Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu

Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu

(Suy niệm của Noel Quesson)

“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.

Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.

Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.

Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.

Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.

Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.

Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.

Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.

ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA

ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA

Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.

Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.

1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.

Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng,lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: "Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).

2. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?

Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.

Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" ( Tv 50,16).

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.

Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ  vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"

Đền thờ là nơi Thánh,là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.

3. Xây dựng đền thờ tâm hồn.

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.

Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;

Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

“Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”

“Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”

Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).

Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:

Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.

Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.

Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.

Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).

Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:

“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.

Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.

Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).

Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.

Giuse Nguyễn văn Nam

Con Người Đến Để Phục Vụ

Con Người Đến Để Phục Vụ

Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.

Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.

Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư – chết vô địa táng".

Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".

Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các gia đình Philippines

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các gia đình Philippines

MANILA. Chiều 16-1-2015, ĐTC Phanxicô đã đến đến khu trung tâm thương mại Mall of Asia Arena ở thủ đô Manila, để gặp gỡ các gia đình tụ tập tại Hội trường thể thao tại đây.

Ở bên ngoài Hội trường có hàng chục ngàn tín hữu chờ đợi để chào đón, nên xe chở ĐTC đã đi vòng qua các lối đi để chào thăm mọi người. Bầu khí rất nồng nhiệt. Họ theo dõi cuộc gặp gỡ qua các màn hình từ bên ngoài.

Rồi ĐTC tiến vào Hội trường nơi có 20 ngàn người đã chờ sẵn. Ngài dừng lại chào thăm và chúc lành cho những người tàn tật ngồi trên ghế lăn, trước khi bước lên lễ đài.

 

Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa, được mở đầu với lời chào mừng của Đức Cha Chủ tịch Ủy ban GM Phi về gia đình, của một gia đình đông con và phần trình bày của một gia đình về tình trạng nghèo đói, về những khó khăn vì vợ chồng con cái phải xa cách nhau vì phải xuất cư tìm công ăn việc làm, sau cùng của một đôi vợ chồng bị điếc trình bày bằng ngôn ngữ dấu hiệu.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài Tin Mừng thuật lại biến cố thánh Giuse, Mẹ Maria mang Chúa Hài Đồng tị nạn sang Ai Cập (Mt 2,13-15.19-23), ĐTC nhắc nhở các gia đình hãy ”nghỉ ngơi trong Chúa”, dành thời giờ cho việc cầu nguyện, dấn thân trong việc chuẩn bị thế giới đón chờ ngày trở lại của Chúa, chống lại trào lưu duy tương đối và nền văn hóa phù du, sau cùng là trở thành tiếng nói ngôn sứ trong cộng đoàn. Ngài kêu gọi củng cố các gia đình ở Philippines như một nguồn năng lực sự sống cho toàn thể xã hội.

Những ý tưởng trên đây ĐTC rút ra từ những suy niệm về bài Tin Mừng theo thánh Mathêu kể lại biến cố thiên thần hiện ra với thánh Giuse và dạy Người mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15.19-23). Ngài nói:

”Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không những nghỉ ngơi một lần, nhưng là hai lần. Chiều hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả anh chị em và cùng với anh chị em suy tư về hồng ân gia đình.

”Sự nghỉ ngơi của thánh Giuse tỏ lộ ý Chúa cho thánh nhân. Trong lúc nghỉ ngơi trong Chúa, chúng ta tạm ngưng nhiều nghĩa vụ và hoạt động thường nhật. Chúa cũng đang nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta trong bài đọc Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong kinh nguyện và chứng tá của chúng ta, trong sự yên tĩnh của tâm hồn. Chúng ta hãy suy tư về điều Chúa nói với chúng ta, nhất là trong Tin Mừng chiều hôm nay. Có 3 khía cạnh của đoạn Kinh Thánh này, tôi muốn xin anh chị em suy xét, đó là: nghỉ ngơi trong Chúa, trỗi dậy với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và trở thành tiếng nói ngôn sứ.

– Về điểm thứ nhất, nghỉ ngơi trong Chúa. ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của hành động này, dành những giờ nghỉ ngơi, thinh lặng trong tâm hồn, dành thời giờ cho việc cầu nguyện… ”Nếu chúng ta không cầu nguyện thì chúng ta sẽ không biết điều quan trọng nhất, đó là thánh ý Chúa đối với chúng ta. Và nếu chỉ hoạt động mà không cầu nguyện thì chúng ta chỉ làm được rất ít việc.”
Nghỉ ngơi để cầu nguyện là điều đặc biệt quan trọng đối với gia đình. Chính trong gia đình mà chúng ta phải học trước tiên về cách thức cầu nguyện… Trong gia đình chúng ta học yêu thương, tha thứ, quảng đại, và cởi mở chứ không khép kín và ích kỷ. Chúng ta học cách đi xa hơn những nhu cầu của mình, gặp gỡ tha nhân và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ.

– Thứ hai là trỗi dậy với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Những lúc nghỉ ngơi quí giá, nghỉ với Chúa trong kinh nguyện, là những lúc chúng ta muốn kéo dài. Nhưng cũng như thánh Giuse, sau khi nghe tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, đứng lên và hành động. Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi trần thế, nhưng kéo chúng ta vào sâu hơn trong thế giới. Thực vậy, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc thù trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa đến trong trần thế của chúng ta.

Trong những sứ vụ các tín hữu cần thi hành, ĐTC đặc biệt nói đến sứ mạng bênh vực gia đình. Ngài nói: ”Có nhiều sức ép trên gia đình ngày nay. Tại Philippines này có vô số các gia đình con đang chịu đau khổ vì hậu quả của các thiên tai. Tình trạng kinh tế làm cho nhiều gia đình phải chia ly vì di cư để tìm công ăn việc làm và những vấn đề tài chánh làm cho nhiều gia đình bị căng thẳng. Trong khi quá nhiều người sống trong nghèo đói lầm than, thì những người khác lại bị thu hút vào trào lưu duy vật và những lối sống phá hủy gia đình và những đòi hỏi căn bản nhất của luân lý Kitô giáo. Gia đình cũng bị đe dọa vì những toan tính ngày càng gia tăng của một số người muốn định nghĩa lại chính định chế gia đình, hoặc vì trào lưu duy tương đối, nền văn hóa phù du, thiếu cởi mở đối với sự sống.” ĐTC nói tiếp:

”Thế giới chúng ta đang cần những gia đình tốt và vững mạnh để khắc phục những đe dọa ấy! Philippines đang cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ vẻ đạp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và là một nâng đỡ, nêu gương cho các gia đình khác”.

– Sau cùng, Tin Mừng nhắc nhở chúng ta về nghĩa vụ của Kitô hữu phải là những tiếng nói ngôn sứ trong các cộng đoàn chúng ta. .. Khi gia đình sinh sản và giáo dục con cái trong đức tin và các giá trị tốt đẹp, dạy con cái góp phần xây dựng xã hội, thì họ trở thành một phúc lành trong thế giới chúng ta. Tình thương của Thiên Chúa trở nên hiện diện và hoạt động qua cách thức chúng ta yêu thương và nhờ công việc lành chúng ta làm. Chúng ta mở rộng Nước Chúa trong thế giới này. Và khi làm như thế chúng ta tỏ ra trung thành với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta nhận lãnh khi chịu phép rửa tội.

Và ĐTC kết luận rằng: ”trong năm nay, các GM của anh chị em đã ấn định Năm Người Nghèo. Tôi xin anh chị em, trong tư cách là gia đình, hãy đặc biệt để ý đến ơn gọi của chúng ta trở thành các môn đệ thừa sai của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là sẵn sàng đi xa hơn gia đình của anh chị em, và săn sóc những anh chị em khác đang ở trong tình cảnh túng thiếu nhất. Tôi xin anh chị em đặc biệt chứng tỏ sự quan tâm đối với những người không có gia đình, nhất là nhưng người già và trẻ em không có cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy lẻ loi, cô độc và bị bỏ rơi, nhưng giúp họ biết rằng Chúa không quên họ.

Trong bài huấn dụ, ngoài phần dọn sẵn, ĐTC cũng ứng khẩu nhiều đoạn nói rằng tiếng Tây Ban Nha và một linh mục dịch sang tiếng Anh. Ngài khuyến khích các gia đình hãy mơ ước những điều tốt đẹp nhất cho vợ chồng, cái và những người thân yêu. ĐTC cũng tiết lộ ngài có lòng kính mến đặc biệt đối với thánh Giuse, người thường ít nói và im lặng nhiều. Mỗi khi gặp vấn đề đó khăn, ngài thường viết những điều ấy trên giấy và đặt dưới tượng thánh Giuse để trên bàn của ngài, để Thánh Giuse ”mơ” và giúp ngài giải quyết.

Cuộc gặp gỡ được tiếp nối với các lời nguyện giáo dân và bài thánh ca kính Đức Mẹ với phép lành của ĐTC.

Chương trình ngày thứ bẩy 17-1-2015

Sáng thứ bẩy 17-1, ĐTC sẽ đáp máy bay lúc quá 8 giờ sáng từ căn cứ không quên Villamor ở Manila để bay tới thành phố Tacloban trên đảo Leyte, cách Manila 650 cây số về hướng đông nam. Thành phố này có hơn 200 ngàn dân cư và thuộc vùng bị cuồng phong Hayan hay cũng gọi là bão Yolanda, tàn phá ngày 8 tháng 11 năm 2013 làm cho hơn 10 ngàn người chết và mất tích, các cơ cấu hạ tầng, kể cả sân bay của thành phố, cũng như các đường giao thông bị thiên tai phá hủy.

Đến nơi, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ tại sân bay Tacloban cho các tín hữu vào lúc 10 giờ. Ban trưa tại tòa TGM Palo sở tại, ngài sẽ dùng bữa với 30 người sống sót trong đó có một vài chủng sinh.

Ban chiều lúc 3 giờ ngài sẽ làm phép ”Trung tâm Giáo hoàng Phanxicô cho người nghèo” do một Cộng đoàn Canh tân trong Thánh Linh ở Hàn Quốc thành lập và quản trị. Rồi ngài đến Nhà thờ chính tòa Palo để gặp gỡ 500 người gồm các GM, LM, tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và gia đình những người sống sót, trước khi đáp máy bay trở về thủ đô Manila.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Chúa chịu phép rửa

Chúa chịu phép rửa

Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.

Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.

Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.

Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.

Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.

Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.

Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.

Ra đi

Ra đi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.

Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.

Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.

Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.

Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.

Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.

Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?

Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.

Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.

Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.

Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình thường.

Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.

Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.

Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.

Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng…, đang gắng công tu tập trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.

Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.

Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.

Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.

Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.

Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?

Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích…) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ…). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 

 

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 21-12-2014

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 21-12-2014

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 21-12-2014 với 30 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria mau lẹ ”xin vâng” đối với thánh ý Chúa.

Bài huấn dụ của ĐTC trước khi đọc kinh

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Hôm nay, chúa nhật thứ tư và là chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng, phụng vụ muốn chuẩn bị chúng ta mừng lễ Giáng Sinh nay đã đến ngưỡng cửa, bằng cách mời gọi chúng ta suy tư về trình thuật cuộc truyền tin của Sứ Thần cho Mẹ Maria. Thiên Thần Gabriel – có nghĩa là ”Sức mạnh của Thiên Chúa” – tỏ lộ cho Đức Trinh Nữ ý Chúa muốn Người trở thành Mẹ của Con duy nhất của Ngài: ”Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Hài Nhi sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,31-32). Chúng ta hãy ngắm nhìn thiếu nữ đơn sơ này ở thành Nazareth, trong lúc Người bày tỏ sự sẵn sàng đối với sứ điệp của Chúa; chúng ta hãy đón nhận 2 khía cạnh thiết yếu trong thái độ của Mẹ Maria, là mẫu mực cho chúng ta trong lúc chuẩn bị lễ Giáng Sinh.

– Trước tiên là đức tin của Mẹ Maria, hệ tại lắng nghe Lời Chúa để phó thác cho Lời của Chúa trong thái độ hoàn toàn sẵn sàng trong tâm trí. Đáp lại Sứ Thần, Mẹ Maria nói: ”Này tôi là tôi tớ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo Lời Ngài” (v.38). Qua lời thưa ”Này tôi đây” tràn đầy niềm tin, Mẹ Maria không biết mình sẽ phiêu lưu qua những con đường nào, đâu là những đau khổ sẽ phải chịu, đâu là những rủi ro sẽ phải đương đầu. Nhưng Mẹ ý thức rằng chính Chúa yêu cầu và Mẹ hoàn toàn tín thác nơi Chúa và phó thác cho tình yêu Chúa.

– Một khía cạnh khác là khả năng của Mẹ Chúa Kitô nhìn nhận thời điểm của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người đã làm cho sự nhập thể của Con Thiên Chúa có thể tiến hành được, ”sự mạc khải mầu nhiệm được giữ trong im lặng của bao thế kỷ” (Rm 16,25), như thánh Phaolô đã viết. Mẹ đã làm cho sự nhập thể của Ngôi Lời nhà lời thưa ”xin vâng” khiêm tốn và can đảm. Mẹ Maria dạy chúng ta đón nhận thời điểm thuận tiện, trong đó Chúa Giêsu đi vào đời sống chúng ta và yêu cầu trả lời sẵn sàng và quảng đại. Thực vậy, mầu nhiệm giáng sinh của Chúa Giêsu tại Bethlehem, diễn ra trong lịch sử cách đây hơn kém 2 ngàn năm, được diễn ra như một biến cố tinh thần, trong ”ngày hôm nay” của Phụng Vụ. Ngôi Lời, tìm được nơi ở trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, trong lễ Giáng Sinh, Người đến tái gõ cửa tâm hồn mỗi người. Như Mẹ Maria, mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi thưa “xin vâng” với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.

”Bao nhiêu lần Chúa Giêsu đi qua trong cuộc đời chúng ta và bao nhiêu lần Chúa gửi một thiên thần đến với chúng ta: bao nhiêu lần chúng ta không ý thức điều đó, vì chúng ta quá bận rộn và chìm đắm trong những công việc của mình. Thậm chí cả trong việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh, chúng ta không thấy Chúa đi qua và gõ cửa lòng chúng ta, xin sự đón tiếp của chúng ta. Một vị thánh đã nói: ”Tôi sợ Chúa đi qua mất”. Anh chị em có biết tại sao vị thánh ấy sợ hãi hay không? Người sợ không nhận thấy và để Chúa đi qua luôn. Chúng ta cảm thấy trong tâm hồn mình ước muốn trở nên tốt lành hơn: Chúa gõ cửa và làm cho chúng ta cảm thấy muốn trở nên tốt lành, gần gũi Thiên Cháu hơn. Nếu bạn cảm thấy điều ấy, thì hãy dừng lại, đó chính là Chúa. Và hãy đi cầu nguyện, đi xưng tội. Đó là điều làm cho bạn được tốt lành. Vậy nếu bạn cảm thấy muốn trở nên thiện hảo, thì đó chính là Chúa đi qua. Đừng để Ngài đi mất!

Và ĐTC kết luận rằng:

”Trong mầu nhiệm giáng sinh, cạnh Mẹ Maria, có sự hiện diện âm thầm của thánh Giuse, như vẫn được diễn tả trong mỗi hang đá máng cỏ – như anh chị em có thể chiêm ngắm tại Quảng trường thánh Phêrô này. Gương của Mẹ Maria và thánh Giuse là một lời mời gọi mọi người chúng ta hãy đón nhận Chúa Giêsu với tất cả tâm hồn cởi mở, vì yêu thương, Ngài đã trở nên người anh của chúng ta. Chúa đến mang cho thế giới này hồng ân hòa bình ”Bình an dưới thế cho những người Chúa thương” (Lc 2,14), như đoàn thiên thần loan báo cho những người chăn chiên. Hồng ân quí giá của lễ Giáng Sinh là an bình, và Chúa Kitô chính là an bình đích thực của chúng ta.

”Chúng ta hãy phó thác cho lời chuyển cầu của Mẹ chúng ta và của thánh Giuse, để sống một lễ giáng sinh thực sự theo tinh thần Kitô, khỏi mọi thứ trần tục, sẵn sàng đón nhận Chúa Cứu Thế, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Sau phép lành ĐTC còn chào thăm các tín hữu và nói rằng:

”Anh chị em thân mến, tôi chào thăm tất cả anh chị em, các tín hữu Roma và những tín hữu hành hương đến từ nhiều nước khác nhau; các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hội đoàn. Đặc biệt tôi chào thăm các bạn trẻ thuộc phong trào Focolari (Tổ Ấm), cộng đoàn ĐGH Gioan 23, các hướng đạo sinh Công Giáo ở khu vực Tor Sapienza, Roma.

Tôi cầu chúc tất cả anh chị em một chúa nhật tốt đẹp, một lễ giáng sinh hy vọng, đầu vui tươi và huynh đệ. Chúc anh chị em bữa trưa ngon lành và xin cầu nguyện cho tôi nữa.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Khiêm nhường đón nhận.

Khiêm nhường đón nhận

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?

2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?

3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?

4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thiên Chúa viếng thăm dân Người

Thiên Chúa viếng thăm dân Người

Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.

Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.

Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: "Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc".

Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: "Cô có phải là Thượng đế không?".

Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: "Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế".

Quả thực, "chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi". Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.

Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2,000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.

Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.

Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.

Ước gì trong mùa Giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Gia đình là ơn lớn lao Thiên Chúa ban cho thế giới

Gia đình là ơn lớn lao Thiên Chúa ban cho thế giới

Lễ Giáng Sinh gần tới thắp lên một ánh sáng lớn trên mầu nhiệm ơn gia đình. Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong một gia đình tại Nagiarét. Cũng như Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mọi gia đình có thể tiếp đón Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, giữ gìn Người, che chở Người, lớn lên với Người và như thế cải thiện thế giới.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 20,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 17-12-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói: Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành đã là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Lời cầu nguyện và suy tư phải đồng hành với lộ trình này liên quan tới toàn Dân Chúa. Tôi cũng muốn rằng các suy tư thường lệ của các buổi tiếp kiến ngày thứ tư được lồng vào trong lộ trình chung này. Vì thế tôi đã quyết định cùng anh chị em trong năm này suy tư về gia đình, về ơn lớn lao mà Chúa đã ban cho thế giới ngày từ đầu, khi trao phó cho Ađam và Evà sứ mệnh sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy trái đất (St 1,28). Ơn đó Chúa Giêsu đã minh xác và đóng ấn trong tin mừng của Người. Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Lễ Giáng Sinh đến gần thắp lên một ánh sáng lớn trên mầu nhiệm này. Sự nhập thể của Con Thiên Chúa mở ra một khởi đầu mới trong lịch sử đại đồng của người nam và người nữ. Và khởi đầu mới này xảy ra trong một gia đình tại Nagiarét. Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình. Ngài đã có thể đến một cách đặc biệt như một chiến sĩ, một hoàng đế… Nhưng không, Ngài đến như con của một gia đình, trong một gia đình. Đây là điều quan trọng. Hãy nhìn vào hang đá, cảnh này đẹp biết bao!

Thiên Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập. Người đã thành lập nó trong một làng quê hẻo lánh vùng ngoại biên của đế quốc Roma. Không phải tại Roma, là thủ đô của Đế quốc. không phải trong một thành phố lớn, nhưng trong một vùng ngoại biên, hầu như vô hình, hơn thế nũa còn mang tiếng xấu. Các Phúc Âm cũng nhắc tới điều này, như thể là một kiểu để nói rằng: “Đời nào từ Nagiarét lại có thể phát xuất điều gì tốt lành sao?” (Ga 1,46). Có lẽ trong nhiều phần đất trên thế giới chúng ta cũng còn nói như vậy, khi nghe tên của vùng ngoại ô nào đó của một thành phố lớn. Thế nhưng chính từ đó, từ vùng ngoại biên của Đế quốc vĩ đại, đã khởi đầu lịch sử thánh thiện và tốt lành nhất: lịch sử của Chúa Giêsu giữa loài người! Và ở đó có gia đình Nagiarét.

Chúa Giêsu đã sống trong vùng ngoại biên ấy 30 năm. Thánh sử Luca tóm tắt giai đoạn này như sau: Chúa Giêsu “vâng phục các Ngài” nghĩa là Mẹ Maria và Cha thánh Giuse.
Có người có thể hỏi: Vì Thiên Chúa này đến cứu chúng ta mà đã mất đi 30 năm ở dó, trong vùng ngoại biên mang tiếng xấu sao? Người đã mất 30 năm. Và Người đã muốn điều này. Con đường của Chúa Giêsu là trong gia đình ấy.

Và mẹ giữ gìn mọi sự ấy trong tim, và Chúa Giêsu đã “lớn lên trong khôn ngoan, tuổi tác và ơn thánh trước mặt Thiên Chúa và loài người” (Lc 2,51-52). Người ta không nói tới các phép lạ hay các chữa lành – Người đã không làm phép lạ nào – người ta không nói tới các giảng dậy và đám đông chạy tới với Người. Tại Nazareth mọi sự xem ra xảy ra “một cách bình thường” theo các thói quen của một gia đình do thái đạo hạnh và cần mẫn: làm việc, người mẹ nấu nướng, làm mọi việc nhà, ủi áo, mọi việc mà một bà mẹ làm. Người cha thợ mộc làm việc, dậy con làm việc. Ba mươi năm: cha ơi, uổng phí qúa! Nhưng chúng ta đâu có biết. Các con đưòng của Thiên Chúa nhiêm mầu. Nhưng điều quan trọng ở đó là gia đình! Và đó đã không phải là uổng phí nhé. Các vị đã là các đại thánh: Đức Maria là ngưòi phụ nữ thánh thiện nhất, vô nhiễm nhất, và thánh Giuse là người công chính nhất… Gia đình.

Chắc chắn chúng ta sẽ cảm động vì câu chuyện kể lại Chúa Giêsu thiếu niên đương đầu với các buổi hội họp của cộng đoàn tôn giáo và các bổn phận của cuộc sống xã hội; khi biết Người đã làm việc như thế nào với thánh Giuse như là người thợ trẻ; và rồi kiểu Người tham dự việc lắng nghe Thánh Kinh, cầu nguyện với các Thánh vịnh và tham dự biết bao sinh hoạt quen thuộc khác của cuộc sống thường ngày. Các Phúc Âm, trong sự giản dị, đã không kể lại gì về tuổi thanh niên của Chúa Giêsu và để nhiệm vụ đó cho việc suy niệm yêu mến của chúng ta. Chắc chắn không khó tưởng tượng cảnh các bà mẹ có thể học hỏi nơi các quan tâm của Mẹ Maria đối với Người Con ấy! Và các người cha có thể rút tỉa ra từ gương của thánh Giuse, người công chính tận hiến đời mình để nâng đỡ và bảo vệ con trẻ và vợ, bảo vệ gia đình mình trong những giai đoạn khó khăn! Để không nói rằng các người trẻ có thể được khích lệ bởi Chúa Giêsu thanh niên hiểu sự cần thiết và vẻ đẹp của việc vun trồng ơn gọi sâu xa hơn của mình, và mộng ước lớn lao!

Và Chúa Giêsu đã vun trồng trong 30 năm đó ơn gọi của Người mà vì nó Thiên Chúa cha đã gửi Người xuống thế, đúng không? Thiên Chúa của Cha. Chúa Giêsu đã không bao giờ chán nản trong thời gian ấy, nhưng đã can đảm lớn lên để tiến tới với sứ mệnh của mình.

Dức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ như sau:

Mỗi gia đình kitô – như Mẹ Maria và Cha thánh Giuse đã làm – có thể trước hết tiếp đón Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế cải tiến thế giới. Chúng ta hãy dành chỗ trong trái tim và ngày sống cho Chúa. Mẹ Maria và Cha thánh Giuse cũng đã làm như thế, và điều này không dễ: các ngài đã phải vượt thắng biết bao nhiêu khó khăn! Đó đã không phải là một gia đình gỉa tạo, đó đã không phải là một gia đình không thật. Thánh gia Nagiarét khiến cho chúng ta dấn thân tái khám phá ra ơn gọi và sứ mệnh của gia đình, của mỗi gia đình. Và cũng như đã xảy ra tại Nagiarét, có thể xảy ra cho chúng ta: khiến cho tình yêu trở thành bình thường chứ không phải hận thù, làm cho sự trợ giúp nhau trở thành điều chung, chứ không phải sự thờ ơ hay thù nghịch. Như vậy không phải tình cờ mà Nagiarét có nghiã là “Người canh giữ”, như Phúc Âm nói Đức Maria “giữ gìn mọi điều ấy trong tim mình” (Lc 2,19.51) Kể từ đó, mỗi khi có một gia đình giữ gìn mầu nhiệm này, cả khi có ở ngoại biên của thế giới đi nữa, thì mầu nhiệm của Chúa Giêsu đến cứu chúng ta hoạt động. Và Người đến để cứu rỗi thế giới. Và sứ mệnh lớn của gia đình là ở đó: dành chỗ cho Chúa Giêsu đến, tiếp nhận Chúa Giêsu trong gia đình, nơi con người của con cái, của chồng vợ, của ông bà, Chúa Giêsu ở đó. Tiếp đón Người ở đó để Người lớn lên trong gia đình, trong tinh thần. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn này trong các ngày cuối cùng trước lễ Giáng Sinh.

Đức Thánh Cha đã chào các doàn hành hương đến từ Bắc Mỹ và các nước Âu châu, cũng như từ Mêhicô, Argentina, Brasil và các nước châu Mỹ Latinh khác. Ngài chúc mọi người một lễ Giáng Sinh tươi vui và năm mới 2015 an lành hạnh phúc.

Chào các tín hữu vùng Trung Đông ngài nói:
trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa hạ mình xuống trần gian, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn. Ngài mời gọi chúng ta nên giống Ngài. Xin Đức Trinh Nữ Marria Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta giúp chúng ta nhận ra gương mặt của Thiên Chúa làm người nơi gương mặt của tha nhân, cách riêng nơi những ngưòi yếu đuối nhất và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội.

Với các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha cầu chúc họ một lễ Giáng Sinh thánh đức và một Năm mới nhiều tươi vui, an lành. Ngài xin Đấng Emmanuel, Hoàng Tử Hòa Bình, chiếu dãi ánh sáng hy vọng và tình yêu của Ngài trên từng người và gia đình họ.

Với các nhóm tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các sinh viên Đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ, cộng đoàn Đạo binh Chúa Kitô với các tân linh mục, các cặp vợ chồng nhảy Tango quy tụ về Roma biểu diễn chúc mừng sinh nhật thứ 78 của Đức Thánh Cha. Ngài khích lệ mọi người dấn thân sống những ngày này trong lời cầu nguyện và làm các việc lành để biến cố Chúa giáng sinh làm cho con tim được tràn ngập niềm vui mà Ngài muốn ban cho mọi người.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiếp nhận mầu nhiệm Bethlem với cùng niềm tin Mẹ Maria đã tiếp nhận lời truyền tin của thiên thần Gabriel. Ngài khuyên các bệnh nhân kín múc nơi Mẹ niềm vui và sư bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho thế giới. Sau cùng ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn hãy biết noi gương Mẹ qua việc cầu nguyện và sống các nhân đức.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Dọn đường cho Chúa

Dọn đường cho Chúa

Trong một trận lũ lụt kia, nhiều du khách trên tuyến đường Bắc – Nam bị kẹt ở miền Trung. Lý do là đèo Hải Vân bị sạt lở, xe cộ không đi lại được. Nhiều đoạn đường sắt bị nước lũ cuốn đi, nên tàu Bắc – Nam cũng đành ủ rũ nằm chờ. Nhiều làng bị nước ngập, dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.

Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người. Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.

Con đường vật lý đã cần. Nhưng con đường tâm lý còn cần hơn. Nếu con đường tâm lý bị hư hỏng thì dù có ở sát cạnh nhau, người ta cũng vẫn cứ xa nhau.

Tương tự như thế, ta cần có con đường thiêng liêng thật tốt để đón Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.

Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú tính.

–      Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.

–      Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.

Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi ta hãy sửa chữa con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu. Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Ngoài những cố gắng bản thân, còn cần đến những phương thế. Đời sống của Thánh Gioan Baotixita đề nghị cho ta 3 phương thế rất tốt.

–      Phương thế thứ nhất là vào sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu vắng vẻ giúp ta sống cô tịch. Trong cô tịch, ta dễ chìm sâu xuống đáy lòng mình để gặp gỡ Chúa. Một mình ta diện đối diện với Chúa. Trong thân mật, Chúa sẽ dạy ta biết Thánh Ý để ta thi hành. Đức Giêsu, trước khi đi rao giảng cũng đã vào sa mạc 40 ngày để tìm Thánh Ý Chúa Cha. Sa mạc đây được hiểu là những giờ cầu nguyện riêng tư thân mật một mình ta với Chúa.

–      Phương thế thứ hai là mặc áo da thú. Mặc áo da thú có nghĩa là ăn mặc đơn sơ, không chải chuốt. Một tâm hồn mặc áo da thú là một tâm hồn biết sống thực với chính mình, biết nhìn nhận những yếu đuối lỗi lầm và xin Chúa tha thứ. Thái độ đơn sơ khiêm nhường như thế chính là khởi điểm để tiến lên trên con đường thánh đức.

–      Phương thế thứ ba là ăn châu chấu và mật ong rừng. Đây có ý nói về một đời sống khổ chế. Hãm dẹp những tính mê tật xấu, hạn chế những đòi hỏi của thân xác để bắt nó quy phục linh hồn. Giảm bớt những nhu cầu không cần thiết để bồi dưỡng đời sống tâm linh.

Thánh Gioan Baotixita đã sống theo chương trình 3 điểm này, nên Ngài đã trở thành người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta biết áp dụng 3 phương thế ấy trong Mùa Vọng này, ta sẽ biến tâm hồn ta thành một con đường thẳng tắp cho Chúa Giáng Sinh ngự đến.

Lạy Chúa, xin cứu con khỏi mọi tội lỗi để con xứng đáng đón rước Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Con đường tâm hồn tôi có những đồi núi, vực sâu, khúc quanh nào cần sửa chữa?

2.    Tôi có cần đến những phương thế của Thánh Gioan Baotixita không?

3.    Tôi sẽ làm gì trong tuần này để thực hành Lời Chúa?

4.    Trong bài Tin Mừng Chủ nhật thứ II Mùa Vọng này, tôi tâm đắc nhất câu nào?

ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt

Lãng quên Thiên Chúa đẩy đưa con người tới bạo lực

Lãng quên Thiên Chúa đẩy đưa con người tới bạo lực

Chính việc lãng quên Thiên Chúa chứ không phải việc vinh danh Người làm nảy sinh ra bạo lực. Vì thế các tín hữu kitô và hồi giáo cần cùng nhau dấn thân cho tình liên đới, hòa bình và công lý, và mọi chính quyền phải bảo đảm cho các công dân và cộng đồng tôn giáo quyền tự do phụng tự đích thực.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến sáng thứ tư 3-12-2014 tại quảng trường thánh Phêrô. Như đã biết, Đức Thánh Cha mới viếng thăm mục vụ Thổ Nhĩ Kỳ ba ngày cuối tuần vừa qua, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với tín hữu các cảm tưởng và kinh nghiệm trong chuyến công du mục vụ này.

Đức Thánh Cha nói: Hôm nay chúng ta duyệt lại các chặng hành hương mà tôi đã đi từ thứ sáu cho tới Chúa Nhật vừa qua. Như tôi đã xin anh chị em chuẩn bị và đồng hành với nó bằng lời cầu nguyện, giờ đây tôi xin anh chị em cùng tôi cảm tạ Thiên Chúa vì việc thực hiện nó, và để cho nó sinh hoa trái trong cuộc đối thoại với các anh em chính thống và với các anh em hồi giáo, cũng như cho con đường hòa bình giữa các dân tộc.

Đức Thánh Cha đã cám ơn Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng tôn giáo cũng như các giới chức chính quyền khác của Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp đón ngài với lòng kính trọng và bảo đảm cho chuyến viếng thăm diễn ra trong trật tự. Ngài cũng cám ơn các Giám Mục của Giáo Hội công giáo Thổ Nhĩ Kỳ vì sự dấn thân của các vị, cũng như Đức Thượng Phụ Bartolomaios I vì sự tiếp đón thân tình. Chân phước Phaolô VI và Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ và Thánh Gioan XXIII, từng là Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ, từ Trời đã che chở chuyến hành hương của tôi, diễn ra tám năm sau chuyến viếng thăm của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Biển Đức XVI. Vùng đất này thân thương đối với mọi kitô hữu, đặc biệt vì đã là nơi tông đồ Phaolô chào đời, và là nơi triệu tập bẩy Công Đồng và vì sự hiện diện của “Nhà Đức Maria” gần thành Êphêxô.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kể lại diễn tiễn các ngày viếng thăm, Trong ngày đầu tiên ngài đã thăm lăng của ông Ataturk và gặp gỡ chính quyền Thổ. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng Hiến pháp khẳng định tính chất đời của Nhà nước. Ám chỉ tình trạng bạo lực do các lực lượng hồi cực đoan gây ra đó đây trên thế giới, Đức Thánh Cha khẳng định:

Chính sự lãng quên Thiên Chúa chứ không phải việc vinh danh Người làm nảy sinh ra bạo lực. Vì thế tôi đã nhấn mạnh tầm quan trọng các tín hữu kitô và hồi giáo phải cùng nhau dấn thân cho tình liên đới, hòa bình và công lý, và khẳng định rằng mọi chính quyền phải bảo đảm cho các công dân sự tự do tôn giáo thực sự.

Trong ngày thứ hai tôi đã viếng thăm vài nơi biểu tượng của các tôn giáo khác nhau hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỹ. Tôi đã làm điều đó và cảm nhận trong tim lời khẩn cầu Chúa, là Thiên Chúa trời đất, là Cha thương xót của toàn nhân loại. Trọng tâm ngày viếng thăm là buổi cử hành Thánh Thể trong nhà thờ chính tòa với sự tham dự của các Chủ Chăn và tín hữu của nhiều nghi lễ công giáo hiện diện tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tham dự cũng đã có Đức Thượng Phụ Đại Kết, Đại diện Đức Thượng Phụ Apostolico, Tổng Giám Mục chính thống Siro và các giới chức Tin Lành. Chúng tôi đã cùng nhau khẩn nài Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự hiệp nhất cho Giáo Hội: hiệp nhất trong đức tin, đức mến và hiệp nhất trong sự kết hợp chặt chẽ nội tâm. Trong sự phong phú của các truyền thống và cơ cấu của mình Dân Chúa được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong thái độ liên lỉ cởi mở, ngoan ngoãn và vâng phục.

Tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm Đức Thánh Cha nói: Ngày cuối cùng của chuyến viếng thăm lễ thánh Anrê Tông Đồ đã cống hiến bối cảnh lý tưởng cho việc củng cố các liên hệ huynh đệ giữa Giám Mục Roma, Người Kế Vị thánh Phêrô và Đức Thượng Phụ Đại Kết Costantinopoli, theo truyền thống là Giáo Hội do thánh Anrê, em của Simon Phêrô thành lập. Đức Thánh Cha cho biết như sau:

Tôi đã cùng với Đức Thượng Phụ canh tân dấn thân theo đuổi con đường tiến tới việc thiết lập sự hiệp thông trọn vẹn giữa các tín hữu công giáo và chính thống. Chúng tôi đã cùng nhau ký một Tuyên ngôn chung là chặng cuối của con đường này. Đặc biệt ý nghĩa là hành động này đã được làm vào cuối buổi cử hành trọng thể Phụng vụ lễ thánh Anrê, mà tôi đã tham dự với niềm vui lớn, và nó đã được theo sau bởi phép lành của Đức Thượng Phụ Costantinopoli và Giám Mục Roma. Thật thế, lời cầu nguyện là nền tảng cho mọi cuộc đối thoại đại kết phong phú dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Cuộc gặp gỡ cuối cùng là với nhóm các bạn trẻ tỵ nạn, được các tu sĩ Salesien tiếp đón.
Thật là điều rất quan trọng đối với tôi việc gặp gỡ vài người tỵ nạn Trung Đông, để bầy tỏ sự gần gũi của tôi và của Giáo Hội cũng như để nhấn mạnh giá trị của sự tiếp đón, mà Thổ Nhĩ Kỳ cũng rất dấn thân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả các người di cư và tỵ nạn và để xóa bỏ các lý do gây ra thảm cảnh đau đớn này.

Anh chị em thân mến, Xin Thiên Chúa toàn năng và thương xót tiếp tục che chở dân nước và giới chức lãnh đạo chính trị và tôn giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Ước chi họ có thể cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình, để Thổ Nhĩ Kỳ có thể diễn tả một nơi của sự sống chung hòa bình giữa các tôn giáo và các nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra chúng ta cũng hãy cầu nguyện để qua sư bầu cừ của Đức Trinh Nữ Maria, Chúa Thánh Thần khiến cho chuyến công du này được phong phú và tạo thuận tiện cho lòng hăng say truyền giáo, để trong sư tôn trọng và đối thoại huynh đệ, loan báo cho tất cả mọi dân tộc rằng Chúa Giêsu là sự thật, hòa bình và tình yêu.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ Bắc Mỹ, các nước Âu châu cũng như từ Malyasia, Nigeria, Argentina, Mêhicô, Paraguay. Bolivia và Chile.

Ngài đặc biệt chào các thành viên phong trào Truyền giáo Phi châu do các Giám Mục hai giáo phận Piacenza Bobbio và Moroto hướng dẫn, các tham dự viên đại hội gia đình, các người tổ chức hang đá lưu động vùng Pavullo. Ngài cầu mong Mùa Vọng là thời gian thuận tiện giúp mọi người chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh và dấn thân canh tân lòng gắn bó với Chúa Kitô và liên đới với các anh chị em túng thiếu.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, Ngài nhắc cho mọi người biết hôm qua Giáo Hội kính nhớ thánh Phanxicô Xaviê. Đức Thánh Cha cầu mong thánh nhân giúp các bạn trẻ sống đức tin nghiêm chỉnh, các người đau yếu tin tưởng nơi sự trợ lực của Chúa Kitô trong những lúc khổ đau, và các đôi tân hôn biết tận hiến cho nhau trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Lễ Chúa Kitô Vua

Lễ Chúa Kitô Vua

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.

Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.

Bài đọc hai trích từ 1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.

Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.

Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.

Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.

Rồi những ngày này, biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v…, chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm manh áo.

Với tất cả những suy nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.

Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.

Veritas Radio

Chúa Giêsu là vua

Chúa Giêsu là vua

Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.

Trước hết là trong Cựu Ước.

Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương:

– Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.

Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:

– Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.

Tiếp đến là trong Tân Ước.

Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philạô:

– Phải, tôi là vua.

Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi:

– Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.

Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.

Thực vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.

Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:

– Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.

Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:

– Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.

Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.

Tóm lại, niên lịch phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.

Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là, chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.

Sưu tầm

 

Sử dụng nén bạc Chúa trao

Sử dụng nén bạc Chúa trao

VATICAN. Hàng chục ngàn tín hữu đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 16.11.2014.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa của Tin Mừng Chúa Nhật thứ 33 thường niên, dụ ngôn những nén bạc. Ngài mời gọi mọi người hãy sử dùng những nén bạc Chúa trao để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ của Đức Thánh Cha.

“Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em!
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay theo thánh Mát-thêu là dụ ngôn về những nén bạc. Dụ ngôn kể về ông chủ, trước khi lên đường đi xa, cho gọi các đầy tớ đến và giao phó cho họ tài sản của ông qua những nén bạc, tiền tệ có giá trị lớn thời xưa. Ông chủ này giao phó cho người đầy tớ thứ nhất năm nén bạc, người thứ hai hai nén, và người thứ ba một nén. Trong thời gian ông chủ đi vắng, ba đầy tớ này phải làm cho những tài sản này sinh lợi. Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai, mỗi người làm lợi gấp đôi số vốn được trao ban đầu; tuy nhiên, người thứ ba, vì sợ mất trắng, nên đã chôn vùi nén bạc đã nhận trong lỗ. Đến khi chủ trở về, hai người đầy tớ đầu tiên nhận lãnh được lời khen và phần thưởng, trong khi người thứ ba, thì chỉ hoàn trả lại số tiền đã nhận, nên đã bị khiển trách và trừng phạt.

Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Những tài sản nào? Lời Chúa, Thánh Thể, và niềm tin vào Cha trên trời, sự tha thứ của Người…tóm lại, rất nhiều thứ, những điều thiện hảo quý giá nhất của Người. Đây là tài sản mà Người đã ủy thác cho chúng ta. Không chỉ để chúng ta trông coi, nhưng còn phải làm cho sinh lời. Trong khi việc sử dụng từ “tài năng” cách chung diễn tả một đặc tính cá nhân đặc biệt – chẳng hạn như tài năng về âm nhạc, về thể thao,…- trong dụ ngôn những tài năng hay nén bạc tượng trưng cho những điêu thiện hảo của Thiên Chúa, mà Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (26) diễn tả nỗi sợ sự rủi ro là thứ đã bóp nghẹt sự sáng tạo và sự phong nhiêu của tình yêu. Vì nỗi sợ rủi ro trong tình yêu sẽ bóp nghẹt chúng ta. Chúa Giêsu không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Chúa Giêsu không yêu cầu chúng ta như thế, nhưng mong muốn rằng chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân. Tất cả những điều thiện hảo mà chúng ta nhận lãnh là để trao ban cho tha nhân, và như thế là sinh lợi. Như thể Ngài nói với chúng ta rằng :“Đây là lòng thương xót của Ta, sự âu yếm của Ta, sự tha thứ của Ta: hãy nhận lấy và sử dụng chúng một cách hào phóng.” Và chúng ta đã làm được những gì? Chúng ta phải làm lan truyền đức tin cho ai? Chúng ta đã động viên bao nhiêu người với niềm hy vọng của chúng ta? Chúng ta đã chia sẻ bao nhiêu tình yêu đến cho những người xung quanh? Chúng là những câu hỏi sẽ làm cho chúng ta trở nên hoàn thiện. Dù trong môi trường nào, thậm chí là nơi xa xăm nhất và bất khả thi nhất, đều có thể trở nên nơi chốn làm cho những nén bạc sinh lời. Chẳng có hoàn cảnh và nơi chốn riêng biệt nào có thể ngăn cản sự hiện diện và những chứng tá của Kitô hữu. Những chứng tá mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta không phải để đóng kín, nhưng là mở rộng, tùy thuộc vào chúng ta.

Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta không được che giấu niềm tin và sự thuộc về Chúa Kitô của chúng ta, không được chôn vùi Lời Chúa, nhưng phải để nó lan truyền trong đời sống của chúng ta, trong những tương quan, trong những hoàn cảnh cụ thể, như là sức mạnh nâng đỡ giữa khủng hoảng, để tinh lọc, để đổi mới. Như thế thậm chí sự tha thứ, mà Thiên Chúa đã ân ban cách đặc biệt cho chúng ta trong Bí tích Hòa Giải: đừng chỉ giữ khư khư nơi bản thân chúng ta, nhưng hãy để sức mạnh của Thiên Chúa lan tỏa, một sức mạnh giúp đạp đổ những bức tường mà cái tôi của chúng ta đã dựng lên, giúp chúng ta chủ động trong các tương quan tan vỡ, để nối lại những cuộc đối thoại ở những nơi không còn sự truyền thông… Phải làm như thế. Phải làm cho những tài năng, những món quà, những ân ban mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta, đến được với tha nhân, lớn lên, và kết trái, cùng với chứng tá của chúng ta.

Cha tin rằng hôm nay sẽ là một cử chỉ tốt đẹp để mỗi người trong chúng con mang Tin Mừng về nhà, Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, chương 25, từ câu 14 đến 30, Mt 25, 14-30, hãy đọc Tin Mừng, và hãy suy niệm một chút: “Những nén bạc, sự dư dật, tất cả những điều thiêng liêng, lòng tốt và cả Lời Chúa mà Người đã trao ban, tôi sẽ làm cho chúng sinh lợi cho tha nhân như thế nào đây? Hay là chỉ cất giấu chúng trong két sắt?”

Hơn nữa, Thiên Chúa không trao ban cho tất cả mọi người mọi thứ theo cùng một cách thức như nhau: Ngài thấu hiểu chúng ta một cách cá vị và trao ban cho chúng ta điều phù hợp; nhưng trong tất cả, trong tất cả có một thứ ngang bằng nhau: sự tín nhiệm to lớn và như nhau. Thiên Chúa đã tin cậy chúng ta, Thiên Chúa hy vọng nơi chúng ta. Và đây là điều như nhau cho tất cả. Đừng làm cho Người thất vọng! Đừng để mình bị lừa dối bởi sợ hãi, nhưng hãy đáp lại sự tin cậy bằng sự tin cậy! Đức Trinh Nữ Maria là hiện thân tiêu biểu của thái độ này với một cách thức viên mãn và đẹp đẽ nhất. Mẹ đã nhận lãnh và đón tiếp tặng phẩm tuyệt vời nhất, Đức Giêsu làm Người, và đến lượt mình Mẹ đã tặng ban cho loài người Chúa Giêsu với cả con tim quảng đại. Hãy van nài Mẹ phù giúp chúng ta trở thành “những đầy tớ tốt lành và trung tín”, để xứng đáng vào hưởng “niềm vui của Thiên Chúa chúng ta.”
Jos. Nguyển Huy Mai

 

Hãy làm những gì Chúa muốn

Hãy làm những gì Chúa muốn

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Chỉ còn vài giây trong một trận bóng đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đã thay đổi lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đã mất một cơ hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đã buộc học sinh phải làm một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đã quyết định viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.

Điều tốt hơn là làm những gì đúng hơn là làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học được rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm nói đến, người đã được trao cho năm nén bạc.

Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn giáo của mình. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đã được trao cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.

Một người phụ nữ mà đời sống của bà không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay, một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn “60 phút”. Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện trong tạp chí “Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài lòng với người tôi tớ có hai nén, vì anh ta đã là lợi được hai nén khác giống như người có năm nén đã làm lợi năm nén khác.

Điểm sai lạc là sống giống như một người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã chôn nó vào đất. Anh ta biện minh rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều gì, hoặc không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại, nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm việc.

Người chủ hiển nhiên là không cần những nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân, nhưng chúng là một đặc ân được nhìn theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh quang của Ngài, vì sự lợi ích cho dân của Người.

Thật sự trong một ý nghĩa chúng ta được gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi vì bất cứ khi nào chúng ta làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra đó là một điều rất lớn lao.

Latêranô và những ngôi Đền Thờ

Latêranô và những ngôi Đền Thờ

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.

Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!

Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…

Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.

Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:

– Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.

– Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để  họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.

– Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.

– Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.

Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức  Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1,000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.

Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28-4-1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9-11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.

Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.

Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.

Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.

Hãy sống trong sự thật

Hãy sống trong sự thật

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.

Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.

Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.

Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.

“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa – yêu người.

 

Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa

 Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa

Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.

Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.

Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)

Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).

Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).

Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.

Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.