8 cấy số để từ biệt Sri Lanka lấy máy bay sang Philippines.

ĐTC đã được tổng thống tân cử Sirisena tiếp đón trong phòng khách. Cùng hiện diện có một số giới chức lãnh đạo đạo đời, tất cả các Giám Mục Sri Lanka và một nhóm tín hữu. ĐTC và tổng thống đã duyệt hàng chào danh dự. ĐTC đã bắt tay từ biệt các vị lãnh đạo đạo đời. Tổng thống đã tiễn ĐTC tới tận chân thang máy bay.

** Chiếc máy bay Airbus 340 của hãng hàng không Sri Lanka đã cất cánh rời phi trường Colombo lúc 9 giờ sáng và trực chỉ Manila. Máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng bay ngang qua không phận các nước Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan. Campuchia và Việt Nam, trước khi tới Philippines.

ĐTC đã gửi điện tín chào tổng thống Maithripala Sirisena và quốc dân Sri Lanka. Ngài bầy tỏ lòng biết ơn sự tiếp đón nồng hậu của tổng thống, chính quyền và toàn dân Sri Lanka và bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho hòa bình, hiệp nhất và thịnh vượng của Sri Lanka.

Khi máy bay bay trên không phận của Ấn Độ ĐTC gửi điện tín chào thăm và khẩn cầu phước lành tràn đầy của Thiên Chúa trên trên tổng thống Pranab Mukherjee và nhân dân Ấn.

Qua không phận Thái Lan ĐTC gửi lời chào thăm quốc vương Bhumibol Adulayadej và bảo đảm cầu nguyện cho nhà vua và toàn dân Thái được tràn đầy ơn hòa bình và thịnh vượng của Thiên Chúa.

Khi bay trên không phận Campuchia ĐTC gửi điện tín chào thăm và khẩn cầu phước lành tràn đầy của Thiên Chúa trên vua Norodom Sihamoni và quốc dân.

Khi máy bay ở trên bầu trời Việt Nam ĐTC đã gửi điện tín cho ông Trương Tấn Sang Chủ tịch nưóc Cộng hòa xã hội Việt Nam. Ngài bảo đảm các lời cầu nguyện cho ông và toàn dân Việt Nam và khẩn nài Thiên Chúa ban ơn hòa bình và thịnh vượng trên mọi người.

** Sau 6 giờ 15 phút bay vượt chặng đường dài 4.567 cây số, chiếc Airbus 340 đã tới phi trường Villamor Manila lúc 17 giờ 45 giờ địa phương.

Bầu khí chờ đợi ĐTC tại Philippines rất là hân hoan. HĐGM đã ra thông cáo mời gọi đánh chuông 60.000 nhà thờ và hằng trăm ngàn nhà nguyện trên toàn nước để chào mừng ĐTC, khi ngài đến phi trường Manila. Đây là lần thứ tư một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm Philippines. Lần đầu tiên là Đức Phaolô VI hồi năm 1970 tức cách đây 45 năm, tiếp theo đó là Đức Gioan Phaolô II trong hai năm 1981 và 1995.

Đón tiếp ĐTC tại phi trường có ĐHY Luis Antonio Tagle TGM Manila, ĐC Socrates Villegas, TGM Lingayen-Dagupan, Chủ tịch HĐGM Philippines, ĐTGM Giuseppe Pinto, Sứ Thần Tòa Thánh tại Philippines, các Giám Mục thuộc ban Thường Vụ. Về phiá chính quyền có Tổng thống Benigno Simeon Aquino III, một số vị lãnh đạo dân sự. Cũng có mấy ngàn bạn trẻ vùa hát vừa múa chào mừng ĐTC. Bên canh đó là một ban vũ thiếu nhi mặc áo có cánh thiên thần và hàng chục ngàn tín hữu cầm cờ Toà Thánh và cờ Philippines vẫy chào ĐTC.

Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Philippines và bà đại sứ Philippines cạnh Tòa Thánh đã lên máy bay chào ĐTC.

Tổng thống Aquino đã đón ĐTC tại chân thang máy bay. Sau khi ĐTC và tổng thống bước lên bục, ban quân nhạc đã trổi quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Phihlippines. Tiếp đến ĐTC và tổng thống duyệt hàng chào danh dự. Hai em bé một trai một gái đến tặng hoa cho ĐTC. Tổng thống giới thiệu với ĐTC một vài giới chức chính quyền. ĐTC đã chào các Giám Mục và ĐHY Tagle. Tiếp đó ĐTC đã lên xe díp trắng để vể Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 9 cây số. Lễ nghi tiếp đón chính thức sẽ chỉ diễn ra sáng thứ sáu 16 tháng giêng, khi ĐTC đến viếng thăm xã giao tổng thống.

Hai bên đường từ phi trường về Toà Sứ Thần cách đó 9 cây số cũng đầy tín hữu đúng hai bên đường chào đón ĐTC. Xe đã tới Tòa Sứ Thần 45 phút sau đó. ĐTC đã dùng bữa tối và nghỉ ngơi lấy sức cho các sinh hoạt tiếp theo.

** Manila là thủ đô của Philippines từ năm 1591, nằm trên bờ biển phía đông đảo Luzon, là đảo lớn nhất của quần đảo Philippines gồm hơn 7,100 đảo. Cấu trúc thành phố có từ thời Tây Ban Nha đô hộ với các bức tường của thành cổ có pháo đài gọi là Intramuros. Manila hiện có 1,5 triệu dân cư và là trung tâm của một vùng thành phố khác là Metro Manila bao gồm 17 thành phố chung quanh có tổng cộng 12 triệu dân. Ở mạn nam Intramuros là công viên Rizal, nơi ĐTC sẽ cử hành thánh lễ cho tín hữu ngày 18 tháng hai. Manila có nhiều nơi phụng tự công giáo trong đó có nhà thờ chính toà nơi ĐTC sẽ cử hành thánh lễ cho hàng giáo sĩ và tiểu vương cung thánh đường Thánh Sebastian kiểu gô tích hoàn toàn bằng thép. Manila cũng có khoảng 30 đại học, học viện và viện cao học bách khoa, kỹ thuật, nổi tiếng nhất là Đại học giáo hoàng thánh Toma, nơi ĐTC sẽ gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo và giới trẻ Philippines.

Tổng giáo phận Manila có từ năm 1595, có 3 triệu 484 ngàn dân trong đó có 3 triệu 49 ngàn người công giáo, tức chiếm 88%. Giáo phận có 88 giáo xứ, 260 nhà thờ hay cứ điểm truyền giáo, 271 linh mục giáo phận, 369 linh mục dòng, 529 tu huynh, 899 nữ tu khấn trọn, 89 đại chủng sinh và 1 thầy sáu vĩnh viễn. Giáo Hội điều khiển 204 cơ sở giáo dục và 38 trung tâm bác ái.

Sáng thứ sáu hôm nay ĐTC được chính thức tiếp đón tại Dinh Tổng thống Malacanhăng, gặp gỡ chính quyền và ngoại giao đoàn, rồi lúc 11 giờ cử hành thánh lễ cho hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và chủng sinh trong nhà thờ chính tòa Manila. Vào ban chiều ngài gặp gỡ các gia đình tại tòa nhà thể thao “Mall of Asia Arena”.

Để kết thúc bài theo gót ĐTC sau đây là bài phỏng vấn ĐHY Luis Antonio Gokim Tagle, TGM Manila dành cho phái viên Sean Lovett của chương trình tiếng Anh đài Vaticăng, về bầu khí chờ đợi ĐTC, kỷ niệm chuyến viếng thăm của Đức Phaolô VI và bầu khí chờ đợi ĐTC Phanxicô.

Hỏi: Thưa ĐHY, tình hình Philippines hiện nay ra sao?

Đáp: Philippines vừa mới lấy lại sức sau trận bão vừa qua. Trong lúc này đây tôi vẫn còn nhớ như in các hình ảnh tàn phá: cây cối trụi hết không còn một lá nào, tuy nhiên các đường xá được quét dọn sạch sẽ và lề đường được lót lại để chuẩn bị tiếp đón ĐTC…

Hồi Đức Phaolô VI viếng thăm Philippines dân chúng đã rất hăng say tiếp đón ngài như là một ơn từ trời, Đức Phaolô VI đã muốn đến thăm các gia đình nghèo của quận Tondo ỏ Manila, nổi tiếng là một trong những vùng nghèo nhất của thành phố. Người dân tại đây vẫn còn nhớ chuyến viếng thăm ấy của Đức Phaolô VI. Khi tôi tới thăm giáo xứ nhân một dịp lễ cha sở và tín hữu tại đây đã chỉ cho tôi thấy căn nhà nơi Đức Phaolô VI đã thăm. Còn có các kỷ niệm các hình ảnh và các hiệu quả của chuyến viếng thăm cách đây 45 năm đó.

Hỏi: Có tương quan giữa hai chuyến viếng thăm của hai vị Giáo Hoàng không, vì có đề tài về lòng thương xót và đối thoại…

Đáp: Vâng, có tương quan giữa hai cuộc viếng thăm. Chúng ta phải nhớ tới các người mà Đức Phaolô VI đến gặp gỡ hồi năm 1970, là các Giám Mục Á châu tụ tập về để gặp ĐGH. Và chính trong dịp này tại Manila với sự khích lệ của Đức Phaolô VI Liên Hội Đồng Gám Mục Á châu đã chào đời. Đức Phaolô VI cũng đã khánh thành đài phát thanh Chân Lý Á châu để có thể loan báo Tin Mừng cho các dân tộc Á châu qua Radio. Trong một nghĩa nào đó, chuyến viếng thăm của Đức Phaolô VI đã như là tiếp nhận Công Đồng Chung Vaticăng II tại Á châu, với hình ảnh của ĐTC mời gọi chúng tôi đối thoại và tài liệu Giáo Hội Người. Thế rồi bốn năm sau tại Đài Loan năm 1974 đã có đại hội đầu tiên của Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu về đề tài rao giảng Tin Mừng tại Á châu. Theo Đức Phaolô VI việc rao truyền Tin Mừng phải xảy ra qua đối thoại. Như thế các biến cố có liên hệ với nhau.

Hỏi: Không có nhiều người nối liền Đức Phaolô VI với Đức Phanxicô. ĐHY có làm điều này không?

Đáp: Ồ, có chứ. Tôi có làm điều đó. Khi có người nói một cách tích cực cũng như một cách tiêu cực rằng “ĐTC Phanxicô đang làm một cuộc cách mạng, đang đối thoại, đang ôm hôn người nghèo”, thì tôi nói là đã thấy nơi Đức Phaolô VI rồi trong lộ trình của ngài và trong con người của ngài. Trực giác này, quan niệm này mà ĐTC Phanxicô xem ra đang lấy lại và tái đề nghị, tôi đã sống như là chứng nhân trong các nghiên cứu và cuộc gặp gỡ của tôi với Đức Phaolô VI tại Philippines. Các cử chỉ biểu tượng của Đức Phaolô VI xem ra đã mở đường cho Đức Phanxicô.

Hỏi: ĐTC Phanxicô đã nói là ngài mang theo một sứ điệp cảm thương đến cho người nghèo, cho các nạn nhân của bão lụt và động đất, và xin đừng chi phí nhiều cho các việc chuẩn bị đón tiếp, có đúng thế không thưa ĐHY?

Dáp: Vâng, đây là dấu vết các chuyến viếng thăm của ngài. Bên Nam Hàn cũng thế ĐTC sẽ không hài lòng thấy các chuẩn bị lộ liễu. Cả bàn thờ dâng thánh lễ cũng phải đơn sơ, là dấu chỉ của vị Giáo Hoàng này, của sự đơn sơ của ngài.

Hỏi: Người dân Philippines rất quảng đại trong việc diễn tả lòng trìu mến của họ Có khó kìm hãm họ không thưa ĐHY?

Đáp: Trong một kiểu nào đó thì khó kìm hãm họ. Nhưng chúng tôi đã không chỉ làm cho dân chúng hiểu các ước muốn của ĐTC, mà cũng hiểu các dấu chỉ thời đại nữa. Chúng tôi không muốn dấy lên gương mù gương xấu. Tất cả mọi người đều có thể tìm một cớ để dành cho ngài một sự tiếp đón sang trọng, vì có gì đi nữa thì ngài cũng là Giáo Hoàng, Nhưng chúng tôi phải ý thức đối với biết bao nhiêu người mà chúng tôi phải tiếp đón hằng ngày giữa chúng tôi: những người nghèo và đói. Vì thế tất cả tiền tiết kiệm được cho chuyến viếng thăm của ĐTC sẽ được dùng để trợ giúp người nghèo. Và ĐTC đã rất rõ ràng trong việc này.

Hỏi: Thế giới đã chú ý rất nhiều đến Philippines sau trận bão Haiyan và Hagupit, nhưng ĐHY đã thường nói đến các trân bão thường ngày ập đổ trên Philipines…

Đáp: Vâng chúng tôi thường có các trận bão, trung bình khoảng 20 tới 22 trận bão mỗi năm. Chúng tôi cũng thường có động đất ở các mức độ khác nhau. Chúng khiến cho thế giới chú ý vì sức tàn phá rộng rãi của chúng. Nhưng, như tôi đã nói trong nhiều dịp, chúng ta không được quên các trận bão hằng ngày, các trận động đất hằng ngày do nghèo đói, gian tham hối lộ, các thoả hiệp thương mại sỗ sàng và các thực hành không liêm chính gây ra cho người dân. Cả khi mặt trời rạng rỡ, bóng tối lan tràn trong cuộc đời của biết bao nhiêu người. Cả trong Thượng Hội Đồng Giám Mục tôi đã nhắc tới những người trong các nhóm bé nhỏ, đối với chúng tôi bên Á châu, sự nghèo túng không phải là một cái gì ngoại tại đối với gia đình. Nó ghi đậm dấu trên cuộc sống, trên tế bào gia đình. Khi tôi thăm một nhà tiếp đón các trẻ em và người trẻ lang thang ngoài đường ban đêm, tôi mới nhận ra rằng cha mẹ các em khoan nhượng với tất cả những điều đó, bởi vì họ hy vọng rằng các nhân viên của chính quyền có thể tiếp đón con cái họ và nuôi dạy chúng trong các nhà tiếp đón. Họ không phải là các cha mẹ lơ là với con cái của họ, nhưng họ là các cha mẹ qúa nghèo không có gì cho con ăn cả, và họ nói với con cái họ: “Sao con không đi ra ngoài và khi cảnh sát đem con vào nhà tiếp đón, tại sao con không đi với họ? Con sẽ có được an ninh ban đêm. Cho đêm nay con có một mái nhà và thức ăn”.

Hỏi: ĐTC Phanxicô đã nói rằng ngài muốn chuyến viếng thăm không tập trung nơi ngài, nhưng tập trung nơi Chúa Giêsu và nơi gương mặt của những người nghèo. ĐTC có đưa ra các chỉ dẫn nào khác không thưa ĐHY?

Đáp: Ngài không muốn mất thởi giờ trong những chuyện có thể làm cho ngài chia trí đối với trọng tâm sứ mệnh của ngài là gặp gỡ người nghèo và lắng nghe họ. Trong chuyến viếng thăm của ĐTC có nhiều người hỏi: “Chúng con có thể gặp ĐGH một phút không? Có thể dâng tặng cho ngài cái này cái kia không?” Tất cả đều rất đẹp. Nhưng nếu chỉ có ba ngày thăm viếng, thì cần phải lựa chọn. Và cũng cần tiết kiệm sức lực cho ĐTC nữa. Các chuyến bay dài, việc thay đổi khí hậu, thay đổi múi giờ, thay đổi thực phẩm vv… có thể khiến cho một người 78 tuổi kiệt lực. Cần phải sử dụng các sức lực ấy cho sứ mệnh của ngài. Vì thế chúng tôi đang giúp ĐTC tập trung vào các cuộc gặp gỡ của ngài với các gia đình và với giới trẻ tại Manila. Trong các cuộc gặp gỡ này ngài cũng sẽ lắng nghe các chuyện của các gia đình gặp khó khăn, các gia đình đã là nạn nhân của nhiều trận bão lụt, cũng như lắng nghe các khó khăn của giới trẻ. Như tôi đã nói, có một loại bão xảy ra không phải chỉ tại một nơi, nhưng tại khắp nơi. ĐTC sẽ lắng nghe họ, và không phải chỉ có ngài sẽ ban lời an ủi cho họ, mà ngài cũng được củng cố bởi chính đức tin của các người đáng thương này nữa.

Hỏi: Như là TGM Manila, đâu là thách đố lớn nhất của ĐHY trong việc tổ chức một biến c phức tạp như chuyến viếng thăm này của ĐTC?

Đáp: Chúng tôi đã thành lập một nhóm hỗn hợp gồm các người của chính quyền, của lãnh vực kinh tế và của Giáo Hội. Và ủy ban này đã là một kết qủa chuyến viếng thăm của ĐGH rồi: vị chủ chăn hoàn vũ tạo ra ý thức về gia đình. Và tôi rất hạnh phúc. Tôi chắc chắn rằng cả sau chuyến viếng thăm này nữa ý thức của sự hiệp thông, của sự cộng tác tất cả cùng nhau sẽ tiếp tục. Tôi muốn duy trì sự hợp tác này.

Hỏi: ĐHY nghĩ chuyến viếng thăm này của ĐTC có đặc tính nào?

Đáp: Một cuộc gặp gỡ với nhiều đau khổ. Nhưng sứ điệp Kitô không kết thúc với khổ đau, vì luôn luôn có một sự Phục Sinh. Và tôi hy vọng rằng ĐTC sẽ trông thấy điều này giữa những người đã đau khổ và tiếp tục đau khổ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Tóm lược cuộc họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay ngày 15-1-2015

Tóm lược cuộc họp báo của Đức Thánh Cha trên máy bay ngày 15-1-2015

Ngày 15-1-2015, trên chuyến bay dài hơn 6 tiếng đồng hồ từ thủ đô Colombo của Sri Lanka đến Manila, Philippines, ĐTC Phanxicô đã dành 45 phút để trả lời các câu hỏi của một số đại diện trong số 76 ký giả tháp tùng ngài. Từ vấn đề tự do ngôn luận, báo chí, cho đến Thông điệp ngài sắp công bố về môi sinh, vấn đề hòa giải tại Sri Lanka, và nạn lạm dụng trẻ em..

Chống lạm dụng tự do ngôn luận để mạ lỵ tôn giáo

Trả lời câu hỏi của một ký giả Pháp xin ngài nhận định về những vụ khủng bố gần đây tại Paris, tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, ĐTC nói:

”Cả hai tự do này đều là những quyền căn bản của con người. Kẻ nào chủ trương giết người nhân danh Thiên Chúa thì rơi vào lầm lạc, và cũng sai lầm như thế những kẻ nào xúc phạm tôn giáo nhân danh quyền được nói những gì mình muốn. Về tự do ngôn luận: mỗi người không những có tự do và có quyền, nhưng còn có nghĩa vụ nói điều mà mình nghĩa có thể giúp xây dựng công ích. Nếu một đại biểu không nói điều mà họ nghĩ là con đường chânthực phải theo, thì không cộng tác vào công ích”.

”Nhưng chắn chắn là không thể dùng bạo lực để phản ứng lại sự xúc phạm, nhưng cũng không thể khiêu khích.. ”Không thể mạ lỵ tín ngưỡng của người khác, không thể chế nhạo đức tin, vì tự do ngôn luận có một giới hạn, đó là phẩm giá của mỗi tôn giáo”.

ĐTC cũng nói rằng người ta có nguy cơ bị những phản ứng xấu khi lăng mạ điều thánh thiêng đối với người khác, tương tư như thế, người ta có nguy cơ trở thành nạn nhân của thiên nhiên khi khai thác thiên nhiên thái quá.

Thông điệp về môi sinh

Đó cũng là một đề tài được đề cập đến trong cuộc họp báo: thông điệp về môi sinh mà ĐTC loan báo sẽ công bố. Thông điệp này sẽ hoàn tất vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm nay. Ngài cho biết cuối tháng 3 sắp tới, ngài sẽ dành một tuần để kết thúc dự thảo thông điệp. Sau dự thảo thứ I do ĐHY Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đệ trình cho ngài, ngài đã duyệt lại dự thảo thứ II với sự cộng tác của các chuyên gia, và dự thảo thứ III được soạn với sự đóng góp của các nhà thần học và những đóng góp xây dựng khác từ Bộ giáo lý đức tin, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh và LM thần học gia tại Phủ giáo hoàng. Thông điệp này sẽ là một đóng góp cho Hội nghị thượng định sắp tới ở Paris về việc bảo vệ môi sinh. Hội nghị thượng đỉnh lần trước tại Peru đã làm ngài thất vọng vì ”thiếu can đảm”.

Phong thánh theo thể thức tương đương

Được hỏi về việc phong thánh ở Sri Lanka, ĐTC giải thích tại sao gần đây ngài dành ưu tiên cho việc phong hiển thánh theo thể thức tương đương, trong trường hợp đó là những vị chân phước đã được tôn kính từ nhiều thế kỷ, như trường hợp Chân phước Joseph Vaz Tông đồ tại Sri Lanka. Còn trong trường hợp các chân phước Angela da Foligno, Pierre Favre SJ, Anchieta SJ và những vị khác, ngài quyết định phù hợp với quan điểm của ngài Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm (Evangelii gaudium): ngài muốn ”những nhà đại truyền giáo”. Cũng vậy trong cuộc viếng thăm vào tháng 9 tới đây tại Hoa Kỳ, ngài sẽ tôn phong hiển thánh cho chân phước Junipero Serra, dòng Phanxicô, là vị đã mang Tin Mừng vào miền tây nước Mỹ.

Chống lạm dụng trẻ em trong các vụ khủng bố tự sát

ĐTC mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng ngày càng gia tăng đối với các trẻ em nam nữ trong các vụ khủng bố tự sát, một thảm trạng cũng đã từng xảy ra tại Sri Lanka trong thời nội chiến. Ngoài những vấn đề tâm lý, ĐTC coi đó là là một sự thiếu quân nơi những người tự sát để giết người. Một kẻ khủng bố tự sát là một người hiến mạng sống nhưng làm không đúng, trái ngược với tấm gương của bao nhiêu thừa sai, cũng hiến mạng sống, nhưng là để xây dựng. Vì thế, đối với ĐGH, đặt bom ở lưng một trẻ em không là gì khác hơn là một cách thức kinh khủng biến em ấy thành một nô lệ.

Vatican có thể bị khủng bố?

Trả lời câu hỏi về vấn đề: có thể có khủng bố chống bản thân ngài và Vatican hay không, ĐTC mỉm cười nói ngài chỉ sợ cho sự an toàn tính mạng của những ngừơi đến gặp ngài. Ngài cho biết là ngài đối đầu với nguy hiểm này bàng ”một liều 'vô thức'! Cách tốt nhất để đáp lại bạo lực là sự dịu dàng.

Viếng thăm chùa Phật giáo

Trả lời câu hỏi tại sao ngài bất ngờ đến viếng chùa Phật giáo chiều ngày thứ tư, 14-1-2015 ở Colombo, ĐTC cho biết đó là một cuộc viếng thăm đáp lễ đối với vị sư trụ trì chùa ấy. Vị sư đã ra phi trường chào đón ngài. Ngoài ra ngài cũng muốn nhìn nhận giá trị của sự liên tôn.. đặc tính này cũng được biểu lộ ở Đền thánh Đức Mẹ Madhu ở miền bắc Sri Lanka, đây không phải chỉ là nơi gặp gỡ và cầu nguyện của các tín hữu Công Giáo mà thôi.

Ủng hộ ủy ban sự thật và hòa giải

Được hỏi về việc ngài ủng hộ Ủy ban sự thật và hòa giải trên thế giới, như Ủy ban ở Sri Lanka, ĐTC cho biết ở Argentina, ngài cũng đã từng ủng hộ tất cả những cố gắng quân bình giúp mọi người đồng ý với nhau, và không tìm kiếm sự báo thù. ĐTC nhắc lại lời tân tổng thống Sirena của Sri Lanka và cho biết ngài ngưỡng mộ ý tưởng của Tổng thống muốn đi đến cùng công việc kiến tạo hòa bình và hòa giải, nhất là kiến tạo sự hòa hợp nơi dân chúng ở Sri Lanka.. Nhưng để đạt được mục tiêu này cần phải ”đi vào tâm hồn dân chúng” (SD 15-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các sinh họat năm 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Các sinh họat năm 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô

Phỏng vấn Linh Mục Federico Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh

Ngày 17 tháng 12 vừa qua phóng viên Sergio Centoganti chương trình Ý ngữ Đài Vaticăng đã phỏng vấn Linh Mục Federico Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, về các sinh hoạt của Đức Thánh Cha Phanxicô trong năm 2014. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn này.

Hỏi: Thưa cha, năm 2014 đã là một năm rất bận rộn của Đức Thánh Cha Phanxicô. Xin cha cho biết tổng kết, bắt đầu từ 5 chuyến công du quốc tế tại Thánh Địa, Nam Hàn, Albania, Quốc hội Âu châu Strasbourg và Thổ Nhĩ Kỳ.

Đáp: Vâng, có rất nhiều điều để nói. Trước hết tôi muốn nhắc rằng thật là đẹp việc Đức Thánh Cha có thể viếng thăm Thánh Địa như các vị tiền nhiệm của ngài, bởi vì đó luôn luôn là trở về với cội nguồn đức tin của chúng ta, trở về với gốc rễ của Kitô giáo, trở về các nơi của Lich sử cứu độ, và điều này có một sức mạnh biểu tượng và tinh thần tuyệt diệu. Tôi nhớ những lúc trong đó Đức Thánh Cha đã cảm động đứng bên bợ sông Giordan, tại nơi Chúa chịu phép rửa, tại Mộ Thánh vv… Như thế chúng là các điều nền tảng đối với đức tin của chúng ta và thật là đúng đắn khi Đức Thánh Cha nhân danh tất cả chúng ta trờ lại các nơi này để nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta từ đâu đến và nhớ mầu nhiệm cuộc gặp gỡ của Chúa Kitô với nhân loại. Nhưng cũng có biết bao nhiêu khía cạnh khác nữa mà các chuyến công du đã đụng chạm tới. Tôi muốn nhắc tới khía cạnh đại kết trong cuộc gặp gỡ tại Giêrusalem, cũng như tại Costantinopoli với Đức Thương Phụ Bartolomaios. Nó nói lên tình bạn sâu xa và tương quan cá nhân mà Đức Phanxicô đã thiết lập với vị thứ nhất trong các Thượng Phụ của Giáo Hội chính thống, và nó là dấu chỉ hy vọng cho con đường đại kết tương lai của chúng ta.

Biên giới Á châu cũng rất quan trọng: trong năm nay Đức Thánh Cha đã công du Nam Hàn và trong vài tuần nữa ngài sẽ viếng thăm Sri Lanka và Philippines. Vị tiền nhiệm của ngài đã không thể viếng thăm Á châu. Các chuyến công du lớn này diễn tả sự chú ý mới của Giáo Hội đối với phần nhân loại trội nhất ngày nay cũng như trong tương lại, về phương diện dân số cũng như về phương diện các chiều kích và sức sinh động sự hiện diện gây ấn tượng của nó, và riêng đối với Giáo Hội, thì nó là một cánh đồng truyền giáo mênh mông, một môi trường loan báo Tin Mừng trong các hoàn cảnh văn hóa, xã hôi, chính trị rất khác nhau, thường là khó khăn. Như thế Á châu là một trong những biên giới của Giáo Hội thời nay. Và Đức Thánh Cha chỉ cho chúng ta thấy điều đó với các chuyến công du rất hứng khởi của ngài.

Cũng không nên quên chiều kích âu châu. Đã có chuyến viếng thăm rất ngắn bên Albania, tuy nhiên cũng ý nghĩa vì sự kiện Đức Thánh Cha ước mong khởi hành từ các vùng ngoại biên để đi tới trung tâm của đại lục. Thế nhưng ngài cũng tới Strasbourg: một chuyến viếng thăm rất ngắn nhưng nền tảng, bởi nó đã cho ngài dịp ngỏ lời với Âu châu, với các nước âu châu và lục địa này, một bài diễn văn sâu rộng, một bài diễn văn có cấu trúc hoàn toàn với biết bao nhiều viễn tượng, mà trong một cách thế nào đó đã rất được chờ đợi đối với một vị Giáo Hoàng đến từ ngoài Âu châu. Và giờ đây nó là một điểm tham chiếu cho biết bao nhiêu can thiệp khác mà Đức Thánh Cha có thể làm đối với các dân tộc riêng rẽ hay trong biết bao hoàn cảnh liên quan tới đji lục âu châu của chúng ta. Tôi muốn nhắc đến một đặc điểm nhỏ cùa các chuyến viếng thăm này đó là chiều kích của sự tử đạo, tại Nam Hàn nơi Lịch sử Giáo Hội mang đặc thái của sự tử đạo, cũng như tại Albania, nơi sự tử đạo trong các thời gian mới đây dưới chế độ công sản, đã rất là mạnh mẽ, cũng như trại Viễn Đông nơi sự tử đạo đang là một thực tại với biết bao nhiêu vấn đề xảy ra, Đức Thánh Cha gặp gỡ thực tại này và nhắc cho chúng ta biết tính cách thời suẹ của chiều kích này trong cuộc sống Giáo Hội mọi thời đại, kể cả thời đại chúng ta nữa.

Hỏi: Liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, cũng có khía cạnh liên tôn rất quan trọng nữa có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đúng thế. Trong số các chiều kích của triều đại giáo hoàng năm nay có chiều kích đối thoại liên tôn cũng quan trọng và tại Thổ Nhĩ Kỳ nó đã tìm ra một sự hành động được tiếp tục thí dụ cả trong chuyến viếng thăm Albania và trong các dịp khác nữa. Xem ra Đức Giáo Hoàng cũng rất ý thức được tình hình của Hối giáo trong thế giới tân tiến ngày nay và tìm các con đường cho một tương quan xây ưụng, cả trong đối thoại, trong nghĩa đầy là điều có thể, dĩ nhiên bằng cách tránh các qúa đáng và lên án mọi quá đáng của việc sử dụng niềm tin tôn giáo một các bạo lực.

Hỏi: Thủa cha chúng ta cũng không thể quên các biến cố lớn của lễ phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II cũng như việc phong Chân phước cho Đúc Phaolô VI…

Đáp: Phải, tôi tin rằng mẫu số chung của các biến cố vĩ đại này là tính cách thời sự của Công Đồng Chung Vaticăng II, là trung tâm cuộc sống của ba vị Giáo Hoàng này. Vì Đức Giaon XXIII đã triêu tập Công Đồng, Dức Phaolô VI đã dẫn đưa nó tói chỗ thành toàn, đã kết thúc và bắt đầu thực hiện nó và Đức Gioan Phaolô II đã dành suốt triều đại của ngài để thực hiện Công Đồng Chung Vaticăng II. Như vậy ba gương mặt Giáo Hoàng này, ngoài giá trị chứng tá kitô và nhân bản ngoại thường của các vị, các vị được gắn liền với biến cố canh tân Giáo Hội trong thời đại chúng ta, với cuộc đối thoại với thời đại và nền văn hóa ngày nay, với việc loan báo Tin Mừng cho thời nay do một Giáo Hội được canh tân theo tinh thần của Công Đồng Chung Vaticăng II. Nhue vạy, xem ra hai biến cỗ vĩ đại này – lễ phong thánh và phong chân phước – cũng ghi dấu hướng đi trong triều đại của Đức Phanxicô theo dấu vết các vị tiền nhiệm, trong khung cảnh to lớn của Công Đồng Chung Vatcăng và việc thực hiện nó trong thời đại ngày nay.

Hỏi: Năm 2014 cũng có Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình, đã dấy lên các tranh luận sống động cả trong thế giới công giáo nữa thưa cha…

Đáp: Vâng. Tôi tin rằng công tác mục vụ lớn của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình với lộ trình được chia thành các chặng khác nhau, từ Hội nghị của các Hồng Y cho tới hội nghị ngoại thường và hội nghị bình thường của các Giám Mục, mà chúng ta còn đang chờ, cho tới việc lôi cuốn cộng đoàn Giáo Hội vào cuộc, công việc này là một trong các công việc mục vụ được Đức Thánh Cha Phanxicô đề ra. Có lẽ nó chính yếu trong nghĩa nó thực sự đề cập đến cuộc sống của mọi người: cuộc sống của tín hữu cũng như cuộc sống của tất cả mọi người thời dại chúng ta, bởi vì nó là đề tài liên quan tới gia đình, tới việc rao truyền Tin Mừng cho thực tại gia đình; nó là cái gì liên quan tới thiện ích, trung tâm cuộc sống của từng người nam nữ trong thời đại chúng ta. Đây là một cuộc đầu tư rất can đảm, bời vì Đức Giáo Hoàng cũng đã để trên bàn các đề tài khó, và tế nhị, nhưng đó chính là điều thực sự cần thiết. Một cách đúng đắn người ta cũng nhắc nhớ rằng các vị Giáo Hoàng trước cũng thế vào đầu triều đại của các ngài, các đã chọn đề tài gia đình như là đề tài làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục và là đề tài quan trọng trong sứ mệnh mục vụ của các ngài. Như thế, chúng ta thấy rằng việc đi thằng vào trong con tim, vào trong thế giới của cuộc sống để tìm loan báo Tin Mừng và trao ban một con đường tốt cho cuộc sống tinh thần và nhân bản cho con người thời nay, là một cái gì vô cũng cấp bách. Và chúng ta chân thành cầu chúc Đức Thánh Cha Phanxicô thành công dẫn đưa Giáo Hội tới một suy tư về các đề tài thưc sự nền tảng liên quan tới gia đình, mà không bị lo ra bởi các đề tài tuy cũng quan trọng, nhưng có tính cách ngoài lề hay có thể gây ra các tranh cãi mà không tiếp nhận được đâu là các điểm nòng cốt nhất, bởi vì quan trong nhất đối với tất cả mọi người: đề tài về gia đình và sống làm sao như kitô hữu chiều kích nền tảng này của cuộc sống.

Hỏi: Thưa cha, ngoài đề tài gia đình, còn có nhiều đề tài khác nữa mà Đức Thánh Cha Phanxicô hay đề cập đến, chằng hạn như hòa bình, công lý, người nghèo, những người bị khai thác bóc lột, nạn nô lệ, các kitô hữu bị bách hại vv….

Đáp: Ngay từ đầu triều đại của mình Đức Thánh Cha đã nói với chúng ta là ngài muốn nhớ đến người nghèo và các vùng ngoại biên, nhớ đến tất cả những người đau khổ, bỏi vì họ có quyền được chúng ta chú ý, có quyền được hưởng tình liên đới và sự chia sẻ của chúng ta đối với các vấn đề của họ. Và điều này chúng ta nhận thấy la nó trở lại thường xuyên. Năm nay chúng ta có tình trạng thê thảm của vùng Trung Đông, với biết bao nhiêu người – kitô giáo và không kitô giáo – đã phải bỏ nhà cửa trốn chạy và phải sống trong điều kiện của người tỵ nạn với rất nhiều đau khổ; hay bị bách hại và trực tiếp trở thành nạn nhân của bạo lực. Và điều này luôn luôn trở lại trong các lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, trong sự lưu tâm của ngài, cả trong lá thư gửi các kitô hữu vùng Trung Đông ngày 23 tháng 12, hai ngày trước lễ Giáng Sinh. Nhưng cũng có các đề tài khác trở lại thường xuyên và Giáo Hội tập trung nhiều chú ý trên các đề tài đó. Chúng ta hãy lấy các đề tài trong Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi cho ngày hòa bình thế giới năm nay chống lại các tệ nạn nô lệ mới, và đã có nhiều sáng kiến được để ra do Hàn Lâm Viện các Khoa Học của Toà Thánh, do các nữ tu chống lại nạn buôn người, chống lại biết bao nhiêu hình thức bạo lực khác và chống lại nạn nô lệ trong thời đại ngày nay… Đức Thánh Cha đã huy động toàn Giáo Hội và các người thiện chí trên các chiến tuyến này.

Hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc cải tổ mà Đức Thánh Cha muốn thực hiện thưa cha? Chúng ta cũng nghĩ đến diễn văn quan trọng mà ngài đã nói mới đây với các nhân viên trung ương Tòa Thánh.

Đáp: Ngay từ đầu triều đại của ngài Đức Thánh Cha đã đưa ra một dự án cải tổ các co quan Trung Ương Tòa Thánh, cần phải hiểu cho rõ, vì nó chỉ đơn sơ là một phần của một chương trình canh tân Giáo Hội rộng rãi hơn rất nhiều, mà ngài đã trình bầy trong Tông huấn “Niêm Vui Phúc Âm”: chương trình của Giáo Hội đi ra, của Giáo Hội truyên giáo, của toàn Giáo Hội dấn thân rao truyêfn Tin Mừng, mà các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh là người phục vụ, là một dụng cụ giúp Giáo Hội trong sứ mạng của mình. Công việc suy tư về sự cải cách Trung Ương Tòa Thánh này cũng có tính cách cơ cấu, tiếp tục với tính cách đều đặn của nó, với các tiết nhịp dĩ nhiên là khá dài, với việc suy tư và tham khảo ý kiến. Nhưng điều xem ra rất quan trọng cần ghi nhận đó là đối với Đức Thánh Cha trọng tâm của mọi cuộc cải cách là nội tại:: các cuộc canh cải khởi hành từ con tim. Chúng ta cũng hãy nhơ Chúa Giêsu đã nói rằng: “Những diều tốt và những điều xấu phát xuất từ con tim”. Chính đó là nơi phải khởi hành để canh tân và để chữa lành khi có các điều không phù hợp. Khi đó cả các diễn văn Đức Thánh Cha đã nói trước lễ Giáng Sinh, với các nhân viên Trung Ương Tòa Thánh cũng như với các nhân viên Vaticăng, diễn văn kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục cho chúng ta biết ngài cai quản Giáo Hội như thế nào kể cả với sự phân định tinh thần để chữa lành trong chiều sâu các thái độ của chúng ta, dể khiến cho chúng ta trung thành triệt để hơn với Tin Mừng. Và như thế chúng ta có thể thi hành tất cả việc phục vụ của mình một cách tốt đẹp hơn, thực thi sinh hoạt rao truyền Tin Mừng hay phục vụ Giáo Hội một cách tốt đẹp hơn. Đó, cải cách là một đề tài trường cửu trong cuộc sống kitô – đề tài hoán cải của kitô hữu – và nó phải là cái gì sâu xa, không hời hợt bề ngoài, không chỉ có tính cách tổ chức.

Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói rằng các vấn đề trước hết không chỉ có tính cách phối hợp và tổ chức – cả khi các điều này trợ giúp – nhưng cũng là các vấn đề nội tâm và sâu xa hơn. Theo tôi các diễn văn lớn này đã nêu bật một cách rất tốt trong thứ loại, trong định hướng của chúng sự lưu tâm ưu tiên này của Đức Thánh Cha nhằm chữa lành con tim trong chiều sâu. Tất cả các vấn đề hay các bất cập mà chúng ta có thể đang sống, đôi khi không chỉ có một chiều kích có tính cách cơ cấu mà cũng có một chiều kích liên quan tới các thái độ sống nữa, các thái độ thích đáng, có khả năng lắng nghe, có khả năng đối thoại, sẵn sàng phục vụ, thanh tẩy nội tâm… đây là các chiều kích mà Đức Thánh Cha lưu tâm và chúng là các chiều kích mà Đức Thánh Cha thường đề cập đến trong các bài giảng thánh lễ mỗi sáng trong nhà trọ thánh Marta. Trong đó biểu lộ tính cách bậc thầy tu đức của ngài, tính cách là người hướng đạo tinh thần theo truyền thống Linh thao của thánh Ignazio. Như thế tôi tin rằng thật quan trọng hiểu biết điều này: đó là mỗi một hình thái đích thực là vấn đề của trưòng cửu trong cuộc sống giáo hội, phải tìm ra điểm khởi hành thực sự của nó, là chiều sâu của con tim, được canh tân dưới ánh sáng Tin Mừng. Đó là điều Đức Thánh Cha nói với chúng ta và nói thường xuyên.

Hỏi: Sau cùng thưa cha, cha có lời nào định tính các sinh hoạt trong năm 2014 này của Đức Thánh Cha Phanxicô hay không?

Đáp: Các lời Đức Thánh Cha dùng và chúng đánh động thì nhiều lắm, vì thế có thể chọn trong biết bao nhiêu lời. Có một lời mà với thời gian qua đi tôi tin rằng nó ngày càng giúp hiểu biết và trông thấy ý nghĩa nòng cốt của nó hơn đó là nền văn hóa gặp gỡ. Nghĩa là Đức Thánh Cha Phanxicô có một thái độ riêng, một kiểu tương quan với những người khác như là một người gặp gỡ một người dấn thân cuộc sống và con người của ngài một cách sâu đậm đến độ làm cho người khác, người đối thoại cũng dấn thân. Và khi đó người ta có thể gặp gỡ nhau một cách sâu đậm và cũng có thể đưa ra các sáng kiến và các cuộc đối thoại mới, có khi đã bị chặn lại, với một tương quan đã ở trên bình diện hời hợt hay hình thức bề ngoài hơn. Tôi cũng nghĩ tới điều này liên quan một chút tới kiểu tương quan của Đức Thánh Cha với các nhân vật lớn.

Chúng ta đã nhắc tới cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Bartolomaios: đó đã là mọt cuộc gặp gỡ cá nhân, một tình bạn đích thật. Và điều này khiến chúng ta nghĩ rằng cả phong trào đại kết cũng có thể có các bước tiến tới trong đó cuộc gặp gỡ cá nhân giữa các con người thúc đầy và giúp tiến tới cả trong chiều kích cần thiết của cuộc đối thoại thần học, của cuộc gặp gỡ các tư tưởng, các nghiên cứu, tuy không hoàn toàn rốt ráo. Cũng cần có cuộg gặp gỡ giữa các con người trong đức tin và trong ý chí muốn tiếp tục con đường dẫn tới sự hiệp nhất của Giáo Hội, theo ý muốn của Chúa Kitô. Và trong một nghĩa nào đó cả dấu chỉ hy vọng mới đây của các tương quan giữa Hoa Kỳ và Cuba, trong đó hai vị lãnh đạo đã cám ơn Đức Thánh Cha về bức thư ngài viết cho họ. Nó nói lên rằng trong chiều kích này của các liên lạc quốc tế với các nhân vật lớn trên thế giới – cả với các vị lãnh đạo không phải chỉ của các tôn giáo, mà của cả các dân tộc nữa – Đức Giáo Hoàng đã có kiểu tiếp cận của ngài rất là cá nhân nhưng lôi cuốn vào cuộc, biểu lộ dặc sủng của ngài, một khả năng đi tới con tim cuả người khác và mời gọi họ bước đi, bước đi cho thiện ích của nhân loại. Đó, đối với tôi xem ra là điều gì đó rất quý báu, rất quan trọng và cũng là đặc điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đàng sau kiểu nói “nền văn hóa gặp gỡ” mà ban đầu tôi đã hơi đánh giá thấp một chút, trái lại tôi tìm thấy dịnh hướng đi tới với người khác trong biết bao nhiêu chiều kích tôn giáo cũng như tu đức, đại kết và chính trị cũng là một chiều kích khác diễn tả một đặc thái của Đức Giao Hoan này

LinhTiến Khải – Vatican Radio

Món quà

Món quà

Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?

Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.

Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.

Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.

Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.

Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.

Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.

Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.

Sưu tầm

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi liên đới trợ giúp và cầu nguyện cho các gia đình gặp khó khăn

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi liên đới trợ giúp và cầu nguyện cho các gia đình gặp khó khăn

Ánh sáng đến từ Thánh Gia khích lệ chúng ta cống hiến hơi ấm tình người cho các gia đình thiếu an bình, hòa hợp và tha thứ. Chúng ta cũng đừng thiếu tình liên đới cụ thể đối với các gia đình gặp khó khăn vì bệnh tật, thiếu công ăn việc làm, bị kỳ thị, phải di cư.

Kính thưa qúy vị thính giả, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tìn hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật lễ Thánh Gia hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói: Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Giáng Sinh, trong khi chúng ta còn đang chìm ngập trong bầu khi tươi vui của ngày lễ, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét. Phúc Âm hôm nay giới thiệu với chúng ta Đức Mẹ và Thánh Giuse trong lúc các Ngài đến Đền Thờ Giêrusalem, bốn mươi ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra. Các Ngài làm điều này vì vâng lời Luật Môshê, dậy phải dâng con đầu lòng cho Chúa (x. Lc 2,22-24).

Chúng ta có thể tưởng tượng ra gia đình bé nhỏ ấy, giữa biết bao nhiêu người, trong các sân rộng lớn của đền thờ. Nó không hiện lên trước mắt, người ta không phân biệt được nó… Thế nhưng nó không đi qua mà không được quan sát! Có hai cụ già, ông Simeon và bà Anna, được Thánh Thần thúc đẩy, đến gần và bắt đầu chúc tụng Thiên Chúa vì Con Trẻ mà họ nhận ra là Đấng Messia, là ánh sáng muôn dân và là ơn cứu độ của Israel (x. Lc 2,22-38). Đó là một lúc đơn sơ nhưng giầu ý nghĩa ngôn sứ: cuộc gặp gỡ giữa hai vợ chồng trẻ tràn đầy niềm vui và đức tin vì các ơn của Chúa, và hai cụ già cũng tràn ngập niềm vui và đức tin vì hoạt động của Thần Khí. Ai đã làm cho họ gặp gỡ nhau? Và Đức Thánh Cha trả lời câu hỏi này:

Chúa Giêsu, Chúa Giêsu làm cho họ gặp nhau: các ngưởi trẻ và các người già. Đó là suối nguồn của tình yêu kết hiệp các gia đình và con người, bằng cách chiến thắng mọi nghi ngờ dè dặt, mọi cô lập, mọi xa cách. Điều này khiến chúng ta cũng nghĩ tới các bậc ông bà: sự hiện diện của các ngài, sự hiện diện của các ông bà quan trọng biết bao! Vai trò của các ngài trong gia đình và trong xã hội quý báu biết bao! Tương quan tốt giữa các người trẻ và các người già định đoạt đối với con đường của cộng đoàn dân sự và cộng đoàn giáo hội. Và khi nhìn hai cụ già này, hai ông bà nội ngoại – Simeon và Anna – này, từ quảng trường này chúng ta chào tất cả các ông bà nội ngoại trên thế giới với một tràng pháo tay. Mọi ngưòi hiện diện đã vỗ tay vang dội.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Sứ điệp đến từ Thánh Gia trước hết là một sứ điệp của đức tin. Trong cuộc sống gia đình của Mẹ Maria và thánh Giuse Thiên Chúa thực sự ở trung tâm, và Ngài ở đó trong Con Người của Đức Giêsu. Vì thế gia đình Nagiarét thánh thiện. Tại sao vậy? Bởi vì nó tập trung nơi Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm điểm này như sau:

Khi cha mẹ và con cái cùng hít thở bầu khí đức tin, họ có một năng lực cho phép đương đầu với cả các thử thách khó khăn, như kinh nghiệm của Thánh Gia cho thấy, chẳng hạn trong biến cố thê thảm của cuộc trốn chạy sang Ai Cập: một thử thách cam go.

Con Trẻ Giêsu cùng với Mẹ Người là Maria và thánh Giuse là một hình ảnh gia đình đơn sơ nhưng ngời sáng biết bao. Ánh sáng mà nó dãi tỏa ra là ánh sáng của lòng thương xót và ơn cứu độ cho toàn thế giới, ánh sáng của chân lý cho mọi người, cho gia đình nhân loại và cho các gia đình riêng rẽ. Ánh sáng đến từ Thánh Gia đó khích lệ chúng ta cống hiến hơi ấm tình người trong các tình trạng gia đình, trong đó, vì các lý do khác nhau, thiếu bình an, thiếu hòa hợp, thiếu tha thứ. Ước chi tình liên đới cụ thể của chúng ta đừng suy giảm đối với các gia đình đang sống trong những tình cảnh khó khăn nhất, vì bệnh tật, thiếu công việc làm, vì các kỳ thị, vì nhu cầu phải di cư…Và ở đây chúng ta hãy dừng lại một chút và cầu nguyện trong thinh lặng cho tất cả các gia đình gặp khó khăn, khó khăn vì bệnh tật, thiếu việc làm, bị kỳ thị, cần di cư, khó khăn để hiểu nhau và cả chia rẽ nữa. Trong thinh lặng chúng ta cầu nguyện cho tất cả các gia đình này. Đức Thánh Cha và mọi người đã đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho các gia đình gặp khó khăn. Rồi ngài kết thúc bài huấn từ như sau:

Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Nữ Vương và là mẹ gia đình, tất cả các gia đình trên thế giới, để các gia đình có thể sống trong đức tin, trong sự hòa hợp, trợ giúp lẫn nhau, và vì thế tôi khẩn nài trên các gia đình sự bầu cử hiền mẫu của Đấng là mẹ và là nữ tử của Con Ngài.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban Phép lành Tòa Thánh cho mọi người. Xin qúy vị cùng hiệp ý cầu nguyện với Đức Thánh Cha.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, trong lúc này đây tôi nghĩ tới các hành khách chuyến bay của hãng hàng không Malaysia bị mất tích trong khi bay từ Indonesia sang Singapore, cũng như các hành khách các con tầu trong các giờ qua di chuyển trên biển Adriatico bị tai nạn. Trong sự trìu mến và lời câu nguyện tôi gần gũi với gia đình các nạn nhân và những ai đau khổ vì các tình trạng khó khăn này, cũng như những người dấn thân trong công tác cứu trợ.

Hôm nay lời chào đầu tiên xin gửi tới tất cả các gia đình hiện diện. Xin Thánh Gia chúc lành cho anh chị em và hướng dẫn anh chị em trên con đường đời sống. Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào nhiều bạn trẻ các giáo phận Bergamo và Vicenza đã hay đang chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức, các hướng đạo sinh Villamassargia và các trẻ em giúp lễ Sambrusco Venezzia. Ngài cám ơn mọi ngưởi về các lòi chúc mừng lễ cũng như lời cầu nguyện cho ngài. Đức Thánh Cha xin tất cả mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài, rồi ngài chúc tất cả một bữa trưa ngon miệng và một ngày Chúa Nhật an bình.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Đức Thánh Cha Phanxicô, nhà truyền thông xuất sắc. Một số nhận xét của hai nhà báo Mỹ

Ngày mùng 6 tháng 12 vừa qua Trung tâm nghiên cứu Hoa Kỳ tại Roma đã tổ chức ngày hội học về đề tài “Tình trạng của các phương tiện truyền thông”. Tham dự ngày hội học này có nhiều nhà báo quốc tế trong đó có ông Jeff Fager, giám đốc đài phát thanh truyền hình CBS và ông Ed O’Keefe, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN.

Sau đây là một số nhận định của hai nhà báo này đối với khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô, qua bài phỏng vấn dành cho phái viên Alessandro Gisotti của đài Vaticăng. Đối với họ Đức Thánh Cha Phanxicô là một nhà truyền thông xuất sắc, vì với các lời nói, cử chỉ và cung cách sống và hành xử của mình ngài đã lôi cuốn được tín hữu và các đám đông dân chúng. Chỉ cần theo dõi các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần và buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật với số người tham dự tới năm, sáu, bẩy chục ngàn hay đôi khi dông hơn, thì đủ hiểu sức thu hút của Đức Phanxicô. Đặc biệt là các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần đã biến thành lễ hội, trong đó người già, ngưòi lớn, và nhất là trẻ em và giới trẻ không ngừng gân cổ lên gọi tên ngài, và tặng ngài đủ thứ, mũ calốt, áo thể thao, kể cả nước ngọt nữa. Và Đức Phanxicô vui vẻ uống ngay trước mặt mọi người. Niềm vui của các bà mẹ là đưa con cho các cận vệ bế chúng lên để cho Đức Giáo Hoàng hôn, chúc lành, xoa đầu và vuốt ve chúng. Khi có đông người đau yếu tàn tật ngồi trên xe lăn, Đức Thánh Cha dành cả giờ đồng hồ để bắt tay, ôm hôn, an ủi và nói chuyện với từng người. Đức Phanxicô cũng chân thành trả lời mọi câu hỏi của giới báo chí về mọi vấn đề, một cách rất thành thật, tự nhiên, mà không hề tránh né.

Sau đây là một số nhận xét của ông Jeff Fager.

Hỏi : Thưa ông Fager ông nhận thấy khả năng truyền thông của Đức Thánh Cha Phanxicô như thế nào ?

Đáp : Đức Thánh Cha là một nhà truyền thông xuất sắc, một trong những nhà truyền thông xuất sắc nhất thế giới. Tôi tin rằng khi bạn có thể nói với các đám đông rộng rãi như thế – và cả khi bạn nói chuyện với các nhóm nhỏ đi nữa – thì là một cơ may phải được đánh giá cao và được sử dụng tốt nhất có thể. Tôi không nhớ đã có bình luận gia nào hay như vị Giáo Hoàng này: ngài đã thu hút thế giới một cách nhanh chóng như vậy, đến độ thay đổi các ý kiến về Giáo Hội. Chỉ một mình thôi mà ngài đã gây ra một va chạm rất mạnh trên cảm quan của người Mỹ đối với Giáo Hội công giáo trong vòng một thời gian thật rất là ngắn, và điều này có nghĩa ngài là một nhà truyền thông xuất sắc !

Hỏi : Ngài là một nhà truyền thông lớn mà người ta nhận thức được rằng ngài chân thành, đáng tin cậy, có đúng thế không thưa ông ?

Đáp : Vâng, đúng như vậy. Ngài đáng tin cậy, bạn tin tưởng nơi ngài, bạn tin ngài… và ngài mang tới một sứ điệp rất đơn sơ : ngài nói về loài người, về việc Giáo Hội đáng lẽ ra phải hành xử như thế nào trong thế giới, và điều đó được loan truyền. Tôi tin rằng Giáo Hội cần có một sự thay đổi lớn, và ngài là người có cung cách quản lý các biểu tượng bao quanh mình đã tạo được các thay đổi lớn : kiểu sống của Đức Phanxicô, kiểu ngài du hành, sự kiện ngài ở trong một ngôi nhà rất đơn sơ đã là điều đó… Qúy vị thấy không, tất cả những gì bao quanh con người nói lên rất nhiều về con người ấy và về sứ điệp ở đây là của Đức Phanxicô, và tôi tin rằng điều này vẽ nên một bức tranh rất tích cực về Giáo Hội.

Hỏi : Thưa ông, đề tài của ngày học hỏi là « Tình trạng của các phương tiện truyền thông xã hội » có cho chúng ta một ý tưởng liên quan tới các khuynh hướng quan trọng nhất ngày nay không, mặc dù điều này khó có thể truy lùng ra ?

Đáp : Ô, tất cả đều đang thay đổi rất là nhanh chóng và trên mức thang rộng rãi. Có các phương tiện truyền thông mới đang xâm lấn : đó là các phương tiện truyền thông số hay truyền thông vi tính. Chúng lớn mạnh và lớn lên với cả sự hứng khởi nữa. Tuy nhiên, trong chương trình của đài CBS dài 60 phút, điều thôi thúc chúng tôi đó là duy trì phẩm chất của nó. Chúng tôi theo sát nguyên tắc đó là cần phải tường thuật sự kiện một cách đúng đắn và để mọi người có thể hiểu được. Đó là điều mà các khán thính giả của đài mong chờ nơi chúng tôi. Người ta có thói quen thông tin một cách nhanh chóng, trong bầu không khí ngày nay với tất cả các sân chơi mới của truyền thông, và tất cả các phương tiện truyền thông xã hội người ta có ngày nay. Nhưng chúng tôi muốn chắc chắn luôn luôn cống hiến cho khán thính giả của chúng tôi việc hiểu biết tốt nhất về một sự kiện.

** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Ed O’Keele, phó giám đốc đài phát thanh truyền hình CNN của Hoa Kỳ.

Hỏi : Thưa ông O’Keele, ông nghĩ gì về gương mặt của Đức Thánh Cha Phanxicô ?

Đáp : Thật là hay, Đức Thánh Cha Phanxicô là một «
nhân vật-hiện tượng toàn cầu », bình dân kinh khủng, tới nỗi không cần phải có các phương tiện truyền thông lớn. Ngài có thể gọi một hãng thông tin Argentina, ít được biết tới, phỏng vấn hơn là để cho một mạng lưới lớn phỏng vấn ngài. Ngài không cần một cuộc phỏng vấn lớn toàn cầu. Dù sứ điệp của ngài có bất cứ là gì đi nữa, mà ngài diễn tả qua điện thoại cho bất cứ người nào trên thế giới, hay nói với một nhật báo nhỏ đi nữa, cũng vẫn nhận được sự chú ý trên bình diện quốc tế. Ngài là một «
người truyền thông hiện tượng ». Tôi tin rằng quyền năng to lớn của ngài là nơi sự kiện ngài là «
một người có thể đạt tới được », nó cho thấy khiá cạnh cá nhân nhất của ngài, là « chường mình ra » một cách chưa từng thấy.

Hỏi : Có lẽ chúng ta đã trông thấy với Đức Gioan Phaolô II, chứ thưa ông

Đáp : Có thể, vâng, tôi muốn nói. Tôi đã biết một số các nhà báo đã theo dõi các sinh hoạt của Đức Gioan Phaolô II, và họ đã có các cuộc nói chuyện lâu với Đức Giáo Hoàng. Họ đã du hành ra nước ngoài với ngài, và đã nói chuyện với ngài, vì trên máy chính ngài đã đi tìm các nhà báo và nói chuyện với họ, đó đã là các cuộc nói chuyện dài… Ngài là người có thể tiếp xúc và không sợ hãi phải đôi diện với giới báo chí và thông truyền tư tưởng, có khi trước cả khi các tư tưởng ấy thành hình nữa: không phải vì sự kiện đơn sơ Đức Giáo Hoàng đã nói mà nó phải trở thành giáo lý của Giáo Hội. Nhưng nếu bạn sợ phải nói bất cứ điều gì đó, thì bạn sẽ không bao giờ thành công trong việc làm một cuộc đối thoại. Và rõ ràng là ngài không sợ trao đổi các câu chuyện và linh hoạt một cuộc đối thoại.

Hỏi : Theo ý ông và theo kinh nghiệm của đài CNN, các phương tiện truyền thông đang nhào nắn lại kiểu thông tin của ngưởi ta như thế nào ?

Đáp : Các phương tiện truyền thông đã biến đổi hoàn toàn kiểu đạt tới khán thính giả của chúng tôi. Tương lai của các phương tiện truyền thông là «di động » và « xã hội ». Giờ đây chúng tôi đang tạo ra các nội dung chuyên nhất và ngay từ nguồn gốc chúng đã được nghĩ cho một đối tượng xã hội, bởi vì chúng tôi biết rằng ở đó có công chúng của mình. Chúng tôi sẽ tạo ra một chương trình khác cho truyền hình, cho trang Web, cho điện thoại di động, cho Facebook và cho Twitter…

Hỏi : Kiểu này thật là khó đối với các phương tiện truyền thông cổ điển, nó là một thách đố… Đài CNN là một đài truyền hình dùng dây cáp, hay ngày nay khó mà cho rằng đài CNN chỉ là một đài dây cáp ?

Đáp : Vâng, thật đúng như thế. Các phương tiện truyền thông cổ điển cần phải tự phá vỡ hay sẽ bị phá vỡ. Nếu một phương tiện truyền thông cổ điển chỉ tự coi mình là một mà thôi – chỉ là nhật báo, chỉ là truyền hình, chỉ là nguyệt san – thì sẽ đánh mất đi « thời vàng son » của nghành báo chí, bởi vì các người tiêu thụ đã quyết định rồi. Các người tiêu thụ, công chúng đang hướng tới sự « di động », và « xã hội » Họ nhận các tin tức chắc chắn là từ nhiều nguồn khác nhau, như chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

(RG 7.8-12-2014)

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG!

LỜI CHÚA HỨA, LÒNG CON ẤP Ủ, ĐỂ CHẲNG BAO GIỜ BỘI NGHĨA BẤT TRUNG

Câu chuyện xảy ra tại thành Roma vào năm 1620. Một thanh niên – tạm gọi Antonio – sống phóng túng và vô độ. Tính tình cộc cằn vũ phu khiến anh bị nhiều người oán ghét và trở thành kẻ thù chống lại anh. Họ hùa nhau tính chuyện thủ tiêu anh.

Thế nhưng, giữa cuộc sống ”dao búa” và ăn chơi trác táng ấy, anh Antonio vẫn giữ nguyên một thói quen lành thánh. Đó là việc anh thường xuyên xin lễ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục. Anh đặc biệt có lòng thương xót các ngài. Anh muốn cứu giúp Các Đẳng Linh Hồn sớm được giải thoát khỏi nơi Đền Tội. Chính nghĩa cử bác ái đó đã cứu sống anh, cả hồn lẫn xác.

Một buổi tối, Antonio có chuyện phải đi về thành phố Tivoli, cách Roma khoảng 40 cây số về hướng đông bắc. Anh đi nhưng không biết mình đi vào hang kẻ thù. Bởi vì, kẻ thù biết rõ Antonio sẽ đi về hướng ấy, nên họ phục kích để giết anh. Họ núp trong một rừng cây nhỏ, mang đầy súng hỏa mai, chờ đợi giây phút Antonio đi ngang qua đó ..

Antonio cỡi ngựa bình thản nhắm thẳng hướng Tivoli. Khi gần đến nơi, anh bỗng trông thấy xác chết của một tử tội bị treo trên cây sồi. Động lòng trắc ẩn, anh cho ngựa dừng lại, đọc vài kinh cầu cho Linh Hồn kẻ quá vãng đáng thương. Bỗng chốc, tử thi hồi sinh, động đậy rồi rơi cái bịch xuống đất. Chưa hết, người chết từ từ tiến lại gần Antonio. Antonio thất kinh hồn vía đứng im như bị trời tròng. Người chết cầm lấy dây cương, bảo Antonio hãy xuống khỏi ngựa và đứng yên đó, chờ ông ta.

Antonio vô cùng ngạc nhiên, nhưng không hỏi lý do. Anh ngoan ngoãn xuống ngựa và giao cương ngựa cho người chết. Người chết lên yên và thúc ngựa chạy nhanh! Vừa tới khúc quẹo, bỗng có tiếng đạn bay vèo vèo. Những kẻ thù của Antonio bắn đạn hỏa mai xối xả vào tử thi khiến tử thi ngã gục và rơi khỏi ngựa. Trông thấy người cỡi ngựa té xuống đất, những kẻ bắn vội cao bay xa chạy. Họ nắm chắc đã giết chết Antonio!

Đứng xa xa, Antonio chứng kiến cảnh người chết lồm cồm đứng dậy và leo lên ngựa. Tử thi quay ngựa trở về chỗ Antonio đang đứng run lập cập và nói:

– Anh vừa nghe rõ những tiếng đạn hỏa mai nổ! Đó là tiếng đạn dành cho anh. Đúng ra anh rơi xuống hỏa ngục rồi! May mắn thay, Các Đẳng Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã van xin được THIÊN CHÚA, Ngài cho phép tôi đến cứu sống anh, cả xác lẫn hồn, trong giờ phút nguy hiểm tột cùng này! Anh hãy ghi khắc công ơn trời bể ấy, bằng cách tiếp tục cầu nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, và còn hơn thế nữa, bằng cách thay đổi lối sống của anh.

Nói xong, tử thi trở lại chỗ cũ: treo lủng lẳng trên cây sồi. Về phần Antonio, khỏi cần phải nói, anh hoàn toàn hoán cải, thay đổi hẳn lối sống. Một thời gian ngắn sau đó, anh xin gia nhập một dòng tu và sống thánh thiện cho đến khi qua đời.

Câu chuyện minh chứng lời quả quyết của thánh Léonard de Port-Maurice (1676-1751):

– Các Linh Hồn phúc lành mà anh chị em cầu nguyện, hy sinh, làm việc thiện để xin ơn giải thoát các ngài khỏi Lửa Luyện Hình, sẽ từ Trời Cao xuống trần gian, để giúp đỡ hộ phù anh chị em trong những công việc thuộc đời này cũng như trong đời sống thiêng liêng.

Về phần thánh Augustino (354-430), ngài thường nói:

– Tôi luôn luôn nhớ cầu nguyện cho các người quá cố, để một khi các vị ấy được vào hưởng vinh quang muôn đời, đến phiên các ngài, các ngài sẽ nhớ cầu bầu cho tôi trước tòa THIÊN CHÚA Nhân Lành.

… ”Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung. Lạy Chúa, con dâng lời ca tụng, thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con. Môi con hằng nhẩm đi nhắc lại, các quyết định miệng Ngài phán ra. Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể. Con sẽ gẫm suy huấn lệnh Chúa truyền, đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa. Con vui thú với thánh chỉ Ngài chẳng quên lời Ngài phán” (Thánh Vịnh 119, 9-16).

(Jacques Lefèvre, ”Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 41-42)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
( Vietnamese Vatican Radio )

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp Năm về Đời Sống Thánh Hiến

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp Năm về Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. ĐTC Phanxicô gửi thư cho những người thánh hiến trong toàn thể Giáo Hội, kêu gọi kiểm điểm ơn gọi, dấn thân canh tân đoàn sủng, tăng cường tình hiệp thông, đi tới các khu ngoại ô của cuộc sống, quan tâm giúp đỡ những người nghèo.

Trên đây là một vài điểm trong lá thư thật dài ĐTC công bố hôm 28-11-2014 và gửi đến những người nam nữ thánh hiến, nhân dịp năm về đời sống thánh hiến, bắt đầu từ chúa nhật 30-11-2014, và kéo dài đến ngày 2-2 năm 2016, lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh.

Thư của ĐTC gồm 3 phần: trước tiên về những mục tiêu của năm về đời sống thánh hiến, tiếp đến là những mong đợi của ĐTC nơi những người thánh hiến trong năm này, sau cùng là những chân trời của năm về đời sống thánh hiến.

Trong phần đầu, ĐTC nói đến 3 mục tiêu của năm này, đó là nhìn lại quá khứ trong niềm biết ơn: mỗi gia đình đoàn sủng hãy nhớ lại sự khởi đầu và phát triển của mình, để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội bao nhiêu hồng ân. Năm này cũng là cơ hội để khiêm tốn xưng thú những dòn mỏng yếu đuối của mình và tín thác nơi Thiên Chúa là Tình Thương.

Mục tiêu thứ hai: năm về đời sống thánh hiến mời gọi sống hiện tại trong niềm hăng say, để cho mình được Tin Mừng của Chúa gọi hỏi, để Tin Mừng thực sự là cẩm nang cho đời sống thường nhật và những chọn lựa chúng ta được kêu gọi thực hiện, kiểm điểm sự trung thành đối với sứ mạng đã được ủy thác. ĐTC khẳng định rằng: ”Sống hiện tại trong niềm hăng say đó nghĩa là trở thành những chuyên gia về hiệp thông, thành chứng nhân và là người kiến tạo dự án hiệp thông ấy.”

Mục tiêu thứ ba là đón nhận tương lai với niềm hy vọng, mặc dù có đủ loại khó khăn. ĐTC khẳng định rằng niềm hy vọng ở đây không dựa trên những con số và những công việc, nhưng trên Đấng mà chúng ta tín thác (2 Tm 1,12) và đối với Chúa, không gì là không có thể. ”Anh chị em đừng chiều theo cám dỗ của những con số và hiệu năng, và càng không nên cậy dựa vào sức riêng của mình”.

– Trong số những mong đợi ĐTC đề ra trong năm về đời sống thánh hiến, ngài mong muốn rằng nơi nào có các tu sĩ thì nơi đó có niềm vui: ”Chúng ta được kêu gọi cảm nghiệm và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có thể làm cho tâm hồn chúng ta được sung mãn và làm cho chúng ta được hạnh phúc, chúng ta không cần tìm hạnh phúc ở nơi khác; ước gì tình huynh đệ chân thành trong cộng đoàn chúng ta nuôi dưỡng niềm vui của chúng ta”.

Mong đợi thứ hai của ĐTC là ngài muốn các tu sĩ thức tỉnh thế giới, trở thành những ngôn sứ làm chứng về cách thức Chúa Giêsu đã sống trên trái đất này. Không bao giờ tu sĩ được từ bỏ sứ vụ ngôn sứ của mình.

Mong đợi thứ ba là linh đạo hiệp thông trở thành thực tại trong các cộng đoàn và những người thánh hiến đi hàng đầu trong việc đương đầu với thách đố biến Giáo Hội thành nhà và là trường hiệp thông. ĐTC viết:

”Tình hiệp thông được thực thi trước tiên giữa lòng các cộng đoàn dòng tu liên hệ. Về điểm này tôi mời gọi anh chị em hãy đọc lại những lời mà tôi thường lập lại, đó là: những lời phê bình, nói hành nói xấu, ghen tị ghen tương, đố kỵ, là những thái độ không có quyền được ở trong các nhà của chúng ta. Sau khi đặt tiền đề đó, con đường bác ái mở ra trước mắt chúng ta hầu như là vô biên, vì đây là vấn đề theo đuổi sự đón tiếp và quan tâm đối với nhau, thực thi sự hiệp thông của cải vật chất và tinh thần, sửa lỗi cho nhau, tôn trọng những người yếu hơn.. 'Sống chung với nhau thật là một khoa thần bí'.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi mọi thành phần Giáo Hội, nhất là những người thánh hiến hãy ra khỏi mình để tới các vùng ngoại ô của cuộc sống, đáp ứng những mong đợi của thế giới. Ngài viết: ”Có cả một nhân loại đang chờ đợi, những người đã mất hết mọi hy vọng, các gia đình gặp khó khăn, các trẻ em bị bỏ rơi, người trẻ bị chặn mất mọi tương lai, bệnh nhân, người già bị bỏ rơi, người giàu đầy dư của cải nhưng tâm hồn trống rỗng…”

Trong phần III của lá thư, ĐTC ngỏ lời với các giáo dân liên kết với các tu sĩ trong đoàn sủng. Ngài cũng nhắc nhở rằng Năm về đời sống thánh hiến cũng có liên hệ tới toàn thể Giáo Hội, vì thế ngài mời gọi các tín hữu hãy ý thức về hồng ân là sự hiện diện của bao nhiêu ngừơi thánh hiến, những người thừa kế của các vị đại thánh.
ĐTC không quên nhắc nhở các GM hãy nồng nhiệt và vui mừng đón nhận đời sống thánh hiến trong giáo phận liên hệ như ”một gia sản tinh thần góp phần vào thiện ích của toàn thể thân mình Chúa Kitô” (LG 43) (SD 28-11-2014)

Ân xá trong Năm v đời sống thánh hiến

Đồng thời với thư của ĐTC, Tòa Ân Giải tối cao đã công bố Sắc lệnh ký ngày 23-11-2014 ấn định những công việc cần thực thi để được hưởng ơn toàn xá ĐTC rộng ban trong Năm về đời sống thánh hiến.

A. Tại Roma, mỗi khi các tu sĩ và tín hữu tham dự các cuộc gặp gỡ quốc tế và các buổi cử hành được ấn định trong lịch trình do Bộ các dòng tu thiết lập, và dành một thời gian thích hợp để suy niệm, và kết thúc bằng kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và kêu cầu khẩn Đức Mẹ.

B. Tại tất cả các giáo phận, trong những ngày của giáo phận dành cho Đời sống thánh hiến và trong các buổi cử hành của giáo phận được đề ra cho Năm về đời sống thánh hiến, mỗi khi các tu sĩ và tín hữu kính viếng Nhà thờ chính tòa hoặc một nơi thánh khác được chỉ định với sự đồng thuận của vị Bản quyền địa phương, hay trong một thánh đường tu viện hay nguyện đường của một Đan viện chiêm niệm, đọc Phụng vụ các giờ kinh công khai hoặc dành một khoảng thời gian thích hợp để suy niệm, và kết thúc với Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính và sốt sắng cầu khẩn Đức Mẹ.

Các thành viên các Hội dòng đời sống thánh hiến vì bệnh tật hoặc vì lý do hệ trong không thể viếng thăm các nơi thánh, cũng có thể được hưởng ơn toàn xá, nếu có lòng xa tránh tội lỗi và có ý hướng sớm thực thi các điều kiện thường lệ, kính viếng trong tinh thần với ước muốn sâu xa và dâng bệnh tật và những cơ cực của cuộc sống mình cho Thiên Chúa, nhờ Mẹ Maria, và thêm những kinh nguyện như nói trên.

Ân xá trên đây được ban với điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

Vua vĩnh cửu

Vua vĩnh cửu

Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.

Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.

Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.

Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.

Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.

Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:

– Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.

Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?

Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:

– Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.

Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.

Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:

– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…

Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.

Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

Sưu tầm

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ tư 29-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng…Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng ”Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: ”Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu cũng như từ Nigeria, Ấn Độ, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình và Ba Tây.

Nhắc tới ngày lễ các Thánh Nam Nữ ngày mùng 1 tháng 11 sắp tới, Đức Thánh Cha xin các tín hữu Ba Lan cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những người nam nữ đã biết cộng tác với ơn thánh Chúa và có can đảm làm chứng cho đức tin, đức cậy và đức mến trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta hãy học hỏi nơi họ để trở nên thánh trong thời đại chúng ta.

Ngài khuyến khích các bạn trẻ biết noi gương các Thánh, người đau yếu biết dâng các khổ đau để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những ai cần hoán cải, và các cặp vợ chồng mới cưới lo lắng cho sự trưởng thành của đức tin trong cuộc sống hôn nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Trò chơi hòa bình

Trò chơi hòa bình

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:

– Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?

Đám trẻ nhốn nháo trả lời:

– Chúng cháu chơi trò đánh nhau.

Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:

– Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.

Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:

– Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.

Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:

– Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.

Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?

Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:

– Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.

– Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.

– Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.

Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).

Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).

Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

Nếu biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn

(Chúa Nhật 30 A; Xh 22,21-26)

Trích sách Xuất Hành. Chúa phán: người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập. Mẹ góa con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành góa bụa, và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.”

SUY NIỆM

Những giáo huấn cụ thể rõ ràng trên đây trong sách Xuất Hành là một trong các trang hay đẹp và ý nghĩa nhất của Thánh Kinh Cựu Ước, vì chúng diễn tả được một trong những điểm nòng cốt sứ điệp của Do thái giáo và Tin Mừng yêu thương của Kitô giáo. Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng nhân từ xót thương và Ngài đòi buộc những ai tin nhận Ngài cũng phải biết sống yêu thương cụ thể tất cả mọi người, không trừ ai, cách riêng những người yếu đuối nhất thường không được bênh đỡ trong xã hội loài người như người góa bụa, trẻ mồ côi, kẻ kiều cư, người nghèo phải vay tiền, hay cầm thế đồ vật cần thiết cho cuộc sống như chiếc áo choàng là áo mặc ban ngày và mền đắp ban đêm của dân nghèo.

Trong xã hội nào cũng vậy, những người góa bụa, góa vợ hay góa chồng, đều đáng thương như nhau, đặc biệt là những phụ nữ góa chồng. Họ mất đi người bạn trăm năm, cây cột chống đỡ mái nhà gia đình và phải cô đơn, một thân một mình làm lụng vất vả, tần tảo ngược xuôi để nuôi dậy con cái. Có người nhiều khi phải gánh vác cả các công việc của nhà chồng như phụng đưỡng cha mẹ già yếu bệnh tật. Cuộc sống của họ bấp bênh và không có người bênh đỡ khiến cho họ dễ bị chèn ép, ức hiếp và lạm dụng nhất. Cùng với họ là lũ con mồ côi cha hay mồ côi mẹ. Chúng mất đi điểm tựa yêu thương, tinh thần và vật chất. Cuộc sống và tương lai của chúng vì thế cũng mờ mịt. Chúng thường không có tuổi thơ, vì phải vào đời rất sớm để mưu sinh, lăn lộn giữa cuộc đời ác nghiệt không che chở trẻ thơ. Chúng giống như những trái banh bị đá lăn lóc giữa chợ đời đen bạc, hay như bèo trôi giạt giữa dòng đời.

Tội nghiệp và đáng thương nhất là các trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cơm bánh hằng ngày của chúng là nước mắt, buồn tủi và khổ đau. Và chúng thường là các thành phần yếu đuối và bơ vơ nhất trong xã hội. Bên cạnh đó là những người di cư tỵ nạn, sống xa lạ nhờ vả và bơ vơ trên đất khách quê người. Rồi những người nghèo túng bệnh tật phải đi vay tiền để lo cho chính mình cho gia đình hay con cái, phải cầm bán mọi sự kể cả chiếc áo choàng là áo che thân ban ngày, là mền đắp ban đêm…

Ngày nay trên thế giới này những thành phần yếu đuối kể trên lên đến hàng tỷ người, đặc biệt tại các nước nghèo Phi chậu, Á châu và châu Mỹ Latinh, nhưng cả Âu châu nữa.

Các giáo huấn chúng ta vừa nghe trên đây nảy sinh từ sự kiện mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và từ giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật: ”Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5) và giáo huần của sách Lêvi: ”Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,19).

Tình yêu hai chiều kích ấy được thể hiện ra trong việc tuân giữ Mười Điều Răn Thiên Chúa ban cho dân Israel qua trung gian ông Môshê. Chúng hướng dẫn con người trong các tương quan và bỗn phận đối với Thiên Chúa và đối với tha nhận. Tuy nhiên ở đây trong bối cảnh của sách Xuất Hành, Thiên Chúa mời gọi tín hữu sống bác ái qua chính các kinh nghiệm mà họ đã có trong bao nhiêu năm sống kiếp kiều cư và nô lệ bên Ai Cập, bị ngược đãi bóc lột và ức hiếp bất công. Nói một cách đơn sơ như trong sách Tobia là: ”Những gì con không muốn người ta làm cho con, thì cũng đừng làm cho người khác.”

”Mến Chúa yêu người” đó cũng là điều Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Pharisêu hỏi Ngài cho biết đâu là điều luật trọng nhất như kể lại trong Phúc Âm Chúa Nhật 30 thường niên năm A.

Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận diện ra nơi tình yêu thương động lực cao quý nhất của cuộc sống con người và là bàn nhún mạnh mẽ nhất của mọi sinh hoạt luân lý. Ngoài ra lý tưởng của tình yêu thương cũng hoàn toàn phù hợp với bản tính của con người có các lựa chọn, hy sinh, chiến đấu, và chết vì tình yêu hay vì thù ghét, mà xét cho cùng chỉ là cái tương ứng tiêu cực của tình yêu. Tuy nhiên, trong quan niêm của Chúa Giêsu tình yêu không chỉ là một luật lệ đơn thuần pháp lý, mà là đặc thái nòng cốt cao cả nhất của toàn giáo lý và luân lý hướng dẫn cung cách sống và hành xử của con người. Vì Tình yêu là chính Thiên Chúa. Do đó khi biết yêu mến xót thương nhau, cuộc sống con người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Chúng tôi, các nghị phụ họp tại Roma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Cuộc họp Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường, xin gửi lời chào đến tất cả các gia đình khắp nơi tại các châu lục và đặc biệt là những gia đình bước theo Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn bởi chứng tá hằng ngày mà các bạn đã cho chúng tôi và cả thế giới thấy qua sự trung tín, đức tin, niềm hy vọng và tình yêu của các bạn.

Ngay cả chúng tôi, những chủ chăn của Giáo Hội, cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với những hoàn cảnh và lịch sử khác nhau. Với tư cách là các linh mục và các giám mục, chúng tôi đã gặp gỡ và sống bên các gia đình đã cho chúng tôi thấy, bằng lời nói cũng như hành động, một chuỗi dài những điểm niềm vui cũng như những khó khăn của mình.

Việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng này, khởi đi từ những trả lời cho bảng câu hỏi mà Giáo Hội gửi đi trên khắp thế giới, đã giúp chúng tôi nghe được tiếng nói của nhiều kinh nghiệm trong gia đình. Rồi cuộc đối thoại trong những ngày này của Thượng Hội Đồng cũng làm chúng tôi hiểu hơn, giúp chúng tôi nhìn thấy tất cả những thực tại sống động và phức tạp mà các gia đình đang đối mặt.

Chúng tôi muốn gửi đến các bạn lời của Đức Kitô: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta thì Ta sẽ đến và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ở với ta” (Kh 3,20). Trong suốt hành trình dài trên các con đường ở Đất Thánh, Đức Giêsu đã vào nhà tại các làng mạc, Ngài tiếp tục đi qua các ngả đường của thành phố chúng ta. Đối với các bạn, các bạn trải nghiệm lẫn ánh sáng và bóng tối, những thách đố thú vị nhưng đôi khi cũng có những thử thách đầy kịch tích. Sự tăm tối càng trở nên dày đặc hơn cho đến khi nó trở thành bóng đen, khi những sự xấu và tội lỗi thâm nhập vào tận trung tâm của đời sống gia đình.

Trước hết, có một thách đố rất lớn về sự trung tín trong tình yêu hôn nhân. Đức tin suy yếu và các giá trị đạo đức không được quan tâm, chủ nghĩa cá nhân, các mối tương quan bị kiệt quệ, nổ lực loại trừ sự phản tỉnh ghi dấu ấn của nó trong đời sống gia đình. Có không ít những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng, không có sự kiên nhẫn, xác minh, tha thứ cho nhau, hòa giải và thậm chí là hy sinh. Những sai lầm như thế thường thấy ở những tương quan mới, những cặp đôi mới, mối liên hiệp mới và các đôi hôn phối mới, làm gia tăng những tình huống và vấn đề phức tạp trong gia đình cho các chọn lựa Kitô giáo.

Trong những thách đố này, chúng tôi muốn đề cập đến nỗi đau của chính sự hiện hữu. Chúng tôi nghĩ đến những thống khổ có thể có đối với một em bé bị khuyết tật, một chứng bệnh nghiêm trọng, tinh thần bị suy giảm do tuổi già, cái chết của một người thân yêu. Đáng ngưỡng mộ thay sự trung kiên đầy quảng đại của nhiều gia đình sống trong những thử thách này với lòng can đảm, đức tin và tình yêu, không xem nó như một điều gì đó bị cắt đứt hay tổn thương, nhưng như là cái được trao ban cho mình, nhìn thấy Đức Kitô chịu đau khổ nơi phần thân xác bệnh tật ấy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những khó khăn kinh tế do các hệ thống sai lạc, do “chủ nghĩa thờ đồng tiền và sự chuyên chế của một nền kinh tế vô nhân vị và không nhắm tới con người thật sự” (Evangelii Gaudium, 55), vốn hạ thấp nhân phẩm con người. Chúng tôi cũng nghĩ đến những người cha, người mẹ, thất nghiệp, bất lực trước những nhu cầu thiết yếu của gia đình mình và cả đến các bạn trẻ, những người ở không, không có hoài bão, những người có thể sẽ trở thành nạn nhân của những suy đồi do nghiện ngập hay tội ác.

Chúng tôi cũng nghĩ đến rất nhiều các gia đình nghèo, những người phải bám theo một chiếc thuyền để tìm đến một nơi sinh tồn, đến các gia đình đi di cư mà không có chút hy vọng nào nơi các sa mạc, những những gia đình bị bách hại chỉ bởi vì đức tin và vì những giá trị thiêng liêng và nhân bản của mình, đến những ai bị những tàn bạo của chiến tranh và áp bức vây bủa. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ phải gánh chịu những bạo lực, bị bóc lột sức lao động, đến những nạn nhân của nạn buôn người, đến các trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng bởi chính người chịu trách nhiệm chăm sóc và giúp mình lớn lên trong sự tin tưởng, đến các thành viên của những gia đình bị hạ nhục và trong hoàn cảnh khó khăn. “Nền văn hóa sung túc đang gây mê chúng ta và […] tất cả đời sống đó bị còi cọc đi do thiếu vắng những cơ hội dường như là một cảnh tượng đơn thuần chẳng làm cho chúng ta bận tâm tí nào” (Evangelii Gaudium, 54). Chúng tôi thỉnh cầu đến các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế hãy thăng tiến các quyền về gia đình nhằm hướng đến công ích cho mọi người.

Đức Kitô đã muốn Giáo Hội của Ngài trở thành một ngôi nhà mở rộng cửa để đón tiếp mọi người, không trừ một ai. Chúng tôi biết ơn các chủ chăn, các tín hữu và cộng đoàn đã sẵn sàng đồng hành với các các cặp đôi và các gia đình, đồng thời chăm sóc những vết thương cả nội tâm lẫn xã hội của họ.

* * *
Tuy nhiên, cũng có một ánh sáng chiếu rọi giữa đêm đen, đằng sau những cánh cửa sổ của các tòa nhà ở thành phố, của căn nhà giản dị ở thôn quê hay nơi các làng mạc, hay thậm chí là cả những túp lều: nó tỏa sáng và sưởi ấm cả thể xác lẫn linh hồn. Ánh sáng này, dưới ánh sáng của lịch sử hôn nhân, đã tỏa chiếu từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một món quà, một ân sủng được diễn tả – như sách Sáng Thế nói (2,18) – khi khuôn mặt này “đối diện” với khuôn mặt kia, trong một sự “tương trợ đồng vị với nhau”, nghĩa là ngang nhau và hỗ tương với nhau. Tình yêu giữa người nam và người nữ dạy chúng ta biết rằng dù vẫn khác nhau về căn tính, mỗi người cần đến người kia để là chính mình, mỗi người phải mở ra và tỏ lộ cho nhau. Đó là điều mà người nữ diễn tả một cách rất gợi tình trong sách Diễm Ca: “Người yêu tôi là của tôi và tôi là của người yêu tôi… tôi thuộc về người yêu tôi và người yêu tôi thuộc về tôi” (Dc 2,16; 6,3)

Để cuộc gặp gỡ này được chân thành, lộ trình phải bắt đầu với việc đính hôn, khoảng thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó sẽ đi đến sự thành toàn với bí tích, nơi mà Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, sự hiện diện và ân sủng của Người. Hành trình này cũng bao gồm cả tính dục, sự dịu ngọt, sự thân mật, nét đẹp, vốn là những điều luôn tồn tại, vượt trên cả những mãnh liệt và hăng hái của tuổi trẻ. Tự bản chất, tình yêu có xu hướng còn mãi, cho đến khi trao ban cả sự sống cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Dưới ánh sáng này, tình yêu lứa đôi, duy nhất và bất khả phân ly, luôn tồn tại, bất chấp những khó khăn của giới hạn con người; đây là một trong những phép màu tuyệt vời nhất, và có lẽ cũng là phép lạ chung nhất.

Tình yêu này lan tỏa qua việc sinh sản con cái và phát triển nòi giống, vốn không chỉ liên hệ đến việc sinh con nhưng còn liên quan đến quà tặng đời sống thiêng liêng nơi bí tích Thanh Tẩy, giáo dục và dạy giáo lý cho con trẻ. Nó cũng bao gồm đến việc trao tặng sự sống, tình cảm, các giá trị – một kinh nghiệm mà cả người không có khả năng sinh sản vẫn có thể làm được. Những gia đình nào sống được cuộc phiêu lưu chói lọi này sẽ trở nên dấu chỉ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Trong suốt hành trình, vốn đôi khi có lắm chông gai, khó khăn và vấp ngã, luôn có Chúa hiện diện và đồng hành kề bên. Gia đình cảm nghiệm được điều này việc yêu mến và đối thoại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình sống điều này trong việc cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, một nơi nghỉ ngơi nho nhỏ cho tinh thần mỗi ngày. Rồi cùng dấn thân hàng ngày trong việc giáo dục đức tin và đời sống tốt lành của Tin Mừng, những điều thánh thiêng. Cả ông bà cũng cùng chia sẻ và thực thi trách nhiệm này với một sự yêu mến và dấn thân lớn lao. Như thế, gia đình sẽ trở thành một Giáo Hội tại gia chân thực, rồi nới rộng ra thành một gia đình trong các gia đình làm nên cộng đoàn giáo hội. Các cặp vợ chồng Kitô hữu được mời gọi để trở thành những thầy dạy đức tin và tình yêu cho những cặp trẻ hơn.

Một diễn tả khác của sự hiệp thông huynh đệ là sự diễn tả của đức ái, của trao ban, của việc gần gũi với những ai thấp bé, những người bị gạt ra bên ngoài xã hội, những người nghèo, những người đơn chiếc, bệnh nhân, người ngoại quốc, những gia đình khác đang gặp khủng hoảng, ý thức về lời Chúa: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đó là món quà của điều thiện hảo, của việc đồng hành, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá của chân lý, của ánh sáng, của ý nghĩa cuộc sống.

Điểm quy tụ và tóm kết mọi dây hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân chính là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, khi tất cả gia đình và Giáo Hội cùng ngồi bên bàn tiệc của Chúa. Ngài đã trao ban cho tất cả chúng ta, những người hành hương trong lịch sử tiến về điểm gặp gỡ chung kết khi “Đức Kitô trở nên tất cả và trong tất cả” (Cl 3,11). Vì thế, trong chặng đầu tiên của khởi đầu Công Nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy tư về việc trợ giúp mục vụ và về việc tham dự bí tích cho những ai đã ly dị tái hôn.

Chúng tôi, các nghị phụ, xin anh chị em hãy bước đi cùng chúng tôi hướng về Cuộc Họp Thượng Hội Đồng sắp tới. Nguyện xin sự hiện diện của gia đình Giêsu, Maria và Giuse trong ngôi nhà đơn sơ của họ luôn ấp ủ các bạn. Cùng với Thánh Gia Nazaret, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời cầu khẩn của chúng tac ho tất cả gia đình dưới thế:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình có được những người vợ người chồng khôn ngoan và mạnh mẽ để họ có thể là nguồn mạch của một gia đình hiệp nhất và tự do.
Lạy Cha, xin ban cho các bậc cha mẹ có một mái nhà để sống bình an với gia đình của mình.
Lạy Cha, xin giúp những người làm con trở thành một dấu chỉ của niềm tin, niềm hy vọng, và giúp cho người trẻ có được một sự dấn thân vững bền và trung tín.
Lạy Cha, xin giúp cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hằng ngày nhờ đôi tay của mình, có thể hưởng nếm sự thanh thản tinh thần và giữ được ngọn lửa đức tin luôn bừng cháy, dù giữa lúc đêm đen.
Lạy Cha, xin giúp tất cả chúng con thấy được một Giáo Hội nở rộ sự trung tín và đáng tin, một thành phố công chính và nhân bản, một thế giới yêu mến chân lý, công bằng và lòng xót thương.


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đang tới hồi kết thúc. Trong phiên khoáng đại thứ 14 sáng thứ bẩy 18-10-2014, từ 9 giờ đến 12 giờ rưỡi, các nghị phụ sẽ nghe đọc dự thảo Bản tường trình kết thúc công nghị GM thế giới này, và bỏ phiếu chấp thuận văn bản chung kết Sứ điệp Thượng HĐGM gửi cộng đồng dân Chúa.

Ban chiều từ 4 giờ rưỡi đến 7 giờ, có phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng. Các nghị phụ sẽ bỏ phiếu thông qua Bản tường trình Thượng HĐGM để đệ lên ĐTC. Văn kiện này chưa phải là quyết định chung kết nhưng sẽ được dùng làm Tài Liệu làm việc cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ lần thứ 14 nhóm vào tháng 10 năm tớim 2015.

Để đi tới Bản tường trình chung kết này, các nghị phụ đã làm việc khẩn trương trong hai tuần qua: trong tuần đầu là phần góp ý kiến, được đúc kết thành bản Tường trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã trình bày sáng thứ hai, 13-10, trong phiên khoáng đại thứ 11.

Bản này bị dư luận và nhiều nghị phụ phê bình và đã được nghiên cứu đào sâu thêm trong 6 cuộc họp nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng từ 18 đến 20 nghị phụ, cùng với các dự thính viên và chuyên gia. Sau đó, sáng thứ năm, 16-10 vừa qua, Thượng HĐGM thế giới đã nhóm phiên khoáng đại thứ 12 để nghe tường trình về kết quả các cuộc thảo luận nhóm: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm Tây Ban Nha. Vị tường trình viên của mỗi nhóm lần lượt trình bày kết quả cuộc thảo luận. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quí vị một số ý chính trong các bản tường trình nhóm:

Vài nét chính trong các bản bá cáo của các nhóm

Tất cả các nhóm đều đưa ra nhiều nhận xét và đưa ra 500 yêu cầu sửa chữa bản phúc trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe trình bày.

Nói chung, Phúc trình này bị phê bình là quá nhấn mạnh đến các vấn đề, có nguy cơ làm cho các gia đình và người trẻ không quan tâm cố gắng làm cho hôn nhân và gia đình được tiến hành tốt đẹp. Theo nhiều nghị phụ, Thượng HĐGM về gia đình phải qui trọng tâm nhiều hơn về vẻ đẹp của hôn nhân và tránh để cho lối tiếp cận ”chào đón” và thương xót lấn át nghĩa vụ của Giáo Hội phải kêu gọi con người từ bỏ con đường tội lỗi.

Nhiều nhóm muốn có sự thay đổi lớn, hay là viết lại một số phần trong phúc trình giữa khóa, nhấn mạnh tầm quan trọng của một Giáo Hội tìm đến các gia đình và những người đang có vấn đề trong thế giới ngày nay, trong đó có những cặp sống chung mà không kết hôn, những tín hữu Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự, những cặp đồng phái. Cần giúp đỡ và tháp tùng họ trở về cùng Giáo Hội. Hầu hết các nhóm nghị phụ đều muốn thấy Phúc trình chung kết của Thượng HĐGM này nhấn mạnh hơn về vẻ đẹp và sự thu hút trong cái nhìn của Thiên Chúa về hôn nhân bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, cởi mở đối với sự sống.

– Nhóm Anh ngữ thứ 2, trong đó có ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Hoa Kỳ, ĐHY Wilfried Napier, TGM Durban, Nam Phi, và Đức TGM Diarmuid Martin của giáo phận Dublin, thủ đô Ai Len, cho biết nhiều vị trong nhóm cảm thấy rằng một người trẻ, khi đọc bản tường trình giữa khóa, sẽ cảm thấy bớt phấn khởi trong chấp nhận ơn gọi sống đời hôn nhân Kitô với tất cả những thách đố kèm theo.

– Nhóm tiếng Anh thứ 1, do ĐHY Raymond Burke, người Mỹ, Chủ tịch Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, nói rằng bản Tường trình chung kết của Thượng HĐGM phải công bố chân lý Phúc Âm, sự sống con người, và tính dục dựa trên mạc phải và luật tự nhiên, vì việc săn sóc mục vụ không thể tách rời khỏi giáo huấn của Giáo Hội. Nhóm này cũng có ĐHY Gerhard Mueller, người Đức, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Đức TGM Vincent Nichols của giáo phận Westminster, Anh quốc. Nhóm phê bình phương pháp của bản tường trình giữa khóa, theo đó trước tiên lắng nghe dân chúng trước khi phán đoán và phân định hành trình mục vụ. Theo nhóm, Giáo Hội luôn phải nhìn thế giới qua lăng kính Tin Mừng để có thể yêu thương và săn sóc con người, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận những tình trạng tội lỗi và tìm kiếm con đường để mời gọi con người hoán cải tâm hồn.

Nhóm này cảm thấy phúc trình giữa khóa có vẻ như muốn nói tính dục ngoài hôn nhân và những lối sống bất hợp lệ có thể là điều được phép khi khẳng định rằng: ”Có những hạt giống sự thật và tốt đẹp ở nơi những ngừơi liên hệ, và qua việc săn sóc mục vụ, những hạt giống ấy có thể được quí chuộng và phát triển”. Nhóm này nói bất kỳ sự ngụ ý nào nói hành vi vô luân là điều có thể chấp nhận được, sẽ làm cho các cha mẹ ngỡ ngàng và tự hỏi: tại sao mình lại phải cố gắng vất vả như vậy để dạy con cái về Tin Mừng?

– Nhóm tiếng Anh thứ ba, trong đó có ĐHY Donald Wuerl, TGM thủ đô Washington, Hoa Kỳ, Đức TGM Joseph Kurtz của giáo phận Louisville, bang Kentucky, Chủ tịch HĐGM Mỹ, và Đức TGM Denis Hart của giáo phận Melbourne, Australia, tuyên bố là không muốn bản phúc trình chung kết làm suy yêu cảm thức hy vọng rằng ”sự dấn thân có hiệu quả và trọn đời trong hôn nhân là điều có thể đạt tới được”. Nhóm này nói: Giáo Hội cần tìm đến để chào đón, mà không phán xét hay lên án, những người vì lý do nào đó, chưa có thể diễn tả sự dấn thân trọn đời trong hôn nhân giữa một người nam và một ngừơi nữ”, nhưng nhóm cũng kêu gọi quan tâm làm sao để biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vì chúng ta có thể vô tình gây ra cảm tưởng hôn nhân không phải là quan trọng, hoặc nó chỉ là một lý tưởng mà một vài người ưu tuyển có thể đạt tới.

– Nhóm tiếng Ý thứ 2, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều Roma như ĐHY Walter Kasper, Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng văn hóa và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng tái truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi nhấn mạnh làm sao để không có sự rạn nứt hay tách biệt giữa đạo lý và việc săn sóc mục vụ. Nhưng nhóm cũng nhấn mạnh trách nhiệm của Giáo Hội phải đưa ra một phán đoán về những vấn đề trong nền văn hóa ngày nay, Giáo Hội không thể quên vai trò ngôn sứ của mình và phải cảnh cáo những kẻ xấu về hình phạt của Thiên Chúa nếu họ không thay đổi cuộc sống gian ác (Ez 3,17-19).

– Nhóm tiếng Pháp do ĐHY Christoph Schoenborn, TGM giáo phận Vienne bên Áo, làm điều hợp viên, và có Đức TGM Paul-André Durocher của giáo phận Gatineau, Québec, Canada là thành viên, nói rằng thách đố ở đây là làm sao dung hợp “lòng yêu mến sự thật và đức bác ái mục tử, để không gây sốc cho những người đang cố gắng sống trọn các giáo huấn của hội Thánh. Nhóm này nói đến người anh cả trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, cảm thấy không hài lòng khi người cha mở tiệc đón đứa em tội lỗi trở về, nhưng không bao giờ cho anh ta, vốn là người ở lại gia đình và làm việc, được mở tiệc để vui với các bạn.

Nhóm Pháp ngữ này có nhiều GM Phi châu. Các vị khẳng định sự tôn trọng và chào đón những người đồng tính luyến ái và lên án những kỳ thị đối với những người này, nhưng các vị nói rằng Giáo Hội không thể ”hợp thức hóa những việc thực thi đồng tính luyến ái, và càng không thể nhìn nhận những cặp đồng phái là hôn phối. Các vị tố giác các tổ chức quốc tế đặt điều kiện đòi các nước nghèo phải ban hành những luật tháo thứ hơn về luân lý thì mới được viện trợ.

– Nhóm tiếng Ý, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều, trong đó có ĐHY George Pell, Chủ tịch Hội đồng kinh tế, ĐHY Coccopalmerio Chủ tịch Hội đồng về các văn bản luật, và Đức TGM Paglia, Chủ tịch Họi đồng về gia đình, nói rằng có hai quan niệm khác nhau trong các cuộc thảo luận tại Thượng HĐGM. Một quan niệm cho rằng không nên do dự gì khi dùng những từ như ”tội lỗi”, ngoại tình và hoán cải, khi nói về những tình trạng trái ngược với Tin Mừng. Trong khi một lối tiếp cận khác phải nhìn nhận rằng ước muốn có một gia đình đã được Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn mỗi người, cả những tín hữu vì những lý do khác nhau không sống hoàn toàn phù hợp với Lời Chúa Kitô”.

Nhóm này cũng nói: Một sự thiếu ý thức về tội lỗi và những hoàn cảnh văn hóa nghiệm trọng thường là lý do khiến một tín hữu không sống phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Tường trình chung kết phải nhấn mạnh sự cầnthiết phải cải tiến việc giáo dục về đức tin (CNS 16-10-2014)

– Nhóm nghị phụ tiếng Ý thứ I, do ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ truyền giáo làm điều hợp viên, nói đến khó khăn trong việc mang lại một ý nghĩa cho thành ngữ ”luật tiệm tiến” đã được nhắc đến trong bản tường trình giữa khóa để biện minh cho sự bất toàn trong hành động của một số tín hữu, và áp dụng vào việc cho tín hữu ly dị tái hôn được rước lễ. Các nghị phụ nói rằng luật tiệm tiến không thể áp dụng được cho số 34 của Tông Huấn Familiaris consortio về gia đình, vì trong tông huấn này luật tiệm tiến được áp dụng chủ yếu cho vấn đề luân lý liên quan đến việc làm cha làm mẹ ý thức. Thành ngữ ”Luật tiệm tiến” dường như vượt ra ngoài sự kiểm soát với nguy cơ làm cho người ta nghĩ rằng những khó khăn trong đời sống vợ chồng đưa tới sự hạ thấp ý nghĩa trọn vẹn của chính ơn gọi vợ chồng. Nhóm này yêu cầu viết lại phần thứ II của tường trình giữa khóa để làm nổi vợt dự phóng vui tươi về hôn nhân do Thiên Chúa đề ra.

Nhóm cũng không đồng ý về việc để cho ĐGM giáo phận trực tiếp can dự vào các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu, vì thường các GM không phải là những nhà chuyên môn trong lãnh vực này, vì thế nên đề nghị một sự phối hợp mục vụ giữa những người liên hệ với tòa án hôn phối, các cố vấn và các văn phòng khác nhau của giáo phận về gia đình.

Về vấn đề cho người ly dị tái hôn được rước lễ, các nghị phụ trong nhóm tuy nhạy cảm đối với vấn đề, nhưng vẫn đề nghị tái nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng số 84 của Tông huấn Familiaris consortio, để xác định những điều kiện khác với kỷ luật hiện hành.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio