Ái mộ những sự trên trời

Ái mộ những sự trên trời

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.

Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Ngước mắt nhìn trời

Ngước mắt nhìn trời

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

Gợi ý chia sẻ:

1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?

2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?

3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Xin được theo Chúa về Trời

Xin được theo Chúa về Trời

Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hướng trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa là Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"

Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?". Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.

Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

Chúa Giêsu trong tư cách một con người trần thế. Ngài đã sống cả cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong việc phục vụ tha nhân. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó Ngài đã thực thi trọn vẹn cho dù phải trả giá bằng cả mạng sống, miễn sao cho ý Chúa Cha được thực hiện, cho danh Cha được cả sáng, cho Nước Cha mau hiển trị.

Là người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi cho đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang, mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Cal-vê.

Hôm nay Chúa về trời, Ngài vẫn mang theo dấu vết của thương tích, của thương đau, của sự chống đối, xỉ nhục, đòn roi mà Ngài đã từng trải qua… Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu đó, như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Nay, Ngài cũng muốn tất cả chúng ta hãy đi con đường này để tiến về trời cao. Đó là con đường làm chứng nhân cho Tin mừng của Chúa bằng chính đời sống tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải đổ máu nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm luôn bao dung, kính trọng, bác ái và công bình. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tay chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay mừng Chúa về trời, chúng ta cũng nghe vang vọng đâu đây lời mời gọi thiết tha của Thầy Chí Thánh Giêsu: "anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan để: "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về, miệng reo vang câu hát mừng". Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Hoàn thành Hiệp định toàn bộ giữa Tòa Thánh và Palestine

Hoàn thành Hiệp định toàn bộ giữa Tòa Thánh và Palestine

VATICAN. Hôm 13-5-2015, Ủy ban song phương giữa Tòa Thánh và Nhà Nước Palestine đã hoàn thành việc soạn thảo Hiệp định toàn bộ giữa hai bên.

Hiệp định này tiếp theo Hiệp định cơ bản được Tòa Thánh và Palestine ký kết ngày 15-2 năm 2000.

Thông cáo chung công bố ngày 13-5-2015 cho biết Ủy ban song phương đã nhóm khóa họp chung cùng ngày tại Vatican dưới quyền chủ tọa của hai vị Đồng Chủ tịch là Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh, và Đại Sứ Rawan Sulaiman, Phụ Tá ngoại trưởng đa vụ của Palestine. Phái đoàn Tòa Thánh có 6 người, trong đó có Đức TGM Giuseppe Lazzarotto, Khâm sứ Tòa Thánh tại Jerusalem và Palestine. Phái đoàn Palestine có 4 người.

Các cuộc thảo luận đã diễn ra trong bầu không khí thân thiện và xây dựng, và Ủy ban hài lòng ghi nhận những tiến bộ đã đạt được trong việc soạn Văn bản hiệp định liên quan đến những khía cạnh thiết yếu trong đời sống và hoạt động của Giáo Hội Công Giáo tại Palestine. Cả hai bên đều đồng ý rằng công việc của Ủy ban trong việc soạn hiệp định đã kết thúc và Văn bản sẽ được đệ trình cấp trên liên hệ để phê chuẩn và xác định ngày chính thức ký kết hiệp định trong tương lai gần đây.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Ông thứ trưởng Tòa Thánh Camilleri, người Malta, cho biết Văn bản hiệp định gồm có Lời Tựa, tiếp đến là chương I về các nguyên tắc và qui luật cơ bản làm khung nền cho sự cộng tác giữa Tòa Thánh và Palestine, trong đó cũng có bày tỏ mong ước một giải pháp cho vấn đề Palestine, và cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, qua giải pháp 2 quốc gia và các nghị quyết của Cộng đồng quốc tế.

Chương thứ 2 quan trọng, nói về tự do tôn giáo và lương tâm với nhiều chi tiết.

Các chương kế tiếp nói về các khía cạnh khác nhau liên quan đến đời sống và hoạt động của Giáo Hội Công Giáo tại các lãnh thổ của Palestine: tự do hoạt động, nhân sự và quyền tài phán của Giáo Hội, qui chế nhân sự, các nơi thờ phượng, các hoạt động xã hội và từ thiện, các phương tiện truyền thông xã hội.

Sau cùng có một chương nói về vấn đề thuế khóa và tài sản.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Ông Camilleri cũng cho biết về vấn đề soạn hiệp định giữa Tòa Thánh và Israel. Sau khi ký hiệp định cơ bản hồi tháng 12-1993, Israel và Tòa Thánh đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau hồi tháng 6-1994, tiếp đến là ký hiệp định về pháp nhân của các tổ chức Công Giáo năm 1997 và từ năm 1999 trở đi có các cuộc thương thuyết về hiệp định kinh tế, thuế khóa. Hiệp định hầu như đã sẵn sàng và Đức Ông hy vọng sớm có sự ký kết hiệp định này để mưu lợi ích cho cả hai bên. (SD 13-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cám ơn ban tổ chức và ân nhân buổi hòa nhạc

Đức Thánh Cha cám ơn ban tổ chức và ân nhân buổi hòa nhạc

VATICAN. Sáng ngày 13-5-2015, ĐTC Phanxicô tiếp kiến và cám ơn ban tổ chức, các nhạc sĩ cũng như các ân nhân ”buổi hòa nhạc cho người nghèo” tại Đại thính đường Phaolô 6 lúc 6 giờ chiều ngày 14-5-2015.

Buổi hòa nhạc được sự bảo trợ của Sở Từ Thiện của ĐTC, Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và Ngân Quỹ Thánh Mathêu tưởng niệm ĐHY Nguyễn Văn Thuận.

Lên tiếng trong dịp này, sau khi nồng nhiệt cám ơn mọi người về những gì họ đã và sẽ làm cho buổi hòa nhạc, ĐTC cũng nói rằng ”Âm nhạc có khả năng liên kết các tâm hồn và nối kết chúng ta với Chúa.. Âm nhạc giải thoát chúng ta khỏi những lo âu. Cả những nhạc buồn cũng giúp chúng ta trong những lúc khó khăn.”

”Tôi cám ơn anh chị em rất nhiều, vì một chút tinh thần mang lại lợi ích cho mọi người, giữa bao nhiêu công việc lo toan vật chất luôn vây bủa và kéo chúng ta xuống. Trong tư cách là tín hữu, chúng ta có niềm vui của một người Cha yêu thương tất cả chúng ta, niềm vui vì có thể thực hiện tình huynh đệ với tất cả mọi người.. Buổi hòa nhạc của anh chị em là để gieo vãi niềm vui, không phải thứ vui mừng giải trí chóng qua, và hạt giống mà anh chị em gieo vãi sẽ ở lại trong tâm hồn mọi người và mưu ích cho tất cả.. Tôi thành tâm cám ơn tất cả anh chị em”.

Trong số những người hiện diện cũng có nhạc trưởng Daniel Oren người Do thái, ông điều khiển ban nhạc ở Salerno. Ông xin ĐGH Phanxicô chúc lành cho ông và gia đình tháp tùng. ĐGH đã nhận lời và ngài chúc lành cho ông theo công thức của tổ phụ Abraham.

Đức Ông Marco Frisina, giám đốc ca đoàn của giáo phận Roma và là tác giả của nhiều bài ca, cũng có mặt trong buổi tiếp kiến. Ngài nhận định rằng 'đúng là âm nhạc có thể liên kết mọi người, như ĐTC nói, không những những người thuộc các giai tầng xã hội khác nhau, nhưng cả những người thuộc các tôn giáo khác nhau, tín hữu và người không tín ngưỡng”.

Số tiền lạc quyên được trong buổi hòa nhạc sẽ được dành để tài trợ các hoạt động bác ái của ĐTC.

Hai ngàn người nghèo, vốn được Caritas Roma, cộng đồng thánh Edigio, Hội Hiệp sĩ Malta, cũng như trung tâm tị nạn của Dòng Tên ở Roma trợ giúp, được mời tham dự buổi hòa nhạc và được ngồi ở những hàng ghế đầu.

Trong số khoảng 20 ân nhân bảo trợ buổi hòa nhạc, có Phân khoa kinh doanh thuộc đại học Công Giáo LUISS ở Roma, Quỹ Mariano chuyên về các chương trình giáo dục và y tế cho giới trẻ, công ty bảo hiểm Patriot National INC, và ngân hàng BCC ở Roma, v.v..

Trong buổi hòa nhạc có trình diễn tác phẩm ”La Divina Commedia” do Đức ông Frisina phổ nhạc, để kỷ niệm 750 năm sinh nhật của thi hào Dante, và những đoản khúc về Mùa Phục Sinh, hy vọng và vui mừng.

(SD 14-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Xin phép, cám ơn và xin lỗi

Xin phép, cám ơn và xin lỗi

ĐTC tiếp kiến các trẻ em ngày 13-05-2015

Xin phép, cám ơn và xin lỗi là ba từ giúp chúng ta bước vào trong tình yêu của gia đình, duy trì cuộc sống hạnh phúc và bình an trong gia đình và trong xã hội, vì chúng giúp tránh các rạn nứt có thể trở thành các hố sâu ngăn cách. Vì thế đừng bao giờ kết thúc ngày sống trong gia đình mà không làm hòa với nhau.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 13-5-2015.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài Gia đình và ba lời nói viết trên cửa: Xin phép, cám ơn và xin lỗi. ĐTC nói:

Bài giáo lý hôm nay giống như cửa vào của một loạt các suy tư về cuộc sống gia đình, cuộc sống thực tế của nó với các thời điểm và các biến cố. Trên cánh cửa này có viết ba từ: “Có đuợc phép không?”, “cám ơn”, “xin lỗi”. Thật thế các từ này mở ra con đường giúp sống hạnh phúc trong gia đình. …

Chúng là các từ đơn sơ, nhưng thực thi chúng thì lại không đơn sơ như thế! Chúng gói ghém một sức mạnh lớn: sức mạnh gìn giữ gia đình cả qua hàng ngàn khó khăn và thử thách; trái lại việc thiếu chúng, từ từ mở ra các nứt rạn có thể làm cho nó sụp đổ.

Chúng ta thưòng coi các từ đó như các từ của “nền giáo dục tốt”. Đúng nền giáo dục tốt quan trọng. Một Giám Mục lớn là thánh Phanxicô de Sales, thường nói: “nền giáo dục tốt là một nửa sự thánh thiện”. Tuy nhiên hãy chú ý trong lịch sử chúng ta cũng nhận ra một khuynh hướng hình thức của các cung cách hành xử có thể trở thành mặt nạ che dấu sự khô cằn của tâm hồn và sự thờ ơ đối với tha nhân. Người ta thường nói :”Đàng sau các cung cách tốt ẩn dấu các thói quen xấu”. Cả tôn giáo  cũng không thoát khỏi nguy cơ này, khiến cho việc tuân giữ hình thức rơi vào tinh thần thế tục. Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu đưa ra các cung cách tốt và trích dẫn cả Thánh Kinh nữa. Xem ra nó là một thần học gia. Kiểu của nó bề ngoài đúng đắn, nhưng ý hưóng của nó là nhằm làm sai lệch sự thật của tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta trái lại hiểu nền giáo dục tốt trong các phạm trù đích thực, nơi kiểu của các tương quan tốt đâm rễ sâu trong tình yêu sự thiện và trong sự tôn trọng tha nhân. Gia đình sống nhờ sự tinh tế ấy của tình yêu thương nhau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC khai triển từng từ một. Trước hết là “xin phép” hay hỏi “Có được phép không?” Khi chúng ta lo lắng xin một cách lễ phép, cả khi chúng ta nghĩ rẳng có thể yêu sách, là chúng ta đặt một sự  bảo vệ đích thật cho tinh thần sống chung trong hôn nhân và gia đình. Bước vào trong cuộc sống của người khác, cả khi nó là một phần cuộc sống của chúng ta, đòi hỏi sự tế nhị của một thái độ không xâm lăng, canh tân lòng tin tưởng và sự kính trọng. Chuyện riêng không cho phép coi mọi sự là tự nhiên. Và tình yêu càng thân tình và sâu xa bao nhiêu lại càng đòi hỏi việc tôn trọng sự tự do và khả năng chờ đợi người khác mở cửa tâm lòng họ bấy nhiêu. Liên quan tới điểm này chúng ta hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói trong sách Khải Huyền: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 20). Cả Chúa cũng xin phép để vào! Chúng ta đừng quên điều đó.

Từ thứ hai là “cám ơn”. Vài lần người ta nghĩ rằng chúng ta đang trở thành một nền văn minh của các cung cách hành xử xấu và các lời nói xấu, làm như thể chúng là dấu chỉ của sự thoát ly. Nhiều lần chúng ta cũng nghe nói công khai như thế. Sự tử tế và khả năng cám ơn được xem như một dấu chỉ của sự yếu đuối, có khi lại dấy lên ngờ vực. Phải chống lại khuynh hướng này ngay rong gia đình. Chúng ta phải đòi hỏi đối với việc giáo dục sống biết ơn, nhớ ơn : phẩm giá con người và công bằng xã hội đều đi qua đó. Nếu cuộc sống gia đình lơ là lối sống này, cả cuộc sống xã hội cũng sẽ mất nó. Thế rồi, đối với một tín hữu lòng biết ơn là trung tâm của đức tin : một kitô hữu không biết cám ơn là một người đã quên đi tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ câu Chúa Giêsu hỏi khi chữa mười người phong cùi và thấy chỉ có một người trong bọn họ trở lại cám ơn (x. Lc 17,18).

Lời thứ ba là « xin lỗi ». Đây là lời khó nói, chắn chắn rồi nhưng cần thiết. Khi thiếu nó, các nứt rạn nhỏ trở thành lớn hơn – cả khi không muốn – cho tới khi trở thành các hố sâu.  Không phải vô tình trong lời kinh Lậy Cha Chúa Giêsu dậy chúng ta tìm thấy kiểu nói này : « Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con » (Mt 6,12). Thừa nhận dã thiếu sót và ước ao trả lại những gì đã bị lấy mất  – tôn trọng, chân thành, yêu thương – khiến đáng được tha thứ. Và như thế là chúng ta ngăn chặn nhiễm trùng. …

Nếu chúng ta không có khả năng xin lỗi, thì có nghĩa là chúng ta cũng không có khả năng tha thứ. Trong gia đình nơi người ta không xin lỗi thì bắt đầu thiếu dưỡng khí, nước tù đọng. Biết bao nhiêu vết thương đối với lòng yêu mến, biết bao nhiêu xâu xé trong các gia đình bắt đầu với sự mất đi lời nói qúy báu này « Xin lỗi ». Trong cuộc sống hôn nhân người ta cãi nhau biết bao nhiêu lần… có khi điã chén bay nữa, nhưng tôi xin cho anh chị em một lời khuyên : đừng bao giờ kết thúc ngày sống mà không làm hòa với nhau. Và để làm điều đó thì chỉ cần một cử chỉ bé nhỏ, một cái vuốt ve…

Ba lời chìa khóa này của gia đình là những lời đơn sơ và có lẽ ban đầu chúng khiên cho chúng ta cười. Nhưng khi chúng ta quên chúng, thì không có gì để mà cười, có đúng thế không ? Có lẽ nên giáo dục của chúng ta bỏ bê chúng quá. Xin Chúa giúp chúng ta đặt để chúng trở lại vào đúng chỗ, trong con tim chúng ta, trong nhà chúng ta và trong cả cuộc sống chung xã hội nữa.

ĐTC dã chào các đoàn hành hương đến từ các nưóc Bắc Mỹ và Âu châu, cũng như các đoàn hành hương đến từ Đài Loan, Camerun, Mêhicô, Honduras, Argentina, Brasil. Ngài đặc biệt chào các thành viên Hội Tương trợ truyền giáo quốc tế Pháp hoạt động trong lãnh vực y tế và cổ võ truyên giáo trong các giáo phận và dòng tu.

Chào các đoàn hành hượng nói tiếng Bồ Đào Nha ĐTC nói  13 tháng 5 là lễ Đức Mẹ Fatima. Ngài xin tín hữu gia tăng các cử chỉ hằng ngày tôn sùng Mẹ và noi gương Mẹ và hãy tín thác cho Mẹ mọi sự để trở thành dụng cụ lòng thương xót và hiền dịu của Thiên Chúa đối với các thành phần khác trong gia đình cũng như bạn bè thân hữu. ĐTC mời đức ông người Bồ Đào Nha đọc một kinh Kính Mừng bằng tiếng Bồ kính Đức Mẹ.

Ngài cũng chào các trẻ em Ba Lan mới rước lễ lần đầu và chúc các em càng ngày càng yêu Chúa Giêsu hơn, tín thác nơi Chúa và sống thân tình với Chúa.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào các linh mục sinh viên trường Thánh Phaolô của Bộ Truyền giáo đã xong chương trình học và chuẩn bị về nước làm việc. Ngài khích lệ các vị đừng bao giờ đánh mất đi lòng hăng say truyền giáo.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC khuyên mọi người vun trồng lòng tôn sùng Mẹ Maria, siêng năng lần hạt mỗi ngày và cảm thấy Mẹ luôn gần gũi đặc biệt trong những lúc khó khăn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh ĐTC ban  cho mọi nguời.

 Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha khai mạc Đại Hội thứ 20 của Caritas quốc tế

Đức Thánh Cha khai mạc Đại Hội thứ 20 của Caritas quốc tế

VATICAN. Chiều ngày 12-5-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để khai mạc đại hội lần thứ 20 của tổ chức Caritas quốc tế.

 Đại hội này tiến hành cho đến chúa nhật 17-5 tới đây về chủ đề ”Một gia đình nhân loại duy nhất, chăm sóc thiên nhiên”, với sự tham dự của các đại biểu đến từ 164 tổ chức Caritas quốc gia trên thế giới. Ngoài ra có hơn 50 khách mời gồm các bạn trẻ, những người thiện nguyện, các cộng đoàn cơ bản và những người dấn thân chống nạn đói.

 Đây là lần đầu tiên thánh lễ khai mạc đại hội 4 năm một lần của Caritas được một vị Giáo Hoàng chủ sự. Đồng tế với ngài có 8 Hồng Y, 72 Giám Mục và 120 linh mục.

 Bài giảng của ĐTC

 Trong bài giảng, ĐTC đề cao ơn gọi của Caritas như một thực tại của Giáo Hội tại rất nhiều nơi trên thế giới và ngài nhận định rằng:

 ”Căn cội ơn gọi tất cả việc phục vụ của anh chị em hệ tại đón tiếp Thiên Chúa trong tinh thần đơn sơ và vâng phục, và đón tiếp tha nhân. Sự đón tiếp này được thể hiện trước tiên nơi chính anh chị em rồi anh chị em ra đi trên thế giới, phục vụ họ nhân danh Chúa Kitô, Đấng mà anh chị em đã gặp và gặp Ngài nơi mỗi người anh em, chị em, chính vì thế Caritas tránh trở thành một tổ chức nhân đạo mà thôi”.

 ĐTC nhấn mạnh rằng ”Ai sống sứ mạng của Caritas thì không phải chỉ là một nhân viên bác ái, nhưng là một chứng nhân của Chúa Kitô. Một người tìm kiếm Chúa Kitô và để cho mình được Chúa Kitô tìm kiến; một người yêu mến với tinh thần của Chúa Kitô, tinh thần nhưng không, tinh thần trao tặng. Tất cả những chiến lược và kế hoạch của chúng ta sẽ là trống rỗng nếu chúng ta không mang trong mình tình yêu ấy. Không phải tình yêu của chúng ta nhưng là tình yêu Chúa. Hoặc đúng hơn nữa, đó là tình yêu của chúng ta được tình yêu Chúa thanh tẩy và củng cố”.

 ĐTC nhắc đến đại chiến dịch cho Caritas phát động ”một gia đình nhân loại, lương thực cho tất cả mọi người”. Ngài nói: ”Bao nhiêu người ngày nay đang chờ đợi được ăn đầy đủ. Trái đất có đủ lương thực cho mọi người, nhưng dường như người ta thiếu ý chí chia sẻ với mọi người. Làm điều chúng ta có thể để mọi người được ăn, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở cho những người hùng mạnh của trái đất này rằng Thiên Chúa sẽ phán xét họ một ngày kia, và sẽ tỏ cho thấy họ có thực sự tìm cách cung cấp lương thực cho Ngài nơi mỗi người hay không (Xc Mt 25,35), họ có hoạt động để môi sinh không bị phá hủy nhưng có thể sản xuất lương thực hay không”.

 Sau cùng, ĐTC cũng nhắc đến bao nhiêu anh chị em tín hữu Kitô bị bạo lực tước đoạt lương thực cho thân thể cũng như cho linh hồn; họ bị trục xuất khỏi gia cư và nhà thờ của họ, những thánh đường ấy nhiều khi bị phá hủy. Tôi tái kêu gọi đừng quên những người ấy và những bất công không thể dung thứ được”.

 Chương trình họp

 Trong những ngày họp: các đại biểu sẽ bầu ban lãnh đạo mới cho nhiệm kỳ 4 năm tới đây, thiết lập các ưu tiên và hướng đi, tìm hiểu những vấn đề đặc biệt, chấp thuận ngân sách của Caritas quốc tế. Lần này các đại biểu sẽ quan tâm hơn đến sự chênh lệch ngày càng gia tăng và ảnh hưởng của những thay đổi khí hậu, một vấn đề cũng sẽ được ĐTC đề cập đến trong Thông điệp sắp công bố về môi sinh, và đây cũng là đề tài của hội nghị quan trọng của LHQ vào tháng 12 năm nay ở Paris.

 Trong đại hội lần thứ 19 hồi năm 2011, các thành viên Caritas phê chuẩn qui chế mới, để cho Tòa Thánh quyền giám sát nhiều hơn công việc của tổ chức quốc tế này, và ĐGH Biển Đức 16, khi tiếp kiến các tham dự viên lúc ấy đã nói về việc đảm bảo hoạt động nhân đạo và từ thiện của Caritas, và nội dung các văn kiện của tổ chức này, làm sao cho hoàn toàn phù hợp với Tòa Thánh và giáo huấn của Giáo Hội”. (SD 12-5-2015)

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha gặp gỡ 7 ngàn thiếu nhi xây dựng hòa bình

Đức Thánh Cha gặp gỡ 7 ngàn thiếu nhi xây dựng hòa bình

VATICAN. Trong cuộc gặp gỡ 7 ngàn thiếu nhi và thiếu niên Italia sáng ngày 11-5-2015, ĐTC nhắn nhủ các em kiên trì kiến tạo hòa bình chung quanh mình trong ý hướng góp phần xây dựng nền hòa bình trên thế giới.

Các em học sinh tham gia sáng kiến gọi là ”Công xưởng hòa bình” (Fabrica della pace), một dự án giáo dục do các giáo chức, gia đình, Bộ giáo dục và HĐGM Italia đề ra. Các em đã tụ tập tại Đại thính đường Phaolô 6 từ lúc qua 9 giờ để sinh hoạt, trong khi chờ đợi ĐTC đến vào lúc 12 giờ trưa.

Bài huấn dụ

Trong bài huấn dụ cho cuộc gặp gỡ, ĐTC ca ngợi sáng kiến ”Công xưởng hòa bình!” và gọi đây là một nơi sinh hoạt và làm việc tốt, nhắm kiến tạo một xã hội không còn bất công và bạo lực, trong đó mỗi trẻ em có thể được đón nhận và tăng trưởng trong tình yêu. Ngài nói: ”Những công xưởng hòa bình là điều rất cần thiết, vì đáng tiếc thay, những công xưởng chiến tranh không thiếu! Chiến tranh là kết quả của oán thù, ích kỷ, ước muốn ngày càng sở hữu nhiều hơn và lướt thắng người khác. Các con muốn chống lại chiến tranh bằng cách dấn thân phổ biến nền văn hóa qui tụ mọi người, nền văn hóa hòa giải và gặp gỡ”.

ĐTC phân tích thành ngữ ”công xưởng hòa bình”, từ “công xưởng” (fabrica) nói với chúng ta rằng hòa bình là một cái gì đó cần được kiến tạo, kiến tạo một cách khôn ngoan và kiên trì. Nhưng để xây dựng một thế giới hòa bình, thì cần phải bắt đầu từ ”thế giới của chúng ta” nghĩa là những môi trường chúng ta sinh sống thường nhật: gia đình, học đường, sân chơi, nơi tập thể thao, v.v. Điều quan trọng là làm việc chung với những người sống cạnh chúng ta: các bạn bè, các bạn học cùng trường, cha mẹ và các giáo chức..

ĐTC nhắc nhở các em rằng ”Mỗi hành động, mỗi cử chỉ của các con đối với tha nhân đều có thể kiến tạo hòa bình. Chẳng hạn nếu các con có điều gì cãi lộn với người khác thì hãy làm hòa ngay, hoặc hãy xin lỗi cha mẹ và cac bạn hữu, khi có điều gì xúc phạm đến họ. Người xây dựng hòa bình đích thực là người đi bước đầu đến với tha nhân. Cử chỉ này không phải là yếu đuối, nhưng là sức mạnh, là sức mạnh hòa bình”.

Một khẩu hiệu khác rất đẹp của Công xưởng hòa bình là công xưởng này không có biên giới: trong đó người ta thở hít bầu không khí hiếu khách và gặp gỡ không biên giới và không loại trừ.

ĐTC viết: ”Đứng trước những người đến từ các nước và chủng tộc khác, với những truyền thống và tôn giáo khác, thái độ của các con là tìm hiểu và đối thoại, để bao gồm mọi người, trong sự tôn trọng luật pháp quốc gia. Và các con đã hiểu rằng để kiến tạo một thế giới hòa bình, điều không thể thiếu được là quan tâm đến những nhu cầu của những người nghèo khổ nhất, bị bỏ rơi nhất, cả những người xa xăm. Cha nghĩ đến bao nhiêu các bạn đồng lứa tuổi với các con đã bị trục xuất khỏi gia cư, đất nước của họ và một số người đã bị giết chỉ vì họ cầm trên tay cuốn Kinh Thánh! Công việc của công xưởng các con là thực sự trở thành một công trình tình thương. Yêu mến tha nhân, nhất là những người bị thiệt thòi, có nghĩa là làm chứng rằng mỗi người là một hồng ân của thiên Chúa”.

Sau cùng, ĐTC không quên nhắn nhủ các em hãy cầu nguyện cho hòa bình và hòa bình trước tiên là một hồng ân của Thiên Chúa.

Trả lời các câu hỏi

Ngoài bài huấn dụ trên đây, ĐTC còn ứng khẩu trả lời nhiều câu hỏi do các em nêu lên.

Một em bé tàn tật ngồi trên xe lăn nói với ngài là tháng 9 tới đây sẽ được đi hành hương Lộ Đức nhờ sự giúp đỡ của tổ chức Unitalsi, em hỏi ngài tại sao các trẻ em phải chịu đau khổ; một thiếu niên hỏi thay cho bạn em đang bị giam trong nhà tù thiếu niên Casal del Marmo và hỏi ngài nhà tù thiếu niên có phải là giải pháp không, v.v.

ĐTC nói rằng ngài không có câu trả lời cho vấn nạn tại sao các trẻ em phải chịu đau khổ, nhưng phải có một câu trả lời, đó là xã hội phải làm tất cả những gì có thể để săn sóc, chữa trị và giúp các em phục hồi, hội nhập vào đời sống xã hội.

ĐTC cho biết ngài không thích từ ”tàn tật, khuyết tật” disabile. Không phải vậy một trẻ em disabile là một trẻ em có một khả năng (abilità) khác, chứ không phải em không có khả năng. Tất cả chúng ta đeều có khả năng làm một cái gì đó.

Một em bé gái có thân phụ đang bị tù và thiếu niên có bạn đang bị giam trong nhà tù thiếu niên, ĐTC cam kết rằng Thiên Chúa tha thứ tất cả, chỉ ”chúng ta là không biết tha thứ”. Ngài cũng lấy làm tiếc vì ngày nay dễ làm đầy nhà tù hơn là giúp người lầm lạc trong cuộc đời tiếp tục tiến bước; nhiều khi người ta kết án tù chung thân cho một tội nhân, điều này kễ hơn là giúp họ trỗi dậy và tái hội nhập vào xã hội bằng giáo dục, tình thương và sự gần gũi. ”Giải pháp nhà tù là điều dễ dàng nhất để quên lãng những người đang chịu đau khổ!”

Một em bé đơn sơ hỏi ĐTC: tôn giáo có thể giúp ích gì cho chúng ta trong cuộc sống?

Ngài đáp: ”tôn giáo giúp chúng ta vì làm cho chúng ta tiến bước trong sự hiện diện của Chúa; tôn giáo giúp chúng ta vì cho chúng ta các giới răn, các mối phúc thật, nhất là giúp chúng ta yêu mến tha nhân – tất cả các tôn giáo, vì tất cả có một giới răn chung như thế. Và giới răn yêu tha nhân giúp tất cả chúng ta xây dựng hòa bình, tiến bước trong hòa bình”. (SD 11-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Togo

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Togo

VATICAN. ĐTC khuyến khích các GM Togo nâng đỡ gia đình trước những cuộc tấn công ý thức hệ qua các phương tiện truyền thông.

Trong bài huấn dụ trao cho 9 GM nước Togo tại buổi tiếp kiến sáng hôm 11-5-2015, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, ĐTC viết:

”Tôi khuyến khích anh em kiên trì trong những nỗ lực nâng đỡ các gia đình giữa những khó khăn của họ, nhất là qua việc giáo dục và các hoạt động xã hội, và chuẩn bị các cặp nam nữ tiến tới những quyết tâm dấn thân của hôn nhân Kitô giáo, những dấn thân này có nhiều đòi hỏi nhưng cũng tuyệt vời. Togo cũng không tránh được những tấn công ý thức hệ và qua các phương tiện truyền thông, ngày nay đang lan tràn, chúng đề nghĩ những kiểu mẫu sống chung và gia đình không thể dung hợp với đức tin Kitô. Tôi biết anh em đã tỏ ra cảnh giác trong vấn đề này, cũng như những cố gắng của anh em, nhất về qua các phương tiện truyền thông”.

ĐTC khích lệ các GM Togo luôn gần gũi các linh mục của mình, khơi dậy nơi linh mục đoàn một tinh thần gia đình, giúp kiến tạo tình liên đới và huynh đệ linh mục, phục vụ sứ mạng chung.” Ngài cũng nhắc nhở các linh mục tương lai ”ăn rễ sâu trong các giá trị Tin Mừng để củng cố sự dấn thân của họ, trong sự trung thành và gắn bó với Chúa Kitô” (Afr. munus, 121). Điều này sẽ giúp họ sau đó chiến đấu chống lại tham vọng, thái độ tìm công danh sự nghiệp, nạn ghen tương, tinh thần thế tục, sự cám dỗ của tiền bạc và những của cải trần thế này, trong sự độc thân chân thành và được sống trong vui tươi. Tôi khuyên nhủ anh em đặc biệt quan tâm tháp tùng các linh mục trẻ về phương diện tu đức và mục vụ, lắng nghe những gì họ sống”.

Togo chỉ rộng gần 57 ngàn cây số vuông với dân số hơn 7 triệu 200 ngàn người, trong đó có 1 triệu 600 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 7 giáo phận, họp thành một giáo tỉnh thủ đô Lomé. (SD 11-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha viếng thăm Ecuador, Bolivia và Paraguay

Đức Thánh Cha viếng thăm Ecuador, Bolivia và Paraguay

VATICAN. Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố chương trình chi tiết chuyến viếng thăm mục vụ của ĐTC tại 3 nước Ecuador, Bolivia và Paraguay từ ngày 5 đến 13-7 năm nay.

ĐTC sẽ rời Roma lúc 9 giờ sáng chúa nhật 5-7 để bay tới Quito, thủ đô Ecuador lúc 3 giờ chiều.

– Ngày hôm sau, thứ hai 6-7, ngài sẽ rời thủ đô để bay tới thành phố Guayaquil để cử hành thánh lễ lúc 11.15 tại quảng trường trước Đền Thánh Lòng Chúa Thương Xót.

Sau thánh lễ ngài sẽ dùng bữa lúc 2 giờ chiều với cộng đoàn dòng Tên và đoàn tùy tùng, trước khi đáp máy bay lúc 5 giờ 10 phút chiều để trở về thủ đô Quito khoảng 6 giờ chiều, rồi đến viếng thăm Tổng thống Ecuador tại dinh Carondelet. Sau đó ngài đến viếng nhà thờ chính tòa Quito.

– Thứ ba, 7-7, lúc 9 giờ sáng, ĐTC sẽ gặp gỡ các GM Ecuador tại Trung tâm hội nghị ở ”Công viên 200 năm”, rồi cử hành thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi tại Công viên này.

Ban chiều vào lúc 4 giờ rưỡi, ngài sẽ gặp gỡ giới học đường và đại học tại Đại học Công Giáo Ecuador. Tiếp đến lúc 6 giờ, ĐTC sẽ gặp xã hội dân sự ở nhà thờ thánh Phanxicô trước viếng thăm thăm thánh đường của dòng Tên.

– Thứ tư, 8-7, lúc 9 giờ rưỡi sáng, ĐTC sẽ viếng thăm Nhà Dưỡng Lão của các nữ tu thừa sai bác ái, rồi gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và chủng sinh lúc 10 giờ rưỡi tại Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc ”El Quinche”.

Lúc 12 giờ trưa, ngài sẽ đáp máy bay sang La Paz, thủ đô Bolivia. Đến nơi vào 4 giờ rưỡi chiều, ngài sẽ đến thăm Tổng thống tại tòa nhà chính phủ lúc 6 giờ chiều, rồi gặp gỡ chính quyền dân sự lúc 7 giờ tại Nhà thờ chính tòa thủ đô.

Sau đó, lúc 8 giờ tối, ngài lại đáp máy bay để tới thành phố Santa Cruz de la Sierra cách đó 1 giờ 15 phút bay.

– Thứ năm, 9-7, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ lúc 10 giờ tại Quảng trường Cháu Kitô Cứu Thế. Ban chiều ngài sẽ gặp gỡ các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh vào lúc 4 giờ tại Trường Don Bosco. Sau đó vào lúc 5 giờ rưỡi, ngài sẽ tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế kỳ 2 của Các Phong trào bình dân tại trung tâm triển lãm Expo Feria.

– Thứ sáu 10-7, 9 giờ rưỡi, ĐTC sẽ viếng thăm trung tâm Phục Hồi Santa Cruz – Palmasola, rồi gặp các GM Bolivia lúc 11 giờ tại nhà thờ giáo xứ La Santa Cruz, trước khi ra phi trường đáp máy bay sang Paraguay là chặng cuối cùng trong cuộc viếng thăm dài 1 tuần lễ tại Mỹ châu la tinh.

Ngài sẽ đến thủ đô Asunción lúc 3 giờ chiều. Sau nghi thức tiếp đón ĐTC sẽ đến thăm Tổng thống tại dinh Lopez, rồi gặp gỡ chính quyền dân sự cùng với ngoại giao đoàn tại khuôn viên dinh Tổng thống.

– Thứ bẩy, 11-7, lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC sẽ viếng thăm Tổng bệnh viện nhi đồng “Ninos de Acosta Nu”, rồi cử hành thánh lễ lúc 10 giờ rưỡi tại quảng trường trước Trung Tâm Thánh Mẫu Caacupé.

Ban chiều cùng ngày vào lúc 4 giờ rưỡi, ĐTC sẽ gặp đại diện xã hội dân sự tại Sân thể thao León Condou của trường San Jose.

Lúc 6 giờ 15 chiều, ngài sẽ cử hành kinh chiều chung với các GM, LM, Phó tế, tu sĩ nam nữ và các phong trào Công Giáo tại Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Mông Triệu.

– Chúa nhật 12-7, lúc 8 giờ 15 phút sáng, ĐTC sẽ viếng thăm dân chúng tại khu vực Banado Norte, rồi cử hành thánh lễ lúc 10 giờ tại cánh đồng Nu Guazú.

Lúc 1 giờ trưa, ĐTC sẽ gặp gỡ các GM Paraguay tại Trung tâm Văn hóa của Tòa Sứ Thần Tòa Thánh rồi dùng bữa với các vị.

Sau cùng, lúc 5 giờ chiều, ngài gặp gỡ giới trẻ dọc theo bờ sông Costanera, trước khi đáp máy bay lúc 7 giờ chiều để bay về Roma, dự kiến sẽ đến phi trường Ciampino lúc gần 2 giờ chiều ngày thứ hai, 13-7. (SD 8-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu dẫn chúng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu là con đường dẫn chứng ta tới với tha nhân

Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường theo Ngài, con đường của tình yêu, khiến cho chúng ta ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân và có các cử chỉ bé nhỏ, yêu thương, cụ thể, gần gũi với người già, trẻ em, người bệnh, ngưòi cô đơn, gặp khó khăn, người thất nghiệp, di cư, tỵ nạn…

Kính thưa quý vị thính giả ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hanh hương trong buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật hôm qua.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: Tin Mừng hôm nay, Phúc Âm thánh Gioan chương 15, đưa chúng ta trở lại Nhà Tiệc Ly, nơi chúng ta nghe giới răn mới của Chúa Giêsu. Ngài nói: “Đây là điều răn mới của Thầy: đó là các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con” (c. 12). Và khi nghĩ tới hiến tế thập giá rất gần kề, Ngài nói thêm: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người  đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con làm những điều Thầy truyền dậy” (cc. 13-14). ĐTC giải thích điều răn yêu thương của Chúa Giêsu như sau:

 Các lời này, được nói lên trong Bữa Tiệc Ly, tóm tắt toàn sứ điệp của Chúa Giêsu; còn hơn thế nữa, chúng tóm gọn tất cả những gì mà Ngài đã làm: Ngài đã trao ban mạng sống mình cho các bạn hữu. Các người bạn đã không hiểu Ngài, và trong lúc định đoạt nhất đã bỏ rơi, phản bội và khước từ Ngài. Điều này nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu yêu thương chúng ta như thế đó!

Trong cách thức này Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường theo Ngài, con đường của tình yêu. Giới răn của Ngài không là một điều luật đơn thuần, luôn như cái gì trừu tượng, hay ở ngoài cuộc sống chúng ta. Điều răn của Chúa Kitô mới mẻ, bởi vì Ngài là người đầu tiên đã thực hiện nó, đã trao ban thịt xác cho nó, và như thế luật yêu thương được viết một lần cho luôn mãi trong trái tim con người. (x. Gr 31,33). Nó được viết làm sao? Nó được viết với lửa của Thánh Thần. Và với cùng Thần Khí mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, chúng ta cũng có thể bước đi trên con đường ấy!

Nó là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Như vậy, Lời này của Chúa mời gọi chúng ta yêu thương nhau, cả khi chúng ta không luôn luôn hiểu nhau, không luôn luôn đồng ý với nhau… nhưng chính nơi đó mà người ta trông thấy tình yêu kitô. Một tình yêu được biểu lộ ra, cả khi có các khác biệt ý kiến hay tính tình, nhưng tìh yêu lớn hơn các khác biệt! Đó là tình yêu mà Chúa Giêsu đã dậy chúng ta. Nó là một tình yêu mới mẻ, bởi vì đã được Chúa Giêsu và Thần Khí của Ngài canh tân. Nó là một tình yêu được cứu rỗi, được giải thoát khỏi ích kỷ. Một tình yêu trao ban cho con tim chúng ta niềm vui, như chính Chúa Giêsu nói: “Thầy đã nói vơi các con những điều này để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con tràn đầy”.

Chính tình yêu này của Chúa Kitô, mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta, thực hiện các điều lạ lùng mỗi ngày trong Giáo Hội. Có biết bao nhiêu cử chỉ lớn nhỏ tuân theo giới răn của Chúa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” (X. Ga 15,12). Các cử chỉ bé nhỏ, các cử chỉ của mỗi ngày, các cử chỉ của sự gần gũi một người già, một em bé, một người bệnh, một người cô đơn và trong khó khăn, không nhà, không công ăn việc làm, di cư, tỵ nạn… Nhờ sức mạnh  Lời này của Chúa Kitô mỗi người trong chúng ta đều có thể gẩn gữi người anh chị em mà chúng ta gặp gỡ. Các cử chỉ của sự gần gũi, cận kề. Nơi các cử chỉ đó biều lộ tình yêu mà Chúa Kitô đã dậy chúng ta.

Xin Mẹ Rất Thánh giúp chúng ta trong điều này, để trong cuộc sống mỗi ngày của từng người trong chúng ta tình yêu Thiên  Chúa và tình yêu tha nhân luôn luôn hiệp nhất.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kiinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng ĐTC đã chào các gia đình, các nhóm giáo xứ, hội đoàn và các khách hành hương đến từ Italia và nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các đoàn hành hương đến từ Madrid, Portorico và Croazia. Ngài cũng chào các bạn trẻ thuộc nhiều giáo phận Italia, cách riêng giới trẻ giáo phận Orvieto-Todi do ĐC Tuzia hướng dẫn. Ngài khích lệ họ hãy là các kitô hữu can đảm và là các chứng nhân hy vọng.

ĐTC cũng chào Hiệp hội bảo vệ rừng Ialia tổ chức lễ toàn quốc các vùng thiên nhiên được bảo vệ để giúp dân chúng tái khám phá ra vẻ đẹp của thụ tạo; các tham dự viên đại hội do Hội Đồng Giám Mục Italia tổ chức nhằm yểm trợ một học đường có phẩm chất và rộng mở cho các gia đình; phái đoàn phụ nữ hiệp hội “Komen Italia” chống ung thư vú, và tất cả những người tham dự sáng kiến tuần hành cho sự sống tại Roma: ĐTC nói thật là quan trọng cùng nhau cộng tác để bênh vực và thăng tiến sự sống. Và khi nói tới sự sống hôm nay và tại biết bao nhiêu nước trên thế giới người ta cử hành lễ hiền mẫu. Chúng ta hãy nhớ tới tất cả các bà mẹ với lòng biết ơn và yêu mến. Bây giờ tôi xin hướng tới các bà mẹ hiện diện tại quảng trường này. Có các bà mẹ không vậy? Có không? Có các bà mẹ không? Chúng ta hãy tặng các bà một tràng pháo tay, các bà mẹ tại quảng trường… Và tràng pháo tay này ôm tất cả các bà mẹ vào lòng, tất cả các hiền mẫu yêu dấu của chúng ta, các bà mẹ còn sống với chúng ta một cách thể lý cũng như các bà mẹ sống với chúng ta trong tinh thần. Xin Chúa chúc lành cho tất cả các hiền mẫu, và xin Đức Mẹ được tôn kính trong tháng 5 này gìn giữ các bà mẹ. Xin Chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt lành, hơi nóng một chút, và xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.     

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục nước Mozambique

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục nước Mozambique

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9-5-2015, dành cho 16 GM nước Mozambique, ĐTC khích lệ các vị tăng cường mục vụ tại những miền ”ngoại ô” của giáo phận và của cuộc sống con người.

Trong bài huấn dụ trao cho các vị, ĐTC viết ”Anh em thân mến trong hàng GM, Anh em hãy đi vào lòng cộng đoàn tín hữu của anh em, cả trong những khu ngoại ô của giáo phận thuộc quyền và trong mọi ”cảnh vực bên lề” của cuộc sống, nơi có nhiều đau khổ, cô đơn và lầm than của con người. GM nào sống giữa đoàn chiên của mình, thì có đôi tai rộng mở để lắng nghe ”những gì Chúa Thánh Linh nói với các Giáo Hội” (Kh 2,7) và tiếng nói của đoàn chiên, kể cả việc lắng nghe qua các cơ quan của giáo phận có nhiệm vụ cố vấn cho anh em, như hội đồng LM, Hội đồng mục vụ và Hội đồng kinh tế. Không thể tưởng tượng được một GM giáo phận mà không có các tổ chức giáo phận như thế.”

ĐTC cũng mời gọi các GM Mozambique đầu tư nhiều hơn vào việc giáo dục giới trẻ. Ngài khẳng định rằng: ”Những căng thẳng và xung đột đã làm hư hỏng các tế bào xã hội, gia đình bị tan vỡ và nhất là tương lai của hàng ngàn người trẻ bị thiệt hại. Cách hữu hiệu nhất để chống lại não trạng kiêu căng và sự bất bình đẳng, cũng như những chia rẽ xã hội, là đầu tư vào lãnh vực huấn luyện, dạy cho giới trẻ cách suy tư trong tinh thàn cảnh giá, phê bình, và cống hiến cho họ một hành trình trưởng thành trong các giá trị' (E.G, 64)

Nước Mozambique rộng gần 800 ngàn cây số vuông với gần 24 triệu 400 ngàn dân cư, đa số còn theo các đạo cổ truyền và có 27.6% tức là gần 6 triệu 750 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 12 giáo phận (SD 9-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha đề cao giá trị của các ngành thể thao

Đức Thánh Cha đề cao giá trị của các ngành thể thao

VATICAN. ĐTC đề cao giá trị của mọi ngành thể thao và kêu gọi đừng quên chiều kích tinh thần và tôn giáo trong lãnh vực này.

Ngài trình bày lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến hôm 7-5-2015 dành cho 7 ngàn thành viên các hội thể thao miền Lazio ở Italia nhân dịp kỷ niệm 115 năm thành lập Hội này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi thành quả của Hội thể thao Lazio kể từ khi được thành lập đến nay và ngài cũng nhận xét rằng tại Italia và cũng như tại Argentina, khi nói đến thể thao, người ta có nguy cơ chỉ nói về bóng đá, mà lơ là đối với các bộ môn thể thao khác. Thật ra, mỗi ngành thể thao đều có giá trị riêng, không những về phương diện thể lý hoặc xã hội, nhưng cả về phương diện luân lý nữa, vi nó mang lại cho con người, đặc biệt là các thiếu niên và người trẻ, những cơ hội để tăng trưởng trong sự quân bình, tự chủ, hy sinh và lương thiện đối với tha nhân.

ĐTC nói thêm rằng ”Kinh Thánh dạy chúng ta: con người là một toàn thể, tinh thần và thân xác. Vì thế tôi khuyến khích các bạn, khi sinh hoạt thể thao, luôn vun trồng chiều kích tôn giáo và tinh thần. Nhiều khi có những người trẻ phải bỏ lễ, bỏ giờ giáo lý vì tập luyện thể thao. Đó không phải là một dấu hiệu tốt, vì nó đánh mất nấc thang các giá trị. Cũng vậy không thể vì thể thao mà lơ là việc học hành, tình bạn, phục vụ người nghèo”. (SD 7-5-2015)

Tiếp kiến 7 ngàn thành viên Liên hiệp quần vợt (tennis) Italia

Mặt khác, sáng 8-5-2015, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn thành viên Liên hiệp quần vợt Italia. Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 cũng có nhiều trẻ em tham gia sinh hoạt vui chơi và vận động do Liên hiệp này tổ chức.

Trong huấn dụ tại buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao thể thao như một con đường giáo dục và nói:

”Có 3 con đường, 3 cột trụ cơ bản đối với các trẻ em, thiếu niên và người trẻ, đó là: giáo dục – học đường và gia đình -, thể thao và lao động. Khi có đủ 3 cột trụ ấy, thì có những điều kiện để phát triển một cuộc sống sung mãn và chân chính, tránh được những nghiện ngập làm cho cuộc sống bị nhiễm độc và hư hỏng.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Giáo Hội chú ý đến thể thao vì Giáo Hội quan tâm đến con người, toàn diện con người, và nhìn nhận hoạt động thể thao có ảnh hưởng tới việc huấn luyện con người, các quan hệ và đời sống tâm linh của con người. Là những thể tháo gia, anh chị em có một sứ mạng phải chu toàn: anh chị em có thể là những gương mẫu đối với những người ngưỡng mộ anh chị em”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ngành quần vợt là một bộ môn thể thao rất tranh đua, nhưng ”sức ép muốn đạt được những kết quả quan trọng không bao giờ được thúc đẩy anh chị em đi những con đường tắt, như xảy ra trong những trường hợp dùng những thuốc kích thích bất hợp pháp. Thật là xấu xa và vô ích chiến thắng mà người ta đạt được bằng cách coi rẻ luật lệ và đánh lừa người khác”.

Sau cùng, ĐTC khuyến khích các cầu thủ quần vợt không những tranh đua trong thể thao, nhưng còn tranh đua cả trong cuộc sống, trong sự tìm kiếm điều chân, thiện, mỹ, không sợ hãi, nhưng can đảm và hăng say” (SD 8-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

HÃY YÊU THƯƠNG NHAU

Các bài đọc phụng vụ hôm nay hướng về chủ đề: “Hãy yêu thương nhau”. Thánh Phêrô nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức và thực hành yêu thương. Cornêliô rất kính sợ Thiên Chúa và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn tới (Cv 10,4) và được Thánh Thần ngự đến, sau đó Phêrô đã làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô (Cv 10, 44.48). Trong bài đọc hai, Thánh Gioan mời gọi: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-9). Bài Tin Mừng tiếp nối Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về dụ ngôn cây nho và cành. Nhựa sống luân chuyển nuôi dưỡng cây nho và cành sinh ra hoa trái. Tình yêu từ cội nguồn Thiên Chúa chính là nguồn sống phong phú nuôi dưỡng và làm phát triển người tín hữu. Có ở lại trong tình yêu của Chúa mới sinh hoa kết trái : “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Huyền thoại tình yêu “Họa mi và bông hồng đỏ” kể rằng.

Một sớm mùa hè, con họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ :”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi“. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Hoạ mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.

– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?

– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình

– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Hoạ mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò. (Wiliam Oscar Wilde).

Họa mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.

Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.

Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.

Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh : như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.

Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x.Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).

Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?

Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.

“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.

Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Người. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…

Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người ! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, cũng như cành nho chỉ sống nhờ kết hợp với cây nho chúng ta được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp : có chứ.

Người thanh niên hỏi : Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi: Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Anh em hãy yêu thương nhau”, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất, thiết thực nhất để nhận ra ai là người thuộc về Chúa: ”Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Yêu như Chúa yêu

Yêu như Chúa yêu

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”

Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.

Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.

Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.

Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.

Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.

Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.

Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…

Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.

Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.

Ở lại trong tình thương

Ở lại trong tình thương

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con". Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.

Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.

Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.

Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.

Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.

Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.

Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.

Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.

Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.

Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.

Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.

Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.

Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.

Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.

Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.

Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.

Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.

Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.

Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc… của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?

Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó không? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta."

Chỉ là một nhịp đập của tim

Chỉ là một nhịp đập của tim

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:

1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.

Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.

2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.

Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.

Yêu

Yêu

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.

Vị tu sĩ đáp “có chứ”.

Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.

Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.

Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.

Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.

Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).

Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.

Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.

Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải là chứng tỏ hoặc giải nghĩa.

Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thành một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).

Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để có khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.

Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.

Sưu tầm

Đức Thánh Cha chống luật Âu Châu hạn chế tự do tôn giáo

Đức Thánh Cha chống luật Âu Châu hạn chế tự do tôn giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội Kitô tại Âu Châu nói một tiếng nói duy nhất trước những thách đố ngày nay, đặc biệt chống các luật hạn chế tự do tôn giáo.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7-5-2015, dành cho Ủy ban Liên HĐGM Âu Châu và Hội đồng các Giáo Hội Kitô Âu Châu, đang nhóm khóa họp thường niên tại Roma từ ngày 6 đến 8-5-2015 này về đề tài ”Tự do và các quyền tự do”.

Ủy ban gồm 7 thành viên đại diện của 34 HĐGM Công Giáo ở Âu Châu (CCEE) và 7 thành viên khác đại diện cho 125 Giáo Hội Kitô không Công Giáo thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Âu Châu (CEC).

Liên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận có tiến bộ trong tiến trình đại kết Kitô nhưng vẫn còn có nhiều chia rẽ, gây gương mù và cản trở chính nghĩa loan báo Tin Mừng. Ngài khuyến khích các nỗ lực và hoạt động chung và nói rằng:

”Ngày nay các Giáo Hội và các Cộng đồng Giáo Hội ở Âu Châu đang phải đương đầu với những thách đố mới mẻ và quan trọng, và chỉ có những câu trả lời hữu hiệu nếu chúng ta nói cùng một tiếng nói. Ví dụ tôi nghĩ đến thách đố được đề ra do những đạo luật nhân dành nguyên tắc bao dung được giải thích sai trái, rốt cuộc những luật lệ ấy cấm cản các công dân không được tự do biểu lộ và thực hành một cách ôn hòa và hợp pháp các xác tín tôn giáo của họ.

”Ngoài ra, đứng trước thái độ của Âu Châu trong việc đương cầu với cuộc di cư nhiều khi bi thảm của hàng ngàn người trốn chạy chiến tranh, bách hại và lầm than, các Giáo Hội và cộng đồng Giáo Hội ở Âu Châu có nghĩa vụ cộng tác với nhau để thăng tiến tìn liên đới và sự đón tiếp. Các tín hữu Kitô tại Âu Châu được kêu gọi cầu nguyện và hoạt động tích cực để mang lại đối thoại và an bình trong các cuộc xung đột hiện nay” (SD 7-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

ĐTC kêu gọi các Giám Mục Mali thăng tiến gia đình và phụ nữ

ĐTC kêu gọi các Giám Mục Mali thăng tiến gia đình và phụ nữ

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến HĐGM nước Mali sáng 7-5-2015, ĐTC khích lệ Giáo Hội tại nước này tăng cường mục vụ gia đình và thăng tiến phụ nữ.

Trong bài huấn dụ trao cho 5 GM nước Mali ở miền Tây Phi châu về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm TT, ĐTC ca ngợi các GM nước này bảo tồn tinh thần đối thoại liên tôn, cổ võ sự dấn thân chung giữa Kitô và Hồi giáo để cứu vãn kho tàng văn hóa của Mali, và tiếp tục đẩy mạnh việc loan báo Tin Mừng dù Mali đang gặp những khó khăn trâm trọng. Ngài cũng nhấn mạnh rằng:

”Chứng tá của các tín hữu Kitô trên bình diện gia đình còn cần phải có sự phù hợp hơn nữa giữa niềm tin và đời sống thực hành: trong bối cảnh văn hóa xã hội của Mali, với nạn ly dị và đa thê, các tín hữu Công Giáo được kêu gọi loan báo bằng chứng tá cụ thể Tin Mừng về sự sống và gia đình. Tôi cũng đặc biệt khuyến khích anh em theo đuổi việc mục vụ, đồng thời đặc biệt quan tâm đến thân phận của phụ nữ: thăng tiến chỗ đứng của phụ nữ trong xã hội và bài trừ mọi lạm dụng cũng như mọi thứ bạo hành chống phụ nữ. Đó cũng là một hình thức loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã muốn sinh ra từ một phụ nữ là Đức Mẹ Maria”.

Sau cùng, ĐTC cổ võ Giáo Hội Công Giáo tại Mali nêu gương cho những người khác về đức bác ái và hiệp nhất yêu thương nhau. Đó là một bảo chứng quí giá để đối thoại hữu hiệu với các tôn giáo khác.

 Mali rộng gấp 4 lần Việt Nam với diện tích gần 1 triệu 250 ngàn cây số vuông, phần lớn là sa mạc và dân số chỉ có 17 triệu người thuộc nhiều bộ tộc, trong đó 85% theo Hồi giáo và chỉ có 2,5% là tín hữu Kitô, trong số này có 262 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 6 giáo phận. (SD 7-5-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio