AN TÂM

AN TÂM

Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.

Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.

Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).

Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.

Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.

Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?". Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.

Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).

Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.

Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!

– Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…

– Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…

– Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …

– Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…

– Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…

Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?

Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).

Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).

Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.

Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.

Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.

Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.

Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.

Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.

Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.

Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?

2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?

3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lời kêu xin

Lời kêu xin

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:

– Lạy Thầy, xin cứu chúng con.

Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:

– Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.

Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.

Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.

Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:

– Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.

Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:

– Lạy Chúa xin giúp đỡ con.

Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?

Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.

Sưu tầm

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiệp sĩ Lao động Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiệp sĩ Lao động Italia

Pope tiếp kiến đoàn Hiệp Sĩ Lao Động

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 20-6-2015 dành cho 150 thành viên Liên đoàn quốc gia các Hiệp sĩ Lao Động Italia, ĐTC tái lên án nạn thất nghiệp giới trẻ.

Hiệp sĩ Lao động là những người nổi bật trong giới chủ xí nghiệp và kinh tế, được Tổng thống Italia tưởng thưởng Huân công quốc gia vì đã góp phần kiến tạo công ăn việc làm và làm tăng trưởng giá trị các sản phẩm Italia trên thế giới.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nói đến tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay trong một bối cảnh xã hội với những chênh lệch và nạn thất nhiệp, nhất là nơi người trẻ. Ngài gọi tình trạng thất nghiệp này của người trẻ là một triệu chứng cho thấy có những gì bất ổn trầm trọng, mà người ta không thể chỉ qui trách cho những nguyên nhân trên bình diện hoàn cầu và quốc tế.

ĐTC nhắc lại một điều mà giáo huấn xã hội Công Giáo liên tục nhấn mạnh đó là tiêu chuẩn căn bản, theo đó con người ở trung tâm sự phát triển, và bao lâu còn có những người nam nữ thụ động hoặc ở ngoài lề, thì công ích không thể được coi là đã hoàn toàn đạt được.

ĐTC ca ngợi sáng kiến mà Liên đoàn toàn quốc các Hiệp sĩ lao động Italia đang làm nổi bật, đó là ngoài vai trò xã hội của lao động, còn có chiều kích luân lý đạo đức nữa. Thực vậy, chỉ khi nào ăn rễ trong công lý và tôn trọng luật pháp thì nền kinh tế mới góp phần vào sự phát triển đích thực, không gạt cá nhân và các dân tộc ra ngoài lề, tránh được nạn tham ô và bất lương, cũng như không lơ là với việc bảo vệ môi trường tự nhiên (SD 20-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha khuyến khích các vận động viên Italia

Đức Thánh Cha khuyến khích các vận động viên Italia

ĐTC gặp gở các vận động viên

VATICAN. ĐTC Phanxicô khuyến khích các vận động viên Italia giúp xã hội và Giáo Hội vượt thắng mọi hình thức kỳ thị và loại trừ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi buổi tiếp kiến sáng ngày 19-6-2015 dành cho 150 người gồm các vị lãnh đạo, các huấn luyện viên và vận động viên của Italia tham dự thế vận Olimpic đặc biệt sẽ tiến hành tại thành phố Los Angeles Hoa Kỳ từ ngày 25-7 đến 2 tháng 8 tới đây.

Trong bài huấn dụ, sau khi đề cao các giá trị tích cực của thể thao, ĐTC cũng nói rằng: ”Anh chị em hãy trung thành với lý tưởng của thể thao. Đừng để mình bị nhiễm thứ văn hóa giả tạo về thể thao, thứ văn hóa theo đuổi thành công kinh tế, thắng cuộc bằng bất kỳ giá nào, và theo cá nhân chủ nghĩa. Trái lại, cần bảo tồn và bênh vực thể thao như một kinh nghiệm về các giá trị nhân bản, thi đua trong sự lương thiện và liên đới. Luôn luôn tôn trọng phẩm giá của mỗi người. Ước gì không một ai bị loại khỏi việc thực hành thể thao. Và để đạt tới mục tiêu ấy cần có hoạt động quảng đại và hòa hợp của các thực tại cơ chế và xã hội khác nhau”.

Thế vận Olimpic đặc biệt sắp tới tại Los Angeles dành cho những người bị bệnh tự kỷ và khuyết tật tâm trí, có sự tham dự của hơn 7 ngàn vận động viên từ 170 quốc gia, qua 25 bộ môn thể thao. (SD 19-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha chia sẻ đau khổ của Giáo Hội Chính Thống Siriac

Đức Thánh Cha chia sẻ đau khổ của Giáo Hội Chính Thống Siriac

ĐTC chia sẻ với Giáo Hội Chính Thống Siriac

VATICAN. ĐTC Phanxicô chia sẻ những đau khổ của Giáo Hội Chính Thống Siriac và cầu mong những thử thách đau thương này càng cũng cố mối liên hệ thân hữu và huynh đệ giữa hai Giáo Hội.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 19-6-2015, dành cho Đức Thượng Phụ Ignatius Aphrem II, và phái đoàn Giáo Hội Chính Thống Siriac đến viếng thăm Tòa Thánh. Giáo Hội này có khoảng 1 triệu 800 ngàn tín hữu trên thế giới.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến tiến trình đối thoại giữa Công Giáo và Chính Thống Siriac từ 44 năm nay tức là từ sau cuộc gặp gỡ giữa ĐGH Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Ignatius Jacob III tại Roma năm 1971. Ngài đặc biệt mô tả ”Giáo Hội Chính Thống Siriac như một Giáo Hội tử đạo, nhất là trong tình trạng Trung Đông ngày nay: Giáo Hội này cùng với các cộng đoàn Kitô và các nhóm thiểu số khác đang phải chịu những đau khổ kinh khủng do chiến tranh, bạo lực và bách hại gây ra! Bao nhiêu đau thương! Bao nhiêu nạn nhân vô tội! Đứng trước tất cả những điều đó, dường như các nước hùng mạnh của thế giới này không có khả năng tìm ra những giải pháp”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Máu các vị tử đạo là hạt giống tạo nên sự hiệp nhất của Giáo Hội và là dụng cụ xây dựng nước Thiên Chúa là nước an bình và công chính. Đức Thượng Phụ và anh em thân mến, trong lúc thử thách cam go và đau thương này, chúng ta hãy củng cố hơn nữa các mối liên hệ thân hữu và huynh đệ giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Siriac. Chúng ta hãy mau tiến bước trên con đường chung, mắt hướng nhìn về ngày mà chúng ta có thể cử hành sự kiện chúng ta cùng thuộc về Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô quây quần quanh cùng một bàn thờ Hy Tế và chúc tụng. Chúng ta hãy trao đổi các kho tàng truyền thống chúng ta như những hồng ân thiêng liêng, vì điều liên kết chúng ta trổi vượt hơn những gì chia rẽ chúng ta” (SD 19-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha cổ võ sống và rao giảng Lời Chúa

Đức Thánh Cha cổ võ sống và rao giảng Lời Chúa

ĐTC gặp gở ĐHY Luis Antonio Tagle TGM giáo phận Manila

VATICAN. ĐTC cổ vỗ các tín hữu cảm nghiệm và sống Lời Chúa để có thể loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa.

Trên đây là nội dung bài huấn dụ của ngài trong buổi tiếp kiến sáng 19-06-2015, dành cho 140 đại biểu tham dự Đại hội thứ 10 của Liên hiệp Kinh Thánh Công Giáo, tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY tân chủ tịch Luis Antonio Tagle, TGM giáo phận Manila.

ĐTC khẳng định rằng: ”Để có thể loan báo Lời chân lý, chính chúng ta phải cảm nghiệm Lời Chúa: lắng nghe, chiêm niệm, và hầu như động chạm đến Lời Chúa bằng tay chúng ta .. (Xc 1 Ga 1,1). Như Hiến chế ”Lời Chúa” (Dei Verbum) của Công đồng chung Vatican 2 gợi ý, các tín hữu Kitô phải tôn kính, đọc, lắng nghe, loan báo, rao giảng, học Ohọc và phổ biến Lời Chúa” (n.25)… Giáo Hội sẽ không loan báo Tin Mừng nếu trước tiên Giáo Hội không để cho mình liên tục được 'Phúc âm hóa'. Một điều tối quan trọng là Lời Chúa ngày càng phải trợ thành con tim mọi hoạt động của Giáo Hội” (Ev. gaudium, 174).

ĐTC nhắc đến tình trạng có nhiều nơi Lời Chúa chưa hề được công bố, được lắng nghe, và cũng có những nơi Lời Chúa bị làm cho mất mọi uy tín. Sự thiếu nâng đỡ và thiếu sức mạnh của Lời Chúa làm cho các cộng đồng Kitô kỳ cựu bị suy yếu và ngăn cản sự tăng trưởng tinh thần, cũng như lòng nhiệt thành truyền giáo của các Giáo Hội trẻ. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm nếu ”sứ điệp Tin Mừng bị nguy cơ mất sự tươi mát và không còn hương thơm của Phúc Âm nữa” (Ib. 39).

Vì thế ĐTC mời gọi các tín hữu mạnh mẽ dấn thân mục vụ để làm nội bật vị thế trung tâm của Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội, làm cho toàn thể việc mục vụ được Kinh Thánh linh hoạt. (SD 19-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tóm lược Thông Điệp ”Laudato sí” của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tóm lược Thông Điệp ”Laudato sí” của Đức Thánh Cha Phanxicô

Laudato si

Laudato sí: một ”bản đồ”

 Bản văn này nhắm giúp đọc Thông điệp lần đầu tiên, giúp lãnh hội diễn tiến tổng quát và nhận ra những hướng đi căn bản của Thông điệp. Phần ”Một cái nhìn tổng quát” trình bày tổng quan Thông Điệp, sau đó trình bày nội dung mỗi chương, nêu rõ mục tiêu và trích dẫn vài đoạn nòng cốt. Các con số ở trong ngoặc đơn là số đoạn của Thông Điệp. Phần chót là Mục Lục tổng quát của Thông Điệp

 Một cái nhìn tổng quát

 ”Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?”. Câu hỏi này chính là trọng tâm thông điệp ”Laudato sí”, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà người ta chờ đợi về việc săn sóc căn nhà chung. Ngài viết tiếp: ”Câu hỏi này không phải chỉ liên quan riêng đến môi trường mà thôi, vì ta không thể đặt câu hỏi một phần”, và điều này khiến ta tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống và những giá trị làm căn bản cho đời sống xã hội: ”Chúng ta đến trần thế này để làm gì? Chúng ta hoạt động và tranh đấu với mục đích nào? Tại sao trái đất lại cần chúng ta?”. Đức Giáo Hoàng viết: ”nếu chúng ta không đặt những câu hỏi căn bản ấy, thì tôi không tin rằng những quan tâm của chúng ta về môi trường có thể có những hiệu quả quan trọng”.

 Thông điệp lấy tên từ lời cầu của thánh Phanxicô. 'Laudato sí, mí Signore” (Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa), trong bài ca của các thụ tạo có nhắc nhớ rằng trái đất là căn nhà chung của chúng ta, ”cũng như người chị chúng ta, chúng ta chia sẻ cuộc sống với chị ấy, và như người mẹ tươi đẹp đón nhận chúng ta trong vòng tay của mẹ” (1). Chính ”chúng ta là đất” (Xc St 2,7). Chính thân thể chúng ta được cấu thành nhờ những yếu tố của trái đất, không khí là yếu tố mang lại cho chúng ta hơi thở và nước của trái đất làm cho chúng ta được sống và được bổ dưỡng” (2).

 Giờ đây, trái đất, bị ngược đãi và cướp phá đang kêu than và những tiếng than trách của trái đất đang hiệp với những tiếng rên xiết của tất cả những người bị bỏ rơi trên thế giới này. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi hãy lắng nghe họ, ngài kêu gọi tất cả và từng người – cá nhân, gia đình, tập thể địa phương, quốc gia và cộng đồng quốc tế – hãy ”hoán cải về môi sinh”, theo kiểu nói của thánh Gioan Phaolô 2, nghĩa là ”đổi hướng”, đón nhận vẻ đẹp và trách nhiệm dấn thân để 'săn sóc căn nhà chung'. Đồng thời Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhìn nhân rằng: ”Người ta nhận thấy có sự nhạy cảm ngày càng gia tăng đối với môi trường và việc săn sóc thiên nhiên, và thành thực lo lắng vì những gì đang xảy ra cho hành tinh của chúng ta” (19), hợp thức hóa cái nhìn hy vọng mà toàn thể Thông Điệp làm nổi bật và gửi đến tất cả mọi người một sứ điệp rõ ràng và đầy hy vọng: ”Nhân loại còn có khả năng cộng tác để xây dựng một căn nhà chung” (13); ”con người còn khả năng can thiệp tích cực” (58); ”không phải tất cả đã bị mất mát, vì con người, tuy có khả năng thoái hóa tột độ, nhưng vẫn còn có thể tự vượt thắng, tái chọn lựa điều thiện và tái tạo” (205).

 Dĩ nhiên ĐGH Phanxicô ngỏ lời với các tín hữu Công Giáo, ngài nhắc lại lời thánh Gioan Phaolô 2: ”Đặc biệt các tín hữu Kitô nhận thấy rằng nghĩa vụ của họ giữa lòng thiên nhiên, các nghĩa vụ của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa là thành phần đức tin của họ” (64), nhưng họ ”đặc biệt muốn đối thoại với tất cả mọi người về căn nhà chung của chúng ta” (3): đối thoại được nói đến trong toàn Thông điệp, và trong chương V nó trở thành một phương thế để đối phó và giải quyết các vấn đề. Ngay từ đầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở rằng cả ”các Giáo Hội và các Cộng đoàn Kitô khác – cũng như các tôn giáo khác – đã phát triển sự quan tâm sâu xa và một suy tư quí giá” về đề tài môi sinh học (7). Đúng hơn, họ đóng góp đặc biệt, bắt đầu tự sự đóng góp của ”Đức Thượng Phụ chung quí mến Bartolomeo” (7), được trích dẫn nhiều trong các đoạn số 8-9. Rồi nhiều lần, Đức Giáo Hoàng cám ơn những người giữ vai chính trong công cuộc này – các cá nhân cũng như các hiệp hội và tổ chức – ngài nhìn nhận rằng ”suy tư của vô số nhà khoa học, triết gia, thần học gia và các tổ chức xã hội đã phong phú hóa tư tưởng của Giáo Hội về những vấn đề ấy” (7) và Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy nhìn nhận ”sự phong phú mà các tôn giáo có thể đóng góp cho một nền môi sinh học toàn diện và cho sự phát triển trọn vẹn con người” (62).

 Lộ trình của Thông Điệp được trình bày trong số 15 và được khai triển trong 6 chương. Văn kiện đi từ một sự lắng nghe tình trạng, dựa trên những thủ đắc khoa học tốt nhất ngày nay (ch. 1), đối chiếu với Kinh Thánh và truyền thống Do thái – Kitô (ch. 2), nêu rõ căn cội của các vấn đề (ch. 3) trong thời đại kỹ thuật làm chủ và trong thái độ co cụm thái quá tự tham chiếu của con người. Chủ trương của Thông điệp (ch 4) là một 'nền môi sinh học toàn diện, bao gồm rõ rệt các chiều kích nhân bản và xã hội” (137), gắn chặt với vấn đề môi trường. Trong viễn tượng ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề nghị (ch. 5) khởi sự một cuộc đối thoại chân thành trên mọi bình diện của đời sống xã hội, kinh tế và chính trị, cuộc đối thoại này cơ cấu hóa các tiến trình quyết định minh bạch và ngài nhắc nhở (ch.6) rằng không dự phóng nào có thể hữu hiệu nếu không được linh hoạt nhờ một lương tâm được huấn luyện và có tinh thần trách nhiệm, Đức Giáo Hoàng đề nghị những điểm để tăng trưởng trong chiều hướng này trên bình diện giáo dục, tu đức, Giáo Hội, chính trị và thần học. Thông điệp kết thúc với 2 kinh nguyện: một được trình bày để chia sẻ với tất cả những người tin nơi ”Một Thiên Chúa Sáng Tạo và là Cha” (246) và một được đề ra cho những người tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, theo nhịp điệp khúc ”Laudato sí” khởi đầu và kết thúc Thông Điệp.

 Thông Điệp được một số chủ đề hướng dẫn, được cứu xét dưới những viễn tượng khác nhau, mang lại cho nó một sự nhất thống vững mạnh: ”Quan hệ thâm sâu giữa những người nghèo và sự mong manh của trái đất; xác tín rằng mọi sự trên trái đất có liên hệ mật thiết với nhau; sự phê bình mô hình mới và những hình thức quyền lực xuất phát từ kỹ thuật; lời mời gọi tìm kiếm những cách thức khác để hiểu kinh tế và tiến bộ; giá trị riêng của mỗi thụ tạo; ý nghĩa nhân bản của môi sinh học; sự cần thiết phải có những cuộc thảo luận chân thành và ngay thẳng; trách nhiệm hệ trọng của chính trị quốc tế và địa phương; nền văn hóa gạt bỏ và đề nghị một lối sống mới” (16)

 Chương I. Những gì đang xảy ra cho nhà chúng ta

 Chương này tóm lược những thủ đắc khoa học mới nhất về môi trường như một cách thức để lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên, ”biến những gì xảy ra cho thế giới thành đau khổ đang xảy ra cho bản thân mình, và như thế nhìn nhận đâu là sự đóng góp mà mỗi người có thể mang lại” (19). Chương này đề cập đến ”các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay” (15).

 – Những thay đổi khí hậu: ”Những thay đổi khí hậu là một vấn đề hoàn cầu với những hệ lụy trầm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị, và chúng là một trong những thách đố chính hiện nay đối với nhân loại” (25). Nếu ”khí hậu là một thiện ích chung của tất cả và cho tất cả mọi người” (23), thì ảnh hưởng nặng nề nhất của sự thay đổi khí hậu đè nặng trên những người nghèo nhất, nhưng ”nhiều người có nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị hơn, dường như chỉ chú tâm tới việc che đậy vấn đề hoặc dấu nhẹm những triệu chứng của sự thay đổi khí hậu” (26): ”sự thiếu phản ứng đứng trước những thảm trạng ấy của anh chị em chúng ta là một dấu hiệu cho thấy có sự mất ý thức trách nhiệm đối với những người đồng loại của chúng ta, trách nhiệm này vốn là nền tảng của mọi xã hội dân sự' (25).

 – Vấn đề nước uống: Đức Giáo Hoàng khẳng định rõ ràng rằng ”có được nước uống an toàn là một nhân quyền thiết yếu, cơ bản và của tất cả mọi người, vì nó ảnh hưởng tới sự sống còn của con người và vì thế, đây là điều kiện để thực thi các nhân quyền khác”. Tước bỏ quyền của người nghèo được nước uống có nghĩa là ”phủ nhận quyền sống vốn bắt nguồn từ chính phẩm giá bất khả nhượng của họ” (30).

 – Bảo vệ sự đa dạng sinh vật (biodiversità): ”Mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn” (33). Không những chúng là những ”tài nguyên” có thể khai thác được, nhưng còn có giá trị tự mình. Trong viễn tượng đó ”thật là đáng ca ngợi và ngưỡng mộ những cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật tìm cách giải quyết các vấn đề do con người gây ra”, nhưng sự can thiệp của con người, khi nó nhắm phục vụ cho tài chánh và sự thiêu thụ, thì ”làm cho trái đất nơi chúng ta sinh sống bớt phung phú và tươi đẹp hơn, ngày càng giới hạn và u ám hơn” (34)

 – Món nợ môi sinh; trong khuôn khổ một nền luân lý đạo đức về các quan hệ quốc tế, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng cho thấy có ”một thứ nợ về môi sinh” (51), nhất là nợ của các nước giầu đối với những nước nghèo trên thế giới. Đứng trước những thay đổi khí hậu, có ”những trách nhiệm khác nhau” (52), và trách nhiệm của các nước phát triển thì lớn hơn.

 Ý thức về những khác biệt sâu xa về các vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tỏ ra rất ngạc nhiên vì ”chỉ có những phản ứng yếu ớt” trước những thảm trạng của bao nhiêu con người và dân tộc. Mặc dù không thiếu những ví dụ tích cực (58), nhưng Thông Điệp tố giác ”một thái độ thiếu nhạy cảm và một thứ vô trách nhiệm thiếu suy xét” (59). Thiếu một nền văn hóa thích hợp (53) và sự sẵn sàng thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ (59), trong khi đó cần cấp thiết ”kiến tạo một hệ thống qui phạm (..) đảm bảo hệ thống môi sinh” (53).

 Chương II – Tin Mừng về sự sáng tạo

 Để đương đầu với những vấn đề được trình bày trong chương thứ I, Đức Giáo Hoàng Phanxico đọc lại các trình thuật Kinh Thánh, và trình bày một cái nhìn toàn diện đến từ truyền thống Do thái – Kitô và nêu rõ ”trách nhiệm lớn lao” (90) của con người đối với thiên nhiên, mối liên hệ thâm sâu giữa tất cả các loài thụ tạo và sự kiện ”môi sinh là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và là trách nhiệm của mọi người” (95).

 Trong Kinh thánh, ”Thiên Chúa giải thoát và cứu vớt cũng là Đấng đã tạo dựng vũ trụ.. […] nơi Ngài, lòng quí mến và sức mạnh liên kết với nhau” (73). Ở vị thế trung tâm là trình thuật về sự sáng tạo để suy tư về tương quan giữa con người và các loài thụ tạo khác, và cho thấy tội lỗi phá vỡ sự quân bình của toàn thể thiên nhiên nói chung: ”Các trình thuật này gợi ý về <B>”Cuộc sống con người dựa trên 3 tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất”<D>. Theo Kinh Thánh, 3 tương quan sinh tử này bị cắt đứt, không những bên ngoài, nhưng cả bên trong chúng ta nữa. Sự tan vỡ ấy chính là tội lỗi” (66)

 Vì thế, cho dù ”đôi khi các tín hữu Kitô đã giải thích Kinh Thánh không đúng, nhưng ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ phủ nhận rằng từ sự kiện được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và từ mệnh lệnh thống trị trái đất, người ta có thể biện minh cho một sự thống trị tuyệt đối trên các loài thụ tạo” (67). Loài người có trách nhiệm ”vun trồng và gìn giữ” vườn thế giới (Xc St 2,15), vì biết rằng ”<B>mục đích chung kết của các loài thụ tạo khác không phải là chúng ta. Trái lại tất cả tiến bước, cùng với chúng ta và qua chúng ta, hướng về một mục tiêu chung, là Thiên Chúa” (83).

 Sự kiện con người không phải là chủ tể của vũ trụ, ”không có nghĩa là mọi sinh vật đều giống như nhau và tước bỏ giá trị đặc thù của chúng”; và ”cũng không bao hàm sự thần thánh hóa trái đất, làm cho chúng ta không còn ơn gọi cộng tác và bảo vệ sự mong manh của trái đất” (90), nhưng <B>”một tâm tình kết hiệp thâm sâu với các hữu thể khác trong thiên nhiên, không thể là một tâm tình chân chính, nếu đồng thời trong tâm hồn không có sự dịu dàng, cảm thông và quan tâm đến con người” (91). Cần ý thức về một sự hiệp thông đại đồng: ”Được cùng một Cha dựng nên, tất cả hữu thể của vũ trụ chúng ta được liên kết với nhau bằng những mối dây vô hình và chúng ta họp thành một thứ gia đình đại đồng, […] thúc đẩy chúng ta có thái độ tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn” (89).

 Chương này kết thúc điều nòng cốt của mạc khải Kitô giáo: ”Chúa Giêsu trần thế”, với ”tương quan rất cụ thể và thương yêu của Ngài với thế giới”, đã ”sống lại vinh hiển, hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền chủ tể đại đồng của ngài” (100)

 Chương III: căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra

 Chương này trình bày một phân tích tình hình hiện nay, ”để có thể nhận thấy, không những các triệu chứng, nhưng cả những nguyên do sâu xa” (15), trong một cuộc đối thoại với triết học và các khoa học nhân văn.

 Điểm nòng cốt trước tiên của chương III là những suy tư về kỹ thuật: với lòng biết ơn, nhìn nhận những đóng góp của kỹ thuật để cải tiến các điều kiện sống (102-103), tuy nhiên kỹ thuật ”mang lại một sự thống trị lớn lao trên toàn thể nhân loại và thế giới cho những người nắm giữ kiến thức kỹ thuật và nhất là quyền lực kinh tế để khai thác nó” (104). Chính chủ trương thống trị bằng kỹ thuật đưa tới sự phá hủy thiên nhiên và khai thác bóc lột con người và các dân tộc yếu thế hơn. ”Mô hình kỹ thuật trị có xu hướng thi hành sự thống trên cả kinh tế và chính trị” (109), ngăn cản không cho nhìn nhận rằng ”nguyên thị trường […] không đảm bảo sự phát triển toàn diện con ngừơi và không làm cho mọi người được hội nhập xã hội” (109).

 Nơi căn cội người ta nhận thấy trong thời đại tân tiến ngày nay một chủ trương quy hướng vào con người thái quá (116): con người không còn nhìn nhận vị thế đúng đắn của mình so với thế giới và tự tham chiếu, chỉ qui hướng mọi sự về mình và quyền lực của mình. Từ đó nảy sinh chủ trương ”sử dụng rồi vứt bỏ” biện minh cho mọi thứ gạt bỏ, dù là môi trường hay con người, đối xử với tha nhân và thiên nhiên như những đồ vật và dẫn tới vô số những hình thức thống trị. Đó là thứ chủ trương dẫn tới sự khai thác trẻ em, bỏ rơi người già, biến những người khác thành nô lệ, đánh giá quá cao khả năng của thị trường tự điều khiển, thực hành việc buôn người, buôn bán da thú vật đang trên đường bị triệt tiêu và ”những kim cương đẫm máu”. Đó cũng chính là chủ trương của nhiều tổ chức bất lương mafia, buôn bán cơ phận con người, những kẻ buôn bán ma túy và gạt bỏ các thai nhi vì chúng không đáp ứng các dự phóng của cha mẹ (123).

 Dưới ánh sáng ấy, Thông Điệp cứu xét hai vấn đề nghiêm trọng đối với thế giới ngày nay. Trước tiên là lao công: ”Trong bất kỳ sự áp dụng nền môi sinh học toàn diện nào, không loại trừ con người, điều tối cần thiết là phải nhìn nhận giá trị lao công' (124), và nhìn nhận rằng ”từ khước không đầu tư vào con người, để được lợi nhuận ngay tức khắc, đó thực là một lối kinh doanh tệ hại nhất cho xã hội” (128).

 Vấn đề thứ hai liên quan đến những giới hạn của tiến bộ khoa học, cụ thể là những thực phẩm biến thái hệ di truyền, gọi tắt là OGM (132-136), đây là ”một vấn đề phức tạp” (135). Mặc dù ”tại một số vùng, việc sử dụng loại thực phẩm này đã làm tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết một số vấn đề, nhưng người ta gặp những khó khăn lớn không thể coi thường” (134), bắt đầu từ sự ”tập trung đất đai canh tác vào tay một thiểu số người” (134). Đức Giáo Hoàng Phanxicô đặc biệt nghĩ đến các nhà sản xuất nhỏ và các công nhân ở miền quê, sự đa sạng sinh học, các hệ thống môi sinh (ecosistemi). Vì thế cần ”có một cuộc thảo luận khoa học và xã hội theo tinh thần trách nhiệm và có tính chất rộng rãi, có thể cứu xét tất cả thông tin hiện có và gọi đích danh sự vật” từ ”những đường hướng nghiên cứu độc lập và liên ngành” (135)

Chương IV: Môi sinh học toàn diện

 Trọng tâm đề nghị của Thông Điệp là một nền môi sinh học toàn diện như một mô hình công lý: một nền môi sinh học ”hội nhập chỗ đứng đặc biệt của con người trong thế giới này và tương quan của con người với thực tại xung quanh” (15). Thực vậy, chúng ta không thể coi thiên nhiên như cái gì tách biệt khỏi chúng ta hay như một cái khung cho đời sống chúng ta” (139). Điều này có giá trị vì chúng ta sống trong các lãnh vực khác nhau: trong kinh tế và chính trị, trong các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt trong những nền văn hóa bị đe dọa nhất, và thậm chí trong mọi lúc đời sống thường nhật của chúng ta.

 Viễn tượng toàn diện cũng đòi một nền môi sinh học về các cơ chế: ”Nếu mọi sự đếu có liên hệ với nhau, thì tình trạng sức khỏe của các cơ chế trong một xã hội cũng có những ảnh hưởng đối với môi trường và tới chất lượng đời sống con người: ”Những gì làm thương tổn tình liên đới và tình thân hữu của dân chúng cũng đều gây hại cho môi trường” (142).

 Với nhiều thí dụ cụ thể, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lập lại tư tưởng của ngài, đó là có một liên hệ giữa các vấn đề môi sinh và các vấn đề xã hội và con người mà không bao giờ người ta có thể phá vỡ. Vì thế, ”sự phân tích các vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi sự phân tích các bối cảnh nhân bản, gia đình, lao động, thành thị, và tách khỏi tương quan của mỗi người với chính mình' (141), xét vì ”không có hai cuộc khủng hoảng riêng rẽ, một cuộc khủng hoảng môi trường và một cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng chỉ có một cuộc khủng hoảng duy nhất và phức tạp về xã hội và môi trường” (139).

 Nền môi sinh học toàn diện này ”không thể tách rời khỏi ý niệm công ích” (156), nhưng phải hiểu một cách cụ thể: trong bối cảnh ngày nay, trong đó ”có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản”, sự dấn thân cho công ích có nghĩa là thực hiện những chọn lựa liên đới trên căn bản ”sự chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất” (158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nhấn mạnh: ”ngoài sự liên đới chân thành giữa các thế hệ, còn cần tái khẳng định nhu cầu cấp thiết về luân lý cần có sự liên đới được canh tân giữa các thế hệ” (162).

 Nền môi sinh học toàn diện cũng ảnh hưởng tới đời sống thường nhật, điều mà Thông Điệp đặc biệt chú ý trong môi trường thành thị. Con người có khả năng lớn trong việc thích ứng và ”thật là điều đáng ngưỡng mộ óc sáng tạo và lòng quảng đại của các cá nhân và các nhóm có khả năng gỡ bỏ các giới hạn của môi trường […], học cách định hướng cuộc sống của họ giữa sự xáo trộn và bấp bênh” (148). Dầu vậy, một sự phát triển chân chính đòi phải cải tiến toàn diện về chất lượng cuộc sống con người: không gian công cộng, nhà ở, phương tiện di chuyển, v.v. (150-154).

 Cả thân xác chúng ta cũng đặt chúng ta trong tương quan trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Sự đón nhận thân thể mình như hồng ân của Thiên Chúa là điều cần thiết để đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như món quà của Chúa Cha và như căn nhà chung; trái lại một chủ trương thống trị trên thân xác mình đang biến thành một thứ thống trị nhiều khi rất tinh vi” (155).

 Chương V: Một vài đường hướng và hoạt động

 Chương này đề cập đến câu hỏi: chúng ta có thể và phải làm gì? Nếu chỉ phân tích mà thôi thì không thể đủ: còn cần phải có những đề nghị ”đối thoại và hành động đòi có sự can dự của mỗi người chúng ta, cũng như của nền chính trị quốc tế nữa” (15) và ”giúp chúng ta ra khỏi cái vòng lẩn quẩn tự hủy diệt mà chúng ta đang phải đương đầu” (163). Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một điều không thể loại bỏ, đó là làm sao để việc xây dựng những hành trình cụ thể không được cứu xét như một ý thức hệ, hời hợt hoặc thu hẹp. Vì thế một điều không thể thiếu, đó là đối thoại, một từ luôn đặc nhắc đến trong mỗi phần của chương IV này: ”Có những cuộc thảo luận, về những vấn đề liên quan đến môi trường, trong đó thật là khó đạt tới một sự đồng thuận. [….], Giáo Hội không chủ trương giải quyết các vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi thảo luận chân thành và minh bạch, để những nhu cầu đặc thù hoặc các ý thức hệ không làm thương tổn công ích” (188).

 Trên căn bản đó, Đức Giáo Hoàng Phanxico không sợ đưa ra một phán đoán nghiêm khắc về những hoạt động quốc tế gần đây: ”Các hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường trong những năm gần đây không đáp ứng các mong đợi, vì thiếu quyết định chính trị, chúng không đạt tới các hiệp định môi trường hoàn cầu thực sự có ý nghĩa và hữu hiệu” (166). Và ngài tự hỏi: ”tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một quyền bính sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cấp thiết và cần phải hành động?” (57). Trái lại – như các vị Giáo Hoàng đã nhiều lần lập lại kể từ Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”, cần có những hình thức và dụng cụ hữu hiệu để quản trị thế giới” (175): ”Chúng ta cần một hiệp định về các chế độ quản trị cho toàn thể những gì gọi là công ích của thế giới” (174), xét vì ”sự bảo vệ môi trường không thể được bảo đảm dựa trên tính toán tài chánh về phí tổn và lợi lộc mà thôi. Môi trường là một trong những thiện ích mà các cơ cấu thị trường không có khả năng bảo vệ hoặc thăng tiến một cách thích hợp” (190, trích dẫn Sách Toát yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh).

 Cũng trong chương này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh việc phát triển những tiến trình quyết định lương thiện và minh bạch, để có thể ”phân định” đâu là những chính sách và sáng kiến xí nghiệp có thể đưa tới một ”sự phát triển toàn diện” (185). Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh hưởng của một dự án mới về mặt môi sinh “đòi có những tiến trình chính trị minh bạch và có sự đối thoại, trong khi nạn tham ô che đậy ảnh hưởng thực sự về môi sinh của một dự án để đổi lấy những ân huệ, nó thường đưa tới những hợp đồng mơ hồ, trốn tránh nghĩa vụ thông tin và một cuộc thảo luận sâu rộng” (182).

 Đặc biệt quan trọng là lời kêu gọi gửi đến những người nắm giữ các trách vụ chính trị, để họ ”tránh tiêu chuẩn hành động duy hiệu năng và nhất thời” (181) đang thịnh hành ngày nay; ”Nếu họ có can đảm làm, thì họ sẽ có thể tái nhìn nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ như một người và họ sẽ để lại một chứng tá về trách nhiệm quảng đại, sau khi họ đi vào lịch sử” (181)

 Chương VI: Giáo dục và linh đạo môi sinh

 Chương cuối cùng đi thẳng vào trọng tâm sự hoán cải môi sinh mà Thông Điệp mời gọi. Những căn cội cuộc khủng hoảng văn hóa tác động sâu xa và không dễ điều chỉnh lại những tập quán và cách cư xử. Giáo dục và huấn luyện vẫn là những thách đố chủ yếu: ”Mọi thay đổi cần có những động lực và một hành trình giáo dục” (15); cần có sự can dự của tất cả các lãnh vực giáo dục, trước tiên là ”trường học, gia đình, các phương tiện truyền thông, việc huấn giáo” (213).

 Điểm đầu tiên là ”nhắm đến một lối sống mới” (203-208), có thể tạo ra cơ hội ”gây một sức ép lành mạnh trên những người nắm giữ quyền bính chính trị, kinh tế và xã hội” (206). Và điều này xảy ra khi những chọn lựa của những ngừơi tiêu thụ ”thay đổi được cách hành xử của các xí nghiệp, bó buộc họ cứu xét ảnh hưởng về môi sinh và những kiểu mẫu sản xuất” (206).

 Ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành trình giáo dục về môi sinh có khả năng ảnh hưởng tới những cử chỉ và thói quen thường nhật, từ sự giảm bớt tiêu thụ nước, cho đến việc thu lượm rác theo các loại khác nhau, 'tắt những đèn điện vô ích' (211): Một môi sinh học toàn diện được thực hiện kể cả bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ lý lẽ bạo lực, khai thác bóc lột, ích kỷ” (230). Tất cả điều ấy sẽ đơn giản hơn nhờ cái nhìn chiêm niệm đến từ đức tin: ”Đối với tín hữu, thế giới không được chiêm ngắm từ bên ngoài nhưng từ bên trong, nhìn nhận những lối liên hệ qua đó Chúa Cha liên kết chúng ta với mọi sinh vật. Ngoài ra khi làm tăng trưởng khả năng đặc thù mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu, sự hoán cải môi sinh dẫn đưa họ đến chỗ phát huy khả năng sáng tạo và sự hăng hái' (220).  Trở lại đường hướng được đề nghị trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”: ”Sự điều độ, được sống một cách tự do và ý thức, có tác động giải thoát” (223), cũng vậy ”hạnh phúc đòi phải biết giới hạn một số nhu cầu làm cho chúng ta choáng váng, và nhờ đó tỏ ra sẵn sàng đối với nhiều cơ may do cuộc sống mang lại” (223); theo cách thức đó, chúng ta có thể tái cảm thấy chúng ta cần lẫn nhau, chúng ta có một trách nhiệm đối với nhau và đối với thế giới, và sống tốt lành lương thiện là điều thật bõ công” (229)

 Các thánh tháp tùng chúng ta trong hành trình này. Thánh Phanxicô nhiều lần được trưng dẫn, là ”mẫu gương tuyệt hảo về sự chăm sóc những gì là yếu đuổi và một nền môi sinh toàn diện, được sống trong vui mừng” (10), mẫu gương về sự ”không thể tách biệt nhau giữa mối quan tâm đối với thiên nhiên, công bằng đối với người nghèo, dấn thân trong xã hộiu và hòa bình nội tâm (10). Nhưng Thông điệp cũng nhắc đến thánh Biển Đức, thánh Têrêsa thành Lisieux, chân phước Charles de Foucauld.

 Sau thông điệp Laudato sí này, việc xét mình, – phương thế mà Giáo Hội luôn cổ võ để định hướng cuộc sống của mình dưới ánh sáng tương quan với Chúa, – phải bao gồm một chiều kích mới: không những cứu xét xem ta đã sống tình hiệp thông với Thiên Chúa, với tha nhân và với bản thân như thế nào, nhưng còn với toàn thể các loài thụ tạo và thiên nhiên nữa.

 MỤC LỤC THÔNG ĐIỆP

 Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa [1-2]

 Chúng ta không dửng dưng đối với điều gì của thế giới này [3-6]

 Được liên kết do cùng một mối quan tâm [7-9)

 Thánh Phanxicô Assisi [10-12]

 Lời kêu gọi của tôi [13-16]

 CHƯƠNG I

 Điều đang xảy ra cho căn nhà của chúng ta [17-61)

  I. Sự ô nhiễm và thay đổi khí hậu [20-26)

 Ô nhiễm, rác rưởi và văn hóa gạt bỏ [20-22)

 Khí hậu như công ích [23-26]

 II. Vấn đề nước uống [27-31]

 III. Đánh mất sự đa dạng sinh vật [32-42]

 IV. Suy giảm phẩm chất đời sống con người và suy thoái xã hội [43-47)

 V. Bất công hoàn cầu [53-59)

 VI. Phản ứng yếu ớt [53-59]

 VII. Các ý kiến khác nhau [60-61]

 CHƯƠNG II

 Tin Mừng về sự sáng tạo [62-100]

 I. Ánh sáng do đức tin mang lại [63-64]

 II. Sự khôn ngoan của các trình thuật Kinh Thánh [65-75]

 III. Mầu nhiệm vũ trụ [76-83)

 IV. Sứ điệp của mỗi thụ tạo trong sự hòa hợp của toàn thể công trình tạo dựng [84-88]

 V. Một sự hiệp thông đại đồng [89-92]

 VI. Của cải để mưu ích cho mọi người [93-95]

 VII. Cái nhìn của Chúa Giêsu [96-100]

 CHƯƠNG III

 Căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra [101-136]

 I. Kỹ thuật: óc sáng tạo và quyền bính [102-105]

 II. Hoàn cầu hóa mô hình kỹ thuật trị [106-114]

 III. Khủng hoảng và hậu quả của thuyết duy nhân loại học tân thời [115-136]

 Chủ thuyết duy tương đối thực hành [122-123]

 Cần thiết bảo vệ lao công [124-139]

 Canh tân sinh học từ nghiên cứu [130-136]

 CHƯƠNG IV

 Một nền môi sinh học toàn diện [137-162]

 I. Môi sinh học môi trường, kinh tế, xã hội [138-142]

 II. Môi sinh học văn hóa [143-146]

 III. Môi sinh học về đời sống thường nhật [147-155]

 IV. Nguyên tắc công ích [156-158]

 V. Công lý giữa các thế hệ [159-162]

 CHƯƠNG V

 Vài đường nét định hướng và hành động [163-201]

 I. Đối thoại về môi trường trong chính trị quốc tế [164-175]

 II. Đối thoại hướng về những chính sách quốc gia và địa phương [176-181]

 III. Đối thoại và minh bạch trong các tiến trình quyết định [182-188]  IV. Chính trị và kinh tế trong đối thoại để đạt tới sự viên mãn của con người [189-198]

 V. Các tôn giáo trong cuộc đối thoại với khoa học [199-201]

 CHƯƠNG V

 Giáo dục và linh đạo môi sinh học [202-215]

 I. Nhắm đến một lối sống mới [203-208]

II. Giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường [209-215]

 III. Hoán cải môi sinh học [216-232]

 IV. Vui mừng và hòa bình [222-227]

 V. Tình yêu dân sự và chính trị [228-232]

 VI. Các dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ [233-237]

 VII. Chúa Ba Ngôi và tương quan giữa các thụ tạo [238-240]

 VIII. Nữ Vương toàn thể thụ tạo [241-242]

 IX. Đi xa hơn mặt trời [243-246]

 Kinh nguyện cho trái đất của chúng ta

 Kinh nguyện Kitô giáo với thụ tạo

 

 G. Trần Đức Anh OP, dịch từ bản tóm lược chính thức của Hội Đồng Tòa Thánh ”Công lý và Hòa bình”.

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 30 ngàn tín hữu hành hương

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung 30 ngàn tín hữu hành hương

ĐTC tiếp kiến giáo dân ngày 17 tháng 6 năm 2015

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung gần 30 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 17-6-2015, ĐTC đã trình bày về thái độ các tín hữu Kitô đứng trước những tang tóc trong gia đình.

Trong số các tín hữu hiện diện, đặc biệt có một đoàn hành hương từ Việt Nam gồm gần 50 người do Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Phó giáo phận Xuân Lộc, hướng dẫn.

Mở đầu buổi tiếp kiến, như thường lệ, mọi người đã nghe đọc đoạn sách thánh ngắn bằng 6 thứ tiếng, trích từ Tin Mừng theo thánh Luca về phép lạ Chúa làm cho con trai bà góa thành Naim được sống lại. Trong bài huấn dụ tiếp đó, ĐTC đã nói về đề tài: tang chế trong gia đình. đây là bài thứ 19 trong loạt bài về gia đình, để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 vào tháng 10 năm nay về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo Hội và xã hội.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Trong tiến trình huấn giáo về gia đình, hôm nay, chúng ta lấy hứng trực tiếp từ giai thoại được thánh sử Luca kể lại trong Tin Mừng (Xc Lc 7,11). Đó là một cảnh tượng rất cảm động, tỏ cho chúng ta thấy lòng cảm thương của Chúa Giêsu đối với người đau khổ – trong trường hợp này là một bà góa bị mất đứa con trai duy nhất – và giai thoại cũng cho chúng ta quyền năng của Chúa Giêsu trên sự chết.

 Sự chết là một kinh nghiệm xảy ra cho mọi gia đình, không trừ một ai. Nó là thành phần của cuộc sống, tuy nhiên khi nó đụng chạm đến tình thương gia đình, chúng ta thấy cái chết không bao giờ là điều tự nhiên. Đối với các cha mẹ, chứng kiến cảnh con cái mình chết, thực là một điều xé lòng, nó đi ngược với bản tính sơ đẳng nhất của các quan hệ mang lại ý nghĩa cho chính gia đình. Sự mất mát một người con, nam hay nữ, giống như thể thời gian dừng lại: một vực thẳm mở ra nuốt chửng quá khứ và cả tương lai nữa. Cái chết cướp mất người con nhỏ hoặc còn trẻ, là một cái tát đối với những lời hứa, những ân huệ và hy sinh yêu thương đã được mang lại cho cuộc sống mà chúng ta đã làm nảy sinh. Toàn thể gia đình như thể bị tê liệt, nói không nên lời. Và một cái gì tương tự cũng xảy ra cho một em bé trở nên cô độc vì cha hoặc mẹ em hay cả cha lẫn mẹ qua đời. Cảm tưởng trống rỗng bị bỏ rơi xâm chiếm em bé, và càng gây lo âu hơn vì em chưa có đủ kinh nghiệm để mang lại một danh xưng cho điều đã xảy ra.

ĐTC nhận xét rằng: Trong những trường hợp như thế, cái chết giống như một lỗ hổng đen mở ra trong cuộc sống của các gia đình mà chúng ta không biết giải thích ra sao. Nhiều khi người ta đi đến độ đổ lỗi cho Thiên Chúa.

Nhưng cái chết thể lý cũng có ”Những đồng lõa” tệ hại hơn chính cái chết, đó là oán thù, ghen ghét, kiêu ngạo, hà tiện, tóm lại đó là tội lỗi của thế gian hoạt động cho cái chết, và làm cho nó càng đau đớn và bất công. Những tình cảm gia đình như thể là nạn nhân tiền định và bất lực trước quyền năng hỗ trợ cho cái chết, tháp tùng lịch sử con người. Chúng ta hãy nghĩ đến sự ”bình thường” vô lý, qua đó tại một số nơi và trong một số lúc, các biến cố mang thêm kinh hoàng cho cái chết, chúng do oán thù hoặc dửng dưng lãnh đạm của những người khác gây ra. Xin Chúa đừng để chúng ta trở nên quen thuộc với những điều ấy!

ĐTC nhận xét rằng: ”Trong dân Chúa, với ơn cảm thương được ban trong Chúa Giêsu, bao nhiêu gia đình đã chứng tỏ qua hành động rằng cái chết không có tiếng nói cuối cùng. Bao nhiêu lần những gia đình chịu tang tóc, kể cả những cái tang kinh khủng, đã tìm được sức mạnh bảo tồn đức tin và tình thương liên kết họ với những người họ thương mến, niềm tin ấy ngăn cản không cho cái chết tước đoạt tất cả. Cần phải đương đầu với sự đen tối của cái chết bằng một hoạt động yêu thương nồng nhiệt hơn. ”Lạy Thiên Chúa của con, xin chiếu sáng những bóng đêm của con!”, đó là lời khẩn nguyện trong phụng vụ lúc chiều tối. Trong ánh sáng sự phục sinh của Chúa, là Đấng không bỏ rơi một ai trong những người mà Chúa Cha đã trao phó, chúng ta có thể tước bỏ ”ngòi độc” của sự chết, như thánh Phaolô Tông Đồ đã nói (1 Cr 15,55); chúng ta có thể ngăn cản không để cái chết làm cho cuộc sống của chúng ta bị nhiễm độc, làm cho những tình cảm thương mến cảu chúng ta trở nên hư vô, khiến chúng ta rơi vào sự trống rỗng đen tối nhất.

Trong niềm tin đó, chúng ta có thể an ủi nhau, vì biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết một lần cho tất cả. Những người thân yêu của chúng ta không biến mất trong bóng đen của hư vô: niềm hy vọng cam đoan với chúng ta rằng những người thân yêu của chúng ta đang ở trong bàn tay nhân lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì thế, hành trình của chúng ta làm tăng trưởng tình thương, làm cho nó vững mạnh hơn, và tình thương sẽ giữ gìn chúng ta cho đến ngày mà mọi nước mắt sẽ được lau khô, chẳng còn tang tóc, than vãn hoặc cơ cực nữa” (Kh 21,4). Nếu chúng ta để cho niềm tin ấy nâng đỡ, thì kinh nghiệm về tang tóc có thể sinh ra một tình liên đới mạnh mẽ hơn của những liên hệ gia đình, một tình huynh đệ mới với những gia đình sinh ra và tái sinh trong niềm hy vọng.

Niềm tin ấy bảo vệ chúng ta khỏi quan niệm hư vô về cái chết, cũng như khỏi những an ủi giả tạo của trần thế, đến độ chân lý Kitô ”không có nguy cơ bị pha trộn với những huyền thoại thuộc nhiều loại khác nhau”, chiều theo những nghi thức mê tín, cổ xưa hoặc hiện đại” (Biển Đức 16,Angelus 2-11-2008).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Ngày nay các vị mục tử và mọi tín hữu Kitô cần biểu lộ một cách cụ thể hơn ý nghĩa của niềm tin đối với kinh nghiệm gia đình về tang tóc. Không được phủ nhận quyền khóc thương: cả Chúa Giêsu cũng đã bật khóc và xao xuyến sâu xa trong lòng vì cái tang lớn của một gia đình mà Ngài yêu mến (Ga 11,33-37). Đúng hơn, chúng ta có thể kín múc từ chứng tá đơn sơ và mạnh mẽ của bao nhiều gia đình đã biết đón nhận, trong tiến trình rất cam go của cái chết, cả tiến trình chắc chắn của Chúa, đã chịu đóng đanh và sống lại, với lời hứa không thể hồi lại của Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Công việc tình thương của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn công việc của cái chết. Và chúng ta phải trở thành những ngừơi cộng tác chuyên cần với tình thương ấy, qua niềm tin của chúng ta!”

Sau bài huấn giáo trên đây bằng tiếng Ý, như thường lệ, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm lược giáo huấn của ĐTC bằng cách thứ tiếng Pháp, Arập, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha, Ba Lan, cùng với lời chào của ĐTC. Ngài cũng đặc biệt chào các tín hữu đến từ Việt Nam.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha phê chuẩn các đại biểu Thượng HĐGM 14

Đức Thánh Cha phê chuẩn các đại biểu Thượng HĐGM 14

Hợp HĐGM thứ 14 tại Rome

VATICAN. ĐTC đã chính thức phê chuẩn thêm danh sách các đại biểu thuộc 36 HĐGM sẽ tham dự Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 sẽ tiến hành từ ngày 4 đến 25-10 tới đây tại Roma về gia đình.

2 đại biểu của HĐGM Việt Nam, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc và Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, đã được phê chuẩn trong đợt trước đây.

Trong số các vị được phê chuẩn theo danh sách được công bố hôm 16-6-2015, có 4 vị thuộc HĐGM Canada, 4 vị thuộc HĐGM Hoa Kỳ, ngoài ra có các đại biểu thuộc các Giáo hội Công Giáo Đông phương tự quản.

ĐTC cũng phê chuẩn danh sách 10 nghị phụ do Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nam bầu lên, trong đó có Cha Adolfo Nicolas, Bề trên Tổng quyền dòng Tên, cha Bruno Cadoré, Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh, Cha Marco Tasca, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô Viện Tu.

Các vị Thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng như các vị thủ lãnh các Giáo hội Công Giáo Đông phương, đương nhiên là nghị phụ tham dự Thượng HĐGM thế giới sắp tới. Trong thời gian tới đây, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM sẽ công bố danh sách các nghị phụ do ĐTC đích thân bổ nhiệm.

Trong Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt từ ngày 5 đến 19-10-2014 có 253 tham dự viên. (SD 16-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cổ võ hồi sinh Roma về luân lý và tinh thần

Đức Thánh Cha cổ võ hồi sinh Roma về luân lý và tinh thần

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên hội nghị mục vụ thường niên của giáo phận Roma, ĐTC cổ võ giúp thành này được tái sinh về mặt luân lý và tinh thần.

20 ngàn người gồm các thành viên Hội nghị cùng với đông đảo cha mẹ các em rước lễ lần đầu và chịu phép thêm sức, các linh mục và giáo lý viên đã tham dự buổi gặp gỡ với ĐTC từ lúc 6 giờ chiều chúa nhật 14-6-2015 tại Quảng trường thánh Phêrô.

Sau lời chào mừng của ĐHY giám quản, Agostino Vallini, và kinh nguyện mở đầu, ĐTC đã chào thăm và ban huấn dụ cho mọi người. Ngài nói:

”Thành phố của chúng ta phải tái sinh về luân lý và tinh thần, vì dường như tất cả chẳng có gì thay đổi, tất cả là tương đối; người ta đồng ý Tin Mừng là một lịch sử đẹp, đọc thật là tốt, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở đó”.

ĐTC cổ võ sự dấn thân đặc biệt hơn để giúp các thiếu niên ở Roma đang phải đương đầu với những sự thực dân hóa theo ý thức hệ làm ô nhiễm linh hồn và gia đình. Ngài nói: ”Những sự thực dân hóa ý thức hệ ấy tạo nên bao nhiêu sự ác và phá hủy xã hội, phá hủy đất nước và gia đình, vì thế chúng ta cần một sự tái sinh thực sự về luân lý và tinh thần”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ yêu thương nhau, chu toàn ơn gọi làm cha làm mẹ, đừng bao giờ sử dụng con cái, coi con cái như con tin, để trả đũa nhau nhất là trong trường hợp ly thân ly dị. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự bổ túc cho nhau giữa người nam và người nữ. Sau cùng ĐTC đề cao vai trò quí giá của các ông bà nội ngoại.. Ở Roma này có hơn 600 ngàn ông bà như vậy.

Chính quyền thành Roma đang bị ”xì căng đan” ăn hối lộ và chiều ngày 13-6-2015, hàng trăm ngàn người do ông thị trưởng Ignađiio Marino dẫn đầu đã biểu tình Gay Pride cổ võ hôn nhân đồng phái.

Công nghị thường niên của giáo phận Roma tiến hành trong 3 ngày tại Đền thờ thánh Gioan Laterano cũng là Nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma:

Lúc 7 giờ chiều thứ hai 15-6-2015: sau kinh nguyện mở đầu, Bà Elisa Manna, đặc trách phân bộ văn hóa của Trung tâm nghiên cứu đầu tư xã hội ở Italia, gọi tắt là Censis, trình bày về đề tài: ”Cha mẹ và việc thông truyền đức tin cho con cái – giới thiệu phúc trình của Trung tâm Censis”. Tiếp đến Đức Ông Andrea Leonardo, Giám đốc Văn phòng huấn giáo của giáo phận Roma, sẽ trình bày về chủ đề: ”Chúng tôi thông truyền điều chúng tôi đã nhận lãnh”. Trách nhiệm của cha mẹ chứng nhân về vẻ đẹp của cuộc sống.

Sau hai bài thuyết trình gợi ý trên đây, chiều ngày hôm nay, thứ ba 16-6-2015, các tham dự viên sẽ tập họp tại Đại học Giáo Hoàng Laterano từ lúc 7 giờ để làm việc trong các nhóm nhỏ, do các chuyên gia hướng dần, để đề ra những đường hướng và đề nghị cho Năm mục vụ 2015-2016.

Sau cùng, vào ngày thứ hai 14-9 tới đây, ban sáng các cha sở và LM Roma sẽ nhóm họp tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano từ 9 giờ rưỡi sáng. Sau đó vào lúc 7 giờ chiều cùng ngày, sẽ có khóa họp của cac giáo lý viên trong đó ĐHY Vallini sẽ trình bày những hướng đi mục vụ được đề ra cho niên khóa mục vụ 2015-2016. Khóa họp sẽ kết thúc vời nghi thức trao bài sai cho các giáo lý viên. (SD 15-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha kêu gọi đón nhận Thông điệp mới

Đức Thánh Cha kêu gọi đón nhận Thông điệp mới

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu hành hương sáng ngày 17-6-2015, ĐTC đưa ra 2 lời kêu gọi: đón nhận Thông điệp mới và cứu giúp người tị nạn.

Ngỏ lời với 30 ngàn tín hữu ở Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Như anh chị em đã biết, ngày mai (18-6), sẽ công bố Thông điệp về việc săn sóc ”căn nhà chung” là thiên nhiên. “Căn nhà” này của chúng ta đang bị hư hỏng và điều này gây hại cho tất cả mọi người, nhất là những người nghèo nhất. Vì thế, dựa trên căn bản nghĩa vụ mà Thiên Chúa đã ủy thác cho con người khi Ngài tạo dựng, tôi kêu gọi trách nhiệm ”vun trồng và gìn giữ” ”cái vườn” trong đó Chúa đã đặt con người (Xc St 2,15). Tôi mời gọi tất cả mọi người hãy đón nhận Văn kiện này với tâm hồn rộng mở, Văn kiện này ở trong đường hướng giáo huấn xã hội của Hội Thánh”.

ĐTC cũng nhắc đến Ngày Thế giới người tị nạn sẽ được cử hành vào thứ bẩy, 20-6 tới đây, do LHQ cổ võ. Ngài nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện cho bao nhiêu anh chị em đang tìm nơi tị nạn xa quê hương của họ, họ đang tìm một căn nhà để có thể sống mà không sợ hãi, chúng ta hãy cầu nguyện để họ luôn được tôn trọng trong phẩm giá của họ. Tôi khuyến khích hoạt động của những người đang giúp đỡ người tị nạn và cầu mong cộng đồng quốc tế hành động một cách hòa hợp và hữu hiệu để phòng ngừa những nguyên nhân tạo nên những cuộc cưỡng bách xuất cư. Và tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy xin lỗi vì những người và những tổ chức khép cửa đối với những người đang tìm kiếm một gia đình, tìm cách được bảo vệ”.

  Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha gặp cơ quan từ thiện giúp Công Giáo Đông Phương

Đức Thánh Cha gặp cơ quan từ thiện giúp Công Giáo Đông Phương

VATICAN. ĐTC tố giác tình trạng chính quyền nhiều nước quan tâm tới dầu hỏa và võ khí hơn là số phận của bao nhiêu gia đình tị nạn tại Trung Đông.

 Ngài đưa ra nhận định trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 15-6-2015, dành cho 100 tham dự viên Đại hội thường niên thứ 88 của Liên hiệp các tổ chức trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, gọi tắt là Roaco, đang tiến hành tại Roma từ ngày 14 đến 17-6-2015, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

 ĐTC ca ngợi nỗ lực của 22 tổ chức bác ái Công Giáo quốc tế giúp đỡ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, cũng như bao nhiêu anh chị em tị nạn từ Siria và Irak. Ngài ghi nhận, trên thế giới, trong thời gian gần đây có sự quan tâm nhiều hơn đối với số phận của hàng ngàn gia đình tị nạn, và sự hiện diện ngàn năm của các Kitô hữu ở Trung Đông. Đã có nhiều sáng kiến nhắm gây ý thức và trợ giúp các gia đình ấy cũng như mọi người vô tội khác nạn nhân của bạo lực.

 Nhưng ĐTC nhận xét rằng ”vẫn còn phải cố gắng nhiều hơn để loại trừ những điều bị coi như những thỏa hiệp ngầm, theo đó mạng sống của hàng ngàn ngàn gia đình – nam phụ lão ấu – dường như bị coi nhẹ hơn dầu hỏa và võ khí trên cán cân những lợi lộc; trong khi người ta tuyên bố hòa bình thì lại dung túng những kẻ buôn bán sự chết chóc đang hoạt động tại các lãnh thổ ấy. Vì thế tôi khuyến khích anh chị em, trong khi tiếp tục phục vụ theo tinh thần bác ái Kitô, hãy tố giác những gì chà đạp phẩm giá con người”.

 ĐTC đặc biệt nhắc đến tình hình các tín hữu Kitô tại Thánh Địa, và tại Etiopia, Eritrea, Arméni được chọn làm chủ đề cho khóa họp hiện nay.

 Nhân dịp kỷ niệm 100 năm cuộc diệt chủng Armeni, Đại hội dành một phiên họp để bàn về tình hình Giáo Hội Công Giáo Arméni tại Đông Âu, Arméni, Georgia và Nga.

 ĐTC nói: ”Anh chị em có thể trợ giúp các cộng đồng Kitô rất kỳ cựu này cảm thấy mình tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng và cống hiến nhất là cho giới trẻ một chân trời hy vọng và tăng trưởng, chẳng vậy người ta sẽ không chặn đứng được làn sóng xuất cư, bao nhiêu con cái những vùng ấy lên đường, tìm đến các bờ biển Địa Trung Hải để vượt biên, với bao nhiêu rủi ro cho sinh mạng.”

 ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Arméni là chiếc nôi của quốc gia đầu tiên được rửa tội, và cũng đang bảo tồn một lịch sử phong phú về văn hóa, đức tin và tử đạo. Sự nâng đỡ dành cho Giáo Hội tại miền đất ấy góp phần vào hành trình tiến về sự hiệp nhất hữu hình của mọi tín hữu tin nơi Chúa Kitô” (SD 15-6-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 14-06-2015

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 14-06-2015

Giáo dân tham dự buổi đọc kinh truyền tin chung với ĐTC ngày 14 tháng 6-2015

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu tin tưởng nơi sức mạnh của Lời Chúa và cộng tác vào công cuộc mở rộng Nước Thiên Chúa.

Trên đây là nội dung bài huấn dụ của ĐTC trong buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu, trưa chúa nhật 14-6-2015 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Huấn dụ của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

”Bài Tin Mừng hôm nay bao gồm hai dụ ngôn rất ngắn: dụ ngôn hạt giống nảy mầm và tự tăng trưởng, và dụ ngôn hạt cải (Xc Mc 4,26-34). Qua những hình ảnh này, rút từ môi trường nông thôn, Chúa Giêsu trình bày hiệu năng của Lời Chúa và những đòi hỏi của Nước Chúa, nêu rõ những lý do để chúng ta hy vọng và dấn thân trong lịch sử.

”Trong dụ ngôn thứ nhất, sự chú ý được qui về sự kiện hạt giống, một khi được gieo trong lòng đất, tự nó nảy mầm và lớn lên, dù nông dân ngủ hay thức. Ông tin tưởng nơi tiềm năng ở trong chính hạt giống và sự màu mỡ của đất đai. Trong ngôn ngữ của Tin Mừng, hạt giống là biểu tượng Lời Chúa, và dụ ngôn này nhắc nhớ sự phong phú của Lời Chúa. Như hạt giống khiêm hạ phát triển trong lòng đất, Lời Chúa cũng hoạt động nhờ sức mạnh của Thiên Chúa trong tâm hồn người lắng nghe. Thiên Chúa đã ủy thác Lời của Ngài cho thửa đất của chúng ta, nghĩa là cho mỗi người trong chúng ta, với nhân tính cụ thể của chúng ta. Chúng ta có thể tín thác tin tưởng, vì Lời Chúa là lời sáng tạo, nhắm trở thành ”bông lúa nặng trĩu hạt” (v. 28). Lời Chúa, nếu được đón nhận, thì chắc chắn sẽ mang lại hoa trái, vì chính Thiên Chúa làm cho Lời Ngài nảy mầm và tăng trưởng qua những con đường mà chúng ta không luôn luôn có thể kiểm chứng và theo thể thức mà chúng ta không biết (Xc v.27). Tất cả những điều ấy làm cho chúng ta hiểu rằng chính Thiên Chúa luôn luôn là Đấng làm cho Nước của Ngài được tăng trưởng, con người là cộng tác viên khiêm hạ của Ngài, con người chiêm ngắm và vui mừng vì hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa và kiên nhẫn chờ đợi thành quả của Lời Chúa.

ĐTC nói tiếp:

“Dụ ngôn thứ hai dùng hình ảnh hạt cải. Tuy là hạt bé nhỏ nhất trong các thứ hạt, nhưng lại đầy sức sống và tăng trưởng đến độ trở thành cây cao lớn nhất trong các thứ cây trong vườn” (Mc 4,32). Nước Thiên Chúa là như thế: một thực tại rất nhỏ bé nói theo kiểu phàm nhân và bề ngoài không có gì là đáng kể. Để trở nên thành phần của Nước Chúa, cần phải có lòng thanh bần, không tín thác nơi khả năng riêng của mình, nhưng nơi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa; không hành động để được coi là quan trọng trước mặt người đời, nhưng quí giá trước mắt Thiên Chúa là Đấng yêu chuộng những ngừơi đơn sơ và khiêm hạ. Khi chúng ta sống như thế, thì sức mạnh của Chúa Kitô, qua chúng ta, sẽ tràn vào và biến đổi những gì là bé nhỏ và khiêm hạ thành một thực tại làm dậy men toàn thể khối bột của thế giới và lịch sử.

ĐTC nhận xét rằng: ”Có một bài học quan trọng đến từ hai dụ ngôn này: Nước Thiên Chúa đòi sự cộng tác của chúng ta, nhưng trước tiên đó là sáng kiến và là hồng ân của Chúa. Hoạt động yếu ớt của chúng ta tác động, bề ngoài là bé nhỏ trước những vấn đề phức tạp của thế giới, nhưng khi được tháp nhập vào hoạt động của Thiên Chúa, thì không còn sợ những khó khăn. Chiến thắng của Chúa là điều chắc chắn: tình thương của Ngài làm nảy mầm và tăng trưởng mọi hạt giống hiện diện trong đất. Điều này mở ra cho chúng ta lòng tín thác và lạc quan, dù có những thảm trạng, bất công, đau khổ mà chúng ta gặp phải. Hạt giống sự thiện và hòa bình nảy mầm và phát triển, vì chính tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa làm cho hạt giống ấy trưởng thành.”

”Xin Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng đã đón nhận hạt giống Lời Chúa như một ”thửa đất phì nhiêu”, nâng đỡ chúng ta trong niềm hy vọng này.

Chào thăm và loan báo

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã nhắc nhở các tín hữu chúa nhật hôm qua là Ngày Thế giới những người hiến máu: hằng triệu người âm thầm đóng góp để giúp đỡ các anh chị em ở trong tình cảnh khó khăn. Ngài nói: ”Tôi bày tỏ lòng quí chuộng đối với tất cả những người hiến máu và đặc biệt mời gọi những người trẻ hãy theo gương họ”.

ĐTC cũng gửi lời chào thăm các tín hữu Roma và những người hành hương, các nhóm giáo xứ, gia đình và hội đoàn. Ngài đặc biệt nhắc đến các nhóm đến từ Debrecen Hungari, Malta, Houston Hoa Kỳ, Panama.. và nói thêm rằng:

”Như đã loan báo, thứ năm tới đây (18-6-2015) Thông điệp về sự chăm sóc thiên nhiên sẽ được công bố. Tôi mời gọi anh chị em tháp tùng biến cố này với sự tái quan tâm đến những tình trạng môi trường bị suy thoái, và cũng để phục hồi trong các lãnh thổ của mình. Thông điệp này được gửi đến tất cả mọi người: chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi người có thể đón nhận sứ điệp của Thông điệp và gia tăng trách nhiệm đối với căn nhà chung mà Thiên Chúa ủy thác cho chúng ta”.

Hội nghị mục vụ Giáo Phận Roma

Lúc 6 giờ chiều cùng ngày chúa nhật 14-6-2015, ĐTC đã gặp gỡ các tham dự viên hội nghị mục vụ của giáo phận Roma, cùng với cha mẹ các em rước lễ lần đầu và chịu phép thêm sức, các linh mục và giáo lý viên.

Sau lời chào mừng của ĐHY giám quản, Agostino Vallini, và kinh nguyện mở đầu, ĐTC đã chào thăm và ban huấn dụ cho mọi người, trước khi đọc kinh nguyện kết thúc.

Hội nghị mục vụ chính thức tiến hành trong 3 ngày kế tiếp tại Đền thờ thánh Gioan Laterano cũng là Nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma:

Lúc 7 giờ chiều thứ hai hôm nay, 15-6: sau kinh nguyện mở đầu, Bà Elisa Manna, đặc trách phân bộ văn hóa của Trung tâm nghiên cứu đầu tư xã hội ở Italia, gọi tắt là Censis, trình bày về đề tài: ”Cha mẹ và việc thông truyền đức tin cho con cái – giới thiệu phúc trình của Trung tâm Censis”. Tiếp đến Đức Ông Andrea Leonardo, Giám đốc Văn phòng huấn giáo của giáo phận Roma, sẽ trình bày về chủ đề: ”Chúng tôi thông truyền điều chúng tôi đã nhận lãnh”. Trách nhiệm của cha mẹ chứng nhân về vẻ đẹp của cuộc sống.

Sau hai bài thuyết trình gợi ý trên đây, chiều ngày mai, thứ ba 16-6, các tham dự viên sẽ tập họp tại Đại học Giáo Hoàng Laterano từ lúc 7 giờ để làm việc trong các nhóm nhỏ, do các chuyên gia hướng dần, để đề ra những đường hướng và đề nghị cho Năm mục vụ 2015-2016.

Sau cùng, vào ngày thứ hai 14-9 tới đây, ban sáng các cha sở và LM Roma sẽ nhóm họp tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano từ 9 giờ rưỡi sáng. Sau đó vào lúc 7 giờ chiều cùng ngày, sẽ có khóa họp của cac giáo lý viên trong đó ĐHY Vallini sẽ trình bày những hướng đi mục vụ được đề ra cho niên khóa mục vụ 2015-2016. Khóa họp sẽ kết thúc vời nghi thức trao bài sai cho các giáo lý viên.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

100 ngàn hướng đạo sinh Italia gặp Đức Thánh Cha

100 ngàn hướng đạo sinh Italia gặp Đức Thánh Cha

ROMA. Sáng thứ bẩy, 13-6-2015, ĐTC đã gặp gỡ 100 ngàn hướng đạo sinh Công Giáo Italia và ngài khích lệ hiệp hội này đầu tư nhiều hơn trong lãnh vực linh đạo và giáo dục về đức tin.

 Từ quá 9 giờ sáng, các hướng đạo sinh thuộc các ngành tráng, kha, thiếu và ấu, từ các nơi trên toàn quốc đã tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô để sinh hoạt chung trong khi chờ đợi ĐTC đến. Các em ca hát, trình diễn hoạt cảnh, và chứng từ, và cả những bài huấn dụ ngắn của các vị tuyên úy.

 Ngỏ lời trong buổi gặp gỡ, ĐTC ca ngợi sự giúp đỡ của hiệp hội hướng đạo sinh Công Giáo Italia, gọi tắt là Agesci, dành cho các gia đình trong việc giáo dục về các giá trị nhân bản quan trọng, về sự tiếp xúc với thiên nhiên, tôn giáo và niềm tin nơi Thiên Chúa, một phương pháp giáo dục về tự do trong tinh thần trách nhiệm.

 ĐTC cũng nhận xét rằng trong các hiệp hội hướng đạo trên thế giới, Agesci của Italia là Hiệp hội đầu tư nhiều nhất trong lãnh vực linh đạo và giáo dục về đức tin. Nhưng vẫn còn rất nhiều điều phải làm, để các trưởng của mỗi chi hội và toán hướng đạo hiểu tầm quan trọng của lãnh vực ấy và rút ra những hệ luận.

 Ngài nói: ”Tôi biết anh chị em có những thời gian huấn luyện cho các trưởng về việc đọc và học hỏi Kinh Thánh, kể cả với các phương pháp mới, đặt trọng tâm việc kể lại cuộc sống được sống thực đối chiếu với Sứ điệp Tin Mừng. Tôi chúc mừng anh chị em vì những sáng kiến tốt đẹp ấy, và cầu mong rằng đó không phải chỉ là những thời điểm nhất thời, nhưng được đưa vào trong dự án huấn luyện liên tục và sâu rộng, đi sâu vào cac sinh hoạt của hội, làm cho hội được thấm nhiễm Tin Mừng và tạo điều kiện cho sự thay đổi cuộc sống”.

 ĐTC cũng nhận xét rằng ”hội hướng đạo sinh Công Giáo Italia là một sự phong phú của Giáo Hội và Hội này có thể mang lại cho Giáo Hội một lòng hăng say mới để loan báo Tin Mừng, một khả năng mới để đối thoại với xã hội. Điều này chỉ có thể xảy ra với điều kiện các chi hội hướng đạo Công Giáo không đánh mất sự tiếp xúc với giáo xứ địa phương”. Ngài nói:

 ”Anh chị em được kêu gọi tìm ra cách thức để hội nhập vào việc mục vụ của Giáo Hội địa phương, thiết lập những quan hệ quí mến và cộng tác ở mọi cấp độ với các GM, các cha xứ và các linh mục của anh chị em, với các nhà giáo dục và các thành phần của các hiệp hội khác của Giáo Hội, hiện diện trong giáo xứ và trong cùng lãnh thổ, và không hài lòng với một sự hiện diện làm cảnh vào chúa nhật hoặc trong những dịp lớn”.

 Trong cuộc gặp gỡ lần trước đây hồi năm 2004, 30 ngàn hướng đạo sinh Italia đã gặp ĐGH Gioan Phaolô 2 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Hội hướng đạo sinh Công Giáo Italia (SD 13-6-2015)

Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp Hội đồng cấp cao ngành pháp quan Italia

Đức Thánh Cha tiếp Hội đồng cấp cao ngành pháp quan Italia

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 13-6-2015, dành cho Hội đồng cấp cao của ngành pháp quan Italia, ĐTC tố giác sự lạm dụng ý niệm nhân quyền để du nhập những điều đe dọa phẩm giá con người.

Hội đồng cấp cao của ngành pháp quan Italia là cơ quan độc lập có nhiệm vụ kiểm soát và chế tài các thẩm phán, các ủy viên công tố của ngành tư pháp. Chủ tịch Hội đồng là Tổng thống Italia và có một vị phó chủ tịch điều hành trong thực tế.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến trước sự hiện diện của 200 người, ĐTC nhận xét rằng thời nay người ta nhấn mạnh đặc biệt đến đề tài các quyền con người, là điều nòng cốt của sự nhìn nhận phẩm giá thiết yếu của con người. Nhưng cần thực hiện điều này mà không lạm dụng ý niệm nhân quyền để du nhập những thói tục thực hành và những lối cư xư, thay vì thăng tiến và bảo vệ nhân phẩm, trong thực tế chúng đe dọa và thậm chí vi phạm phẩm giá của con người.

Một trong những điều ĐTC ám chỉ là chủ trương cổ võ phá thai như một nhân quyền, hoặc quyền kết hôn giữa người đồng phái, đang thịnh hành tại nhiều nước Âu Mỹ.

ĐTC cũng cổ võ ngành tư pháp của Italia, không những chỉ can thiệp trong lúc xét xử để bài trừ tội ác và những điều phạm pháp, nhưng cả trong lãnh vực giáo dục các thế hệ trẻ, cống hiến cho họ một nền nhân loại học và một kiểu mẫu cuộc sống đó thể đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người” (SD 13-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP -Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha giảng tĩnh tâm cho 1,000 linh mục quốc tế

Đức Thánh Cha giảng tĩnh tâm cho 1,000 linh mục quốc tế

ROMA. Chiều thứ sáu, 12-6-2015, ĐTC đã gặp gỡ 1 ngàn LM quốc tế tham dự cuộc tĩnh tâm tại Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, chia sẻ và trả lời những câu hỏi do một số LM nêu lên.

Ngài nói bằng tiếng Tây Ban Nha và qua hệ thống thông dịch trực tiếp, các LM thuộc các ngôn ngữ khác cũng có thể theo dõi dễ dàng.

Trong số nhiều điều được trình bày, ĐTC cảnh giác các LM đừng trở thành công chức hay một ”nhân viên của tòa thị chính”, hay một tổ chức phi chính phủ (ONG), hành động thiếu tình thương. Ngài nhắc nhở các LM về việc giảng thuyết, đừng giảng luân lý, đừng coi bài giảng như một bài học giáo lý hay một bài thuyết trình. Hãy chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng. ĐTC nói:

”Anh em đừng làm cho dân trung thành với Chúa phải sợ hãi, đừng làm họ sợ hãi, đừng mất thời giờ, hãy nói với họ về Chúa Giêsu, về niềm vui của một niềm tin ăn rễ sâu nơi Chúa Giêsu…

ĐTC cũng cảnh giác các LM đừng hành động như những chủ nhân của ơn thánh, thay vì là những người phân phát ơn thánh, hãy cộng tác với giáo dân và đừng có thái độ giáo sĩ trị. Ngài nói: ”Khi anh em ngồi tòa giải tội, đừng sợ tha thứ nhiều quá”.

Trong phần giải đáp thắc mắc, ĐTC trả lời câu hỏi của 1 LM về hiện tượng nhiều thánh đường trống rỗng, việc thực hành đạo giảm sút. Ngài cõ việc sống chứng tá Phúc Âm và tránh thái độ chiêu dụ tín đồ.

Đáp một câu hỏi khác, ĐTC nói đến phong trào đại kết bằng máu, các Giáo hội Kitô cùng bị bách hại chung. Ngài đề cao quan hệ tốt đẹp giữa Công Giáo và nhiều Giáo hội Chính Thống và cho biết Giáo hội Công giáo sẵn sàng nhượng bộ về cùng với các Giáo Hội Chính Thống tiến đến quyết định cùng cử hành lễ Phục Sinh vào một ngày chung.

Sau bài nói chuyện và trả lời câu hỏi trong 2 tiếng đồng hồ, ĐTC đã chủ sự thánh lễ đồng tế với các LM cũng tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano (SD 13-6-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Hạt giống, hạt cải

Hạt giống, hạt cải

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.

Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.

Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.

Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.

Veritas Radio

 

Việc lớn, việc nhỏ

Việc lớn, việc nhỏ

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.

Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.

Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.

Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những lời dặn dò dịu ngọt, những lời sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức âm thầm của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quý trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.

Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một linh mục, một nữ tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.

Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ nhặt, chê bai những người làm công việc tầm thường, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng nhưng đã tận tuỵ làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ.

Tưởng cũng nên nhắc đến ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng “trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… khiến nó trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!

Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Giêsu – Tấm lòng khiêm nhượng của Giêsu – Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Giêsu.

Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.

Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện âm thầm của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu, thì chắc gì bạn đã được bình yên, được khoẻ mạnh, được thành đạt trong việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình, giáo xứ và cả Hội Thánh nữa.

Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”.

Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.

Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc lớn, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.

Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới.

Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình, nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.

Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển.

Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.

Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình, đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 giáo dân trên tổng số 27.000 dân hải đảo, một ngôi thánh đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi.

Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quý chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quý chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Hạt giống mọc lên

Hạt giống mọc lên

Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.

Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?

Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.

Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.

Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hạt giống để rao giảng về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh cụ thể và dễ hiểu. Nước Thiên Chúa giống như người nông dân gieo hạt xuống đất. Hạt giống âm thầm nẩy mầm, phát triển và sinh bông hạt. Cũng vậy, hạt giống Lời Chúa được gieo vào lòng thế giới và gieo vào lòng người sẽ nảy mầm và sinh nhiều hoa trái tốt lành. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu, của sự thật không ngừng tăng trưởng dọc dài thời gian của lịch sử nhân loại. Không ai có thể ngăn cản sự phát triển của Nước Thiên Chúa.

Dụ ngôn “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) chính là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá.

Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.

Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.

Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.

Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người truyền giáo cần phải sống giữa những anh chị em nầy và chia sẽ đời sống của họ. Ðó là điều cần phải làm trước tiên và đó là chìa khóa thành công của một nhà truyền giáo thật sự. Cần huấn luyện những cá nhân trưởng thành và những tổ chức tự lập ngõ hầu những thành phần của địa phương có thể rao giảng phúc âm cho chính đồng bào của họ và cung cấp những giáo dân có đức tin vừng mạnh, có trình độ trí thức tốt, có khả năng làm việc cách hăng say giữa anh chị em mình.

Tôi vừa mới đi du lịch hành hương đất nước Hàn Quốc(10-15/6/2012). Theo linh mục Piero Gheddo, thuộc Hội Truyền Giáo Nước Ngoài Milano: “Trong suốt 50 năm qua có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Sự phát triển mạnh mẽ này cũng xảy ra đối với Kitô giáo nữa. Thật thế, từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000”. (Nhật báo Avvenire (Tương lai), cơ quan ngôn luận chính thức của Hội đồng Giám mục Italia số ra ngày 8-4-2012).

Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Hồi năm 2008, số tín hữu Công giáo đã vượt 10% tổng số dân Hàn Quốc và gia tăng 3% mỗi năm.

Theo thống kê của Giáo Hội năm 2009, số người lãnh nhận bí tích Rửa tội đã là 159.000, và đã có 149 phó tế được thụ phong linh mục, tức gia tăng 21 vị so với năm 2008. Trong năm 2009 có 69% người Hàn Quốc thuộc lứa tuổi 23 tới 40. Điều này cho thấy người dân Hàn Quốc rất trẻ trung và tràn đầy sức sống.

Đức Hồng y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu, khiến cho Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", có nghĩa là mọi tín hữu trong Giáo Hội phải dấn thân truyền giáo làm sao để vào năm 2020, số tín hữu Công giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, nghĩa là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay lên 10 triệu. (Sẽ chia sẻ thêm về Giáo hội Hàn Quốc trong những bài sau).

Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13).

Một Giáo Hội khiêm nhu nhỏ bé dễ hòa mình vào giữa đại đa số những người nghèo của Châu Á. Và một Giáo Hội không quyền lực dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm. Vì phải chăng đã đến lúc cần sáng tạo ra những "mô hình" mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ hòa mình vào những cộng đồng xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm nhiều hơn nữa đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo. Tục ngữ Việt Nam có câu: "có thực mới vực được đạo". Giáo Hội không được sai đến để giải quyết vấn đề kinh tế xã hội… nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không quan tâm đến những vấn đề ấy. Chúa Giêsu đã loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Người là "làm cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy" (Lc 7,22).

Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, truyền giáo chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng.

LM Giuse Nguyễn Hữu An