Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

Tòa Thánh mời gọi các tín hữu Ấn Giáo cộng tác chống văn hóa loại trừ

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn mời gọi các tín hữu Ấn giáo cộng tác để thăng tiến nền văn hóa bao gồm và chống lại nền văn hóa loại trừ.

Trên đây là nội dung sứ điệp của Hội Đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn công bố hôm 20-10-2014, để chúc mừng các tín hữu Ấn giáo trên thế giới nhân lễ Deepavali, là lễ ánh sáng siêu việt, sẽ được cử hành vào ngày 23-10-2014. Sứ điệp mang chữ ký của ĐHY Chủ tịch Jean Louis Tauran và vị Tổng thư ký là Cha Mighuel Ángel Ayuso Guixot, người Tây Ban Nha, viết:

”Đứng trước tình trạng gia tăng kỳ thị, bạo lực và loại trừ ở các nơi trên thế giới, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm có thể được coi như một trong những khát vọng chân thành nhất của dân chúng ở mọi nơi”.

Sứ điệp của Tòa Thánh nhìn nhận có những điều tích cực do sự hoàn cầu hóa mang lại cho thế giới, mở ra những biên cương mới, cung cấp những cơ hội phát triển, cơ may giáo dục và săn sóc sức khỏe tốt đẹp hơn, nhưng sự hoàn cầu hóa hiện nay chưa đạt được đối tượng chủ yếu là hội nhập dân chúng địa phương vào cộng đồng hoàn cầu. Đúng hơn, hoàn cầu hóa đã góp một phần lớn làm cho nhiều dân tộc đánh mất căn tính xã hội văn hóa, kinh tế và chính trị của mình.

”Những công hiệu tiêu cực của sự hoàn cầu hóa cũng ảnh hưởng tới các cộng đồng tôn giáo trên thế giới, vì các tôn giáo có liên hệ mật thiết với các nền văn hóa xung quanh. Hoàn cầu hóa góp phần làm phân hóa xã hội, gia tăng trào lưu duy tương đối, tôn giáo hỗn hợp và tư nhân hóa tôn giáo. Trào lưu tôn giáo cực đoan cũng như những xung đột về chủng tộc, bộ tộc và phe phái ở các nơi trên thế giới ngày nay phần lớn là những biểu hiện sự bất mãn, bất an và bấp bênh nơi dân chúng, nhất là những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, không được hưởng những thiện ích của sự hoàn cầu hóa.

Hội đồng Tòa Thánh cũng nhận xét rằng ”Những hậu quả tiêu cực của sự hoàn cầu hóa như sự lan tràn trào lưu duy vật và duy tiêu thụ làm cho dân chúng vị kỷ hơn, khao khát quyền lực và dửng dưng đối với các quyền, nhu cầu và đau khổ của người khác. Nói theo lời của ĐGH Phanxicô, đó là ”hoàn cầu hóa sự dửng dưng” khiến chúng ta dần dần lãnh đạm đối với những đau khổ của người khác và khép kín vào mình (Sứ điệp Ngày Hòa bình thế giới 2014). Sự dửng dưng ấy tạo nên nền văn hóa loại trừ, trong đó người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề và dễ bị tổn thương, bị chối bỏ các quyền lợi cũng như cơ may và tài nguyên mà các thành phần khác trong xã hội được hưởng..”

Sứ điệp của Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn kết luận rằng ”Vì thế, việc nuôi dưỡng một nền văn hóa bao gồm trở thành một lời kêu gọi chung và là một trách nhiệm chung mà chúng ta cần cấp thiết lãnh nhận. Đó là một dự phóng bao gồm những người quan tâm đến sự khỏe và sự sống còn của gia đình nhân loại trên trái đất này và cần được thi hành, mặc dù có những thế lực kéo dài nền văn hóa lại trừ” (SD 20-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

Lễ phong chân phước cho Đức Phaolô 6 và bế mạc Thượng HĐGM thế giới

VATICAN. Sáng chúa nhật 19-10-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong ĐGH Phaolô 6 lên bậc chân phước đồng thời bế mạc Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 sau 2 tuần tiến hành với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Paul VI PP

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu thật đẹp, có gần 200 nghị phụ, hàng trăm Hồng Y và GM Italia và các nước khác về dự lễ phong chân phước, và gần 1 ngàn linh mục ngồi trong khu vực riêng trước thềm Đền thờ. Đặc biệt lúc 10 giờ sáng, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16, trong phẩm phục đồng tế, tiến ra lễ đài và ngồi nơi hàng ghế cạnh các Hồng y đồng tế. Các tín hữu đã vỗ tay nồng nhiệt chào đón ngài.

Khi tiến ra bàn thờ, ĐTC Phanxicô đã đến chào vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM và có thêm 4 vị GM, Hồng Y có liên hệ đặc biệt với vị tân chân phước, đó là ĐGM giáo phận Brescia nguyên quán của Đức Phaolô 6, ĐHY Scola kế nhiệm Người trong chức vụ TGM Milano, ĐHY Re cùng thuộc giáo phận Brescia và sau đùng là ĐHY Vallini giám quản Roma.
Áo lễ ĐTC Phanxicô mặc cũng là áo lễ ĐGH Phaolô 6 nhận được trong dịp ngài mừng sinh nhật thứ 80 và chén lễ cũng là chén mà Đức Phaolô 6 đã dùng.

Trong số các tín hữu hiện diện trong thánh lễ, đặc biệt có 3 ngàn tín hữu từ giáo phận Milano và 5.300 người khác từ giáo phận Brescia của Đức chân phước Giáo Hoàng, trong khi các chủng sinh của hai giáo phận này đảm nhận việc giúp lễ.

Đầu thánh lễ, sau kinh thương xót, Đức Cha Monari, GM giáo phận Brescia, cùng với Cha Antonio Marrazzo, dòng Chúa Cứu Thế là thỉnh nguyện viên án phong, đã tiến lên trước ĐTC xin ngài tiến hành việc phong chân phước cho Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6, Giáo Hoàng. Trong dịp này, tiểu sử của Đức Phaolô 6 cũng được trình bày.
Tóm lược tiểu sử vị tân chân phước

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 tên là Giovanni Battista Montini, sinh cách đây 117 năm (26-9 năm 1897) tại làng concesio, giáo phận Brescia, bắc Italia. Thân phụ ngài vốn là một luật sư, làm chủ báo ”Công dân Brescia” (Il Cittadino di Brescia) và sau này làm đại biểu của 3 khóa quốc hội thuộc đảng nhân dân Italia.

Thầy Montini thụ phong linh mục năm 1920, lúc mới 23 tuổi, tốt nghiệp triết học và dân luật ở Roma, và giáo luật ở Milano. Gia nhập trường ngoại giao Tòa Thánh rồi năm 1923 được gửi đi làm tùy viên ở Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Varsava, thủ đô Ba Lan. Nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe yếu, cha trở về Roma và phục vụ tại Phủ quốc vụ khanh và dần dần được giao phó nhiều trách nhiệm hơn. Đồng thời cha cũng làm tuyên úy cho liên hiệp các sinh viên đại học Công Giáo Italia. Cha cố gắng giúp các sinh viên Công Giáo thấm nhuần các giá trị để có thể kháng cự lại ảnh hưởng của phong trào sinh viên phát xít. Cha cũng dạy về lịch sử ngành ngoại giao Tòa Thánh tại Giáo Hoàng đại học Laterano ở Roma.

Sau 28 năm phục vụ tại Vatican, cuối tháng 11 năm 1952, cha Montini được Đức Giáo Hoàng Piô 12 bổ làm Quyền Quốc vụ khanh Tòa Thánh đặc trách thường vụ, và 2 năm sau ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Milano là giáo phận lớn nhất tại Âu Châu.

Đức TGM Montini dành trọn 8 năm để tái thiết và tổ chức lại giáo phận Milano bấy giờ đang ở trong tình trạng rất khó khăn và bấp bênh về kinh tế cũng như do hiện tượng di cư từ miền nam Italia, sự lan tràn chủ nghĩa vô thần và mác xít nơi giới lao động. Đức Montini tìm kiếm sự đối thoại và hòa giải với mọi lực lượng xã hội và khởi sự công trình Kitô hóa thực sự nơi giới công nhân, nhất là qua hiệp hội công nhân Công giáo Italia, gọi tắt là Acli.
Sau khi ĐGH Gioan 23 qua đời hồi tháng 6 năm 1963, ĐHY Montini được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài là vị giáo hoàng cuối cùng đội triều thiên 3 tầng; và 5 tháng sau, ngài long trọng đặt triều thiên này trên bàn thờ ở Đền thờ Thánh Phêrô như một dấu chỉ từ bỏ ”vinh quang và quyền lực phàm nhân”.

Đứng trước một thực tại xã hội ngày càng có xu hướng tách rời khỏi linh đạo, và bị tục hóa, đứng trước một quan hệ khó khăn giữa Giáo Hội và thế giới, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã luôn biết chứng tỏ đâu là những con đường đức tin và nhân đạo, qua đó có thể tiến tới một sự cộng tác liên đới với nhau để mưu công ích.
Ngài cố gắng duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo, trước sự kiện một đàng phe siêu bảo thủ tố giác ngài là cởi mở thái quá, nếu không muốn nói là theo phe duy tân, và đàng khác có những phe giáo sĩ gần gũi với các chủ trương xã hội chủ nghĩa, thì phê bình ĐGH là bất động.

Đức Phaolô 6 đã mở đầu thói quen viếng thăm mục vụ tại các đại lục từ Thánh Địa với cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Chính Thống Athenagoras, cho tới Ấn độ, LHQ, Fatima, Thổ nhĩ kỳ, Colombia, Genève và Uganda, Viễn Đông, Australia và Đại dương châu, và rất nhiều cuộc viếng thăm khác ở Italia.
Ngài công bố 7 thông điệp, bắt đầu là thông điệp Ecclesiam Suam cách đây đúng 50 năm, và sau cùng là thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, về hôn nhân và điều hòa sinh sản.
Đức Phaolô 6 đã áp dụng các giáo huấn của Công đồng và tiếp tục công trình canh tân Giáo Hội, thiết lập Ngày Hòa Bình thế giới. Ngài cũng chịu đau khổ nhiều vì cuộc khủng hoảng nơi các chi thể của thân mình Giáo hội và đáp lại bằng sự can đảm thông truyền đức tin, bảo đảm đạo lý chắc chắn trong một thời kỳ có nhiều đảo lộn ý thức hệ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 qua đời ngày 6-8-1978 tại Castel Gandolfo, sau một cơn bệnh ngắn, hưởng thọ 81 tuổi.
Sau khi ĐTC đọc công thức phong chân phước, thánh tích của Đức Phaolô 6 được nữ tu Giacomina Padrini, cùng với nước người cầm hoa nến tháp tùng rước lên bàn thờ. Thánh tích này là một mảnh áo của Đức Phaolô 6 bị thấm máu vì ngài bị mưu sát ngày 28-11 năm 1970 trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Manila, Philippines.
Bài giảng của ĐTC

”Chúng ta vừa nghe một trong những câu thời danh nhất trong toàn Tin Mừng: ”Vậy hãy trả lại cho Cesar điều gì thuộc về Cesar, và trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Trước sự khiêu khích của những người Biệt Phái, là những người có thể nói là muốn khảo hạch Chúa Giêsu về đạo và kéo vào chỗ sai lầm, Ngài trả lời bằng một câu nói mỉa mai và khéo léo ấy. Đó là một câu trả lời hiệu nghiệm mà Chúa gửi cho tất cả những người đặt vấn đề lương tâm, nhất là khi có liên quan tới lợi lộc, của cải và uy tín, quyền hành và danh tiếng của họ. Và điều này vẫn luôn xảy ra trong mọi thời đại.

Chắc chắn điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là phần hai trong câu nói: ”Và hãy trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa”. Điều này có nghĩa là – đứng trước bất kỳ loại quyền bính nào – cần nhìn nhận và tuyên xưng rằng chỉ một mình Thiên Chúa là chúa tể của loài người, và không có ai khác. Đây là một sự mới mẻ ngàn đời cần phải tái khám phá mỗi ngày, vượt thắng sự sợ hãi mà nhiều khi chúng ta cảm thấy trước những điều ngạc nhiên về Thiên Chúa.

Chúa không sợ những điều mới mẻ! Vì thế, Ngài liên tục làm cho chúng ta ngạc nhiên, mở ra và dẫn đưa chúng ta vào những con đường chưa được nghĩ tới. Chúa đổi mới chúng ta, nghĩa là liên tục làm cho chúng ta 'trở nên mới'. Một Kitô hữu sống Tin Mừng là ”một sự mới mẻ của Thiên Chúa” trong Giáo Hội và trong thế giới. Và Thiên Chúa yêu mến ”sự mới mẻ ấy” dường nào! ”Hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là cởi mở đối với Thánh Ý Chúa và tận hiến cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và cộng tác vào Nước từ bi, yêu thương và an bình của Ngài.

Đây chính là sức mạnh đích thực của chúng ta, là men khơi dậy sức mạnh và là muối mang lại hương vị cho mỗi cố gắng của con người chống lại thái độ bi quan thịnh hành mà thế giới đang đề nghị cho chúng ta. Đây chính là niềm hy vọng của chúng ta vì niềm hy vọng nơi Thiên Chúa không phải là một sự trốn chạy thực tại, không phải là một cớ thoái thác: đó là hoạt động trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài. Chính vì điều này mà Kitô hữu nhìn thực tại tương lai, thực tại của Thiên Chúa, để sống trọn vẹn cuộc sống – với đôi chân đặt vững trên mặt đất – và can đảm đáp lại vô số những thách đố mới.

Chúng ta đã thấy điều này trong trong những ngày Thượng HĐGM khóa đặc biệt – Sinodo có nghĩa là đồng hành. Thực vậy, các vị chủ chăn và giáo dân từ các nơi trên thế giới đã mang đến Roma này tiếng nói các Giáo hội địa phương của họ để giúp các gia đình ngày nay tiến bước trên con đường Tin Mừng, với cái nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu. Đó là một kinh nghiệm lớn trong đó chúng ta đã sống công nghị tính và cộng đoàn tính và chúng ta đã cảm thấy sức mạnh của Chúa Thánh Linh hướng dẫn và luôn canh tân Giáo Hội, Giáo Hội không ngừng được kêu gọi mau mắn chữa trị các vết thương rướm máu và khơi lên niềm hy vọng cho bao nhiêu người không có hy vọng.
Vì hồng ân Thượng HĐGM này và vì tinh thần xây dựng mà mọi người mang lại, cùng với thánh Phaolô Tông Đồ: ”chúng ta hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa cho tất cả anh chị em, nhắc nhớ anh chị em trong kinh nguyện của chúng tôi” (1 Ts 1,2). Và Chúa Thánh Linh, trong những ngày làm việc này, đã ban cho chúng ta quảng đại hoạt động với tinh thần tự do đích thực và với tinh thần sáng tạo khiêm tốn, xin Chúa tháp tùng hành trình, trong các Giáo Hội trên toàn trái đất, chuẩn bị chúng ta tiến hành Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ vào tháng 10 năm 2015. Chúng ta đã gieo vãi và chúng ta sẽ còn tiếp tục gieo vãi trong kiên nhẫn và kiên trì, chắc chắn rằng Chúa sẽ làm tăng trưởng điều mà chúng ta đã gieo vãi (1 Cr 3,6).

Chân phước Phaolô 6

Trong ngày phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 hôm nay, tôi nhớ đến những lời của Người, khi thành lập Thượng HĐGM: ”Khi chú ý xem xét những dấu chỉ thời đại, chúng ta tìm cách thích ứng cuộc sống và các phương pháp .. với những nhu cầu gia tăng ngày nay và với những hoàn cảnh biến đổi của xã hội” (Tông thư Tự Sắc Apostolica sollicitudo).

Đối với vị Đại Giáo Hoàng, là Kitô hữu can đảm và là tông đồ không biết mệt mỏi này, trước Thiên Chúa ngày hôm nay, chúng ta chỉ có thể nói một lời rất đơn sơ cũng như lời chân thành và quan trọng này: cám ơn Người! Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 yêu quí và được yêu mến của chúng con! Cám ơn vì chứng tá khiêm tốn và ngôn sứ của Người về lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội!

Trong nhật ký riêng, Vị Đại Hoa Tiêu của Công đồng này, sau khi bế mạc Công đồng đã ghi chú: ”Có lẽ Chúa đã gọi tôi và ủy cho tôi công tác phục vụ này không phải vì tôi có tài năng nào đó, hoặc để tôi cai quản và cứu vãn Giáo Hội khỏi những khó khăn hiện nay, nhưng để tôi chịu đau khổ cách nào đó vì Giáo Hội, và để rõ ràng là Chúa, chứ không ai khác, là vị đang hướng dẫn và cứu vãn Giáo Hội” (P. Macchi, Paolo VI nella sua Parola, Brescia 2001, pp.. 120-121). Trong sự khiêm tốn sáng ngời này, sự cao cả của Chân Phước Phaolô 6 đã biết hướng dẫn một cách khôn ngoan và sáng suốt tay lái con thuyền Phêrô mà không bao giờ đánh mất niềm vui và tín thác nơi Chúa, giữa lúc một xã hội tục hóa và thù nghịch đang xuất hiện ở chân trời.

Đức Phaolô 6 thực sự đã biết trả lại cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa khi dành trọn cuộc đời của Người cho ”sự dấn thân thánh thiêng, trọng đại và rất quan trọng: đó là tiếp tục trong thời gian và mở rộng sứ mạng của Chúa Kitô trên trái đất” (Bài Giảng lễ đăng quang: Insegnamenti I, 1963, p.26), bằng cách yêu mến Giáo Hội và hướng dẫn Giáo Hội để ”Giáo Hội đồng thời là người mẹ yêu thương của tất cả mọi người và là ngừơi ban phát ơn cứu độ” (Thông điệp Ecclesiam Suam, Lời Tựa).

Ý nguyện và kinh Truyền Tin

Trong các ý nguyện được xướng lên trong phần lời nguyện giáo dân có lời cầu xin Chúa thánh hóa sự kết hiệp của các đôi vợ chồng Kitô bằng ơn thánh sự hiện diện của Chúa và xin Chúa cho phẩm giá của các trẻ em và người già được bảo vệ trong mỗi gia đình; xin Chúa làm cho mọi người được biết sự khôn ngoan của thập giá Chúa nhờ chứng từ của các vị tử đạo và những người bị bách hại; xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và tất cả những kẻ cường quyền từ bỏ con đường oán hận và chiến tranh.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Ngài chào thăm các tín hữu hành hương từ Italia và nhiều nước, cũng như các phái đoàn chính thức, và đặc biệt là các tín hữu từ các giáo phận Brescia, Milano và Roma có liên hệ đặc biệt tới cuộc sống và sứ vụ của ĐGH Montini.

ĐTC cũng nói rằng ”Đức tân Chân phước là người hăng say nâng đỡ sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại, bằng chứng đặc biệt là Tông Huấn Evangelii nuntiandi của Người, qua đó Người muốn thức tỉnh đà tiến và sự dấn thân cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Cần đặc biệt để ý đến khía cạnh này trong triều đại Giáo Hoàng của Đức Phaolô 6, nhất là hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế Giới Truyền giáo.

ĐTC không quên đề cao lòng sùng kính sâu xa của Đức Chân Phước Phaolô 6 đối với Đức Mẹ. Dân Kitô giáo luôn biết ơn vị Giáo Hoàng này vì Tông Huấn Marialis cultus về lòng tôn sùng Đức Mẹ và vì đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội nhân dịp bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

Kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình

VATICAN. Bản tường trình chung kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục đặc biệt về gia đình đã được thông qua và công bố chiều tối thứ bẩy, 18-10-2014.

Trong phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng, trước sự hiện diện của ĐTC, các nghị phụ đã thông qua Bản tường trình gồm 62 đoạn được đánh số theo thứ tự và được các nghị phụ bỏ phiếu từng đoạn.

Có một số đoạn gây nhiều tranh luận, tuy được thông qua, nhưng không đạt tới mức 2 phần 3 số phiếu. Ví dụ đoạn số 41 nói về việc nhận cho những người ly dị tái hôn dân sự được rước lễ còn bị tranh luận nhiều nhất với 104 phiếu thuận và 74 phiếu chống. Còn đoạn số 55 nói về việc đón nhận những người có xu hướng đồng tính luyến ái, tuy có thay đổi văn bản, và trích dẫn Sách Giáo Lý chung của Hội Thánh Công Giáo nhưng chỉ được 118 phiếu thuận và 62 phiếu chống.

Đoạn số 51 về tình trạng những người ly dị tái hôn cần được săn sóc mục vụ, được thông qua với 155 phiếu thuận và 19 phiếu chống.

Trước tình trạng một số đoạn không có sự đồng thuận của Thượng HĐGM, tuy được đa số phiếu quá bán, nhưng không được đa số 2 phần 3 như thế, ĐTC Phanxicô quyết định vẫn để cho toàn bộ bản tường trình thuộc văn kiện tạm thời và gửi đến các Giáo Hội địa phương để chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ thứ 14 vào tháng 10 năm tới. Ngài cũng cho phép để công chúng, qua các ký giả, được biết mỗi đoạn được bao nhiêu phiếu, để hiểu mức độ đồng thuận của các nghị phụ về từng điểm.

Diễn văn bế mạc

Trong diễn văn bế mạc, sau khi cám ơn các vị trong Văn phòng Tổng thư ký và các vị điều hành khóa họp này cũng như tất cả các nghị phụ, dự thính viên, chuyên viên và cộng tác viên, ĐTC nói:

”Tôi có thể nói một cách thanh thản rằng – với một tinh thần toàn thể tính và công nghị tính – chúng ta đã thực sự sống kinh nghiệm ”Sinodo”, một hành trình liên đới, đồng hành.

Vì là một hành trình – và cũng như mọi cuộc hành trình, đã có những lúc chạy nhanh, hầu như một thắng thời gian và đạt tới đích sớm nhất có thể; có những lúc khác mệt mõi, hầu như muốn nói 'đủ rồi'; có những lúc hăng say phấn khởi. Có những lúc an ủi sâu xa khi nghe chứng tử của các vị mục tử đích thực (Xc Ga 10 và GL 375, 386,387) mang trong con tim một cách khôn ngoan những vui mừng và nước mắt của các tín hữu. Những lúc an ủi và ân phúc, được khích lệ khi nghe những chứng từ của cac gia đình đã tham gia Thượng HĐGM và đã chia sẻ với chúng ta vẻ đẹp và niềm vui đời sống hôn nhân của họ. Một hành trình trong đó người mạnh nhất cảm thấy nghĩa vụ phải giúp đỡ những người yếu nhất, trong đó người giải nhất sẵn sàng giúp đỡ những người khác, kể cả qua những lúc đụng độ với nhau. Và vì là một hành trình của con người, có những an ủi nhưng cũng có những lúc buồn chán, căng thẳng và cám dỗ.

ĐTC đã kể ra một số cám dỗ có thể có:

– Thứ I là cám dỗ cứng nhắc đố kỵ, nghĩa là muốn khép kín trong chữa viết chứ không để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, Thiên Chúa của những ngạc nhiên, là tinh thần; khép kín trong luật lệ, trong sự chắc chắn về những gì chúng ta biết chứ không phải về những điều mà chúng ta còn phải học và đạt tới. Từ thời Chúa Giêsu, đó là cám dỗ của những người nhiệt thành, những người bối rối, những người ân cần và của những người ngày nay gọi là duy truyền thống (traditionalisti) và cả những người duy trí thức.

– Cám dỗ của những người xuề xòa hủy hoại, nhân danh lòng từ bi đánh lừa, băng bó các vết thương trước khi chữa trị, xức thuốc cho nó; họ chữa trị các triệu chứng mà không chữa nguyên nhân và căn cội. Đó là cám dỗ của những người dễ dãi, những người nhát sợ và cả những người gọi là ”cấp tiến và duy tự do”.

– Cám dỗ muốn biến đá thành bánh, để chấm dứt cuộc ăn chay lâu dài, nặng nề và đau thương (Xc Lc 4,1-4) và biến bánh thành đá, để ném vào những ngừơi tội lỗi, những người yếu đuối và bệnh nhân (Xc Ga 8,7) nghĩa là biến nó thành ”những gánh nặng không thể vác nổi” (Lc 10,27).

– Cám dỗ xuống khỏi thập giá, để làm hài lòng dân, chứ không ở lại trên thập gia để thi hành thánh ý Chúa Cha; khuất phục tinh thần trần thế thay vì thanh tẩy nó và làm cho nó tùng phục Thánh Linh của Thiên cHúa.
– Cám dỗ lơ là đối với kho tàng đức tin, coi mình không phải là người bảo quản nhưng là sở hữu chủ và là chủ nhân, hoặc đàng khác, là cám dỗ lơ là thực tại, dùng một ngôn ngữ tỷ mỉ, và một ngôn ngữ chà nhám để nói bao nhiêu sự mà chẳng nói gì cả! Những thứ đó, người ta gọi là bizantinismi..

Anh chị em thân mến, những cám dỗ đó không được làm cho chúng ta kinh hãi hay ngỡ ngàng và càng không được làm cho chúng ta nản chí, vì không môn đệ nào lớn hơn thầy mình; vì thế nếu Chúa Giêsu đã bị cám dỗ – thậm chí Ngài bị gọi là tướng quỉ Beelzebul (Xc Mt 12,24) – thì các môn đệ của Chúa không thể mong đợi được đối xử tốt đẹp hơn.

Bản thân tôi, tôi sẽ rất lo lắng và buồn nếu không có những cám dỗ ấy và những cuộc tranh luận sôi nổi; nếu không sự chuyển động tinh thần như vậy, như thánh Ignatio (EE, 6) đã gọi, nếu tất cả đều đồng ý và im lặng trong một thứ an bình giả tạo. Trái lại tôi đã thấy và đã nghe – với niềm vui và biết ơn – những diễn văn và những phát biểu đầy niềm tin, lòng nhiệt thành mục vụ và đạo lý, khôn ngoan, thẳng thắn, can đảm và tự do ngôn luận. Và tôi đã cảm thấy rằng thiện ích của Giáo Hội, của các gia đình và quy luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn (Xc GL 1752) được đặt trước mắt mình. Và điều này – như chúng ta đã nói ở Hội trường này – không bao giờ đặt lại vấn đề các chân lý nền tảng của bí tích Hôn phối là tính chất bất khả phân ly, một vợ một chồng, chung thủy, sinh sản con cái hay là cởi mở đối với sự sống (Xc GL 1055, 1056 và GS 48).

”Giáo Hội là như thế, là vườn nho của Chúa, là Mẹ đông đảo con cái và là Thày dạy ân cần, không sợ phải xắn tay áo lên để đổ dầu và rượu vào vết thương của con người (Xc Lc 10, 25-37); Giáo hội không nhìn nhân loại từ một lâu đài bằng kiếng để phán xét và xếp loại con người….

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta còn một năm để làm cho những ý tưởng đề nghị được chín mùi, với sự phân định tinh thần đích thực, để tìm ra những giải pháp cụ thể cho bao nhiêu khó khăn và vô số các thách đố mà các gia đình phải đương đầu, mang lại câu trả lời cho bao nhiêu nản chí vây bủa và bóp nghẹt các gia đình.

Một năm để làm việc về bản Tường trình của Thượng HĐGM là bản tóm lược trung thành và rõ ràng về tất cả những gì đã được nói và thảo luận tại Hội trường này và trong các nhóm nhỏ và bản này được trình bày cho các HĐGM như tài liệu chuẩn bị (Lineamenta).

Xin Chúa tháp tùng, hướng dẫn chúng ta trong hành trình này để làm vinh danh Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse! Xin anh chị em vui lòng cầu nguyện cho tôi!

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Sứ điệp đúc kết của Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường lần thứ III

Chúng tôi, các nghị phụ họp tại Roma cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Cuộc họp Tổng Công Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại thường, xin gửi lời chào đến tất cả các gia đình khắp nơi tại các châu lục và đặc biệt là những gia đình bước theo Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn bởi chứng tá hằng ngày mà các bạn đã cho chúng tôi và cả thế giới thấy qua sự trung tín, đức tin, niềm hy vọng và tình yêu của các bạn.

Ngay cả chúng tôi, những chủ chăn của Giáo Hội, cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình với những hoàn cảnh và lịch sử khác nhau. Với tư cách là các linh mục và các giám mục, chúng tôi đã gặp gỡ và sống bên các gia đình đã cho chúng tôi thấy, bằng lời nói cũng như hành động, một chuỗi dài những điểm niềm vui cũng như những khó khăn của mình.

Việc chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng này, khởi đi từ những trả lời cho bảng câu hỏi mà Giáo Hội gửi đi trên khắp thế giới, đã giúp chúng tôi nghe được tiếng nói của nhiều kinh nghiệm trong gia đình. Rồi cuộc đối thoại trong những ngày này của Thượng Hội Đồng cũng làm chúng tôi hiểu hơn, giúp chúng tôi nhìn thấy tất cả những thực tại sống động và phức tạp mà các gia đình đang đối mặt.

Chúng tôi muốn gửi đến các bạn lời của Đức Kitô: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta thì Ta sẽ đến và dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ ở với ta” (Kh 3,20). Trong suốt hành trình dài trên các con đường ở Đất Thánh, Đức Giêsu đã vào nhà tại các làng mạc, Ngài tiếp tục đi qua các ngả đường của thành phố chúng ta. Đối với các bạn, các bạn trải nghiệm lẫn ánh sáng và bóng tối, những thách đố thú vị nhưng đôi khi cũng có những thử thách đầy kịch tích. Sự tăm tối càng trở nên dày đặc hơn cho đến khi nó trở thành bóng đen, khi những sự xấu và tội lỗi thâm nhập vào tận trung tâm của đời sống gia đình.

Trước hết, có một thách đố rất lớn về sự trung tín trong tình yêu hôn nhân. Đức tin suy yếu và các giá trị đạo đức không được quan tâm, chủ nghĩa cá nhân, các mối tương quan bị kiệt quệ, nổ lực loại trừ sự phản tỉnh ghi dấu ấn của nó trong đời sống gia đình. Có không ít những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân được giải quyết một cách vội vàng, không có sự kiên nhẫn, xác minh, tha thứ cho nhau, hòa giải và thậm chí là hy sinh. Những sai lầm như thế thường thấy ở những tương quan mới, những cặp đôi mới, mối liên hiệp mới và các đôi hôn phối mới, làm gia tăng những tình huống và vấn đề phức tạp trong gia đình cho các chọn lựa Kitô giáo.

Trong những thách đố này, chúng tôi muốn đề cập đến nỗi đau của chính sự hiện hữu. Chúng tôi nghĩ đến những thống khổ có thể có đối với một em bé bị khuyết tật, một chứng bệnh nghiêm trọng, tinh thần bị suy giảm do tuổi già, cái chết của một người thân yêu. Đáng ngưỡng mộ thay sự trung kiên đầy quảng đại của nhiều gia đình sống trong những thử thách này với lòng can đảm, đức tin và tình yêu, không xem nó như một điều gì đó bị cắt đứt hay tổn thương, nhưng như là cái được trao ban cho mình, nhìn thấy Đức Kitô chịu đau khổ nơi phần thân xác bệnh tật ấy.

Chúng tôi cũng nghĩ đến những khó khăn kinh tế do các hệ thống sai lạc, do “chủ nghĩa thờ đồng tiền và sự chuyên chế của một nền kinh tế vô nhân vị và không nhắm tới con người thật sự” (Evangelii Gaudium, 55), vốn hạ thấp nhân phẩm con người. Chúng tôi cũng nghĩ đến những người cha, người mẹ, thất nghiệp, bất lực trước những nhu cầu thiết yếu của gia đình mình và cả đến các bạn trẻ, những người ở không, không có hoài bão, những người có thể sẽ trở thành nạn nhân của những suy đồi do nghiện ngập hay tội ác.

Chúng tôi cũng nghĩ đến rất nhiều các gia đình nghèo, những người phải bám theo một chiếc thuyền để tìm đến một nơi sinh tồn, đến các gia đình đi di cư mà không có chút hy vọng nào nơi các sa mạc, những những gia đình bị bách hại chỉ bởi vì đức tin và vì những giá trị thiêng liêng và nhân bản của mình, đến những ai bị những tàn bạo của chiến tranh và áp bức vây bủa. Chúng tôi cũng nghĩ đến những phụ nữ phải gánh chịu những bạo lực, bị bóc lột sức lao động, đến những nạn nhân của nạn buôn người, đến các trẻ em và thanh thiếu niên bị lạm dụng bởi chính người chịu trách nhiệm chăm sóc và giúp mình lớn lên trong sự tin tưởng, đến các thành viên của những gia đình bị hạ nhục và trong hoàn cảnh khó khăn. “Nền văn hóa sung túc đang gây mê chúng ta và […] tất cả đời sống đó bị còi cọc đi do thiếu vắng những cơ hội dường như là một cảnh tượng đơn thuần chẳng làm cho chúng ta bận tâm tí nào” (Evangelii Gaudium, 54). Chúng tôi thỉnh cầu đến các nhà cầm quyền và các tổ chức quốc tế hãy thăng tiến các quyền về gia đình nhằm hướng đến công ích cho mọi người.

Đức Kitô đã muốn Giáo Hội của Ngài trở thành một ngôi nhà mở rộng cửa để đón tiếp mọi người, không trừ một ai. Chúng tôi biết ơn các chủ chăn, các tín hữu và cộng đoàn đã sẵn sàng đồng hành với các các cặp đôi và các gia đình, đồng thời chăm sóc những vết thương cả nội tâm lẫn xã hội của họ.

* * *
Tuy nhiên, cũng có một ánh sáng chiếu rọi giữa đêm đen, đằng sau những cánh cửa sổ của các tòa nhà ở thành phố, của căn nhà giản dị ở thôn quê hay nơi các làng mạc, hay thậm chí là cả những túp lều: nó tỏa sáng và sưởi ấm cả thể xác lẫn linh hồn. Ánh sáng này, dưới ánh sáng của lịch sử hôn nhân, đã tỏa chiếu từ cuộc gặp gỡ giữa vợ chồng: đó là một món quà, một ân sủng được diễn tả – như sách Sáng Thế nói (2,18) – khi khuôn mặt này “đối diện” với khuôn mặt kia, trong một sự “tương trợ đồng vị với nhau”, nghĩa là ngang nhau và hỗ tương với nhau. Tình yêu giữa người nam và người nữ dạy chúng ta biết rằng dù vẫn khác nhau về căn tính, mỗi người cần đến người kia để là chính mình, mỗi người phải mở ra và tỏ lộ cho nhau. Đó là điều mà người nữ diễn tả một cách rất gợi tình trong sách Diễm Ca: “Người yêu tôi là của tôi và tôi là của người yêu tôi… tôi thuộc về người yêu tôi và người yêu tôi thuộc về tôi” (Dc 2,16; 6,3)

Để cuộc gặp gỡ này được chân thành, lộ trình phải bắt đầu với việc đính hôn, khoảng thời gian chờ đợi và chuẩn bị. Nó sẽ đi đến sự thành toàn với bí tích, nơi mà Thiên Chúa đóng dấu ấn của Người, sự hiện diện và ân sủng của Người. Hành trình này cũng bao gồm cả tính dục, sự dịu ngọt, sự thân mật, nét đẹp, vốn là những điều luôn tồn tại, vượt trên cả những mãnh liệt và hăng hái của tuổi trẻ. Tự bản chất, tình yêu có xu hướng còn mãi, cho đến khi trao ban cả sự sống cho người mình yêu (x. Ga 15,13). Dưới ánh sáng này, tình yêu lứa đôi, duy nhất và bất khả phân ly, luôn tồn tại, bất chấp những khó khăn của giới hạn con người; đây là một trong những phép màu tuyệt vời nhất, và có lẽ cũng là phép lạ chung nhất.

Tình yêu này lan tỏa qua việc sinh sản con cái và phát triển nòi giống, vốn không chỉ liên hệ đến việc sinh con nhưng còn liên quan đến quà tặng đời sống thiêng liêng nơi bí tích Thanh Tẩy, giáo dục và dạy giáo lý cho con trẻ. Nó cũng bao gồm đến việc trao tặng sự sống, tình cảm, các giá trị – một kinh nghiệm mà cả người không có khả năng sinh sản vẫn có thể làm được. Những gia đình nào sống được cuộc phiêu lưu chói lọi này sẽ trở nên dấu chỉ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ.

Trong suốt hành trình, vốn đôi khi có lắm chông gai, khó khăn và vấp ngã, luôn có Chúa hiện diện và đồng hành kề bên. Gia đình cảm nghiệm được điều này việc yêu mến và đối thoại giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Gia đình sống điều này trong việc cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau cầu nguyện, một nơi nghỉ ngơi nho nhỏ cho tinh thần mỗi ngày. Rồi cùng dấn thân hàng ngày trong việc giáo dục đức tin và đời sống tốt lành của Tin Mừng, những điều thánh thiêng. Cả ông bà cũng cùng chia sẻ và thực thi trách nhiệm này với một sự yêu mến và dấn thân lớn lao. Như thế, gia đình sẽ trở thành một Giáo Hội tại gia chân thực, rồi nới rộng ra thành một gia đình trong các gia đình làm nên cộng đoàn giáo hội. Các cặp vợ chồng Kitô hữu được mời gọi để trở thành những thầy dạy đức tin và tình yêu cho những cặp trẻ hơn.

Một diễn tả khác của sự hiệp thông huynh đệ là sự diễn tả của đức ái, của trao ban, của việc gần gũi với những ai thấp bé, những người bị gạt ra bên ngoài xã hội, những người nghèo, những người đơn chiếc, bệnh nhân, người ngoại quốc, những gia đình khác đang gặp khủng hoảng, ý thức về lời Chúa: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đó là món quà của điều thiện hảo, của việc đồng hành, của tình yêu và lòng thương xót, và cũng là một chứng tá của chân lý, của ánh sáng, của ý nghĩa cuộc sống.

Điểm quy tụ và tóm kết mọi dây hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân chính là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, khi tất cả gia đình và Giáo Hội cùng ngồi bên bàn tiệc của Chúa. Ngài đã trao ban cho tất cả chúng ta, những người hành hương trong lịch sử tiến về điểm gặp gỡ chung kết khi “Đức Kitô trở nên tất cả và trong tất cả” (Cl 3,11). Vì thế, trong chặng đầu tiên của khởi đầu Công Nghị của chúng tôi, chúng tôi đã suy tư về việc trợ giúp mục vụ và về việc tham dự bí tích cho những ai đã ly dị tái hôn.

Chúng tôi, các nghị phụ, xin anh chị em hãy bước đi cùng chúng tôi hướng về Cuộc Họp Thượng Hội Đồng sắp tới. Nguyện xin sự hiện diện của gia đình Giêsu, Maria và Giuse trong ngôi nhà đơn sơ của họ luôn ấp ủ các bạn. Cùng với Thánh Gia Nazaret, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời cầu khẩn của chúng tac ho tất cả gia đình dưới thế:

Lạy Cha, xin ban cho tất cả các gia đình có được những người vợ người chồng khôn ngoan và mạnh mẽ để họ có thể là nguồn mạch của một gia đình hiệp nhất và tự do.
Lạy Cha, xin ban cho các bậc cha mẹ có một mái nhà để sống bình an với gia đình của mình.
Lạy Cha, xin giúp những người làm con trở thành một dấu chỉ của niềm tin, niềm hy vọng, và giúp cho người trẻ có được một sự dấn thân vững bền và trung tín.
Lạy Cha, xin giúp cho tất cả mọi người có thể kiếm được lương thực hằng ngày nhờ đôi tay của mình, có thể hưởng nếm sự thanh thản tinh thần và giữ được ngọn lửa đức tin luôn bừng cháy, dù giữa lúc đêm đen.
Lạy Cha, xin giúp tất cả chúng con thấy được một Giáo Hội nở rộ sự trung tín và đáng tin, một thành phố công chính và nhân bản, một thế giới yêu mến chân lý, công bằng và lòng xót thương.


Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 

Nên nộp thuế chăng?

Nên nộp thuế chăng?

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
 
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
 
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
 
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
 
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
 
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
 
Veritas Radio

Nên giống Chúa

Nên giống Chúa

Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?

Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
 
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu đón nhận.
 
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.
 
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
 
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp… nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
 
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
 
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
 
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
 
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
 
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
 
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
 
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
 
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
 
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
 
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
 
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
 
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
 

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Trả về

Trả về

Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,

Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
 
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
 
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
 
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
 
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
 
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
 
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
 
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. 
 
Sưu tầm

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp Thủ tướng Việt Nam

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp Thủ tướng Việt Nam

VATICAN. Trưa thứ bẩy, 18-10-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam.
Toàn văn Thông cáo báo chí của Tòa Thánh nói rằng:

”Hôm nay ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến Thủ Tướng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng. Sau đó Thủ tướng đã gặp ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, có Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti tháp tùng.

”Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị bày tỏ sự hài lòng về cuộc gặp gỡ hôm nay, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong tiến trình củng cố những quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, vì đây là lần thứ hai, Thủ Tướng Dũng thực hiện cuộc viếng thăm tại Vatican sau cuộc viếng thăm hồi năm 2007. Trong cuộc hội kiến có nêu bật sự dấn thân của Giáo Hội đóng góp vào việc phát triển đất nước, nhờ sự hiện diện của Giáo Hội trong nhiều lãnh vực để mưu ích cho toàn thể xã hội. Trong bối cảnh đó có tái khẳng định sự đánh giá cao đối với sự nâng đỡ của Chính Quyền dành cho Cộng đồng Công Giáo trong khuôn khổ những phát triển được Hiến Pháp năm 2013 khẳng định liên quan đến chính sách tôn giáo, cũng như về sự trợ giúp cho Vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam trong việc thi hành sứ mạng của Ngài, nhắm thăng tiến quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước, hướng tới mục tiêu chung là các quan hệ ngoại giao. Rồi cũng đề cập tới một vài vấn đề mà hai bên cầu mong sẽ được đào sâu và giải quyết qua các kênh đối thoại hiện có.

Sau cùng, hai bên trao đổi ý kiến về một vài đề tài thời sự trong miền và quốc tế, đặc biệt là những sáng kiến nhắm thăng tiến hòa bình và sự ổn định tại Á châu”. (SD 18-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

Bài giảng của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục

VATICAN. Sáng ngày 18-10-2014, Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã trình bày bài suy niệm ngắn tại Thượng HĐGM thế giới.

Đầu phiên khoáng đại thứ 14 lúc 9 giờ sáng, đến lượt Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM giáo phận Sàigòn, Chủ tịch Hội đồng GM Việt Nam, được mời trình bày bài suy niệm ngắn trong kinh Giờ Ba lúc 9 giờ, trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ. Ngài mời gọi các tín hữu tin nơi sức mạnh của Tin Mừng là nguồn mạch an vui và hạnh phúc.

Dưới đây là toàn văn bài suy niệm của Đức TGM Bùi Văn Đọc được Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM phổ biến:

”Quả thế, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1,16). Thánh Phaolô không hổ thẹn vì Tin Mừng, vì Người rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh, là cớ vấp phạm đối với người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại. Chính cớ vấp phạm và sự điên rồ của tình yêu vô biên của Thiên Chúa được biểu lộ trong Chúa Kitô chịu đóng đanh, khiến ta không thể tự vệ, để cho mình bị giết.

”Nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). Vì "sự điên rồ của Thiên Chúa thì lớn hơn cái khôn ngoan của con người và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh của con người” (v. 25)

Vấn đề ở đây là đức tin. Chúng ta có tin hay không? Nếu chúng ta tin, thì Tin Mừng là ơn cứu độ chúng ta. Đức Kitô là niềm hy vọng của chúng ta, và Hy vọng cho tất cả mọi người. Chính Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, chịu đóng đanh, bị giết, nhưng đã Sống Lại để làm cho chúng ta trở nên công chính; Ngài đang hiện diện giữa chúng ta, đồng hành với chúng ta hướng về tận cùng lịch sử. Chúa Kitô là niềm Hy vọng duy nhất cho đời sống gia đình của con người ngày nay và ngày mai”.

Tin Mừng là ơn cứu độ cho bất kỳ ai tin. Vì sự Công chính của Thiên Chúa được biểu lộ qua đó, nhất là Tình Thương, lòng Từ Bi và Tha Thứ. Tín hữu tham phần sự Công chính của Thiên Chúa, Tình Thương, lòng Từ Bi của Thiên Chúa; họ sống bằng Sự Sống của Thiên Chúa, nhờ đức tin. Đời sống đức tin là một hành trình từ đức tin tới đức tin, từ ơn thánh tới ơn thánh dồi dào hơn của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô.

Ơn Thánh này chính là Thần Trí của Thiên Chúa, là Gió thổi, và Hơi Thở sự sống. Tin là ”lắng nghe”, lắng nghe Tin Mừng, tin vui về Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa. Tin Mừng là một tin tức, một trình thuật về lịch sự Tình Yêu của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu Kitô kể cho chúng ta; Chúa Giêsu Kitô là Thánh Sử Tin Mừng của chúng ta là những người nghèo. Vấn đề là chúng ta có tin nơi Đức Kitô một cách chân thành hay không.

Nếu chúng ta tin, chúng ta đón nhận điều được kể về Tình Yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa từ bi vì Ngài toàn năng. Quyền năng của Thiên Chúa không phải là quyền lực tàn phá, nhưng làm cho sống. Với quyền năng này Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Và Sự Sống Lại của Đức Kitô là niềm Hy vọng của chúng ta, vì là Tình Yêu chiến thắng sự chết, tha thứ mọi tội lỗi cho những người đang cần. Chúng ta có tin nơi sức mạnh của Thiên Chúa, hoặc nơi sức mạnh của thế gian? Sức mạnh của thế gian đang tàn phá mọi sự, sự sống, tình yêu, gia đình nhân loại. Trái lại đời sống đức tin được diễn tả qua một cuộc sống yêu thương, là nguồn mạch vui mừng, hạnh phúc”.

Trong phiên khoáng đại thứ 14, từ 9 đến 12.30, các nghị phụ đã nghe trình bày bản dự thảo Tường trình chung kết của khóa họp, và bỏ phiếu thông qua Sứ điệp của Thượng HĐGM gửi Dân Chúa.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

 

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

Tường trình của các nhóm nhỏ tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đang tới hồi kết thúc. Trong phiên khoáng đại thứ 14 sáng thứ bẩy 18-10-2014, từ 9 giờ đến 12 giờ rưỡi, các nghị phụ sẽ nghe đọc dự thảo Bản tường trình kết thúc công nghị GM thế giới này, và bỏ phiếu chấp thuận văn bản chung kết Sứ điệp Thượng HĐGM gửi cộng đồng dân Chúa.

Ban chiều từ 4 giờ rưỡi đến 7 giờ, có phiên khoáng đại thứ 15 và là phiên cuối cùng. Các nghị phụ sẽ bỏ phiếu thông qua Bản tường trình Thượng HĐGM để đệ lên ĐTC. Văn kiện này chưa phải là quyết định chung kết nhưng sẽ được dùng làm Tài Liệu làm việc cho Thượng HĐGM thế giới khóa thường lệ lần thứ 14 nhóm vào tháng 10 năm tớim 2015.

Để đi tới Bản tường trình chung kết này, các nghị phụ đã làm việc khẩn trương trong hai tuần qua: trong tuần đầu là phần góp ý kiến, được đúc kết thành bản Tường trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã trình bày sáng thứ hai, 13-10, trong phiên khoáng đại thứ 11.

Bản này bị dư luận và nhiều nghị phụ phê bình và đã được nghiên cứu đào sâu thêm trong 6 cuộc họp nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng từ 18 đến 20 nghị phụ, cùng với các dự thính viên và chuyên gia. Sau đó, sáng thứ năm, 16-10 vừa qua, Thượng HĐGM thế giới đã nhóm phiên khoáng đại thứ 12 để nghe tường trình về kết quả các cuộc thảo luận nhóm: 3 nhóm tiếng Ý, 3 nhóm tiếng Anh, 2 nhóm tiếng Pháp và 2 nhóm Tây Ban Nha. Vị tường trình viên của mỗi nhóm lần lượt trình bày kết quả cuộc thảo luận. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quí vị một số ý chính trong các bản tường trình nhóm:

Vài nét chính trong các bản bá cáo của các nhóm

Tất cả các nhóm đều đưa ra nhiều nhận xét và đưa ra 500 yêu cầu sửa chữa bản phúc trình giữa khóa mà ĐHY Peter Erdoe trình bày.

Nói chung, Phúc trình này bị phê bình là quá nhấn mạnh đến các vấn đề, có nguy cơ làm cho các gia đình và người trẻ không quan tâm cố gắng làm cho hôn nhân và gia đình được tiến hành tốt đẹp. Theo nhiều nghị phụ, Thượng HĐGM về gia đình phải qui trọng tâm nhiều hơn về vẻ đẹp của hôn nhân và tránh để cho lối tiếp cận ”chào đón” và thương xót lấn át nghĩa vụ của Giáo Hội phải kêu gọi con người từ bỏ con đường tội lỗi.

Nhiều nhóm muốn có sự thay đổi lớn, hay là viết lại một số phần trong phúc trình giữa khóa, nhấn mạnh tầm quan trọng của một Giáo Hội tìm đến các gia đình và những người đang có vấn đề trong thế giới ngày nay, trong đó có những cặp sống chung mà không kết hôn, những tín hữu Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự, những cặp đồng phái. Cần giúp đỡ và tháp tùng họ trở về cùng Giáo Hội. Hầu hết các nhóm nghị phụ đều muốn thấy Phúc trình chung kết của Thượng HĐGM này nhấn mạnh hơn về vẻ đẹp và sự thu hút trong cái nhìn của Thiên Chúa về hôn nhân bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, cởi mở đối với sự sống.

– Nhóm Anh ngữ thứ 2, trong đó có ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Hoa Kỳ, ĐHY Wilfried Napier, TGM Durban, Nam Phi, và Đức TGM Diarmuid Martin của giáo phận Dublin, thủ đô Ai Len, cho biết nhiều vị trong nhóm cảm thấy rằng một người trẻ, khi đọc bản tường trình giữa khóa, sẽ cảm thấy bớt phấn khởi trong chấp nhận ơn gọi sống đời hôn nhân Kitô với tất cả những thách đố kèm theo.

– Nhóm tiếng Anh thứ 1, do ĐHY Raymond Burke, người Mỹ, Chủ tịch Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, nói rằng bản Tường trình chung kết của Thượng HĐGM phải công bố chân lý Phúc Âm, sự sống con người, và tính dục dựa trên mạc phải và luật tự nhiên, vì việc săn sóc mục vụ không thể tách rời khỏi giáo huấn của Giáo Hội. Nhóm này cũng có ĐHY Gerhard Mueller, người Đức, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Đức TGM Vincent Nichols của giáo phận Westminster, Anh quốc. Nhóm phê bình phương pháp của bản tường trình giữa khóa, theo đó trước tiên lắng nghe dân chúng trước khi phán đoán và phân định hành trình mục vụ. Theo nhóm, Giáo Hội luôn phải nhìn thế giới qua lăng kính Tin Mừng để có thể yêu thương và săn sóc con người, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận những tình trạng tội lỗi và tìm kiếm con đường để mời gọi con người hoán cải tâm hồn.

Nhóm này cảm thấy phúc trình giữa khóa có vẻ như muốn nói tính dục ngoài hôn nhân và những lối sống bất hợp lệ có thể là điều được phép khi khẳng định rằng: ”Có những hạt giống sự thật và tốt đẹp ở nơi những ngừơi liên hệ, và qua việc săn sóc mục vụ, những hạt giống ấy có thể được quí chuộng và phát triển”. Nhóm này nói bất kỳ sự ngụ ý nào nói hành vi vô luân là điều có thể chấp nhận được, sẽ làm cho các cha mẹ ngỡ ngàng và tự hỏi: tại sao mình lại phải cố gắng vất vả như vậy để dạy con cái về Tin Mừng?

– Nhóm tiếng Anh thứ ba, trong đó có ĐHY Donald Wuerl, TGM thủ đô Washington, Hoa Kỳ, Đức TGM Joseph Kurtz của giáo phận Louisville, bang Kentucky, Chủ tịch HĐGM Mỹ, và Đức TGM Denis Hart của giáo phận Melbourne, Australia, tuyên bố là không muốn bản phúc trình chung kết làm suy yêu cảm thức hy vọng rằng ”sự dấn thân có hiệu quả và trọn đời trong hôn nhân là điều có thể đạt tới được”. Nhóm này nói: Giáo Hội cần tìm đến để chào đón, mà không phán xét hay lên án, những người vì lý do nào đó, chưa có thể diễn tả sự dấn thân trọn đời trong hôn nhân giữa một người nam và một ngừơi nữ”, nhưng nhóm cũng kêu gọi quan tâm làm sao để biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vì chúng ta có thể vô tình gây ra cảm tưởng hôn nhân không phải là quan trọng, hoặc nó chỉ là một lý tưởng mà một vài người ưu tuyển có thể đạt tới.

– Nhóm tiếng Ý thứ 2, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều Roma như ĐHY Walter Kasper, Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng văn hóa và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng tái truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi nhấn mạnh làm sao để không có sự rạn nứt hay tách biệt giữa đạo lý và việc săn sóc mục vụ. Nhưng nhóm cũng nhấn mạnh trách nhiệm của Giáo Hội phải đưa ra một phán đoán về những vấn đề trong nền văn hóa ngày nay, Giáo Hội không thể quên vai trò ngôn sứ của mình và phải cảnh cáo những kẻ xấu về hình phạt của Thiên Chúa nếu họ không thay đổi cuộc sống gian ác (Ez 3,17-19).

– Nhóm tiếng Pháp do ĐHY Christoph Schoenborn, TGM giáo phận Vienne bên Áo, làm điều hợp viên, và có Đức TGM Paul-André Durocher của giáo phận Gatineau, Québec, Canada là thành viên, nói rằng thách đố ở đây là làm sao dung hợp “lòng yêu mến sự thật và đức bác ái mục tử, để không gây sốc cho những người đang cố gắng sống trọn các giáo huấn của hội Thánh. Nhóm này nói đến người anh cả trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, cảm thấy không hài lòng khi người cha mở tiệc đón đứa em tội lỗi trở về, nhưng không bao giờ cho anh ta, vốn là người ở lại gia đình và làm việc, được mở tiệc để vui với các bạn.

Nhóm Pháp ngữ này có nhiều GM Phi châu. Các vị khẳng định sự tôn trọng và chào đón những người đồng tính luyến ái và lên án những kỳ thị đối với những người này, nhưng các vị nói rằng Giáo Hội không thể ”hợp thức hóa những việc thực thi đồng tính luyến ái, và càng không thể nhìn nhận những cặp đồng phái là hôn phối. Các vị tố giác các tổ chức quốc tế đặt điều kiện đòi các nước nghèo phải ban hành những luật tháo thứ hơn về luân lý thì mới được viện trợ.

– Nhóm tiếng Ý, trong đó có nhiều vị thuộc giáo triều, trong đó có ĐHY George Pell, Chủ tịch Hội đồng kinh tế, ĐHY Coccopalmerio Chủ tịch Hội đồng về các văn bản luật, và Đức TGM Paglia, Chủ tịch Họi đồng về gia đình, nói rằng có hai quan niệm khác nhau trong các cuộc thảo luận tại Thượng HĐGM. Một quan niệm cho rằng không nên do dự gì khi dùng những từ như ”tội lỗi”, ngoại tình và hoán cải, khi nói về những tình trạng trái ngược với Tin Mừng. Trong khi một lối tiếp cận khác phải nhìn nhận rằng ước muốn có một gia đình đã được Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn mỗi người, cả những tín hữu vì những lý do khác nhau không sống hoàn toàn phù hợp với Lời Chúa Kitô”.

Nhóm này cũng nói: Một sự thiếu ý thức về tội lỗi và những hoàn cảnh văn hóa nghiệm trọng thường là lý do khiến một tín hữu không sống phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Tường trình chung kết phải nhấn mạnh sự cầnthiết phải cải tiến việc giáo dục về đức tin (CNS 16-10-2014)

– Nhóm nghị phụ tiếng Ý thứ I, do ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ truyền giáo làm điều hợp viên, nói đến khó khăn trong việc mang lại một ý nghĩa cho thành ngữ ”luật tiệm tiến” đã được nhắc đến trong bản tường trình giữa khóa để biện minh cho sự bất toàn trong hành động của một số tín hữu, và áp dụng vào việc cho tín hữu ly dị tái hôn được rước lễ. Các nghị phụ nói rằng luật tiệm tiến không thể áp dụng được cho số 34 của Tông Huấn Familiaris consortio về gia đình, vì trong tông huấn này luật tiệm tiến được áp dụng chủ yếu cho vấn đề luân lý liên quan đến việc làm cha làm mẹ ý thức. Thành ngữ ”Luật tiệm tiến” dường như vượt ra ngoài sự kiểm soát với nguy cơ làm cho người ta nghĩ rằng những khó khăn trong đời sống vợ chồng đưa tới sự hạ thấp ý nghĩa trọn vẹn của chính ơn gọi vợ chồng. Nhóm này yêu cầu viết lại phần thứ II của tường trình giữa khóa để làm nổi vợt dự phóng vui tươi về hôn nhân do Thiên Chúa đề ra.

Nhóm cũng không đồng ý về việc để cho ĐGM giáo phận trực tiếp can dự vào các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu, vì thường các GM không phải là những nhà chuyên môn trong lãnh vực này, vì thế nên đề nghị một sự phối hợp mục vụ giữa những người liên hệ với tòa án hôn phối, các cố vấn và các văn phòng khác nhau của giáo phận về gia đình.

Về vấn đề cho người ly dị tái hôn được rước lễ, các nghị phụ trong nhóm tuy nhạy cảm đối với vấn đề, nhưng vẫn đề nghị tái nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng số 84 của Tông huấn Familiaris consortio, để xác định những điều kiện khác với kỷ luật hiện hành.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 15-10-2014

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung các tín hữu hành hương: 15-10-2014

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 80 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư 15-10-2014 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC đã diễn giải về đề tài ”Giáo hội là hôn thê chờ đợi Hôn Phu của mình”.

ĐTC tạm vắng mặt khỏi phiên họp trong nhóm nhỏ của các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới về gia đình, và lúc quá 9 giờ rưỡi sáng ngài tiến vào quảng trường thánh Phêrô trên chiếc xe díp màu trắng mui trần để chào thăm các tín hữu, ôm hôn và chúc lành cho các em bé được nhân viên an ninh bế đưa lên ngài.

Lên tới lễ đài ở thềm Đền thờ, ĐTC khởi sự buổi tiếp kiến với dấu Thánh giá và lời chào phụng vụ. Và sau phần tôn vinh lời Chúa với bài đọc ngắn trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan nói về vị hôn thê trang điểm chờ đợi hôn phu và Giáo hội như thành Jerusalem thiên quốc, ĐTC đã trình bày bài thứ 9 trong loạt bài giáo lý về Giáo Hội, và ngài bàn về chủ đề: ”Giáo Hội hôn thê chờ đợi Hôn Phu của mình”.

Huấn dụ của ĐTC

“Anh chị em thân mến, chào anh chị em. Trong thời gian này chúng ta đã nói về Giáo hội, về Mẹ Giáo hội thánh thiện và có phẩm trật, là Dân Thiên Chúa đang lữ hành.

Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: sau cùng, dân Chúa sẽ ra sao? Mỗi người chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta phải chờ đợi cái gì? Thánh Phaolô Tông Đồ trấn an các tín hữu Kitô thuộc Cộng đoàn Tessalonica, là những người đặt ra những câu hỏi ấy và sau khi lý luận thánh nhân nói những lời này thuộc vào những lời đẹp nhất của Tân Ước:
“Và như thế chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn mãi!” (1 Ts 4,17). Những lời này đơn sơ, nhưng rất xúc tích về hy vọng.

Thật là biểu tượng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, nhắc lại trực giác của các Ngôn Sứ, và đã mô tả chiều khích cuối cùng, chung kết, như ”Thành Jerusalem mới, xuống từ trời, từ nơi Thiên Chúa, sẵn sàng như hôn thể trang điểm đón chờ Hôn Phu của mình” (Kh 21,2). Đó là điều đang chờ đợi chúng ta! Vậy Giáo Hội là ai? thưa là Dân Thiên Chúa đi theo Chúa Giêsu và chuẩn bị ngày qua ngày cho cuộc gặp gỡ với Chúa, như một hôn thê chuẩn bị gặo hôn phu của mình. Đó không phải là một kiểu nói; sẽ có những hôn lễ thực sự! Đúng vậy, vì Chúa Kitô, khi làm người như chúng ta và làm cho tất cả chúng ta trở thành điều duy nhất với Ngài, qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Ngài đã thực sự kết hôn với chúng ta và làm cho chúng ta trở nên hôn thê của Ngài. Điều này không là gì khác hơn là sự viên mãn kế hoạch hiệp thông và yêu thương được Thiên Chúa thực hiện qua dòng lịch sử.

”Nhưng có một yếu tố khác, an ủi và ủng cố chúng ta, mở rộng con tim chúng ta: thánh Gioan nói với chúng ta rằng trong Giáo Hội là hôn thê của Chúa Kitô, ”thành Jerusalem mới” trở nên hữu hình. Điều này có nghĩa là Giáo Hội, không những là hôn thê, nhưng còn được kêu gọi trở nên thành thị, biểu tượng tuyệt hảo của sự sống chung và quan hệ giữa con ngừơi với nhau. Vì thế, thật là đẹp khi có thể chiêm ngưỡng ngay từ bây giờ một hình ảnh khác rất xúc tích của sách Khải Huyền, tất cả các dân nước được tập hợp với nhau trong thành ấy, như trong một căn lều, ”lều của Thiên Chúa” (Xc Kh 21,3)! Và trong khung cảnh vinh quang đó sẽ không còn cô lập, thiếu thốn và những phân biệt nào – về mặt xã hội, chủng tộc và tôn giáo – nhưng tất cả chúng ta sẽ được hiệp nhất trong Chúa Kitô.

Đứng trước cảnh tượng chưa từng có và tuyệt vời ấy, con tim chúng ta không thể không cảm thấy được củng cố một cách mạnh mẽ trong niềm hy vọng. Anh chị em hãy xem, niềm hy vọng Kitô không phải chỉ là một ước muốn, một mong ước, không phải là lạc quan: đối với Kitô hữu, hy vọng là chờ đợi, nồng nhiệt chờ đợi, say mê mong sự viên mãn chung kết một mầu nhiệm, mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa, trong đó chúng ta được tái sinh và đang sống. Và đó là sự chờ đợi người sắp đến: đó là Chúa Kitô ngày càng trở nên gần gũi chúng ta, ngày qua ngày, và Ngài đến để dẫn đưa chúng ta vào cuộc hiệp thông viên mãn và an bình của Ngài. Vì thế, Giáo Hội có nghĩa vụ phải giữ cho ngọn đèn hy vọng luôn cháy sáng và hữu hình, để có thể tiếp tục chiếu tỏa như dấu chỉ cứu độ chắc chắn và có thể soi sáng cho toàn thể nhân con đường dẫn đến cuộc gặp gỡ với tôn nhan từ bi của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, này đây điều mà chúng ta đang mong đợi: chúng ta đợi Chúa Giêsu trở lại! Giáo Hội hôn thê chờ đợi hôn phu của mình! Nhưng chúng ta phải tự hỏi rất chân thành: chúng ta có thực sự là những chứng nhân sáng ngời và đáng tin cậy về niềm hy vọng ấy hay không? Các cộng đoàn của chúng ta có còn sống trong dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô và nồng nhiệt chờ đợi Chúa đến hay không, hay là tỏ ra mệt mọi, ngái ngủ, dưới gánh nặng của mệt mỏi và cam chịu? Chúng ta có nguy cơ hết dầu đức tin và vui mừng hay không! Chúng ta hãy chú ý!

Chúng ta hãy khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ hy vọng và là nữ vương trời cao, xin Mẹ luôn giữ chúng ta trong thái độ lắng nghe và chờ đợi, để có thể ngay từ bây giờ được thấm nhiễm tình yêu Chúa Kitô và một ngày kia được tham phần niềm vui vô tần, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Anh chị em đừng bao giờ quên câu ”Và chúng ta sẽ luôn ở với Thiên Chúa!” Chúng ta hãy lập lại câu này ba lần.

Chào thăm các tín hữu

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM và giám chức của Tòa Thánh đã tóm tắt bài này bằng các sinh ngữ khác nhau cũng như dịch những lời ĐTC chào các tín hữu hành hương cùng với những lời nhắn nhủ của ngài.

Chào nhóm tiếng Anh, ĐTC đặc biệt nhắc đến các đoàn đến từ Anh quốc, Ecosse, Na Uy, Đan Mạch, Ấn độ, Nhật Bản, Thái Lan, Australia và Hoa Kỳ, đặc biệt là đoàn hành hương toàn quốc Ai Len nhân dịp kỷ niệm 1.400 năm thánh Colombano qua đời.

Khi chào các tín hữu nói tiếng Bồ đào nha, nhất là các tín hữu đến từ Brazil, ngài xin họ cầu nguyện cho ngài và nhắn nhủ rằng gia đình anh chị em hãy họp nhau hằng ngày để đọc kinh Mân Côi, dưới cái nhìn của Đức Mẹ, để trong gia đình không bao giờ bị thiếu dầu đức tin và niềm vui, nảy sinh từ cuộc sống của các phần tử được hiệp thông với Thiên Chúa.

Với các tín hữu nói tiếng Ba Lan, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh Têrêxa Chúa Giêsu, thuộc dòng Cát Minh nhặt phép, trinh nữ và tiến sĩ Hội Thánh. Trái lại ngày mai chúng ta kỷ niệm Thánh Gioan Phaolô 2 được bầu làm Giáo Hoàng. Hai vị thánh này được liên kết với nhau trong sự phó thác cho Thiên Chúa, lòng tận tụy đối với Giáo Hội và có đời sống thần bí. Chúng ta hãy học nơi các vị đặc tính quyết liệt của Tin Mừng và tăng trưởng trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào các tham dự viên Hội nghị kỳ 4 của Quỹ Ratzinger-Biển Đức 16 sẽ nhóm tại thành phố Medellín, Colombia, và khuyên nhủ họ hãy nghiên cứu những con đường kiến tạo hòa bình và thăng tiến phẩm giá con người.

ĐTC kết thúc buổi tiếp kiến với Kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tóm lược tham luận phiên họp khoáng đại thứ 11 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Tóm lược tham luận phiên họp khoáng đại thứ 11 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. Văn phòng Tổng thư ký THĐGM đã công bố bản tóm lược ý kiến của 41 nghị phụ phản ứng trong phiên khoáng đại thứ 11 sáng thứ hai 13-10-2014, sau khi nghe ĐHY Peter Erdoe, Tổng tường trình viên, đúc kết các bài phát biểu của 180 nghị phụ trong tuần lễ đầu tiên của Công nghị Giám mục thế giới.

Bản tóm lược nói rằng:

”Nói chung, bản tường trình đúc kết được đánh giá cao vì diễn đạt tốt các bài phát biểu. Qua tường trình này, người ta thấy phản ánh lòng yêu mến của Giáo Hội đối với các gia đình trung thành với Chúa Kitô, và cả khả năng của Giáo Hội gần gũi con người trong mọi lúc của cuộc sống, khả năng hiểu rằng đằng sau những thách đố mục vụ, có bao nhiêu người đang chịu đau khổ. Cái nhìn của Thượng HĐGM phải là cái nhìn của vị mục tử hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, chứ không phải thái độ tiên thiên xét đoán đoàn chiên.

Ngoài ra, vì Bản tường trình của ĐHY Erdoe thu thập nhiều quan điểm khác nhau để cung cấp căn bản làm việc cho các nghị phụ trong các nhóm nhỏ, trong phần góp ý và phản ứng, các nghị phụ đã đề nghị thêm một số suy tư: ví dụ, tuy Giáo Hội phải đón tiếp những người gặp khó khăn, nhưng cũng nên nói nhiều hơn về những gia đình trung thành với giáo huấn của Tin Mừng, cám ơn và khích lệ họ vì chứng tá của họ. Từ Thượng HĐGM này người ta phải thấy rõ hôn phối là bất khả phân ly, hạnh phúc và chung thủy, đẹp đẽ, là có thể, và hiện diện trong xã hội, vì thế tránh tình trạng chỉ chú ý đến những hoàn cảnh gia đình bất toàn.

– Một số nghị phụ khác đề nghị nhấn mạnh nhiều hơn về đề tài phụ nữ, việc bảo vệ phụ nữ và tầm quan trọng của phụ nữ trong việc thông truyền sự sống và đức tin; ghi thập vài nhận xét về vai trò của các ông bà giữa lòng gia đình; nhắc đến rõ rằng gia đình như ”Giáo Hội tại gia” và giáo xứ như ”gia đình của các gia đình”, cũng vậy, nên đề cao Thánh Gia như mẫu gương cần tham chiếu chắc chắn. Trong viễn tượng đó, có nghị phụ đề nghị đề cao viễn tượng truyền giáo của gia đình, gia đình loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện nay.

– ”Cần đào sâu và làm sáng tỏ sự tiệm tiến, vì điều này có thể là nguồn gây ra một loạt những hỗn độn. Ví dụ, về việc cho những người ly dị tái hôn được lãnh nhận các bí tích, có nghị phụ nói thật là khó chấp nhận những luật trừ mà không làm cho nó trở thành một qui luật chung.

– Có nghị phụ cũng nhận xét rằng từ ”tội lỗi” hầu như vắng bóng trong bản tường trình đúc kết. Cũng vậy giọng văn ngôn sứ của những lời Chúa Giêsu, cần phải được nhắc nhớ để tránh nguy cơ rập theo não trạng của thế giới ngày nay.

– Về những người đồng tính luyến ái, các nghị phụ đồng ý về sự cần tiếp phải đón tiếp, nhưng với sự thận trọng đúng đắn, để không tạo nên cảm tưởng là Giáo Hội đánh giá tích cực xu hướng đồng tính luyến ái. Cũng cần chú ý như thế đối với những cặp sống chung không kết hôn.

– Một số phản ứng khác của các nghị phụ nhấn mạnh sự cần thiết phải tái khẳng định tầm quan trọng của bí tích rửa tội, là điều thiết yếu để hiểu tường tận đặc tính bí tích của hôn phối và bản chất của nó là ”một thừa tác vụ” trong việc loan báo Tin Mừng.

– Về việc tiến hành mau lẹ thủ tục giải hôn phối, một vài nghị phụ bày tỏ sự ngỡ ngàng về đề nghị ủy thác nhiều thẩm quyền hơn cho GM giáo phận, đè nặng thái quá trên vai các vị.

– Một số nghị phụ khác đề nghị suy tư sâu xa và chi tiết hơn về những vụ đa thê, nhất là những người trở lại đạo và muốn lãnh nhận các bí tích. Cũng vậy cần suy tư thêm sự lan tràn nạn dâm ô, nhất là qua Internet, là nguy cơ thực sự đối với đời sống vợ chồng.

– Sau cùng cần đề cập một cách sâu rộng và quyết liệt hơn không những vấn đề phá thai, nhưng cả vấn đề mang thai mướn.

Nhận định phê bình của Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Ba Lan

Đức Cha Stanislaw Gadecki, TGM Poznan, Chủ tịch HĐGM Ba Lan, mạnh mẽ phê bình bản tường trình đúc kết hôm 13-10-2014 tại Thượng HĐGM thế giới về gia đình.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình tiếng Ba Lan của Đài Vatican, Đức TGM Gadecki nói: tôi không dám nói bản tường trình này là một sự xa rời giáo huấn của Đức Gioan Phaolô 2, nhưng trong đó người ta thấy dấu vết của ý thức hệ chống hôn nhân.

Theo Đức TGM, Bản tường trình chứng tỏ người ta không có một cái nhìn rõ ràng về mục đích của chính Thượng HĐGM này. Ngài nói:

”Mục đích mục vụ chủ yếu của chúng ta là nâng đỡ gia đình, chứ không đánh vào gia đình bằng cách chỉ trình bày những hoàn cảnh khó khăn, các hoàn cảnh này tuy có thực, nhưng không phải là nòng cốt chính yếu của gia đình và không xóa bỏ sự cần thiết phải nâng đỡ các gia đình tốt lành, bình thường và chiếm đại đa số, đang chiến đấu không phải để sống còn, nhưng để trung thành”.

Đức TGM Chủ tịch HĐGM Ba Lan cũng phê bình sự kiện khi nói về gia đình và hôn nhân, người ta dùng một số tiêu chuẩn đáng nghi ngờ. Ví dụ tiêu chuẩn ”tiệm tiến” (gradualità). Nhưng phải chăng người ta có thể thực sự coi việc nam nữ sống chung không kết hôn như một sự tiệm tiến và là một con đường để thánh hóa hay sao?

Vị Chủ tịch HĐGM Ba Lan nhận xét: trong bản tường trình người ta bỏ qua đề tài tội lỗi, như thể quan điểm trần thế đã thắng và tất cả những gì dẫn đến sự hoàn hảo là bất toàn..

Ngoài ra, theo Đức TGM Gadecki, những đoạn nói về việc việc ủy thác các trẻ em cho các cặp đồng phái tính được trình bày như thể có sự chấp thuận một tình trạng như vậy. Đó cũng là một thiếu sót trong bản tường trình: thay vì cổ võ sự chung thủy, giá trị của gia đình, dường như người ta chấp nhận mọi sự như nó xảy ra. Thậm chí người ta có cảm tưởng cho đến nay giáo huấn của Giáo Hội không có lòng từ bi thương xót, trong khi bây giờ ngươi ta bắt đầu giáo huấn về lòng từ bi thương xót”.

Họp báo minh định

Trọn ngày 14-10-2014, cả sáng lẫn chiều, các nghị phụ Thượng HĐGM đã nhóm họp trong các nhóm nhỏ, tùy theo sinh ngữ, để đào sâu các vấn đề.

Ban trưa, Cha Lombardi cùng với hai vị trưởng nhóm đã mở cuộc họp báo. Cha Lombardi đã thông báo một tuyên ngôn của Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM về những phản ứng báo chí đối với Bản tường trình của ĐHY Peter Erdoe. Theo Văn phòng, người ta không hiểu bản chất của bản tường trình này. Đó chỉ là một văn kiện làm việc, tóm tắt những bài phát biểu và thảo luận trong tuần làm việc đầu tiên và giờ đây các điều đó được đề nghị cho cuộc thảo luận trong các nhóm nhỏ, như qui luật của Thượng HĐGM qui định. Kết quả các cuộc thảo luận nhóm sẽ được công bố vào sáng thứ năm tới đây, 16-10. Mỗi bản tóm lược của mỗi nhóm được trình bày khoảng 10 phút.

Trưởng của một nhóm tiếng Ý, ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, nhận xét rằng nhiều báo chí đã phản ứng về Bản tường trình của ĐHY Erdoe và nhiều người khác cảm thấy ngỡ ngàng như thể ĐTC đã nói hoặc đó là quyết định của Thượng HĐGM, trong khi văn bản đó chỉ là một văn kiện làm việc, để thảo luận.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Hiện tình Giáo Hội tại Cap Vert

Hiện tình Giáo Hội tại Cap Vert

Phỏng vấn Đức Cha Arlindo Gomes Furtado, Giám Mục Santiago de Cabo Verde

Trong các ngày đầu tháng 9 năm 2014 các Giám Mục nước Cap Vert đã về Roma viếng mộ hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

Cap Vert rộng hơn 4.000 cây số vuông là một quần đảo gồm 10 đảo chính và một số đảo nhỏ. Các đảo chính gồm: São Tiago, Santo Antão, Boa Viosta, Fogo và São Nicolau. Quần đảo này là vùng phát xuất từ núi lửa có ngọn Pico de Fogo, cao 2829 mét nằm trên đảo Fogo.

Dân số Cap Vert được 566 ngàn người, cộng thêm 1,5 triệu sống tại các nước ngoài. Người dân Cap Vert gồm nhiều chủng tộc khác nhau gốc phi châu cũng như âu châu, nói tiếng Creol là thổ ngữ và tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức. Trên bình diện tôn giáo 93% tổng số dân theo Công Giáo, số còn lại theo Tin Lành hay Hồi giáo. Cũng có người tự xưng là vô thần.

Cap Vert được các nhà thám hiểm Diego Gomes và Antonio da Noli khám phá ra giữa các năm 1450-1460, và từ đó trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha cho tới năm 1975 mới được độc lập. Tiếp đến Cap Vert hiệp nhất với Guinea Bissau cho tới năm 1980. Ngay từ đầu chính quyền đảng Phi châu độc lập Guinea và Cap Vert đã lãnh đạo đất nước và có khuynh hướng phò Liên Xô. Chỉ sau khi tách rời khỏi Guinea Bissau năm 1990 đảng này mới khước từ địa vị độc tôn để rộng mở cho chế độ đa nguyên. Sau 10 năm do đảng Phong trào dân chủ lãnh đạo, năm 2001 đảng Phi châu độc lập lại trở lại nắm quyền.

Cap Vert là môt dân tộc trẻ có tuổi trung bình là 21, và 35% tổng số dân dưới 15 tuổi, chỉ có 6% trên 64 tuổi. Lãnh vực giáo dục, y tế tiến triển mạnh, nhưng số các nhà thương vẫn còn thiếu. Vì không có quặng mỏ và nước khan hiếm nên Cap Vert đã không thể phát triển nhiều về kinh tế. Cuộc sống khó khăn khiến cho người dân di cư ra nước ngoài để tìm công ăn việc làm tại Brasil, Hoa Kỳ, và các nước Âu châu như Bồ Đào Nha và Italia.

Giáo Hội Cap Vert chỉ có hai giáo phận trực thuộc Tòa Thánh là Santiago de Cap Vert được thành lập năm 1553 và hiện do Đức Cha Arlindo Gomes Furtado cai quản; và giáo phận Mindelo, được thành lập năm 2003, do Đức Cha Dos Santos Lopes Fortes cai quản. Cho tới khi được độc lập năm 1975 hàng giáo sĩ gồm các thừa sai Bồ Đào Nha và Italia.

Các thừa sai Italia là các cha dòng Capucino đã làm việc tại đây từ 60 năm qua. Nhóm đầu tiên đã tới Cap Vert vào năm 1940. Song song với việc truyền giáo các tu sĩ Capucino đã góp phần rất tích cực vào việc phát triển nhân bản với các trường học và vườn trẻ, các trung tâm đào tạo, bác ái xã hội, thông tin và văn hóa. Trong số hàng trăm chương trình thăng tiến an sinh có Nhà cho người nghèo, xây hồ chứa nước, các khóa đào tạo quản trị khách sạn hàng quán, nguyệt san ”Đất Mới”, và đài phát thanh “Radio Nova”. Ngày nay đa số các tu sĩ là người gốc Cap Vert đã tu học bên Bồ Đào Nha và Italia. Phụ tỉnh Cap Vert hiện có tất cả 35 tu sĩ, 4 tập sinh và 5 thỉnh sinh.

Vì qúa nhỏ Cap Vert không có Hội Đồng Giám Mục riêng, nhưng là thành phần của Hội Đồng Giám Mục Sénégal, Mauritania, Cap Vert và Guinea Bissau, cũng như là thành viên của Hội Đồng Giám Mục miền Tây Phi châu nói tiếng Pháp, và của Liên Hội Đồng Giám Mục Phi châu và Madagascar.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Arlindo Gomes Furtado, Giám Mục Santiago de Cabo Verde, về hiện tình Giáo Hội tại Cap Vert. Đức Cha Furtado năm nay 64 tuổi. Năm 2004 ngài đã được chỉ định làm Giám Mục đầu tiên của giáo phận tân lập Mindelo, và năm 2009 được thuyên chuyển về Santiago de Cabo Verde là giáo phận đã được thành lập năm 1553.

Hỏi: Thưa Đức Cha Furtado, trên bình diện tôn giáo Cap Vert cò đa số dân theo Công Giáo, nhưng cũng có tín hữu các tôn giáo khác nữa chứ, có phải thế không?

Đáp: Vâng, tại Cap Vert cũng có các giáo phái tin lành đến từ Brasil chiếm 3% dân số. Thế rồi có giáo phái Nazareen đến từ Hoa Kỳ chiếm 5%. Người ta cũng tìm thấy giáo phái ”Adventist ngày thứ bẩy” và ”Pentecotist các cộng đồng của Thiên Chúa”. Trong khi các tín hữu Do thái thì đã hiện diện tại Cap Vert từ thế kỷ XVI. Họ thuộc những người đầu tiên đến sống trên quần đảo này. Ngoài ra còn có một ấp gọi là Hội đường, điều này có nghĩa là đã có một hội đường Do thái. Nhưng với thời gian người do thái đã bị đồng hóa và theo Kitô giáo. Tòa đại sứ Israel đã tìm thấy các mộ do thái và đã trùng tu các mộ này.

Cap Vert cũng có một số những người ”không tôn giáo” và người hồi, từ Phi châu tới. Bên trong các nước thuộc Liên Hiệp Kinh Tế Phi châu có quyền tự do di chuyển, điều này cho phép người Phi châu dễ dàng tới sống trên quần đảo của chúng tôi. Chúng tôi cũng có các người di cư đến từ các nước Guinea Bissau, Sénégal, Nigeria, Ghana, Guinea Konakry và Mali. Nhưng chúng tôi cũng đã di cư và tiếp tục di cư. Cap Vert có 1,5 triệu người di cư, tức ba lần nhiều hơn con số người dân sống trên quần đảo. Rất đông người di cư sống tại Bồ Đào Nha, nhưng cũng có người sống bên Hoa Kỳ, Pháp, Hòa Lan, Luxembourg, Thụy Sĩ vv… Nhiều người thuộc thế hệ thứ hai hay thứ ba rồi, nhưng họ vẫn luôn luôn coi mình là công dân Cap Vert.

Hỏi: Giữa ngã tư của các đại lục Âu châu, Phi châu và Mỹ châu, người Cap Vert có phải là Phi châu không thưa Đức Cha?

Đáp: Cap Vert thật ra chịu các ảnh hưởng của cả ba đại lục. Chúng tôi coi mình như là những người lai giống trên bình diện văn hóa cũng như trêm bình diện sinh học. Và sự kiện chúng tôi nói tiếng Bồ Đào Nha tạo dễ dàng cho việc hội nhập với thế giới bên ngoài. Trong khi Đạo Công Giáo đã rất cổ truyền trên quần đảo, thì giống như Công giáo bình dân Bồ Đào Nha, Giáo Hội Cap Vert cũng phải đương đầu với các thách đố của sự tục hóa. Hiện tượng này đã xuất hiện trên đất nước chúng tôi cũng như bên Âu châu vào cuối thập niên 1960. Cuộc cách mạng năm 1968 đã là điểm khởi đầu của việc ý thức rằng các sự vật thay đổi trong thế giới.

Hỏi: Cuộc cách mạng chống lại thực dân Bồ Đào Nha có bị ảnh hưởng bởi chủ thuyết mác xít không thưa Đức Cha?

Đáp: Các người trí thức đã chiến đấu để thoát khỏi chế độ thực dân, nhưng đã không có các trận đánh du kích trên các đảo, vì đây là điều không thể làm được, bởi không có chỗ trú ẩn. Đó đã là một cuộc chiến đấu lén lút, một việc làm ý thức hệ. Các trận đánh chống lại người Bồ Đầo Nha đã xảy ra trên đất của nước Guinea Bissau.

Sau cuộc Cách mạng hoa Cẩm chướng tại Bồ Đào Nha vào tháng tư năm 1974 chúng tôi đã giành được độc lập. Chế độ mới có gợi hứng xã hội chủ nghĩa do ảnh hưởng của Cuba và Liên Xô đã kéo dài cho tới năm 1990.

Giáo Hội đã rất gắn bó với hệ thống thuộc địa, nên đã phải gánh chịu các hậu qủa và vì thế đã đau khổ nhiều. Đảng Phi châu đôc lập của Guinea và Cap Vert là đảng duy nhất, năm 1980 trở thành đảng Phi châu độc lập Cap Vert. Sau khi có cuộc đảo chánh tại Guinea Bissau hai nước tách rời nhau. Đảng này đã coi Giáo Hội là đồng lõa với chế độ thực dân. Và cũng có một phần thật. Các người cách mạng ngờ vực Giáo Hội, và Giáo Hội đã có thể trở thành một đối kháng ít nhiều công khai.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội có bị bách hại bởi chế độ xã hội chủ nghĩa không?

Đáp: Đã không có bách hại thực sự, nhưng đã có một việc gạt bỏ Giáo Hội ra ngoài lề nào đó, một sự khinh bỉ tinh tế… Phải nói rằng hầu hết các nhân viện mục vụ, các thừa sai, đã thuộc thời của người ngoại quốc, chính yếu là người Bồ Đào Nha và vài tu sĩ Capucino người Ý. Đã có rất ít người gốc Cap Vert trong hàng giáo sĩ, và đó là điểm yều của Giáo Hội Cap Vert. Ban đầu sau thời gian độc lập người ta đã cảm thấy sự hăng say của cách mạng, vài người ngoại quốc đã ra đi, trong đó có ba thừa sai bị coi như những người không được chấp nhận. Nhưng sau đó các sự việc đã lắng dịu. Trong khi đó thì các chủng sinh người Cap Vert đã được thụ phong linh mục, và các linh mục này được chấp nhận tốt. Họ là những người Cap Vert trong thân xác cũng như trong tâm hồn, họ là ”người nhà”. Liên quan tới Giáo Hội vấn đề đích thật của các nhà chính trị thời đó là hình ảnh thực dân dính trên da. Được người Bồ Đào Nha thành lập năm 1553, Giáo Hội của chúng tôi đã chỉ có Giám Mục bản địa đầu tiên khi được độc lập, đó là Đức Cha Paulino Livramento Evora, dòng Chúa Thánh Thần.

Nói chung, Giáo Hội được trân trọng, nhất là kể từ sau khi thiết lập chế độ chính trị đa dảng và các cuộc bầu cử đa nguyên năm 1991. Từ đó đến nay không còn có các xung đột ý thức hệ giữa các đảng phái nữa, và nền dân chủ hoạt động tốt. Nếu không có thỏa hiệp nữa, thì đã có một sự đồng ý pháp lý được ký kết với Tòa Thánh; và chính quyền thừa nhận Giáo Hội và các cơ cấu của Giáo Hội, như tổ chức Caritas và các chi nhánh địa phương của nó.

Hỏi: Như thế Giáo Hội có dân thân cho việc phát triển đất nước không thưa Đức Cha?

Đáp: Nhờ tình liên đới của các tổ chức trợ giúp quốc tế như Caritas quốc tế chúng tôi có thể hoạt động cho việc phát triển. Đất nước chúng tôi nằm trong vùng sa mạc Sahel, nên thường có các vấn đề hạn hán. Trong qúa khứ, Cap Vert đã có nhiều thời gian bị đói kém, trận đói cuối cùng xảy ra vào năm 1947. Đã có nhiều người chết đói năm đó. Hồi đó không có các tổ chức nhân đạo quốc tế như ngày nay. Chính quyền thuộc địa Bồ Đào Nha đã muốn dấu nhẹm các nạn đói khủng khiếp này trước mắt thế giới và che dấu chúng. Nhưng các thời điểm đó đã trở thành ký ức rồi…

Việc thiếu nước vẫn còn đó. Đây là một vấn đề thường xuyên. Nhưng ngày nay chúng tôi có được việc đào tạo kỹ thuật dẫn nước, mặc dù là dẫn nước nhỏ giọt. Có các chương trình tài trợ nhỏ giúp mua rơm cỏ. Có các đập và các đê giữ nước được xây cất. Đây là sáng kiến tốt đẹp của chính quyền. Hiện nay lo lắng đầu tiên của chúng tôi là nạn người trẻ thất nghiệp, nhất là giới trẻ đã tốt nghiệp đại học. Tuy có bằng chuyên môn, nhưng họ không tìm ra việc làm tại chỗ. Vì thế họ di cư sang các nước khác như Angola, Guinea Equatorial, nơi có nhiều khả thể hơn. Cả khi số sinh giảm mỗi gia đình có 3-4 người con, so với 6 người con cách đây 25 năm, đất nước Cap Vert không thể thu nhận tất cả số công nhân này. Trái lại, ngành du lich phát triển tốt, nhất là từ khi có cuộc khủng hoảng do ”mùa xuân A Rập” tạo ra, vì du khách bỏ vùng Bắc Phi để hướng tới Cap Vert. Có hy vọng, vì người ta thấy tình hình Cap Vert từ từ cải tiến và trở nên tốt hơn.

(SD 6-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng xin yết kiến Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng xin yết kiến Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

Thủ tướng CS Việt Nam ông Nguyễn Tấn Dũng mở đầu chuyến công du Châu Âu và Tòa Thánh Vatican với chặng đầu tiên là Vương Quốc Bỉ.

Sáng 13/10/2014  tức buổi chiều theo giờ Việt nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Thủ tướng Bỉ Charles Michel ở Bruxelles.

Theo báo điện tử Chính phủ, hai phía Việt Nam và Bỉ thỏa thuận tăng cường hợp tác thương mại tạo điều kiện để doanh nghiệp hai nước tiếp xúc kết nối trong các lĩnh vực ưu tiên như cảng biển, dịch vụ hậu cần, giao thông vận tải, công nghệ xanh, công nghệ cao, hàng không vũ trụ. Hai bên thống nhất duy trì cơ chế họp Ủy ban Hỗn hợp về hợp tác kinh tế để định hướng quan hệ kinh tế.

Về vấn đề hợp tác và an ninh châu Á-Thái Bình Dương, Bỉ khẳng định quyết tâm đẩy mạnh hợp tác với khu vực cả trong khuôn khổ song phương và đa phương. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật quốc tế và Công ước Luật Biển 1982, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Sau Bỉ, Thủ tướng Việt Nam với sự tháp tùng của Ngoại trưởng Phạm Bình Minh và phái đoàn sẽ viếng thăm Ủy ban Châu Âu, Đức, Ý và Tòa thánh Vatican.

Sẽ thăm Vatican và hội kiến với Đức Giáo Hoàng

Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm Châu Âu, Thủ tướng CS Việt nam Nguyễn Tấn Dũng sẽ viếng thăm Tòa Thánh Vatican vào ngày 18/10/2014 sắp tới để xin hội kiến với Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô.

Theo Đài Vatican Việt ngữ, Đức cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh xác nhận tin Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô sẽ tiếp kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 18/10 tới đây. Cuộc gặp gỡ được mô tả  theo nguyên văn là nhằm đào sâu những quan hệ song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh.

Được biết, Hà Nội và Vatican đã thực hiện 5 vòng đàm phán của Nhóm Công tác hỗn hợp về quan hệ Việt Nam-Vatican. Biến cố 30/4/1975 đã cắt đứt mọi liên lạc của Tòa Thánh với chính quyền Việt Nam, nhưng đến năm 1990 bắt đầu được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp, lúc đó Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Hiện nay Vatican có đặc phái viên không thường trú tại Việt Nam.

Xin nhắc lại, đây là lần thứ hai ông Nguyễn Tấn Dũng được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến. Lần trước vào năm 2007, Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ 16 đã gặp gỡ Thủ tướng Việt Nam. Ngoài ra giới lãnh đạo Việt Nam như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng từng được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến.

Trích từ RFA

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

Tường trình đúc kết các bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám Mục tế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ hai 13-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt về gia đình đã nhóm phiên khoáng đại thứ 11 để nghe bản Tường trình đúc kết ý kiến của các nghị phụ phát biểu trong tuần qua.

Trước sự hiện diện của ĐTC và các nghị phụ, ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng tường trình viên, đã đọc bản tường trình đúc kết các ý kiến chính trong các bài phát biểu và suy tư của 180 nghị phụ trong tuần đầu của Công nghị GM thế giới. Văn bản này được dùng làm căn bản cho cho việc soạn Văn kiện chung kết của Thượng HĐGM này.

Bản tường trình đề ra 3 đường hướng chỉ đạo, đó là lắng nghe bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó các gia đình ngày nay đang sống; sau đó là đối chiếu với những viễn tượng mục vụ cần đề ra và nhất là nhìn lên Chúa Kitô, lắng nghe Tin Mừng của Chúa về gia đình.

– Gia đình là thực tại ”quan trọng và quí giá”, ”là nguồn vui mừng và cũng là nơi có thử thách, những tình cảm sâu và và những quan hệ nhiều khi bị thương tổn, là trường dạy về lòng nhân đạo. Trước tiên cần lắng nghe gia đình trong toàn bộ phức tạp của thực tại này. Chủ nghĩa cá nhân thái quá, thử thách lớn về cô đơn, tình cảm tự kỷ gắn liền với những tình cảm mong manh, ”ác mộng” vì công ăn việc làm bấp bênh, cùng với chiến tranh, nạn khủng bố, di cư, ngày càng làm cho tình trạng nhiều gia đình bị suy thoái. Chính trong bối cảnh đó, Giáo Hội phải mang lại hy vọng và ý nghĩa cho đời sống con người ngày nay, giúp họ ngày càng hiểu biết giáo lý đức tin nhưng đồng thời cũng đề nghị với họ lòng từ bi Chúa”.

Tiếp đến là hướng nhìn lên Chúa Kitô, Đấng tái khẳng định sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, nhưng cũng cho phép đọc giao ước hôn phối trong sự liên tục và mới mẻ. Nguyên tắc ở đây phải là nguyên tắc tiệm tiến đối với các đôi vợ chồng bị thất bại tronog hôn nhân, trong một viễn tượng bao gồm đối với những hình thức bất toàn của thực tại hôn phối”.

– Bản tường trình được ĐHY Erdoe tuyên đọc cũng đề cập đến những tờng hợp mục vụ khẩn cấp nhất, cần ủy thác việc cụ thể hóa trong các Giáo Hội địa phương, luôn luôn ở trong tình hiệp thông với ĐTC. Trước hết có việc loan báo Tin Mừng gia đình cần thực hiện, không phải để lên án, nhưng là chữa lành sự dòn mỏng của con người. ”Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm chung của toàn thể Dân Chúa, mỗi người theo sứ vụ và đoàn sủng riêng. Nếu không có chứng tá vui mừng của các đôi vợ chồng và của các gia đình, thì việc loan báo, cho dù là đúng đắn, cũng có nguy cơ không được hiểu hoặc bị chìm đắm trong biển cả những lời nói vốn là đặc tính của xã hội chúng ta. Các gia đình Công Giáo được kêu gọi trở thành những chủ thể tích cực trong việc mục vụ gia đình”.

– Bản tường trình nhấn mạnh rằng việc chuẩn bị hôn nhân Kitô là điều thiết yếu, vì hôn nhân này không phải chỉ là một truyền thống văn hóa hoặc một đòi hỏi xã hội, nhưng là một quyết định theo ơn gọi. Không nhắm làm cho chu kỳ huấn luyện trở nên phúc tạp, mục đích nhắm tới ở đây là đi vào chiều sâu, chứ không giới hạn vào những đường hướng tổng quát, trái lại cũng cần canh tân việc đào tạo linh mục về vấn đề gia đình, nhờ sự can dự của chính các gia đình. Các nghị phụ cùng đề nghị phải tháp tùng các gia đình sau khi hết hôn, là thời kỳ sinh tử và tế nhị, trong đó các đôi vợ chồng chín mùi sự ý thức về bí tích, ý nghĩa và những thách đố về bí tích này.

Đồng thời Giáo Hội cũng phải khích lệ và nâng đỡ các giáo dân dân thân trong lãnh vực văn hóa, chính trị và trong xã hội, để không quên tố giác những yếu tố ngăn cản đời sống gia đình chân thực, vạch rõ nhưng kỳ thị, nghèo đói, loại trừ và bạo lực.

– Về những người ly thân, ly dị và ly dị tái hôn, ĐHY Erdoe nhấn mạnh rằng 'không phải là điều khôn ngoan khi nghĩ đến những giải pháp độc nhất, theo tiêu chuẩn 'hoặc phải có tất cả hoặc không được gì hết'; vì thế phải tiếp tục cuộc đối thoại trong các Giáo Hội địa phương, trong niềm tôn trọng và yêu mến đối với mỗi gia đình bị thương tổn, nghĩ ngay đến người vợ hoặc chồng bị bỏ rơi một cách bất công, tránh những thái độ kỳ thị và phải bảo vệ các trẻ em. ”Điều quan trọng là chấp nhận một cách lương thiện và xây dựng những hậu quả của việc ly thân hoặc ly dị đối với con cái: con cái không thể trở thành một ”đồ vật” để tranh giành, và cần phải tìm kiếm những hình thức tốt đẹp nhất để con cái có thể vượt thắng chấn thương do sự phân rẽ gia đình và có thể tăng trưởng bao nhiêu có thể trong thanh thản”.

– Về việc cứu xét nhanh chóng các đơn xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, ĐHY Erdoe nhắc lại những đề nghị đã được các nghị phụ đề ra trong khóa họop: nghĩa là không cần phải có 2 phán quyết đồng thuận với nhau, xác định thể thức hành chánh ở cấp giáo phận để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, khởi sự việc xét xử đơn giản trong trong những vụ hôn phối vô hiệu tỏ tường, đặc biệt chú ý đến đức tin của những người kết hôn để nhận xét xem bí tích hôn phối của họ có thành sự hay không. Tất cả những điều đó đòi nhân viên giáo sĩ và giáo dân tại tòa án hôn phối được chuẩn bị thích hợp, và các GM địa phương có trách nhiệm nhiều hơn”.

– Về việc cho những tín hữu ly dị tái hôn đưc rước lễ, vị Tổng tường trình viên liệt kê những đề nghị chính được trình bày trong Thượng HĐGM như: duy trì kỷ luật hiện hành, thực hiện một sự cởi mở nhiều hơn đối với những trường hợp đặc biệt, bất khả phân ly mà không gây ra những bất công hoặc đau khổ mới; hoặc chọn con đường thống hối: cần thực hiện hành trình này dưới trách nhiệm của GM giáo phận, trước khi được lãnh nhận các bí tích.

Vấn đề ớc lễ thiêng liêng vẫn còn bị bỏ ngỏ, và các nghị phụ kêu gọi đào sâu hơn về thần học, cũng vậy cần suy tư sâu hơn về các cuộc hôn nhân hỗn hợp và những vấn đề hệ trọng liên quan tới kỷ luật khác của các Giáo Hội Chính Thống về hôn phối.

– Về những ngưi đồng tính luyến ái, trong Thượng HĐGM, có các nghị phụ nhấn mạnh rằng những người đồng tính luyến ái là những người có năng khiếu và chất lượng có thể cống hiến cho cộng đoàn Kitô: Giáo Hội phải trở thành căn nhà đón tiếp họ; nhưng Giáo Hội vẫn quyết liệt không chấp nhận sự kết hiệp đồng tính luyến ái và những sức ép của cac tổ chức quốc tế đặt điều kiện một quốc gia phải ban hành các qui luật chịu ảnh hưởng của ý thức hệ gender, giới tính, thì mới được nhận viện trợ tài chánh… Giáo Hội cũng đặc biệt chú ý đến các trẻ em sống với các cặp đồng phái, và tái khẳng định rằng cần đặt lên hàng đầu những yêu sách và quyền lợi của các trẻ em.

– Phần cuối của bản tường trình có đề cập đến các đề tài của thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người) do Đức Phaolô 6 ban hành năm 1968, và tập trung vào vấn đề cởi mở đối với sự sống, và định nghĩa sự cởi mở này như một ”đòi hỏi nội tại của tình yêu vợ chồng”.

– Nhiều nghị phụ nhấn mạnh sự cần thiết phải có một ngôn ngữ thực tế cụ thể, biết giải thích vẻ đẹp và chân lý cởi mở đón nhận hồng ân con cái, và nhờ sự giáo dục thích hợp về các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên, và sự đả thông hài hòa và ý thức giữa đôi vợ chồng trong mọi chiều kích.

ĐHY Erdoe không quên ghi nhận rằng cuộc đối thoại trong Thượng HĐGM diễn ra trong bầu không khí tự do và lắng nghe nhau. Ngài cho biết những suy tư trình bày trên đây chưa phải là quyết định, vì hành trình của Thượng HĐGM sẽ được tiếp nối trong khóa họp thường lệ nhóm vào tháng 10 năm tới, 2015, cũng về đề tài gia đình.

Sau bài tường trình của ĐHY Erdoe, các nghị phụ được 10 phút giải lao trước khi trao đổi ý kiến về bài này. Rồi ban chiều, từ lúc 4 giờ rưỡi, các nghị phụ nhóm họp và thảo luận trong các nhóm nhỏ theo các sinh ngữ khác nhau (SD 13-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ tạ ơn phong thánh tương đương hai thánh người Canada

VATICAN. ĐTC Phanxicô khích lệ Giáo Hội tại Canada tưởng niệm các hai vị thánh mới được tôn phong theo thể thức tương đương và cầu nguyện để Giáo Hội này được tái phong phú các thừa sai.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong thánh lễ tạ ơn ngài cử hành lúc 10 giờ sáng chúa nhật 12-10-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô về việc tôn phong hiển thánh theo thể thức tương đương cho hai vị người Canada, đó là Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi của giáo phận Québec, và Nữ Tu Marie Nhập Thể Guyart Martin, sáng lập dòng Ursuline Liên hiệp Canada.

Hai vị đã cùng với chân phước Linh Mục Giuse de Anchieta, dòng Tên, người Tây Ban Nha, tông đồ tại Brazil, được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh ngày 3-4 năm 2014 theo thể thức tương đương, nghĩa là không theo thủ tục bình thường và không cần nghi lễ phong thánh.

Thông cáo của Bộ Phong thánh hôm đó nói rằng: ngày 3-4, ĐTC Phanxcô đã tiếp kiến ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh. Ngài đón nhận các tường trình của ĐHY Tổng trưởng, ghi tên vào sổ bộ các thánh và nới rộng việc tôn kính phụng vụ trong Giáo Hội hoàn vũ đối với 3 vị chân phước:

– Đức Cha François de Laval, GM tiên khởi Québec, Canada, sinh tại Montigny-sur-Avre bên Pháp ngày 20-4-1623 và qua đời ngày 6-5-1708, thọ 85 tuổi.

– LM Giuse de Anchieta, dòng Tên, sinh tại San Cristobal de la Laguna, Tenerife, thuộc quần đảo Canarie, Tây Ban Nha, ngày 19-3-1543 và qua đời tại Reritiba, Brazil ngày 9-6-1597.

– Thứ ba là Nữ tu Marie de l'Incarnation, tục danh là Marie Guyart sinh ngày 28-10 năm 1599 tại thành Tours bên Pháp, sáng lập Đan viện dòng nữ tu Urseline ở Québec, và qua đời ngày 30-4-1672, thọ 73 tuổi.

Sơ lược tiểu sự hai vị thánh

1. Đức Cha François de Laval đã từng được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa giáo phận đàng ngoài ở Việt Nam vào năm 1653, ngài không thể sang Việt Nam nhận nhiệm sở vì những bất đồng xảy ra tại Á Đông, từ phía các nước thuộc địa Âu Châu, vì thế Cha rút lui trong 4 năm trời (1654-1658), sống tại một am ở Caen, cũng là một trường dạy linh đạo do một nhà thần bí Pháp là Jean Bernières de Louvigni (1602-1659) điều khiển.

Trong thời gian ấy, cả các thừa sai ở Canada cũng xin ĐGH Alessandro VII bổ nhiệm một vị Đại diện Tông Tòa, và thế là năm 1658, ĐGH bổ nhiệm Cha François de Laval làm GM hiệu tòa Petra và với nhiệm vụ Đại diện Tông Tòa giáo phận Tân Pháp ở Canada. Lúc ấy Đức cha mới được 35 tuổi và ngài lên đường ngay, xuống tàu đến Canada ngày 16-5 năm 1659, và sau đó một tháng sau thì đến Québec.

Đức Cha dấn thân hoạt động tông đồ không biết mệt mỏi trong hơn 30 năm trời cho Giáo Hội địa phương: kiến tạo các giáo xứ từ số không, lập các cứ điểm truyền giáo, nhà thương, trường học, các cộng đoàn dòng tu, bài trừ tệ nạn bóc lột thổ dân bản xứ từ phía các con buôn thực dân, chống lại chủ nghĩa Pháp giáo (Gallicanisme) của các chính quyền Pháp đòi độc lập khỏi Tòa Thánh về phương diện Giáo Hội từ thời vua Philippe le Bel.

Đức Cha François de Laval sống đời cầu nguyện và hãm mình, chay tịnh, sống nghèo tự nguyện, của cải ngài tặng hết cho chủng viện, và tùy thuộc bề trên chủng viện trong mọi nhu cầu. Ngài cũng đích thân giúp đỡ các bệnh nhân tại nhà thương ở Québec cũng trong nhà bệnh của chủng viện, hoặc trong các lều của thổ dân.

Do tinh thần nhiệm nhặt, cho đến những năm cuối đời, Đức Cha vẫn giữ thói quen ngủ trên nền nhà, và thức dậy lúc 2 giờ sáng, cử hành thánh lễ lúc 4 giờ rưỡi sáng cho các công nhân ở Québec. Bao nhiêu hy sinh từ bỏ ấy đã mang lại những thành quả: con số giáo xứ từ 5 tăng lên 35, số linh mục từ 24 tăng lên 102, và số nữ tu từ 22 lên 97 chị.

2. Nữ tu Marie Nhập Thể Guyard Martin, nguyên là một góa phụ, gia nhập dòng Ursuline thành Tours năm 1631 khi được 31 tuổi. 8 năm sau đó, đáp lại ơn gọi thừa sai, chị sang Québec, Canada, thành lập một tu viện.
Số nữ tu gia tăng, và chẳng bao lâu chị phải viết tu luật và hiến pháp mới thích ứng với những kinh nghiệm và đòi hỏi mới.

Tuy không bao giờ ra khỏi tu viện, nhưng chị Marie Nhập Thể học thổ ngữ của các bộ tộc Algonchini, Montagnesi và Uroni, và chị viết các sách giáo lý, văn phạm và tự điển, đồng thời chăm sóc các trẻ em của thổ dân, nuôi dưỡng, trợ giúp và giáo dục. Chị cũng là thiên thần bản mệnh của các thừa sai, tháp tùng họ bằng kinh nguyện, và qua thư từ, chị quan tâm tới lý tưởng và các nhu cầu của các thừa sai.

Chị sống đời chiêm niệm và hoạt động, với sự đơn sơ và quân bình cho đến năm 1669 thì được giải thoát khỏi trách nhiệm làm bề trên, vì điều kiện sức khỏe suy yếu. Tình trạng này nặng thêm và ngày 30-4 năm 1672, chị qua đời, để lại một cộng đoàn gồm 30 nữ tu, từ đó trở thành dòng các nữ tu Ursuline Québec.

Chị Maria Nhập Thể đã được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 22-6-1980. Ngài nói: ”Chị Maria Nhập Thể là một tâm hồn chiêm niệm, nhưng dấn thân trong hoạt động tông đồ, chị khấn hứa ”tìm vinh danh cao cả nhất cho Thiên Chúa trong tất cả những gì có sức thánh hóa mạnh mẽ nhất, và tháng 5 năm 1653, chị âm thầm hiến dâng mình làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa để mưu ích cho Canada”.

Thánh lễ
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 9 vị GM người Canada Québec, đứng đầu là ĐHY Gérard Lacroix, đương kim TGM giáo phận Québec, ĐHY Marc Ouellet, nguyên TGM Québec, và hiện là Tổng trưởng Bộ Giám Mục, 7 GM khác và khoảng 100 linh mục Canada, trước sự hiện diện của 8 ngàn tín hữu, trong đó có một số phái đoàn đến từ Canada.

Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC khích lệ các tín hữu hãy tưởng niệm và noi gương đức tin kiên trì của các thừa sai đã mang Lời Chúa và Tin Mừng cho đất nước Canada. Ngài nói:

”Chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Isaia: ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau nước mắt trên mỗi khuôn mặt..” (Is 25,8). Những lời đầy hy vọng này chỉ cho thấy mục tiêu, chứng tỏ tương lai mà chúng ta đang hành trình hướng về. Trên con đường này các thánh đã đi trước và chỉ dẫn cho chúng ta. Những lời này cũng vạch rõ ơn gọi của các thừa sai.
Các thừa sai là những người ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã có can đảm sống Tin Mừng. Cả bài Tin Mừng mà chúng ta đã nghe: Nhà Vua nói với các đầy tớ: ”Các ngươi hãy ra các ngã tư đường” (Mt 22,9). Và các đầy tớ ra đi, tụ tập tất cả những người mà họ gặp, ”xấu cũng như tốt”, để dẫn họ vào tiệc cưới của nhà vua (Xc v.10)

Các thừa sai đã đón nhận lời mời gọi ấy: các vị đã ra đi kêu gọi tất cả mọi người, ở các ngã tư của thế giới, vì nếu Giáo hội dừng lại và khép kín, thì Giáo hội sẽ trở nên bệnh hoạn, có thể làm hư hỏng, hoặc bằng tội lỗi hoặc bằng khoa học giả tạo tách rời khỏi Thiên Chúa, là trào lưu tục hóa phàm trần.

Các thừa sai đã hướng nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, đã đón nhận ơn phúc của Chúa và đã không giữ riêng cho mình. Như thánh Phaolô, các vị trở nên mọi sự cho mọi người; các vị đã biết sống trong thanh bần và sung túc, trong sự no đầy và đói khát; họ có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho họ (Xc Phil 4,12-13). Với sức mạnh ấy của Thiên Chúa, các vị đã có can đảm ”đi ra” trên các nẻo đường của thế giới với lòng tín thác nơi Chúa là Đấng kêu gọi họ. Cuộc sống của một thừa sai là như thế, kết thúc cuộc sống xa nhà, xa quê hương; bao nhiêu lần các thừa sai bị sát hại, như đang xảy ra ngày nay cho bao nhiêu anh chị em chúng ta.

ĐTC nói thêm rằng: ”Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội chủ yếu là loan báo tình thương, lòng bừ bi và sự tha thứ của Thiên Chúa, được mạc khải cho loài người qua cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Các thừa sai đã phục vụ Sứ Mạng của Giáo Hội, bẻ bánh Lời Chúa cho người bé mọn và những người xa xăm nhất, và mang đến cho mọi người hồng ân tình yêu vô tận tuôn chảy từ trái tim của Chúa Cứu Thế.

Thánh François de Laval và thánh nữ Marie Nhập Thể là những người như thế. Anh chị em tín hữu hành hương người Canada thân mến, trong ngày này, tôi muốn để lại cho anh chị em hai lời khuyên, rút từ thư gửi tín hữu Do thái, hai lời khuyên sẽ giúp ích rất nhiều cho các cộng đoàn của anh chị em.

– Lời khuyên thứ I là: ”Hãy nhớ đến các thủ lãnh của anh chị em, những người đã loan báo Lời Chúa cho anh chị em. Khi cứu xét kỹ lưỡng kết quả chung kết cuộc sống của các vị, hãy noi gương đức tin của các vị” (13,7). Ký ức về các thừa sai nâng đỡ chúng ta trong lúc chúng ta cảm thấy sự khan hiếm các thợ của Tin Mừng. Tấm gương của các vị lôi kéo, thúc đẩy chúng ta noi gương đức tin của các ngài. Đó là những chứng tá phong phú sinh ra sự sống!
– Lời khuyên thứ hai là: ”Anh chị em hãy nhớ lại những ngày đầu tiên: sau khi lãnh nhận ánh sáng của Chúa Kitô, anh chị em đã phải chịu đựng một cuộc chiến đấu lớn và cơ cực… Đừng từ bỏ sự ngay thẳng của anh chị em, có một phần thưởng lớn dành cho cho sự ngay thẳng này. Anh chị em chỉ cần kiên trì bền đỗ…” (10,32.35-36). Tôn kính những người đã chịu đau khổ để mang Tin Mừng cho chúng ta, có nghĩa là cả chúng ta cũng tham gia cuộc chiến tốt lành cho đức tin, trong sự khiêm tốn, hiền từ, từ bi, trong cuộc sống hằng ngày. Và điều này mang lại thành quả.

Tưởng niệm những vị đã đi trước chúng ta, những vị đã thành lập Giáo hội chúng ta, Giáo Hội phong phú tại Québec, phong phú với bao nhiêu thừa sai, các vị ra đi khắp nơi. Thế giới đã đầy các thừa sai Canada như hai vị thánh này. Giờ đây tôi có lời khuyên này: việc tưởng niệm các vị không làm cho chúng ta từ bỏ sự thẳng thắn, không từ bỏ can đảm. Ma quỷ ghen tương, và không chấp nhận một phần đất phong phú các thừa sai. Xin Chúa ”ban cho miền Québec trở lại trên con đường phong phú, cung cấp cho thế giới bao nhiêu thừa sai, và xin hai vị thánh đã thành lập Giáo Hội tại Québec, giúp chúng ta như những người chuyển cầu: ước gì hạt giống mà các vị đã gieo vãi, tăng trưởng và mang lại hoa trái là những người nam nữ can đảm, sáng suốt, có tâm hồn mở rộng đối với tiếng gọi của Chúa. Hôm nay anh chị em phải cầu xin điều ấy cho quê hương của anh chị em, và các thánh trên trời sẽ là những vị chuyển cầu cho chúng ta, để Québec tái trở thành nguồn các vị thánh thừa sai can đảm”.
Niềm vui và thách đố trong cuộc hành hương này của anh chị em là: tưởng niệm các chứng nhân, các thừa sai đức tin của đất nước anh chị em. Ký ức này luôn nâng đỡ anh chị em trong hành trình tiến về tương lai, hướng về mục tiêu, khi ”Chúa là Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi gương mặt..”

”Chúng ta hãy vui mừng, hân hoan vì ơn cứu độ của Người” (Is 25,9).

Cuối thánh lễ, ĐHY Gérard Cyprien Lacroix, TGM giáo phận Québec và là giáo chủ Canada, đã đại diện các tín hữu Québec và Canada cám ơn ĐTC vì hồng ân lớn lao là phong hai vị thánh François de Laval và Marie Nhập Thể.
ĐHY Lacroix cho biết ngài đã hướng dẫn một nhóm các tín hữu hành hương sang Pháp, theo vết của hai vị thánh và cuộc lữ hành của phái đoàn đến Roma này để cùng với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô một lần nữa nói lên sự hiệp thông sâu xa và ước muốn đáp lại tiếng gọi thừa sai để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay.

ĐHY cho biết cuộc lữ hàng của các tín hữu Canada không kết thúc ở Roma này, nhưng ”với ơn Chúa, chúng con sẽ tiếp tục tại đất nước chúng con, tại Québec và bất kỳ nơi nào Chúa cần chúng con. Chúng con mong ước ngày càng trở thành những môn đệ – thừa sai giữa lòng thế giới”.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 15 và sau đó, lúc đúng 12 giờ, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ ở phòng làm việc của các vị Giáo Hoàng ở dinh Tông Tòa để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với các tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô Ngài quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng về nhà vua mời gọi mọi người tham dự tiệc cưới. Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân bị lụt ở Genova, bắc Italia, cũng như chào thăm nhiều nhóm các tín hữu hành hương, đặc biệt là các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (dòng Salésiennes) đang nhóm tổng tu nghị ở Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dụ ngôn tiệc cưới

Dụ ngôn tiệc cưới

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.

Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.

Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).

Anh chị em thân mến,

Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.

Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.

Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.

Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v… Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.

Veritas Radio

Y phục xứng kỳ đức

Y phục xứng kỳ đức

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
 
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

a. Điều khó hiểu
 
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán“. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

b. Ý nghĩa dụ ngôn
 
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “cáctá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
 

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới : người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới
 
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo,trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mặc áo cưới

Mặc áo cưới

Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.

Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.

Đó là một tình yêu nhưng không.

Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.

Đó là tình yêu chia sẻ.

Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.

Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.

Tôi phải mặc áo cưới tới dự.

Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.

Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.

Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.

Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).

Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?

2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?

3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt