Kitô hữu là người biết thưa tiếng ‘xin vâng’

Kitô hữu là người biết thưa tiếng ‘xin vâng’

Thánh lễ Truyền Tin, thứ hai, 04.04.2016

VATICAN. “Hãy tự hỏi mình xem liệu tôi có phải là người biết thưa tiếng ‘xin vâng’ hay là người luôn quay mặt giả điếc làm không thèm trả lời.” Đây là một trong những thông điệp mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ trong bài giảng thánh lễ sáng hôm nay, thứ 2, ngày 04.04, tại nguyện đường Thánh Marta. Đây là thánh lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại nguyện đường này sau thời gian nghỉ lễ Phục Sinh. Khởi đi từ Lễ Truyền Tin hôm nay, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh rằng: “Chính tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria đã mở ra cách cửa dẫn đến tiếng ‘xin vâng’ của Đức Giêsu.”

Áp-ra-ham đã vâng phục Thiên Chúa, đã thưa tiếng ‘vâng’ trước lời mời gọi của Chúa và sẵn sàng rời bỏ vùng đất bấy lâu nay đã sống để lên đường đi đến nơi ông không hề biết. Đức Thánh Cha Phanxicô đã tập trung bài giảng của mình vào ‘chuỗi dây của những tiếng xin vâng’, được bắt đầu với Áp-ra-ham. Khi đề cập trến biến cố Truyền Tin, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng căn tính của con người, ngay cả của những người thời cổ xưa như Áp-ra-ham và Mô-sê, chính là biết đáp tiếng ‘xin vâng’ trước sự kỳ vọng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng nghĩ đến Isaia, khi Thiên Chúa sai ông đi nói chuyện với dân chúng, dường như ông đã do dự và trả lời rằng ‘môi miệng ông ô uế’.

Tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria mở ra cánh cửa để dẫn tới tiếng ‘xin vâng’ của Đức Giêsu

Thiên Chúa thanh tẩy môi miệng của Isaia và ông đã thưa ‘xin vâng’. Điều này cũng xảy ra với tiên tri Giê-rê-mia khi ông nhận thấy mình không biết ăn nói, nhưng sau đó ông đã đáp ‘‘xin vâng’’ với Thiên Chúa. Ngày hôm nay, tin Mừng nói với chúng ta điểm cuối cùng của chuỗi dây ‘xin vâng’ ấy, được bắt đầu từ một tiếng ‘xin vâng’ khác: đó chính là tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria. Với tiếng ‘xin vâng’ này, Thiên Chúa không chỉ còn là ghé mắt nhìn đến Dân Người, hay bước đi đồng hành với Dân Người nữa, nhưng Thiên Chúa đã thực sự trở nên một người trong chúng ta và mang lấy thân xác phàm nhân. Tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria đã mở ra cánh cửa dẫn tới tiếng ‘xin vâng’ của Đức Giêsu: ‘Con đến để thực thi ý Chúa.’ Đức Giêsu đã cùng với tiếng ‘xin vâng’ này bước trọn cuộc hành trình dương thế, đến tận cây Thánh Giá. Trong giây phút sắp phải chịu khổ hình, Đức Giêsu đã xin Cha cất chén đắng đi. Nhưng ngay lập tức, Ngài cũng thưa tiếng ‘xin vâng’, ‘một theo ý Cha, đừng theo ý con. Như vậy, nơi Đức Giêsu, có tiếng ‘‘xin vâng’’ của Thiên Chúa. Chính Ngài là hiện thân của sự vâng phục.

Trong tiếng 'xin vâng' của Mẹ Maria, có tiếng 'xin vâng' của tất cả lịch sử cứu độ

Hôm nay là một ngày tuyệt đẹp để chúng ra cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã hướng dẫn chúng ta bước đi trên con đường ‘xin vâng’, và cũng là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ, phản tỉnh về đời sống của mình. Tất cả chúng ta, trong những ngày sống, cần phải nói ‘xin vâng’ hoặc ‘từ chối’, và đôi khi chúng ta nói ‘vâng’ hoặc nhiều lần chúng ta cúi thấp đầu xuống lẩn trốn như Adam và Eva, để không nói ‘từ chối’ khi phải làm điều gì đó ta không hiểu được. Điều chúng ta không hiểu là điều mà Thiên Chúa đòi hỏi. Hôm nay là ngày lễ ‘xin vâng’. Trong tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria, có tiếng ‘xin vâng’ của tất cả lịch sử cứu độ, và từ đó, tiếng ‘xin vâng’ cuối cùng của con người và của Thiên Chúa đã bắt đầu.

Chúng ta có là những người ‘xin vâng’

Với tiếng ‘vâng’ từ thủa ban đầu, Thiên Chúa đã tác tạo vũ trụ và con người. Đó là một công trình tạo dựng tuyệt đẹp. Và ngày hôm nay, cũng với tiếng ‘xin vâng’, Thiên Chúa đã tái tạo vũ trụ và tất cả chúng ta thành những thụ đạo đẹp đẽ nhất. Tiếng ‘xin vâng’ của Thiên Chúa, Đấng đã thánh hóa chúng ta, giúp chúng ta không ngừng tiến lên phía trước trong Đức Giêsu Kitô. Hôm nay là ngày để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa và cũng để tự tra vấn mình: Tôi có phải là người biết thưa tiếng ‘xin vâng’ hay chỉ biết nói ‘từ chối’, hay  tôi là người giả điếc làm ngơ không thèm trả lời? Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để bước đi trên con đường của những người biết thưa tiếng ‘xin vâng’.

Sau bài giảng, các nữ tu Dòng Thánh Vinh Sơn đã lặp lại lời khấn. Các sơ cũng là những người phục vụ tại Nhà trọ Thánh Marta. Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Các sơ thực hiện việc nhắc lại lời khấn đều đặn mỗi năm. Thánh Vinh Sơn rất khôn ngoan khi ngài biết bằng sứ vụ mà các sơ đảm nhận khó khăn vất vả. Bởi vậy, ngài muốn con cái của mình phải nhắc lại nhữnglời khấn hứa ấy hằng năm.

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

Đức Thánh Cha gặp gỡ 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ

VATICAN. Sáng ngày 31-12-2015, ĐTC đã tiếp kiến 6 ngàn thành viên các ca đoàn trẻ về Roma tham dự Đại hội quốc tế lần thứ 40.

6 ngàn người trẻ từ 5 đến 28 tuổi, thuộc các ca đoàn đến từ 18 quốc gia, trong đó có Italia, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Brazil, Ba Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Ai Len và một số nước khác trong đó có Hàn Quốc và Nhật Bản. Họ dự Đại hội từ ngày 28-12-2015 đến 1-1-2016 với chủ đề ”Các em hãy hát lên niềm hy vọng của mình”.

 Đối thoại với các em

Trong cuộc gặp gỡ, ĐTC đã trả lời một số câu hỏi do 3 em nêu lên.

1. ĐGH nghĩ gì về các bài ca của chúng con? Ngài có thích hát không?

ĐTC cho biết ngài thích nghe hát, nhưng không biết hát, ”tôi như con lừa, vì không biết hát. Tôi cũng không nói hay vì tôi có một khuyết tật về phát âm khi nói”… Tôi có một người ông làm nghề thợ mộc, vẫn luôn hát trong lúc làm việc. Bài ca có tác dụng giáo dục tâm hồn, mang lại ích lợi cho tâm hồn. Ví dụ một bà mẹ muốn cho đứa con nhỏ của mình ngủ, bà không nói với con: một, hai, ba, bốn.. nhưng bà hát ru con.. Đứa bé cảm thấy yên hàn và thiếp ngủ. Thánh Augustino nói một câu rất hay khi bàn về đời sống Kitô: ”Hãy hát và tiến bước”. Đời sống Kitô là một con đường, nhưng không phải con đường buồn sầu, trái lại là con đường vui tươi. Vì thế mà ta hát. Hát và tiến bước!

2. Làm sao mà ĐGH tốt lành như vậy, không bao giờ nổi giận? Đâu là những điều dốc lòng tốt của ĐGH cho năm mới?

ĐTC nhắc lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh niên trong Phúc Âm gọi Ngài là ”Thầy nhân lành”: Chỉ có Thiên Chúa là Đấng nhân lành! Như vậy chúng ta là kẻ xấu hay sao? Không phải vậy, nửa này nửa kia.. Chúng ta vẫn luôn có vết thương của tội nguyên tổ khiến chúng ta không luôn luôn tốt lành..

”Cũng có những lúc cha nổi giận, nhưng không cắn! Đôi khi cha cũng nổi giận khi có người làm điều không tốt.. Nhưng cha dừng lại và suy nghĩ về những lần cha đã làm cho người khác nổi giận. Và cha nghĩ: ”Mình cũng đã làm cho người khác nổi giận, đúng vậy, bao nhiêu lần, vì thế mình không có quyền nổi giận.. Giận dữ là điều làm cho tâm hồn bị nhiễm độc. Bao nhiêu lần cha thấy các trẻ em kinh hãi vì cha mẹ chúng hoặc ở trường người ta trách mắng chúng. Khi một người giận dữ và trách mắng thì họ làm hại, gây tổn thương: Trách mắng người khác cũng như đâm một con dao vào tâm hồn, và đó không phải là điều tốt..

”Có những người mà các con chắc chắn là biết, họ có một tâm hồn cay đắng, luôn cay đắng, họ sống trong giận dữ. Dường như mỗi buổi sáng họ đánh răng bằng dấm, nên mới nổi giận như vậy. Người như thế là người bệnh hoạn..

Về sự dốc lòng trong năm mới, ĐTC cho biết ngài đã đưa ra những điều dốc lòng khi tĩnh tâm, đó là cầu nguyện nhiều hơn. Vì các GM, LM, phải hướng dẫn Dân Chúa trước tiên bằng lời cầu nguyện, đó là việc phục vụ đầu tiên..

3. Khi còn nhỏ, ĐGH mơ ước trở thành gì? Ban tối khi xem Tivi với gia đình, con thấy bao nhiêu là điều đau buồn, thê thảm. Thế giới cứ luôn như vậy sao, cả khi con lớn lên?

– Về câu hỏi thứ nhất, cha kể ra, chắc các con thế nào cũng cười. Khi còn nhỏ, cha thường đi với bà nội, có khi theo mẹ đi chợ để mua đồ. Chợ dọc theo con đường ấy có người bán rau, người bán trái cây, thịt, cá.. Một hôm, ở nhà, cha được hỏi: lớn lên con muốn làm gì? Cha trả lời: con muốn làm ông hàng thịt! Tại sao? Tại vì ở chợ ấy, ông hàng thịt có 3, 4 chỗ để bán thịt, ông cầm dao và cắt thịt rất là nghệ thuật, và tôi thích nhìn ông làm như thế. Bây giờ thì ý tưởng thay đổi rồi.

Về câu thứ hai, nghiêm chỉnh hơn, những tin tức đau buồn ở Tivi. Đúng vậy có bao nhiêu người đau khổ trên thế giới ngày nay, bao nhiêu chiến tranh. Chỉ cần nghĩ đến Trung Đông nơi Chúa Giêsu sinh ra, vẫn còn chiến tranh; chiến tranh ở Ucraina, và nhiều nơi ở Mỹ châu la tinh. Chiến tranh gây ra nghèo đói, đau khổ, bất hạnh. Các con là những thiếu nhi, thiếu niên được ơn Chúa, có thể ca hát. Nhưng có bao nhiêu trẻ em không có gì để ăn, không được cắp sách đến trường, vì chiến tranh, nghèo đói, hoặc vì không có trường học.. có những trẻ em bị bệnh và không được đến nhà thương. Các con hãy cầu nguyện cho các trẻ em ấy. Thế giới có thể cải tiến. Trong thế giới có cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác, có cuộc tranh đấu giữa ma quỉ và Thiên Chúa. Điều này vẫn còn. Một mỗi người trong chúng ta muốn làm một điều xấu, điều xấu ấy là do ma quỉ xúi giục.. Đó là cuộc chiến tranh chống lại sự thật của Thiên Chúa, chống lại sự thật về cuộc sống, chống lại niềm vui.. Cuộc tranh đấu giữa ma quỉ và Thiên Chúa sẽ kéo dài đến tận thế, như Kinh Thánh đã dạy.. Tất cả chúng ta ở trong một chiến trường..

ĐTC kể ra bao nhiêu những hội đoàn hoặc những người âm thầm làm việc thiện, mà báo chí truyền hình không nói tới. Có bao nhiêu gia đình thánh thiện, bao nhiêu cha mẹ giáo dục con cái tốt đẹp. Ma quỉ làm bao nhiêu điều xấu xa, đúng vậy, nhưng Thiên Chúa cũng có bao nhiêu người thánh thiện trên thế giới, những việc làm của họ người ta không thấy trên truyền hình. Tại sao, vì những điều đó không làm tăng số khán thính giả của đài.. Tại sao người ta không thấy trên truyền hình những nữ tu dòng kín dành cuộc đời cầu nguyện cho moi người? Vì điều này chẳng mấy người quan tâm.. Có lẽ người ta quan tâm hơn đến những nữ trang của một hãng quan trọng, những thứ phù vân hào nhoáng. Nhưng chúng ta đừng để mình bị lường gạt.

ĐTC ban phép lành kết thúc cho các em và hẹn gặp lại các em trong thánh lễ sáng ngày Tết Dương Lịch, các em sẽ hát trong thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô (SD 31-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sứ điệp ĐTC Phanxicô gửi Ngày Hoà Bình Quốc Tế 2016

Sứ điệp ĐTC Phanxicô gửi Ngày Hoà Bình Quốc Tế 2016

ĐTC Phanxicô chào tín hữu tụ tập tại công trường thánh Phêrô

Sứ điệp ĐTC gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016

Ngày 15 tháng 12 vừa qua Phòng Báo Chí Toà Thánh đã tổ chức cuộc họp báo giới thiệu Sứ điệp ĐTC Phanxicô gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016 về đề tài “Hãy chiến thắng dửng dưng và chinh phục hoà bình”. Sứ điệp đề ngày mùng 8 tháng 12 gồm 8 đoạn. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung  sứ điệp. Mở đầu sứ điệp ĐTC viết:

1. “Thiên Chúa không dửng dưng! Đối với Thiên Chúa Nhân loại quan trọng, Thiên Chúa không bỏ rơi nó! Bắt đầu năm mới với xác tín sâu thẳm này của mình  tôi muốn kèm theo các lời cầu chúc phước lành và hoà bình tràn đầy, trong dấu chỉ của niềm hy vọng, cho tương lai của từng người nam nữ, của từng gia đình, dân tộc và quốc gia trên thế giới, cũng như cho các Quốc Trưởng và Chính Quyền và Giới Lãnh Đạo tôn giáo. Thật thế, chúng ta không mất hy vọng rằng năm 2016 trông thấy chúng ta tất cả dấn thân một cách cương quyết và mạnh mẽ, trên mọi bình diện, để thực hiện công lý và hoạt động cho hoà bình. Phải, hoà bình là món quà của Thiên Chúa và là công trình của con người. Hoà bình là ơn của Thiên Chúa, nhưng được ủy thác cho tất cả mọi người nam nữ được mời gọi hiện thực nó.

Duy trì các lý do của niềm hy vọng

2. Các chiến tranh và hành động khủng bố, với các hậu quả thê thảm của chúng, các vụ bắt cóc người, các bách hại vì các lý do chủng tộc hay tôn giáo, các lạm dụng đã ghi dấu từ đầu tới cuối năm vừa qua gia tăng một cách đau đớn tại nhiều vùng trên thế giới, đến độ có các hình thể có thể gọi là “một đệ tam thế chiến từng mảnh”. Nhưng cũng có vài biến cố của các năm qua và của năm vừa qua  mời gọi tôi, trong viễn tượng của năm mới, canh tân lời khích lệ đừng mất hy vọng nơi khả năng của con người, với ơn của Thiên Chúa, vượt thắng sự dữ và không buông xuôi cho thái độ chịu trận và thờ ơ. Các biến cố mà tôi muốn nhắc đến diễn tả khả năng của nhân loại hoạt động trong tình liên đới, vượt ngoài các lợi lộc cá nhân, sự vô cảm và dửng dưng trước các tình trạng nguy kịch.

Trong số các biến cố ấy tôi muốn nhắc tới nỗ lực tạo thuận tiện cho cuộc gặp gỡ của giới lãnh đạo thế giới trong bối cảnh của hội nghị COP 21, nhằm tìm ra các con đường mới giúp đương đầu với các thay đổi khí hậu và cứu vãn sức khỏe của Trái Đất, căn nhà chung của chúng ta. Và điều này quy chiếu về hai biến cố trước đó trên bình diện toàn cầu: đó là Hội nghị thượng đỉnh tại Addis Abeba nhằm quyên góp ngân qũy cho việc phát triển có thể chịu đựng nổi của thế giới; và việc Liên Hiệp Quốc chấp nhận Lịch trình 2030 cho việc phát triển có thể chịu đựng nổi, nhằm bảo đảm cho mọi người dân, nhất là cho các dân tộc nghèo của hành tinh, từ nay cho tới đó có một cuộc sống xứng đáng hơn.

Năm 2015 đã là một năm đặc biệt  đối với Giáo Hội, cũng bởi vì Giáo Hội kỷ niệm 50 năm công bố hai tài liệu của Công Đồng Chung Vaticăng II  diễn tả một cách rất hùng hồn ý thức liên đới của Giáo Hội đối với thế giới. Khi khai mạc Công Đồng ĐGH Gioan XXIII muốn mở toang các cửa sổ của Giáo Hội để giữa Giáo Hội và thế giới có sự truyền thông rộng mở hơn. Hai tài liệu: Nostra aetate và Gaudium et Spes, là các diễn tả biểu hiệu cho tương quan mới của sự đối thoại, tình liên đới và đồng hành mà Giáo Hội cố ý đưa vào bên trong nhân loại. Trong Tuyên ngôn Nostra aetate Giáo Hội được mời gọi rộng mở cho việc đối thoại với các tôn giáo không kitô. Trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, từ lúc “các niềm vui, các hy vọng, buồn sầu và lo lắng của con người ngày nay, của người nghèo và nhất là của tất cả những người đau khổ, cũng là các niềm vui và các hy vọng, các buồn sầu và các âu lo của các môn đệ Chúa Kitô” (GS, 1), thì Giáo Hội đã ước mong thiết lập một cuộc đối thoại với gia đình nhân loại liên quan tới các vấn đề của thế giới, như dấu chỉ của tình liên đới và sự trìu mến tôn trọng (GS, 3).

Cũng trong viễn tượng này với Năm Thánh Lòng Thương Xót tôi muốn mời gọi Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động để mọi tín hữu kitô có thể có một con tim chín mùi khiêm nhường và từ bi, có khả năng loan báo và làm chứng cho lòng thương xót, “tha thứ và cho đi”, rộng mở “cho những ai sống trong các vùng ngoại biên rải rác nhất của cuộc sống, mà thế giới tân tiến thường tạo ra một cách thê thảm”, không “rơi vào sự dửng dưng hạ nhục, không rơi vào thái độ quen nhờn làm tê liệt tâm trí và ngăn cản khám phá ra  sự mới mẻ, không rơi vào thái độ vô liêm sỉ tàn phá.” (Misericordiae vultus, 14-15)

ĐTC viết tiếp trong sứ điệp: Có nhiều lý do giúp tin vào khả năng của nhân loại cùng nhau hành động trong tình liên đới, trong việc nhận ra sự nối kết giữa nhau và tuỳ thuộc nhau, bằng cách lo lắng cho các thành phần yếu đuối nhất, và cứu vãn thiện ích chung. Thái độ liên đới đồng trách nhiệm này là gốc rễ ơn gọi nền tảng cho tình huynh đệ và cho cuộc sống chung. Phẩm giá và các tương quan liên bản vị khiến cho chúng ta là người, được Thiên Chúa muốn là hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Như là các thụ tạo được phú bẩm phẩm giá bất khả nhượng, chúng ta hiện hữu trong tương quan với các anh chị em khác, mà chúng ta có trách nhiệm đối với họ và chúng ta hành động trong tình liên đới với họ. Bên ngoài tương quan này, chúng ta sẽ ít là người hơn. Chính vì thế sự dửng dưng là một đe dọa đối với gia đình nhân loại. Trong khi chúng ta bước tới một năm mới, tôi muốn kêu mời tất cả mọi người thừa nhận sự kiện này, để chiến thắng dửng dưng và chinh phục hoà bình.

Vài hình thức dửng dưng

3. Chắc chắn rằng thái độ dửng dưng, của người đóng kín con tim để không chú ý tới tha nhân, của người nhắm mắt để không trông thấy điều chung quanh, hay tránh né để không bị dụng chạm bởi các vấn đề của người khác, định tính một loại người khá phổ biến và hiện diện trong mọi thời đại của lịch sử. Tuy nhiên, ngày nay  nó đã vĩnh viễn vượt quá lãnh vực cá nhân để mang chiều kích toàn cầu, và tạo ra hiện tượng của “việc toàn cầu hóa sự dửng dưng”.

Hình thái thứ nhất của sự thờ ơ trong xã hội con người là sự dửng dưng đối với Thiên Chúa, từ đó cũng nảy sinh ra sự dửng dưng đối với tha nhân và với thụ tạo. Đây là một trong các hậu quả trầm trọng nhất của một chủ thuyết nhân bản giả dối, và của chủ thuyết duy vật thực tiễn, trộn lẫn với một tư tưởng duy tương đối và duy hư vô. Con người nghĩ rằng nó là tác giả của chính mình, của cuộc sống mình và của xã hội; nó cảm thấy tự đủ và không chỉ nhắm lấy mình thay thế Thiên Chúa, mà còn sống không cần tới Thiên Chúa nữa; hậu quả, nó nghĩ mình không nợ ai gì cả, ngoại trừ chính nó, và nó yêu sách chỉ có các quyền lợi mà thôi (Caritas in veritate. 43). Chống lại sự tự hiểu biết sai lầm này của con người, ĐGH Biển Đức XVI nhắc nhở rằng: không phải con người  cũng không phải sự phát triển của nó có khả năng tự ban cho nó ý nghĩa cuối cùng của nó (Caritas in veritate, 16) ; và trước ngài Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã khẳng định rằng “không có chủ thuyết nhân bản đích thật nào cống hiến ý tưởng đích thật của cuộc sống con người, nếu không rộng mở cho  Đấng Tuyệt Đối” (Populorum progresio, 42).

Sự dửng dưng đối với tha nhân mang nhiều bộ mặt khác nhau. Có người được thông tin rõ ràng, lắng nghe radio, đọc báo chí hay coi các chương trình truyền hình, nhưng làm một cách hâm hẩm, hầu như trong một điều kiện quen thuộc: những người này biết một cách mù mờ các thảm cảnh khiến cho nhân loại khổ đau, nhưng họ không cảm thấy bị lôi cuốn, họ không sống sự cảm thương. Đây là thái độ của người biết, nhưng có cái nhìn, tư tưởng và hành động hướng tới chính mình. Rất tiếc chúng ta phải ghi nhận rằng việc gia tăng các tin tức, chính trong thời đại chúng ta, tự nó không có nghĩa là gia tăng sự chú ý tới các vấn đề, nếu nó không được đi kèm bởi một sự rộng mở lương tâm trong nghĩa liên đới (Caritas in veritate, 19). Trái lại, nó có thể bao gồm một sự bão hoà làm tê liệt, và trong một mức độ nào đó, tương đối hoá tầm nghiêm trọng của các vấn đề. “Có vài người, một cách đơn sơ, lại vui mừng đổ lỗi cho người nghèo và các nước nghèo  về các sự dữ của họ, với các tổng quát hoá không xóa bỏ được, và họ yêu sách tìm ra giải pháp trong một việc “giáo dục” trấn an và biến họ trở thành những người bị thuần hoá và vô hại. Điều này lại càng trở nên nhức nhối hơn, nếu các người bị loại trừ trông thấy bênh ung thư xã hội gia tăng là sự thối nát đâm rễ sâu trong nhiều nuớc – nơi các chính quyền, trong giới doanh thương và trong các cơ cấu – bất cứ ý thức hệ chính trị nào của giới lãnh đạo” (Evangelii gaudium, 60).

Trong các trường hợp khác, sự dửng dưng biểu lộ ra như là việc thiếu chú ý đối với thực tại chung quanh, đặc biệt đối với thực tại ở xa. Có vài người ưa thích không tìm kiếm, không hỏi thăm tin tức, và sống sự phong phú và thoải mái của họ, điếc trước tiếng kêu than của nhân loại khổ đau. Hầu như không nhận ra điều đó, chúng ta đã trở nên không có khả năng cảm thương những người khác, đối với các thảm cảnh của họ, chúng ta không chú ý lo lắng cho họ, làm như thể điều xảy ra cho họ là một trách nhiệm xa lạ đối với chúng ta, không thuộc bổn phận của chúng ta (Ibid. 54). “Khi chúng ta khỏe mạnh và cảm thấy thoải mái, chắc chắn chúng ta quên những người khác (đó là điều mà Thiên Chúa Cha không bao giờ làm), chúng ta không chú ý tới các vấn đề của họ, các khổ đau, và các bất công họ phải chịu… Khi đó con tim của chúng ta rơi vào sự dửng dưng: trong khi tôi tương đối khoẻ mạnh và thoải mái, tôi quên những người không khỏe mạnh” (Sứ điệp mùa chay 2015).

Khi sống trong một căn nhà chung, chúng ta không thể không tự hỏi về tình trạng sức khỏe của nó, như tôi đã làm trong Thông điệp Laudato si’. Sự ô nhiễm các nguồn nước  và không khí, việc khai thác rừng già không phân biệt, việc tàn phá môi sinh thường là hậu quả của sự dửng dưng của con người đối với những người khác, bởi vì tất cả có tương quan với nhau. Cũng như thái độ hành xử của con người đối với thú vật ảnh hưởng trên các tương quan của nó với người khác (Laudato si’, 92), để không nói đến việc ai cho phép mình làm tại nơi khác điều họ không dám làm trong nhà họ (Ibid. 51).

Trong các trường hợp này và các trường hợp khác nữa, sự dửng dưng tạo ra thái độ khép kín và không dấn thân, và như thế nó kết thúc bằng việc góp phần vào sự vắng bóng hoà bình với Thiên Chúa, vói tha nhân và với thụ tạo.

Hoà bình bị đe dọa bởi sự dửng dưng toàn cầu hóa

4.  Sự thờ ơ với Thiên Chúa vượt quá phạm vi nội tâm và tinh thần của bản vị riêng rẽ, và xâm lấn phạm vi công cộng xã hội. Như ĐTC Biển Đức XVI đã khẳng định, “có một nối kết mật thiết  giữa việc vinh danh Thiên Chúa và hoà bình của con người trên trái đất” (Diễn văn trrước ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh 7-1-2013). Thật thế, “không có sự rộng mở siêu việt, con người dễ dàng trở thành mồi cho chủ thuyết duy tương đối và rồi sẽ khó mà hành động theo công lý và dấn thân cho hòa bình” (Ibidem.). Việc lãng quên và khước từ Thiên Chúa dẫn đưa con người tới chỗ không thừa nhận luật lệ cao hơn mình nữa, và chỉ lấy mình làm quy tắc, và chúng đã   tạo ra sự tàn ác và bạo lực vô chừng mực (Biển Đức XVI, Phát biểu ngày liên tôn cầu nguyện cho công lý và hoà bình tại Assisi 27-10-2011).

Trên bình diện ca nhân và cộng đoàn sự thờ ơ đối với tha nhân, con đẻ của sự dửng dưng đối với Thiên Chúa, mang dáng vẻ của sự bất động và không dấn thân, chúng dưỡng nuôi việc kéo dài các tình trạng bất công và mất quân bình xã hội trầm trọng. Tới lượt mình chúng có thể dẫn đưa tới các xung đột,  hay trong mọi trường hợp, làm nảy sinh ra một bầu không khí bất mãn có nguy cơ, mau hay chậm, bùng nổ thành bạo lực và bất an.

Trong nghĩa này sự dửng dưng và không dấn thân như hậu quả tạo thành một thiếu sót trầm trọng đối với bổn phận mà mỗi người phải đóng góp trong mức độ các khả năng của mình và của vai trò mình có trong xã hội, cho công ích, đặc biệt là cho nền hoà bình, là một trong các thiện ích  quý báu nhất của nhân loại (Evangelii gaudium, 217-237).

Thế rồi, khi nó đụng chạm tới lãnh vực cơ cấu, thì sự dửng dưng đối với tha nhân, phẩm giá, các quyền nền tảng và sự tự do của họ, cộng với một nền văn hóa ghi đậm dấu lợi nhuận và chủ trương hưởng thụ, tạo thuận tiện và đôi khi biện minh cho các hành động và chính sách rốt cuộc tạo ra các đe dọa đối với hoà bình. Thái độ thờ ơ như thế cũng có thể đi đến chỗ biện minh cho vài chính sách kinh tế đáng phiền trách, làm sinh sôi nay nở các bất công, chia rẽ và bạo lực, nhằm đạt sự phong phú riêng tử hay của quốc gia. Thật vậy, không hiếm các dự án kinh tế và chính trị của con người nhắm mục đích chinh  phục hay duy trì quyền bính và giầu sang, cả khi có chà đạp các quyền lợi và các đòi buộc nền tảng của người khác đi nữa. Khi các dân tộc thấy các quyền lợi sơ đẳng của họ như quyền có thực phẩm, nước uống, được săn sóc sức khỏe, hay có công ăn việc làm, bị khước từ, thì họ bị cám dỗ chiến hữu chúng bằng bạo lực (GS 59).

Ngoài ra, sự thờ ơ đối với môi sinh thiên nhiên, bằng cách tạo thuận tiện cho việc tàn phá rừng già, gây ô nhiễm và tạo ra các tai ương thiên nhiên, khiến cho toàn các cộng đoàn bị nhổ khỏi gốc rễ môi sinh của họ,  cách cuỡng bách họ sống cảnh tạm bợ và bất ổn, tạo ra các nghèo túng mới, các tình trạng bất công mới bởi các hậu qủa tàn hại liên quan tới an ninh và hoà bình xã hội. Có biết bao nhiêu chiến tranh đã xảy ra và sẽ có biết bao nhiêu chiến cuộc khác sẽ bùng nổ vì thiếu các tài nguyên hay để đáp ứng đòi hỏi tài nguyên thiên nhiên vô độ?

Từ sự dửng dưng tới lòng thương xót: việc hoán cải con tim

5. Cách đây một năm trong sứ điệp cho Ngày Hoà Bình Thế Giới “Không còn là nô lệ nữa nhưng là anh em”, tôi đã nhắc tới hình ảnh kinh thánh đầu tiên của tình huynh đệ nhân loại, đó là hình ảnh của Cain và Abel (x. St 4,1-6) để lôi kéo sự chú ý trên sự kiện tình huynh đệ đầu tiên đã bị phản bội như thế nào. Cain và Abel là anh em. Cả hai đều phát xuất từ cùng một cung lòng, bình đẳng trong phẩm giá và được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa; nhưng tình anh em của họ bị bẻ gẫy. “Cain không những không chịu được em mình là Abel, mà còn giết em vì  ghen tương nữa” (Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 2015, 2). Khi đó việc giết em trở thành hình thức của sự phản bội, và việc khưóc từ tình huynh đệ của Abel từ phiá Cain là sự đổ bể đầu tiên trong các tương quan gia đình của tình huynh đệ, liên đới và tôn trọng lẫn nhau.

Khi đó, Thiên Chúa can thiệp để mời gọi tinh thần trách nhiệm của con người đối với người đồng loại, y như Ngài đã làm khi Ađam và Evà, ông bà nguyên tổ. đã bẻ gẫy sự hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. “Khi đó Chúa nói với Cain: “Abel em ngươi đâu rồi?”. Cain thưa: “Con không biết. Con là người canh giữ em con hay sao?”. Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất tiếng máu của em ngươi đang kêu tới Ta” (St 4,9-10).

Cain nói rằng mình không biết điều gì đã xảy ra cho em mình, rằng mình không phải là người canh giữ em. Anh ta không cảm thấy có trách nhiệm đối với sự sống của em, đối với số phận của em. Anh không cảm thấy bị liên lụy. Anh dửng dưng đối vói em mình, mặc dù họ được nối kết với nhau bởi nguồn gốc chung. Thật buồn biết bao! Thật là thảm cảnh huynh đệ, gia đình và nhân loại! Đó đã là biểu lộ đầu tiên của sự thờ ơ giữa anh em với nhau. Thiên Chúa, trái lại, không thờ ơ: máu của Abel có gia trị lớn dưới mắt Ngài và Ngài đòi Cain phải trả lẽ. Như thế Thiên Chúa tự vén mở ngay từ đầu như là Đấng chú ý tới số phận của con người. Sau này khi con cái Israel sống kiếp nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa can thiệp và Ngài đã nghe tiếng họ kêu than vì các giám thị; “Thật thế, Ta biết các đau khổ của ngươi. Ta đã xuống để giải phóng ngươi khỏi bàn tay của Ai Cập và làm cho ngươi ra khỏi xứ sở ấy để đi về một xứ sở xinh đẹp và rộng rãi, về một xứ sở nơi chảy sữa và mật ong” (Xh 3,7-8). Thật là quan trọng ghi nhận các động từ miêu tả sự can thiệp của Thiên Chúa: Ngài quan sát, lắng nghe, hiểu biết, xuống, giải thoát. Thiên Chúa không dửng dưng. Ngài chú ý và hành động.

Cũng thế, trong Đức Giêsu Con Ngài, Thiên Chúa đã xuống giữa loài người, đã nhập thể và tỏ ra liên đới với nhân loại: “trưởng tử giữa nhiều em” (Rm 8,29). Ngài đã không hài lòng dậy dỗ dân chúng, mà cũng lo lắng cho họ nữa, đặc biệt khi trông thấy họ đói (x. Mc 6,34-44) hay không có công ăn việc làm (x. Mt 20,3). Cái nhìn của Ngài không chỉ hướng tới con người, mà cũng hướng tới cá biển, chim trời, cây cối lớn nhỏ; Ngài ôm trọn toàn thụ tạo trong vòng tay. Ngài trông thấy, chắc chắn rồi, nhưng không chỉ hạn chế vào việc này, bởi vì Ngài đụng chạm tới con người, nói chuyện với họ, hoạt động cho họ và làm ích cho người túng thiếu. Nhưng không chỉ như thế, Ngài còn để cho mình xúc động và khóc nữa (x. Ga 11,33-44). Và ngài hành động để chấm dứt sự khổ đau, buồn sầu, bần cùng và cái chết.

Chúa Giêsu dậy chúng ta thương xót như Thiên Chúa Cha (x. Lc 6,36). Trong dụ ngôn người Samaritano nhân hậu (x. Lc 10,29-37) Ngài tố cáo việc bỏ sót cứu giúp trước sự cấp thiết của tha nhân: “ông thấy và đi qua” (x. Lc 10,31.32). Đồng thời, qua thí dụ này, Chúa mời gọi các thính giả của Ngài, đặc biệt là các môn đệ của Ngài, học dừng lại trước các khổ đau của thế giới này để làm vơi nhẹ chúng, dừng lại trước các vết thương của người khác để chữa trị chúng, với các phương tiện họ có, bắt đầu từ thời gian, mặc dù có biết bao bận rộn. Thật vậy, sự dửng dưng thường tìm cớ: trong việc tuân giữ các điều luật nghi lễ, trong hàng đống việc phải làm, trong các đối kháng khiến cho chúng ta xa nhau, trong các thành kiến đủ loại ngăn cản chúng ta đến gần nhau.

Lòng thương xót là con tim của Thiên Chúa. Vì thế nó cũng phải là con tim của tất cả những ai tự nhận mình là chi thể của đại gia đình duy nhất của các con cái Ngài; một con tim dấn thân mạnh mẽ đập nhịp phẩm giá con người tại khắp mọi nơi phản ánh gương mặt của Thiên Chúa nơi các thụ tạo của Ngài.  Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: tình yêu đối với tha nhân – khách ngoại kiều, người đau yếu, các tù nhân, người không nhà, cho tới cả kẻ thù, là thước đo Thiên Chúa dùng để phán xử  các hành động của chúng ta. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào đó. Thật không đáng ngạc nhiên, khi thánh Phaolô tông đồ mời gọi các kitô hữu Roma vui với người vui, khóc với người khóc (x. Rm 12,15) hay khuyên tín hữu Côrintô tổ chức các cuộc lạc quyên như dấu chỉ tình liên đới với các chi thể khổ đau của Giáo Hội (x. 1 Cr 16,2-3). Còn thánh Gioan thì viết: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?”(1 Ga 3,17; x. Gc 2,15-16).

Đo đó tại sao lại là điều “định đoạt đối với Giáo Hội và tính cách đáng tin cậy của lời loan báo, việc Giáo Hội sống và đích thân làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và các cử chỉ của Giáo Hội phải thông truyền lòng thương xót để vào thấu trái tim con người và  khiêu khích họ tìm ra con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Sự thật đầu tiên của Giáo Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội là tôi tớ và trung gian của tình yêu ấy nơi con người, tình yêu đi tới chỗ tha thứ và trao ban chính mình. Vì thế, nơi đâu có Giáo Hội hiện diện, thì ở đó lòng thương xót của Thiên Chúa Cha phải hiển nhiên. Nghĩa là trong các giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và phong trào của chúng ta, bất cứ nơi nào có các kitô hữu, thì bất cứ ai cũng phải tìm được một ốc đảo của lòng thương xót (Misericordiae vulnus, 12).

Như vậy, cả chúng ta nữa cũng được mời gọi biến tình yêu, lòng trắc ẩn, thương xót và tình liên đới trở thành chương trình sống, trở thành một kiểu hành xử  trong các tương quan với nhau (Ibid., 13). Điều này đòi hỏi việc hoán cải con tim: nghĩa là ơn của Thiên Chúa biến đổi con tim bằng đá của chúng ta thành con tim bằng thịt (x. Ed 36,26), có khả năng rộng mở cho tha nhân với tình liên đới đích thật. Thật thế, tình liên đới là điều nhiều hơn một “tình cảm của lòng trắc ẩn mơ hồ hay một mềm yếu  hời hợt đối với các khổ đau của biết bao người gần xa (Sollecitudo rei socialis, 38). Tình liên đới là “sự  quyết tâm vững vàng và kiên trì dấn thần cho công ích: hay cho hạnh phúc của tất cả mọi người và từng người, bởi vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi người” (Ibid.,), bởi vì sự trắc ẩn nảy sinh từ tình huynh đệ.

Được hiểu như thế, tình liên đới là thái độ luân lý đạo đức và xã hội, đáp trả lại một cách tốt nhất ý thức của lương tâm về các vết thương của thời đại chúng ta và về sự tuỳ thuộc lẫn nhau luôn luôn hiện hữu, đặc biệt trong một thế giới  toàn cầu hóa, giữa cuộc sống của từng người và của cộng đoàn trong một nơi xác định và cuộc sống của các người nam nữ khác trên thế giới (Ibid.,).

Thăng tiến một nền văn hóa liên đới và thuơng xót để chiến thắng sự dửng dưng

6. Tình liên đới như nhân đức luân lý và thái độ xã hội, hoa trái của sự hoán cải cá nhân, đòi buộc một dấn thân từ phía đông đảo các chủ thể có trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục và đào tạo.

Tư tưởng đầu tiên của tôi hướng tới các gia đình được mời gọi cho một sứ mệnh giáo dục đầu tiên và không thể khước từ được. Các gia đình là nơi chốn đầu tiên, trong đó người ta sống các giá trị của tình yêu thương, tình huynh đệ, việc chung sống, chia sẻ, sự chú ý và săn sóc người khác. Các gia đình cũng là môi trường đặc tuyển cho việc thông truyền đức tin, bắt đầu từ các cử chỉ đạo đức đơn sơ nhất, mà các bà mẹ dậy cho con cái (Ibid.,).

Liên quan tới các nhà giáo dục và đào tạo, trong trường học hay các trung tâm quy tụ khác của trẻ em và người trẻ, có bổn phận giáo dục chúng, họ được mời gọi ý thức rằng trách nhiệm của họ liên quan tới các chiều kích luân lý, tinh thần và xã hội của con người. Các giá trị của sự tự do, lòng tôn trọng lẫn nhau và tình liên đới có thể được thông truyền ngay từ tuổi còn thơ. Khi hướng tới các vị hữu trách của các cơ cấu có nhiệm vụ giáo dục, Đức Biển Đức XVI đã khẳng định rằng: “Mỗi một môi trường giáo dục có thể là nơi của sự rộng mở cho siêu việt và tha nhân: nơi của đối thoại, của sức mạnh nối kết và lắng nghe, trong đó người trẻ cảm thấy được đánh giá trong các tiềm năng và phong phú nội tâm, và học qúy chuộng các anh chị em khác. Ước chi nó có thể dậy cho biết nếm hưởng niềm vui nảy sinh từ việc từng ngày sống tình bác ái và trắc ẩn đối với người lân cận, và từ việc tham dự tích cực vào việc xây dựng một xã hội nhân bản và huynh đệ hơn” (Sứ điệp cho Ngày Hoà Bình Thế Giới 2012, 2).

Cả các người hoạt động văn hóa và truyền thông xã hội cũng có trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong các xã hội ngày nay, trong đó việc sử dụng các phương tiện thông tin và truyền thông ngày càng phổ biến. Trước hết họ có nhiệm vụ phục vụ sự thật chứ không phải phục vụ các lợi lộc riêng tư. Thật thế, các phương tiện truyền thông “không chỉ thông tin, mà cũng đào tạo tinh thần các đối tượng của chúng nữa, và vì vậy có thể góp phần đáng kể vào việc giáo dục người trẻ. Thật là quan trọng chú ý tới tương quan rất chặt chẽ giữa giáo dục và truyền thông: thật thế, giáo dục đến qua truyền thông, nó ảnh hưởng một cách tích cực hay tiêu cực trên việc đào tạo con người” (Ibid.,). Các nhân viên văn hóa và truyền thông cũng phải canh chừng để kiểu tiếp nhận và phổ biến các tin tức của họ luôn được hợp pháp trên bình diện pháp lý và luân lý.

Hoà bình: hoa trái của một nền văn hoá liên đới, thương xót và trắc ẩn

7. Ý thức được sự đe dọa của một việc toàn cầu hóa sự dửng dưng, chúng ta không thể không thừa nhận rằng, trong bối cảnh như miêu tả trên đây, cũng có nhiều sáng kiến và hoạt động tích cực làm chứng cho sự trắc ẩn, lòng thương xót và tình liên đới mà con người có khả năng làm được. Tôi muốn nhắc tới vài thí dụ dấn thân đáng ca ngợi chứng minh cho thấy làm sao mỗi người có thể chiến thắng sự thờ ơ, khi lựa chọn không rời cái nhìn khỏi người lân cận của mình, và chúng có thể trở thành các thực hành tốt trên con đường tiến tới một xã hội nhân bản hơn.

Có biết bao nhiêu tổ chức phi chính quyền và các nhóm bác ái, bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội, mà các thành viên, trong các dịp dịch tễ, thiên tai hay xung khắc vũ trang, đương đầu với các mệt nhọc và nguy hiểm để săn sóc những người bị thương và các bệnh nhân, và để chôn cất các người đã chết. Bên cạnh họ tôi muối nhắc đến những người và những hiệp hội cứu giúp các người di cư băng qua các sa mạc và biển cả để đi tìm các điều kiện sống tốt đẹp hơn. Các hoạt động này là các công tác của lòng thương xót thể lý và tinh thần, dựa trên đó chúng ta sẽ bị phán xử vào cuối cuộc sống của mình.

Tôi cũng nghĩ tới các nhà báo và các chuyên viên chụp hình thông tin tức cho dư luận công cộng liên quan tới các tình hình khó khăn gọi hỏi lương tâm, và tất cả những người dấn thân bảo vệ các quyền con người, bảo vệ các phụ nữ và trẻ em, và tất cả những ai sống trong các điều kiện dễ bị tổn thương hơn. Giữa những người đó cũng có các linh mục và thừa sai, như là các mục tử nhân lành, các vị ở lại bên cạnh tín hữu và nâng đỡ họ mặc cho các hiểm nguy và khó khăn, đặc biệt trong các cuộc xung đột vũ trang.

Thế rồi còn có biết bao nhiêu gia đình dấn thân một cách cụ thể để giáo dục con cái họ “đi ngược dòng”, sống các giá trị của tình liên đới, sự cảm thương và tình huynh đệ, với giá của biết bao nhiêu hy sinh, tuy phải sống giữa biết bao khó khăn về công ăn việc làm và xã hội. Biết bao nhiêu gia đình rộng mở con tim và cửa nhà cho nhũng ai sống trong cảnh thiếu thốn, như các người tỵ nạn và di cư! Tôi muốn cám ơn một cách đặc biệt tất cả các người, các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu, các đan viện và các trung tâm hành hương đã mau mắn đáp trả lời tôi kêu gọi tiếp đón một gia đình tỵ nạn (Kinh Truyền Tin 6-9-2015).

Sau cùng, tôi muốn nhắc tới các người trẻ hiệp nhất với nhau để thực hiện các dự án liên đới, và tất cả những người mở rộng đôi tay trợ giúp người bên cạnh thiếu thốn: trong các thành phố, trong quê hương mình hay trong các vùng miền khác trên thế giới. Tôi muốn cám ơn và khích lệ tất cả những ai dấn thân trong các hành động loại này, cả khi họ không được quảng cáo: sự đói khát công lý của họ sẽ được no thoả, lòng thương xót của họ sẽ khiến cho họ tìm được xót thương và như là các tác nhân hoà bình, họ sẽ được gọi là con cái của Thiên Chúa (x. Mt 5,6-9).

Hoà bình trong dấu chỉ của Năm Thánh Lòng Thương Xót

8. Trong tinh thần của Năm Thánh  Lòng Thương Xót, mỗi người được mời gọi nhận ra sự thờ ơ được biểu lộ trong cuộc sống của mình như thế nào, và lựa chọn một dấn thân cụ thể để góp phần cải tiến thực tại trong đó mình đang sống, bắt đầu từ gia đình mình, từ xóm giềng của mình hay từ môi trường làm việc.

Cả các Quốc gia cũng được mời gọi có các cử chỉ cụ thể, có các hành động can đảm đối với các người giòn mỏng nhất của xã hội, như các tù nhân, người di cư, người thất nghiệp và người đau yếu.

Liên quan tới các tù nhân, trong nhiều trường hợp xem ra cấp thiết áp dụng các biện pháp cụ thể giúp cải tiến các điều kiện sống của họ trong các nhà tù, bằng cách cho phép chú ý đặc biệt tới những người bị mất tự do trong khi chờ đợi được xét xử, lưu tâm tới mục đích tái giáo dục của hình phạt, và lượng định khả thể đưa vào trong luật pháp quốc gia các hình phạt thay thế cho việc giam giữ trong nhà tù. Trong bối cảnh ấy tôi ước ao canh tân lời kêu gọi các giới chức chính quyền quốc gia huỷ bỏ án tử hình, tại nơi đâu nó còn hữu hiệu và duyệt xét lại khả thể của một cuộc ân xá.

Liên quan tới các người di cư, tôi muốn đưa ra một lời mời gọi suy tư trở lại các luật lệ về di cư, để chúng được linh hoạt bởi ý chí tiếp đón, trong sự tôn trọng hỗ tương các nhiệm vụ và  trách nhiệm, và có thể tạo dễ dàng cho việc hội nhập của các người di cư. Trong viễn tượng này phải có một sự chú ý đặc biệt đối với các điều kiện di trú của người di cư, bằng cách nhớ rằng sự lén lút có nguy cơ lôi kéo họ tới tội phạm.

Ngoài ra tôi cũng ước mong trong Năm Thánh này đưa ra một lời kêu gọi cấp bách giới hữu trách các quốc gia có các cử chỉ cụ thể đối với các anh chị em khổ đau vì thiếu công ăn việc làm, đất đai và nhà ở. Tôi nghĩ tới việc tạo ra các chỗ làm việc xứng đáng để chống lại tệ nạn xã hội của sự thất nghiệp, đả thương  nhiều gia đình và người trẻ và có các hậu quả rất nghiêm trọng liên quan tới điều kiện sống của toàn xã hội. Sự thiếu công ăn việc làm tấn kích một cách nặng nề ý thức về phẩm giá và niềm hy vọng, và chỉ có thể  được bù trừ phần nào bởi các liên đới cần thiết dành cho nhũng người thất nghiệp và gia đình họ. Một sự chú ý đặc biệt cần phải dành cho phụ nữ – rất tiếc còn bị kỳ thị trong lãnh vực công ăn việc làm – và cho vài tầng lớp công nhân, có các điều kiện bấp bênh hay nguy hiểm và có đồng lương không tương xứng với tầm quan trọng sứ mệnh xã hội của họ.

Sau cùng tôi muốn mời gọi có các hoạt động hữu hiệu giúp cải tiến các điều kiện sống của các bệnh nhân, bằng cách bảo đảm cho tất cả được săn sóc y khoa và có thuốc men cần thiết cho sự sống, bao gồm cả việc được săn sóc tại gia.

Khi hướng cái nhìn vượt ngoài các ranh giới của mình, giới hữu trách các quốc gia cũng được mời gọi canh tân các tương quan  với các dân tộc khác, bằng cách cho phép tất cả mọi người thực sự tham gia và bao gồm vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế, hầu thể hiện tình huynh đệ cả bên trong gia đình quốc gia nữa.

Trong viễn tượng này, tôi ước mong đưa ra một lời kêu gọi gồm ba điều: đừng lôi cuốn các dân tộc khác vào các cuộc xung đột hay các chiến tranh không chỉ tàn phá các giầu có vật chất, văn hóa và xã hội của họ, mà cũng – trong thời gian lâu dài – tàn phá sự toàn vẹn luân lý và tinh thần của họ nữa; xóa bỏ hay điề hành có thể chịu đựng nổi nợ nần quốc tế của các nước nghèo hơn; áp dụng các đường lối chính trị cộng tác, tôn trọng các giá trị của các dân tộc địa phương thay vì gập mình trước sự độc tài của vài ý thức hệ, và trong mọi trường hợp các đường lối chính trị ấy không được gây tổn thương cho quyền nền tảng và bất khả nhượng của các trẻ em sắp sinh vào cuộc sống.

Tôi xin phó thác các suy tư này cùng với các lời chúc mừng năm mới tốt đẹp cho năm mới cho lời bầu cử của Mẹ Maria Rất Thánh Mẹ mau mắn lo cho các  nhu cầu của nhân loại, để Mẹ xin được từ Chúa Giêsu Con Mẹ, Hoàng Tử Hoà Bình, việc khấng nhận các lời khẩn nài của chúng ta và phước lành của sự dấn thân thường ngày của chúng ta cho một thế giới huynh đệ và liên đới hơn.

Từ Vatican mùng 8 tháng 12 năm 2015 Lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria. Mở Năm Thánh Ngoại Thường Lòng Thương Xót.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Một gia đình yêu mến Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thành phố

Một gia đình yêu mến Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thành phố

Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thánh phố

Trong cuộc sống kitô, các tương quan gia đình được biến đổi và nới rộng, như là cha mẹ thiêng liêng và anh chị em với nhau, và đặc biệt đối với những người cần trợ giúp, chúng ta đem tình yêu của Thiên Chúa Cha tới cho thế giới. Như thế chúng ta trở thành một phước lành, một dấu chỉ của hy vọng cho việc canh tân mọi tương quan xã hội. Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm cả một thành phố. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp của các gia đình.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20,000 tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư mùng 2 tháng 9 hôm qua.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài đia đình và việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói: trong đoạn cuối của lộ trình giáo lý chúng ta duyệt xét kiểu gia đình sống trách nhiệm thông truyền đức tin bên trong và bên ngoài như thế nào. Trước tiên là vài kiểu diễn tả của Tin Mừng xem ra chống lại các dây liên lạc của gia đình và việc theo Chúa Giêsu. Chẳng hạn  các lời mạnh mẽ mà tất cả chúng ta đều biết và đã nghe: “ Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. (Mt 10,37-38). ĐTC giải thích lời Chúa nói như sau:

Dĩ nhiên với điều này Chúa Giêsu không muốn xóa bỏ điều răn thứ tư, là điều răn lớn nhất đối với con người. Ba điều răn đầu là trong tương quan với Thiên Chúa, điều răn thứ tư này liên quan tới con người. Và chúng ta cũng không thể nghĩ rằng, sau khi đã làm phép lạ đầu tiên cho đôi tân hôn làng Cana, sau khi đã thánh hiến mối dây hôn nhân giữa một nguời nam và một ngưòi nữ, sau khi đã trả lại cho cuộc sống gia đình các con trai con gái, Chúa lại đòi hỏi chúng ta phải vô cảm đối với các mối dây liên lạc ấy! Đây không phải là lời giải thích. Trái lại, khi Chúa Giêsu khẳng định quyền tối thượng của niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài không tìm ra so sánh nào khác ý nghĩa hơn các trìu mến gia đình. Và đàng khác, bên trong kinh nghiệm lòng tin và tình yêu của Thiên Chúa chính các liên hệ gia đình ấy được biến đổi, được tràn đầy một ý nghĩa lớn hơn và có khả năng vượt qua chính mình, để tạo dựng một chức làm cha làm mẹ rộng rãi hơn và tiếp nhận  như anh chị em những người sống ngoài lề mọi thứ tương quan.  Một ngày kia khi có người nói có mẹ và anh em Thầy tìm Thầy Chúa  Giêsu chỉ các môn đệ  Người và nói: “Đây là mẹ và là anh em tôi! Bởi vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh em, là chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3,34.35),

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sư khôn ngoan của các trìu mến không mua được, cũng không bán được, chúng là của hồi môn tốt nhất của thiên tài gia đình. Chính trong gia đình chúng ta học lớn lên trong bầu khí khôn ngoan của các trìu mến. Văn phạm của chúng người ta học được ở đó, nếu không sẽ khó mà học được nó. Đó chính là ngôn ngữ qua đó Thiên  Chúa làm cho tất cả mọi người hiểu mình.

Lời mời gọi đặt để các tưong quan gia đình trong lãnh vực vâng phục của đức tin và giao ước với Chúa không hạ nhục chúng, trái lại, che chở chúng và cởi trói chúng khỏi sự ích kỷ, giữ gìn chúng khỏi suy đồi, cứu chúng an toàn cho cuộc sống không chết. Việc luân lưu của một kiểu gia đình trong các tương quan nhân bản là một phước lành đối với các dân tộc: nó đem lại niềm hy vọng trên trái đất. Khi các yêu thương gia đình để cho mình trở về với chứng tá của Tin Mừng, chúng sẽ có khả năng làm những điều không thể tưởng tuợng nổi, khiến cho chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay các công trình Thiên Chúa, các công trình mà Thiên Chúa hoàn thành trong lịch sử, như các công trình Chúa Giêsu đã làm cho các người nam nữ, trẻ em mà Ngài đã gặp. Chỉ một nụ cười giật được một cách lạ lùng từ sự thất vọng của một trẻ em bị bỏ rơi, làm cho nó bắt đầu sống trở lại, giải thích hành động của Thiên Chúa trong thế giói hơn là hàng ngàn khảo luận thần học. Chỉ một người nam và một người nữ, có khả năng liều mình và hy sinh cho một đứa con của người khác, và không phải chỉ là cho con riêng mình, giải thích cho chúng ta biết các điều của tình yêu hơn nhiều nhà khoa học không hiểu chúng nữa. Và ở đâu có các yêu thương gia đình này, ở đó nảy sinh ra các cử chỉ này từ con tim, và chúng hùng hồn hơn các lời nói. Cử chỉ của tình yêu… Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Gia đình đáp trả lại lời kêu mời của Thiên Chúa trả lại việc cai quản thế giới cho giao ước của người nam và người nữ với Thiên Chúa. Anh chị em hãy nghĩ tới sự phát triển này của chứng tá ngày nay. ĐTC giải thích tư tưởng của ngài như sau:

Chúng ta hãy tưởng tượng rằng bánh lái  của lịch sử, của xã hội, của kinh tế, của chính trị, sau cùng được trao cho giao ước của người nam và người nữ, để họ cai quản nó với cái nhìn hướng tới thế hệ tưong lai. Các đề tài trái đất  và nhà ở, kinh tế và công ăn việc làm sẽ chơi một điệu nhạc rất khác!

Nếu bắt đầu từ Giáo Hội chúng ta trao ban trở lại sự chủ động cho gia đình lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa, chúng tra sẽ trở thành rượu ngon của tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ làm dậy men của Thiên Chúa!

Thật vậy, giao ưóc của gia đình với Thiên Chúa ngày nay được mời gọi chống lại sự sa mạc hóa của thành thị tân tiến. Nhưng các thành phố của chúng ta đã trở thành sa mạc vì thiếu tình yêu, vì thiếu nụ cuời. Biết bao nhiêu giải trí, biết bao nhiêu điều làm mất thì giờ, để làm cho cười, nhưng thiếu tình yêu. Nụ cười của một gia đình có khả năng chiến thắng sự sa mạc hóa các thành thị của chúng ta. Và đây là chiến thắng của tình yêu gia đình. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp này của các gia đình. Dự án cái tháp Babel xây dựng các nhà chọc trời không có sự sống. Thần Khí của Thiên  Chúa trái lại, làm nở hoa sa mạc (x, Is 32,15) Chúng ta phải ra khỏi các tháp ngà và các căn phòng bọc sắt của những người ưu  tú, để giao du với các căn nhà và các khoảng trống rộng mở cho các đám đông, rộng mở cho tình yêu của gia đình.

Sự hiệp thông của các đặc sủng – các đặc sủng được ban cho Bí tích hôn nhân và các đặc sủng được ban cho sự thánh hiến vì Nước  Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến tới trên con đường này, chúng ta đừng mất hy vọng. Nơi đâu có một gia đình sống tình yêu thương, gia đình đó có khả năng sưởi ấm con tim của tất cả một thành phố với chứng tá tình yêu của nó.

Xin anh chị em hãy cầu nguyện  cho tôi, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để có khả năng nhận biết và chịu đựng được các viếng thăm của Thiên Chúa. Thần Khí sẽ đem tới các xáo trộn tươi vui trong các gia đình kitô và thành phố của con người sẽ ra khỏi sự trầm cảm của nó!

ĐTC đã chào các đoàn hành hương , đặc biệt đoàn hành hương đến từ Senegal có ĐC Paul Mamba GM Ziguinchor tháp tùng,  cũng như đoàn hành hương của Tổng Giáo Phận Libreville. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước Nigeria, Nhật Bản, Malaysia, cũng như đoàn hành hương giáo phận Innsbruck do ĐC Manfred Scheuer hướng dẫn hành hương Roma nhân kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các đại chủng sinh tham dự trại hè về nâng đỡ kinh tế cho Giáo Hội, các trẻ em mới lãnh phép Thêm Sức giáo phận Lucca do ĐC Castellani hướng dẫn.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gregorio Cả. Ngài cầu mong sự cao cả luân lý của thánh nhân giúp các bạn trẻ can đảm lựa chọn sự thiện; sự mạnh mẽ của thánh nhân nâng đỡ các người đau yếu vác thánh giá kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Kitô;  và sự gắn bó với Giáo Hội của thánh nhân trợ giúp các đôi tân hôn hiệp nhất trong tình yêu gia đình.

Buổi gặp gỡ đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Bánh trường sinh

Bánh trường sinh

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.

Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.

Cũng thế, Tần ThủyHoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.

Thưa anh chị em,

Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.

Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.

Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.

Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.

Anh chị em thân mến,

Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?

Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?

Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chúa Nhật.

Hành trang người môn đệ

Hành trang người môn đệ

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?

2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?

3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?

4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức tin trưởng thành

Đức tin trưởng thành

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.

Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.

Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.

Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.

“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).

Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.

Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.

Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.

Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!

Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.

Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.

Cuộc tĩnh tâm kỳ 3 của các Linh Mục thế giới

Cuộc tĩnh tâm kỳ 3 của các Linh Mục thế giới

ROMA. ĐTC Phanxicô sẽ trình bày một bài suy niệm trong cuộc tĩnh tâm lần thứ 3 cho các LM thế giới, tổ chức tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano ở Roma từ ngày mùng 10 đến 14-6 tới đây.

Cuộc tĩnh tâm do Phong trào canh tân trong Thánh Linh (ICCRS) và Huynh đoàn Công Giáo (Catholic Fraternity) tổ chức, và có chủ đề là: ”Được kêu gọi nên thánh để tái truyền giảng Tin Mừng. Tập hợp, hòa giải, biến đổi, củng cố, sai đi .. thi hành công tác tái truyền giảng Tin Mừng”. Tư tưởng chỉ đạo cho cuộc tĩnh tâm này là Tông huấn Niềm vui Phúc Âm (Evangelii Gaudium) của ĐTC Phanxicô.

Ngài sẽ trình bày bài suy niệm vào ngày 12-6 về đề tài ”Được biến đổi nhờ tình yêu và cho tình yêu”.

Tham dự cuộc tĩnh tâm có 900 vị gồm các HY, GM, LM và Phó tế độc thân đến từ 90 nước 5 châu: trong số này có 166 LM đến từ 25 nước Phi châu, 60 vị đến từ 12 nước Á châu, phần còn lại đến từ các nước Âu, Mỹ và cả Úc châu.

Theo chương trình, chiều ngày thứ tư ngày mai, 10-6, có chủ đề là ”tập hợp”. ĐHY Stanislaw Rylko, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân sẽ chủ sự thánh lễ khai mạc. Bài suy niệm sẽ do cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng, nói về ”Được kêu gọi nên thánh để tái truyền giảng Tin Mừng”.

– Ngày sau đó, thứ năm 11-6, có chủ đề là ”Được hòa giải”. ĐHY Peter Turkson Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và hòa bình, sẽ hướng dẫn cuộc suy niệm về đề tài ”Được hòa giải với Thiên Chúa”. Sau giờ chầu Thánh Thể, ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế.

Ban chiều cùng ngày, cha Livio Tacchini sẽ suy niềm về chủ đề ”Cái giá của sự hòa giải”. Tiếp đến là phần nghi thức hòa giải do cha Daniel Ange hướng dẫn.

– Ngày 12-6, lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, có chủ đề là ”Được biến đổi”. Ban sáng cha Jonas Abib sẽ trình bày bài suy niệm “Hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi bạn”. Ngay sau đó Nữ tu Briege McKenna và cha Kevin Scallon sẽ hướng dẫn giờ chầu Thánh Thể và kinh nguyện chữa lành.

Ban chiều, các tham dự viên sẽ gặp gỡ ĐTC và ngài trình bày bài suy tư về chủ đề ”Được tình yêu biến đổi và cho tình yêu”. Và sau cuộc trao đổi với các LM, ngài sẽ chủ sự thánh lễ và ủy thác sứ vụ thừa sai cho các tham dự viên.

– Ngày thứ bẩy 13-6, các tham dự viên sẽ suy tư về đề tài ”Được củng cố”. Cha Cantalamessa sẽ trình bày chủ đề ”Được củng cố để trở nên môn đệ thừa sai trọn vẹn hơn”. Sau đó có thánh lễ do ĐHY Beniamino Stella, Tổng trưởng Bộ giáo sĩ chủ sự.

Ban chiều có bài suy niệm về đề tài ”Sống chức linh mục trong quyền năng của Chúa Thánh Linh” do cha Joseph Malagreca trình bày. Từ Brazil có chứng từ của cha Jose Luis Azcona.

Cuộc tĩnh tâm kết thúc vào chúa nhật 14-6 với thánh lễ trọng thể do ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, chủ sự (SD 4-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hy lễ thập giá

Hy lễ thập giá

Hôm nay lễ suy tôn Thánh Thể. Nói đến Thánh thể người ta thường hay nói đến một bữa ăn, một bữa ăn Agape, bữa ăn huynh đệ. Nhưng thực ra, "Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (Bí tích cứu độ).

Vì thế hôm nay, chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ.

Một họa sĩ người Ý, đã diễn tả giá trị thánh lễ qua bức tranh như sau: Khi linh mục dâng lễ, trên đầu ngài có 4 thiên thần bay lượn, miệng ngậm loa, sẵn sàng báo tin ngày chung thẩm của thế giới. Nhưng xem ra các Ngài còn chờ đợi cho tới khi linh mục cuối cùng này cử hành xong thánh lễ giao hòa dâng lên Thiên Chúa, mới gióng lên tiếng loa định mệnh này.

Thực vậy, Mẹ Têrêsa thành Calcutta thường hay nói với các chị em trong dòng rằng: "Không có thánh lễ Misa, chúng ta sẽ ra sao, mọi sự dưới gầm trời này hẳn sẽ bị tiêu hủy, chỉ có thánh lễ mới ngăn được tay Thiên Chúa. Không có thánh lễ, chắc chắn giáo hội sẽ không còn tồn tại và thế giới ắt sẽ bị diệt vong".

Vì cử hành thánh lễ là hiện tái hóa hy tế thập giá năm xưa của Chúa Kytô trên thập giá. Máu Thánh Chúa được tiếp tục đổ ra cho nhiều người được tha tội, được ơn cứư độ. Hy tế thập giá của Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn tiếp tục tái diễn để giao hòa thế gian với Thiên Chúa.

Nhìn vào thế giới hôm nay, người ta thấy tội lỗi mỗi ngày một gia tăng, sự dữ ngày càng ngập tràn. Tại sao Thiên Chúa không trút cơn thịnh nộ xuống trên địa cầu? Thưa, bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, Con Chiên Thiên Chúa tế lễ trên bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha, "và tước khí giới nơi bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài". Chúng ta không thể đếm được các tia lửa từ các ông khói tàu thủy tung tóe ra. Thế mà, các tia lửa đó không gây hỏa hoạn. Vì chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay. Cũng không thể đếm được các tội ác hằng ngày từ trái đất xông lên và đòi sự công thẳng của Thiên Chúa. Nhưng nhờ sự giải hòa của Thánh lễ, chúng ta được đẩy vào đại dương của lòng từ bi Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống địa cầu.

Thánh Laurensô Giustinianô nói: "lưỡi loài người không thể kể hết những ơn phúc từ thánh lễ: nào là tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa, người công chính nên công chính hơn, tội lỗi được xóa sạch, nết xấu được giảm thiểu, nhân đức và công nghiệp gia tăng, kế hoạch của ma quỷ bị bẻ gãy".

Cha sở họ Ars: "Mọi việc lành họp lại cũng không thể so sánh với thánh lễ Misa, vì mọi việc lành là của loài người, còn thánh lễ là của Thiên Chúa".

Thế nhưng, hôm nay nhiều người vẫn xem nhẹ thánh lễ. Họ đi lễ nhưng thiếu tấm lòng đón nhận ơn cứu độ, ơn tha thứ của Chúa. Đi lễ cho qua lần chiếu lượt. Đi lễ vì luật buộc. Vì người khác đi mình cũng được. Có mấy ai ý thức giá trị của hiến tế thập giá. Có mấy ai hiểu được hy tế thập giá cần phải được cử hành mỗi ngày để xin ơn tha tội và để Con Thiên Chúa lại tiếp tục đổ máu mình ra để giao hòa với Chúa Cha.

Bên cạnh đó, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kytô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kytô. Chúa Kytô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kytô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kytô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?

Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha.

Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?

Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa nghèo nàn này, nó thuộc về Chúa. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá Chúa gởi tới. Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, và xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền dâng lên trước tôn nhan Chúa. Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Xin được theo Chúa về Trời

Xin được theo Chúa về Trời

Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hướng trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa là Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"

Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?". Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.

Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

Chúa Giêsu trong tư cách một con người trần thế. Ngài đã sống cả cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong việc phục vụ tha nhân. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó Ngài đã thực thi trọn vẹn cho dù phải trả giá bằng cả mạng sống, miễn sao cho ý Chúa Cha được thực hiện, cho danh Cha được cả sáng, cho Nước Cha mau hiển trị.

Là người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi cho đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang, mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Cal-vê.

Hôm nay Chúa về trời, Ngài vẫn mang theo dấu vết của thương tích, của thương đau, của sự chống đối, xỉ nhục, đòn roi mà Ngài đã từng trải qua… Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu đó, như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Nay, Ngài cũng muốn tất cả chúng ta hãy đi con đường này để tiến về trời cao. Đó là con đường làm chứng nhân cho Tin mừng của Chúa bằng chính đời sống tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải đổ máu nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm luôn bao dung, kính trọng, bác ái và công bình. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tay chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay mừng Chúa về trời, chúng ta cũng nghe vang vọng đâu đây lời mời gọi thiết tha của Thầy Chí Thánh Giêsu: "anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan để: "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về, miệng reo vang câu hát mừng". Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Chỉ là một nhịp đập của tim

Chỉ là một nhịp đập của tim

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:

1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.

Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.

2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.

Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.

Tình hình hỗn loạn tại Lybia. Mùa thu của các mùa xuân Á rập

Tình hình hỗn loạn tại Lybia. Mùa thu của các mùa xuân Á rập

Tình hình hỗn loạn tại Lybia, “Mùa thu của các mùa xuân Á rập”.

Phỏng vấn ông Roberto Tottoli, giáo sư Đại học Đông Phương Napoli, nam Italia 

Sáng ngày mùng 8 tháng 4 vừa qua tướng Khalifa Haftar, tổng chỉ huy các lực lượng quân đội Lybia của chính quyền Tobruk đã bị thương trong một vụ mưu sát. Người ta chưa được  biết các chi tiết vụ và nơi chốn vụ mưu sát, nhưng có vài nguồn tin cho rằng các kẻ chủ mưu thuộc thành phần quân đội, nhất là đại tá Faraj Barasi, có nhiều quan điểm khác biệt với tướng Haftar. Tin trên đây khiến cho nhiều người âu lo, vì trong tình hình hỗn loạn hiện nay tại Libia tướng Haftar là người dại diện cho chính quyền được cộng đồng quốc tế thừa nhận và chính quyền Ai Cập ủng hộ.  Sự biến mất của ông sẽ tạo ra một sự bất ổn và hỗn loạn chính trị trầm trọng hơn nữa đối với tương lai của Lybia, vì Libia đang tìm thành lập một chính quyền hợp nhất quốc gia, trong khi đó lại có nhiều lực lượng chống lại nỗ lực này.

Tin tức trong những ngày qua cũng cho biết rằng lực lượng Ansar al-Sharia, là nhóm thánh chiến hồi mạnh nhất kiểm soát tỉnh Bengasi, đã thề trung thành với Nhà Nước Hồi. Hôm Chúa Nhật mùng 5 tháng 4 lãnh tụ tinh thần và quân sự của nhóm này là Abu Abdullah al-Libi, đã phổ biến một video quảng bá sứ điệp, theo đó ông đã lý thuyết hóa giá trị pháp lý của Nhà Nước Hồi giáo bên Iraq và Siria gọi tắt là ISIS.

Trong khi đó ba nước Italia, Ai Cập và Algeria đã đồng ý trao đổi tin tức và củng cố các nỗ lực chung nhằm chống lại các lực lượng khủng bố gia tăng tại Libia, và ủng hộ đề nghị của Liên Hiệp Quốc thành lập một chính quyền hiệp nhất quốc gia. Tại Roma đã có cuộc hội kiến của ngoại trưởng  Italia ông Gentiloni với ngoại trưởng Sameh Shoukri của Ai Cập và ông Abdelkader Messahel, bộ truởng của Algeria về các vấn đề ngoại giao với các nước Phi châu vùng Magreb.

Ngoại trưởng Gentiloni cũng đã hội kiến với Chủ tịch Quốc hội Lybia là ông Ageela Saleh Gwaider, đại diện cho chính quyền Tobruk hay các cơ cấu được cộng đồng quốc tế thừa nhận, mặc dù thủ đô Tripoli nằm trong tay liên minh Alba Libica, gồm nhiều nhóm hồi không thừa nhận quốc hội đang lánh nạn tại Tobruk cũng như chính quyền có trụ sở tại Beida.

Tin ngày mùng 8 tháng 4 cũng cho biết vài lãnh tụ quan trọng của liên minh Alba Libica  là Adbel Hakim Belhaj và Wissam bin Hamid đã bỏ trốn sang Thổ Nhĩ Kỳ trước tin các binh sĩ quân đội quốc gia của tướng Khalifa Haftar đang tiến về thủ đô Tripoli, sau khi bắt đầu cuộc tổng tấn công hồi tháng 3 vừa qua. Ngoài ra cũng có tin là 1500 chiến binh hồi giáo người Tunisi đã được huấn luyện trong các trại binh của lực lượng Anwar al Sharia bên Libia sẵn sàng tham chiến. Libia bị chia thành ba vùng khác nhau: các nhóm hồi thuộc liên minh Alba Libica chiếm cứ thủ dô Tripoli từ tháng 8 năm ngoái, quốc hội được cộng đồng quốc tế thừa nhận tại Tobruk và các lực lượng hồi quá khích muốn tự trị tại Bengasi.

Sau đây chúng tôi xin giử tới quý vị một số nhận định của ông Roberto Tottoli, giáo sư Đại học Đông Phương Napoli, nam Italia, tác giả cuốn sách tựa đề “Mùa thu của các mũa xuân A Rập”, về hiện tình của Libia.

Hỏi: Thưa giáo sư Tottoli, tình hình tại Libia hiện nay ra sao?

Đáp:  Theo tôi, Lybia đang ở trong một điều kiện quyền bính quốc gia bị giải tán hoàn toàn giống như bên Siria và Iraq. Từ khi ông Gheddaffi bị lật đổ tới nay thì Lybia trên thực tế đã hướng tới chỗ bộ tộc hóa và chia rẽ nội bộ trầm trọng. Do đó không thể không trông thấy một cuộc khủng hoảng từ từ và một tình hình ngày càng tồi tệ hơn.

Hỏi: Tuy nhiên, người ta đang soạn thảo một Hiến pháp mới và đặc sứ của Liên Hiệp Quốc ông Bernarrdino Léon, đang tìm cách thành lập một chính quyền hiệp nhất quốc gia. Dấn thân của Liên Hiệp Âu châu cũng rất là mạnh trong hướng này. Đó chỉ là các lời nói hay có các hy vọng thực sự, thưa giáo sư?

Đáp: Nói thực ra thì trong tình hình hiện nay của Lybia không có một khung cảnh rõ ràng. Chúng tôi tập trung sự chú ý vào vấn đề đã do luật Sharia tạo ra liên quan tới các nhóm ngày càng phát xuất từ các lực lượng hồi thánh chiến được nhận ra trong các thực thể khác. Chúng ta không được quên rằng tình hình Lybia ghi đậm dấu vết của sự chia rẽ giữa các bộ lạc và vùng miền khác nhau một cách rất sâu đậm, mà có lẽ chỉ có Yemen là có thể so sánh được mà thôi. Thêm vào đó là các phân tán mỏng khác nữa. Tôi tin là có thể nhìn Lybia vào khả thể dẫn đến một sự hiệp nhất của nước Libia với niềm hy vọng, nhưng ngày nay với một sự bi quan nào đó, bởi vì tình hình xem ra bùng nổ và tiếp tục trở thành tồi tệ hơn.

Hỏi: Như vậy, theo giáo sư trong tình trạng hiện nay thật rất khó mà có thể ghép lại với nhau các mảnh phân rẽ đó giữa ba vùng Cirenaica, Tripolitania và Fez?

Đáp: Vâng, đúng thế. Nhưng điều này không chỉ có giá trị đối với Lybia, nhưng còn có giá trị đối với tất cả mọi quốc gia Á rập nữa, là những nước đã trông thấy thực thể quốc gia sụp đổ. Cùng với Lybia, Yemen, Syria, Iraq tất cả đều là các thực thể rất là phân tán, được cầm giữ lại với nhau bởi các chế độ độc tài với bàn tay sắt. Vì thế sau hàng chục năm trời quang cảnh chính trị lại đã mở ra và có một khoảng trống tự do, không còn bị kiểm soát nữa, không còn bị bạo lực từ phía các thực thể quốc gia nữa: và thế là tất cả những điều đó đã chỉ có thể làm nảy sinh ra một tình trạng vô cũng hỗn loạn, như chúng ta hiện đang chứng kiến.

Hỏi: Trong tình trạng như thế, các lực lượng dân vệ của cái gọi là Nhà nước Hồi đã tiến tới vùng Misurata: khi nào thì Nhà nước Hồi có thể chiếm trọn Libia thưa giáo sư?

Đáp: Ngoài các khẩu hiệu truyên truyền ra, tôi không tin rằng hiện nay có các nguy cơ đích thực. Bởi vì các lực lượng đang kiểm soát vùng này hiện nay còn nhỏ bé, chưa mạnh lắm. Dĩ nhiên, trong một thực tại rất là khó khăn và bất ổn toàn diện như tại Libia hiện nay, chúng ta sẽ không được lấy làm lạ khi có vài nhóm khác phát xuất từ lực lượng hồi thánh chiến, cũng tự nhận rằng họ ở chung dưới một lá cờ với các nhóm này. Một ít nào đó cũng giống như phong trào Al Qaeda đã là một nhãn hiệu lớn được dùng bởi nhiều nhóm hồi thánh chiến đó đây trên khắp thế giới, các nhóm này không thuộc Nhà nước Hồi một cách có cơ cấu, nhưng nhiều khi họ tuyên bố một sự trung thành nào đó với Nhà nước Hồi  và dùng nhãn hiệu này của Nhà nước Hồi. Và về lâu về dài với sự tồn tại của Nhà nước Hồi chắc chắn nó sẽ là một vấn đề cho Libia.

Hỏi: Vậy theo giáo sư, có thể tái hiệp nhất sự phân tán tại Lybia như thế nào?

Đáp: Trong một cách thức nào đó cần phải buông khí giới, và mời tất cả mọi nhóm ngồi vào bàn hội nghị thảo luận hòa bình. Ngoài các lực lượng tôn giáo như là các sức mạnh đích thực, cũng không được quên các lực lượng bộ lạc hiện hữu trong nước Libia. Chìa khóa cho vấn đề là ở đó, cũng như cũng chià khóa này liên quan tới vài vùng của Iraq vv… Cái xem ra là sự phân tán của các lực lượng hồi thánh chiến dấu ẩn một loạt các vấn đề khác nhau, như sự cạnh tranh giữa chúng, các vấn đề mà với chế độ độc tài ông Gheddafi đã thành công trong việc dìm chúng xuống, nhưng bây giờ chúng lại tái nổi lên trong một tình hình hỗn loạn. Vì thế cần phải thành công trong việc nhận diện ra các tác nhân mạnh hơn một tí, và thành công trong một cách thức nào đó khiến cho chúng lý luận trong các phạm trù của sự hiệp nhất quốc gia.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Ý nghĩa các vết sẹo

Ý nghĩa các vết sẹo

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại.Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

1.  Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần.Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

2.  Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.

Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.

Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ, nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…

Chàng trai ngac nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái tim của ông lão.

Chàng trai thắc mắc:

– Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?

Ông cụ mỉm cười rồi nói:

– Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…

Ông lão nói tiếp:

– Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.

Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.

Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn…

3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh.Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có nhiều vết sẹo”.

Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh!

Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".

Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự.

Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II. Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi người".

Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước, và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn. Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn cần là con tim và để ý đến họ."

Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.

LM GIUSE Nguyễn Hữu An

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

BẢY DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Mở đầu Sứ điệp Phục Sinh 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhắc lại lời thiên thần nói với các bà đến thăm mộ Chúa: “Các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Chúa Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống lại… Các bà hãy đến xem chỗ Người đã nằm” (Mt 28,5-6). Từ đó, ĐTC nhấn mạnh: “Đây là đỉnh cao của Phúc Âm, là Tin vui tuyệt hảo: Chúa Giê-su, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại! Biến cố này là nền tảng của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta: nếu Chúa Ki-tô không sống lại, Ki-tô giáo chẳng còn ý nghĩa; toàn bộ sứ mệnh của Giáo hội sẽ mất hết động lực, bởi vì Giáo hội đã khởi đầu từ đó và luôn bắt đầu lại từ đó. Sứ điệp mà các Ki-tô hữu mang đến cho thế giới này là: Chúa Giê-su, Tình yêu nhập thể, đã chết trên thập giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa Cha đã cho Người sống lại và đặt Người làm Chúa của sự sống và cái chết. Trong Chúa Giê-su, tình yêu đã chiến thắng hận thù, lòng thương xót chiến thắng tội lỗi, sự thiện chiến thắng sự dữ, sự thật chiến thắng dối trá, sự sống chiến thắng sự chết.”

Bao nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ Thiên Chúa Tình Yêu giàu lòng thương xót nhân loại như thế nào. Xin cùng nhìn lại giờ phút cuối cùng trên thập tự giá, Chúa Giê-su đã ban 7 lời cuối thể hiện tình yêu vô lượng của Thiên Chúa. Suy niệm 7 lời cuối của Đức Giê-su, thấy rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho loài người là vô cùng vô tận, và vì thế có thể coi đó là 7 DẤU ẤN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.

Dấu ấn 1- “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23, 34).
 
Lề luật của Do-thái quy định: Luật báo phục tương xứng:Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (x. Đnl 19:21); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21, 23-24). Chiếu theo Lề luật đó, thì những kẻ sỉ nhục, nhạo báng, đóng đinh giết Chúa Giê-su, cũng phải chịu sự báo phục tương xứng. Và khi Chúa tử nạn, thì đám người đó cũng phải chết theo.

Bước sang thời Tân Ước, chính Chúa Giê-su cũng cho biết ngày cánh chung (x. Mt 25, 31-46) Con Người sẽ ngự đến, “Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái” (Mt 25, 32-33). Chiếu theo sự phân xử đó, thì chắc chắn đám người đã đóng đinh, sỉ nhục, nhạo báng Đức Giê-su, sẽ phải đứng ở bên trái Người và rất đáng được Đức Vua (Quan Tòa Chung Thẩm) kết án: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.” Vậy mà Đức Vua Giê-su trên thánh giá đã không xử như thế, trái lại còn cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Như vậy thì phải hiểu vấn đề như thế nào?

Thực ra Lời tiên báo về ngày tận thế chỉ là lời cảnh báo cho người tín hữu biết mà lo “làm lành, lánh dữ” trước khi đã quá muộn. Chỉ những kẻ cố tình phạm tội mới bị kết án. Lời Chúa xin tha tội cho những kẻ đã đóng đinh Người trên thập giá, đã chứng minh điều đó (“vì chúng không biết việc chúng làm”, tức là không cố ý phạm tội). Cũng chính Đức Giê-su đã khẳng định: ”Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha” (Lc 12, 19). Một cách cụ thể thì Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là vô lượng, vô biên. Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi xúc phạm đến Chúa, nên Người đã ban Thánh Thần soi sáng và thêm sức mạnh để ăn năn sám hối. Tuy nhiên nếu đã biết đó là tội mà còn cố tình phạm tội (tức là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần) thì tất nhiên án phạt thích đáng là không tránh khỏi.

Sách Giáo lý HTCG (số 1864) giải thích rõ: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm thượng đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31; Mc 3, 29; Lc 12, 10). Lòng Thiên Chúa thương xót không có giới hạn, nhưng ai cố tình không hối cải và khước từ Lòng Thiên Chúa thương xót thì cũng khước từ sự tha tội và ơn cứu độ do Chúa Thánh Thần ban cho. Lòng chai dạ đá như thế có thể đưa tới chỗ không hối cải trong giờ sau hết và phải hư mất đời đời.”

Suy niệm Lời cuối thứ nhất của Đức Giê-su khi bước vào đỉnh điểm của cuộc Thương Khó, thì thấy đó chính là một dấu ấn đậm nét về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Điều đó nhắc nhở người Ki-tô hữu hãy tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, mọi tội lỗi đã mắc phạm sẽ được tha hết, nếu biết ăn năn dốc lòng chừa. Nhưng cũng đừng vì thế mà ỷ lại rồi khất lần “để đến ngày mai sẽ tính”, bởi ngày Đấng Xét Xử Công Chính sẽ đến như kẻ trộm, “vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). Nhà “phù thủy tin học” Steve Jobs, giám đôc điều hành công ty máy tính Apple, trước khi chết, đã để lại một lời khuyên mà ông vẫn coi là một châm ngôn: “Hãy sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng của cuộc đời”. Ông giải thích: “Nếu bạn sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, đến lúc nào đó bạn sẽ tin tưởng rằng mọi điều bạn làm đã đúng”. Như vậy thì người Ki-tô hữu đừng để đến ngày mai những việc mà hôm nay có thể làm được, nhất là việc sám hối để canh tân con người và đời sống của mình.

Dấu ấn 2- “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta” (Lc 23, 43).
 
Từ Lời cuối thứ nhất có thể suy ra Lời cuối thứ hai (“Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.” – Lc 23, 43). Đến những kẻ đã đóng đinh và giết Đức Giê-su, mà Người còn xin Chúa Cha tha cho chúng, thì những người tội lỗi đầy mình (như 2 tên trộm) Chúa cũng không chấp tội. Duy chỉ có điều là người phạm tội phải biết ăn năn, nếu muốn được tha tội. Cuộc đối thoại giữa hai tên trộm với nhau và với Chúa Giê-su đã nói rõ về điều này: “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 39-43).

Sự kiện này gợi nhớ lại khi còn đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã bị bọn kinh sư và Pha-ri-sêu phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Họ còn “lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”, khiến “Đức Giê-su đáp lại họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 30-32). Sứ vụ của Đức Giê-su là xuống trần gánh lấy tội lỗi của loài người, chịu khổ hình và chịu chết để giải thoát loài người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Duy chỉ có điều loài người tội lỗi có nhìn ra con người thật của mình không và từ đó ăn năn sám hối, như người trộm lành để được hưởng ơn cứu độ. Đó mới thực sự là chân lý, là cứu cánh cho cuộc sống chan đầy tội lỗi của nhân trần.

Thêm một dấu ấn minh chứng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Người tín hữu hãy nhìn cho rõ hình ảnh 2 tên trộm cướp, để thấy được rằng là con người thì ai ai cũng có tội. Vậy thì hãy từ bỏ ngay cái thói kiêu căng hợm hĩnh của tên trộm dữ, mà kiên quyết học theo người trộm lành, dốc một lòng tin tưởng vào Đấng Cứu Độ đã chịu khổ hình vì tội lỗi của nhân loại. Nhiên hậu hãy tha thiết cầu xin Người, như người trộm lành năm xưa: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhớ đến con, xin cứu con khỏi án phạt đời đời, để con được vào Nước của Ngài”.

Dấu ấn 3-“Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ của con” (Ga 19, 27).
 
Người Mẹ nào mà không đau khổ khi mất con, nhất là Người Con đó hoàn toàn vô tội mà bị xử tử bằng khổ hình ô nhục. Hiểu được nỗi đau khổ đó của Đức Mẹ, nên Chúa mới trao phó thánh Gio-an cho Đức Mẹ như một nguồn an ủi cho nỗi đau đứt ruột của Người Mẹ mất đi Người Con duy nhất. Đến như thánh Gio-an và nói chung là các môn đệ, trước khổ nạn thập hình của Thầy, tất cả đều như đám gà con mất mẹ. Đức Giê-su đã trao phó các môn đệ của mình cho Mẹ của Người là để các môn đệ có nơi nương tựa, có người chăm sóc. Đó mới chỉ là nhìn theo nhân sinh quan, nhưng cao hơn một bậc, nhìn theo nhãn quan siêu hình học, thì sẽ thấy Lời trao phó này còn hàm nghĩa sâu rộng hơn nhiều: Đức Giê-su trước khi về cùng Chúa Cha, Người đã lo cho Hội Thánh mà Người thiết lập, và trao phó cho Đức Mẹ giữ gìn chăm sóc. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, trao cho Mẹ thiên chức Mẹ Giáo Hội của Thiên Chúa thì còn gì chuẩn xác hơn?

Nhờ thế, các Tông đồ “đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1, 14). Cho đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì hoa trái của sự cầu nguyện giữa Mẹ và các con đã hiển hiên: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Nếu không nhờ dấu ấn đặc biệt này (trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ), thì thử hỏi chỉ với 12 vị Tông đồ tiên khởi (đã chọn ông Mát-thi-a thay thế Giu-đa It-ca-ri-ốt – Cv 1, 15-26), Giáo Hội có thể phát triển vượt bậc được như ngày nay không?

Khi Đức Giê-su trao Đức Mẹ cho thánh Gio-an và phó thác thánh Gio-an cho Đức Mẹ, thì cũng có nghĩa Người muốn cho người tín hữu thấy được chỉ có Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa mới đủ sức chở che, dẫn dắt đàn con cái trên hành trình tiến về quê Trời vĩnh cửu. Một cách cụ thể, Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ phải hiểu và thực hành cho được châm ngôn sống: “Nhờ Mẹ, đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Lời Đức Giê-su dạy khi còn rao giảng Tin Mừng: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5); mà muốn đến với Thầy để có thể làm được những việc Thầy trao phó, thì rất cần phải có Cây Cầu Nối, Đấng Trung Gian, đó chính là Đức Mẹ, không thể khác hơn. Hiểu được như vậy thì tại sao người Ki-tô hữu không hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội “rước Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19, 27) như thánh Gio-an thủa xưa?

Dấu ấn 4-“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34).
 
Chúa chịu đựng mọi sự sỉ nhục của đám đông, sự bỏ rơi của các môn đệ và cả sự nhạo cười của những kẻ cùng bị đóng đinh với Ngườị. Trong khi đó, thì lại không thấy Chúa Cha hiện ra như khi Đức Ki-tô chịu phép rửa trên sông Gio-đan (x. Mt 3, 13-17), hay khi Người cầu nguyện trên núi Ta-bo (x. Lc 9, 28-36). Sự kiện này gợi nhớ đến lần cầu nguyện trên núi Cây Dầu (vườn Ghết-sê-ma-ni), Đức Ki-tô cũng đã lo lằng đến độ đổ cả mồ hôi máu ra và cầu xin “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26, 39). Mới chỉ nghĩ tới thôi mà đã lo lắng như thế, thì giờ đây trực tiếp uống “chén đắng” làm sao tránh khỏi ưu phiền tuyệt vọng và vì thế Chúa mới than thở gần như trách móc: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”

Lời than thở này phản ánh đúng thực chất bản tính loài người. Thực vậy, Chúa Giê-su “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Ngài đã thực sự trở nên một người trong chúng ta, giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (Hiến chế “Mục Vụ về Giáo Hội – Gaudium et Spes”, số 22). Có một câu hỏi được đặt ra: “Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người, chịu khổ hình và chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Như vậy thì tại sao Người còn than thở gần như trách móc Chúa Cha như vậy?” Như đã phân tích, Chúa Giê-su Nhập Thể “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người”, nên tới giờ phút lên đến đỉnh điểm của sự cô đơn tuyệt vọng, Người than thở như vậy cũng là lẽ thường tình. Tuy nhiên, ngay sau đó, bản tính Thiên Chúa lại nhắc nhở đến sứ mệnh của Người. Và Đức Giê-su tiếp tục “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8).

Tuy đây là Lời Đức Giê-su than thở cùng Đức Chúa Cha xuất phát từ nhân tính của Người; nhưng nếu nhìn vào thiên tính sẽ thấy Đức Giê-su đã “vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập tự”, thì chẳng lẽ công trình cứu chuộc nhân loại sẽ trở nên vô ích vì bị Chúa Cha “bỏ rơi” sao? Lại thêm một dấu ấn sáng ngời cho Lòng Chúa Thương Xót (Đức Ki-tô đã hấp hối mà vẫn không quên sứ vụ trọng đại mà Chúa Cha trao phó). Người Ki-tô hữu cần khắc sâu trong tâm khảm dấu ân trọng đại này, bởi không thể có sự kiện “Chúa Cha bỏ rơi Người Con” và vì thế Người Con Cả (Trưởng Tử Giê-su) tất nhiên cũng không quên đàn em thơ dại và yếu ớt, nên đã trao phó cho Mẹ Người chăm sóc. Hai dấu ấn 3 và 4 như một hệ luận tất yếu minh nhiên Lòng Chúa Thương Xót.

Dấu ấn 5- “Ta khát!” (Ga 19, 28).
 
Cái khát của Chúa Giê-su là hậu quả đau đớn của cực hình trên thập giá. Khi trình thuật sự kiện này, Thánh sử Gio-an viết: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” (Ga 19, 28). Thánh Gio-an nghĩ rằng cái khát của Chúa Giê-su đã đưa lên tột đỉnh ý nghiã của Kinh Thánh, đúng như Lời Chúa hằng nhấn mạnh: Tất cả mọi việc diễn ra trong công trình cứu độ dều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Lc 4, 21; Ga 19, 24.28.36-37). Thực vậy, Lời Chúa Giê-su đã gợi đến lời than trong Thánh Vịnh 69, trong đó tác giả là người “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân”. Tác giả nói rất rõ bị người đời thóa mạ, ruồng bỏ, đến độ “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69, 22). Sau khi nói “Ta khát” thì quả thực đám đông đã làm đúng như lời Thánh vịnh đã tiên báo: “Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người” (Ga 19, 29).

Đó là nói về tất cả sự kiện diễn ra trên Núi Sọ đều ứng nghiệm Lời Kinh Thánh. Tuy nhiên, ngoài cái khát thể lý ra, Đức Giê-su trước khi chấm dứt sứ vụ tại trần gian để trở về cùng Chúa Cha, thì Người còn một cơn khát tinh thần luôn bốc lửa trong Thánh Tâm Người: Ấy chính là cơn khát lo cho Giáo Hội (mà Người đã khai sinh) được no thỏa hồng ân, vững bước trên hành trình đem hoa trái Tình Yêu Cứu Độ đến cho “mọi loài thụ tạo”. Loài người đã đáp ứng cái khát thể lý của Đức Giê-su bằng giấm chua, mật đắng (sỉ nhục, nhạo cười, đóng đinh, đưa giấm cho Người uống), thì cũng chẳng khác đáp ửng cái khát tinh thần của Chúa bằng tội lỗi ngập đầu và sự chết đời đời.

Lời Chúa “Ta khát” rất cần phải được in dấu ấn thật sâu đậm trong tâm khảm mỗi tín hữu Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã khao khát cho dân Người được hưởng đầy đủ Lòng Chúa Thương Xót trong mọi tình huống cuộc đời trần thế (cả tinh thần lẫn vật chất). Vậy thì xin hãy khao khát được tin nghe và thực hành liên lỉ Lời Chúa, để đáp ứng cơn khát của bản thân cũng như của anh em xa gần.

Dấu ấn 6- “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
 
Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” cho biết công trình của Chúa Giê-su “đã hoàn tất” theo nghĩa không còn gì để làm thêm nữa, đã chấm dứt. Đồng thời cũng hàm chứa ý nghịa là một “chung kết” theo nghĩa là “cùng đích” của tất cả những gì Lời Chúa đã tiên báo: hy vọng của Kinh Thánh về một Đấng Cứu Chuộc đã được đáp ứng tận tình. Rõ ràng sứ vụ Chúa Cha trao phó đã được Chúa Giê-su thực hiện hoàn hảo. Giờ phút cuối cùng trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su đã nói lời này với chính mình, đồng thời cũng cho mọi người biết Người đã hoàn tất sứ vụ. Tuy nhiên, Đức Giê-su có chấm dứt hoàn toàn mối bận tâm về hành trình cứu độ nhân loại hay không, thì lại là chuyện khác.

Thật vậy, sau khi Đức Giê-su phán: “Mọi sự đã hoàn tất”, Thánh sử Gio-an ghi: “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”, trong khi Thánh Mat-thêu ghi: “trút linh hồn”, còn Thánh Lu-ca và Mac-cô đều ghi là “Người tắt thở”. Điều này cho thấy Thánh sử Gio-an – nhờ được Thần Khí mạc khải – đã có ngụ ý riêng: Nếu chỉ là trút hơi thở cuối cùng thì ghi như thánh Mat-thêu, Lu-ca, Mac-cô là đủ; nhưng ở đây thánh Gio-an còn muốn người đọc (các tín hữu) hiểu sâu hơn và xa hơn: Tới giờ phút cuối cùng của cuộc sống trần thế, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giê-su vẫn còn lưu tâm tới điều Người đã truyền (Lời thứ ba): “Thưa Bà, đây là con Bà, này con, đây là Mẹ con” (Ga 19, 27). Mà vì thế nên “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”. Đó chính là: Người đã trao phó Chúa Thánh Linh (Thần Khí) cho Đức Mẹ và Giáo Hội mà Thánh Gio-an là đại diện trong giờ phút cực trọng này.

Một cách cụ thể thì Lời Chúa “Mọi sự đã hoàn tất” chỉ là nói về sứ vụ của Người nơi trần thế đã xong, nhưng Lòng Thương Xót của Chúa vẫn trải dài trong không gian và thời gian, “trải qua đời nọ tới đời kia” cho đến thiên thu vạn đại. Và như thế, dấu ấn chung cuộc về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ phai lạt, dù cho có thiên binh vạn mã của sự dữ, của Sa-tan cũng không xóa mờ được.

Dấu ấn 7-“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46)
 
Thời điểm nghiêm trọng đã điểm: “Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa.” Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23, 44-46). Lời cuối cùng và cũng là dấu ấn đậm nét nhất của Đức Giê-su trên thánh giá (“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”), chính là một lời kinh nguyện quen thuộc của người Do-thái trích dẫn từ cuốn Thánh Vịnh (xc. Tv 31, số 6). Điều đó cho thấy Chúa Giê-su luôn kết hợp với dân Người, và bày tỏ sự cậy trông nơi Chúa Cha bằng những lời mà tất cả mọi người có thể hiểu được dễ dàng.

Nếu chỉ nhìn vào Đức Giê-su với Lời cuối cùng này thì chỉ thấy lòng thương cảm trào dâng trước cảnh Người Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật phải chết trong ô nhục, cay đắng vì tội lỗi loài người. Tuy nhiên, mở rộng sụ quan sát ra toàn cảnh Núi Sọ, sẽ thấy ngoài quang cảnh thiên sầu địa thảm ra, còn có một cảnh tượng về con người: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính!” Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về. Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23, 47-49). Đó là những nhân chứng đầu tiên cho vinh quang Thập Giá. Nói khác hơn đó là những hoa quả đầu mùa của Lòng Chúa Thương Xót tuôn trào nhựa sống từ Cây Nho Giê-su Ki-tô vậy.

Khoảng 10 ngày sau, thì hiện thực diễn ra đúng như Lời hứa trao Thần Khí của Chúa Giê-su: “Vào ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 1-4). Hoa trái của Cây Nho Giê-su thật sự nở rộ “Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo”. Cộng đoàn tín hữu đầu tiên hình thành “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Cv 2, 41-43). Và cho đến ngày nay thì Giáo hội vì luôn được “tràn đầy ơn Thánh Thần” phát triển vượt bậc tới năm châu bốn biển, cũng là nhờ Đấng Cứu Độ đã “trao Thần Khí” vậy.

KẾT LUẬN
 
Bảy Lời cuối của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá, như bảy dấu ấn về Lòng Thương Xót Chúa dành cho Giáo Hội và nói chung là toàn thể nhân loại. Tuy là Lời Chúa Giê-su dành cho loài người, nhưng phải hiểu đây chính là “ấn tín” Chúa Thánh Thần đóng trên mỗi Ki-tô hữu. Sách Giáo lý HTCG (số 698) đã cho biết định nghĩa về “Ấn tín”: “Ấn tín là biểu tượng gắn liền với biểu tượng “xức dầu”. Thật vậy, chính “Thiên Chúa đã đóng ấn xác nhận” (Ga 6, 27) Ðức Ki-tô và cũng đã đóng ấn Thánh Thần trên chúng ta trong Con của Người (2 Cr 1, 22; Ep 1, 13; 4, 30).

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy cầu xin Đức Giê-su Thiên Chúa cho thông hiểu về những dấu ấn quan trọng này, bởi chính “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, số 105).

Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin cho sứ điệp của Chúa qua bẩy lời cuối cùng trên thập giá, như bảy dấu ấn khắc sâu vào tâm khảm chúng con. Cúi xin Chúa ban Thần Khi cho chúng con để chúng con hiểu rằng chính 7 dấu ấn Lòng Chúa Thương Xót sẽ đem lại cho chúng con niềm hy vọng vững vàng. Ôi! Lạy Chúa! Xin ban đức tin cho chúng con, bởi đức tin chính là niềm hy vọng vào Ơn Cứu Chuộc của Chúa (*). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

JM. LÂM THY ĐVD

Chú thích: (*) xc. Thông điệp “Spe Salvi – Đức Tin là Hy vọng” (số 2)

 

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mexico, Á Căn Đình ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Giáo Hội luôn trân quý, yêu thương và biết ơn người già là kho tàng khôn ngoan của xã hội

Bỏ rơi không săn sóc thăm viếng cha mẹ già là một tội trọng. Vô tâm, thờ ơ, khinh rẻ và gạt bỏ người già là một tội. Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã khẳng định như trên với gần 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói ngài dành hai bài giáo lý để nói về điều kiện hiện nay của người già, trong gia đình là các ông bà nội ngoại, và ơn gọi của tuổi già trong xã hội ngày nay.

Dựa trên kinh nghiệm đã có khi là Tổng Giám Mục Buenos Aires ĐTC nói về các vấn đề của người già như sau:

Các người già bị bỏ rơi, và không phải chỉ bị bỏ rơi trong sự bấp bênh vật chất. Họ bị bỏ rơi trong sự bất lực ích kỷ chấp nhận các hạn hẹp của họ phản ánh các hạn hẹp của chúng ta, trong nhiều khó khăn mà ngày nay họ phải vượt thắng để sống còn trong một nền văn minh không cho phép họ tham gia, nói lên suy tư của họ, cũng không là những người được quy chiếu theo mô hình tiêu thụ của chủ trương chỉ có người trẻ là ích lợi và có thể hưởng thụ. Trái lại đối với toàn xã hội, các người già này đáng lý ra phải là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Người già là kho dự trữ khôn ngoan của dân tộc chúng ta. Chúng ta để cho lương tâm ngủ một cách dễ dàng biết bao khi không có tình yêu!

Và xảy ra như vậy. Tôi còn nhớ khi viếng thăm các nhà dưỡng lão, tôi đã nói chuyện với ai đó và biết bao lần tôi đã nghe điều này: “Bác khỏe không? Con cái ra sao rồi?” “Tôi khỏe, tôi khỏe” “Bác có mấy con?” “Nhiều lắm”. “Chúng có tới thăm bác không?” “Có, có, luôn luôn, vâng chúng có đến, chúng có đến”. “Lần cuối cùng các con đến thăm bác là khi nào?” Và bà cụ già, tôi đặc biệt nhớ một bà cụ đã nói: “Ôi, vào lễ Giáng Sinh”. Lúc đó chúng tôi đang ở trong tháng 8! Tám tháng không được con cái thăm viếng, bị bỏ rơi tám tháng! Điều này gọi là tội trọng, anh chị em hiểu không? Hồi còn bé bà nội tôi kể cho chúng tôi câu chuyện của một ông cụ già khi ăn làm bẩn tùm lum vì ông không thể đưa muỗng súp lên miệng một cách đúng đắn được. Người con, hay người cha gia đình, đã quyết định dời chỗ của cụ từ bàn ăn chung xuống cái bàn nhỏ trong nhà bếp, nơi không ai trông thấy vì ông ăn một mình. Và như thế ông khỏi bị mất mặt, khi có bạn bè tới dùng bữa trưa hay bữa tối. Ít ngày sau đó, ông về nhà và thấy đứa con nhỏ nhất của mình chơi với gỗ, cái búa và đinh. Nó đang làm cái gì đó. Ông hỏi: “Con đang làm gì đấy?” Nó trả lời: “Thưa cha con làm một cái bàn nhỏ”. “Một cái bàn nhỏ, tại sao?” “Để có nó khi ba trở thành già yếu, ba có thể ăn ở đấy”. Trẻ em có ý thức hơn chúng ta!

Nhờ các tiến bộ của y khoa sự sống con người “được kéo dài ra”, nhưng xã hội đã không “rộng mở ra” đối với sự sống. Số người già gia tăng, nhưng các xã hội chúng ta không được tổ chức đủ để dành chỗ cho họ, với lòng kính trọng đúng đắn và sự chú ý cụ thể đối với sự giòn mỏng và phẩm giá của họ. Cho tới khi nào chúng ta còn trẻ , chúng ta bị thúc đầy không biết tới tuổi già, làm như thể nó là một bệnh cần tránh xa. Nhưng rồi khi chúng ta già nua, đặc biệt khi chúng ta nghèo túng, đau yếu và cô đơn, chúng ta sống kinh nghiệm các thiếu sót của một xã hội được dự phóng trên sự hữu hiệu, và kết qủa là nó không biết tới người già. Nhưng người già là một sự giầu có, không thể không biết tới.

Khi thăm viếng một nhà dưỡng lão ĐTC Biển Đức XVI đã dùng các từ chìa khóa có tính cách ngôn sứ. Ngài nói: “Phẩm chất của một xã hội, tôi muốn nói của một nền văn minh, cũng được xét xử theo cách nó đối xử với người già và chỗ nó dành cho họ trong cuộc sống chung” (12-11-2012). Thật thế, sự chú ý tớí người già làm thành điểm khác biệt của một nền văn minh. Trong một nền văn minh có sự chú ý tới người cao niên không? Có chỗ cho người già không? Nền văn minh này sẽ tiến tới, nếu biết tôn trọng sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người già. Trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người già, họ bị gạt bỏ, bởi vì họ tạo ra các vấn đề, thì xã hội đó đem theo trong mình vi rút của sự chết chóc. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tuyên bố như vậy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Bên Tây phương các nhà nghiên cứu trình bầy thế kỷ này như là thế kỷ của sự già nua: con cái giảm xuống, người già gia tăng. Sự mất quân bình này gọi hỏi chúng ta, còn hơn thế nữa nó là một thách đố lớn đối với xã hội hiện đại. Thế nhưng có một nền văn hóa lợi nhuận nào đó cố nhấn mạnh việc coi người già như một gánh nặng, một khối nặng vô ích. Chẳng những họ không sản xuất, mà còn là gánh nặng; và đâu là kết qủa của suy nghĩ như thế? họ bị gạt bỏ. Thật là xấu, khi thấy người già bị gạt bỏ, nó là điều xấu, nó là tội. Người ta không dám công khai nói lên điều ấy, nhưng người ta làm. Có một cái gì hèn hạ trong thái độ này của nền văn hóa gạt bỏ. Nhưng chúng ta quen gạt bỏ con người rồi. Chúng ta muốn lấy đi nỗi sợ hãi gia tăng của sự yếu đuối và dễ bị tổn thương; nhưng khi làm như vậy là chúng ta khiến gia tăng nơi người già nỗi âu lo bị chịu đựng và bị bỏ rơi. Trong truyền thống của Giáo Hội có một hành trang của sự khôn ngoan đã luôn luôn nâng đỡ một nền văn hóa gần gũi người già, một sự sẵn sàng tiếp đón yêu thương trìu mến và liên đới trong phần cuối của cuộc đời này. Truyền thống đó đâm rễ sâu trong Thánh Kinh, như các kiểu nói của sách Huấn Ca làm chứng: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại, vì chính các ngài đã học hỏi nơi tổ tiên mình; nhờ học với các ngài mà con có được sự hiểu biết, và khi cần, con biết đưa ra câu trả lời thích hợp” (Hc 8,9). ĐTC khẳng định lập trường của Giáo Hội đối với người già như sau:

Giáo Hội không thể và không muốn thuận theo một tâm thức không chịu đựng, lại càng không thờ ơ và khinh rẻ đối với người già. Chúng ta phải thức tỉnh ý thức tập thể biết ơn, qúy trọng, hiếu khách khiến cho người già cảm thấy họ là thành phần sống dộng của cộng đoàn.

Các người già là những người nam nữ, là cha mẹ đã đi trước chúng ta trên cùng con đường của chúng ta, trong nhà của chúng ta, trong cuộc chiến đấu thường ngày của chúng ta cho một đời sống xứng đáng hơn. Họ là những người nam nữ từ đó chúng ta đã nhận được rất nhiều, Người già không phải là một người xa lạ. Người già là chính chúng ta: trong ít lâu nữa, hay lâu sau này, nhưng không thể tránh được, cả khi chúng ta không nghĩ tới nó. Và nếu chúng ta không học đối xử tốt với ngưòi già, thì người ta cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Tất cả người già chúng ta đều ít nhiều giòn mỏng. Tuy nhiên, một vài người đặc biệt yếu đuối, nhiều người cô đơn và bị ghi dấu bởi tật bệnh. Vài người tùy thuộc các chữa trị không thể thiếu và sự chú ý của người khác.Vì thế mà chúng ta sẽ lui bước, bỏ rơi họ cho số phận của họ hay sao? Một xã hội không sự gần gũi, trong đó sự nhưng không và lòng yêu thương trìu mến không cần đáp trả, đang biến mất, là một xã hội đồi bại.

Trung thành với Lời Chúa Giáo Hội không thể nhân nhượng với các suy đồi này. Một cộng đoàn kitô trong đó sự gần gũi và nhưng không không còn được coi là không thể thiếu, sẽ đánh mất đi linh hồn của nó. Nơi đâu không có lòng tôn kính người già, thì không có tương lại cho người trẻ.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương như các linh mục Canđê toàn Âu châu được Đức Cha Ramsi Garmou hướng dẫn và nhiều nhóm trẻ. Ngài khích lệ họ gần gũi, quý trọng, yêu thương trìu mến, biết ơn người già và tận dụng học hỏi kinh nghiệm và sự khôn khoan của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương Anh quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Nam Hàn và Hoa Kỳ và cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố đức tin và giúp họ sống kinh nghiệm sự hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ.

Chào các tín hữu Tây Ban Nha, Mêhicô, Argentina ngài khuyên mọi người sống dễ thương và tế nhị đối với người già, đặc biệt những người già nghèo túng, bệnh tật và cô đơn.

Với các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc lại các lời nhắn nhủ của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Tuổi thứ ba hay thứ bốn thường bị đánh giá thấp, và chính người già cũng tự hỏi cuộc sống của họ có còn ích lợi không. Trong khi cộng đoàn kitô có thể nhận được rất nhiều từ sự hiện diện thanh thản của người cao niên. Người già có khả năng trao ban can đảm qua lời cố vấn yêu thương, lời cầu nguyện thinh lặng, chứng tá của khổ đau được đón nhận với sự tín thác kiên nhẫn, và họ trở thành qúy báu trong chương trình của Thiên Chúa Quan Phòng. Chúng ta hãy nhớ tới các ông bà nội ngoại của chúng ta và xin Chúa chúc lành đặc biệt cho các ngài.

Trong số các nhóm Italia ĐTC đặc biệt chào các giáo sư và sinh viên Đại học giáo hoàng Salesien đang kỷ niệm 200 năm thánh Bosco sinh ra; các Phó tế tổng giáo phận Milano; nhiều thành viên hiệp hội Rotary; tín hữu giáo phận Anzio cử hành năm Đức Giáo Hoàng Innocenzo XII; và hàng trăm người tàn tật giáo phận Mondovi do ĐC Luciano Pacomio GM sở tại hướng dẫn. Ngài nói: Ước chi thời đại chúng ta bị ghi dấu bởi biết bao bóng tối, được soi sáng bởi mặt trời hy vọng là Chúa Kitô. Ngài đã hứa sẽ luôn luôn ở với chúng ta và tỏ hiện sự hiện diện của Ngài trong nhiều cách thức. Chúng ta có bổn phận loan báo và làm chứng cho Ngài. Anh chị em đừng mệt mỏi tín thác nơi Chúa Kitô và phổ biến Tin Mừng của ngài trong mọi môi trường.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong Mùa Chay là dịp giúp mọi người hoán cải đích thực và trưởng thành trong lòng tin.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23: 11-2-2015

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 23: 11-2-2015

VATICAN. Thứ tư sắp tới, 11-2-2015, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Giáo Hội Công Giáo sẽ cử hành Ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 23.

Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập Ngày này hôm 13-5 năm 1992, tức là 1 năm sau khi ngài bị các bác sĩ cho biết là bị bệnh Parkinson. Ngài đã viết nhiều về vấn đề đau khổ bệnh tật và nhấn mạnh đến giá trị của khổ đau cứu độ nhờ Chúa Kitô. Văn kiện nổi bật của ngài về vấn đề này là Tông thư ”Salvifici Doloris” (Khổ đau cứu độ). Ngày Thế giới các bệnh nhân được ấn định vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức vì có nhiều tín hữu hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ cho biết đã được khỏi bệnh nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 8-2-2015, ĐTC cũng nhắc nhở các tín hữu cử hành Ngày Thế Giới các bệnh nhân và ngài chúc lành cho các sáng kiến để cử hành ngày nay, đặc biệt là buổi Canh thức cầu nguyện tại Roma chiều ngày 10-2-2015. Ngài cũng nhắc đến Đức TGM Zygmunt Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế và xin cầu nguyện cho Đức TGM đang bị bệnh nặng (Đức TGM bị ung thư tuyến tụy (lá lách), đã được giải phẫu hồi tháng 12-2014 và đang được điều trị tại Ba Lan. HĐGM Ba Lan cũng như giáo phận Random nguyên quán cũng kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho Đức TGM Zimowski).

Năm 2015 này, Ngày Thế giới các bệnh nhân có chủ đề là một câu trích từ sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).

Để giúp các tín hữu suy tư và chuẩn bị cử hành ngày nay, ĐTC Phanxicô cũng nối tiếp truyền thống của các vị tiền nhiệm và cho công bố một sứ điệp, qua đó ngài mời gọi các tín hữu cởi mở đối với những đau khổ của bệnh nhân, phục vụ, tháp tùng, ra khỏi mình để đến với anh chị em bệnh nhân đau khổ. Sau đây là toàn văn sứ điệp của ĐTC:

Sự khôn ngoan của tâm hồn

”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15).

Anh chị em thân mến,
Nhân Ngày thế giới các bệnh nhân do Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng thiết lập, tôi ngỏ lời với tất cả anh chị em đang mang gánh nặng bệnh tật và qua nhiều cách thức khác nhau, anh chị em đang kết hiệp với Chúa Kitô chịu đau khổ; cũng như với anh chị em là những người chuyên nghiệp và những người thiện nguyện trong lãnh vực y tế.
Chủ đề năm nay mời gọi chúng ta suy niệm về câu nói của sách Ông Gióp: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15). Tôi muốn thực hiện việc suy niệm này trong viễn tượng “sự khôn ngoan của tâm hồn”, sapientia cordis.

1. Sự khôn ngoan này không phải là một kiến thức lý thuyết trừu tượng, kết quả của những lý luận. Đúng hơn, như thánh Giacôbê đã mô tả trong Thư của ngài, sự khôn ngoan ấy ”tinh tuyền, an bình, dịu dàng, bao dung, đầy lòng từ bi và những hoa trái tốt lành, không thiên vị và thành thật” (3,17). Vì thế, đó là một thái độ được Thánh Linh phú vào trong tâm trí của người biết cởi mở đối với đau khổ của anh chị em mình và nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi họ. Do đó, chúng ta hãy kêu cầu như trong Thánh Vịnh: ”Xin dạy chúng con đếm những ngày đời chúng con và chúng con sẽ được một tâm hồn khôn ngoan” (Tv 90,12). Trong sự khôn ngoan này, là hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta có thể tóm tắt những hoa trái của Ngày Thế Giới các bệnh nhân.

2. Sự khôn ngoan của tâm hồn là phục vụ anh chị em. Trong diễn văn của Ông Gióp, – có chứa đựng những lời này: ”Tôi đã là đôi mắt cho người mù, đôi chân cho người què” (G 29,15) – ta thấy nổi bật chiều kích phục vụ những người túng thiếu từ phía ông Gióp người công chính, ông có uy tín và có một chỗ đứng được kính nể nơi các kỳ lão trong thành. Uy tín tinh thần của ông được biểu lộ trong việc phục vụ người nghèo xin ông giúp đỡ, cũng như săn sóc kẻ mồ côi và người góa bụa (vv.12-13).

”Bao nhiêu Kitô hữu ngày nay đang làm chứng tá, – không phải bằng lời nói, nhưng bằng cuộc sống của họ được ăn rễ trong một đức tin chân thành, – là 'đôi mắt cho người mù' và là 'đôi chân của người què!'. Họ là những người gần gũi các bệnh nhân đang cần được giúp đỡ liên tục, giúp đỡ để tắm rửa, mặc quần áo, ăn uống. Việc phục vụ này, nhất là khi nó kéo dài trong thời gian, có thể trở thành vất vả và nặng nề. Phục vụ vài ngày thì dễ, nhưng thật khó chăm sóc một người kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, cả khi người ấy không còn khả năng cám ơn nữa. Nhưng đó thực là một đại lộ để thánh hóa! Trong lúc ấy ta có thể cậy trông đặc biệt vào sự gần gũi của Chúa, và là một nâng đỡ đặc biệt cho sứ mạng của Giáo Hội”.

3. Sự khôn ngoan của tâm hồn là ở với người anh em. Thời gian trải qua cạnh người bệnh là một thời gian thánh. Là chúc tụng Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta được đồng hình dạng với Con của Ngài, Đấng đã không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình để cứu chuộc nhiều người” (Mt 20,28). Chính Chúa Giêsu đã nói: ”Thầy ở giữa các con như người phục vụ” (Lc 22,27).

Với lòng tin sống động, chúng ta hãy cầu xin Thánh Linh ban cho chúng ta ơn hiểu được giá trị của sự tháp tùng, nhiều khi trong thinh lặng, khiến chúng ta dành thời giờ cho các anh chị em, nhờ sự gần gũi và phục vụ của chúng ta, họ cảm thấy được yêu thương và an ủi hơn. Trái lại, thật là một sự dối trá trầm trọng khi nấp đằng sau những kiểu nói nhấn mạnh rất nhiều về ”chất lượng đời sống”, để làm cho người ta tin rằng những sinh mạng bị tổn thương nặng nề vì bệnh tật thì không đáng sống!”

4. Sự khôn ngoan của tâm hồn là ra khỏi chính mình để đi tới người anh em. Thế giới chúng ta nhiều khi quên giá trị đặc biệt của thời gian ở bên giường người bệnh, bởi lẽ người ta bị vây bủa vì sự vội vã, miệt mài làm việc, sản xuất, mà quên đi chiều kích nhưng không, chăm sóc tha nhân. Xét cho cùng, đàng sau thái độ ấy thường có một đức tin nguội lạnh, quên mất lời Chúa nói: ”Các con đã làm điều ấy cho Ta” (Mt 25,40).

Vì thế, một lần nữa tôi muốn nhắc nhớ ”ưu tiên tuyệt đối cần 'ra khỏi mình để đến với người anh em', như một trong hai giới răn chính làm đền tảng cho mọi qui luật luân lý và như dấu chỉ rõ ràng nhất để phân định trên hành trình tăng trưởng tinh thần đáp lại sự hiến thân tuyệt đối nhưng không của Thiên Chúa” (Tông huấn ”Niềm vui Phúc Âm”, 179). Từ chính bản chất truyền giáo của Giáo Hội nảy sinh ”đức bác ái thực sự đối với tha nhân, lòng cảm thương hiểu rõ, trợ giúp và thăng tiến” (Ibid.)

5. Sự khôn ngoan của tâm hồn là liên đới với người anh em mà không xét đoán họ. Đức bác ái cần thời gian. Thời gian để chăm sóc người bệnh và thời gian để viếng thăm họ. Thời gian để ở cạnh họ như các bạn hữu của Ông Gióp: ”Rồi họ ngồi cạnh ông trên đất, trong 7 ngày 7 đêm. Không ai nói gì với ông, vì họ thấy nỗi đau khổ của ông rất lớn” (G 2,13). Nhưng các bạn Ông Gióp giấu kín trong mình một phán đoán tiêu cực về ông: họ nghĩ rằng bất hạnh của ông là hình phạt của Thiên Chúa đối với một tội của ông. Trái lại đức bác ái đích thực là chia sẻ mà không xét đoán, không chủ trương hoán cải người khác; đức bác ái không có sự khiêm nhường giả tạo, ngấm ngầm tình kiếm sự ủng hộ và hài lòng vì điều thiện đã làm.”

Kinh nghiệm của Ông Gióp chỉ tìm được câu trả lời chân thực trong Thập giá của Chúa Giêsu, là hành vi liên đới tột đỉnh của Thiên Chúa với chúng ta, hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn từ bi. Đó là câu trả lời yêu thương đối với thảm trạng đau khổ của con người, nhất là đau khổ của người vô tội, in đậm mãi mãi trong thân mình Chúa Kitô phục sinh, trong những vết thương vinh hiển, là cớ vấp phạm cho đức tin nhưng cũng là điều kiểm chứng đức tin (Xc Bài giảng lễ phong thánh cho ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2, 27-4-2014).

Cả khi bệnh tật, cô đơn và tật nguyền thắng thế trong đời sống hiến thân của chúng ta, kinh nghiệm về sự đau khổ có thể trở thành nơi ưu tiên để thông truyền ơn thánh và là nguồn mạch để thủ đắc và củng cố sự khôn ngoan của tâm hồn. Vì thế ta hiểu tại sao khi kết thúc kinh nghiệm, Ông Gióp ngỏ lời với Thiên Chúa và đã có thể quả quyết rằng: ”Trước kia con chỉ biết Chúa qua những lời nghe nói, nhưng giờ đây mắt con đã thấy Chúa” (42,5). Cả những người chìm ngập trong mầu nhiệm đau đớn khổ sở nếu đón nhận trong đức tin, cũng có thể trở thành những chứng nhân sống động về một niềm tin giúp ở trong đau khổ, mặc dù con người, với khả năng trí tuệ của mình, không có khả năng thấu hiểu đau khổ ấy.

6. Tôi phó thác Ngày Thế giới các bệnh nhân cho sự bảo trợ từ mẫu của Mẹ Maria, Đấng đã đón nhận Đấng Khôn ngoan nhập thể là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng Mẹ.

Lạy Mẹ Maria là Tòa Đấng Khôn Ngoan, trong tư cách là Mẹ, xin cầu bầu cho tất cả các bệnh nhân và những người săn sóc họ. Xin làm cho chúng con, khi phục vụ tha nhân đau khổ và qua chính kinh nghiệm khổ đau, chúng con có thể đón nhận và làm tăng trưởng nơi chúng con sự khôn ngoan đích thực của tâm hồn.

Tôi tháp tùng lời khẩn cầu này cho tất cả anh chị em cùng với phép lành Tòa Thánh của tôi.
Vatican ngày 3 tháng 12 năm 2014
Lễ Thánh Phanxicô Xavie
Phanxicô Giáo Hoàng

(G. Trần Đức Anh OP chuyển ý)
 

CHÚA QUYỀN NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH

 CHÚA QUYỀN NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH

Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều …thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).

Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).

Hơn cả luật sĩ
 
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).

Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".

Hơn một Tiên tri
 
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môsê được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).

Và đây là những điều Môsê được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môsê hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.

Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.

Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môsê: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).

Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
 
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.

Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta …

Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).

Đấng Thánh của Thiên Chúa
 
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).

Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa ! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi ! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.

Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?

Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Món quà

Món quà

Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?

Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.

Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.

Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.

Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.

Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.

Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.

Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.

Sưu tầm

Lễ Hiển Linh

Lễ Hiển Linh

Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.

1. Ngôi sao của hy vọng.

Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.

2. Ngôi sao thần bí

Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.

Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!

3. Ngôi sao dẫn đường.

Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.

Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.

4. Ngôi sao của vui mừng.

“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).

Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.

Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.