Đức Thánh Cha tiếp kiến các Vệ Binh Thụy Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Vệ Binh Thụy Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến các Vệ Binh Thụy Sĩ

VATICAN. Sáng 7-5-2016, ĐTC đã tiếp kiến và cám ơn các vệ binh Thụy Sĩ, đặc biệt là 23 tân vệ binh vừa làm lễ tuyên thệ chiều ngày 6-5 trước đó. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có đại diện chính quyền Thụy Sĩ và thân nhân của các tân vệ binh.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắn nh các vệ binh hãy tăng trưởng trong đức tin, coi công việc của mình như một sứ mạng được Chúa ủy thác, tận dụng thời gian ở Roma như một cơ hội để đào sâu bình bạn với Chúa Giêsu, vì thế cần nuôi dưỡng tinh thần của mình bằng kinh nguyện, lắng nghe Lời Chúa, sốt sắng tham dự thánh lễ và vun trồng tình con thảo đối với Mẹ Maria.

ĐTC cũng nhắc đến cơ hội của các vệ binh Thụy sĩ được cảm nghiệm đặc tính hoàn vũ của Giáo Hội, qua sự hiện diện của các tín hữu từ các nơi về Roma hành hương. Sau cùng ngài đặc biệt nhắn nhủ các vệ binh hãy cảm nghiệm đời sống huynh đệ, quan tâm và nâng đỡ nhau trong công việc thường nhật, biết đề cao đời sống chung, chia sẻ những lui vui mừng và những khó khăn, để ý đến những người lân cận, nhiều khi chỉ cần một cử chỉ khích lệ, một nụ cười và tình thân hữu. Ngài nói: ”Khi có những thái đọ như thế, anh em sẽ được nâng đỡ để chuyên cần và kiên trì chu toàn những công tác lớn nhỏ trong việc phục vụ hằng ngày, chứng tỏ lòng tử tế và tinh thần hiếu khách, vị tha và nhân bản đối với tất cả mọi người”.

23 tân vệ binh Thụy Sĩ đã tuyên thệ sẵn sàng bảo vệ ĐTC, dù có phải hy sinh tính mạng, trong buổi lễ do Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá quốc vụ khanh Tòa Thánh chủ tọa tại sân Damaso trong nội thành Vatican, và trong số các quan khách hiện diện cũng có tổng thống Liên bang Thụy Sĩ.

Trước đó, vào ban sáng cùng ngày 6-5-2016, các vệ binh Thụy Sĩ đã tham dự thánh lễ do ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, chủ sự tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Trong bài giảng, ĐHY nhắc nhở các vệ binh rằng ”Ơn gọi của mỗi tín hữu được chịu phép rửa là sống như chứng nhân của Chúa Kitô mỗi ngày, trong cuộc sống cụ thể.. Các bạn là những chứng nhân của Chúa Kitô tại Roma này, cũng như tại quê hương Thụy Sĩ và tại bất kỳ nơi nào các bạn đi tới, và trong một thế giới mong ước ánh sáng và sự sống, nhưng nhiều khi người ta không có can đảm đón nhận. Các bạn hãy làm chứng nhân cho Chúa giữa những người đồng lứa tuổi, họ khao khát ý nghĩa và sự sung mãn. Các bạn hãy nói với họ rằng thật là bõ công khi theo đuổi những điều cao cả và tươi đẹp, dù có phải dấn thân vất vả”.

ĐHY Quốc vụ khanh cũng nhắc đến biến cố ngày 6-5 năm 1527, trong vụ Roma bị cướp phá, 147 vệ binh Thụy Sĩ đã hy sinh tính bảng để bảo vệ Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. ”Họ thực là những anh hùng cần noi theo không chút do dự”.

Và ĐHY Parolin kết luận rằng: ”Các vệ binh thân mến, các bạn đừng chờ đợi, hãy bắt đầu ngay từ hôm nay, làm chứng tá, qua sự trung thành phục vụ ĐTC, với tình huynh đệ và quan hệ tốt đẹp giữa các bạn với nhau, và với gương sống đức tín của các bạn, trong niềm xác tín Chúa hằng sống và cảm thương, Chúa gần gủi con người và muốn ban cho họ an bình, vui tươi và sự sung mãn đích thực để chữa lành mọi vết thương”.

Đoàn vệ binh Thụy Sĩ ở Vatican có 110 người, các vệ binh thường đăng ký phục vụ 2 năm. (RG 6,7-5-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Trao tặng giải thưởng Carlo Magno cho Đức Thánh Cha

Trao tặng giải thưởng Carlo Magno cho Đức Thánh Cha

Trao tặng giải thưởng Carlo Magno cho Đức Thánh Cha

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi Âu Châu nhớ lại dự phóng của các tiền nhân và kiến tạo một Âu Châu hiệp nhất, vượt lên trên những cám dỗ xây dựng những bức tường chia cách, thay vì bắc những nhịp cầu liên đới.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây sáng hôm qua, 6-5, nhân dịp nhận giải thưởng Carlo Magno (Charlemagne) trong một buổi lễ tại Vatican trước sự hiện diện của hàng trăm vị lãnh đạo chính trị và đại biểu nghị viện Âu Châu.

Giải thưởng này chỉ trị giá 5 ngàn Euro và kèm theo một mề đai, một mặt có hình Carlo Magno, hoàng đế của người Franc hồi thế kỷ thứ 8 và được coi là ”người cha của Âu Châu”. Tuy nhiên, giải này được coi là rất quan trọng về mặt ảnh hưởng và uy tín. Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết thông thường ĐTC từ chối không nhận các giải thưởng, nhưng ngài nhận giải này để khích lệ vai trò của Âu Châu đối với nền hòa bình trên thế giới.

Trong diễn văn nhân dịp này, ĐTC nhắc đến những dự phóng của những người thành lập Âu Châu trong thế kỷ 20 sau những biến cố đụng độ đau thương qua các cuộc thế chiến. Nhưng ngày nay, ước muốn xây dựng Âu Châu dường như đang tắt lịm, và chúng ta, những người con của giấc mơ hiệp nhất ấy đang bị cám dỗ chiều theo những ích kỷ của mình, nhìn tư lợi và nghĩ đến việc xây dựng những tường thành riêng. Nhưng tôi xác tín rằng thái độ cam chịu và mệt mỏi ấy không phải là điều thuộc về tâm hồn Âu Châu và đàng khác những khó khăn có thể trở thành những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hiệp nhất”.

ĐTC cũng cổ võ công trình tiếp tục xây dựng Âu Châu, một công trình dài hạn, qua những thực hiện cụ thể, kiến tạo tình liên đới thực tiễn và cụ thể. Ngài nói: ”Chính lúc này, trong thế giới chúng ta đang bị xâu xé và thương tổn, cần trở lại với tình liên đới thực tiễn, lòng quảng đại cụ thể tiếp theo sau thế chiến thứ hai, vì hòa bình thế giới không thể cứu vẫn nếu không có những nỗ lực trong tinh thần sáng tạo, tương ứng với những nguy hiểm đang đe dọa hòa bình. Những dự phóng của các vị sáng lập Âu Châu, là những sứ giả hòa bình và tiên báo tương lai, vẫn không bị lỗi thời: ngày nay hơn bao giờ hết, những dự phóng ấy vẫn còn gợi hứng, để xây dựng những cây cầu và phá đổ các bức tường. Những dự phóng ấy dường như nói lên một lời mời gọi tha thiết đừng hài lòng với những sửa chữa bề ngoài, hoặc những thỏa hiệp quanh quéo để sửa chữa vài hiệp định, nhưng là can đảm đặt những nền tảng mới, ăn rễ sâu vững chắc, như Alcide De Gasperi đã nói, ”Tất cả mọi người đều được linh hoạt nhờ mối quan tâm đối với công ích của các tổ quốc chúng ta ở Âu Châu, Tổ Quốc Âu Châu chung của chúng ta, không sợ bắt đầu lại công việc xây dựng đang đòi hỏi những cố gắng kiên nhẫn cộng tác dài hạn của chúng ta”.

Nhân buổi trao giải thưởng cho ĐTC, chiều thứ năm, 5-5 vừa qua, đã có một cuộc hội thảo ở Roma với nhiều nhân vật như Chủ tịch Hội đồng Âu Châu ông Donald Tusk, người Ba Lan, Chủ tịch Nghị viên Âu Châu ông Martin Schultz, người Đức, Chủ tịch Ủy ban hành pháp Âu Châu, ông Jean-Claude Juncker, người Luxembourg. Ngoài ra cũng có sự tham dự của thủ tướng Đức và thủ tướng Italia.

Sáng ngày, 6-5-2016, ĐHY Walter Kasper người Đức, đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô cho các tham dự viên. Và ban trưa các đại diện Âu Châu đã họp mặt tại Sảnh đường Regia ở dinh tông tòa để dự buổi trao giải thưởng. (SD 6-5-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Kitô hữu không tê liệt vì đau khổ

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 06.05, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng: “Kitô hữu không tê liệt trước những đau khổ nhưng vượt qua những đau khổ trong niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho niềm vui; và niềm vui ấy, không ai lấy mất được.”

Niềm vui và sự lo buồn của người phụ nữ khi sinh con

Được khởi hứng từ những bài đọc ngày hôm nay, khi Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ về nỗi lo lắng, muộn phiền sẽ đến với các ông nhưng nỗi buồn ấy sẽ trở thành niềm vui; Đức Thánh Cha đã đặt vấn đề: “Làm thế nào để các Kitô hữu có thể duy trì mãi được niềm vui và hy vọng của họ, cho dù có ở giữa những đau khổ, muộn phiền? Đức Giêsu đã dùng hình ảnh của người phụ nữ lúc lâm bồn và nói rằng: ‘Khi sinh con người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa.’ Bà đã mang niềm hy vọng vượt qua những đau khổ và sau đó bà đã mừng vui.

Chúng ta cũng có thể có đươc niềm vui và hy vọng này, cho dù chúng ta phải đối mặt với những cơ cực, với những vấn nạn hay khi chúng ta sầu khổ. Chúng ta không rơi vào trạng thái tê liệt. Đau khổ đúng là đau khổ, nhưng nếu ta biết vượt qua nó với niềm vui và hy vọng thì nó sẽ mở ra trước mắt chúng ta một cánh cửa chan chứa niềm vui, vì ‘một con người đã sinh ra trong thế gian’. Hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng giúp chúng ta hy vọng hơn trong những gian nan, nguy khốn. Những gian nan, nguy khốn rất đáng sợ, thậm chí có thể khiến chúng ta lung lay mất đức tin… Nhưng với niềm vui và hy vọng, chúng ta bước về phía trước, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau đau khổ sẽ là niềm vui chan chứa, giống như người phụ nữ khi sinh con.

Niềm vui và hy vọng – không phải là tinh thần lạc quan

Niềm vui và hy vọng của các Kitô hữu luôn bện chặt vào nhau. Và chúng ta đừng lẫn lộn chúng với những hạnh phúc đơn giản hay tinh thần lạc quan. Niềm vui mà không có hy vọng thì chỉ là vui, một hạnh phúc tạm thời, mong manh. Hy vọng mà không có niềm vui sẽ không phải là hy vọng và cũng không thể vươn tới được một tinh thần lạc quan lành mạnh. Niềm vui và hy vọng luôn bước song hành với nhau và sẽ tạo ra một cảm xúc bùng nổ đến vỡ òa trong Giáo hội: ‘Giáo hội hãy vui mừng hoan hỷ. Hãy mừng vui.’ Khi mừng vui hoan hỷ, người ta sẽ không còn phải chăm chú vào những nghi lễ, quy định, phép tắc nữa. Chỉ có niềm vui mà thôi.

Niềm vui và hy vọng có mối tương quan biện chứng với nhau. Chúng giúp nuôi dưỡng Giáo hội, thúc đẩy Giáo hội mở ra với tất cả mọi người. Niềm vui củng cố hy vọng và hy vọng trổ sinh từ niềm vui. Chúng ta sẽ bước về phía trước trong tư thế vui mừng và hy vọng. Chính hai nhân đức này giúp chúng ta và giúp Giáo hội mở lòng ra với tha nhân. Những ai có niềm vui chẳng khép mình lại bao giờ; hy vọng giúp ta mở ra. Hai nhân đức này giống như mỏ nẻo trên cửa biển Nước Trời kéo chúng ta đi lên và đi ra với mọi người.

Niềm hoan lạc vĩnh cửu

Niềm vui thế trần có thể bị lấy mất bất cứ lúc nào. Trong khi đó, Đức Giêsu ban cho chúng ta niềm vui vĩnh cửu, không ai có thể lấy mất được. Niềm vui ấy vẫn tồn tại, cho dù chúng ta có bị chìm ngập trong những thời khắc đen tối nhất của cuộc đời, giống như các Tông đồ được thiên thần an ủi sau khi Đức Giêsu về trời, đã tìm lại được niềm vui và hạnh phúc. Đó là niềm vui khi biết rằng giờ đây con người có thể đặt chân vào thiên đàng. Niềm vui ấy đang tràn ngập toàn thể Giáo hội hôm nay.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

 

Đại học Công giáo Đức Maria thành lập trung tâm Biển Đức XVI

Đại học Công giáo Đức Maria thành lập trung tâm Biển Đức XVI

Đức Giáo Hoàng Biển Đức

Trường đại học Đức Maria ở Luân đôn, đại học Công giáo lớn nhất của Anh quốc vừa thành lập một trung tâm nghiên cứu mới, với tên gọi “Trung tâm Biển Đức XVI”. Đại học này được thành lập năm 1850 như là một trong những hoạt động của hàng giáo phẩm Công giáo mới được phục hồi; là đại học Công giáo duy nhất ở London.

Nguyên tổng thư ký giáo dục của đại học đã phát biểu trong buổi khánh thành rằng bà tin rằng trung tâm này sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống công chúng. Bà cũng nói là trung tâm sẽ có một căn tính Công giáo mạnh mẽ cùng với một chương trình nghiên cứu chuyên về chính trị, kinh tế và khoa học xã hội.

Trung tâm được đề xuất lần đầu tiên sau cuộc viếng thăm nước Anh của Đức nguyên giáo hoàng Biển Đức XVI, khi ngài đến thăm đại học Đức Maria. Trong cuộc viếng thăm, Đức nguyên giáo hoàng đã nói về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa đức tin và lý trí, và sự cần thiết của một cuộc đối thoại giữa tôn giáo và chính trị.

Stephen Bullivant, giám đốc trung tâm, cũng là một biên tập viên của Catholic Herald, đã nêu bật những nguyên tắc này trong bài phát biểu ở buổi khai mạc. Ông nói rằng trung tâm sẽ mang những sự phong phú của truyền thống Công giáo, của tư tưởng xã hội của Công giáo, sự phong phú của giáo huấn Công giáo về đức tin và lý trí vào trong cuộc đối thoại quốc gia.

Hoạt động của trung tâm sẽ bao gồm một diễn đàn nghiên cứu Công giáo, cung cấp nghiên cứu thực nghiệm nghiêm túc hữu ích về muc vụ để phục vụ Giáo hội. Nó được các giám mục Anh và xứ Wales ủy quyền để nghiên cứu dân số không theo tôn giáo của Vương quốc Anh.

Dự án cấp thời khác bao gồm việc nghiên cứu thông điệp Humanae Vitae của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và hệ quả của nó – một dự án có đỉnh điểm là một tài liệu được soạn thảo cho lễ kỷ niệm lần thứ 50 của thông điệp vào năm 2018; một loạt hội thảo về Tư tưởng xã hội Công giáo, Chính trị và Xã hội, được hướng dẫn bởi Giáo sư Philip Booth, mà sẽ mang giáo huấn của Giáo Hội với các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội hiện nay gần lại với nhau; và một dự án nghiên cứu về niềm tin phi tôn giáo, được tài trợ bởi Quỹ Templeton và được thực hiện với sự hợp tác của Trường Đại học Coventry và London College
Trung tâm cũng sẽ  nghiên cứu lời mời gọi của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI về một “sân chơi” của dân ngoại – một nơi mà các tín hữu có thể nói chuyện với người không tin.  Khai mạc của sự kiện được dự định vào cuối năm nay.

Cha Friedrich, điều phối viên quốc tế của Bộ giáo dục Công giáo của Vatican cho biết là cha đã thưa với Đức nguyên giáo hoàng Biển Đức về trung tâm này và ngài đã chúc lành cho trung tâm. Cha cũng cho là việc đăt tên của trung tâm theo tên Đức nguyên giáo hoàng Biển Đức là thích hợp. Đức nguyên giáo hoàng Biển Đức đã không sợ sự thật, nhưng khuyến khích các tín hữu Công giáo đón nhận sự thật dù nó đến từ bất cứ nơi đâu vì không có sự thật nào trái ngược với Tin Mừng. (Catholic Herald 6/5/2016)

Hồng Thủy OP

Giấc mơ cuối cùng của cha Fausto Pops Tentorio

Giấc mơ cuối cùng của cha Fausto Pops Tentorio

Cha Tentorio

Cha Pops sinh năm 1952, trong một làng nhỏ quận Brianza, vùng Lombardia, Italia. Cha đã gia nhập chủng viện Saronno để học làm Linh mục, nhưng năm 1974 cha chuyển sang chủng viện của hội truyền giáo Giáo hoàng hải ngoai, gọi tắt là Pime, để chuẩn bị cho sứ vụ truyền giáo, đến với muôn dân, mà cha cảm thấy mình được mời gọi. Hai năm sau khi được lãnh thánh chức Linh mục, vào năm 1979, cha bắt đầu sứ vụ truyền giáo tại đảo Mindanao, một hòn đảo lớn ở miền nam Phi luật tân, thường được gọi là “miền viễn Tây của Phi luật tân”. Vùng đất cha đến truyền giáo có hàng trăm ngàn héc-ta rừng, đất trồng trái cây, và nhất là các mỏ vàng và đồng. Những cánh đồng phì nhiêu bị các nhóm thực dân chiếm hữu, những kẻ bóc lột chỉ muốn tống khứ nhóm dân sắc tộc “manobo” khỏi lãnh thổ của họ.

Cha Pops được sai đến các nơi khác nhau trong giáo phận Kidapawan, sống và làm việc với những người bị bỏ rơi, đẩy mạnh việc thực thi dân chủ trong bối cảnh của bạo lực của những khu vực này, và cuối cùng cha đến truyền giáo tại Arakan suốt hơn 20 năm, cho đến khi cha bị giết vào ngày 17/10/2011. 

Cha Pops sống trong một căn lều làm bằng tre, lợp mái tôn. Đầu tiên cha tập trung, bắt đầu các công tác mục vụ bình thường của giáo xứ, chiến đấu chống lại các dịch bệnh, chiến tranh. Sau đó cha đã đến với nền văn hóa manobo, đến với tôn giáo thờ kính Manama, hữu thể tối cao, của họ. Cha Pops giúp các cộng đoàn bước ra khỏi sự cô lập bằng cách thành lập hiệp hội các bộ tộc “manobo”, tập họp các bộ tộc lại để cùng cộng tác trong việc nông nghiệp. Cha thuyết phục chính quyền Manila nhìn nhận rằng những vùng đất xa xưa đó là của các bộ tộc manono và ngăn chặn các hoạt động khai thác mỏ.

Những việc làm của cha cản trở hoạt động của những kẻ bất lương nên cha đã bị chúng đe dọa, nhưng cha không vì sợ hãi mà dừng lại. Họ tổ chức phục kích cha nhiều lần nhưng cha đều trốn thóat được. Cha không sợ những hành động đe dọa của họ mà ngay các anh em cùng hội truyền giáo đã nhắc nhở với cha. Ngày 17 tháng 10 năm 2011, khi vừa ra khỏi giáo xứ ở Arakan để đi họp ở giáo phận, cha đã bị một kẻ bịt mặt đi xe motor bắn vào đầu và lưng. Cha đã qua đời trên đường đi cấp cứu. Cha muốn được chôn cất trong một quan tài làm từ gỗ của một cây mà cha đã trồng và được chôn cất ở Kidapawan, trung tâm giáo phận.

“Đó là một người bạn của cha Pops!” Mỗi khi tên của cha Pops được nhắc đến là có một gương mặt lại sáng lên. Dù cha Pops đã qua đời vài năm rồi, và hơn nữa, thung lũng Arakan, nơi cha bị giết vì bảo vệ các bộ tộc, rất xa vùng miền núi Talaingod, nhưng những dấu ấn cha để lại cho cộng đoàn dân chúng ở Talaingod vẫn không hề phai nhạt. Cộng đồng Manobo ở Talaingod vẫn nhớ rất rõ về cha. Đây là một vùng nằm sâu trong vùng rừng rậm của Davao. Để đến được nơi đây, người ta phải đi qua những cánh đồng chuối bát ngát như vô tận cho đến Santo Ninho, rồi đi xe moto trên những con đường lầy lội ngập bùn đến một ngôi làng với các túp lều dựng lên từ gỗ và lá dừa. Cha Pops là Linh mục đầu tiên đến với cộng đồng này và cùng với Hiệp hội các thừa sai nông thôn của Phi luật tân, cha đã kết nối các bộ tộc ở Mindanao, mở rộng hoạt động truyền giáo của cha vượt khỏi ranh giới của giáo phận Kidapawan. Cha đã mở ngôi trường đầu tiên ở Talaingod vì theo cha “giáo dục là con đường đúng đắn để tổ chức các cộng đoàn và giúp họ bảo vệ quyền lợi của mình. Cha đã viết trong di chúc của mình: “Ước mơ của bạn cũng là ước mơ của tôi, cuộc chiến của bạn cũng là cuộc chiến của tôi. Bạn và tôi, chúng ta là một, cùng liên kết để xây dựng nước Chúa.”

Talaingod ngày nay đã thay đổi, không phải chỉ ở bề mặt bên ngoài, đó là hoa trái của những hy sinh của cha Pops. Ngôi trường ở Dulyan đã trở thành tâm điểm cho nhiều cộng đoàn nhỏ rải rác khắp trong rừng. Ngôi trường mới được các người dân làng chung sức xây dựng lại, những người trước kia là các chiến binh thường gây chiến với nhau và điều này đã làm cho họ bị yếu thế khi phải chống lại những kẻ cướp đất của họ. Họ đã cùng nhau đào xới đất bàng tay chân vì không có dụng cụ, cùng chuyên chở tùng bao xi măng từ cách đó cả giờ đồng hồ. Ngôi trường đang tạo nên sự liên kết giữa họ. Đây là thành quả mà cha Pops mong đợi: các người dân cộng tác với nhau.

Nỗi nhớ cha Pops không dừng lai ở tình cảm nhưng được thể hiện bằng những hành động cụ thể. Quỹ cha Pops dược thành lập để tiếp tục các chương trình cha đã khởi đầu và cần sự hỗ trợ để phát triển. Nhờ cha Pops, ở làng Talaingod có một máy phát điện hoạt động vài giờ mỗi chiều để chiếu sáng và xạc pin điện thoại, giúp người dân có thể liên lạc và không bị cô lập. Đoàn truyền giáo sức khỏe của quỹ cha Pops mỗi năm gửi đoàn y tế đến để kiểm tra sức khỏe dân làng thay vì các y tá trong các trạm y tế. Trên hết, có một thế hệ trẻ ở đây cũng ước mơ sẽ trở thành các giáo viên hay y tá như các người trẻ lumad đã lớn lên cùng với cha Póps và bây giờ đang sống ở đây cùng với họ. (Mondo Misione 10/2014)

Hồng Thủy OP

Đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho đoàn kết quốc gia ở Indonesia

Đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho đoàn kết quốc gia ở Indonesia

Đức cha Ignatius Suharyo tại Indonesia

Jakarta – Vào ngày 1 tháng 5 vừa qua, Đức cha Ignatius Suharyo, Tổng giám mục của Jakarta đã khởi xướng một chiến dịch cầu nguyện đặc biệt giữa các tín hữu Indonesia, để cầu nguyện cho sự đoàn kết của đất nước. Đức cha nói: “Trong vòng 5 năm tới đây, bằng phong trào này, chúng tôi cổ võ hoạt động của ủy ban mục vụ của các giáo phận, các tổ chức Công giáo và chúng tôi sẽ phổ biến khắp nước lòng sùng kính Mẹ Maria bằng việc lần hạt Mân côi trắng và đỏ (màu cờ của Indonesia).

Hoạt động được bắt đầu trong 65 giáo xứ của tổng giáo phận, với hàng ngàn tín hữu. Ở nhà thờ chánh tòa, đã có hơn 2000 tràng hạt trắng đỏ được phân phát. Cha Sridanto, chủ tịch của ủy ban phụng vụ của tổng giáo phận và là người quảng bá của phong trào, đã tổ chức một buổi tọa đàm trước khoảng 300 Linh mục ở tỉnh Trung Java. Cha khẳng định rằng chuỗi Mân côi là một phần hoạt động của Tổng giáo phận để củng cố tình yêu quê hương đất nước giữa các tín hữu Công giáo: “Màu đỏ là biểu tượng cho ý muốn baỏ vệ sự thật dựa trên đức tin trong Chúa Ba Ngôi; màu trắng nói lên sự thánh thiện”. Ý thức hệ chính thức của Indonesia được xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ, hiện đại, tự do, ngôn luận và tôn giáo, là 5 cột trụ. Những yếu tố này được đưa vào phần mở đầu của Hiến pháp và được tổng thống đầu tiên, Sukarno, mong muốn; chúng đã đi trước sự ra đời của quốc gia. 5 cột trụ dựa trên niềm tin vào một Thiên Chúa, trên sự công bình và văn minh nhân loại, sự đoàn kết của Indonesia, sự dân chủ được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan, và sự công bằng xã hội.

Tổng giáo phận đã đưa ra 5 ý chỉ cầu nguyện để hướng dẫn các tín hữu trong việc đọc kinh Mân côi: cầu cho các anh hùng của quốc gia, cầu cho việc gìn giữ thiên nhiên và đất đai tươi tốt, càu cho sự đoàn kết của dân tộc Indonesia, cầu cho sự khôn ngoan và hướng dẫn của các chính trị gia, cầu cho tất cả những nỗ lực tốt lành được thực hiện để hiện thực hóa thiện ích chung của xã hội.

Lòng yêu mến Đức Mẹ của người dân Indonesia rất mạnh mẽ. Trên khắp nước có nhiều hang đá Đức Mẹ Lộ đức, nơi mà hàng ngàn tín hữu đến cầu nguyện hàng năm, đặc biệt là vào tháng 5 và tháng 10. Tháng 8 vừa qua, tượng Đức Mẹ cao nhất thế giới đã được dựng lên ở miền Trung Java.

(Asia News 6/5/2016

Hồng Thủy OP 

Bách hại – cái giá của việc làm chứng cho Chúa

Bách hại – cái giá của việc làm chứng cho Chúa

Thánh lễ sáng thứ Hai, 02.05, tại nguyện đường Thánh Marta

VATICAN. Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sức mạnh để trở nên những chứng nhân của Đức Giêsu ngay giữa những bách hại. Có những bách hại lớn đòi chúng ta phải hy sinh mạng sống mình, nhưng cũng có những bách hại nho nhỏ là những lời đàm tiếu, phê bình và chỉ trích. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Hai, 02 tháng 05, tại nguyện đường Thánh Marta.

Chúng ta đã đến gần Lễ Ngũ Tuần và các bài đọc trình bày cho chúng ta nhiều hơn về Chúa Thánh Thần. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Thiên Chúa đã mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói.

Người phụ nữ này đã cảm nhận được điều gì đó trong tâm hồn khiến bà cất tiếng nói: ‘Điều này thật đúng đắn! tôi đồng ý với những gì mà người ấy (Thánh Phao-lô) nói. Ông ấy đã làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh. Và những lời ông nói đều chân thật.’ Nhưng ai đã đụng chạm lay động trái tim của người phụ nữ này? Ai đã nói với bà: ‘Hãy lắng nghe, vì đó là sự thật’? Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho người phụ nữ này nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa; giúp bà khám phá ra ơn cứu độ ngang qua những lời mà Thánh Phao-lô rao giảng; và giúp bà lắng nghe được những lời chứng ấy. Chúa Thánh Thần đã làm chứng về Đức Giêsu. Mỗi lần chúng ta cảm thấy có điều gì kéo chúng ta lại gần với Giêsu, thì đó chính là Chúa Thánh Thần đang làm việc trong tâm hồn chúng ta.

Tin Mừng nói về một chứng tá kép: một là của Chúa Thánh Thần, Đấng làm chứng về Đức Giêsu; và hai là chính những lời chứng của chúng ta. Chúng ta là những chứng nhân của Thiên Chúa với sức mạnh của Thánh Thần. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ đừng để mình bị vấp ngã, vì làm chứng sẽ dẫn đến những bách hại. Từ những bách hại nho nhỏ của những lời dèm pha, chỉ trích đến những bách hại lớn – đã xảy ra nhiều trong lịch sử Giáo hội – khiến các Kitô hữu phải chịu cách lao tù hay thậm chí phải hy sinh cả mạng sống của mình.

Đó chính là cái giá của việc làm chứng cho Đức Giêsu: ‘Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.’ Kitô hữu, với sức mạnh của Thần Khí, can đảm làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn sống, Ngài đã phục sinh và luôn ở giữa chúng ta. Đức Giêsu sẽ cùng với chúng ta cử hành việc Ngài chịu chết và phục sinh mỗi khi chúng ta quây quần với nhau bên cạnh bàn thờ. Với sự giúp sức của Thần Khí, các Kitô hữu biết làm chứng tá cho Chúa ngay cả trong cuộc sống thường ngày ngang qua cách hành xử và làm việc của mình. Những lời chứng của các Kitô hữu vẫn còn tiếp tục. Nhưng chúng cũng gặp phải nhiều công kích, bách hại, khủng bố.

Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhận biết Đức Giêsu. Ngài thôi thúc chúng ta nhận biết Giêsu không chỉ bằng những lời nói nhưng bằng chính chứng tá đời sống.

Như vậy, sẽ thật tốt đẹp nếu chúng ta biết nài xin Chúa Thánh Thần đến ngự trong tâm hồn chúng ta để giúp chúng ta làm chứng về Đức Giêsu. Chúng ta hãy thân thưa với Ngài: ‘Lạy Chúa, xin kéo con đến gần với Giêsu. Xin soi sáng cho con hiểu những gì mà Đức Giêsu đã dạy. Nhắc nhớ cho con tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm và giúp con dám can đảm làm chứng về tất cả những điều này. Xin gìn giữ con, để tinh thần thế gian, những việc dễ dàng thoải mái đến từ cha của sự dối trá, thủ lãnh thế gian này, là tội lỗi, không làm con xa lìa việc làm chứng cho Chúa.’”

Vũ Đức Anh Phương SJ

900 nữ Bề trên Tổng quyền về Roma dự Đại Hội

900 nữ Bề trên Tổng quyền về Roma dự Đại Hội

900 nữ Bề trên Tổng quyền về Roma dự Đại Hội

ROMA. 900 nữ Bề trên Tổng quyền thuộc các dòng trên thế giới sẽ nhóm đại hội 3 năm một lần tại Roma từ ngày 9 đến 13-5-2016 về chủ đề ”Kiến tạo tình liên đới hoàn cầu cho sự sống”.

Đại Hội này do Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nữ tổ chức lần thứ 20. Đặc biệt lần này có 4 Bề trên Tổng Quyền của 4 dòng Mến Thánh Giá ở Việt Nam cũng được tài trợ để có thể tham dự, không kể một số vị khác thuộc dòng Chúa Quan Phòng Portieux, hay dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp.

Trong thông cáo, Văn phòng Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền dòng nữ cho biết chủ đề khóa họp nói đến những thách đố gọi hỏi các tham dự viên liên quan đến ”những dấu chỉ thời đại” như Trái Đất là căn nhà chung, các khu vực ngoại ô của cuộc sống và của xã hội, như những người di dân, nạn buôn người, vấn đề hòa bình, và câu trả lời tông đồ trong tư cách là những phụ nữ thánh hiến.

Trong số các thuyết trình viên có nữ tu Rosemarie Nassif, người Mỹ, dòng Các Trường Học Đức Bà (SSND), thuộc tổ chức Conrad N. Hilton, nói về sự nâng đỡ dành cho tình chị em giữa các nữ tu trên thế giới.

Vào cuối đại hội, sẽ có một tuyên ngôn chung kết được công bố, chứa đựng những quyết tâm cụ thể trong các thách đố về môi trường và xã hội ngày nay. Ngoài ra, ĐTC cũng sẽ tiếp kiến các nữ Bề trên, dự kiến vào ngày thứ năm, 12-5 tới đây.

Theo niên giám năm 2016 của Tòa Thánh, trong Giáo Hội hiện có 683 ngàn nữ tu đã khấn, thuộc khoảng 2 ngàn dòng nữ (SD 1-5-2016)

G. Trần Đức Anh OP   

Đức Thánh Cha tiếp tổng tu nghị Dòng Đức Mẹ Chuộc kẻ làm tôi

Đức Thánh Cha tiếp tổng tu nghị Dòng Đức Mẹ Chuộc kẻ làm tôi

Đức Thánh Cha tiếp kiến tổng tu nghị Dòng Đức Mẹ Chuộc kẻ làm tôi

VATICAN. ĐTC khích lệ các tu sĩ dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi (mercedari) dấn thân trong sứ vụ ngôn sứ, loan báo Lời Chúa trong các môi trường ”ngoại ô” của cuộc sống con người.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ hai 2-5-2016 dành cho 50 thành viên tổng tu nghị dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi, nhân dịp bắt đầu kỷ niệm 800 năm thành lập dòng (1218).

ĐTC nhắc đến chủ đề của Tổng tu nghị là ”ký ức và ngôn sứ trong các khu ngoại ô của tự do” và đề cao bao nhiêu thành tích của dòng trong 8 thế kỷ qua như cứu chuộc những người bị bắt làm nô lệ, dấn thân truyền giáo ở tân thế giới, bao nhiêu phần tử của dòng nổi bật về đời sống thánh thiện và trí thức. Ngài đặc biệt nhấn mạnh sứ vụ ngôn sứ mà dòng đang nhắm phát triển. ĐTC nói:

”Vị ngôn sứ là người được sai đi, được xức dầu, đã nhận lãnh ơn của Chúa Thánh Linh để phục vụ dân thánh của Thiên Chúa. Anh em cũng đã nhận lãnh một hồng ân và được thánh hiến để thi hành một sứ mạng là công trình từ bi thương xót: theo Chúa Kitô, mang Tin Mừng đến cho người nghèo và giải thoát kẻ bị tù đày (Xc Lc 4,18). Anh em thân mến, lời khấn dòng của chúng ta là một hồng ân và là một trách nhiệm lớn, nhưng chúng ta mang nó trong bình sành. Chúng ta không cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng luôn tín thác nơi lòng thương xót của Thiên Chúa”.

Trong bối cảnh này, ĐTC đề cao tầm quan trọng của sự tỉnh thức, kiên trì trong việc nguyện gẫm, vun trồng đời sống nội tâm. Đó là những cột trụ nâng đỡ chúng ta. Nếu Thiên Chúa hiện diện trong đời sống anh em, thì niềm vui mang Tin Mừng của Chúa sẽ là sức mạnh và là niềm vui của anh em”. Ngài cũng nhắc nhở rằng ”vị ngôn sứ đi tới các khu ngoại ô, vì thế cần phải mang hành lý nhẹ. Chúa Thánh Linh là làn gió nhẹ thúc đẩy chúng ta tiến bước.”

Dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi do cha Pietro Nolasco thành lập năm 1218 tại thành Barcelona, Tây Ban Nha với mục đích nguyên thủy là giải thoát các tín hữu Công Giáo bị bắt làm nô lệ cho người Hồi giáo. Vì thế ngoài ba lời khấn thông thường, các tu sĩ của dòng có lời khấn cứu chuộc, dấn thân sẵn sàng đổi mạng cho các tù nhân có nguy cơ chối bỏ đức tin. Hiện nay dòng có 681 tu sĩ, trong số này có 529 LM, và hoạt động tại 159 nhà trên thế giới, theo niên giám năm nay của Tòa Thánh.

Sau công đồng Trento vào năm 1603, một số tu sĩ của dòng thành lập nhánh cải tổ và sống nhặt phép, nhưng hiện nay nhánh này chỉ còn 34 tu sĩ. (SD 2-5-2016)

 G. Trần Đức Anh OP   

Chúa Thánh Thần là Người Thầy nội tâm và là Ký Ức sống động về Đức Kitô

Chúa Thánh Thần là Người Thầy nội tâm và là Ký Ức sống động về Đức Kitô

Buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, trưa Chúa Nhật 6 Phục Sinh

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật, 01.05, với vài chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng Chúa Thánh Thần chính là quà tặng mà Đức Giêsu đã trao ban cho chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và nhắc cho chúng ta nhớ lại mọi lời của Đức Giêsu.

"Tin Mừng ngày hôm nay mang chúng ta đến với Bữa Tiệc Ly. Trong bữa ăn tối cuối cùng ấy, trước khi chịu khổ hình và cái chết trên thập giá, Đức Giêsu đã hứa trao ban cho các Tông đồ một món quà, đó chính là Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ đến để dạy dỗ và làm cho mọi người trong cộng đoàn của các môn đệ nhớ lại tất cả mọi điều mà Đức Giêsu đã nói. Thật vậy, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: ‘Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.’ (Ga 14, 26). Dạy dỗ và làm nhớ lại. Đây chính là điều mà Chúa Thánh Thần thực hiện trong tâm hồn của chúng ta.

Trong những giây phút khi chuẩn bị trở về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói trước với các môn đệ rằng Chúa Thánh Thần sẽ đến. Chúa Thánh Thần đến, trước hết, là để dạy dỗ các môn để hiểu một cách tròn đầy và chắc chắc hơn về Tin Mừng; kế đến, là giúp các ông đón nhận Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày, sống Tin Mừng đó và sẵn sàng ra đi làm chứng. Trong khi nhắn nhủ những lời tâm huyết với các Tông đồ – hay nói đúng hơn là ‘sai đi’ – trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi loại thọ tạo trên khắp mặt địa cầu, Đức Giêsu hứa là sẽ không để các ông mồ côi, đơn độc. Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, sẽ ở với họ, luôn bên cạnh họ và ở trong họ để bảo vệ và gìn giữ họ. Đức Giêsu trở về với Chúa Cha nhưng vẫn tiếp tục đồng hành và huấn luyện các môn đệ ngang qua món quà tuyệt vời là Chúa Thánh Thần.

Điểm thứ hai nơi chiều kích sứ mạng của Chúa Thánh Thần được hàm chứa trong việc giúp các Tông đồ hiểu và nhớ lại tất cả mọi lời của Đức Giêsu. Thầy Chí Thánh đã nói với các Tông đồ tất cả mọi sự: với Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, sự mặc khải của Thiên Chúa đã được trọn vẹn. Thánh Thần sẽ làm cho họ nhớ lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau của cuộc sống, để họ có thể đặt những giáo huấn ấy vào trong thực hành. Đây cũng chính là điều diễn ra trong Giáo hội ngày hôm nay. Khi được hướng dẫn bởi ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội cũng có thể mang món quà cứu độ đến hết mọi người. Món quà ấy chính là tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi mỗi ngày anh chị em đọc một đoạn Tin Mừng, hãy nài xin với Chúa Thánh Thần rằng: ‘Xin cho con hiểu và ghi nhớ mọi lời của Đức Giêsu.’ Rồi sau đó, anh chị em bắt đầu đọc Tin Mừng và hãy đọc mỗi ngày.

Chúng ta không mồ côi: Đức Giêsu luôn bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta! Sự hiện diện cách mới mẻ của Ngài trong lịch sử được thực hiện ngang qua Thánh Thần. Nhờ Thánh Thần, chúng ta có thể xây dựng một tương quan sống động với Đức Giêsu, Đấng đã chịu đóng đinh nhưng nay đã phục sinh. Chúa Thánh Thần, Đấng đã ngự vào tâm hồn chúng ta ngang qua Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thêm Sức, luôn hoạt động trong cuộc đời chúng ta. Ngài hướng dẫn chúng ta biết cách suy nghĩ, hành động, biết phân biệt những điều tốt xấu; giúp chúng ta biết thực hành lòng bác ái của Đức Giêsu, đó là trao ban chính mình cho người khác, đặc biệt những ai đang nghèo túng và cần kíp nhất.

Chúng ta không mồ côi! Dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần cũng là bình an mà Đức Giêsu đã trao tặng cho các môn đệ: ‘Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.’ (câu 27). Điều này hoàn toàn khác với những gì mà con người thường cầu chúc cho nhau và cố gắng đạt được. Bình an của Đức Giêsu phát sinh từ sự chiến thắng trên tội lỗi, trên cái tôi ích kỷ ngăn cản chúng ta yêu tha nhân như anh em mình. Bình an là quà tặng của Thiên Chúa và là dấu chỉ sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta. Mỗi môn đệ, mà ngày hôm nay được mời gọi bước theo Đức Giêsu vác thánh giá, đều nhận được sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh trong sự chắc chắn về chiến thắng của Ngài và trong việc mong chờ sự ngự đến của Ngài trong vinh quang.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta có tâm tình ngoan ngoãn để đón nhận Chúa Thánh Thần như là Người Thầy nội tâm và như là Ký Ức sống động về Đức Kitô trong cuộc hành trình dương thế hằng ngày của chúng ta."

Lời chào mừng và kêu gọi

Sau Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã gởi lời chào thân ái đến tất cả các tín hữu ở Roma và khách hành hương đến từ Italia cũng như các quốc gia khác.

Đức Thánh Cha cũng nói thêm: “Tôi xin gởi những tâm tình chân thành tới những người anh chị em của chúng ta thuộc Giáo hội Đông Phương, ngày hôm nay, đang mừng lễ Phục Sinh. Xin Thiên Chúa Phục Sinh mang đến cho tất cả mọi người những món quà của ánh sáng và sự bình an. Christos anesti! (Đức Kitô đã phục sinh!)

Tôi cũng nhận được một tin hết sức đau buồn đến từ Siria: Các hình thức bạo lực tiếp tục làm trầm trọng thêm những hoàn cảnh nhân đạo đã đến bờ tuyệt vọng của đất nước này, đặc biệt là tại thành phố Aleppo. Họ tiếp tục giết hại các nạn nhân vô tội, trong đó có nhiều trẻ em, những người đau yếu, bệnh tật và ngay cả những người đã có những hy sinh rất lớn trong việc dấn thân giúp đỡ người khác. Tôi tha thiết kêu gọi các bên xung đột hãy tôn trọng việc đình chiến và tăng cường việc đối thoại đang được diễn ra. Đó là con đường duy nhất dẫn đến hòa bình.

Ngày mai tại Roma, Hội Nghị Quốc Tế với chủ đề ‘Sự phát triển bền vững và những hình thức công việc dễ bị tổn thương nhất’. Tôi hy vọng rằng sự kiện này có thể khuấy lên mối bận tâm của các cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị và kinh tế, cũng như xã hội dân sự, để từ đó chúng ta có thể thúc đẩy một mô hình phát triển nhấn mạnh đến phẩm giá con người, hết sức tôn trọng những tiêu chuẩn về lao động và môi trường sinh thái.

Tôi cũng đặc biệt chào mừng hiệp hội ‘Meter’, một tổ chức từ nhiều năm nay đã chiến đấu chống lại các hình thức lạm dụng trẻ em. Lạm dụng trẻ em thực là một bi kịch. Chúng ta phải bảo vệ trẻ em và nghiêm trị những kẻ bạo hành. Cám ơn những dấn thân làm việc của anh chị em và xin anh chị em tiếp tục can đảm trong công việc này.”

Vũ Đức Anh Phương SJ

80 ngàn tín hữu dự buổi tiếp kiến đặc biệt của Đức Thánh Cha

80 ngàn tín hữu dự buổi tiếp kiến đặc biệt của Đức Thánh Cha

80 ngàn tín hữu tham dự buổi tiếp kiến đặc biệt của Đức Thánh Cha

VATICAN. ĐTC mời gọi các tín hữu tận dụng Năm Thánh Lòng Thương Xót như cơ hội thuận tiện để hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến chung 80 ngàn tín hữu hành hương, sáng ngày 30-4-2016, tại Quảng trường Thánh Phêrô. Đây là buổi tiếp kiến chung mỗi tháng 1 lần vào sáng thứ bẩy ĐTC thực hiện thêm trong Năm Thánh.

Trong bài huấn dụ về đề tài: lòng thương xót và sự hòa giải (Xc 2 Cr 5,17-21), sau khi nhắc đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa không bao giờ ngừng tìm kiếm người tội lỗi và ban ơn thư thứ hòa giải cho họ, ĐTC nói: ”Anh chị em hãy hòa giải với Thiên Chúa!” (2 Cr 5,20): tiếng kêu này Thánh Phaolô Tông Đồ gửi đến các Kitô hữu đầu tiên ở thành Corinto, ngày nay cũng có cùng sức mạnh và niềm xác tín như thế đối với tất cả chúng ta. Năm Thánh Lòng Thương Xót này là một thời kỳ hòa giải đối với tất cả mọi người. Bao nhiêu người muốn hòa giải với Thiên Chúa nhưng không biết làm sao, hoặc không cảm thấy mình xứng đáng, hay không muốn chấp nhận điều đó cho mình. Cộng đoàn Kitô có thể và phải tạo điều kiện dễ dàng để những người cảm thấy nhớ Chúa chân thành trở về cùng Chúa. Nhất là những người thi hành ”sứ vụ hòa giải” (2 Cr 5,8) được kêu gọi trở thành những dụng cụ ngoan ngoãn của Chúa Thánh Linh, vì nơi nào tràn đầy tội lỗi thì lòng thương xót của Chúa càng dồi dào hơn nữa (Xc Rm 5,20). Tôi xin các cha giải tội đừng tạo chướng ngại cản trở sự hòa giải của hối nhân với Thiên Chúa. Vị giải tội phải là một người cha, phải đón tiếp những người đến với mình và giúp họ trong hành trình hòa giải họ đang thực hiện.. Sứ vụ của anh em là một tác vụ đẹp đẽ chứ không phải là một phòng tra tấn hoặc một cuộc hỏi cung. Vị giải tội đại diện Thiên Chúa Cha ôm lấy con người và tha thứ cho họ”.

ĐTC nói thêm rằng ”Cảm nghiệm sự hòa giải với Thiên Chúa giúp chúng ta khám phá sự cần thiết của những hình thức hòa giải khác: trong gia đình, giữa con người với nhau, trong các cộng đoàn Giáo Hội, cũng như trong các quan hệ xã hội và quốc tế… Vậy chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi để cho mình được hòa giải với Thiên Chúa, để trở thành những thụ tạo mới và có thể làm lan tòa lòng thương xót của Chúa nơi anh chị em mình”.

Chào các quân nhân cảnh sát

Trong phần chào thăm các tín hữu hành hương, ĐTC đặc biệt nhắc đến sự hiện diện 20 ngàn quân nhân và cảnh sát từ nhiều nơi trên thế giới, về Roma hành hương nhân dịp Năm Thánh đặc biệt Lòng Thương Xót. Ngài nói:

”Các lực lượng an ninh – quân đội và cảnh sát – có sứ mạng bảo đảm môi trường an ninh, để mỗi công dân có thể sống trong an bình và thanh thản. Trong các gia đình của anh chị em, các môi trường khác nhau nơi anh chị em hoạt động, anh chị em hãy trở thành những dụng cụ hòa giải, những người xây dựng những nhịp cầu và gieo vãi hòa bình. Thực vậy, anh chị em được kêu gọi không những phòng ngừa, xử lý hoặc chấm dứt các cuộc xung đột, nhưng còn góp phần vào việc xây dựng một trật tự dựa trên sự thật, công lý, tình thương và tự do, theo định nghĩa của thánh Gioan 23 trong thông điệp ”Hòa bình dưới thế” (nn.18ss).

ĐTC nhận xét rằng ”sự củng cố hòa bình không phải là một công trình dễ dàng, nhất là vì chiến tranh làm cho các tâm hồn chai đá, gia tăng bạo lực và oán thù. Tôi khuyên anh chị em đừng nản chí. Hãy tiếp tục hành trình đức tin của anh chị em và mở rộng con tim cho Thiên Chúa Cha từ bị thương xót, Đấng không bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ cho chúng ta. Đứng trước những thách đố mỗi ngày, anh chị em hãy làm cho niềm hy vọng Kitô được chiếu tỏa rạng ngời, xác tín chắc chắn về sự chiến thắng của tình thương và hòa bình trên chiến tranh” (SD 30-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

 

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Kitô hữu đừng sống hai mặt

Thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04

VATICAN. Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu, 29.04, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh giác các Kitô hữu trước một lối sống hai mặt, phô diễn ra cho người khác thấy vẻ bên ngoài sáng láng, thánh thiện nhưng trong tâm hồn lại vô cùng đen tối. Đức Thánh Cha cũng khuyến khích các tín hữu biết bước đi trong ánh sáng chứ đừng lún sâu vào con đường tối tăm, vì chân lý của Thiên Chúa không thể được tìm thấy nơi đó.

Khởi đi từ bài đọc được trích từ thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ, Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của mình về trận chiến bất tận với tội lỗi. Ngài nói rằng chúng ta phải trở nên tinh tuyền như Chúa Cha, nhưng nếu chúng ta phạm tội chúng ta vẫn có thể cậy dựa vào sự tha thứ và lòng xót thương của Chúa. Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến sự khuyến cáo của các Tông đồ với các tín hữu: phải nói sự thật và đừng sống hai mặt, đừng nói một đường mà lại làm một nẻo.

Nếu bạn nói bạn kết hiệp với Chúa, thì phải bước đi trong ánh sáng, không sống hai mặt. Chúng ta thấy quen với những lời dối trá và cũng có cám dỗ nói dối nữa đúng không? Nói điều này nhưng lại làm điều khác đúng không? Cám dỗ sẽ không bao giờ ngừng. Chúng ta đã biết sự dối trá đến từ đâu. Trong Phúc Âm, Đức Giêsu gọi ma quỷ là ‘cha của sự dối trá’; là kẻ lừa dối, xảo quyệt. Chính vì điều này mà các giáo phụ khuyên nhủ Giáo hội thời sơ khai với sự yêu mến và đầy tình thương là: ‘Đừng dối trá! Anh chị em kết hợp với Chúa, thì hãy bước đi trong ánh sáng. Làm việc ngay chính, đừng nói một đường mà lại  làm một nẻo. Đừng sống hai mặt.’

Hãy để ý Thánh Gioan bắt đầu lá thư với lời chào ‘các con’. Đây cũng chính là lời của các giáo phụ nói với con cái mình trong thời Giáo hội sơ khai vời tràn đầy tình yêu, sự an ủi và vỗ về. Lời này cũng nhắc nhớ lại lời hứa của Đức Giêsu là sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Cũng vậy, Thánh Gioan khuyến cáo các tín hữu đừng phạm tội, nhưng nếu ai có lỡ phạm tội thì cũng đừng thất vọng nản chí.

Chúng ta có Đấng Bào Chữa luôn chuyển cầu cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha, đó là Đức Giêsu, Đấng Công Chính. Ngài thánh hóa chúng ta nên thánh thiện, tinh tuyền. Chính Ngài đã tha thứ cho chúng ta. Các giáo phụ đã khuyên chúng ta như thế này: ‘Còn điều gì xấu xa hơn là phạm tội nữa không? Xin thưa là không. Tội lỗi là thứ xấu xa nhất. Nhưng nếu phạm tội, hãy nhìn lên Đấng đang chờ đợi để tha thứ cho anh chị em. Thiên Chúa cao cả hơn tội lỗi của chúng ta.’”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Chính nhờ lòng thương xót và sự cao cả của Thiên Chúa mà chúng ta có được sức mạnh. Chúng ta phải bước đi trong ánh sáng vì Chúa là sự sáng. Đừng bước một chân trong ánh sáng còn chân kia lại trong bóng tối. Đừng là kẻ dối trá. Chúng ta nên biết rằng tất cả chúng ta đều tội lỗi. Bởi vậy, không ai có thể nói người khác rằng: ‘Ông này có tội hay cô kia có tội. Còn tôi, tạ ơn Chúa, tôi công chính, thánh thiện.’ Không. Chỉ có một Đấng Công Chính mà thôi. Ngài đã chuộc tội cho chúng ta. Và nếu có ai trong chúng ta phạm tội, Ngài sẽ chờ đợi và sẵn sàng tha thứ, vì Thiên Chúa đầy lòng xót thương và biết rõ rằng chúng ta được tạo dựng nên bằng gì và chúng ta chỉ là thân phận cát bụi mà thôi. Ước mong rằng niềm vui từ bài đọc một ngày hôm nay giúp chúng ta luôn biết sống một đời Kitô đơn sơ và trong sáng, trên hết là khi chúng ta hướng về Thiên Chúa với tất cả sự thật.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

 

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

Đức Thánh Cha cổ võ cảm thông đối với người bị bệnh họa hiếm

VATICAN. ĐTC cổ võ sự cảm thông đối với những người bị các bệnh họa hiếm, đồng thời chống lại nền kinh tế loại trừ và bất công.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 29-4-2016 dành cho 700 tham dự viên Hội nghị quốc tế về y khoa tái sinh (medicina rigenerativa) do Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa cùng với một số cơ quan khác tổ chức.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, trước tiên ĐTC cổ võ sự nhạy cảm hóa, gây ý thức về tình trạng những người bị bệnh họa hiếm. Ngài nói: ”Điều rất quan trọng là thăng tiến trong xã hội sự gia tăng mức độ cảm thông, để không một ai tỏ ra dửng dưng đối với các ơn gọi trợ giúp tha nhân, kể cả khi họ bị một thứ bệnh họa hiếm. Chúng ta biết rằng nhiều khi không thể tìm được những giải pháp mau lẹ cho các bệnh phức tạp, nhưng ta luôn có thể quan tâm đối với các bệnh nhân ấy, họ thường cảm thấy bị bỏ rơi và bị lơ là.”

ĐTC cũng khuyến khích đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học và giáo dục. Trong lãnh vực này cần luôn để ý tới những khía cạnh luân lý đạo đức đẻ có thể là dụng cụ bảo vệ sự sống và phẩm giá con người.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi đảm bảo sao cho mọi bệnh nhân đều có thể được chữa trị. Về lãnh vực này, ngài nhấn mạnh rằng “Cần chống lại thứ kinh tế loại trừ và bất công” (EG 53), đang gieo rắc các nạn nhân khi cơ cấu tìm lợi lộc trổi vượt lên sự sống con người. Chính vì thế cần phải lấy việc hoàn cầu hóa sự dửng dưng bằng sự hoàn cầu hóa sự cảm thông. Vì thế chúng ta cần phổ biến vấn đề các bệnh họa hiếm trên bình diện hoàn cầu, đầu tư vào việc huấn luyện thích hợp, gia tăng tài nguyên cho việc nghiên cứu, cổ võ những luật lệ thích đáng, thay đổi các mô thức kinh tế, để dành ưu tiên cho nhân vị con người” (SD 29-4-2016)

G. Trần Đức Anh OP

Triển lãm “Con đường ngay chính”

Triển lãm “Con đường ngay chính”

ĐHY Rino Fisichella tại San_Lorenzo

Roma – Hôm qua, 28 /4, lúc 11 giờ, tại trung tâm Thánh Lorenzo đã khai mạc triển lãm “‘La Buona Strada’ / The right way – (Con đường ngay chính). Những chứng tá về lòng Thương Xót của Chúa Cha.” Mục đích của cuộc triển lãm là giới thiệu các chứng nhân về Lòng Thương Xót của Chúa Cha, những người sẽ chỉ cho chúng ta con đường tốt lành để nên thánh.

Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh Tái Truyền giảng Tin Mừng và Matteo Truffelli, Chủ tịch Công giáo Tiến hành Italia đã cắt băng khai mạc buổi triển lãm.

Có hơn 50 chứng nhân được trình bày trong cuộc triển lãm, trong đó có chân phước Pier Giorgio Frassati, được Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ định như tấm gương cho ngày Quốc tế giới trẻ tại Cracovia tháng 7 tới đây, và Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người đã khánh thành trung tâm Thánh Lorenzo vào năm 1983,  trước khi các ngày Quốc tế giới trẻ bắt đầu.

Sứ điệp của triển lãm này là một lời mời gọi: học hỏi các chứng nhân, các thánh, các chân phước, các vị đáng kính, các tôi tớ của Thiên Chúa được tôn kính trong Giáo hội; nhận ra vô vàn chứng nhân trong các giáo phận của chúng ta, những người đã và đang hoạt động âm thầm trong cuộc sống hàng ngày; đề cao sự phong phú của lựa chọn tham gia vào việc học hỏi này như “trường học dạy thánh thiện” để cùng nhau bước đi trên những con đường của thế giới.

Cuộc triển lãm được thực hiện bởi Hiệp hội Công giáo Tiến hành Italia, Caristas Italia, Diễn đàn quốc tế của Công giáo Tiến hành và tổ chức Công giáo Tiến hành “Trường học của sự Thánh thiện” Pio XI với sự bảo trợ của Ủy ban Năm Thánh Lòng Thương Xót, bao gồm 25 tấm bảng với 3 ngôn ngữ (Italia, Anh và Tây ban nha). Triển lãm nhắm đến tất cả khách hành hương trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, đặc biệt là giới trẻ.

Triển lãm sẽ được ghi vào trong lịch các sự kiện Năm Thánh, sẽ mở cửa từ ngày 2/5-20/112016, từ 11-17 giờ các ngày từ thứ hai đến thứ sáu; tháng 8 sẽ đóng cửa. (ACI 27/4/2016)

Hồng Thủy

Luôn có đối kháng trong Giáo hội chống lại Thánh Thần

Luôn có đối kháng trong Giáo hội chống lại Thánh Thần

Thánh lễ sáng thứ Năm, 28.04

VATICAN. “Ngày hôm nay trong Giáo hội cũng như xưa kia, luôn có những đối kháng chống lại Thánh Thần. Có những người không chấp nhận những đổi mới mà Thánh Thần mang đến. Nhưng Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng, tiến về phía trước và luôn kiên vững trên con đường của Đức Giêsu.” Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Năm, 28.04, tại nguyện đường Thánh Marta.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại các cuộc tranh luận đang diễn ra ở ‘Công đồng’ Giê-ru-sa-lem, Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Nhân vật chính hoạt động trong Giáo hội chính là Chúa Thánh Thần. Ngay từ buổi đầu, Ngài đã ban sức mạnh cho các Tông đồ để loan truyền Tin Mừng. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng thực hiện tất cả và khiến cho Giáo hội không ngừng tiến lên phía trước, cho dù có gặp phải những khó khăn và ngay cả khi những cuộc bách hại bùng nổ dữ dội. Chính Chúa Thánh Thần ban sức mạnh và lòng can đảm cho các tín hữu để họ kiên vững trong đức tin cho dù có gặp phải chống đối và sự giận dữ điên cuồng của những kinh sư, luật sĩ. Có một sự đối kháng kép chống lại hoạt đông của Thần Khí: Một là từ những người xác tín rằng Đức Giêsu chỉ đến với dân được tuyển chọn, chứ dân ngoại không có phần; hai là từ những người muốn áp đặt luật Mô-sê, gồm cả việc cắt bì, lên những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Hai sự đối kháng này ẩn chứa những nhầm lẫn lớn.

Thánh Thần đặt những tâm hồn bước đi trên một con đường mới. Đó là việc kỳ diệu của Thần Khí. Các Tông đồ đã bắt gặp những tình huống mà họ chưa nghĩ đến bao giờ. Đó là những hoàn cảnh hoàn toàn mới lạ. Và họ đã đương đầu với những hoàn cảnh này như thế nào? Bài đọc một ngày hôm nay bắt đầu như thế này: ‘Trong những ngày ấy, đã diễn ra một cuộc tranh luận sôi nổi’, một cuộc tranh luận nảy lửa, vì họ đang thảo luận với nhau về vấn đề những người gốc dân ngoại quay trở lại với Thiên Chúa. Họ có sức mạnh của Thần Khí – nhân vật chính – Đấng thúc đẩy họ tiến lên. Nhưng Thần Khí cũng mang đến những điều mới mẻ, những điều chưa hề được ai thực hiện trước đây bao giờ và cũng chưa có ai nghĩ đến. Đó là việc người gốc dân ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần.

Các môn đệ nắm trong tay ‘ngọn lửa nhiệt huyết cháy bỏng’ nhưng không biết phải làm gì. Bởi thế họ mới triệu tập một công nghị ở Giê-ru-sa-lem để mỗi người có thể thuật lại những kinh nghiệm của họ về việc dân ngoại đã được lãnh nhận Thánh Thần như thế nào. Và cuối cùng, họ đã đi đến sự đồng thuận. Nhưng trước đó, cả công nghị đã chìm trong thinh lặng và chăm chú lắng nghe khi Phao-lô và Ba-na-ba thuật lại những dấu lạ điềm thiêng mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa dân ngoại ngang qua các môn đệ. Chúng ta đừng sợ hãi khi lắng nghe với lòng khiêm tốn. Khi sợ hãi không dám lắng nghe, chúng ta không có Thánh Thần trong tâm hồn. Khi các Tông đồ lắng nghe, họ đã quyết định sai nhiều môn đệ tới Hy Lạp, các cộng đoàn dân ngoại, là những người đã trở lại với Chúa để củng cố họ.

Những người dân ngoại trở lại với Thiên Chúa không buộc phải cắt bì. Điều này đã được thông truyền đến với họ ngang qua lá thư, trong đó các Tông đồ nói rằng: ‘Chúa Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định rằng….’ Đây chính là cách thức mà Giáo hội đối mặt với những điều mới mẻ. Không phải những điều mới lạ thuộc kiểu thế trần nhưng là sự đổi mới của Thần Khí, Đấng luôn khiến chúng ta phải ngỡ ngàng vui sướng. Giáo hội đã giải quyết những vấn đề này như thế nào? Giáo hội giải quyết bằng cách ngang qua những buổi gặp gỡ và thảo luận, lắng nghe và cầu nguyện, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Đây chính là cách thức của Giáo hội khi Thánh Thần khiến chúng ta ngạc nhiên bởi những điều mới mẻ. Và chúng ta cũng nhớ lại những chống đối đã phát sinh trong thời gian diễn ra công đồng Vaticano 2.

Những chống đối ấy vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay bằng cách này cách khác. Nhưng Thánh Thần vẫn đi tiên phong. Và cách thức Giáo hội diễn tả sự đồng thuận của mình là ngang qua công nghị với những cuộc gặp gỡ, lắng nghe, trao đổi, cầu nguyện và đưa ra quyết định. Chúa Thánh Thần luôn là nhân vật chính và Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng sợ hãi khi Thánh Thần lên tiếng với chúng ta. Như khi xưa Thánh Thần đã dừng Thánh Phao-lô lại và dẫn ngài đi trên đường ngay nẻo chính, thì Thánh Thần cũng ban cho chúng ta sự can đảm và lòng kiên nhẫn để chúng ta vượt qua những đa dạng, khác biệt và kiên vững trong ơn phúc tử đạo. Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn để hiểu Giáo hội đã hành xử như thế nào trước những đổi mới, ngỡ ngàng mà Thần Khí mang đến. Chúng ta cũng xin ơn được trở nên ngoan ngoãn và đi theo con đường mà Đức Kitô đã mời gọi chúng ta cũng như toàn thể Giáo hội.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

Người thân cận là bất cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta

Người thân cận là bất cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta

ĐTC Phanxicô chào vài thổ dân Da Đỏ Mỹ châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 27-4-2016

Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp. Không phải ai lui tới Nhà Chúa và biết lòng thương xót của Ngài đều biết yêu thương người lân cận đâu.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong số các đoàn hành hương cũng có một đoàn tín hữu Việt Nam do các cha dòng Tên hướng dẫn.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã giải thích ý nghĩa dụ ngôn Người Samaritano nhân hậu, như thánh sử Luca kể trong chương 10. Có một tiến sĩ Luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu xin ông tự trả lời cho mình, và ông trả lời một cách toàn vẹn: “Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí tuệ ngươi, và yêu thương người thân cận như chính mình vậy” (c. 27). Khi đó Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy làm như thế và sẽ sống” (v. 28). Ông này lại đặt một câu hỏi khác, rất quý báu đối với chúng ta: “Ai là người thân cận của tôi?” (c. 29), và ông ta hiểu ngầm: cha mẹ tôi? các người đồng hương của tôi? Các người đồng đạo với tôi?”. Nghĩa là, ông ta muốn có một luật lệ rõ ràng cho phép ông sắp loại các người khác thành những người “thân cận” và “không thân cận”, thành những người có thể trở thành thân cận và những người không thể trở thành thân cận.

Và Chúa Giêsu trả lời ông với một dụ ngôn, có ba nhân vật: một tư tế, một thầy Lêvi và một người Samaritano. Hai gương mặt đầu tiên liên quan tới việc phụng tự trong đền thờ; người thứ ba là một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại và ô uế. Trên đường từ Giêrusalem  xuống Giêricô thầy tư tế và Lêvi gặp một người hấp hối, vì bị cướp đánh và bỏ rơi. Trong các trường hợp như thế Lề Luật của Chúa dự trù bổn phận cứu giúp, nhưng cả hai đi qua mà không dừng lại. Họ vội vã… Thầy tư tế có lẽ đã nhìn đồng hồ và nói: “Tôi đễn trễ lễ… Tôi phải làm lễ”. Và người kia thì nói: “Tôi không biết Luật có cho phép tôi không, bởi vì có máu ở đó và tôi sẽ bị ô uế…” Họ đi một con đường khác và không tới gần.

Và ĐTC rút tiả ra giáo huấn đầu tiên như sau:

Ở đây dụ ngôn cống hiến cho chúng ta một giáo huấn đầu tiên: không phải tự động ai lui tới nhà Thiên Chúa và biết lòng thương xót của Ngài là biết yêu thương người lân cận. Nó không tự đông đâu! Bạn có thể biết toàn sách Thánh Kinh, bạn có thể biết tất cả các chữ đỏ của Phụng Vụ, bạn có thể biết toàn thần học, nhưng từ việc biết không tự động yêu: yêu thương có một con đường khác, cần sự thông minh, nhưng cũng cần một cái gì khác nữa…

Vị tư tế và thầy Lêvi trông thấy, nhưng không biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu. Nhưng không có phụng tự thật, nếu nó không được thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông đó, đến gần người đàn bà đó, đến gần đứa trẻ đó, ông già đó hay bà già đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: chúng ta hãy bước vào trọng tâm của dụ ngôn: người Samaritano, nghĩa là chính người bị khinh miệt này, chính người mà có lẽ không ai sẽ đánh cá gì hết, và cả ông ta cũng có các dấn thân và công việc phải làm,  khi trông thấy người bị thương, ông không bỏ qua như hai người kia, là những người gắn liền với đền thờ, nhưng  mà “cảm thương” (c. 33). Phúc Âm nói thế: “Ông cảm thương”, nghĩa là trái tim, ruột cảm động. Đây là sự khác biệt. Hai người kia “trông thấy”, nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritano đồng điệu với chính con tim của Thiên  Chúa. Thật vậy, sự “cảm thương” là  một đặc tích nòng cốt của lòng thương xót Chúa. Thiên Chúa cảm thương chúng ta. Nó có nghĩa là gì?  Ngài đau khổ với chúng ta, các khổ đau của chúng ta Ngài cảm nhận được. Cảm thương có nghĩa là “đau khổ với”. Động từ ám chỉ ruột máy động và run rẩy trước nỗi đau của con người. Và trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong tất cả lịch sử cứu độ. Nó cũng chính là sự cảm thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta: Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi và trả lời trong tim: “Tôi có tin điều đó không? Tôi có tin rằng Chúa cảm thương tôi, như tôi là không, là người tội lỗi, với biết bao nhiêu vấn đề và biết bao nhiêu sự?” Hãy nghĩ tới điều đó và câu trả lời là: “Có!” Nhưng mỗi người phải nhìn vào con tim mình xem mình có tin vào sự cảm thương này của Thiên Chúa không, của Thiên Chúa nhân hậu, là Đấng đến gần, chữa lành chúng ta, vuốt ve chúng ta. Và nếu chúng ta khước từ Ngài, Ngài chờ đợi: Ngài kiên nhẫn và luôn luôn ở bên cạnh chúng ta.

Người Samaritano hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta. Và ĐTC rút tiả ra thêm một giáo huấn khác:

Tất cả những điều này dậy cho chúng ta biết rằng sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung,  nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn của Chúa.

Kết luận dụ ngôn Chúa Giêsu nêu bật câu hỏi của vị tiến sĩ Luật và hỏi ông: “Ai trong ba người, theo ông, đã là người thân cận của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (c. 36). Sau cùng câu trả lời không thể mập mờ được: “Đó là người đã thương xót ông ta” (v.27). Mở đầu dụ ngôn đối với thầy tư tế và thầy Lêvi người thân cận là kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn đò là người Samaritano đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp các người khác để xem ai là thân cận ai không. Bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai bạn gặp trong cần thiết, và bạn sẽ là người thân cận, nếu trong tim bạn có sự cảm thương, nghĩa là nếu bạn có khả năng đau khổ với người khác.

Dụ ngôn này là một món qua tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: “Hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samaritano nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương  nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khàc nhau. Trong các đoàn nói tiếng Pháp ngài chào tín hữu đến từ các giáo phận Montpellier, Nantes, San Claude và Moulins, do các GM sở tại hướng dẫn. Ngài khuyến khích mọi người đừng thờ ơ trước các khổ đau của tha nhân, nhưng hãy bắt chước người Samaritano nhân hậu cảm thương săn sóc và thoa dịu các khổ đau của họ.

Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Anh, Thuỵ Điển, Slovachia, Trung quốc, Indonesia, Singapore, Sri Lanka, Việt Nam, Philippines, Canada và Hoa Kỳ. Ngài xin Chúa Kitô phục sinh chúc lành cho họ và gia đình họ.

Với các tín hữu A Rập ĐTC chào đoàn hành hương của đại học Thánh Giuse Beirut nhân kỷ niệm 140 năm thành lập. Ngài nhắc cho mọi người biết kitô hữu được mời gọi là dụng cụ hòa giải, đem ơn tha thứ và lòng xót thương của Thiên Chúa tới cho người khác qua các cử chỉ bác ái yêu thương.

  Trong số các nhóm nói tiếng Đức ĐTC chào phái đoàn giáo phận Bolzano Bresanone và các nhóm đến từ Đức, đặc biệt các bạn trẻ và cầu mong họ là các người Samaritano nhân hậu đối với tha nhân.

Trong số các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha ngài chào tín hữu đến từ Zurich, Brasilia, các linh mục giáo phận Serrinha, các nữ tu Phansinh thánh Giuse, và chúc mọi người biết hiến dâng cuộc sống như món quà tình yêu cho tha nhân.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan và Slovachia, ĐTC cầu mong tín hữu noi gương người Samaritano nhân hậu đến với những người nghèo nàn đói khổ, săn sóc gia đình, môi sinh và xứ đạo, và được nhiều ơn Chúa khi bước qua các Cửa Thánh.

Trong số các phái đoàn Ý ĐTC chào tín hữu các giáo phận Chieti-Vasto, Novara, Alessandria, Chiavari và Pavia, do các Giám Mục hướng dẫn; các thừa sai dòng Chúa Cứu Thế; các linh mục giáo sư các đại chủng viện liên hệ với đại học Urbaniana của Bộ Truyền Giáo; và các tham dự viên tuần hội học do đại học Thánh Giá tổ chức.

Chào đông đảo các bạn trẻ ĐTC chúc họ luôn trung thành với bí tích Rửa Tội và hăng say làm chứng cho Chúa. Với người đau yếu ĐTC khích lệ họ biết nhìn lên  Chúa Kitô khổ nạn và dâng mọi khổ đau lên cho Chúa để góp phần mưu cầu ơn cứu rỗi cho mọi người. Sau cùng ngài chào các đôi tân hôn và cầu chúc họ biết thực thi giáo huấn của thánh Phaolô: yêu thương nhau, tha thứ tất cả và chịu đựng tất cả trong cuộc sống thường ngày.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Jean Vanier, người sáng lập các cộng đoàn “Con Tàu” và các nhóm “Đức tin và Ánh Sáng”

Jean Vanier, người sáng lập các cộng đoàn “Con Tàu” và các nhóm “Đức tin và Ánh Sáng”

Jean Vanier

Jean Vanier sinh năm 1928 tại Geneve, trong một gia đình Công giáo Canada gốc Pháp. Thời niên thiếu Jean được hưởng nền giáo dục Anh Pháp ở Canada, và sau đó ở ngay tại Anh và Pháp. Năm 1945, khi cha của Jean trở thành đại sứ Canada tại Pháp, Jean đã có dịp đến Paris. Tại đây, Jean và mẹ của mình đã giúp đỡ những người sống sót trong các trại tập trung của Đức quốc xã. Nhìn thấy các nạn nhân gầy gò, khuôn mặt co quắp vì sợ hãi và đau khổ, là một cuộc gặp gỡ gây ấn tượng sâu sắc mà Jean không bao giờ quên. Sau đó anh tham gia vào Hải quân Hoàng gia Anh và hải quân Hoàng gia Canada. Nhưng anh cảm thấy có một tiếng gọi nội tâm thúc giục anh làm một việc khác, anh từ giã hải quân, trở lại Paris để học đại học và sau đó bảo vệ luận án tiến sĩ triết tại học viện Công giáo Paris và trở thành giáo sư dạy triết tại Toronto.

 

Cuối năm 1963, khi ấy còn là một giáo sư trẻ, Jean đã đến thăm một cơ sở nuôi 80 người bệnh tâm thần. Ông chứng kiến những con người này bị đối xử tàn tệ không ra con người. Ông hiểu đây chính là những người dễ bị thương tổn nhất và muốn thay đổi tình trạng tồi tệ này nhưng không biết làm sao. Ông cảm thấy Chúa muốn ông làm gì đó nhưng không biết bắt đầu thế nào và ở đâu. Và rồi Chúa đã chỉ cho ông con đường, ơn gọi của ông. Ông đã gặp 2 người bị thiểu năng trí tuệ là Raphael và Philip và ông đã mời họ bỏ viện tâm thần nơi họ đang sống để đến sống với ông tại Trosly-Breuil, một làng nhỏ ở miền Bắc nước Pháp, nơi ông vẫn sống cho đến bây giờ.Việc làm của ông là một cuộc cách mạng xuất phát từ đức tin ôm trọn cả nhân loại, vì vào thời gian đó, những người bệnh tâm thần bị hắt hủi bỏ rơi, vì bị coi như sự nhục nhã của gia đình và ngăn trở cho xã hội, bởi vì tật nguyền của họ bị xem như là sự trừng phạt của Thiên Chúa.

 

Cộng đoàn “Arche” – Con Tàu – đầu tiên đã ra đời như thế. Hiện nay phong trào này đã có 140 cộng đoàn rải rác khăp 5 châu, là những nơi mà những người bị xã hội bỏ rơi sống chung với những người tiếp nhận họ. Đầu tiên đây là cộng đoàn Công giáo nhưng dần dần cộng đoàn đón tiếp các bệnh nhận thuộc mọi tôn giáo và chủng tộc. Nghi thức rửa chân được xem như biểu tượng của lãnh đạo phục vụ, hiệp thông và hiệp nhất của những điều khác nhau. Công giáo là phổ quát và Chúa Giê-su đã dạy một tình yêu phổ quát. Mọi người dù thuộc tôn giáo hay sắc tộc nào cũng điều quý giá đối với Thiên Chúa. Jean cũng đã thành lập phong trào “Đức tin và Ánh sáng” với cùng ý tưởng như “Con Tàu”, nơi các người bệnh cùng sống trong các buổi gặp gỡ, tĩnh tâm, nghỉ hè với nhau. Ngày nay đã có 1500 nhóm của phong trào trên khắp thế giới. Ông đã đi khắp thế giới, gặp gỡ các Đức giáo hoàng, các lãnh đạo quốc gia, nhận nhiều giải thưởng, vv.

 

Con đường ngoại thường và hạnh phúc của Jean là con đường khiêm nhường, chia sẻ những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày như đi chợ, dọn nhà cửa gọn gàng, nấu nướng, giữ mối liên hệ  tốt với những người xung quanh, và tất nhiên chữa bệnh. Ông đã tìm ra chân lý trong lời của Chúa Giê-su: khi các con đãi tiệc, đừng mời gia đình, hàng xóm giàu có nhưng mời những người nghèo, người què, đui mù và các con sẽ vui mừng. Niềm vui là dấu hiệu đầu tiên, tài liệu đầu tiên của Lòng Thương xót. Những người có hoàn cảnh khó khăn, bao lực cũng đến với cộng đoàn “Con tàu”. Lịch sử của “Con tàu” không phải là dễ dàng, nhưng Lòng Thương Xót đã đồng hành với ông trong cuộc sống, giúp cho công việc phát triển tốt đẹp.

 

Ông Jean nghĩ đến Đức Giáo hoàng Phanxicô, người đã bao lần mời gọi đi đến các biên cương của sự hiện hữu, mời gọi đến với những người nghèo để gặp gỡ họ và học từ họ. Theo ông, những người nghèo, khiêm nhường, bên lề xã hội, hay lạc đường, họ có  trái tim thánh thiện và rộng mở. Điều họ cần và khao khát là biết có người yêu thương họ. Chỉ có điều này đủ sức đổi ngược sự nhát sợ, ý nghĩ mình không có giá trị, sự chán ghét chống lại Thiên Chúa và chống lại chính mình. Điều tuyệt vời là không chỉ chúng ta thay đổi những người bệnh nhưng chính họ cũng giúp chúng ta thay đổi. Chúng ta thay đổi người khác là giúp họ trở nên giống người và giống Chúa Giê-su hơn. Ông hy vọng người ta khám phá ra là những người khuyết tật là những người đáng yêu và không phải chỉ là làm những gì cho họ nhưng còn trở thành bạn thật sự của họ.

 

Ngày 15 tháng 3 vừa qua Jean Vanier đã được công bố là người đạt giải thưởng Templeton năm 2015. Đây là giải thưởng được thành lập năm 1972 nhằm vinh danh những người đã có những đóng góp đặc biệt để khẳng định chiều kích thiêng liêng, qua những ý tưởng, những khám phá, hoặc các hoạt động thực tế. Số tiền 1.7 triệu Mỹ kim được ông dành tặng cho mạng lưới cộng đoàn “Con Tàu”, vì theo ông, nhờ các cộng đoàn này ông mới được vinh danh ở giải thưởng này, và để các cộng đoàn có thể tiếp tục công việc thay đổi trái tim con người và đưa nhiều người đến với Chúa Giê-su. (Tracce 03/2016)

 

Hồng Thủy OP

 

Các Giám mục Ấn độ yêu cầu Thủ tướng mời Đức Thánh Cha thăm Ấn độ

Các Giám mục Ấn độ yêu cầu Thủ tướng mời Đức Thánh Cha thăm Ấn độ

Đức Hồng Y Baselios Cleemis - Ấn Độ

New Delhi, Ấn độ – Các vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo yêu cầu Thủ tướng Narenda Modi của Ấn độ mời Đức Thánh cha Phanxicô thăm Ấn độ.

Phái đoàn các Giám mục do Đức Hồng Y Baselios Cleemis, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn độ dẫn đầu đã đến gặp Thủ tướng Modi chiều hôm qua 26/4 tại văn phòng của Thủ tướng. Phái đoàn cũng có Đức cha Tổng thư ký Theodore Mascarenhas và Đức cha Joesph Chinnayyan, phó Tổng thư ký. Các Giám mục đã yêu cầu Thủ tướng Modi mời Đức Thánh cha Phanxicô thăm Ấn độ vào một thời điểm thuận tiện cho cả chính quyền Ấn độ và cho Tòa Thánh. Các ngài cũng mời thủ tướng dẫn đầu đoàn chính phủ Ấn độ về Roma tham dự Thánh lễ phong thánh cho Mẹ Têrêsa vào ngày 4/9 tới đây.

Thủ tướng Modi đã bảo đảm là sẽ xem xét lời mời của các Giám mục về Roma dự lễ phong thánh cho Mẹ Têrêsa và sẽ thảo luận với các cộng sự viên cách thức tốt nhất cho một cuộc viếng thăm Ấn độ của Đức Thánh cha Phanxicô.

Phái đoàn các Giám mục đã cám ơn Thủ tướng về những hoạt động của chính phủ trong việc giải thoát cho cha Tom Uzhunnalil dòng Don Bosco, đã bị bắt cóc trong ở Yemen vào ngày 4/3 năm nay và hiện vẫn còn trong tay những kẻ bắt cóc. Các Giám mục cũng khen ngợi chính phủ Ấn độ về việc thăng tiến các điều kiện sống của hàng triệu nông dân trong những vùng hoang dã. Cuối cùng, các ngài đã khẳng định sự ủng hộ, cộng tác và tham dự mạnh mẽ vào các sáng kiến của chính phủ hiện hành để xây dựng một đất nước Ấn độ tốt đẹp hơn.

Đức cha Mascarenhas, Tổng Giám mục Ranchi, cho hãng tin Asia News biết, đây là một cuộc gặp gỡ thân thiện. Thủ tướng đã nhắc lại các hoạt động của Giáo hội Công giáo trong lãnh vực giáo dục ở Baroda, nơi ông đứng đầu chính phủ từ năm 2001-2004, và bảo đảm sự trợ giúp của ông để xây bệnh viện ở Ranchi. Đức cha Mascarenhas cũng là người bảo lãnh chính cho việc xây dựng bệnh viện của tổng giáo phận Ranchi, nơi sẽ cung cấp dịch vụ chữa trị y tế cho các người nghèo và các bộ lạc. (Asia News/ Fides 26/4/2016)

Hồng Thủy OP

Hôn nhân là dấu chỉ sự gần gũi của Thiên Chúa trong xã hội cạnh tranh Singapore

Hôn nhân là dấu chỉ sự gần gũi của Thiên Chúa trong xã hội cạnh tranh Singapore

Thánh đường tại Singapore

Singapore – "Trong hôn nhân chúng ta có khuynh hướng dựa trên chính sức của mình, nhưng rồi chúng ta trở nên mệt mỏi và bị làm cho mệt mỏi. Điều này xảy ra vì chúng ta quên rằng Thiên Chúa có thể làm tất cả và luôn ở bên cạnh chúng ta.” Đó là lời của bà Ramona Olsen, một bà mẹ của gia đình, đã kể lại các khó khăn bà đã gặp trong cuộc sống với chồng của bà trong một buổi gặp gỡ để giúp các đôi hôn nhân do Ủy ban gia đình của Tổng giáo phận Singapore tổ chức.

Sự kiện này nằm trong khuôn khổ diễn đàn về các thách thức mà các gia đình Singapore gặp phải trong một xã hội cạnh tranh quá mạnh, hầu như người ta chỉ tập trung vào công việc và sản phẩm. Buổi đầu tiên diễn ra vào ngày 19 tháng 3 vừa qua và chương trình sẽ kết thúc vào ngày 21 tháng 5 tới đây. Trong dịp này, nhiều cặp vợ chồng sẽ mừng kỉ niệm hôn phối và một số Linh mục cũng kỉ niệm ngày thụ phong Linh mục.

Cyrine Gregory, điều phối viên của sáng kiến này, giai thích vai trò của các tín hữu Công giáo đối với người trẻ, những người luôn luôn ít được các bậc cha mẹ hỗ trợ trong việc chọn lựa kết hôn và có con. Bà nói: “chúng tôi được mời gọi là một tiếng nói khác trong xã hội, đi ngược lại với văn hóa. Chúng tôi cần phải mang tình yêu Thiên Chúa, tình yêu chữa lành, đến với tất cả các cuộc hôn nhân và tất cả các gia đình đang đau khổ.”

Buổi họp mặt ngày 16 tháng 4 do cha Terence Pereira, đại diện Giám mục về Loan báo Tin Mừng, hướng dẫn. Cha đã nói về tầm quan trọng của sự gặp gỡ cá nhân của mỗi người với Chúa Ki-tô như là một nền tảng giúp các gia đình đang gặp khó khăn. Cha đã lưu ý đến tình trạng hôn nhân ở Singapore mà từ vài năm nay đã trở nên ngắn ngủi với số vụ ly dị gia tăng. Theo cha, có tới 7000 vụ ly dị trên tổng số khoảng 21 ngàn đám kết hôn hàng năm. Để thay đổi tình trạng này, các Ki-tô hữu phải trở nên giống như “bụi gai trong sách Xuất hành, bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi.”

Có trên 200 ngàn tín hữu Công giáo ở Singapore, chiếm 5% dân số. Giáo hội địa phương là một Giáo hội tăng triển và năng động. (Asia News 27/4/2016)

Hồng Thủy OP

Bị đuổi khỏi trường vì từ chối tư vấn cho các cặp đồng tính

Bị đuổi khỏi trường vì từ chối tư vấn cho các cặp đồng tính

Học sinh đồng tính

Springfield, Missouri – Một cựu học sinh về tư vấn đã bị đuổi khỏi trường vì đã nói là anh ta sẽ giới thiệu các đôi đồng tính đến một nhà tư vấn khác, vì lý do đức tin Ki-tô giáo của anh.

Andrew Cash bị loại khỏi chương trình cao học ngành tư vấn của trường đại học sau khi cố vấn của anh tuyên bố việc anh từ chối tư vấn cho các cặp đồng tính và thay vào đó là giới thiệu họ đến các nhà tư vấn khác là phi đạo đức. Anh đang tìm cách trở lại chương trình học bằng cách kiện lại ban giám hiệu của trường đại học bang Missouri. Hiệp hội Thomas More có trụ sở tại Chicago đã đệ đơn kiện nhân danh Cash. Đơn kiện cáo buộc rằng Cash đã bị “trừng phạt vì bày tỏ quan điểm tôn giáo của mình”, cho rằng chương trình tư vấn đối xử với anh khác hơn so với các học sinh khác “bởi vì anh là một Kitô hữu và vì đức tin Kitô giáo của anh.”

Cash gần hoàn tất chương trình tại trường đại học bang Missouri vào tháng 1/2011 khi anh tìm cách hoàn thành yêu cầu thực tập của chương trình. Anh đã chọn thực tập tại Học viện Hôn nhân và gia đình Springfield. Đại học đã chấp thuận cơ sở tư vấn Ki-tô giáo như là một nơi thực tập. Cash đã xin giám sát viên thực tập của anh ở học viện để nói chuyện với lớp học của anh về tư vấn Kitô giáo, với sự chấp thuận của vị hướng dẫn. Cố vấn trưởng của học viện này nói rằng tổ chức này có thể nói với khách hàng về các giá trị và thực hành Kitô giáo.

Trong phần trình bày, vị cố vấn đã trả lời các câu hỏi về việc chữa trị cho các khách hàng đồng tính của Học viện. Học viện khuyên các khách hàng này cách cá nhân nhưng muốn các cặp đồng tính cần những liên hệ tư vấn đến với các vị cố vấn mà quan điểm tôn giáo của họ phù hợp hơn với mục đích của họ. Một học sinh đã phàn nàn với vị cố vấn của phân khoa về vấn đề này và vị này đã đặt vấn đề với Cash.

Cash nói anh đồng ý là anh không thể tư vấn cho các cặp đồng tính nhưng có thể giới thiệu họ đến một vị tư vấn khác có thể giúp họ cách tốt nhất. Cố vấn của phân khoa nói là quan điểm của Cash sẽ vi phạm luật luân lý của Hiệp hội tư vấn Hoa kỳ, kết án hành động của Cash tạo nên sự đối xử phân biệt chống lại những người đồng tính.

Theo Hiệp hội Thomas More, cố vấn phân khoa ra lệnh cho Cash dừng việc thực tập ở Học viện và nói với Học viện là nó không còn là một nơi thích hợp cho một thực tập sinh. Sau đó, trường đại học đã xóa các giờ thực tập của Cash tại Học viện.

Khi Cash tìm một nơi thực tập khác, cố vấn của anh yêu cầu anh phải đạt một số tiêu chuẩn thích hợp. Sau đó vị cố vấn này đã báo cáo cho văn phòng phân khoa và tuyên bố là dường như sinh viên Cash không từ bỏ quan điểm tôn giáo của anh và sự ủng hộ của anh với Học viện trên. Bà đề nghị là  Cash nên bị đặt vào số cần khắc phục. Các viên chức Đại học đồng ý và đặt ra cho anh một số yêu cầu. Cash bị khai trừ khỏi chương trình vào tháng 11/2014.

Năm 2009, một trường hợp tương tự cũng xảy ra ở Đại học Đông Michigan. Sinh viên tư vấn Julea Ward được yêu cầu là cô phải cố vấn cho một khách hàng có quan hệ đồng tính chứ không được đề nghị cho họ một vị tư vấn khác. Cô nói cô không thể xác định một quan hệ ngược với đức tin của mình và do đó cô đã bị một ủy ban duyệt xét trục xuất khỏi trường đại học. (Catholic News Service 26/4/2016)

Hồng Thủy OP