Ủy ban Tòa Thánh và Israel tái đối thoại

Ủy ban Tòa Thánh và Israel tái đối thoại

JERUSALEM. Sau nhiều tháng tạm ngưng hoạt động, Ủy ban làm việc song phương thường trực giữa Tòa Thánh và Israel đã nhóm khóa họp toàn thể hôm 18-1-2017 tại Jerusalem.

Thông cáo chung công bố cùng ngày 18-1 cho biết mục đích khóa họp là để tiếp tục thương thuyết dựa trên điều 10 triệt 2 trong hiệp định cơ bản ký kết cách đây 24 năm (1993) giữa Tòa Thánh và Israel.

Hai vị đồng chủ tịch khóa họp là Ông Tzachi Hanegbi, Bộ trưởng cộng tác miền của Israel và Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh. Phái đoàn Tòa Thánh có 11 người, trong đó có 3 GM, phái đoàn Israel có 12 người.

Ủy ban đón nhận những tiến bộ đã đạt được cho đến nay và hài lòng vì những cuộc thương thuyết diễn ra trong bầu không khí suy tư và xây dựng. Ngoài ra, Ủy ban cũng nhìn nhận công việc của Bộ tư pháp Israel liên quan đến việc áp dụng hiệp định song phương năm 1997 về tư cách pháp nhân. Hai bên đã thỏa thuận với nhau về những bước tương lai, để chuẩn bị cho khóa họp toàn thể của Ủy ban, dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 3 tới đây tại Vatican.

Sau cuộc họp của Ủy ban song phương, Tòa Thánh và Israel đã có một cuộc họp tham khảo ý kiến hai bên tại Bộ ngoại giao Israel, và đã thảo luận về những vấn đề chung và tìm hiểu về những cơ hội cộng tác với nhau (SD 18-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Vượt thắng lòng dạ xét đoán người khác

Vượt thắng lòng dạ xét đoán người khác

Cần vượt thắng chính mình vì lòng dạ chúng ta thường ích kỷ và xét đoán người khác, và Chúa Giêsu đến để đổi mới tâm hồn chúng ta. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Với tâm tính ích kỷ, các luật sĩ chỉ biết lên án người khác

Thiên Chúa đổi mới mọi sự từ gốc rễ chứ không phải theo kiểu bề mặt. Luật của Chúa không phải là thứ luật tác động bên ngoài nhưng là đi sâu vào cõi lòng chúng ta và biến đổi tận gốc. Trong giao ước mới, có sự biến đổi trí khôn, biến đổi tâm hồn, biến đổi cảm nhận và biến đổi hành động, và có một cung cách mới để nhìn mọi sự. Có một cung cách hành động với cái nhìn lạnh lùng và đầy ghen tỵ. Nhưng cũng có một thái độ của niềm vui và lòng bao dung.

Giao ước mới sẽ biến đổi tâm hồn và làm cho chúng ta nhìn về luật Chúa với con tim mới, với tâm trí mới. Chúng ta thử nghĩ về các luật sĩ là những người kết án Chúa. Họ làm mọi sự, làm mọi thứ đúng như luật nói, họ nắm quyền trong tay, họ có mọi thứ mọi sự tất cả trong tay. Nhưng lòng trí họ xa cách Thiên Chúa. Đó là lòng trí của sự ích kỷ, vì chỉ biết tập trung vào bản thân mình: tâm hồn họ luôn đi xét đoán và kết án người khác.

Thiên Chúa hay quên vì Ngài tha thứ

Thiên Chúa luôn đi bước trước và chắc chắn là Ngài tha thứ cho chúng ta. Ngài không còn nhớ tội lỗi của chúng ta nữa. Biết bao lần, Ngài không nhớ. Tôi thích suy nghĩ vui đùa một chút về Chúa rằng: “Ngài có một trí nhớ thật là không tốt!”. Điểm yếu của Thiên Chúa chính là Ngài mau quên tội lỗi chúng ta, và khi ấy Ngài tha thứ.

Thiên Chúa quên, bởi vì Ngài tha thứ. Trước một tâm hồn thống hối, Ngài tha thứ và quên hết. Ngài nói: Ta sẽ quên, Ta sẽ không nhớ tội của chúng nữa. Chúa đã tha thứ cho tôi, Chúa đã quên tội tôi, nhưng tôi phải… thay đổi cuộc sống. Giao ước mới đổi mới tôi và đổi đời tôi, không chỉ là thay đổi tâm hồn và trí khôn mà thôi, mà còn biến đổi cuộc đời. Sống không còn tội lỗi, sống xa lánh tội lỗi. Đó là cuộc tái tạo, đó là cuộc sáng tạo mới mà Chúa thực hiện nơi tất cả chúng ta.

Chúa sẽ thay đổi cõi lòng và nếp nghĩ của chúng ta

Khi chúng ta nói, chúng ta thuộc về Chúa, thì các thần tượng khác chẳng còn nghĩa lý gì chẳng còn tồn tại. Biến đổi trí khôn, biến đổi tâm hồn, biến đổi cuộc sống, và biến đổi quyền sở hữu. Chúng ta hãy tiến về phía trước trong giao ước mới với niềm thành tín.

Hãy trung thành với giao ước mới, trung thành với Thiên Chúa để Ngài biến đổi tâm hồn chúng ta. Vị ngôn sứ nói: “Chúa sẽ lấy đi trái tim bằng đá, và thay vào đó bằng trái tim bằng thịt”. Hãy biến đổi tâm hồn và thay đổi cuộc sống! Đừng phạm tội nữa! Không thuộc về thế gian này nhưng chỉ thuộc về Chúa thôi.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Đại kết Phần Lan

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Công Giáo và Tin Lành Luther tăng cường đời sống đức tin và làm chứng tá chung, đặc biệt trong năm kỷ niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 19-1-2017 dành cho phái đoàn đại kết Phần lan, gồm các vị lãnh đạo Tin Lành Luther, Chính Thống và Công Giáo, về Roma hành hương nhân dịp lễ kính thánh Enrico bổn mạng Phần Lan, và nhân dịp Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Đây là lần thứ 35 cuộc hành hương thường niên này được thực hiện.

Lên tiếng trong dịp này ĐTC nhắc đến buổi lễ tưởng niệm 500 năm cuộc cải cách của Luther ngày 31-10-2016 tại thành phố Lund, Thụy Điển, mà ngài đích thân tham dự. ”Tại thành phố ấy, chúng ta đã nhắc nhớ ý hướng của Martin Luther cách đây 500 năm là canh tân Giáo Hội chứ không phải để phân rẽ Giáo Hội. Cuộc tập họp này tại đây mang lại cho chúng ta can đảm và sức mạnh, trong Chúa Giêsu Kitô, để nhìn về hành trình đại kết đằng trước, hành trình mà chúng ta được kêu gọi cùng nhau tiến bước”.

ĐTC nói thêm nói rằng: ”Năm kỷ niệm này, đối với các tín hữu Công Giáo và Luther là một cơ hội rất tốt để sống đức tin một cách chân thực hơn, để cùng nhau tái khám Tin Mừng và tìm cách làm chứng cho Chúa Kitô hăng hái nồng nhiệt hơn. Vào cuối ngày kỷ niệm ở thành phố Lund, và hướng về tương lai, chúng ta đã lấy hứng từ chứng tá chung của chúng ta về đức tin trước mặt thế giới, khi chúng ta quyết tâm cùng nhau giúp đỡ những người đau khổ, những người túng thiếu, bị bách hại và phải chịu nạn bạo lực. Khi làm như thế, các tín hữu Kitô chúng ta không còn chia rẽ nữa, nhưng đúng hơn, được hiệp nhất với nhau trong hành trình tiến về sự hiệp thông trọn vẹn”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Phong trào đại kết chân thực dựa trên sự cùng hoán cải, trở về với Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nếu chúng ta đến gần Chúa, chúng ta cũng đến gần nhau. Trong những ngày này, chúng ta cùng nhau cầu nguyện sốt sắng hơn với Chúa Thánh Linh để chúng ta có thể cảm nghiệm sự hoán cải này, làm cho sự hòa giải có thể thực hiện được”. (SD 19-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Giáo Phận Orange làm lễ tấn phong tân giám mục

Giáo Phận Orange làm lễ tấn phong tân giám mục

GARDEN GROVE, California (NV) – Lúc 2 giờ trưa Thứ Ba, 17 Tháng Giêng, Giáo Phận Orange tổ chức lễ tấn phong cho tân Giám Mục Timothy Freyer, đảm nhận chức vụ giám mục phụ tá giáo phận, tại nhà thờ Saint Columban, Garden Grove.

Con đường nhỏ Standford, thường ngày vắng lặng mà hôm nay xôn xao chật cứng một đoàn xe hơi, kiên nhẫn lăn bánh từng phân, từng phân tới trước.

Một nhóm cảnh sát Garden Grove, cùng với các đồng nghiệp ở Sở Cảnh Sát Anaheim, và các giới chức cũng tuần tự tiến vào khuôn viên nhà thờ.

Mới hơn 12 giờ mà bên ngoài nhà thờ đã đông vui như ngày hội. Một nhóm giáo dân khoảng gần 40 người, gồm mọi sắc dân Việt, Mỹ, Mễ múa hát, tươi cười theo tiếng đàn guitar tại sân cỏ phía trước cửa chính nhà thờ. Trong sân bên hông, các vị linh mục trong những chiếc áo khoác màu trắng đứng chuyện trò thăm hỏi nhau trong niềm vui chung.

Bà Tracy Đồng, cư dân Santa Ana, nói: “Bây giờ tôi vào đây, đại diện nhà thờ Saint Barbara, cầm biểu ngữ chào mừng ngài giám mục chứ lúc nãy tôi cũng ở phía trước, vừa nhảy múa, vừa cầu nguyện Thiên Chúa đã đến đây cùng chúng ta trong thân thể vị tân giám mục.”

“Tôi là người đi sâu, đi sát với mọi sinh hoạt của giáo hội. Hôm nay, Thiên Chúa đã chọn nhà thờ Columban này làm đất lành để ngài Timothy (Freyer) được nhận chức giám mục,” bà nói với ánh mắt đầy niềm tin.

Ông Phao Lô Nguyễn, giáo dân nhà thờ Saint Barbara, nói: “Tôi đến đây để củng cố đức tin. Dạo sau này, niềm tin Chúa Kitô của tôi có vẻ như bị chao đảo nên tôi muốn đến đây đón chào vị tân giám mục của Orange County này để tự xét lại chính mình. Tôi rất vui khi thấy, đứng đây trong không khí tưng bừng này, tôi tìm lại đức tin và vui cho Đức Cha Timothy (Freyer).”

Bên trong, ngôi giáo đường với sức chứa 1,500 người, chật cứng. Có rất đông người, vì thiếu ghế, phải đứng sát tường. Nhiều người không có giấy mời phải đứng bên ngoài nhìn vào.

Buổi lễ tấn phong giám mục diễn ra trong không khí vừa trang nghiêm với những câu kinh cầu nguyện cùng những nghi lễ tôn giáo, vừa sôi nổi với những trận reo hò, vỗ tay phấn khích của giáo dân.

Bên ngoài, có những bà cụ ngồi lần tràng hạt một cách nghiêm chỉnh. Bà Maria Luis, cư dân Garden Grove, nói: “Vinh dự này, tôi không bao giờ quên. Tôi không có giấy mời nên phải ngồi đây. Nhưng Thiên Chúa cũng ở ngoài này.”

Ông Mi Ca Trần, cư dân Westminster, nói: “Tôi tin nhà thờ Saint Columban đã trở thành đất thánh kể từ hôm nay.”

Tân giám mục phụ tá sẽ hỗ trợ Giám Mục Kevin Vann, giám mục Giáo Phận Orange, quản trị một giáo phận có hơn 1.3 triệu giáo dân, với nhiều sắc dân khác nhau, và được xem là một trong những nơi có sự đa dạng sắc tộc nhất và đông giáo dân nhất Hoa Kỳ.

“Tôi cảm thấy rất vui và vinh dự khi được bổ nhiệm vào chức này,” vị tân giám mục phụ tá được trích lời nói. “Tôi biết ơn Ðức Giáo Hoàng và Giám Mục Kevin Vann đã luôn tin tưởng và ủng hộ tôi trong suốt thời gian qua. Ngoài ra, tôi cũng rất biết ơn Giám Mục Tod Brown và Giám Mục Mai Thanh Lương, vì tình bạn và tình cảm của họ dành cho tôi.”

Giám Mục Tod Brown và Giám Mục Mai Thanh Lương hiện nghỉ hưu trong giáo phận.

Với vai trò mới này, Giám Mục Freyer sẽ hỗ trợ Giám Mục Kevin Vann trong việc tiếp tục phát triển các kế hoạch mục vụ mới của giáo phận. Ðồng thời, vị tân giám mục phụ tá sẽ tiếp tục công việc truyền giáo và tổ chức các hoạt động để đem mọi người đến gần với Chúa Kitô hơn, theo thông báo của Giáo Phận Orange.

“Khi tôi chuyển về Giáo Phận Orange, Linh Mục Freyer trở thành người bạn tốt của tôi và là một cộng tác viên tuyệt vời, và là ơn phước của Bề Trên dành cho tôi và mọi dân Chúa trong giáo phận,” Giám Mục Kevin Vann được trích lời nhận xét về vị tân giám mục phụ tá. “Lòng nhiệt thành và tình yêu của linh mục đối với sự nghiệp phục vụ giáo dân chắc chắn cũng giống như tôi khi tôi bắt đầu con đường phục vụ.”

Vị chủ chăn của Giáo Phận Orange cho biết thêm: “Tân Giám Mục Freyer sẽ kế thừa công việc của cựu giám mục phụ tá, và sẽ là người bạn tuyệt vời của tất cả mọi người, đồng thời giúp tôi và các nhân viên kết nối tất cả mọi người trong giáo phận trong tình thương của Chúa. Kinh nghiệm của ngài trong nhiều năm qua tại các giáo xứ, đặc biệt là ở cộng đồng gốc Hispanic sẽ là món quà lớn cho giáo phận.”

Tân Giám Mục Phụ Tá Timothy Freyer sinh ra ở Los Angeles và lớn lên ở Hungtinton Beach, nơi cách nhà thờ chánh tòa Christ Cathedral ở Garden Grove không xa.

Sau khi tốt nghiệp trung học tại trung học Hungtinton Beach, ông vào đại học của nhà dòng St. John’s ở Camarillo, California, và lấy bằng cử nhân thần học.

Tân Giám Mục Phụ Tá  Freyer thụ phong linh mục ngày 10 Tháng Sáu, 1989 và bắt đầu công việc mục vụ tại nhà thờ St. Hedwig ở Los Alamitos của Giáo Phận Orange County trong năm năm, trước khi được bổ nhiệm về nhà thờ Our Lady of Fatima ở San Clemente. Năm năm sau, ông được chuyển về nhà thờ St. Catherine of Siena ở Laguna Beach, và ở đây hai năm.
Năm 2001, Giám Mục Freyer được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ nhà thờ St. Mary’s ở Fullerton, và năm 2003 về làm chánh xứ nhà thờ St. Boniface ở Anaheim.
Năm 2012, Linh Mục Freyer được bổ nhiệm làm tổng đại diện giáo phận, phụ trách huấn luyện các linh mục.

Tân Giám Mục Phụ Tá Timothy Freyer là một trong những sáng lập viên của trung tâm Anaheim Family Justice Center, nơi giúp đỡ những nạn nhân bạo lực gia đình. Ông cũng phục vụ hai nhiệm kỳ trong hội đồng quản trị trung tâm y tế St. Jude ở Fullerton. Ngoài ra, ông cũng là linh mục tuyên úy cho Sở Cảnh Sát Anaheim.

Giám Mục Phụ Tá Freyer là người con duy nhất của ông bà Jerry và Patricia Freyer. Cha ông mất năm 1977. Hiện mẹ ông đang sinh sống tại Hungtinton Beach.

Đăng Giao/Người Việt

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

** Sự sợ hãi kinh hoàng trước cái chết vén mở cho thấy nhu cầu hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống, khiến cho con người cầu nguyện, xin cứu giúp, và nhận biết Chúa đích thật và duy nhất của trời và đất. Dưới ánh sáng lòng thương xót của Thiên Chúa và của mầu nhiệm phục sinh cái chết có thể trở thành “chị chết” và dịp nhận biết niềm hy vọng gặp gỡ Chúa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ngài đã giới thiệu gương mặt của ông Giôna là vị ngôn sứ đã tìm cách tránh né lời mời gọi của Thiên Chúa và khước từ phục vụ chương trình cứu độ của Thiên Chúa như kể trong sách Giôna, là cuốn sách ngắn chỉ có 4 chương, nhưng giầu giáo huấn liên quan tới lòng thương xót của Thiên Chúa là Đấng tha thứ.

Giôna là một ngôn sứ “đi ra”, và cũng là một ngôn sứ chạy trốn! Đó là một ngôn sứ đi ra, mà Thiên Chúa gửi ra vùng ngoại biên, là Ninivê để hoán cải dân chúng thành phố lớn này. Nhưng đối với một tín hữu do thái như Giôna Ninivê diễn tả một thực tại đe dọa, là kẻ thù gây nguy hiểm cho Giêrusalem, và vì thế phải hủy diệt, chứ không được cứu thoát. Vì thế, khi Thiên Chúa gửi Giôna đi rao giảng trong thành phố ấy, thì ngôn sứ vốn biết lòng lành của Chúa và ước mong tha thứ, tìm cách trốn tránh nhiệm vụ của mình và chạy trốn. ĐTC tiếp tục bài huấn dụ như sau:

** Trong cuộc trốn chạy của ông ngôn sứ tiếp cận với các người ngoại giáo, là các thuỷ thủ của con tầu ông đã lên để tránh xa Thiên Chúa và sứ mệnh của mình. Và ông trốn xa, bởi vì Ninivê đã ở trong vùng Iraq, và ông trốn sang Tây Ban Nha, trốn thật. Và chính thái độ của các người ngoại giáo này, cũng như rồi sẽ là thái độ của dân thành Ninivê sau đó, cho phép chúng ta hôm nay suy  tư một chút về niềm hy vọng được diễn tả ra bằng lời cầu nguyện truớc hiểm nguy và cái chết.

Thật thế, trong khi vượt biển đã xảy ra một trận bão khủng khiếp, và Giôna xuống hầm tầu để ngủ. Trái lại, các thủy thủ, các người ngoại giáo này, khi thấy mình sắp chết “mỗi người khẩn cầu thần linh của họ” (Gn 1,5).

Thuyền trưởng đánh thức Giona dậy và nói: “Sao làm gì mà ngủ thế này? Dậy, kêu cầu thần của ông đi chứ! May ra ngài sẽ nghĩ tới chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng” (Gn 1,6).

Phản ứng của các người ngoại giáo này là phản ứng đúng đắn truớc hiểm nguy, bởi vì chính đó là lúc con người sống trọn vẹn kinh nghiệm sự giòn mỏng và nhu cầu cứu rỗi của mình. Bản năng kinh sợ phải chết vén mở cho thấy sự cần thiết hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống. “May ra Thiên Chúa nghĩ tới chúng ta và chúng ta sẽ không chết”: đó là các lời nói của niềm hy vọng  trở thành lời cầu nguyện, lời cầu nguyện tràn đầy âu lo, thốt lên từ miệng lưỡi con ngưòi trước nguy hiểm của cái chết gần kề.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: quá thường khi chúng ta dễ  xem thường việc hướng tới Thiên Chúa trong nhu cầu, làm như thể nó chỉ là một lời cầu nguyện nhắm tới lợi lộc, và vì thế bất toàn. Nhưng Thiên Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta, Ngài biết rằng chúng ta nhớ đến Ngài là để xin cứu giúp, và với nụ cucời khoan dung của môt ngưòi cha Ngài đáp trả một cách nhân hậu.

** Khi Giôna thừa nhận trách nhiệm của mình và để mình bị ném xuống biển, hầu cứu thoát các bạn đồng hành của ông, bão tố dịu xuống. ĐTC giải thích như sau:

Cái chết cận kề đã khiến cho các người ngoại giáo cầu nguyện, và làm cho ngôn sứ sống ơn gọi phục vụ tha nhân của ông, mặc dù tất cả, bằng cách hy sinh chính mình cho họ, và dẫn đưa những người sống sót tới chỗ nhận biết Chúa và chúc tụng Ngài. Các thuỷ thủ đã cầu nguyện vì sợ hãi hướng tới các thần linh của họ, giờ đây với lòng chân thành kính sợ Chúa, họ nhận biết Thiên Chúa thật, dâng lễ tế và lời khấn nguyền.  Niềm hy vọng đã khiến cho họ cầu xin để khỏi chết, lại vén mở cho thấy nó quyền năng hơn nữa, và làm ra một thực tại đi xa hơn những gì họ hy vọng: họ không chỉ không thiệt mạng trong trận bão, mà còn rộng mở cho việc nhận biết Chúa thật và duy nhất của trời đất.

Tiếp đó cả dân chúng thành Ninivê trước viễn tượng bị huỷ diệt, họ cũng sẽ cầu nguyện, được thúc đẩy bởi niềm hy vọng nói sự tha thứ của Thiên Chúa. Họ sẽ đền tội, khẩn nài Chúa và trở về với Ngài, bắt đầu từ nhà vua, cũng như vị thuyền trưởng, trao ban tiếng nói cho niềm hy vọng khi nói rằng: “Biết dâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại… và chúng ta sẽ không phải chết” (Gn 3,9). Đối với họ cũng như đối với thủy thủ đoàn trong trận bão, đối diện với cái chết và được cứu thoát đã đưa họ tới sự thật. Và như thế dưới lòng thương xót của Chúa và còn hơn thế nữa dưới ánh sáng  của mầu nhiệm phuc sinh, cái chết có thể trở thành “chị chết của chúng ta” cũng như đối với thánh Phanxicô thành Assisi, và diễn tả đối với từng người và mỗi người trong chúng ta, dịp kinh ngạc hiểu biết niềm hy vọng và gặp gỡ Chúa.

Xin Chúa làm cho chúng ta hiểu mối dây nối kết giữa lời cầu nguyện và niềm hy vọng. Lời cầu nguyện đưa bạn tiến tới trong hy vọng, và khi các sự việc trở thành tăm tối, cần phải cầu nguyện nhiều hơn! Và sẽ có nhiều hy vọng hơn.

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt là một đoàn hành hương đến từ Tân Caledonia. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Niu Dilen, Philippines, Canada và Hoa Kỳ, cũng như các tín hữu nói tiếng Đức, đặc biệt là phái đoàn của Lộ trình đại kết âu châu, do bà chủ tịch Annette Kurschus hướng dẫn. Ngài nói cuộc dừng chân của họ tại Roma là một dấu chỉ đại kết rất ý nghĩa, đặc biệt trong tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu. Nó diễn tả sự hiệp thông đã đạt được qua con đường đối thoại trong các thập niên qua. Phúc Âm của Chúa Kitô là trung tâm điểm cuộc sống chúng ta và hiệp nhất những người nói các thứ tiếng khác nhau, sống trong các quốc gia khác nhau và trong các cộng đoàn khác nhau. Tôi cảm động nhớ tới lời cầu đại kết tại Lund bên Thụy Điển ngày 31 tháng 10 năm ngoái. Trong tinh thần kỷ niệm cuộc Cải Cách chúng ta nhìn vào những gì kết hiệp chúng ta hơn là nhìn vào những gì chia rẽ chúng ta, và chúng ta cùng nhau tiếp tục con đường đào sâu sự hiệp thông và trao ban cho nó một hình thái ngày càng hữu hình hơn.

Tại Âu châu niềm tin chung này nơi Chúa Kitô như là một sợi chỉ xanh của niềm hy vọng chúng ta thuộc về nhau. Hiệp thông, hoà giải và hiệp nhất là các điều có thể. Như là kitô hữu chúng ta có trách nhiệm đối với sứ điệp này và chúng ta phải làm chứng cho nó bằng cuộc sống của mình. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ý chí hiệp nhất và giữ gìn tất cả mọi người bước đi trên con đường hiệp nhất.

ĐTC cũng chào các tín hữu nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt nhóm “Brasilien Tropical Violins”.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc tới tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu và nói: Tình yêu của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta hoà giải. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để mọi cộng đoàn kitô hiểu biết hơn lịch sử thần học và giáo luật của mình, và luôn rộng mở hơn cho sự hoà giải. Xin Thần Khí thấm nhuần chúng ta với lòng nhân hậu, sự hiểu biết và ý chí cộng tác.

ĐTC cũng chào các tín hữu Croát, đặc biệt là các trẻ em Bosni Erzegovine cùng các gia đình tiếp đón các em trên đảo Sicilia. Ngài cầu chúc các em sống tình huynh đệ trong các gia đình tiếp đón các em, và có cơ may sống bầu khí hy vọng. Chỉ như thế các người trẻ công giáo, chính thống và hồi giáo mới có thể cứu vãn niềm hy vọng sống trong một thế giới huynh đệ, công bằng và hoà bình, chân thành hơn và phù hợp hơn với chiều kích của con người. Ngài xin các em sống vững vàng trong đức tin, cầu nguyện cho hoà bình và hiệp nhất của quê hương các em và toàn thế giới. ĐTC cũng cám ơn các gia đình tỏ tình liên đới kitô tiếp đón các em nêu gương yêu thương cho mọi người. Cần phải luôn luôn tiếp đón, che chở, bảo vệ và lắng nghe các trẻ em mồ côi với tình thương mến.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu dòng thánh Agostino nữ tử của Chúa Giêsu và Mẹ Maria; và các nam tu sĩ Agostino, cũng như Hiệp hội các chưởng khế công giáo do ĐC Domenico Sorrentino, TGM Assisi tháp tùng. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc lại đề tài tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu năm nay về đề tài “Tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy hoà giải”. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho sự hiệp nhất, các người đau yếu dâng các hy sinh khổ đau cho ý chỉ này, và các cặp vợ chồng mới cưới sống kinh nghiệm tình yêu hôn nhân như tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi nguời.

Linh Tiến Khải

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Hãy là những Kitô hữu can đảm, với cái neo chắc chắn là niềm hy vọng, để có thể vững vàng trước những khoảnh khắc đen tối. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng lười biếng mà cam đảm lên

Sống một cách can đảm, đó là lối sống của người Kitô hữu. Can đảm tiến về phía trước. Đó là thái độ cần có trong cuộc sống, giống như người vận động viên chăm chỉ luyện tập để dành chiến thắng. Hãy đối diện với sự lười biếng bằng lòng dũng cảm.

Có những Kitô hữu lười biếng, có những Kitô hữu không muốn nhấc chân lên để bước, có những Kitô hữu không muốn tranh đấu để tạo nên những thay đổi, những gì mới mẻ, những gì tốt đẹp cho mọi người. Những Kitô hữu ấy lười biếng và tìm thấy Giáo Hội như là trạm dừng, như là bãi đậu xe. Và tôi có thể nói rằng, các Kitô hữu ấy là những giáo dân, là những linh mục, là những giám mục… Tất cả. Có những Kitô hữu như thế! Đối với họ, Giáo Hội là bến đậu an toàn, là bến đậu cho cuộc sống. Những Kitô ấy làm tôi nghĩ tới điều mà đứa bé nói với ông bà rằng: “Ông bà hãy cẩn thận, đừng có ngăn cản nước, vì nếu nước không chảy, thì trước tiên nước sẽ bị bẩn”.

Bám chắc vào neo hy vọng để vững vàng trong giông tố

Điều gì giúp cho người Kitô hữu có thể sống can đảm? Đó là niềm hy vọng. Những Kitô hữu lười biếng, vì họ không có niềm hy vọng, vì họ đang “nghỉ hưu”. Thật là tốt đẹp để nghỉ hưu sau nhiều năm làm việc. Nhưng hãy cẩn thận, chẳng tốt đẹp gì nếu cả cuộc đời đều là nghỉ hưu.

Thông điệp của ngày hôm nay là niềm hy vọng, hy vọng là không thất vọng, hy vọng là còn có điều gì khác nữa. Niềm hy vọng là cái neo vững chắc cho cuộc sống. Niềm hy vọng chính là cái neo: chúng ta ném cái neo xuống, nó bám chắc, và chúng ta nắm vững sợi dây. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Đừng nghĩ rằng: đây là bầu trời, thật là đẹp, và tôi vẫn còn… Không. Hy vọng có nghĩa là chiến đấu, là bám chắc sợi dây, là đạt tới. Trong cuộc tranh đấu hằng ngày thì hy vọng chính là đức tính để mở rộng các chân trời chứ không đóng lại! Có lẽ, nếu bạn hiểu thì hy vọng chính là đức tính mạnh mẽ nhất. Hy vọng: sống trong hy vọng, sống bằng hy vọng, luôn nhìn tới phía trước với lòng can đảm. Một số người trong anh chị em có thể nói: “Vâng, thưa cha, nhưng có những lúc tệ hại, khi ấy dường như mọi sự đều tối đen, con nên làm gì?” Khi ấy, hãy nắm chắc sợi dây và chịu đựng với đầy nghị lực.

Xin ơn vượt thắng tính ích kỷ

Chúng ta phải can đảm nhìn lại và rồi bước tiếp. Những Kitô hữu tốt lành cũng vẫn thường mắc sai lỗi. Tất cả chúng ta đều có những sai lỗi. Những người đứng yên một chỗ, có vẻ như chẳng làm gì sai. Khi bạn không thể bước đi vì mọi sự đều tăm tối, vì mọi thứ đều đóng lại, thì bạn phải có khả năng chịu đựng, bạn phải kiên trì. Chúng ta có thể bền lòng bền chí vì chúng ta có niềm hy vọng, vì chúng ta không thất vọng, vì Thiên Chúa không thất vọng.

Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi đang thế nào? Đời sống đức tin của tôi thế nào? Đời sống của tôi là những chân trời rộng mở, tràn đầy hy vọng, can đảm tiến bước, hay lại là cuộc sống hâm hẩm thậm chí là một cuộc sống không có khả năng chịu đựng những thời khắc đen tối? Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, để chúng ta có thể vượt thắng tính ích kỷ vốn chỉ biết lo cho mình mà không thèm nhìn anh chị em.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha kêu gọi đừng nói hành nói xấu

Đức Thánh Cha kêu gọi đừng nói hành nói xấu

ROMA. ĐTC kêu gọi các tín hữu làm chứng về Chúa Giêsu bằng gương sáng trong cuộc sống, và đừng nói hành nói xấu người khác nếu muốn một giáo xứ hoàn hảo.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây qua bài giảng ứng khẩu trong thánh lễ chiều chúa nhật 15-1-2017 tại giáo xứ Santa Maria, ở khu Setteville di Guidonia, thuộc giáo phận Roma.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Giám quản Vallini, Đức GM Phụ tá khu vực, các LM thuộc giáo xứ liên hệ và các xứ lân cận.

ĐTC khẳng định rằng: ”Là Kitô hữu trước tiên là làm chứng về Chúa Giêsu. Một giáo xứ không có khả năng làm chứng nếu trong giáo xứ có những vụ nói hành nói xấu nhau”. Ngài hỏi mọi người: ”Anh chị em có muốn một giáo xứ hoàn hảo hay không? Nếu muốn thì đừng nói hành nói xấu người khác. Nếu Anh chị em có điều gì chống đối ai, thì hãy nói trực diện với họ hoặc với cha sở, chứ đừng nói với những người khác. Đó là một dấu chỉ Chúa Thánh Linh hiện diện trong giáo xứ. Các tội lỗi khác chúng ta đều có, nhưng tội phá hoại cộng đoàn chính là tội nói hành nói xấu nhau”.

Khi đến giáo xứ lúc 3 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã thăm cha phó liệt giường vì bệnh xơ cứng từ 2 năm nay và không cử động được nữa. Rồi ngài gặp các thiếu niên đã chịu phép thêm sức, và nhắn nhủ các em nêu gương bằng cuộc sống chứng tá, chứ đừng chỉ nói xuông về Chúa. Hãy lắng nghe, gặp gỡ, xin lỗi và tha thứ cho nhau, thực hiện những công việc từ bi bác ái, như viếng thăm các bệnh nhân, tù nhân và người nghèo.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC cũng gặp gỡ các cộng tác viên mục vụ của giáo xứ và trả lời một số thắc mắc của họ. Ngài không quên các bệnh nhân và chào thăm họ, rồi gặp cha mẹ của 45 em bé đã được rửa tội trong giáo xứ trong 12 tháng qua. Trong dịp này ĐTC nhắc nhở họ hãy tha thứ cho nhau sau khi xảy ra những cuộc cãi lẫy hoặc xung đột trong gia đình.

Trước khi bắt đầu thánh lễ lúc 5 giờ 40 phút chiều, ĐTC đã giải tội cho 4 tín hữu. Và sau thánh lễ ngài còn chào thăm đông đảo các tín hữu tham dự từ bên ngoài vì nhà thờ không đủ chỗ (RG 15-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều thứ bẩy, 14-1-2017, tại nhà nguyện nhà trọ thánh Marta nơi ngài cư ngụ, ĐTC đã ban phép rửa tội cho 13 hài nhi sinh sau các trện động đất ở miền trung Italia hồi tháng 8 và tháng 10 năm ngoái.

Qua việc cử hành này, ĐTC giữ lời đã hứa. Đức Cha Dominico Pompilli, GM giáo phận Rieti, giải thích rằng ngày 4-10 năm 2016, khi viếng thăm làng Amatrice, nơi bị động đất nặng nhất, một bà mẹ giới thiệu hài nhi con của bà với ĐTC và hỏi xem ngài có thể rửa tội cho cháu không. Ngài đã nhận lời và quyết định nới rộng cho cả các hài nhi sinh tại các vùng bị động đất.

Cuối thánh lễ, một số trẻ em và cha mẹ đã tặng cho ĐTC một tập với những bức họa gợi lại cuộc viếng thăm của ngài ở hai nơi bị động đất nặng là Amatrice và Accumoli. (RG 15-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

ĐTC kêu gọi che chở và bảo vệ người trẻ di cư vị thành niên

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua, ĐTC đã kêu gọi đưa ra mọi biện pháp có thể giúp che chở, bảo vệ và hội nhập các trẻ em di cư. Ngài nói:

Hôm nay cử hành “gày quốc tế người di cư và tỵ nạn” với đề tài “Các người di cư vị thành niên, dễ bị thương tổn và không có tiếng nói.” Các anh em bé nhỏ này của chúng ta, đặc biệt nếu không được tháp tùng, bị phơi bầy cho biết bao nguy hiểm. Họ đông lắm! Cần đưa ra mọi biện pháp có thể để bảo đảm cho các trẻ em vị thành niên di cư sự che chở, bào vệ và cả việc hội nhập các em nữa. ĐTC cũng cám ơn Văn phòng di cư của giáo phận Roma và các nhân viên trong dấn thân tiếp đón và trợ giúp người tỵ nạn. Ngài nhắc đến gương của thánh Francesca Saverio Cabrini bổn mạng người di cư, một nữ tu can đảm tận hiến cuộc đời đem Chúa Giêsu Kitô tới cho những cho người sống xa quê hương và gia đình họ, nêu gương săn sóc người anh em kiều cư là hình ảnh của Chúa Giêsu khổ đau bị khước từ và hạ nhục. Biết bao lần trong Thánh Kinh Chúa đã xin chúng ta tiếp đón các người di cư và ngoại quốc, bằng cách nhắc cho chúng ta biết rằng chúng ta cũng là người kiều cư.

Trước đó trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn trình thuật Phúc Âm Chúa Nhật kể lại biến cố Chúa Giêsu đến xếp hàng như các tội nhân để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả. Ở trung tâm bài Tin Mừng (Ga 1,29-34) có lời của thánh nhân: “Đây là Chiên  Con Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (c. 29). Một lời nói được đi kèm bởi cái nhìn và cử chỉ của bàn tay chỉ Ngài, Đức Giêsu.

Chúng ta hãy tưởng tượng ra quang cảnh này. Chúng ta đang đứng trên bờ sông Giordan. Thánh Gioan đang làm phép rửa, có biết bao nhiêu người đàn ông đàn bà thuộc đủ mọi lứa tuổi đến sông để nhận phép rửa từ tay người, mà theo nhiều người nhắc nhớ ngôn sứ Elia, vị đại ngôn sứ 9 thế kỷ trước đó đã thanh tẩy dân Israel khỏi việc tôn thờ ngẫu tượng và dẫn đưa họ trở về với niềm tin thật nơi Thiên Chúa của giao ước, Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Igiaac và Giacóp. ĐTC nói:

Gioan rao giảng rằng nước trời đã gần, rằng Đấng Messia đang tự tỏ hiện và cần chuẩn bị , hoán cải và sống công chính; và ông bắt đầu ban phép rửa trên sông Giordan để cho dân chúng một phương thế sám hối cụ thể (x. Mt 3,1-6) Những người này đến để sám hối tội lỗi của họ, để đền tội, để bắt đầu trở lại cuộc sống.

Ông biết, Gioan biết rằng Đấng Messia, Đấng được thánh hiến của Chúa đã đến gần, và dấu chỉ để nhận biết Người sẽ là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người; thật ra Người sẽ đem đến phép rửa thật, phép rửa trong Thánh Thần (x. Ga 1,33).

Và đây, lúc ấy đến: Đức Giêsu trình diện trên bờ sông, giữa dân chúng, giữa những người tội lỗi – như tất cả chúng ta – Đó là cử chỉ công khai đầu tiên của Ngài, điều đầu tiên Ngài làm khi rời nhà ở Nadarét năm 30 tuổi: Ngài đi xuống Giuđêa tới sông Giordan và để cho Gioan làm phép rửa. Chúng ta biết điều gì xảy ra – chúng ta đã cử hành Chúa Nhật vừa qua – Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu trong hình bồ câu và tiếng Thiên Chúa Cha công bố Người là Con yêu dấu (x. Mt 3,16-17). Đó là dấu chỉ Gioan chờ đợi. Chính Ngài! Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Gioan bối rối vì Ngài đã tự biểu lộ một cách không thể nghĩ được: giữa các tội nhân, được rửa như họ, còn hơn thế nữa đuợc rửa vì họ. Nhưng Thần Khí soi sáng cho Gioan và khiến cho ông hiểu rằng như thế được hoàn thành công lý của Thiên Chúa, dấu chỉ ơn cứu độ thành toàn như vậy: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Israel, không phải với quyền năng của thế gian này, nhưng như là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng mang trên mình và cất tội của trần gian.

Và như thế Gioan chỉ Người cho dân chúng và các môn đệ của ông. Vì Gioan có một vòng tròn nhiều môn đệ, đã chọn ông như vị hướng dẫn tinh thần. và chính vài người trong số họ sẽ trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Chúng ta biết rõ tên của họ: Simon sẽ được gọi là Phêrô, Anrê em ông, Giacôbê và em ông là Gioan. Tất cả đều là dân chài; tất cả đều là người Galilê, như Đức Giêsu.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, tại sao chúng ta lại dừng lâu trên cảnh này? Bởi vì nó định đoạt! Nó không phải là một giai thoại. Nó là một sự kiện lịch sử định đoạt! Cảnh này định đoạt đối với đức tin của chúng ta; nó định đoạt đối với cả sứ mệnh của Giáo Hội nữa. Và ĐTC giải thích như sau:

Trong mọi thời đại, Giáo Hội được mời gọi làm điều mà Gioan Tảy Giả đã làm, chỉ Chúa Giêsu cho dân chúng và nói: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất! Ngài là Chúa, khiêm tốn, giữa các tội nhân, nhưng đó là Ngài, là Ngài: không phải một người khác, quyền thế đang đến: không, không, đó là Ngài!

Và đó là các lời mà chúng tôi linh mục lập lại hằng ngày trong Thánh Lễ, khi chúng tôi giới thiệu với dân chúng bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Cử chỉ phụng vụ này diễn tả toàn sứ mệnh của Giáo Hội, không loan báo chính mình. Khốn, khốn khi Giáo Hội loan báo chính mình; thì Giáo Hội mất đi dịa bàn, không biết mình đi đâu.  Giáo Hội loan báo Chúa Kitô; không đem chính mình, nhưng đem Chúa Kitô.  Vì chính Ngài và chỉ có Ngài cứu rỗi dân Ngài khỏi tội lỗi, giải thoát nó và hướng dẫn nó tới đất của sự tự do đích thật.

Xin Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chiên Con Thiên Chúa, giúp chúng ta tin nơi Chúa và theo Người.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine tái đối thoại

VATICAN. Tòa Thánh hy vọng Israel và Palestine có thể mở lại các cuộc thương thuyết trực tiếp giữa các phe để đạt tới sự chấm dứt bạo lực, đang gây đau khổ không thể chấp nhận được cho các thường dân và tiến tới một giải pháp chính đáng và lâu bền.

Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết như trên trong thông cáo công bố sau cuộc tiếp kiến của ĐTC dành cho Tổng thống Mahmoud Abbas của Palestine sáng ngày 14-1-2016. Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Abbas đã hội kiến với ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và ngoại trưởng Paul Gallagher.

Thông cáo cũng viết: ”Để đạt mục tiêu vừa nói, Tòa Thánh cầu mong rằng, với sự hỗ trợ của Cộng đồng quốc tế, có những biện pháp được đề ra để tạo điều kiện cho sự tín nhiệm nhau và góp phần kiến tạo một bầu không khí giúp đưa ra những quyết định can đảm để đạt tới hòa bình. Các vị cũng nhắc đến tầm quan trọng của việc bảo tồn tính chất thánh thiêng của các Nơi Thánh cho các tín hữu thuộc tất cả 3 tôn giáo có chung tổ phụ Abraham. Đặc biệt chú ý đến các cuộc xung đột đang đè nặng trên vùng Trung Đông.”

Trong phần đầu của thông cáo, Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ”qua các cuộc trao đổi thân mật, có đề cao những quan hệ tốt giữa Tòa Thánh và Palestine, quan hệ này được thắt chặt bằng Hiệp Định tổng quát năm 2015, liên quan đến đời sống và hoạt động của Giáo Hội trong xã hội Palestine. Trong bối cảnh đó, hai bên đã nhắc đến đóng góp quan trọng của các tín hữu Công Giáo cho sự thăng tiến phẩm giá con người và giúp đỡ những người túng thiếu nhất, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, y tế và từ thiện”

Tổng thống Abbas đến Roma nhân dịp khánh thành đại sứ quán của Palestine cạnh Tòa Thánh (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người vì họ không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhuận của các xí nghiệp.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 14-1-2017 dành cho 85 tham dự viên quốc tế ”cuộc thảo luận bàn tròn” do Ngân Quỹ hoàn cầu (Globl Foundation) tổ chức tại Roma trong hai ngày 13 và 14-1 vừa qua. Trong số các tham dự viên cũng có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi đề cao khẩu hiệu của Ngân Quỹ Hoàn cầu là ”Cùng nhau chúng ta dấn thân cho công ích của hoàn cầu”, ĐTC khẳng định rằng: ”Thật là điều không thể chấp nhận được, vì vô nhân đạo, một chế độ kinh tế thế giới gạt bỏ người nam, người nữ và trẻ em, vì những người này dường như không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhận của các xí nghiệp và các tổ chức khác. Chính sự gạt bỏ con người như thế là một sự thoái hóa và làm cho bất kỳ chế độ chính trị và kinh tế nào trở nên vô nhân đạo: những người gây ra hoặc cho phép sự gạt bỏ tha nhân – những người tị nạn, các trẻ em bị lạm dụng hoặc bị biến thành nô lệ, những người nghèo chết trên đường vì trời lạnh – thì chính những kẻ ấy trở thành như những chiếc máy vô hồn, họ ngầm chấp nhận nguyên tắc theo đó chính họ, sớm muộn gì cũng sẽ bị gạt bỏ, khi họ không còn hữu ích cho một xã hội đặt thần tiền bạc ở trung tâm”.

ĐTC Phanxicô nhắc lại lập trường của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã từng cảnh giác chống lại nguy cơ lan tràn khắp nơi ý thức hệ duy tư bản, không để ý gì đến hiện tượng gạt con người ra ngoài lề, bóc lột, tha hóa con người, làm ngơ không biết đến bao nhiêu người còn sống trong tình trạng lầm than về vật chất và tinh thần..

Trong bối cảnh đó, ĐTC cũng đề cao bao nhiêu nỗ lực của các cá nhân và các tổ chức tìm cách chữa lành những tai ương do sự hoàn cầu hóa vô trách nhiệm gây ra. Thánh Têrêsa Calcutta là biểu tượng những cố gắng như thế. Mẹ cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết trên vỉa hè, nhìn nhận nơi họ phẩm giá Chúa ban… Mẹ đã lên tiếng nói với những kẻ cường quyền trên trái đất để họ nhìn nhận các tội ác nghèo đói do họ gây ra.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là thái độ đầu tiên có thể đưa tới sự hoàn cầu hóa tình liên đới và sự sộng tác. Trước tiên, mỗi người đừng dửng dưng đối với những vết thương của người nghèo, nhưng học cách cảm thông với những người đang chịu đau khổ vì bách hại, cô đơn, cưỡng bách di tản hoặc vì gia đình bị phân rẽ, cảm thông với những người không được săn sóc sức khỏe, những người chịu đói, lạnh hoặc nóng”.

Ngân Quỹ hoàn cầu (The Global Foundation) được khởi xướng năm 1998 ở Australia, và lan rộng trên thế giới, trẻ thành một diễn đàn đặc biệt trong đó những người thiện chí và có phương thế họp nhau, trao đổi và giúp đáp ứng những thách đố lớn trên thế giới ngày nay, cổ võ một nền kinh tế thịnh vượng chung.. (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới XV

Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới XV

VATICAN. Sáng 13-1-2017, tài liệu chuẩn bị Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 15 đã được công bố trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Công Nghị GM thế giới này sẽ tiến hành vào tháng 10 năm 2018 về chủ đề ”Người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”.

Chủ tọa cuộc họp báo là ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới và vị phụ tá là Đức Cha Fabio Fabene. Ngoài ra cũng có 2 bạn trẻ nam nữ thuộc giáo xứ thánh Thomas More ở Roma.

Tài liệu dài 26 trang, sau phần nhập đề, lần lượt bàn tới trong 3 chương:

– Thứ I là tình trạng giới trẻ trên thế giới ngày nay, một thế giới đang thay đổi mau lẹ. Văn kiện nói về những thế hệ trẻ: họ thuộc về các nhóm nào, những điểm tham chiếu về nhân sự và tổ chức, và người ta đang tiến tới một thế hệ gắn liền với các kỹ thuật truyền thông tân tiến (iperconnessa). Sau cùng Tài liệu nói đề những người trẻ và những chọn lựa.

– Phần thứ II bàn đến đức tin, sự phân định và ơn gọi. Ơn phân định giúp nhận diện, giải thích và chọn lựa. Tiếp đến là những con đường ơn gọi và sứ mạng, sau cùng là sự đồng hành người trẻ.

– Phần thứ III trình bày hoạt động mục vụ: cụ thể là đồng hành với người trẻ theo 3 hành động: đi ra ngoài, nhìn xem, kêu gọi; kế đến là đối tượng nhắm tới: tức là tất cả mọi người trẻ, không trừ một ai, rồi cộng đoàn trách nhiệm, và những nhân vật người trẻ tham chiếu. Rồi tài liệu bàn đến những môi trường người trẻ: đời sống thường nhật, các lãnh vực chuyên biệt mục vụ, thế giới kỹ thuật số. Tài liệu cũng nói về các phương tiện như các ngôn ngữ mục vụ, việc chăm sóc giới dục và những hành trình loan báo Tin Mừng; sự thinh lặng, chiêm niệm và cầu nguyện.

Phần 3 cũng có một thiên bàn về vai trò của Mẹ Maria.

Tài liệu chuẩn bị kết thúc với một bản câu hỏi dài 4 trang được phân thành 3 tiểu đề: thu thập các dữ kiện, đọc tình trạng, và sau cùng là chia sẻ các đường lối thực hành.

Văn kiện này được gửi tới các HĐGM, các Thượng Hội đồng của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, các cơ quan trung ương Tòa Thánh và một số cơ quan khác như Hiệp hội các Bề trên Tổng Quyền dòng nam, để tham khảo ý kiến, dựa theo bản câu hỏi đính kèm. Ngoài ra các bạn trẻ cũng được hỏi ý kiến qua một mạng Internet về những mong đợi và cuộc sống của họ. Các bản trả lời góp ý sẽ được dùng để soạn tài liệu làm việc cho Công nghị của các GM thế giới.

Trong cuộc họp báo, ĐHY Baldisseri giải thích rằng danh từ ”giới trẻ” hay ”người trẻ” trong văn kiện này được hiểu là những người từ 16 đến 29 tuổi, tuy cũng co giãn tùy theo môi trường văn hóa và xã hội. Ngoài ra từ ”ơn gọi” trong văn kiện chuẩn bị, không phải chỉ nói về ơn gọi linh mục hoặc đời sống thánh hiến, nhưng nói về ơn gọi nói chung của người trẻ, ơn gọi yêu thương.

Tài liệu chuẩn bị này không phải là một văn kiện giáo huấn, nhưng chỉ là những dữ kiện gợi ý suy tư, để thu thập ý kiến của các thành phần dân Chúa.

Những câu hỏi dành cho tất cả mọi người, kể cả những người không thuộc Kitô giáo, hoặc không tín ngưỡng, mục đích là để thu thập các ý kiến. (SD 13-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP

 

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

PARIS. Các GM Pháp và Đức kêu gọi gia tăng giúp đỡ người di dân và tị nạn, nhất là các trẻ vị thành niên.

Trong thông cáo công bố hôm 12-1-2017, nhân ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 103 sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-1 tới đây, các GM Pháp và Đức nhắc đến sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân ngày này, qua đó ngài lưu ý về số phận các trẻ em và người trẻ là những người không được bảo vệ, gấp 3 lần so với những người lớn. Theo thống kê năm 2015, trong số hơn 65 triệu người tị nạn trên thế giới có quá một nửa là trẻ vị thành niên. Riêng tại Liên hiệp Âu châu, năm 2014 chỉ có 23 ngàn người trẻ di dân và tị nạn, năm 2015 sau đó, con số ấy tăng quá gấp 4 lần tức là 100 ngàn. Năm 2016 chắc chắn con số ấy càng gia tăng thê. Các GM Pháp và Đức viết:

”Đứng trước kỷ lục đau buồn ấy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải chiến đấu chống lại những nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Đặc biệt con số đông đảo các thiếu niên tị nạn không có người đi kèm ở Âu Châu đang đề ra cho chúng ta những thách đố hết sức lớn lao”.

Các GM Pháp cũng nhắc lại lời ĐTC khẳng định rằng ”Vì chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô nơi những người bé mọn và dễ bị tổn thương nhất, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể theo khả năng để bảo vệ phẩm giá của những người trẻ di dân và tị nạn.. Nhiều trẻ vị thành niên bị bó buộc phải mại dâm hoặc bị đưa vào vòng kỹ nghệ dâm ô, bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ, hay trong những hình thức tội phạm khác, các em là những người bị bó buộc phải trốn chạy vì xung đột và bách hại”.

HĐGM Pháp và Đức nhận định rằng ”Giáo hội Công giáo tại hai nước này có nhiều tài nguyên để đồng hành với những người trẻ di dân để giúp các em trên con đường đạt tới sự tự lập. Đứng trước thách đố rộng lớn, cần phải nới rộng các đề nghị hiện có và phát triển hơn nữa. Trọng tâm hoạt động được tiến hành theo nguyên tắc: khích lệ mỗi trẻ em phát huy khả năng của mình, đồng thời cũng không được quên trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tư cách là những nước đã ký Hiệp ước Genève, Hiệp ước Liên hiệp Quốc về quyền của các trẻ em và các hiệp ước quốc tế khác, nươc Pháp và Đức nhìn nhận các trẻ vị thành niên di dân có những quyền đặc thù. Vì thế chúng tôi kêu gọi các vị hữu trách chính trị tại hai nước liên hệ chu toàn nghĩa vụ bảo đảm những điều kiện pháp lý và hành chánh, giúp các trẻ vị thành niên có được một đời sống xứng đáng nơi chúng ta. Cần phải tôn trọng quyền được sống tuổi thơ trong mọi hoàn cảnh” (SD 12-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Washington – Đức Hồng y Timothy M. Dolan của New York cho biết, đoạn Kinh thánh ngài chọn để đọc trong lễ nhậm chức của tổng thống Donald J. Trump được lấy từ chương 9 sách Khôn ngoan. Đó là lời cầu nguyện của vua Salomon, xin ơn khôn ngoan để lãnh đạo đất nước theo ý Thiên Chúa.

Đức Hồng y Dolan nói với hãng tin Công giáo Hoa kỳ là ngài luôn cầu nguyện điều này và nói đùa rằng Chúa chưa ban cho ngài điều khấn xin.

Đức Hồng y giải thích rằng qua nhiều thế kỷ, lời cầu nguyện của Salomon đã được dâng lên Chúa. Trong lời cầu nguyện, vua Salomon nhận thức rằng Thiên Chúa tạo dựng con người “để cai quản thế giới trong sự thánh thiện và công bình và để xét xử với trái tim ngay thẳng.” Nhà vua tiếp tục cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan “hằng ngự bên tòa Chúa, và xin đừng đuổi con khỏi các con cái Ngài.”

Vua Salomon cũng khẩn cầu Thiên Chúa ban đức Khôn ngoan “để Người ở cùng và hành động với con, để con có thể biết điều làm đẹp lòng Chúa.” Vua cầu xin để các việc làm của vua sẽ được chấp nhận và vua sẽ phân xử dân Chúa cách chính trực và xứng với ngai vàng của vua cha.

Đức Hồng y Dolan có một phút để đọc lời cầu nguyện này và ngài cho biết một phút là đủ cho ngài. Ngài được yêu cầu gửi lời cầu nguyện mình đã chọn đến cho đội ngũ của ông Trump. Ngài không biết có phải để kiểm soát hay không nhưng đối với ngài điều này là thích hợp.

Đức Hồng y Dolan cùng với 3 vị lãnh đạo các tôn giáo khác sẽ xuất hiện trên bục khi buổi lễ nhậm chức của tổng thống Trump bắt đầu. Ngài cũng biết có những phê bình về việc ngài tham dự vào lễ nhậm chức này và đã nhận được các lời phê bình. Ngài đã trả lời cho những phê bình là nếu bà Hilary Clinton đắc cử và mời ngài, thì ngài cũng sẽ hiện diện như một vinh dự. Đức Hồng y nói thêm: “Chúng tôi là các mục tử và các lãnh đạo tôn giáo trong tổ chức cầu nguyện thánh thiện. Người ta yêu cầu chúng tôi cầu nguyện với họ và cho họ. Điều đó không có nghĩa là chúng tôi vì họ hay chống lại họ. Đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng tôi.”

Đối với Đức Hồng y, lễ nhận chức của một tổng thống mới cũng có thể là cơ hội của hy vọng và canh tân cho đất nước. Ngài nói: “Nhiều người có thể có những nghi ngờ về tổng thống đắc cử và tôi chắc chắn cũng thế, như đối với vị tổng thống sắp tới. Nhưng trong truyền thống vĩ đại của Hoa kỳ, chúng ta nhìn vào thời điểm của vị tổng thống sắp tới như một cơ hội của hy vọng … một cách thế để cho một người một cơ hội và cố gắng để hoàn thành những lời ông ta đã hứa.” (CNS 12/01/2017)

Hồng Thủy

 

Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Cha Adday vượt đường dài chăm sóc cho người Iraq tị nạn tại Thổ nhĩ kỳ

Giữa tiếng nhạc thánh ca sốt sắng và hương trầm tỏa nghi ngút, trong bầu không khí tràn đầy vẻ thánh thiêng và tôn kính, cha Remzi Diril, được biết với tên “cha Adday”, một tay cầm chén Máu Thánh và dĩa đựng Mình Thánh, từ từ di chuyển đến từng người, trao Thánh Thể cho hết người này đến người kia. Thánh lễ không được cử hành trong một nhà thờ, nhưng là trong một căn hộ chung cư ở Kirsehir, một thành phố nhỏ ở miền Trung Thổ Nhĩ kỳ, nơi người Hồi giáo chiếm đa số.

Là Linh mục duy nhất thuộc Giáo hội Công giáo Canđê hoạt động mục vụ ở Thổ Nhĩ kỳ, cha Adday đã trở thành một Linh mục du hành, một chiến binh đường phố, mỗi năm cha đi hàng ngàn dặm đường để đến các nơi chăm sóc đoàn chiên của mình, cộng đoàn Kitô hữu người Iraq tị nạn ở Thổ Nhĩ kỳ với khoảng 40 ngàn tín hữu. Từ khi được thụ phong Linh mục cách đây 2 năm, cha Adday, 34 tuổi, đã rửa tội cho hơn 200 trẻ em, làm phép hôn phối cho hơn 20 đôi và ban các nghi thức cho hơn 30 người hâp hối. Năm ngoái cha đã chuẩn bị cho hơn 150 em rước lễ lần đầu, còn năm nay con số các em được lãnh nhận Thánh Thể lần đầu cũng đã lên đến hơn 100 em.

Cha Adday thường di chuyển trên các chuyến bay giá rẻ vì Giáo hội không thể hoàn lại tiền vé máy bay cho cha. Chỉ trừ một số ít trường hợp, như khi cha đến cử hành các ngày lễ hội tôn giáo, thì cha hay các gia đình cha thăm viếng sẽ trả tiền vé. Cha đi đến tận các gia đình để thăm hay cử hành các nghi lễ vì như thế sẽ đỡ tốn kém hơn là cả một gia đình 10 người đi đến tận Istanbul, nơi cư ngụ chính của cha.

Thường khi đến một nơi, cha nhờ vào một mạng lưới trợ giúp, họ nối kết cha với các cộng đoàn Kitô hữu Iraq địa phương. Ví dụ, cha bay chuyến bay giá rẻ từ Istanbul đến Nevsehir, một thành phố ở miền trung Thổ Nhĩ kỳ, rồi từ đó cha đi xe buýt thêm gần 100 cây số để đến Kirsehir, nơi cha sẽ gặp gia đình một tín hữu. Cha đã đến đây lần thứ 8, cha nói: “Đây là gia đình của tôi ở Kirsehir. Ở mỗi thành phố, tôi có một gia đình. Đôi khi có hơn một gia đình.” Vợ chồng tín hữu này giữ vai trò liên lạc cho cha Adday. Sau khi đã đón tiếp cha đến căn hộ chung cư của họ và mời cha một ít nước trà và bánh ngọt, họ bắt đầu gọi điện thoại. Họ rất quen thuộc với 225 gia đình người Iraq ở tại thành phố và họ đang nối kết cuộc hành trình của vị Linh mục.

Miền đất Kirsehir này giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Kitô giáo. Các Kitô hữu tiên khởi đã đến đây để trốn tránh cuộc bách hại của đế quốc Roma. Ngày nay, các di tích của các thánh đường do các tín hữu xưa kia xây vẫn còn được viếng thăm. Tuy vậy, không có nhà thờ Công giáo nào hoạt động trong vùng. Do đó, khi cha Adday đến thăm, cha cử hành Thánh lễ tại các gia đình như các Kitô hữu tiên khởi đã làm. Nếu thuê một phòng hội để cử hành Thánh lễ thì sẽ tốn khoảng 900 đô la; số tiền đó tốt hơn là để chi trả cho phí tổn để có thể thăm nhiều gia đình hơn. Thường có khoảng 10 gia đình được mời dự lễ, với khoảng 30 thành viên. Các Thánh lễ tại các nhóm nhỏ mang lại những kinh nghiệm khác với Thánh lễ trong một nhà thờ. Cha Adday chia sẻ: “Thánh lễ tại gia đình giống như một gia đình. Người cha và các con cái chia sẻ vinh quang của Chúa. Nó khác như là  xem một cuốn phim trong một rạp chiếu phim và xem ở gia đình.” Sau Thánh lễ, cha Adday thăm một phụ nữ Iraq bị ung thư. Con gái của bà vừa khóc vừa mở cửa phòng ngủ, lo lắng về sức khỏe của người mẹ. Sức khỏe của bệnh nhân hết sức mỏng manh yếu đuối; cha Adday cầu nguyện một vài phút, rồi cha xức dầu thánh cho bà.

Rất nhiều người trong số những người cha Adday đến thăm, đã sống vài năm trời ở Thô nhĩ kỳ trong khi chờ đợi đơn xin tị nạn đến các nước như Úc, Canada và Hoa kỳ được chấp thuận. Thời gian chờ đợi thường kéo dài và thời gian chờ đợi bấp bênh như thế này sinh ra nhiều vấn đề thể lý cũng như tâm lý đối với họ. Cha Adday hiểu là những người tị nạn này cần sự trợ giúp thiêng liêng. Họ cần một Linh mục. Họ muốn Giáo hội ở với họ. Cha biết là cha không thể giúp cho họ về vật chất nhưng cha có thể cho họ thời gian và niềm hy vọng. Cha nói: “Khi bạn để đàn chiên của bạn ở trên núi, bạn không thể biết điều gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng khi bạn ở với chúng thì khác. Bạn có thể chỉ cho chúng nơi nào có nước, nơi nào là chỗ bình an để trú ngụ. Những người tị nạn giống như những đứa con nhỏ chờ đợi cha của chúng.”

Sau hai ngày một đêm bận rộn ở Kirsehir, cha Adday chuẩn bị trở lại Istanbul. Cha đã cử hành 5 Thánh lễ và thăm viếng nhiều gia đình nhưng cha không cảm thấy mệt mỏi. Cha hy vọng là những lần viếng thăm của cha giúp họ thêm vững mạnh về tinh thần và gần gũi với Giáo hội và đức tin của họ vào Chúa Giêsu được làm mới thêm. Mọi Kitô hữu cần phải làm mới lại đời sống thiêng liêng. Cha cũng hy vọng trao cho ho niềm hy vọng và nhắc nhở họ rằng Chúa làm những phép lạ và do đó họ cần tin tưởng. Cha nói với giáo dân hãy để Chúa làm những công việc cho họ. Người là Cha chúng ta và Người muốn điều tốt nhất cho chúng ta. (CNS 28/11/2016)

Hồng Thủy

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Nhà thờ thánh Calisto ở khu Trastevere, Roma đón người vô gia cư qua đêm

Vatican – Những ngày qua các quốc gia đang hứng chịu những ngày giá rét và thời tiết khắc nghiệt. Nhiều trường hợp chết vì giá lanh của  người vô gia cư đã được ghi nhận ở các nới.

Trước tình hình khó khăn này, từ thứ 7 tuần trước, nghĩa là từ ngày 7/1, nhà thờ thánh Calisto ở khu vực Trastevere, Roma đã mở cửa để cho những người sống trên đường phố không nơi trú ngụ có thể tìm được nơi trú ngụ qua đêm.

Nhà thờ này và các cơ sở phụ thuộc là vùng ngoại giới, tài sản trực thuộc Tòa thánh. Nhà thời là nơi thờ phượng cổ kính, được xây cất xung quanh một giếng nước nơi Đức giáo hoàng Calisto I tử đạo, vào năm 222. Tòa nhà hiện tại được xây cất vào thế kỷ XVII. Nhà thờ này được trao cho cộng đồng thánh Egidio và cộng đồng tổ chức các hoạt động phụng tự và giáo lý, đặc biệt cho những người cao niên và khuyết tật.

Hiện tại có khoảng 30 người, gồm người Italia và ngoại quốc, thường sống ngoài đường phố, được nghỉ đêm trong nhà thờ và trong các nơi liền kề, được sưởi ấm và được cung cấp giường, chăn mền và các dịch vụ vệ sinh. Các khách cư trú này có thể ăn tối từ 19 giờ chiều trở đi tại nhà ăn gần đó ở đường Via Dandolo và do đó có thể đến nhà thờ từ khoảng 20-22 giờ. Họ rời nhà thờ vào khoảng 8 giờ sáng.

Việc đón tiếp những người vô gia cư được giúp đỡ bởi các tình nguyện viên của cộng đồng thánh Egidio; những người này sẽ luân phiên hiện diện suốt trong những giờ nhà thờ mở cửa. Mỗi khách trọ được các tình nguyện viên giúp đỡ, đồng hành trong việc tìm giải pháp cho những nhu cầu vật chất và sưc khỏe của họ. Những ngày sau khi được tiếp đón tại đây họ sẽ tìm kiếm, nếu có thể, nơi có tình trạng tiếp đón ổn định hơn.

Tại Torino, Tổng giáo phận cũng đã tham gia vào việc giúp đỡ nhiều người nghèo khổ cần được giúp đỡ trong những ngày giá lạnh.

Tổng Giáo phận đã quyết định nới rộng “nhà ngủ” ở đường Via Cappel Verde, tại trung tâm lịch sử, dùng một tầng khác của tòa nhà làm nơi ngủ cho những người vô gia cư. Tại đây các khách trọ có thể ăn sáng và ăn tối. Hoạt động này được thực hiện cùng với sự cộng tác của Ser.Mi.G.

Bên cạnh đó, Đức cha Cesare Nosiglia – Tổng Giám mục của Torino đã kêu gọi các giáo xứ và các dòng tu làm hết sức để giúp những người vô gia cư. (ACI 13/01/2017)

Hồng Thủy

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để có thể đi theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, bạn phải bước đi, bạn không được dậm chân tại chỗ với tâm hồn ngồi lỳ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng đứng một chỗ rồi nhìn vào cuộc sống người khác mà xét đoán

Nhiều lần người ta muốn tung hô Chúa làm vua, vì họ nhận thấy Chúa là “nhà chính trị lỗi lạc” nhưng Chúa bỏ họ mà ẩn đi nơi khác. Thế nhưng Chúa vẫn để cho dân chúng đi theo Ngài vì Ngài biết chúng ta đều là những kẻ tội lỗi. Vấn đề lớn nhất là có những người không theo Chúa Giêsu mà lại lỳ ra đó.

Có người cứ đứng đó, đứng ở bên lề đường mà quan sát. Họ ngồi một chỗ mà không nhúc nhích. Có một số kinh sư ngồi đó nhìn, nhìn từ hành lang. Họ không bước đi trong cuộc sống, nên chẳng có gì phải sợ gặp nguy hiểm cả! Họ ở yên một chỗ mà xét đoán người dân. Thậm chí có những lời nặng nề như: Nhìn đám dân ngu muội kìa! Đúng là những kẻ nhẹ dạ cả tin, những kẻ mê tín! Chúng ta cũng bao lần làm như thế, khi đứng nhìn lòng đạo đức bình dân của những người đơn sơ. Tâm thế giáo sĩ trị đã làm cho chúng ta gây hại tới mức nào cho Giáo hội. Những chuyện như thế vẫn còn tiếp diễn.

Để gặp được Chúa Giêsu, cần dám mạo hiểm

Những người hôm nay đến với Chúa Giêsu đã phải làm cuộc đánh liều. Đó là dỡ mái nhà ra, tạo một cái lỗ để có thể thả cái chõng có người bất toại xuống trước mặt Chúa. Họ đã mạo hiểm với chủ nhà, vì chủ nhà có thể kiện họ và họ phải hoàn trả chi phí sửa nhà. Câu chuyện về người phụ nữ bị bệnh 18 năm cũng thế. Bà đã liều khi chạm vào gấu áo Chúa. Bà liều lĩnh vì bà có thể bị xấu hổ vì việc làm ấy. Chúng ta cũng thử nghĩ về người phụ nữ Canaan. Tất cả họ đã liều mạng và đã tìm thấy ơn cứu độ.

Việc đi theo Chúa, không phải là điều dễ dàng, nhưng rất đẹp. Khi đi theo Chúa, luôn có những bất trắc rủi ro. Nhưng rồi chúng ta sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và được Chúa chữa lành. Chúng ta biết mình là kẻ tội lỗi, và để theo Chúa, để gặp Chúa, chúng ta cần can đảm liều lĩnh.

Đừng có một tâm hồn ngồi lỳ trong thất vọng

Đi theo Chúa Giêsu bởi vì chúng ta cần điều gì đó trong việc đi theo Chúa, và điều ấy có nghĩa là theo Chúa trong đức tin. Đây chính là đức tin. Tin tưởng phó thác nơi Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu, nên những kẻ khiêng người bất toại hôm nay mới dám liều dỡ mái nhà tạo cái lỗ, để giúp người bất toại có thể gặp được Chúa. Họ tin Chúa bởi vì Chúa có thể chữa lành cho người bất toại.

Tôi có thể tự hỏi: Lạy Chúa Giêsu, con có tín thác vào Chúa, con có dâng trọn cuộc sống con cho Chúa không? Có những tâm hồn ngồi lỳ ra đó, nhìn xem người khác, nhìn xem cuộc sống. Tâm hồn con có ngồi lỳ ra đó, có đóng cửa trong cay đắng, trong thất vọng không? Hôm nay mỗi người có thể tự hỏi lòng mình những câu hỏi ấy.

Tứ Quyết SJ

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Cuộc sống của chúng ta là một ngày sống, ngày không thể lặp lại. Hôm nay, chúng ta đừng cứng lòng, nhưng hãy mở tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống ngày hôm nay

Tôi nói điều này không phải là để dọa anh chị em, rằng thật đơn giản khi nói: cuộc sống của chúng ta chính là ngày hôm nay: ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi nghĩ thế. Ngày mai sẽ là ngày mai của vĩnh cửu, ngày mai không bao giờ cùng, ngày mai mãi mãi ở bên Chúa. Nếu tôi thực sự sống ngày hôm nay, tôi hỏi Chúa Thánh Thần: Lạy Chúa, con phải sống như thế nào trong ngày hôm nay?

Mở cõi lòng cho Thiên Chúa

Trong trái tim của chúng ta, có cuộc chơi dành cho chính ngày hôm nay. Chúng ta có mở rộng tâm hồn mình cho Chúa không? Tôi thường cảm thấy được đánh động khi nhìn và lắng nghe những bậc cao niên, thường là các linh mục và nữ tu, nói với tôi: “Thưa cha, xin hãy cầu nguyện để con bền đỗ tới cùng.” – “Nhưng các vị đã dâng hiến trọn đời, đã sống mọi ngày trong cuộc đời để phục vụ Chúa rồi, còn sợ gì nữa…?” – “Không, không, con muốn cuộc sống được trọn vẹn, xin hãy cầu nguyện để lòng con mạnh mẽ trong đức tin, và không bị chiều theo những cám dỗ những tội lỗi…”

Tự hỏi lòng mình về ngày hôm nay

Ngày hôm nay không thể lặp lại: cuộc sống là thế. Và tâm hồn, hãy mở cõi lòng, mở cõi lòng mình cho Thiên Chúa, hãy vừng tin, đừng khép tâm hồn, đừng cứng lòng, đừng bị tội lỗi lừa dối. Chúa Giêsu đã từng gặp quá nhiều người đóng cửa tâm hồn: đó là các kinh sư, đó là những người đã kết án Chúa, là những người chuyên gài bẫy Chúa.

Chúng ta trở về nhà chỉ với hai từ này: “ngày hôm nay” và “tâm hồn tôi”. Đây là ngày hôm nay của tôi sao? Ngày hôm nay tôi thế nào? Tôi có sống trong sự hiện diện của Chúa không? Tâm hồn tôi ra sao? Lòng tin của tôi có mạnh mẽ không? Tâm hồn tôi có được dẫn dắt bởi Chúa không? Với câu hỏi về ngày hôm nay và câu hỏi về cõi lòng mình, chúng ta hãy xin Chúa ban những ơn cần thiết cho mỗi người chúng ta. 

Tứ Quyết SJ

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Yurek, người vô gia cư được chữa lành nhờ Đức cha Sorrentino của Assisi

Buổi chiều ngày khai mạc Năm Thánh Lòng thương xót, khí hậu ở thành phố Assisi rất lạnh. Khi Đức cha Domenico Sorrentino, Giám mục của Giáo phận đang trên đường từ nhà thờ thánh Rufino trở về Tòa Giám mục, một nữ tu đã đưa ngài đến chỗ của Yurek, một người Ba lan vô gia cư 60 tuổi. Yurek không có gia đình thân thuộc, ông sống lang thang trên đường phố Assisi từ vài năm nay. Niềm vui của ông là rượu; ông say rượu từ sáng sớm cho đến chiều tối. Tất cả dân thành phố Assisi hầu như đều biết ông, đặc biệt là các nhân viên cứu hộ là những người mà dân chúng thường gọi đến, khi họ thấy ông Yurek say rượu nằm nửa sống nửa chết trên đường phố.

Khi Đức cha Sorrentino tìm thấy Yurek, như mọi ngày, ông đang say rượu, nằm trên đất lạnh lẽo và có nguy cơ là sẽ bị chết cóng vào trời đêm giá rét. Đức cha Sorrentino nhận ra đây là một tình huống khó khăn phức tạp, nhưng ngài không muốn tháo lui, từ chối giúp ông Yurek. Và quả thật, không hề dễ dàng để đưa ông về tòa giám mục. Ban đầu ông Yurek cự tuyệt, từ chối không muốn đi theo Đức cha, vì ông đã quen với đời sống lang thang, làm bạn với rượu chè. Nhưng cuối cùng Đức cha đã thuyết phục được Yurek và đưa ông về tòa giám mục với mình. Sau đó Đức cha đã gửi ông đến trung tâm tiếp nhận của Caritas.

Chính nhờ cuộc gặp gỡ với vị Giám mục này mà cuộc đời của người vô gia cư Yurek được cứu vớt. Thời gian đầu thật là khó khăn để giúp Yurek. Ông ta cứ tiếp tục uống rượu và cơ thể ông ngày thêm suy nhược. Nếu mà người ta cố gắng lấy rượu đi và không cho ông uống nữa thì ông sẽ bỏ đi, vì ông không thể sống mà không được uống rượu. Sau nhiều lần nhập viện và sức khỏe có vấn đề trầm trọng, được các y tá và các nhân viên tình nguyện của Caritas trợ giúp, bệnh nghiện rượu của ông đã chấm dứt. Người ta cũng sợ là ông sẽ bị nghiện lại, nhưng phép lạ đã xảy ra. Từ ngày đó trở đi, ông không còn đụng đến rượu nữa. Mỗi ngày ông thức dậy sớm và bắt đầu quét dọn sạch sẽ ngôi vườn của trung tâm Caritas cách cẩn thận. Trước đó, ngay cả việc vệ sinh cá nhân ông cũng chẳng thèm quan tâm, nhưng bây giờ ông vệ sinh cá nhân và căn phòng của ông luôn luôn sạch sẽ ngăn nắp. Ông cũng đặt hai cái ghế và một cái bàn nhỏ để tiếp đón những người đến thăm ông. Tất cả những người đã biết ông trước đây và bây giờ khi nhìn thấy ông, họ không thể tin vào mắt của mình. Ông bây giờ đã trở thành một người đàn ông khác,sạch sẽ, lịch sự và vui tươi.

Việc cai nghiện thành công và thay đổi cuộc sống của Yurek quả thật là một phép lạ của Năm Thánh Lòng thương xót, như Đức cha Sorrentino nhìn nhận. Ngài mời gọi mọi người cám ơn Chúa về sự cứu sống này. Nhiều bệnh nhân đã đến bệnh viện và trung tâm Caritas, nhưng họ cũng nhận nhiều rủi ro trong việc cai nghiện. Sau câu chuyện cai nghiện thành công và đổi đời  của Yurek, có một bài học luân lý căn bản; đó là chỉ khi được đụng chạm đến sâu thẳm, con người mới có thể đứng dậy và bắt đầu hướng về tương lai. Như cha Stefano Tondelli, phó giám đốc Caritas giáo phận Assisi nhận định: “Có lẽ Yurek cảm thấy được yêu thương, tìm được một chiếc giường để ngã lưng mỗi ngày, những điều này giúp cho ông có động lực để sống, để biết chăm sóc bản thân và thoát khỏi sự tuyệt vọng mà có lẽ đã đẩy ông vào con đường ngập chìm trong rượu chè. Chính Đức cha Sorrentino cũng nhìn nhận răng, ông Yurek là niềm vui Chúa ban cho cộng đoàn, đó là được nhìn thấy hoa trái bé nhỏ nhưng lớn lao của niềm hy vọng tình yêu.

Mới đây ông Yurek đã được Đức cha Sorrentino mời đến ăn trưa cùng với cộng đoàn các nữ tu và cha Tondelli. Như thế, sau 3 thiếu nữ người Nigeria, Đức cha cũng đã mở cánh cổng nhà ngài để đón tiếp người bạn Yurek này. (Aleteia.it  28/11/2016)

Hồng Thủy

 

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Khi tin tưởng vào các thần tượng bằng vật chất, hay do trí óc chúng ta làm ra, khi biến các thực tại hạn hẹp thành tuyệt đối, khi giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng của chúng ta, biến Ngài thành một vị thần giống chúng ta, có thể hiểu được, thấy trước được như các thần tượng vô hồn, là chúng ta đặt hy vọng vào hư vô. Chỉ khi tin tưởng nơi Chúa chúng ta mới trở nên như Ngài, phước lành của Ngài biến đổi chúng ta thành con cái chia sẻ sự sống của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã đề cập tới niềm hy vọng như nhu cầu sơ đẳng của con người: hy vọng vào tương lai, tin tưởng nói sự sống, suy nghĩ tích cực. Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh là thời gian của năm phụng vụ nhằm thức tỉnh nơi dân Thiên Chúa niềm hy vọng. Nhưng thật quan trọng là niềm hy vọng ấy phải đặt để vào điều có thể thực sự giúp chúng ta sống và trao ban ý nghĩa cho cuôc đời mình. Chính vì thế mà Thánh Kinh cảnh báo chúng ta chống lại các niềm hy vọng giả dối, các niềm hy vọng giả dối này mà thế gian trình bầy với chúng ta, bằng cách lột mặt nạ sự vô ích của chúng và chỉ cho thấy cái vô nghĩa của chúng. Và Thánh Kinh làm điều đó bằng nhiều cách thế, nhất là bằng cách tố cáo các thần tượng giả mà con người liên tục bị cám dỗ đặt để niềm tin tưởng của nó, bằng cách biến nó trở thành đối tượng niềm hy vọng của mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đặc biệt các ngôn sứ và các người khôn ngoan nhấn mạnh trên điều ấy, bằng cách đụng chạm tới điểm nhức nhối trên con đường lòng tin của tín hữu. Và ĐTC giải thích như sau:

Bởi vì tin là tín thác nơi Thiên Chúa – ai tin thì tín thác nơi Thiên Chúa – nhưng tới lúc trong đó, khi phải đụng chạm với các khó khăn của cuộc sống, con người cảm nghiệm được sự giòn mỏng của sự tin tưởng của nó và cảm thấy cần có các chắc chắn khác nhau, các chắc chắn cụ thể, có thể sờ mó được. “Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng tình hình hơi xâu một chút, và tôi cần một sự chắc chắn hơi cụ thể môt chút.” Và ở đó, nguy hiểm là ở đó. Và khi đó chúng ta bị cám dỗ tìm cả các an ủi mau qua, xem ra lấp đầy sự trống rỗng của nỗi cô đơn và làm nhẹ bớt cái mệt nhọc của việc tin tưởng.

** Và chúng ta nghĩ có thể tìm chúng trong an ninh. mà nó có thể cho – chẳng hạn – tiền bạc hay trong các liên minh với những người quyền thế; hoặc trong tinh thần thế tục; hay trong các ý thức hệ dối trá. Nhưng chúng ta thích các thần tượng, chúng ta thích các thần tượng biết bao! Có một lần nọ, tại Buenos Aires, tôi phải đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, cách nhau ít nhiều khoảng một ngàn mét. Và tôi đi bộ. Ở giữa hai nhà thờ có một công viên, và trong công viên có rất nhiều các bàn nhỏ, nơi có các thầy bói ngồi; và có rất đông ngưòi xếp hàng dài chờ. Bạn đưa bàn tay cho họ, và họ bắt đầu nói. Nhưng diễn văn luôn luôn giống nhau: có một phụ nữ trong cuộc đời ông, có một bóng đen đang đến, nhưng mọi sự sẽ thành công tốt… Và rồi bạn trả tiền. Điều này có trao ban an ninh cho bạn không? Đó là một sự chắc chắn – xin anh chị em cho phép tôi dùng từ này – của một sự ngu độn – Nhưng đó là một thần tượng: tôi đã đi tới bà thầy bói ông thầy bói, hay tôi đã đi coi bài – Tôi biết là không có ai trong anh chị em làm điều này đúng không? – Tín hữu cười – và tôi đã thành công hơn. Nó làm tôi nhớ tới cuốn phim có tựa đề “Phép lạ tại Milano” của người làm cái đó, thật là thối cái mũi… giá 100 đồng Lire. Họ bắt bạn trả tiền để cho họ ca tụng bạn, trao ban cho bạn một niềm hy vọng giả dối. Đó là thần tượng, và chúng ta gắn bó biết bao với chúng: chúng ta mua các niềm hy vọng giả dối. Và Đấng là niềm hy vọng của sự nhưng không, Đấng đã trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô, một cách nhưng không, đã cho chúng ta sự sống, Đấng ấy thì chúng ta không tin tưởng bao nhiêu…

Đôi khi chúng ta tìm chúng nơi một thần linh có thể cúi gập trước các đòi hỏi của chúng ta, và can thiệp một cách kỳ điệu để biến đổi thực tại, và làm cho nó trở thành như chúng ta muốn; nghĩa là một thần tượng và như là thần tượng nó không thể làm gì hết, bất lực và dối trá.

Có một thánh vịnh tràn đầy khôn ngoan miêu tả cho chúng ta một cách hết sức gợi ý cái giả dối của các thần tượng này, mà thế gian cống hiến cho niềm hy vọng của chúng ta, và con người thuộc mọi thời đại bị cám dỗ đặt tin tưởng nơi chúng. Đó là thánh vịnh 115. Thánh vịnh viết như thế này: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.” (Tv 115,4-8).

Tác giả thánh vịnh trình bầy với chúng ta một cách châm biếm thực tại tuyệt đối phù du của các thần tượng này. Và ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Và chúng ta phải hiểu rằng đây không chỉ là các hình tượng làm bằng kim loại và chất liệu khác, nhưng cũng là các hình tượng mà trí óc chúng ta xây dựng nữa, khi chúng ta tin tưởng nới các thực tại hạn hẹp mà chúng ta biến thành tuyệt đối, hay khi chúng ta giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng về thần linh của chúng ta; một thần linh giống chúng ta, có thể hiểu và tiên liệu, y như các thần tượng mà thánh vịnh nói tới. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chế tạo một thần linh theo hình ảnh của nó, và cũng là một hình ảnh vụng về: không nghe, không cử động và nhất là không thế nói. Nhưng chúng ta lại hài lòng đi tới với các thần tượng hơn là đi tới với Chúa. Chúng ta càng hài lòng hơn với niềm hy vọng phù du trao ban điều giả dối này, thần tượng này hơn là niềm hy vọng vĩ đại chắc chắn mà Chúa ban cho chúng ta…

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: đối chọi với niềm hy vọng nơi một Chúa của sự sống, là Đấng với Lời của Ngài đã tạo dựng nên thế giới và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, người ta tin tưởng nơi các thần tượng câm nín. Các ý thức hệ, với các yêu sách tuyệt đối của chúng, các giầu sang – và đây là một thần tượng lớn – các giầu sang, quyền lực và thành công, sự phù vân, với các ảo tưởng vĩnh cửu và toàn năng của chúng, các giá trị như vẻ đẹp vật lý và sức khỏe, khi chúng trở thành thần tượng cần phải hy sinh mọi sự, tất cả chúng đều là các thực tại làm lẫn lộn tâm trí, và thay vì tạo điều kiện cho sự sống thì nó dẫn đưa tới cái chết.

Thật là xấu xa nghe biết và gây đau đớn cho tâm hồn điều, mà cách đây nhiều năm tôi đã nghe được trong giáo phận kia: có một phụ nữ một phụ nữ giỏi giang, rất đẹp, đẹp lắm, và bà khoe khoang sắc đệp của bà, bà bình luận như thể là chuyện tự nhiên: “Ô, vâng tôi đã phải phá thai, vì gương mặt tôi quan trọng lắm”.Thế đó… Đây là các thần tượng,  chúng đưa bạn tới con đường sai lầm, và không trao ban cho bạn niềm hạnh phúc.

Sứ điệp của thánh vịnh rất rõ ràng: nếu ta đặt tin tưởng nơi các thần tượng, thì ta cũng trở thành như chúng: là các hình ảnh trống rỗng với tay không sờ mó, với chân không bước đi, miệng không thể nói. Ta không còn gì để nói nữa, ta trở thành không có khả năng trợ giúp, thay đổi các sự vật, không có khả năng cười, trao ban chính mình, không có khả năng yêu thương. Và cả chúng ta là các ngưòi của Giáo Hội, chúng ta cũng gặp nguy cơ này khi chúng ta “trần tục hoá chính mình”. Cần phải ở trong thế gian, nhưng bảo vệ chính mình khỏi các ảo tưởng của thế gian là các thần tượng này mà tôi đã nêu trên đây.

Như thánh vịnh tiếp tục, cần phải tín thác và hy vọng nơi Thiên  Chúa, và Thiên  Chúa sẽ chúc phúc. Thánh vinh nói: “Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che. Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa… Ai kính sợ Chúa hãy tin cậy Chúa …Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ chúc phúc” (Tv 115,9-11). Chúa luôn luôn nhớ, cả trong những lúc xấu xa, nhưng Ngài nhớ đến chúng ta. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Và niềm hy vọng không gây thất vọng. Không bao giờ. Không bao giờ gây thất vọng. Các thần tượng luôn luôn gây thất vọng: chúng là các tưởng tượng, chúng không thật.

** Đây là thực tại tuyệt vời của niềm hy vọng: khi tín thác nơi Chúa ta trở thành như Ngài, phúc lành của Ngài biến đổi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con cái Ngài, chía sẻ sự sống của Ngài. Niềm hy vọng nơi Thiên Chúa làm cho chúng ta bước vào trong ánh sáng hoạt động của kỷ niệm của ký ức Ngài chúc lành cho chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Và khi đó có thể vọt lên tiếng Alleluia, chúc tụng Thiên Chúa hằng sống và chân thật, là Đấng vì chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, đã chết trên thập giá và sống lại trong vinh quang. Và nơi vì Thiên Chúa này chúng ta hy vọng, và Thiên Chúa này không phải là một thần tượng, không bao giờ gây thất vọng.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các đại chủng sinh chủng viện Saint Sulpice Issy- les -Moulineaux; các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản; cũng như các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,  và Ba Lan. Ngài nói thế giới cống hiến cho chúng ta biết bao niềm hy vọng giả, thay vì trao ban tin tưởng chúng ăn cắp sự tự do và biến chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Các thần tượng cũng như ma tuý hứa hẹn niềm vui, nhưng lại ăn cướp sự tự do. Vì thế việc chữa lành nô lệ các thần tượng trước hết là nhận biết chúng, quyết định thoát khỏi, can đảm từ bỏ chúng, và nhất là đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thật hằng sống là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói năm nay Ba Lan mừng 100 năm tu huynh Alberto Chmielowski sinh ra.  Tôi khuyến khích anh chị em noi gương vị thánh của lòng thương xót, anh em của những người vô gia cư, dân nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, để đem tình yêu thương, bác ái và niềm hy vọng tới cho mọi người.

ĐTC cũng lưu ý tín hữu đừng để mình bị lừa bởi những kẻ xấu muốn làm tiền họ, vì các vé tham dự tiếp kiến đều hoàn toàn miễn phí.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài đặc biệt chào các linh mục giáo sư các chủng viện, học viện thành viên chi nhánh đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới lễ Chúa chịu phép rửa Chúa Nhật vừa qua. Ngài khích lệ mọi người tái khám phá ra ơn bí tích Rửa Tội đã nhận lãnh, và kín múc từ đó niềm tin nơi Giáo Hội, sức mạnh giúp đối phó với khổ đau bệnh tật và lòng can đảm dấn thân trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải.