Lời khuyên thiết thực

Lời khuyên thiết thực

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.

Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.

Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.

1. Thinh lặng là một cõi riêng tư

Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an.

Giữa những ồn ào của đám đông

giữa những sôi nổi của thành công

và ê chề của thất bại

xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.

Giữa những đam mê quay cuồng

giữa những khát khao thèm muốn

và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,

xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu

Giữa lúc bị cuộc đời từ khước

giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,

chẳng có ai để cậy dựa,

xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,

để một mình ở đó

trầm lắng và bình an.

Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.

Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.

Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.

Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.

Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.

Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.

2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng

Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…

Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.

Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.

3. Thinh lặng để sống nội tâm

Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.

Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.

Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.

Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay  Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.

Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.

Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

NHỊP SỐNG KITÔ HỮU

NHỊP SỐNG KITÔ HỮU

Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh. Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.

Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song song cả hồn lẫn xác.

Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.

Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường, làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện, việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.

Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu. Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?

2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?

3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?

4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp 200 năm Sinh Nhật Thánh Bosco

Thư Đức Thánh Cha nhân dịp 200 năm Sinh Nhật Thánh Bosco

ĐTC và cha giám tỉnh dòng Don Bosco

VATICAN. ĐTC cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban thánh Gioan Bosco như một hồng ân cho Giáo Hội và ngài khích lệ các con cái thánh nhân sống những đặc tính thiết yếu trong gia sản tinh thần của thánh Bosco.

Trên đây là nội dung thư ĐTC gửi đại gia đình dòng Salesien, qua trung gian cha Ángel Fernandez Artime, Bề trên Tổng quyền dòng Salesien Don Bosco, nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh nhật của thánh Tổ Phụ.

Thư của ĐTC đề ngày 24-6-2015 và được công bố hôm 16-7-2015 tại Roma, qua đó ngài viết: ”Chúng ta có thể tóm tắt những khía cạnh nổi bật của thánh Bosco: Người sống sự tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa với niềm hăng say đối với phần rỗi các linh hồn và thực thi lòng trung thành với Thiên Chúa và giới trẻ trong cùng một cử chỉ yêu thương. Những thái độ này khiến thánh nhân ”đi ra ngoài” và thực hiện những quyết định can đảm: chọn lựa tận tụy săn sóc giới trẻ nghèo, với ý hướng thực thi một phong trào rộng lớn của người nghèo cho người nghèo; và thánh nhân chọn lựa nới rộng việc phục vụ ấy vượt lên trên các ranh giới ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa và tôn giáo, nhờ lòng hăng say truyền giáo không biết mệt mỏi”.

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Ngày nay gia đình dòng Salesien cũng đang cởi mở hướng về những biên cương mới trong lãnh vực giáo dục và truyền giáo, tiến bước trên những con đường các phương tiện truyền thông xã hội mới mẻ và con đường giáo dục liên văn hóa nơi các dân tộc thuộc các tôn giáo khác nhau, hoặc tại các nước đang trên đường phát triển, hoặc tại những nơi di dân. Những thách đố ở Torino hồi thế kỷ thứ 19 nay đang mặc chiều kích hoàn cầu, như sự tôn thờ tiền bạc, bất công sinh ra bạo lực, chế độ thực dân ý thức hệ và những thách đố văn hóa gắn liền với bối cảnh thành thị. Một số khía cạnh có liên hệ trực tiếp đối với thế hệ người trẻ, như sự phổ biến Internet, và qua đó đang gọi hỏi các con cái nam nữ của Thánh Bosco: anh chị em được kêu gọi làm việc, cứu xét những nguồn năng lực mà Chúa Thánh Linh khơi dậy trong hoàn cảnh khủng hoảng, cùng với những vết thương”.

ĐTC nhắc nhở cho gia đình dòng Salesien hãy làm cho tinh thần sáng tạo theo đoàn sủng của mình được tái triển nở trong và ngoài các cơ sở giáo dục của dòng, với lòng tận tụy tông đồ, đặt mình trên những con đường của người trẻ, nhất là những người trẻ ở các khu vực ngoại ô.

Sau cùng, ĐTC kết luận rằng ”xin Thánh Bosco giúp anh chị em không làm cho những khát vọng sâu xa của người trẻ bị thất vọng: nhu cầu sống, cởi mở, vui tươi, tự do, tương lai, ước muốn cộng tác vào công trình xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, vào việc phát triển mọi dân tộc, bảo vệ thiên nhiên và các môi trường của đời sống” (SD 16-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP Vatican Radio

 

Đợt đối thoại thứ 6 giữa Công Giáo và Pentecostal

Đợt đối thoại thứ 6 giữa Công Giáo và Pentecostal

Công Giáo và Pentecostal

ROMA. Hôm 17-7-2015 đợt đối thoại thứ 6 giữa Công Giáo và Tin Lành Pentecostal đã kết thúc sau 7 ngày tiến hành tại Roma (10-17/7) về đề tài ”Các đoàn sủng trong Giáo Hội: ý nghĩa thiêng liêng, sự phân định và những hệ luận về mục vụ”.

Tham dự khóa họp có các đại diện Công Giáo do Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô bổ nhiệm và một số vị lãnh đạo Giáo Hội Pentecostal. Trong các cuộc gặp gỡ trước đây, hai bên đã bàn đến những chủ đề như: các đoàn sủng, điểm chung của chúng ta (2011), sự chữa lành (2013), và lời ngôn sứ (2014). Hai bên cùng dành khóa họp năm nay để soạn phúc trình chung kết sẽ được công bố vào đầu năm 2016 tới đây.

Mục đích cuộc đối thoại giữa Công Giáo và Pentecostal, bắt đầu từ năm 1972, là để thăng tiến sự tôn trọng và cảm thông với nhau trong các vấn đề đức tin và thực hành. Sự trao đổi chân thành và thảo luận thẳng thắn về lập trường và thực hành của hai truyền thống là những nguyên tắc hướng dẫn các cuộc đối thoại này, trong đó có những buổi cầu nguyện hằng ngày.

Đồng chủ tịch của cuộc đối thoại về phía Công Giáo là Đức Cha Michael Burbidge, GM giáo phận Raleigh, bang Bắc Carolina Hoa Kỳ, và về phía Pentecostal là Giáo sư Cecil Robeck, thuộc Giáo Hội ”Hội Thánh của Thiên Chúa” (Assemblies of God), giáo sư chủng viện thần học Fuller ở Pasadena, tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Trong những khóa họp tại Roma, ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, và vị Tổng thư ký là Đức Cha Brian Farrell, cũng đến gặp gỡ và trao đổi với các tham dự viên.

Pentecostal là một phong trào trong Kitô giáo bắt nguồn từ phong trào thánh thiện trong Giáo Hội Methodist. Các Giáo hội này đặc biệt chú trọng đến phép rửa Thánh Linh. Hiện nay có khoảng 170 hệ phái coi mình là Pentecostal với khoảng 200 triệu người (SD 17-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Nội dung bài phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Assuncion vể Roma

Pope answer on the plane when come back to Rome

Chiều Chúa Nhật 12-7 vừa qua trên chuyến bay từ Paraquay về Roma ĐTC Phanxicô đã dành cho các nhà báo quốc tế một cuộc phỏng vấn dài, liên quan tới chuyến viếng thăm tại ba nước Ecuador, Bolivia và Paraguay, cũng như liên quan tới một vài vấn đề thời sự như cuộc khủng hoảng của Hy Lạp, cuộc đối thoại giữa Cuba và Hoa Kỳ, tình hình Colombia và Venenezuela vv…

Say đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung phần đầu bài phỏng vấn. Bốn câu đầu ĐTC đã trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, các câu sau bằng tiếng Ý.

Nhà báo Anibal Velazquez của nhật báo ABC Color Paraguay hỏi: thưa ĐTC, dân chúng vui mừng vì ĐTC đã nâng đền thánh Caacupé lên hàng Vương cung thánh đường, nhưng họ tự hỏi Paraguay có tội gì mà chưa có Hồng Y?

Đáp: Không có Hồng Y không phải là một tội. Đa số các nước trên thế giới không có Hồng Y. Quốc tịch của các HY là thiểu số. Đúng thật là cho tới nay Paraguay chưa có HY nào. Tôi không biết lý do. Đôi khi để chọn các HY người ta cân nhắc, đọc và nghiên cứu các hồ sơ của từng vị, xem xét con người, nhất là đặc sủng của HY sẽ được chọn để cố vấn cho ĐGH và trợ giúp Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ. HY tuy thuộc về một Giáo Hội địa phương nhưng được gia nhập vào Giáo Hội Roma và có một cái nhìn đại đồng. Điều này không có nghĩa là tại Paraguay không có các Giám Mục có quan điểm vũ hoàn. Nhưng lý do vì không thể chỉ định qúa 120 HY có quyền bầu Giáo Hoàng. Uruguay đã có hai vị. Một vài nước Trung Mỹ cũng đã có HY, nhưng tất cả tuỳ thuộc các hoàn cảnh, con người và đặc sủng. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là các Giám Mục Paraguay không có giá trị gì. Paraguay có các Giám Mục thiên tài. Tôi nhớ là có hai Giám Mục Bogarin đã làm nên lịch sử Paraguay. Nếu nhìn vào Giáo Hội Paraguay thì Paraguay đáng có hai HY, nhưng nó không liên quan gì tới công nghiệp. Paraguay là một Giáo Hội sống động, tươi vui, một Giáo Hội chiến đấu và có một lịch sử vinh quang.

Hai chị Priscilla Quiroga của đài truyền hình Kênh A và chị Cecillia Dorado Nava của nhật báo El Deber Bolivia thì hỏi: xin ĐTC cho biết ý kiến liên quan tới ước muốn  của Bolovia trong cuộc thương thuyết với Chile để có lối ra Thái Bình Dương. Trong trường hợp hai nước xin Tòa Thánh làm trung gian ĐTC có nhận không?

Đáp: Làm trung gian là một việc rất tế nhị và như là bước cuối cùng. Cũng như trong trường hợp giữa Argentina và Chile để tránh một cuộc chiến. Tình hình đã rất là căng thẳng nên Tòa Thánh đã dấn thân, vì thế Thánh Gioan Phaolô II đã luôn chú ý, ngoài ra có thiện chí của cả hai nước muốn thương thuyết. Có điều lạ, ít nhất là bên Argentina có một nhóm không muốn sự trung gian này, và khi tổng thống Alfonsin tổ chức trưng cầu dân ý có muốn chấp nhận đề nghị trung gian không, thì đương nhiên đa số dân nói là có, nhưng có một nhóm không muốn. Luôn luôn khi có vấn đề trung gian, thì khó có chuyện toàn dân đều đồng ý. Nhưng việc làm trung gian là bước cuối cùng, vì luôn luôn có các gương mặt ngoại giao và các người tạo thuận tiện khác trợ giúp giàn xếp vấn đề.

Trong lúc này thì tôi cho rằng phải rất tôn trọng để cho Bolivia đưa vấn đề ra một toà án quôc tế. Vì vậy, nếu tôi bình luận trong lúc này – tôi là thủ lãnh của một quốc gia – nó sẽ có thể bị giải thích như là xen mình vào hay gây áp lực hoặc gì khác. Tôi cho rằng cần tôn trọng quyết định của nhân dân Bolivia. Và cũng cần xem trước đây đã có các yêu cầu đối thoại hay chưa. Tôi không rõ. Điều tôi biết đó là vào thời tổng thống Lagos của Chile, tôi không nhớ rõ thời gian chính xác, người ta đã tìm một giải pháp. Đây là bình luận mà ĐHY Errazuris nói với tôi. Do đó, tôi không muốn nói gì về điều này cả.

Điểm thứ ba mà tôi muốn thừa nhận rõ ràng. Đó là trong nhà thờ chính tòa Bolivia tôi đã đề cập đến một vấn đề rất tế nhị, khi chú ý tới tình hình cậy nhờ toà án quốc tế. Tôi nhớ rõ mình đã nói: “Là anh em thì cần đối thoại, các dân tộc mỹ latinh cần đối thoại để tạo dựng quốc gia lớn, đối thoại cần thiết” Tới đó tôi thinh lặng rồi nói “Tôi nghĩ tới biển”, và tiếp tục nói: “đối thoại và đối thoại”. Tôi tin rằng sự can thiệp của tôi nhắc tới vấn đề này, nhưng tôn trọng tình hình hiện nay. Vì trong một tòa án quốc tế thì không thể nói tới việc làm trung gian, cũng như tạo thuận tiện, mà chỉ hy vọng thôi.

Hỏi: Thưa ĐTC, như thế ước vọng của nhân dân Bolivia có chính đáng không?

Đáp: Luôn luôn có một nền tảng công lý, khi có việc thay đổi ranh giới, và nhất là sau một cuộc chiến. Cần phải liên tục xem xét lại. Tôi sẽ nói rằng việc đề nghị một chuyện thuộc loại này, ước vọng này không phải là không chính đáng. Tôi nhớ là hồi năm 1961, khi đang học triết học năm thứ nhất, chúng tôi nhận được một tài liệu về Bolivia do một cha từ Bolivia đem sang, tôi tin nó có đề tựa là “Mười ngôi sao”. Cha hỏi: “Bolivia có mấy vùng?” Chúng tôi trả lời là có 9 vùng. Cha trả lời “có 10 vùng”, rồi giới thiệu từng vùng một ,và sau cùng là vùng thứ 10 cha nhìn biển và không nói lời nào cả. Tôi rất xúc động. Đó là hồi năm 1961. Nếu người ta thấy là có một khát vọng, thì rõ ràng rồi, sau một trận chiến loại này dấy lên các mất mát, thì tôi tin điều quan trọng nhất là đối thoại, là thương thuyết lành mạnh. Giờ đây trong lúc này việc đối thoại có được là chạy tới tòa án La Haye.

Ông Fredy Paredes, thuộc nhật báo Teleamazonas Ecuador hỏi: Thưa ĐTC, trước chuyến viếng thăm của ĐTC nưóc Ecuador náo loạn, sau khi ĐTC rời nước này, những người chống đối chính quyền lại xuống đường biểu tình. Xem ra sự hiện diện của ĐTC tại Ecuador bị sử dụng cho mục đích chính trị đặc biệt câu ĐTC nói: “Nhân dân Ecuador đã đứng lên với phẩm giá”. Con xin hỏi ĐTC theo thứ tự nếu được: “Câu này trả lời cho cái gì? ĐTC có thiệm cảm với dự án chính trị của tổng thống Correa không? ĐTC có tin rằng các lời nhắn nhủ chung mà ĐTC đã đưa ra trong chuyến viếng thăm tại Ecuador nhằm khích lệ sự tăng trưởng, đối thoại, xây dựng dân chủ và không tiếp tục đường lối chính trị gạt bỏ như ĐTC nói, có được thực thi tại Ecuador hay không?

Đáp: Đương nhiên là có các vấn đề chính trị và các cuộc biểu tình. Điều này thì người ta biết rồi. Tôi không biết các khó khăn của nền chính trị tại Ecuador, nên việc đưa ra một ý kiến từ phía tôi sẽ là điều vô nghĩa. Thế rồi người ta nói với tôi,  như một dấu ngoặc trong chuyến viếng thăm của tôi, là tôn trọng chuyến viếng thăm của ĐGH, đó là diều tôi xin cám ơn và trân trọng. Giờ đây các sự vật biến chuyển, và đương nhiên là các vấn đề và các thảo luận chính trị tiếp diễn. Liên quan tới câu nói mà anh đề cập đến, tôi có ý ám chỉ ý thức lớn hơn mà người dân Ecuador có đối với giá trị của họ. Một trận chiến biên giới với Peru không làm được nhiều. Có các lịch sử chiến tranh. Rồi có một ý thức lớn hơn đối với sự khác biệt và phong phú chủng tộc của Ecuador. Và diều này trao ban phẩm giá. Ecuador không phải là một nước bị gạt bỏ. Nó quy chiếu toàn dân và tất cả phẩm giá của dân tộc này, sau cuộc chiến biên giới, họ đã đứng lên với phẩm giá, và đã có ý thức hơn về phẩm giá và sự phong phú của sự hiệp nhất trong khác biệt của mình. Không thể gán cho một tình hình cụ thể, bởi vì cũng chính câu này – người ta bình luận, nhưng tôi không thấy như thế – bị lèo lái để giải thích cả hai tình trạng: chính quyền đã đứng lên tại Ecuador hay những người chống chính quyền đã dứng lên. Một câu nói có thể bị lèo lái, và vì thế tôi tin là cần rất thận trọng. Tôi xin cám ơn câu hỏi cuả anh, bởi vì đó là một kiểu cẩn thận. Và anh đang nêu gương cẩn thận đấy.

Nếu anh chị em cho phép. Việc giải thích một văn bản thật rất quan trọng trong công việc của anh chị em. Không  thể giải thích nó chỉ với một câu. Có những câu là chià khóa  của việc giải thích, và có những câu không là chìa khóa nhưng là những câu qua đi, hay linh động. Vì vậy, cần xem xét hết bối cảnh, tình hình và lịch sử. Nhìn lịch sử của lúc này, hay chúng ta đang nói tới qúa khứ, giải thích một sự kiện quá khứ với kiểu giải thích của thời đó. Chẳng hạn như các cuộc chiến của thập tự quân cần phải giải thích chúng với kiểu giải thích của thời bấy giờ. Điều nòng cốt là giải thích một diễn văn, hay bất cứ bản văn nào, với một loại giải thích toàn vẹn, chứ không cô lập.

Chị Stefania Falasca của nhật báo Avvenire của Italia hỏi: Thưa ĐTC, trong bài nói chuyện với các Phong trào bình dân tại Bolivia ĐTC  đã đề cập tới phong trào tân thực dân và việc tôn thờ thần tiền khống chế nền kinh tế và áp đặt các chính sách thắt lưng buộc bụng luôn luôn thiệt thòi cho dân nghèo. Từ nhiều tuần nay bên Âu châu chúng ta có trường hợp của Hy Lạp và số phận của nước này có nguy cơ ra khỏi khối Euro. ĐTC nghĩ gì về những điều đang xảy ra tại Hy Lạp và cũng liên quan tới Âu châu?

Đáp: Trước hết bởi vì sự can thiệp này cuả tôi trong đại hội của các Phong trào bình dân là lần can thiệp thứ hai. Lần thứ nhất là tại Vaticăng trong phong họp cũ của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, hồi đó có 120 tham dự viên. Cuộc hội này đã do Hội Đồng Toà Thánh Công Lý và Hoà Bình tổ chức. Tôi gần gũi với nó, bởi vì nó là một hiện tượng trên toàn thế giới. Kể cả bên Đông phương, bên Philippines, Ấn Độ, Thái Lan. Chúng là các phong trào được tổ chức giữa chúng, không phải chỉ để phản đối mà để tiến tới và có thể sống. Và chúng là các phong trào có sức mạnh, và các anh chị em này đông biết bao. Họ không cảm thấy được đại diên bởi các nghiệp đoàn, vì họ nói rằng các nghiệp đoàn ngày nay là một nghiệp hội, không tranh đấu nữa – tôi đang đơn giản hóa một chút – nhưng ý tưởng của biết bao nhiêu người của các anh chị em này đó là các nghiệp đoàn không tranh đấu cho các quyền lợi của người nghèo. Và Giáo Hội không thể thờ ơ. Giáo Hội có một Giáo lý xã hội  và đối thoại với phong trào này và đối thoại tốt. Anh chị em đã thấy lòng hăng hái cảm nhận được rằng Giáo Hội không xa cách chúng ta, Giáo Hội có một giáo lý giúp chúng ta tranh đấu cho điều này. Đó là một cuộc đối thoại. Không phải Giáo Hội lựa chọn con đường vô chính phủ. Không. Họ không vô chính phủ. Họ là những người làm việc, tìm làm biết bao công việc, kể cả với  những gì bị vứt bỏ, những gì thừa thãi. Họ  thực sụ là các công nhân. Đó là tầm quan trọng của sự kiện này.

Liên quan tới Hy Lạp và hệ thống quốc tế: tôi rất dị ứng với kinh tế, bởi vì cha tôi đã là một kế toán viên và khi không làm xong việc ở sở, thì người đem về nhà làm, cả ngày thứ bẩy và Chúa Nhật, với các sách thời đó, viết theo kiểu chữ gô tích, và người làm việc… và tôi trông thấy cha tôi như vậy, và tôi dị ứng. Tôi không hiều rõ sự việc  ra sao, nhưng chắc chắn sẽ đơn sơ khi nói rằng lỗi chỉ là tại phần này. Các chính quyền Hy Lạp đã đưa tình trạng nợ nần quốc tế tới diểm này cũng có phần trách nhiệm của họ. Với chính quyền mới người ta đã đi tới một việc duyệt xét hơi đúng. Tôi cầu mong và đây là điều duy nhất tôi có thể nói với chị, vì tôi không biết  rõ… tôi cầu mong họ tìm ra một con đường dể giải quyết vấn đề Hy Lạp, và cả một con đường để giám sát không để xảy ra vấn đề này trong các nước khác; và ước gì điều này giúp chúng ta tiến tới, bởi vì con đường vay mượn và nợ nần sau cùng không bao giờ tận. Người ta đã nói với tôi cách đây một năm rằng Liên Hiệp Quốc có một chương trình (nếu ai trong anh chị em biết thì xin giải thích ), một chương trình theo đó một quốc gia có thể tuyên bố mình vỡ nợ, không phải là tình trạng default, nhưng một chương trình tôi đã nghe và không biết nó đã đi tới đâu rồi, và có thật hay không. Tôi nói thể để minh giải thôi, nếu một hãng xưởng có thể tuyên bố mình vợ nợ, thì tại sao một nước lại không thể làm như thế, và đi tới sự trợ giúp của các nước khác? Đó đã là các nền tảng của dự án, nhưng tôi không thể nói thêm gì khác.

Liên quan tới các tân thực dân: đương nhiên là chúng liên quan tới mọi giá trị rồi. Thực dân của chủ thuyết tiêu htụ. Chiếc áo của huynh hướng tiêu thụ đã là một tiến bộ của thực dân. Vì nó đưa tới cho bạn một thói quen không phải là của bạn, và nó cũng khiến cho bạn mất thăng bằng. Chủ thuyết tiêu thụ cũng khiến cho nền kinh tế bên trong một nước mất thăng bằng, cả công lý xã hội và sức khoẻ thể lý và tâm thần cũng mất thăng bằng. Đó là một thí dụ thôi.

Chị Anna Matranga, phóng viên của đài trruyền hình CBS hỏi: Thưa ĐTC một trong các sứ điệp mạnh mẽ nhất của chuyến công du này đó là hệ thống kinh tế toàn cầu thường áp đặt tâm thức của lợi nhuận bằng mọi giá, gây thiệt hai cho dân nghèo. Điều này bị dân Mỹ coi như là lời chỉ trích trực tiếp hệ thống kinh tế và kiểu sống của họ. ĐTC trả lời thế nào cho nhận thức này? Và đâu là lượng định của ĐTC đối với ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên  thế giới?

Đáp: Điều tôi đã nói, câu nói ấy không mới mẻ. Tôi đã nói trong Thông điệp Niềm Vui Phúc Âm: “nền kinh tế này giết chết”. Tôi nhớ rõ câu này. Có một bối cảnh. Và tôi cũng nói trong Thông điệp “Laudato si’ “, việc chỉ trích không phải là một điều mới lạ, người ta biết đó. Tôi đã nghe rằng bên Hoa Kỳ đã có vài lời chỉ trích. Tôi đã nghe, nhưng tôi chưa đọc và nghiên cứu để rồi đối thoại. Chị sẽ hỏi  tôi nghĩ gì, nhưng nếu tôi chưa đối thoại với những người đã chỉ trích, thì tôi không có quyền đưa ra một tư tưởng, cô lập khỏi cuộc đối thoại.

Hỏi: Thưa ĐTC giờ đây ĐTC sẽ sang Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ mình sẽ được tiếp đón như thế nào không, ĐTC có ý tưởng nào về quốc gia này không?

Đáp: Không, bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu, bởi vì cho tới nay tôi đã nghiên cứu ba nước rất xinh đẹp mới viếng thăm này, chúng là một sự phong phú và là một vẻ đẹp. Bây giờ tôi phải bắt đầu nghiên cứu nước Cuba, vì tôi sẽ viếng thăm trong hai ngày rưỡi, rồi Hoa Kỳ, ba thành phố miền Đông – vì tôi không thể đi đến miền Tây – là Whasington, New York và Philadelphia, tôi phải bắt đầu nghiên cứu các chỉ trích này rồi đối thoại một chút.

Chị Aura Vistas Miguel hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC đã cảm thấy gì khi trông thấy cây thánh giá hình búa liềm và Chúa Kitô trên đó, do tổng thống Morales dâng tặng? Và cây Thánh Giá ấy đâu rồi?

Đáp: Thật là lạ, tôi không biết điều này và tôi cũng không biết là cha Espinal đã là một nhà điêu khắc và cũng là thi sĩ. Tôi mới chỉ biết trong các ngày này thôi. Tôi đã thấy cây thánh giá, và đối với tôi nó đã là một ngạc nhiên. Điều thứ hai, có thể coi nó như loại nghệ thuật phản đối. Chẳng hạn tại Buenos Aires, cách đây vài năm, đã có một cuộc triển lãm của một điêu khắc gia rất giỏi, có óc sáng tạo, người Argentina. Bây giờ ông ta chết rồi. Nó đã là nghệ thuật phản kháng, và tôi nhớ có một tác phẩm là “Chúa Kitô bị đóng đanh trên một máy bay bỏ bom đang lao đầu xuống”. Đó đã là một chỉ trích chống lại Kitô giáo liên minh với chế độ tư bản là máy bay bỏ bom. Như thế, điểm thứ nhất tôi đã không biết, điểm thứ hai tôi định tính nó như là nghệ thuật phản kháng, trong một vài trường hợp có thể gây xúc phạm. Thứ ba, trong trường hợp cụ thể ở đây Cha Espinal thuộc loại này. Điều này thì tôi biết, vì hồi đó tôi là phân khoa trưởng phân khoa thần học, và người ta đã nói nhiều tới chuyện này, tới các khuynh hướng khác nhau và ai là các người đại diện. Trong cùng năm ấy Cha Bề Trên tổng quyền dòng Tên Arrupe đã viết một bức thư cho toàn dòng liên quan tới việc phân tích  thực tại thần học theo khuynh hướng mác xít, và khẳng định rằng làm như thế là không được. Chúng là các điều khác nhau, làm như thế là không được và không đúng đắn. Và bốn năm sau, năm 1984 Bộ Giáo Lý Đức Tin công bố tập sách nhỏ đầu tiên chỉ trích điều này, đó là tuyên bố đầu tiên về nền thần học giải phóng. Rồi đến tập thứ hai mở ra các viễn tượng có tính chất kitô hơn. Tôi đang đơn giản hoá một chút có phải thế không ạ? Chúng ta hãy giải thích thời đó Espinal đã là một người hứng khởi đối với phân tích này của thực tại mác xít, cũng như của thực tại thần học, bằng cách dùng chủ thuyết mác xít. Tác phẩm này phát xuất từ đó. Cả các bài thơ của cha Espinal cũng thuộc loại phản kháng này, nhưng đó đã là cuộc sống, tư tưởng của cha, cha đã là một người đặc biệt, với biết bao nhiêu tài năng thiên phú, và cha tranh đấu trong ý hướng ngay lành. Tôi đã phải giải thích như thế và nói với anh chị em để đừng có các ý kiến sai lầm. Cây thánh giá ấy giờ đây tôi mang theo với tôi, đi với tôi. Có lẽ chị đã nghe biết là tổng thống Morales đã muốn trao tặng tôi hai huân chương, huân chương quan trọng nhất nước Bolivia và huân chương kia thuộc Hội  cha Espinal, một hội mới. Tôi  đã không bao giờ nhận một huân chương, nó không thích hợp với tôi. Nhưng tổng thống đã làm điều này với tất cả thiện chí với ưóc mong khiến cho tôi hài lòng. Và tôi nghĩ rằng chúng đến từ nhân dân Bolivia. Tôi đã cầu nguyện trên  các huân chương ấy, và tôi đã nghĩ, nếu tôi đem về Vaticăng, thì chúng sẽ nằm trong một viện bảo tàng, và sẽ không có ai trông thấy. Do đó tôi đã nghĩ để chúng lại cho Đức Bà Copacabana, là Mẹ của dân nước Bolivia. Chúng sẽ được đem đến đền thánh Đức Mẹ Copacabana, tôi đã giao hai huân chương ấy rồi. Trái lại Chúa Kitô thì tôi đem theo với tôi.

Chị Anaiis Feuga hỏi: Thưa ĐTC, trong thánh lễ tại Guayaquil ĐTC đã nói rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục phải làm chín mùi một sự phân định để tìm ra các giải pháp cụ thể cho các khó khăn của gia đình. Rồi ĐTC đã xin tín hữu cầu nguyện cho những gì đối với chúng ta xem ra là ô uế, gây gương mù gương xấu, hay khiến cho chúng ta sợ hãi, để Thiên Chúa có thể biến đổi thành phép lạ. Xin ĐTC xác định đâu là các tình trạng ô uế hay gây hoảng sợ hoăc gây gương mù gưong xấu mà ĐTC muốn ám chỉ.?

Đáp: Ở đây nữa tôi cũng sẽ giải thích bối cảnh văn bản. Tôi đã nói tới phép lạ rượu ngon, và tôi nói rằng các vại nước đầy, nhưng là để cho việc thanh tẩy. Mỗi người vào dự lễ cưới đều thanh tẩy và để các dơ nhớp tinh thần của mình ở ngoài. Đó là lễ nghi thanh tẩy trưóc khi vào một nhà nào hay vào đền thờ. Một lễ nghi mà bây giờ chúng  ta có trong nước thánh: nó là phần còn lại của lễ nghi do thái xưa kia. Tôi đã nói rằng chính Chúa Giêsu đã làm ra rượu ngon nhất với nước để rửa các nhơ nhớp, rửa cái tồi tệ nhất. Nói chung chung, tôi đã nghĩ tới việc chú giải này: gia đình bị khủng hoảng – chúng ta tất cả đều biết – chỉ cần đọc tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình mà anh chị em biết đó, vì nó đã được trình bầy trong đó rồi. Chúng tôi đã ám chỉ tất cả những điều ấy: ước chi Chúa thanh tẩy chúng ta khỏi cuộc khủng hoảng này, khỏi biết bao nhiêu điều được miêu tả trong Tài liệu làm việc. Nó là một điều chung chung, chứ tôi đã không nghĩ đến một điểm đặc biệt nào. Xin Chúa khiến cho chúng ta trở nên tốt lành hơn, cho gia đình của chúng ta trưởng thành và tốt lành hơn. Gia đình đang gặp khủng hoảng, xin Chúa thanh tẩy chúng ta và chúng ta tiến tới. Nhưng các điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này thì ở trong Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà anh chị em có.

Anh Javier Martinez Brocal của hãng thông tin  Romereports hỏi: Thưa ĐTC, xin cám ơn ĐTC vì cuộc đối thoại giúp cá nhân chúng con cũng như công việc của chúng con. Con hỏi thay mặt tất cả các nhà báo nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta đã thấy việc trung gian giữa Cuba và Hoa Kỳ xuôi chảy. ĐTC có nghĩ là có thể làm điều gì đó giống như thế trong các tình hình tế nhị khác của Châu Mỹ Latinh hay không, con nghĩ tời Venezuela và cả Colombia nữa? Rồi con có một tò mò: con nghĩ tới cha con ít hơn ĐTC vài tuổi, nhưng chỉ có phân nửa năng lực của ĐTC thôi. Chúng con đã trông thấy năng lực ấy của ĐTC trong chuyến viếng thăm này, và từ hai năm rưỡi nay. ĐTC có bí quyết nào vậy?

Đáp: Đâu là loại “ma tuý” ĐTC dùng, anh ấy muốn hỏi vậy ấy mà.  Đó đã là câu hỏi.

Tiến trình giữa Cuba và Hoa Kỳ đã không có sự trung gian nào. Nó đã không có tính cách trung gian. Đã có ước muốn từ hai phía. Và tôi xin nói thật, điều này đã xảy ra hồi tháng giêng năm ngoái và ba tháng trôi qua trong đó tôi đã chỉ cầu nguyện cho việc này thôi, tôi đã không quyết định gì: mà có thể làm gì cho hai nước này sau 50 năm họ ở trong tình trạng như thế? Nhưng Chúa đã làm cho tôi nghĩ tới một Hồng Y. Ngài đã qua đó, đã nói chuyện, rồi tôi cũng đâu có biết gì đâu, rồi một hôm ĐHY Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, cũng hiện diện ở đây, đến nói vơi tôi: Ngày mai chúng con có cuộc họp với hai phái đoàn… “Mà làm sao?” “Vâng họ nói chuyện với nhau giữa hai nhóm và họ đang làm điều đó”. Nó đã chạy một mình, đã không có việc làm trung gian. Đó đã là thiện chí của hai nước: công lao là của họ, chính họ đã làm điều này. Chúng tôi hầu như đã không làm gì cả, chỉ làm các điều bé nhỏ thôi, và giữa tháng 12 thì tin được loan ra. Câu chuyện là như thế, thực sự không có gì khác nữa. Điểu tôi lo lắng là trong lúc này đây tiến trình hòa bình đừng ngưng lại, và trong nghĩa này chúng tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ, trong biết bao cách thế. Nhưng sẽ là điều xấu, nếu câu chuyện không tiến tới. Bên Venezuela HĐGM làm việc để đem lại một chút hòa bình, nhưng ở đây cũng thế đã không có việc làm trung gian. Trong trường hợp của Hoa Kỳ đó đã là do Chúa và hai việc tình cờ, rồi nó tiến tới một mình. Đối với Colombia tôi cầu mong và cầu nguyện,  và chúng ta phải cầu nguyện để tiến trình này đừng dừng lại. Nó là một tiến trình đã kéo dài hơn 50 năm nay rồi, và đã có biết bao nhiêu người chết! Tôi nghe nói là có hàng triệu. Liên quan tới Venzuela tôi không có gì để nói.

Ah còn chuyện “ma tuý”. Nhưng mà chỉ có trà mate giúp tôi thôi, tôi đã không nếm coca. Điều này rõ rồi chứ?

Anh Ludwig Ring-Eifel thuộc hãng thông tấn KNA của Đức hỏi: Thưa ĐTC, trong chuyến công du này chúng con đã nghe biết bao nhiêu sứ điệp mạnh mẽ cho người nghèo, cả các sứ điệp mạnh mẽ và đôi khi nghêm khắc nữa đối với người giầu và kẻ quyền th. Nhưng có một điều mà chúng con đã nghe nói tới rất ít đó là các sứ điệp cho giới trung lưu, nghĩa là những người làm việc, trả thuế, dân thường. Con muốn hỏi tại sao trong huấn quyền của ĐTC lại có ít sứ điệp cho lớp trung lưu như vậy? Và nếu có thì đó là sứ điệp nào?

Đáp: Xin cám ơn anh rất nhiều, đó là một sửa sai rất đẹp. Xin cám ơn. Anh có lý, đó là một sai lầm từ phía tôi. Tôi phải nghĩ tới điều này. Tôi sẽ đưa ra vài bình luận, nhưng không phải để biện minh cho tôi. Anh có lý, tôi phải suy nghĩ một chút. Thế giới này có nhiều cực. Lớp trung lưu trở thành bé nhỏ hơn. Có sự  toàn cầu hóa lớn giữa người giầu và người nghèo. Đây là điều có thật, và có lẽ điều này khiến cho tôi đã không chú ý tới giới trung lưu. Tôi nói về thế giới, vài nước thì không, chúng  chạy rất tốt, nhưng trên thế giới nói chung người ta trông thấy việc tạo thành hai cực này và con số người nghèo rất lớn. Thế rồi tại sao tôi nói tới người nghèo? Bởi vì nó là trọng tâm của Tin Mừng, và tôi luôn luôn nói từ Tin Mừng về sự nghèo khó, tự nó có tính cách xã hội học. Tôi cũng có vài lời nói về lớp trung lưu, nhưng chỉ lướt qua. Nhưng người dân đơn sơ, ngưòi dân thường, lớp công nhân, giai tầng ấy có giá trị lớn. Nhưng tôi tin rằng anh đã nói tới một điều mà tôi phải làm, tôi phải đào sâu hơn giáo huấn về điểm này, Tôi xin cám ơn anh về sự trợ giúp.

Chị Vania De Luca thuộc chương trình truyền hình Rainews 24 giờ hỏi: Thưa ĐTC, trong các ngày này DTC đã nhấn mạnh trên sự cần thiết của các lộ trình hội nhập, bao gồm xã hội, chống lại tâm thức gạt bỏ. ĐTC đã ủng hộ cả các dự án đi theo hướng này của việc sống hạnh phúc. Cả khi ĐTC đã cho biết phải nghĩ tới chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, ĐTC có nghĩ tới việc đề cập tới các vấn đề này tại Liên Hiệp Quốc, tại Tòa Bạch Ốc hay không? ĐTC có nghĩ tới chuyến công du này khi nói  tới các vấn đề này hay không?

Đáp: Không, tôi đã chỉ nghĩ đến chuyến viếng thăm cụ thể này và tới thế giới nói chung. Nhưng nợ nần của các nước trên thế giới trong lúc này thật kinh khủng, Tất cả mọi nước đều nợ, và có một vài nước đã mua nợ của các nước lớn. Đây là một vấn đề quốc tế. Nhưng với điều này tôi đã không đặc biệt nghĩ tới chuyến đi Hoa Kỳ.

Anh Courtney Wals của đài Fox News hỏi: Thưa ĐTC, chúng ta đã nói một chút về Cuba, nơi ĐTC sẽ viếng thăm vào tháng 9 tới đây trước khi đi Hoa Kỳ, cũng như nói tới vai trò của Vaticăng trong việc làm cho hai nước xích lại gần nhau. Bây giờ Cuba sẽ có một vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, theo ĐTC chính quyền La Habana có phải cải tiến danh tiếng của mình liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người kể cả quyền tự do tôn giáo không? Và ĐTC có tin rằng Cuba có nguy  cơ mất đi điều gì trong liên hệ mới này với quốc gia mạnh nhất thế giới hay không?

Đáp: Các quyền con người là để cho tất cà mọi người và người ta tôn trọng các quyền con người chỉ trong một hai nước mà thôi. Tôi sẽ nói rằng trong biết bao nhiêu nước, trong biết bao nhiêu miền trên thế giới này người ta không tôn trọng các quyền con người.

Cuba mất cái gì và Hoa Kỳ mất cái gì? Điều mà cả hai nước đều có được đó là hòa bình. Đây là điều chắc chắn. Sự gặp gỡ, tình bạn, sự cộng tác: đó là điều chiếm được. Nhưng hai nước mất cái gì thì tôi chưa nghĩ ra được; sẽ là những điều cụ thể, nhưng luôn luôn trong một cuộc thương thuyết nguời ta  được và mất. Trở lại với các quyền con người và tự do tôn giáo, anh chị em hãy nghĩ trên thế giới có các nưóc, kể cả vài nước âu châu, vì các lý do khác nhau người ta không để cho bạn làm một dấu chỉ tôn giáo nữa. Và trong các đại lục khác cũng thế, đúng không? Điều này đúng, Tự do tôn giáo không được tôn trọng trên toàn thế giới, trong biết bao nhiêu nước xảy ra như thế.

Anh Benedicte Lutaud hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC như là vị lãnh đạo quốc tế mới của các chính sách thay thế , con muốn biết tại sao ĐTC lại chú ý tới các Phong trào bình dân, và ít chú ý tới thế giới kinh doanh như vậy, và ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay ra cho các phong trào bình dân rất đời hay không?

Đáp: Thế giới của các Phong trào bình dân là một thực tại; nó là một thực tại rất to lớn trên toàn thế giới. Vậy tôi đã làm gì? Điều tôi đã làm là trao ban giáo lý xã hội của Giáo Hội cho nó, đó cũng là điều tôi làm đối với giới kinh doanh. Có một giáo lý xã hội của Giáo Hội. Nếu anh đọc điều tôi đã nói với các Phong trào bình dân, là một diễn văn khá dài, nó là một tóm lược giáo lý của Giáo Hội. Tất cả những gì tôi đã nói là giáo lý xã hội của Giáo Hội, và khi tôi phải nói với thế giới kinh doanh tôi cũng nói cùng điều đó, nghĩa là Giáo lý xã hội của Giáo Hội nói gì với thế giới kinh doanh. Thí dụ trong Thông điệp “Laudato si’” có một đoạn về công ích và cả nợ nần xã hội của tư sản đi theo chiều hướng này đó là áp dụng giáo lý xã hội của Giáo Hội.

Hỏi: ĐTC có nghĩ rằng Giáo Hội sẽ theo ĐTC trong việc giang tay này không?

Đáp: Ở đây chính tôi theo Giáo Hội, bởi vì tôi chỉ đơn sơ rao giảng Giáo Lý xã hội của Giáo Hội cho Phong trào này. Đó không phải là một bàn tay giang ra cho một kẻ thù, nó không phải là một sự kiện chính trị, không. Nó là một sự kiện dậy giáo lý. Tôi muốn rằng điều này rõ ràng.

Chị Cristina Cabrejas hỏi: Thưa ĐTC, ĐTC có sợ hãi rằng các diễn văn của ĐTC bị lèo lái bởi các chính quyền, các nhóm quyền lực, các phong trào không?

Đáp: Tôi lập lại một chút những gì đã nói từ đầu. Mỗi một lời nói, mỗi một câu của một diễn văn có thể bị lèo lái. Đó là điều nhà báo Ecuador đã hỏi tôi. Cùng một câu ấy nhưng có vài nguời nói là phò chính quyền, và người khác thì nói là chống chính quyền. Đôi khi có các tin tức chỉ lấy một câu và bên ngoài bối cảnh. Vâng, tôi không sợ, tôi chỉ nói một cách đơn sơ nhưng anh chị em hãy nhìn bối cảnh. Nếu tôi sai, thì với một chút xấu hổ tôi xin lỗi thôi và tiếp tục.

Hỏi: Thưa ĐTC, xin cho phép con hỏi đùa một chút. ĐTC nghĩ gì về tất cả các hình tự chụp giữa thánh lễ mà giới trẻ, trẻ em và các bạn bè họ làm?

Đáp: Tôi nghĩ gì ấy à? Đó là một nền văn hóa khác. Tôi cảm thấy mình là ông cố nội. Hôm nay khi từ giã, một anh cảnh sát to lớn, có lẽ khoảng 40 tuổi, đã nói với tôi: con xin chụp một bức hình vói ĐTC. Tôi đã nói với anh: mà anh là một thiếu niên. Vâng, đó là một nền văn hóa khác, nhưng tôi tôn trọng nó.

Anh Andrea Tornielli hỏi: Thưa ĐTC, đúc kết lại, ĐTC đã muốn để lại cho Giáo Hội tại châu Mỹ Latinh sứ điệp nào trong những ngày này? Và Giáo Hội Mỹ Latinh có vai trò nào, kể cả như dấu chỉ trong thế giới?

Đáp: Giáo Hội Mỹ Latinh có một sự phong phú lớn: đó là một Giáo Hội trẻ và điều này quan trọng. Một Giáo Hội trẻ với một sự tươi mát, cả với một vài không hình thức. Nó cũng có một nền thần học, một nghiên cứu phong phú. Tôi đã muốn trao ban tâm hồn cho Giáo Hội trẻ này và tôi tin rằng Giáo Hội trẻ này có thể cho chúng ta biết bao nhiêu điều hay đẹp. Trong cả ba quốc gia dọc đường có các người cha các bà mẹ với trẻ em; họ cho thấy các em. Chưa bao giờ tôi đã lại trông thấy nhiều trẻ em như vậy, biết bao nhiêu trẻ em. Đó là một dân, và Giáo Hội cũng như vậy, đó là một bài học cho chúng ta, cho Âu châu, nơi số sinh giảm sút gây hoảng sợ một chút, và cả việc cũng ít có các đường lối chính trị trợ giúp các gia đình đông con. Tôi nghĩ tới nước Pháp có một đường lối chính trị đẹp trợ giúp các gia đình đông con nên đã đạt hơn 2% số sinh, trong khi các nước khác thì có số sinh gần zero, cả khi không phải mọi nước đều như thế. Tôi tin rằng bên Albania có 45%, nhưng bên Paraguay có tói hơn 70% dân số từ 40 tuổi trở xuống. Sự phong phú của dân tộc và Giáo Hội này đó là một Giáo Hội sống động. Đó là một sự phong phú, một Giáo Hội của sự sống. Điều này quan trọng. Tôi tin rằng chúng ta phải học hỏi từ điều này và sửa chữa lại, bởi nếu không, nếu không có con cái… Đó là điều mà tôi đã nói biết bao lần về sự gạt bỏ! Người ta gạt bỏ trẻ em, người ta gạt bỏ người già, và với sự kiện thiếu công ăn việc làm người ta gạt bỏ người trẻ. Vì thế các dân tộc mới, các dân tộc trẻ trao ban cho chúng ta nhiều sức mạnh hơn. Đối với Giáo Hội tôi sẽ nói rằng một Giáo Hội trẻ – với biết bao nhiêu vấn đề, bởi vì có các vấn đề – tôi tin rằng đó là sứ điệp mà tôi tìm thấy: đừng sợ hãi cho tuổi trẻ này và cho sự tươi mát này của Giáo Hội.  Có thể đó là một Giáo Hội hơi vô kỷ luật một chút, nhưng với thời gian sẽ kỹ luật và trao ban cho chúng ta biết bao điều tốt đẹp.

(SD 13-7-2015)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngân Sách năm 2014 của Tòa Thánh bị hụt 25,6 triệu Euro

Ngân Sách năm 2014 của Tòa Thánh bị hụt 25,6 triệu Euro

VATICAN. Trong năm 2014, ngân sách của Tòa Thánh bị thiếu hụt 25 triệu 600 ngàn Euro.

Theo thông cáo do Hội đồng Hồng Y về kinh tế công bố hôm 16-7-2015, con số thiếu hụt trên đây gần với số thiếu hụt trong năm 2013 trước đó, là 24 triệu 400 ngàn Euro.

Số tiền do các giáo phận và dòng tu đóng góp cho Tòa Thánh trong năm 2014 là 21 triệu Euro và Viện Giáo Vụ quen gọi là ngân hàng Vatican góp 50 triệu Euro.

Phần lớn số chi trong ngân sách Tòa Thánh là để trả lương cho 2.880 nhân viên thuộc 64 cơ quan khác nhau, với 126 triệu 600 ngàn Euro.

Trong năm 2015, ngân sách của Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican dư được 63 triệu 519 ngàn Euro, tức là nhiều hơn gần 30 triệu Euro so với số dư của phủ này trong năm 2013 là 33 triệu 42 ngàn Euro. Phủ Thống quốc quốc gia thành Vatican có 1.930 nhân viên, và phần lớn số thu đến từ bảo tàn viện Vatican và số tiền đầu tư thuận lợi.

Thông cáo của Hội đồng Hồng Y cho biết trong năm 2015, ngân sách của Tòa Thánh tiếp tục sẽ thiếu hụt.

Ngoài ra, Hội đồng cho biết gia sản của Tòa Thánh tăng lên 939 triệu Euro nhờ sự điều chỉnh bằng cách bao gồm rất cả các hoạt động và tiền thiếu hụt khi kết toán ngân sách 2014. Trước đây có những khoản tiền dự trữ của các cơ quan Tòa Thánh không được ghi trong ngân sách.

Kết toán của Tòa Thánh từ nay được thi hành theo các nguyên tắc quốc tế. (SD 16-7-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

1 triệu người dự thánh lễ chót của Đức Thánh Cha tại Paraguay

1 triệu người dự thánh lễ chót của Đức Thánh Cha tại Paraguay

Pope celebrated mass in Paraguay

ASUNCIÓN. Trong thánh lễ cuối cùng sáng chúa nhật 12-7-2015 kết thúc cuộc viếng thăm Mỹ châu, ĐTC kêu gọi hơn 1 triệu tín hữu thực thi tinh thần hiếu khách.

Sáng chúa nhật, sau khi viếng thăm khu phố nghèo Banado Norte, ĐTC đã đến Đền thánh ”Nu Guazú – Thánh Giá thánh Gioan Phaolô 2” để cử hành thánh lễ cho các tín hữu. Chính tại nơi này, trong chuyến viếng thăm cách đây 27 năm, ngày 16-5 năm 1988, Đức Cố Giáo Hoàng đã chủ sự thánh lễ để tôn phong hiển thánh cho cha Roque Gonzalez Thánh Giá và các bạn tử đạo. Cánh đồng rộng lớn này ở trong khu vực một căn cứ không quân và có thể tiếp nhận 1 triệu 500 ngàn người.

Từ thứ bẩy hôm trước, 11-7, 150 ngàn người đã đến đây để chuẩn bị tham dự thánh lễ cuối cùng của ĐTC trong cuộc viếng thăm.

Đến nơi vào lúc quá 9 giờ 15 phút sáng, ĐTC đã dành gần nửa tiếng đồng hồ tiến qua các lối đi để chào thăm hơn một triệu tín hữu tụ tập tại đây, trong bầu không khí rất nồng nhiệt, trong đó cũng có hàng trăm ngàn người từ Argentina láng giềng qua đây để dự lễ với ĐTC, xét vì theo chương trình, năm tới ngài mới trở về thăm quê hương. Hiện diện trong thánh lễ cũng có tổng thống Horadio Cartes của Paraguay và bà tổng thống Kristin Kirchner của Argentina.

Đồng tế với ĐTC có hàng trăm GM, trong đó có 22 GM Paraguay, 50 GM Ecuador và Bolivia cùng với các GM khách, và đông đảo các linh mục.

Lễ đài thật là đặc biệt do nghệ sĩ Delfin Roque Ruiz thực hiện với rất nhiều bắp ngô màu vàng và vỏ dừa nâu, do hàng ngàn nông dân tặng. Với các chất liệu đó, Ông Roque Ruiz đã ghép thành huy hiệu của dòng Tên, hình thánh Phanxicô Assisi và thánh Ignaxio Loyola. Trên các vỏ dừa ở phần dưới lễ đài có ghi nhiều sứ điệp của ĐTC.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng ghi lại lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ khi ngài sai họ đi rao giảng Tin Mừng: đừng mang theo gậy, bị, tiền bạc, hai áo, và ngài nhấn mạnh đến một từ là chìa khóa của linh đạo Kitô giáo, trong kinh nghiệm làm môn đệ Chúa, đó là lòng hiếu khách, sự đón tiếp. Chúa Giêsu như một bậc thầy, một nhà sư phạm giỏi, sai các môn đệ đi sống lòng hiếu khách. Chúa nói với họ: ”Các con hãy ở lại nơi mà họ đón tiếp các con”. Chúa sai họ đi để học một trong những đặc tính cơ bản của cộng đồng tín hữu. Chúng ta có thể nói rằng Kitô hữu là người đã học cách đón tiếp. ĐTC nói:

”Chúa Giêsu không sai họ đi như một kẻ hùng mạnh, như những chủ nhân, thủ lãnh, đầy những luật lệ, qui tắc; trái lại Ngài chỉ cho họ thấy con đường của Kitô hữu là biến đổi con tim. Học cách sống một cách khác, với một luật khác, theo một qui tắc khác. Đó là tiến từ đường hướng ích kỷ, khép kín, đụng độ, chia rẽ, tự tôn, tiến tới một hướng đi bênh vực sự sống, nhưng không, yêu thương. Từ thái độ thống trị, đè nén, lèo lái, tiến sang thái độ đón tiếp, tiếp nhận, săn sóc. Đó là hai thái độ, hai cách thức đối đầu với cuộc sống, sứ vụ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Bao nhiêu lần chúng ta quan niệm sứ vụ dựa trên những dự phóng hoặc chương trình. Bao nhiêu lần chúng ta tưởng nghĩ việc loan báo Tin Mừng xoay quanh hàng ngàn chiến lược, chiến thuật, ”mánh mung” và thủ đoạn, tìm cách hoán cải người khác bằng những lý luận. Hôm nay, Chúa nói với chúng ta thật là rõ ràng theo tiêu chuẩn của Tin Mừng: chúng ta không thuyết phục bằng những lý lẽ, chiến lược, chiến thuật, nhưng bằng cách học đón tiếp.

ĐTC nói tiếp:

”Giáo Hội là người mẹ có tâm hồn rộng mở biết đón tiếp, đón nhận, nhất là những người đang cần được săn sóc nhiều nhất, những người ở trong tình trạng khó khăn lớn hơn. Giáo Hội là căn nhà đón tiếp. Chúng ta có thể hoạt động tốt đẹp dường nào nếu chúng ta khích lệ nhau học ngôn ngữ hiếu khách, đón tiếp! Bao nhiêu vết thương, bao nhiêu tuyệt vọng có thể chữa trị tại nơi mà người ta cảm thấy mình được đón nhận.

Hiếu khách đối với người đói khát, người nước ngoài, kẻ trần trụi, người bệnh, tù nhân (Xc Mt 25,34-37), với người phong cùi, bất toại. Hiếu khách đối với những người không nghĩ như chúng ta, không có tín ngưỡng hoặc đã đánh mất. Hiếu khách với người bị bách hại, thất nghiệp. Hiếu khách với những nền văn hóa khác.. hiếu khách với người tội lỗi.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Có một sự ác dần dần làm tổ trong tâm hồn chúng ta và ăn mòn sức sinh động của chúng ta, đó là sự cô đơn. Cô đơn có thể do nhiều nguyên do, nhiều động lực. Nó tách rời chúng ta khỏi người khác, khỏi Thiên Chúa, khỏi cộng đoàn. Nó khép kín chúng ta vào mình. Nhưng Chúa mở chúng ta vào một đường hướng mới. Thiên Chúa không bao giờ khép kín cách chân trời, Ngài không bao giờ thụ động trước sự sống và đau khổ. Ngài vĩnh viễn là một chân trời mới, vĩnh viễn là một Lời Mời cho bao nhiêu tình trạng loại trừ, băng hoại, khép kín, cô lập. Ngài là một lời phá vỡ sự im lặng của cô đơn.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự kinh Truyền Tin và trong bài huấn dụ ngắn, ngài khích lệ các tín hữu Paraguay hãy tín thác đến cùng Mẹ Maria, cởi mở tâm hồn, phó thác cho Mẹ niềm vui nỗi buồn, hy vọng và đau khổ. Ngài cung cầu xin Mẹ Maria canh giữ Giáo Hội và củng cố các mối dây huynh đệ giữa mọi phần tử của Giáo Hội với nhau. Với ơn phù trợ của Mẹ Maria, Giáo Hội được trở thành một căn nhà biết đón tiếp, một người mẹ của mọi dân tộc.

Sau thánh lễ, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 8 cây số, rồi gặp riêng 22 GM, chủ chăn của 15 giáo phận Paraguay tại trung tâm văn hóa của tòa Sứ Thần. Hiện diện trong dịp này cũng có các GM Ecuador và Bolivia, hai nước vừa được ĐTC viếng thăm.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ hơn 200 ngàn bạn trẻ Paraguay

Đức Thánh Cha gặp gỡ hơn 200 ngàn bạn trẻ Paraguay

ĐTC trong bài giảng với giới trẻ tại Paraguay

ASUNCIÓN. Hoạt động cuối cùng của ĐTC tại Paraguay trước khi lên đường trở về Roma, kết thúc cuộc viếng thăm 8 ngày tại Nam Mỹ, là gặp gỡ hơn 200 ngàn bạn trẻ Paraguay chiều chúa nhật 12-7-2015.

Lúc 4 giờ 15 chiều, ĐTC đã giã từ tòa Sứ Thần ở thủ đô Asunción của Paraguay, tới khu vực ven sông gọi là Costanera, không xa phủ Tổng Thống, để gặp gỡ các bạn trẻ và những người thiện nguyện đã góp phần vào việc tổ chức và tiến hành cuộc viếng thăm của ngài.. Hơn 200 ngàn bạn trẻ đã tụ tập tại đây hằng giờ trước đó, sinh hoạt, ca hát vui vẻ.

Mở đầu cuộc gặp gỡ dưới hình thức một buổi phụng vụ Lời Chúa là nghi thức rước Thánh Giá hành hương tiến lên lễ đài..

Trình bày chứng từ

Sau lời giới thiệu của Đức Cha Ricardo Jorge Valenzuela Ríos GM đặc trách giới trẻ thuộc HĐGM Paraguay, các bạn trẻ đã trình bày một hoạt cảnh nói lên thực tại trẻ trung của đất nước. Hai đại diện một nam một nữ đã trình bày chứng từ.

– Trước tiên là anh Manuel de los Santos Aguiler, 18 tuổi một nông dân ở thành phố San Pedro. Anh trải qua thời niên thiếu rất khó khăn, gia đình nghèo, thân phụ phải lên thủ đô làm việc, còn lại anh ta với mẹ ở nhà, làm công trong một nông trại để sống. Rồi mẹ anh ta qua đời vì bị bệnh. Manuel ở bên bờ vực thẳm ma túy.

Nhờ quen biết với những người trong ban mục vụ giới trẻ, qua các cuộc tính tâm, Manuel cảm thấy Chúa hiện hữu thực. Từ đó, mặc dù các phương tiện eo hẹp, Manuel vẫn vui sống và tìm cách phục vụ người khác. Anh hỏi ĐTC: chúng con đang chiến đấu để sống đức tin ngôn sứ, cử hành và thừa sai, nhưng chúng con cần những hành trình vững chắc hơn, tiệm tiến và toàn diện trong việc huấn luyện về đức tin. Ngoài ra, trước viễn tượng tương lai bất định, khó kiếm công ăn việc làm, không được học nhiều, chúng con có thể làm gì?

– Bạn trẻ thứ hai là cô Liz Fretes 25 tuổi, thuộc ban mục vụ giới trẻ ở thành phố San Berdanernio và có cử nhân về y tá.

Cô sống với bà ngoại già yếu và bệnh tật. Cách đây 2 năm, cô bị Chúa ”đánh động”, mẹ cô bị bệnh Alheimer (suy thoái não bộ) và trở nên như một em bé. Từ đó cô phải săn sóc mẹ, thay tã cho mẹ. Bà cứ tưởng rằng cô Liz là mẹ của bà. Cô kể: thoạt đầu con không được chuẩn bị trước tình cảnh như vậy. Nhưng con được may mắn không lẻ loi. Nhờ một bà dì và các bạn hữu, con đã đương đầu được với hoàn cảnh.

Liz được một người giúp đỡ học hành, đi học ban tối ở đại học. Hồi Ngày quốc tế giới trẻ ở Rio de Janeiro, các bạn của cô đều đi được, cô cũng muốn đi nhưng trúng vào kỳ phải bảo vệ luận văn tốt nghiệp y tá, nên không đi được. Nay cô được gặp ĐTC Phanxicô, cô khóc vì vui mừng và cảm a Chúa đã nhớ đến cô. Cô nói: Chỉ cần nhìn thấy ĐTC cũng là một an ủi và chữa lành những vết thương của con. Ngày nay con cũng nhận thức rằng tình trạng bệnh tật của mẹ con làm cho con trưởng thành và vững mạnh hơn. Ngày nay, con đang tìm kiếm con đường Chúa muốn con đi.”

Tiếp đến mọi người đã nghe bài Tin Mừng theo thánh Marco đoạn 5 (1-2) ghi lại lời Chúa Giêsu: Các con hãy vui mừng và hân hoan, vì phần thưởng của các con thật lớn lao ở trên trời. Anh Orlando đã đọc bài này rồi đến chào ĐTC, xin ngài cầu nguyện cho tự do.

 Huấn từ ứng khẩu của ĐTC

Khi ngỏ lời với các bạn trẻ, ngài trao cho Đức GM đặc trách giới trẻ bài huấn dụ ngài đã dọn sẵn để phổ biến sau đó, và ngài ứng khẩu trả lời các bạn trẻ. ĐTC nói: ”tự do là phúc lành mà tất cả chúng ta giờ đây cùng cầu xin. Vì tự do là một món quà của Thiên Chúa, nhưng cần biết đón nhận tự do ấy, cần có một con tim được giải thoát khỏi bao nhiêu ràng buộc, như sự bóc lột, thiếu các phương tiện sinh sống, nghiệp ngập ma túy, sầu muộn.

”Tất cả những điều ấy tước đoạt tự do của chúng ta. Tự do là có một con tim không bị ràng buộc, có thể nói và làm điều mình nghĩ và cảm thấy.”

Và ĐTC mời gọi các bạn trẻ cầu nguyện: Xin Chúa ban cho con một con tim tự do không làm nô lệ cho tất cả những lường gạt của thế gian, của cuộc sống tiện nghie, những tật xấu, những tự do giả tạo, thứ tự do này là làm điều mình thích trong mọi lúc. Chúng ta phải cầu xin một con tim tự do.

Đề cập đến chứng từ của cô Liz, ĐTC nhận xét rằng Liz dạy chúng ta không cần phải làm như quan Pontio Pilato: không cần rửa tay. Liz đã có thể đưa mẹ và bà ngoại vào một nhà dưỡng lão. Nhưng cô đã hoán cải, trở thành một người phục vụ, đúng hơn là một người tôi bộc cho mẹ và bà, và cô làm điều đó với tình thương yêu. Mới 25 tuổi, cô đã đốt cuộc sống của mình qua việc phục vụ mẹ và bà. Tình liên đới của những người khác, của các bạn hữu đã mang lại cho cô sức mạnh để tiến bước. Ở đây có giới răn thứ tư: hãy thảo kính cha mẹ. Cô đạt tới mức độ rất cao của tình yêu.

Nhắc đến trường hợp của Manuel: Anh đã không được một cuộc sống dễ dàng, bị bóc lột, ngược đãi, cô đơn. Nhưng thay vì trả thù cuộc đời, Manuel đi làm. Và ĐTC cầu nguyện cho tất cả những trẻ em đang phải sống trong những hoàn cảnh khó khăn. ”Chỉ có Chúa mới có thể cứu các em trong những tình cảnh ấy.. Gặp gỡ Chúa Giêsu là hy vọng và can cảm, và tất cả chúng ta đang cần những điều ấy ngày nay”, những người trẻ sống mệt mỏi, với bộ mặt buồn chán.

Từ đó ”lòng can đảm, mạnh mẽ” trở thành một từ nòng cốt mà ĐTC đã nghị với các bạn trẻ Paraguay trong cuộc gặp gỡ. Ngài nhắc nhở họ rằng các mối phúc thật vừa đọc trong bài Tin Mừng là một kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta, một kế hoạch đi ngược dòng, so với quan niệm thịnh hành trong thế giới”.

Cuối bài nói chuyện, ĐTC mời gọi các bạn trẻ cùng với ngài lập lại lời cầu nguyện cho những người trẻ không biết Chúa là sức mạnh là lòng can đảm của họ, những người trẻ sợ sống hạnh phúc, sợ mơ ước: Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh, xin ban cho chúng con một con tim tự do, xin ban cho chúng con hy vọng, tình thương. Xin dạy chúng con phục vụ”.

Bài huấn dụ dọn sẵn

Trong bài huấn dụ ĐTC đã dọn sẵn và yêu cầu phổ biến, ngài ĐTC nhấn mạnh đến 2 chìa khóa quan trọng là: các bạn hữu và các cuộc tĩnh tâm.

Trước tiên là ”Các bạn hữu”. Tình bạn là một trong những món quà lớn nhất mà một người, một người trẻ có thể có được và trao tặng. Đúng vậy. Thật là khó sống nếu không có bạn hữu…. Một trong những bí quyết lớn nhất của Kitô hữu là được làm bạn với Chúa Giêsu. Các bạn hữu chịu đựng nhau, tháp tùng nhau, bảo vệ nhau. Chúa cũng làm như vậy đối với chúng ta. Ngài chịu đựng chúng ta.

– Tiếp đến là các cuộc tĩnh tâm hay linh thao. Thánh Ignaxio đã soạn một bài suy niệm nổi tiếng, gọi là ”hai lá cờ”. Ngài mô tả một bên là lá cờ của ma quỉ, và bên kia là lá cờ của Chúa Kitô.. Phần nào cũng như hai đội bóng với bộ áo khác nhau và ngài hỏi chúng ta xem muốn chơi trong đội banh nào.

Với bài suy niệm ấy, thánh nhân làm cho chúng ta tưởng tượng xem mình thuộc về đội bóng nào. Cũng tựa như ngài hỏi ta xem: ”Bạn muốn chơi với ai trong cuộc sống?” Và thánh Ignaxio nói rằng để tuyển mộ các cầu thủ, ma quỉ hứa cho những người chơi với hắn được giàu sang, vinh dự, quyền lực và danh dự. Họ sẽ được nổi tiếng. Tất cả sẽ tôn thờ họ.

Đàng khác, thánh Ignaxio trình bày cho chúng ta lối chơi của Chúa Giêsu. Lối chơi này không được trình bày như một cái gì tuyệt diệu, vì Chúa Giêsu không trình bày cho chúng ta một cuộc sống như minh tinh, nổi tiếng, trái lại Chúa nói với chúng ta rằng chơi với Ngài là một lời mời gọi yêu thương, phục vụ tha nhân. Chúa coi trọng chúng ta.

ĐTC viết thêm rằng: ”Trong Kinh Thánh, ma quỉ được gọi là 'cha kẻ dối trá', là kẻ làm cho bạn tưởng từng khi làm một việc nào đó, bạn sẽ hạnh phúc. Trái lại bạn thấy rằng bạn chẳng hạnh phúc gì, nó chỉ làm cho bạn thấy trống rỗng, buồn hơn. Vì thế, ma quỉ là kẻ ”bán khói”, hắn làm cho bạn đặt hy vọng nơi điều không bao giờ làm cho bạn hạnh phúc. Đó là trò chơi, là chiến lược của hắn. Thực vậy, tất cả những gì hắn đề nghị với chúng ta là thành quả của chia rẽ, là cạnh tranh với người khác, là đè đầu người khác để đạt được điều chúng ta muốn. Để đạt tới tất cả những điều đó, con đường duy nhất là gạt bỏ những ngừơi bạn của bạn, không chịu đựng một ai. Vì tất cả dựa trên cái vẻ bề ngoài và ma quỉ làm cho bạn tin rằng tất cả giá trị của bạn tùy thuộc những gì bạn sở hữu.

Trái lại, Chúa Giêsu trao tặng chúng ta cuộc chơi của Ngài. Ngài có vẻ không hứa cho chúng ta những điều vĩ đại, không nói với chúng ta rằng hạnh phúc ở trong giàu sang của cải, quyền lực, kiêu hãnh. Phúc cho những người có tinh thần thanh bần, người đói khát sự công chính, người từ bi, những người có tâm hồn thanh tịnh, những người xây dựng hòa bình, người bị bách hại vì công lý.

Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một con đường là sự sống và sự thật. Ngài là thử thách lớn về điều đó. Đó là kiểu của ngài, sách thức ngài sống, tình bạn, quan hệ với Chúa Cha. Để cảm thấy chúng ta là con, những người con được yêu mến.

Chúa Giêsu biết rằng trong thế giới ngày có bao nhiêu cạnh tranh, ghen tương và hung hăng, hạnh phúc đích thực xuất phát từ việc học cách kiên nhẫn, tôn trọng người khác, không kết án cũng chẳng xét đoán ai. Phúc cho những người mangmột cuộc sống mới, những cơ hội mới, những người có khả năng giúp đỡ người khác trong các lỗi lầm của họ. Phúc cho những người là bạn hữu chân thành và không bỏ rơi một ai.  Giã từ

Cuộc gặp gỡ kéo dài như thể các bạn trẻ không muốn ĐTC rời họ để ra đi. Lúc gần 7 giờ chiều, ngài giã từ và lên đường ra phi trường thủ đô. Dọc đường ngài dừng lại làm phép tại nơi tên là Ycuá Bolanos. Trung tâm thương mại tại đây đã bị một trận hỏa hoạn dữ dội tàn phá cách đây 11 năm (2004), một biến cố chưa từng có trước đó, làm cho 400 người chết và 500 người bị thương, trong đó có nhiều trẻ em.

Tại phi trường, ĐTC đã được Tổng thống Horacio Cartes, các quan chức chính phủ và các GM tiễn biệt, với hàng quân danh dự, quốc thiều. Máy bay Airbus A330 của hãng Alitalia, chở ĐTC, 30 người thuộc đoàn tùy tùng và 75 ký giả quốc tế cất cánh lúc 7 giờ 39 phút giờ địa phương. Trong điện văn gửi đến Tổng thống và quốc dân Paraguay khi rời không phận nước này, ĐTC ”bày tỏ lòng biết ơn và quí mến đối với dân tộc Paraguay yêu quí mà tôi mang trong con tim.. Rời Paraguay để trở về Roma, tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt đến Tổng Thống. Tôi cầu xin Chúa ban ân phúc dồi dào cho tất cả mọi người và xin Chúa giúp họ tiến triển trong tình huynh đệ và hòa hợp”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày thứ hai chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Paraguay

Ngày thứ hai chuyến ĐTC Phanxicô viếng thăm Paraguay

ĐTC gặp đại diện dân sự

Tính tới trưa thứ bẩy vừa qua chuyến viếng thăm Paraguay của ĐTC Phanxicô đã tiến hành được một nửa.

Sau thánh lễ tại trung tâm thánh mẫu Caacupé ĐTC đã về Toà Sứ Thần Tòa Thánh để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục các sinh họat khác vào ban chiều: gặp gỡ đại diện các thành phần xã hội dân sự tại toà nhà thể thao León Condou lúc 4 giờ rưỡi chiều, và chủ sự buổi hát Kinh Chiều với các Giám Mục, linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các thành viên phong trào công giáo trong nhà thờ chính tòa lúc sau 6 giờ chiều.

Chúa Nhật 12-7 ĐTC đã có ba sinh hoạt chính. Trước hết lúc sau 8 giờ sáng ngài viếng thăm dân nghèo vùng Banhado Norte. Tiếp đến là chủ sự thánh lễ tại đền thánh Nhu Guazú, nơi Thánh Gioan Phaolô II đã tôn phong hiển thánh cho chân phước Roque  Gonzalez de Santa Cruz và các bạn, rồi gặp gỡ HĐGM Paraguay, và vào lúc 5 giờ chiều gặp gỡ giới trẻ trên bờ sông Costanera, trước khi ra phi trường lấy máy bay trở về Roma.

Sau đây kính mời quý vị theo dõi hai sinh hoạt còn lại của ĐTC chiều thứ bẩy và biến cố viếng thăm dân nghèo sáng Chúa Nhật.

Lúc sau 4 giờ chiều thứ bẩy ĐTC đã đi xe từ Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tới tòa nhà thể thao León Condou của trường Thánh Giuse, cách đó 2 cây số rưỡi.  Tòa nhà này có thể chứa 5.000 người và nằm trong khu vực trường Thánh Giuse do các linh mục dòng Thánh Tâm Bétharram điều khiển.

ĐTC đã được cha Bề trên dòng và ban giám đốc trường tiếp đón. Đại diện các thành phần xã hội dân sự tham dự cuộc gặp gỡ gồm các nhà giáo, các nghệ sĩ, doanh thương kỹ nghệ, nghiệp đoàn, lực sĩ thể thao thể dục, giới truyền thông, các hiệp hội phụ nữ, giới nông dân và thổ dân.

Sau lời chào mừng của ĐC Alberto Martinez Flores thư ký HĐGM Paraguay, đã có phần chia sẻ chứng từ của 5 đại diện các giới.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC bầy tỏ niềm vui có thể gặp gỡ các đại diện của xã hội dân sự Paraguay để chia sẻ với họ các giấc mơ và các lý tưởng của một tương lại tươi sáng hơn. Nhìn thấy anh chị em tất cả là những người thuộc một lãnh vực, một tổ chức của xã hội Paraguay yêu qúy, với các niềm vui, lo âu, chiến đấu và tìm tòi, khiến cho tôi nâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Một dân tộc mà không duy trì sống động các lo lắng của mình là một dân tộc đã chết. Trái lại, tôi trông thấy nơi anh chị em nhựa sống của một cuộc sống luân lưu và muốn nảy mầm. Thiên Chúa chúc phúc cho điều này. ĐTC giải thích thêm như sau:

Thiên Chúa luôn luôn thuận lợi với những gì trợ giúp nâng cao và cải tiến cuộc sống của con cái Ngài. Có những chuyện không tốt, phải. Có những hoàn cảnh bất công, phải. Nhưng nhìn thấy anh chị em và nghe anh chị em giúp tôi canh tân lòng hy vọng nơi Chúa, là Đấng tiếp tục hành động giữa dân Ngài. Đến từ nhiều quan điểm khác nhau, từ nhiều hoàn cảnh và lộ trình khác nhau, anh chị em tất cả cùng nhau làm thành nền văn hóa Paraguay. Anh chị em tất cả đều cần thiết cho việc kiếm tìm công ích. “Trong các điều kiện hiện nay của xã hội trên thế giới này, nơi người ta gặp biết bao nhiêu gian ác và luôn luôn có nhiều người bị gạt bỏ”, đuợc gặp anh chị em nơi đây là một món quà.

Tiếp đến ĐTC đã trả lời ba câu hỏi của cử tọa. Một bạn trẻ hỏi phải làm sao để xã hội là một nơi của tình huynh đệ, công bằng, hòa bình và phẩm giá cho tất cả mọi người. ĐTC nói: tuổi trẻ là thời gian ôm ấp các lý tưởng. Thật là quan trọng, khi các bạn trẻ hiểu rằng hạnh phúc đích thật đi qua cuộc tranh đấu cho một thế giới huynh đệ hơn. Thật là tốt đẹp, khi người trẻ nhận thức rằng hạnh phúc và khoái lạc không giống nhau. Nhưng hạnh phúc đòi hỏi sự dấn thân và tận tụy. Paraguay có đầy tràn người trẻ và đó là một sự phong phú lớn. Vì thế tôi nghĩ điều đầu tiên phải làm đó là tránh để cho sức mạnh này, ánh sáng này tắt lịm trong con tim các bạn, và chống lại tâm thức ngày càng gia tăng coi việc khát vọng những điều đáng công là vô ích và không thể hiểu nổi. Tranh tài cho  một cái gì đó, tranh tài cho một ai đó. Các bạn đừng sợ hãi cho đi tất cả trên sân đấu. Đừng sợ cho đi tất cả những gì tốt nhất của mình. Điều đó phải, nhưng đừng làm một mình. Hãy tìm thảo luận, lợi dụng để lắng nghe cuộc sống, các lịch sử, các câu chuyện của những người già, của giới ông bà của các bạn. Hãy mất nhiều thời giờ để lắng nghe tất cả những điều tốt đẹp mà các ngài có thể dậy dỗ các bạn. Các ngài là những người giữ gìn gia tài tinh thần đức tin và các giá trị nhào nặn một dân tộc và soi sáng đường đi của các bạn.

ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy tìm an ủi trong sức mạnh của lời cầu nguyện, nơi Chúa Giêsu, trong sự hiện diện liên lỉ thường ngày của Người. Qua ký ức của dân tộc anh chị em, Chúa Giêsu là bí quyết giúp con tim của anh chị em luôn tươi vui trong việc kiếm tìm tình huynh đệ, công bằng, hòa bình và phẩm giá cho tất cả mọi người. Tôi rất thích bài thơ của thi sĩ Carlos Miguel Giménez mà ĐC Alberto Martinez đã trích dẫn. Tôi nghĩ nó diễn tả diều tôi muốn nói với anh chị em: “Tôi mơ một thiên dàng không có chiến tranh giữa các anh em, giầu những người khoẻ mạnh trong linh hồn và con tim và một Thiên Chúa chúc lành cho cuộc thăng thiên mới của nó”. Phải, Thiên Chúa bảo đảm cho phẩm giá của con người.

Trả lời câu hỏi thứ hai liên quan tới sự đối thoại như phương thế xây dựng một dự án quốc gia bao gồm tất cả mọi người. ĐTC nói Đúng thật là đối thoại không dễ. Có nhiều khó khăn phải vượt thắng, và đôi khi xem ra chúng ta lại dấn thân khiến cho chúng trở thành khó khăn hơn. Đối thoại giả thiết, đòi buộc từ chúng ta nền văn hóa gặp gỡ. Một cuộc gặp gỡ biết thừa nhận rằng sự khác biệt không chỉ là điều tốt, mà con cần thiết nữa. Vì thế điểm khởi hành không thể là người khác đang sai lầm. Công ích được tìm kiếm từ các khác biệt của chúng ta, bằng cách luôn luôn trao ban khả thể cho các lựa chọn mới. Nó có nghĩa là tìm ra cái gì mới, cùng nhau thảo luận , suy nghĩ một giải pháp tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Nhiều khi nền văn hóa gặp gỡ bị lôi cuốn vào một cuộc xung đột. Đây là điều có thể thấy trước. Nhưng chúng ta không được sợ hãi nó, hay không biết đến nó, trái lại chúng ta được mời gọi chấp nhận nó. Điều này có nghĩa là “chấp nhận chịu đựng cuộc xung đột, giải quyết nó và biến đổi nó thành một móc xích nối với một tiến trình mới” (Niềm Vui Phúc Âm, 227). Bởi vì sự hiệp nhất cao hơn xung khắc” (ibid., 228). Một sự hiệp nhất không bẻ gẫy các khác biệt, nhưng sống nó trong sự hiệp thông và  qua tình liên đới và sự cảm thông. Khi tìm hiểu biết các lý do của người khác, kinh nghiệm của họ, các ước mong của họ, chúng ta có thể thấy rằng đa số chúng là các ước vọng chung. Nền tảng của sự gặp gỡ đó là chúng ta tất cả là anh em, con của cùng một Cha trên trời, mỗi người với nền văn hóa tiếng nói, các truyền thống riêng và có nhiều điều để cống hiến cho cộng đoàn. Các nền văn hóa thật không đóng kín trong chính mình, nhưng được mời gọi gặp gỡ các nền văn hóa khác và tạo ra các thực tại mới. Nếu không có giả thiết nòng cốt và nền tảng huynh đệ này, sẽ rất khó đạt tới cuộc đối thoại. Ai cho rằng có những người, những nền văn hóa những hoàn cảnh thuộc hạng hai hạng ba hay hạng bốn, thì có điều gì đó không ổn, vì thiếu cái tối thiểu là việc thừa nhận phẩm giá của người khác.

Câu hỏi thứ ba liên quan tới việc tiếp nhận tiếng kêu của dân nghèo để xây dựng một xã hội bao gồm mọi người. ĐTC nói có một khía cạnh nền tảng giúp thăng tiến người nghèo: đó là cách chúng ta nhìn họ. Không cần một cái nhìn ý thức hệ rốt cuộc sử dụng người nghèo cho các lợi lộc chính trị hay cá nhân khác.

Để tìm thiện ích cho người nghèo điều đầu tiên là biết lo lắng cho con người của họ, đánh giá họ vì lòng tốt của họ. Nhưng việc đánh giá đích thực đòi hỏi phải sẵn sàng học hỏi nơi họ. Người nghèo có rất nhiều để dậy chúng ta trong lãnh vực nhân bản, lòng tốt, hy sinh. Và ngoài ra kitô hữu chúng ta lại còn có một lý do nữa để yêu thương và phục vụ người nghèo: vì nơi họ chúng ta trông thấy gương mặt và thịt xác của Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo nàn để khiến cho chúng ta giầu có nhờ sự nghèo nàn của Ngài (x. “ Cr 8,9).

ĐTC khẳng định rằng sự tăng trưởng kinh tế và việc tạo ra giầu có cho cả mọi người không loại trừ ai,  rất cần thiết cho một nước. Việc tạo ra sự thịnh vượng ấy phải luôn luôn phục vụ công ích, chứ không phải chỉ phục vụ một ít người thôi. “Việc tôn thờ con bò vàng xưa kia (Xh 32,1-35) đã tìm ra một ấn bản mới không thương xót trong việc tôn thờ thần tượng tiền bạc và sự độc tài của một nền kinh tế không có gương mặt” (Niềm vui Phúc Âm 55). Các người có ơn gọi trợ giúp phát triển kinh tế có nhiệm vụ bảo đảm để nền kinh tế luôn có gương mặt nhân bản. Họ nắm trong tay khả thể cung cấp công ăn việc làm cho rất nhiều người và trao ban hy vọng cho biết bao nhiêu gia đình. Việc làm là một quyền và nó trao ban phẩm giá cho con người. Đem bánh về nhà, cống hiến cho con cái một mái nhà, sức khoẻ, giáo dục là các khiá cạnh nền tảng của phẩm giá con người, và các doanh thương, các nhà chính trị, các nhà kinh tế phải để cho mình được gọi hỏi bởi những điều đó. ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi như sau:

Tôi xin anh chị em đừng nhượng bộ  một mô thức kinh tế tôn thờ thần giả cần hy sinh các mạng người trên bàn thờ của tiền bạc và lợi nhuận. Trong các lãnh vực kinh tế, trong hãng xưởng, chính trị, điều đầu tiên là conn người và môi trường trong đó nó sinh sống.

ĐTC ghi nhận rằng Paraguay nổi tiếng là vùng đất nơi đã bắt đầu các “Giảm thiểu” là một trong các kinh nghiệm hay nhất của việc rao truyền Tin Mừng và tổ chức xã hội trong lịch sử. Trong đó Tin Mừng đã là linh hồn và cuộc sống cộng đoàn không có đói khát, thất nghiệp, mù chữ, áp bức. Kinh nghiệm lịch sử này dậy cho chúng ta biết rằng một xã hội nhân bản hơn là điều có thể thực hiện được, cả ngày nay nữa. Khi có tình yêu đối với con người và ý chí phục vụ, thì có thể tạo ra các điều kiện để tất cả mọi người có các của cải cần thiết, và không có ai bị loại trừ.

Cuối cùng ĐTC khích lệ mọi người yêu thương quê hương, các công dân và nhất là yêu thương người nghèo. Như thế anh chị em sẽ là một chứng tá trước mặt thế giới và cho thấy một mẫu phát triển khác là điều có thể làm được. Tôi xác tín rằng anh chị em có sức mạnh lơn lao nhất có thể có đó là nhân bản tính , đức tin và tình yêu thương của anh chị em.

Diễn văn của ĐTC đã nhiều lần bị ngắt quãng bởi các tràng pháo tay của cử tọa.

Sau khi ban phép lành tòa thánh ĐTC đã từ giã giới đại diện xã hội dân sự để tới nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời cách đó 2 cây số rưỡi chủ sụ buổi hát Kinh Chiều với các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và thành viên các phong trào công giáo. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời dã được tái thiết hồi đầu thế kỷ XIX và còn cất giữ cây thánh giá “La Cruz de la Parra”, là cây thánh giá duy nhất trong số 29 cây Thánh Giá mà ông Cristoforo Colombo đã trồng trên đất châu Mỹ Latinh trong 4 chuyến thám hiểm đại lục này. Nhà thờ có chỗ cho 1000 người.

Ông thị trường đã đón tiếp ĐTC trên thềm nhà thờ và trao chià khóa của thành phố cho ngài. Một dàn nhạc gồm 200 nhạc công đã trình tấu các bản nhạc truyền thống chào đón ĐTC.

Kinh chiều đã được hát bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng của các thổ dân Paraguay.

Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói thật là đẹp biết bao cùng nhau cầu nguyện. Làm sao không mơ ước một Giáo Hội phản ánh và lập lại sự hài hòa của các tiếng nói và lời ca trong cuộc sống thường ngày! Và chúng ta làm điều này trong nhà thờ chính toà đã bao lần phải bắt đầu xây lại này. Nó là dấu chỉ của Giáo Hội và từng người trong chúng ta: đôi khi các bão tố từ bên ngoài và từ bên trong bắt buộc chúng ta đập phá những gì chúng ta đã xây dựng và bắt đầu lại, nhưng luôn luôn với câu trả lời hy vọng của Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện làm nổi bật lên điều mà chúng ta đang sống hay đáng lý ra phải sống trong cuộc sống thường ngày. Ít nhất là lời cầu nguyện không muốn trở thành tha hóa hay chỉ là đồ trang sức… Lời cầu nguyện thúc đẩy chúng ta thực thi và kiểm thực điều chúng ta đọc  trong các thánh vịnh “Chúng ta ở trong tay Chúa là Đấng nâng chúng ta dậy từ rác rưởi” (Tv 112,7) và chúng ta phải làm việc để nỗi buồn sầu vì sự khô cằn của chúng ta biến thành cánh đồng phì nhiêu. Chúng ta hát “Cuộc sống của các tín hữu Ngài quý giá trước mặt Ngài lậy Chúa” (Tv 116,15) chúng ta là những người chiến đấu, dấn thân, chúng ta bảo vệ giá trị của mọi sự sống con người, từ lúc sinh ra cho tới khi tuổi già sức yếu. Lời cầu nguyện phản ánh tình yêu thương chúng ta cảm nhận đối với Thiên Chúa và tha nhân, đối với thế giới thụ tạo… Tình yêu thương đó diễn tả gương mặt của người môn đệ của Chúa Giêsu. Bám chặt vào Chúa khiến cho ơn gọi kitô được sâu sắc, lôi cuốn chúng ta vào kiểu hành xử của Chúa Giêsu và tìm trở nên giống Ngài trong mọi sự Ngài làm. Vẻ đẹp của Giáo Hội phát xuất từ nỗ lực trở nên đồng hình dạng ấy với Chúa Kitô.

ĐTC đã khích lệ hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân và chung sinh lớn lên trong ý thức hiệp nhất cộng tác tông đồ. Ngài nói:

Thật là đẹp trông thấy anh chị em cộng tác với nhau trong việc mục vụ, luôn luôn khởi hành từ bản chất và nhiệm vụ của mỗi ơn gọi và đặc sủng. Tôi ước mong khuyến khích anh chị em tất cả, các linh mục, tu sĩ nam nữ. giáo dân và chủng sinh dấn thân trong sự cộng tác giáo hội này, đặc biệt trong các chương trình mục vụ của các giáo phận và việc truyền giáo đại lục, cộng tác với tất cả sự sẵn sàng vào công ích. Nếu sự chia rẽ giữa chúng ta tạo ra sự khô cằn, thì chắc chắn từ sự hiệp thông và hòa hợp này sẽ nảy sinh ra sự phong phú vì chúng đồng thanh với Chúa Thánh Thần.

ĐTC nói thêm: tất cả chúng ta đều có các hạn hẹp và không ai có thể diễn tả lại Chúa Giêsu trong sự toàn vẹn của Người, tuy mỗi ơn gọi đồng hình trong nòng cốt với vài ánh sáng cuộc sống và công việc của Chúa Giêsu, vẫn có vài nét chung và không thể khước từ đuợc. Chúng ta vừa chúc tụng Chúa, vì Người “không coi việc giống như Thiên Chúa là một đặc ân” (Fl 2.6) và đây là đặc tính của mọi ơn gọi kitô: ai được Thiên Chúa gọi đừng khoe khoang, đừng tìm kiếm các thừa nhận cũng như các vỗ tay tán đồng mau qua, không cảm thấy mình đã lên cấp và đối xử với người khác như thể họ là bục để chân.

Lời Chúa trong thư gửi giáo đoàn Do thái mời gọi trở nên hoàn thiện như vị Mục Tử vĩ đại của đoàn chiên. Điều này bao gồm việc nhận ra rằng mỗi người sống đời thánh hiến phải đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng “khi còn sống kiếp phàm nhân đã lớn tiếng kêu van khóc lóc” và đạt sự hoàn thiện, khi học biết qua khổ đau thế nào là vâng phục. Điều này là phần ơn gọi của chúng ta.

Tháp chuông của nhà thờ này đã được xây lại nhiều lần, tiếng chuông vang lên trước và đồng hành với lời cầu nguyện phụng vụ của chúng ta trong nhiều dịp: được đổi mới bởi Thiên Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện, được củng cố như tháp chuông, tươi vui gióng lên chúc tụng các kỳ công của Thiên Chúa, chúng ta hãy chia sẻ kinh Magnificat và để cho Chúa thành toàn, qua cuộc sống thánh hiến, các điều lớn lao trong đất nước Paraguay này.

Sau khi ban phép lành và từ giã mọi người ĐTC đã đi xe về Tòa Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

Lúc 8 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua ĐTC đã đi xe tới thăm dân nghèo vùng Banhado Norte. Đây là vùng sình lầy nơi Giáo Hội và Nhà nước có các chương trình trợ giúp dân chúng. Giáo xứ tại đây có 13 nhà nguyện nhỏ rải rác toàn vùng, trong đó có nhà nguyện Thánh Gia là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ. Nhà nguyện quay ra một sân thể thao nơi có vài ngàn người chờ đợi ĐTC. Trong số này có các học sinh các trường Caacupemí và Santa Cruz “Fe y Alegría” Thánh Giá Đức Tin và Niềm vui. Trường này thuộc dự án giáo dục do dòng Tên đảm trách tại 400 địa điểm giáo dục trong các vùng chịu nhiều thiệt thòi nhất nước Paraguay.

ĐTC đã được cha Ireneo Valdez dòng Tên cha sở họ đạo và cha Giám Tỉnh tiếp đón.

Sau phần hát chào mừng đã có hai người đại diện chia sẻ chứng từ.

Ngỏ lời với mọi người hiện diện ĐTC nói cuộc gặp gỡ tại giáo xứ Thánh Gia khiến ngài nghĩ tới Thánh Gia Nagiarét. Khi nhìn thấy họ và nghe các câu chuyện cuộc đời cũng như các chiến đấu gian khổ của họ để có một cuộc sống xững đáng với phẩm giá con người, ngài thấy nó giống như cuộc đời của Chúa Giêsu Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse. Tuy đầy bất trắc khó khăn, như các vụ lụt lội trong các tuần vừa qua, nhưng nó không lấy mất đi nụ cười và niềm hy vọng của họ. Thánh Gia cũng đã phải rời bỏ quê hương để di cư lánh nạn đến một vùng đất xa lạ không thân thích, với hai bàn tay trắng. Nhưng Mẹ Maria và Thánh Giuse đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu. Chính niềm tin nơi Chúa Giêsu khiến cho chúng ta gần gũi với cuộc sống của tha nhân và dấn thân sống tình liên đới. Một đức tin không có tình liên đới là một đức tin chết, một đức tin không có Chúa Kitô, không có Thiên Chúa và không có các người anh em khác. Niềm tin nơi Chúa KItô dấy lên khả năng mơ ước một tương lai mới tốt đẹp hơn, và chiến đấu để thực hiện nó. Tôi khích lệ anh chị em tiếp tục là thừa sai khiến cho đức tin lây lan tới mọi người và ở khắp mọi nơi.

Sau khi từ giã dân nghèo vùng Benhado Norte ĐTC đã đi xe tới đền thánh Nhu Guazu để chủ sự thánh lễ cho tín hữu. Đây là nơi Thánh Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chân phước Roque Gongalez de Santa Cruz và các bạn trong chuyến công du Paraguay hồi tháng 5 năm 1988. Cánh đồng Nhu Guazú nằm trong căn cứ không quân có thể chứa tới 1,5 triệu người. Chúng tôi sẽ tường thuật thánh lễ, cuộc gặp gỡ giới trẻ tại bờ sông Costanera và lễ nghi từ biệt Paraguay trong các buổi phát ngày mai.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Loan báo Tin Mừng

Loan báo Tin Mừng

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.

Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”.

Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.

Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.

Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.

Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.

Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.

Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.

Lời dặn dò cần thiết

Lời dặn dò cần thiết

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

1. Hành trang người tông đồ

a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

– Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

– Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

– Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

b. Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.

c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi. Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

2. Phương thức hoạt động:”từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một “, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

3. Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận… Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa. Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Hành trang người môn đệ

Hành trang người môn đệ

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?

2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?

3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?

4- Đâu là những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một

Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng hai người một

Một trong những việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở “với Người” (Mc 3,14).

Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?

Chúa sai họ đi.

Trong năm chương đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy “Đức Giêsu với các môn đệ”, tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào lúc “kêu gọi” các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã “thiết lập Nhóm Mười Hai” để ở với Người và để Người “sai họ đi”. Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương… tâm thu… máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của Chúa.

“Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est” chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là “sự sai đi”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không? Tôi có thường sống “với Chúa” trong suy niệm, trong nguyện cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa “sai đi” vào đời sống thướng nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?

Người sai đi từng hai người một.

Phải có hai người thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình” (Gv 4,9).

Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn tới. “Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?

Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.

Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, “Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng định: “Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu… nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy… có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (l Cr 2,1-5).

Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự “làm nhẹ bớt” để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.

Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.

Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.

Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận” trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: “Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi giảng đạo nơi khác” Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: “Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các con”. “Chúng ta chớ nên ảo tưởng”.

Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: “Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác”. Chịu đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,… điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.

Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ “ở với Người”. Nội dung của nỗ lực “truyền giáo” gồm 3 giai đoạn:

1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.

2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.

3. Hoạt động giúp người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.

Hoán cải

Đó là nội dung thứ nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người không thích “thay đổi” cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới. Chữ Hy Lạp “mitanoa” dịch ra là “hoán cải”, có nghĩa là “đổi ngược tinh thần”. Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện hành? “Các Ngài đã kêu to” “ékèruxan” phải thay đổi cuộc sống “Metanoôsin”.

Trừ quỷ

Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những “nhà truyền giáo” những người được Chúa “sai đi” không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.

Chữa lành

Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.

Rao giảng Tin Mừng.

Không phải chỉ là “giảng dạy” mà đặc biệt còn là “giải thoát”. Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?

Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.

Chú giải của Noel Quesson

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha dâng lễ trước Đền Đức Mẹ Caacupé

ASUNCIÓN. Hằng trăm ngàn tín hữu đã tham dự Thánh Lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường trước Đền Thánh Đức Mẹ Caacupé, bổn mạng của Paraguay sáng ngày 11-7-2015.

Caacupé trong thổ ngữ guaraní của dân địa phương có nghĩa là ”đằng sau núi”. Đây là một thị trấn có hơn 19 ngàn dân cư, chung quanh là những ngọn đồi cây xanh, từ đó người ta có thể thấy hồ Ypacaraí. Caacupé được coi là thủ đô tinh thần của Paraguay và nổi tiếng với đại lễ hàng năm, 8-12, lễ kính Đức Mẹ Phép lạ. Tượng ảnh Đức Mẹ tại đây do một tín hữu thổ dân tân tòng tên là José tạc hồi thế kỷ 16 và tượng được cứu thoát lạ lùng khỏi một trận lụt lớn, và nhiều tín hữu được ơn lạ nhờ cầu nguyện trước tượng ảnh, kể cả phép lạ thổ dân José được cứu thoát khỏi sự bách hại của các bộ lạc thù nghịch với Kitô giáo.

Ở trung tâm thành Caacupé có Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm và hằng năm có hơn 200 ngàn tín hữu đến hành hương nhân lễ kính Đức Mẹ. Cạnh thánh đường có một nhà nguyện cổ kính nguyên thủy và một giếng Đức Mẹ, theo lưu truyền, nước giếng có năng lực chữa bệnh.

ĐTC từ bệnh viện ở khu phố San Lorenzo, Asunción đến Đền thánh lúc qua 10 giờ sáng. Gần Đền Thánh có đông đảo các tín hữu đứng hai bên đường chào đón ngài.

Đến nơi, ĐTC đã vào bên trong thánh đường để viếng Mình Thánh Chúa và cầu nguyện trong thinh lặng trước tượng Đức Mẹ. Ngài dâng tặng Đức Mẹ một đóa hoa hồng mầu trắng. Hiện diện trong thánh đường có hàng ngàn tín hữu, trong đó có một số nữ tu chiêm niệm.

Tại quảng trường trước Đền thánh có hàng trăm ngàn tín hữu tụ tập để dự lễ với ĐTC, không kể đông đảo các tín hữu ở khu vực gần đó. Có nhiều thổ dân thuộc các bộ lạc xa xăm chèo thuyền về đây để tham dự thánh lễ và gặp gỡ ĐTC trong dịp hiếm có này. Nhiều người đến từ hôm trước và ngủ lại để dự lễ, do ĐTC cử hành bắt đầu từ lúc 10 giờ 35, và kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Ngoài ra cũng có hàng chục ngàn tín hữu từ Argentina láng giềng đến dự lễ.

Tại lễ đài bên ngoài, cạnh bàn thờ cũng có một bản sao tượng Đức Mẹ Caacupè.

Đồng tế với ĐTC có 23 GM Paraguay và hơn 20 GM khách, 24 LM của giáo phận Caacupé và nhiều linh mục thuộc các giáo phận khác.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắc nhở cho các tín hữu rằng Đền thánh này là nhà của tất cả các tín hữu. Đây là nơi lễ hội, gặp gỡ, gia đình, là nơi ta đến xin ơn tha thứ để bắt đầu lại. Tại đó ta mang cuộc sống cụ thể và đổi mới năng lực để sống niềm vui Phúc Âm. Đền thánh Đức Mẹ Caacupé là thành phần sinh tử của dân tộc Paraguay. Mẹ Maria đã thưa ”xin vâng” đối với chương trình, đối với thánh ý Thiên Chúa. Đó là một lời thưa ”xin vâng” không dễ dàng, vì không làm cho Mẹ đầy đặc ân, nhưng như cụ già Simeon nói với Mẹ, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ.

ĐTC nhận xét rằng: ”Chúng ta tìm thấy nơi Đức Maria là một người Mẹ đích thực, giúp chúng ta giữ cho niềm tin và hy vọng được sinh động giữa những hoàn cảnh phức tạp. Mẹ là một phụ nữ đầy tin tưởng, là Mẹ Giáo Hội, là người đã tin. Cuộc sống của Mẹ là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa không làm cho chúng ta thất vọng, không bỏ rơi Dân của Chúa, cả khi có những lúc hoặc tình trạng dường như Chúa vắng bóng.

ĐTC nhắc lại 3 giai đoạn khó khăn trong cuộc đời của Mẹ Maria.

1. Trước tiên là khi Chúa Giêsu sinh ra. ”Không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2.7). Họ không có nhà, không có nơi để đón tiếp người con sinh ra. Và cũng có gia đình nào thân cận, thật là lẻ loi. Nơi duy nhất họ tìm được là hang súc vật.

2. Thứ hai là cuộc chạy trốn sang Ai Cập. Thánh gia phải ra đi, phải lưu lạc. Tại đó, các ngài không những chẳng có chỗ, chẳng có gia đình, nhưng cả sinh mạng của các ngài cũng bị lâm nguy. Thánh gia phải lên đường, đến một miền đất lạ. Các ngài phải chạy trốn vì vị ghen tương và ham hố quyền lực của bạo chúa.

3. Sau cùng là cái chết của Chúa Con trên thập giá. Không có tình trạng nào khó khăn hơn đối với một bà mẹ tháp tùng cái chết của một người con. Chúng ta thấy Mẹ Maria dưới chân thập giá, như mọi người mẹ, nhưng kiên vững, tháp tùng con cho đến cái chết tột cùng, cái chết trên thập giá. Và Mẹ liên kết và nâng đỡ tất cả các môn đệ.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nhấn mạnh rằng Mẹ Maria đã muốn ở lại giữa dân của Mẹ, ở lại với con cái, với gia đình mình, luôn bước theo Chúa Giêsu, từ phía đám đông. Mẹ không có chương trình riêng, không đến để nói với chúng ta điều gì mới, ngoại trừ niềm tin của Mẹ tháp tùng niềm tin của chúng ta. Chính Mẹ đã và đang ở lại trong các nhà thương, các trường học, các gia cư của chúng ta. Mẹ đã và đang ở lại với chúng ta trong công việc và trong hành trình. Mẹ đã và đang ở lại nơi bàn ăn của mỗi gia đình. Mẹ đã và đang ở lại trong sự hình thành tổ quốc, biến chúng ta thành một dân nước. Luôn luôn với một sự hiện diện kín đáo và âm thầm: trong cái nhìn của một tượng ảnh, một tấm ảnh nhỏ, một ảnh đeo. Dưới dấu hiệu của một xâu chuỗi mân côi, chúng ta biết mình không lẻ loi.

Từ những ý tưởng trên đây, ĐTC đặc biệt nhắc đến các phụ nữ và các bà mẹ Paraguay, với lòng can đảm và xả thân, họ đã biết phục hồi đất nước bị tàn phá, bị sụp đổ vì chiến tranh. Ngài nói:

”Chị em có ký ức, có gia sản được lưu truyền của những bà mẹ đã tái tạo cuộc sống, niềm tin, phẩm giá của dân tộc chị em. Như Mẹ Maria, chị em đã sống những những hoàn cảnh rất khó khăn, mà cứ theo lý luận thông thường, nó trái ngược với mọi niềm tin. Như Mẹ Maria, chị em được thúc đẩy và nâng đỡ nhờ tấm gương của Mẹ, chị em đã tiếp tục tin, cả khi không có gì để hy vọng nữa (Rm 4,18). ”Chị em đã và đang tìm được sức mạnh để không bỏ mặc đất nước này trong sự hỗn độn”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi dân chúng đừng mất ký ức, đừng mất căn cội, và bao nhiêu chứng ta, hãy sống niềm tin sinh động, niềm tin trở thành sự sống, và một cuộc sống trở thành hy vọng, niềm hy vọng đưa chúng ta tiến bước trong tình bác ái.

Cuối thánh lễ, ĐTC đã đọc kinh tái phó thác dân nước Paraguay cho sự bảo trợ của Đức Mẹ. Ngày 18-5 năm 1988, khi viếng thăm Paraguay và cử hành thánh lễ tại đây, thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng cũng đã chủ sự nghi thức phó thác Paraguay cho Đức Mẹ.

G. Trần Đức Anh OP -- Vatican Radio

 

Video Thánh lễ tại đền thờ Đức Mẹ Caacupé, Paraguay

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Paraguay

Đức Thánh Cha gặp gỡ chính quyền Paraguay

ĐTC gặp gở chánh quyền Paraguay

ASUNCIÓN. ĐTC cổ võ nước Paraguay tiếp tục củng cố nền dân chủ và ngài kêu gọi nhân dân nước này bảo tồn ký ức lịch sử đau thương.

 Lập trường này được ngài trình bày trong cuộc gặp gỡ chính quyền dân sự của Paraguay.

 Sau nghi thức tiếp đón tại phi trường Asunción, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Dọc đường 15 cây số, rất đông tác tín hữu đứng hai bên đường nồng nhiệt chào mừng ngài, một cảnh tượng như đã diễn ra tại Ecuador trước đó.

 Sau đó, ngài đến dinh Lopez cách tòa Sứ thần 4 cây số rưỡi để thăm Tổng thống, và gặp gỡ chính quyền dân sự cùng với ngoại giao đoàn tại khuôn viên dinh Tổng thống.

 Tổng thống Horacio Cartes của Paraguay năm nay 59 tuổi, nguyên là một doanh nhân, chủ của công ty hợp doanh ”Grupo Cartes” gồm 12 xí nghiệp khác nhau. Ông cũng là chủ tịch của đội bóng đá Libertad và được bầu làm tổng thống cách đây 2 năm.

 Đến dinh Lopez vào lúc 6 giờ chiều, ĐTC đã hội kiến với Tổng thống, trong khi ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin và Đức TGM Phụ tá Angelo Becciu cùng với Đức Sứ Thần Tòa Thánh gặp gỡ thủ tướng và các quan chức chính phủ. Sau đó tất cả các vị đều tiến ra khuôn viên của dinh Lopez để tiến hành cuộc gặp chính thức, với sự hiện diện của các vị Bộ trưởng, quốc hội, tòa án tối cao và ngoại giao đoàn cạnh chính phủ Paraguay.

 Trong lời chào mừng ĐTC, Tổng thống Cartes đã ca ngợi thông điệp ”Laudato sì” của ngài về việc bảo vệ môi trường và nhận xét rằng văn kiện phải ánh nền văn hóa của các thổ dân Guananí ở Paraguay. Ông nói: ”Thông điệp của ĐTC là một lời kêu gọi bảo tồn trái đất, tương ứng với những thỉnh đề của nền văn hóa guaraní về tầm quan trọng của ”tekoha guasu”, là căn nhà lớn của tất cả mọi người”.

 Tổng thống nhận xét rằng văn kiện của ĐGH là một công trình chống lại sự dửng dưng và nhắc nhớ món nợ của tiến bộ đối với môi trường và sự cần thiết phải theo đuổi một sự phát triển dài hạn.

 Diễn văn của ĐTC

 Về phần ĐTC, lên tiếng trong dịp này, ngài đề cập đến trọng tâm các vấn đề của đất nước Paraguay như một xã hội dân sự. Ngài nói:

 ”Ngay từ những bước đầu tiên như một quốc gia độc lập, Paraguay đã trải qua những đau thương của cuộc chiến huynh đệ tương tàn, thiếu tự do và những vi phạm nhân quyền, Vì thế, thật là một điều đáng ngưỡng mộ sự kiên trì và tinh thần phản ứng của nhân dân Paraguay để vượt thắng bao nhiêu nghịch cảnh và tiếp tục những cố gắng để kiến tạo một quốc gia thịnh vượng và an bình.”

 ĐTC cũng ca ngợi những người dân thường, tên của họ không được ghi trong sử sách, nhưng thực tế họ đã giữ những vai trò lớn trong đời sống dân chúng. Đặc biệt ngài nhắc đến các gia đình, các phụ nữ, các góa phụ đã giúp gia đình và đất nước tiến bước, mang lại hy vọng một ngày mai tốt đẹp hơn.

 ĐTC nhấn mạnh rằng một dân tộc quên quá khứ của mình, quên lịch sử và căn cội của mình thì không có tương lai. Ký ức giúp giải thoát khỏi những tâm tình oán thù và biến quá khứ thành nguồn hứng để xây dựng một tương lai sống chung hòa hợp, làm cho chúng ta ý thức về thảm trạng và sự vô lý của chiến tranh. Cả hòa bình trong đời sống thường nhật cũng quan trọng, tránh những cử chỉ hách dịch, những lời làm phật lòng, xúc phạm, những thái độ cường quyền, và thăng tiến sự cảm thông, đối thoại và cộng tác.

 ĐTC nhận xét rằng từ vài năm nay Paraguay dấn thân trong việc xây dựng một dự phóng dân chủ vững chắc và bền vững, và ngài khích lệ củng cố những cơ cấu và tổ chức dân chủ đáp ứng những khát vọng chính đáng của các công dân. Ngài nói: ”Trong hoạt động công cộng, cần tăng cường đối thoại như phương thế ưu tiên để thăng tiến công ích, dựa trên căn bản một nền văn hóa gặp gỡ, tôn trọng và nhìn nhận những khác biệt hợp pháp và những ý kiến của người khác. Trong việc phục vụ và hoạt động cho công ích, những người nghèo và túng theo phải chiếm một chỗ ưu tiên. Đừng ngưng các cố gắng của mọi tác nhân xã hội, cho đến khi không còn những trẻ em không được giáo dục, các gia đình không nhà ở, các công nhân không có công ăn việc làm xứng đáng, các nông dân không có đất đai để canh tác và bao nhiêu buộc lòng phải di cư hướng về một tương lai bất định; cho đến khi không còn những nạn nhân bạo lực, tham nhũng hoặc của nạn buôn bán ma túy nữa. Khuôn mẫu cho nền kinh tế phải là phẩm giá trọn vẹn của con người, nhất là những người dễ bị tổn thương và vô phương thế tự vệ.”

 Sau cùng, ĐTC cam đoan sự dấn thân và cộng tác của Giáo Hội Công Giáo trong nỗ lực chung xây dựng một xã hội công bằng và bao gồm mọi người, trong đó ta có thể cùng nhau sống trong an bình và hòa hợp.

 Trong cuộc gặp gỡ tổng thống Paraguay, ĐTC đã tặng ông bức tranh khảm sao lại ảnh mà thánh Gioan Phaolô 2, sau vụ mưu sát ngày 13-5-1981, đã muốn đặt tại một tường trong dinh Tông Tòa, mà người ta có thể thấy từ Quảng trường thánh Phêrô nhìn lên. Bức ảnh được coi là chứng tá và bảo chứng sự bảo vệ hiền mẫu của Mẹ Maria trên Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội.

 Trong số các quà mà Tổng thống Cartes cũng có chiếc áo cầu thủ bóng đá màu đỏ mang số 10 và có thêu tên Phanxicô, đáp ứng sở thích của Ngài đối với bóng đá.

 Trong cuộc viếng thăm của ĐTC, chính phủ Paraguay đã động viên 17 ngàn nhân viên cảnh sát và quân đội để giữ an ninh và trật tự.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh viện nhi đồng ở Paraguay

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh viện nhi đồng ở Paraguay

ĐTC thăm bệnh viện nhi đồng tại Paraguay

ASUNCIÓN. Sáng thứ bẩy, 11-7-2015, ĐTC đã viếng thăm Tổng bệnh viện nhi đồng ”Ninos de Acosta Nu” cách tòa Sứ Thần 20 cây số, một nhà thương toàn khoa có khoảng 100 giường.

 Tên của nhà thương có nghĩa là ”Chiến trường lớn”, nhắc nhớ biến cố rất nhiều trẻ em bị thiệt mạng trong trận chiến hồi tháng 8-1869.

 Đến nơi vào lúc 8 giờ rưỡi, ĐTC đã được đông đảo tín hữu đứng chờ từ bên ngoài đón tiếp. Liền đó ngài được bác sĩ giám đốc bệnh viện hướng dẫn viếng thăm các em bệnh nhân tại các khu trại khác nhau, đặc biệt là khu hồi sinh và khu dành cho các em bị ung thư. Các ký giả thu hình không được đi theo, do ý muốn của ĐTC, để các trẻ em được tự nhiên hơn trong cuộc viếng thăm. Ngài đã lắng nghe các em và nhận những lá thư do các em viết, những hình hoặc đồ thủ công do các em làm.

 Sau đó ngài tiến vào hội trường bệnh viện để gặp gỡ hàng trăm bác sĩ và nhân viên các cấp của nhà thương,

 Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc nhở rằng các trẻ em thuộc vào số những người được Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương. Không phải vì Chúa không thương người lớn, nhưng Chúa cảm thấy hạnh phúc khi có thể được ở với các em, vui mừng vì tình bạn của các em tháp tùng và Chúa trưng dẫn các em như gương mẫu, đến độ Chúa nói với các môn đệ: ”Nếu các con không trở nên như trẻ thơ thì các con không thể vào nước trời' (Mt 18,3).

 Ngỏ lời với các em trong nhà thương, ĐTC cám ơn các em vì sự dịu dàng thơ ngây, vì sự gần gũi và khả năng kháng cự của các em. Ngài nói: ”Nhìn các con, người ta cảm thấy được sức mạnh để tín thác và tiến bước”.

 ĐTC không quên cám ơn các bác sĩ, y tá và tất cả các nhân viên nhà thương. Sau cùng, ngài mời gọi các em bệnh nhân hãy cầu nguyện, nói chuyện với Chúa Giêsu, chia sẻ với Chúa những thắc mắc, những đau đớn của mình. ”Chúa Giêsu luôn gần gũi chúng ta. Nơi nào có Chúa Giêsu thì có Mẹ Maria, Đức Mẹ Caacupè”.

 Cuộc viếng thăm của ĐTC tại Nhà thương nhi đồng kéo dài 45 phút và liền đó ngài lên đường đến Đền thánh Đức Mẹ Caacupé cách đó 40 cây số để cử hành thánh lễ cho các tín hữu, theo chương trình vào lúc 4 giờ rưỡi giờ địa phương.

 G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Paraguay

Đức Thánh Cha bắt đầu viếng thăm Paraguay

ĐTC thăm Paraguay

ASUNCIÓN. Lúc 3 giờ chiều ngày 10-7-2015, ĐTC Phanxicô đã bắt đầu chương trình viếng thăm tại Paraguay, chặng thứ 3 và là chặng chót trong chuyến viếng thăm mục vụ dài 8 ngày của ngài tại 3 nước Nam Mỹ: Ecuador, Bolivia và Paraguay.

Paraguay rộng 406 ngàn cây số vuông, nhưng dân số chỉ có 6 triệu 700 ngàn người, trong đó tỷ lệ Công Giáo lên tới 93,2%, gồm 6 triệu 320 ngàn người Công Giáo, thuộc 15 giáo phận, nhưng chỉ có 372 giáo xứ và 1.450 trung tâm mục vụ khác.

Paraguay có 23 GM và 800 LM, trong đó quá một nửa là các linh mục dòng, gồm 416 vị. Ngoài ra có gần 1.500 nữ tu và 207 tu huynh. Bình quân tại nước này cứ 7.860 giáo dân Công Giáo thì mới có 1 LM, tỷ lệ quá cao. Tại Paraguay, Giáo Hội đảm trách 19 trường cao đẳng và đại học, 665 trường học các cấp.

Paraguay đã phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử Mỹ châu la tinh, từ năm 1865 đến 1870: 3 nước Argentina, Brazil và Uruguay đã liên minh với nhau, và với 200 ngàn quân, họ đánh 150 ngàn quân Paraguay, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em, làm cho 300 ngàn người Paraguay thiệt mạng, cả binh sĩ lẫn thường dân. Phía liên minh có khoảng 100 ngàn người chết. Lãnh thổ của Paraguay bị 3 nước chiếm phần lớn, trong đó có 140 ngàn cây số vuông dành cho Argentina và Brazil.

Sau 2 giờ bay, vượt qua hơn 1 ngàn cây số, ĐTC đến phi trường thủ đô Asunción vào lúc 3 giờ chiều giờ địa phương. Trời mưa rào giống như khi Đức Gioan Phaolô 2 đến đây 27 năm về trước.

Đón tiếp

Tại Phi trường Silviio Pettirossi, trước sự hiện diện của Tổng thống Horacio Cartes, các quan chức chính quyền và các GM, ĐTC đã được đón tiếp nồng nhiệt với các vũ điệu, ca đoàn thiếu niên ”Los Nazarenos” và hoạt cảnh với sự hiện diện của các diễn viên diễn tả thánh Roco Gonzalez tử đạo tại Paraguay, Chúa Giêsu và Mẹ Maria (Đức Mẹ Caacupé), giống như các tượng được rước đi trong các ngày lễ.

ĐTC và mọi người cũng xem lại đoạn phim 2 phút chiếu cảnh đón tiếp thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng dưới trời mưa, rồi ngài rảy nước thánh làm phép bia kỷ niệm cuộc viếng thăm của thánh nhân tại Paraguay từ ngày 16 đến 18-5 năm 1988. Hồi đó nước này còn ở dưới chế độ độc tài của tướng Alfredo Stroessner, cai trị Paraguay trong 35 năm (1954-1989). Trong cuộc viếng thăm bấy giờ, Đức Gioan Phaolô 2 nói rằng: Giáo hội không thể bị đóng khung trong các nơi thờ phượng, và Giáo Hội dấn thân thăng tiến tự do và sự liêm chính trong các lãnh vực công cộng và riêng tư, bảo vệ sự sống, bênh vực các dân quyền. Ngài nói thẳng rằng: ”Tôn trọng nhân quyền không phải là một vấn đề chính trị tùy tiện, nhưng đúng hơn, đó là điều xuất phát từ phẩm giá con người, trong tư cách là một thụ tạo của Thiên Chúa được kêu gọi tiến về một vận mạng siêu việt”.

Một năm sau cuộc viếng thăm ấy, tướng Stroessner đã bị lật đổ trong cuộc đảo chánh và Paraguay dần dần tiến sang chế độ dân chủ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù Palmasola ở Bolivia

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà tù Palmasola ở Bolivia

ĐTC viếng thăm các tù nhân

SANTA CRUZ. ĐTC Phanxicô khích lệ các tù nhân ở Bolivia tiếp tục hy vọng giữa bao nghịch cảnh và tận dụng hoàn cảnh hiện nay để chuẩn bị tái hội nhập vào xã hội.

Nhà tù Palmasola cách tòa TGM Santa Cruz của Bolovia 15 cây số và được chia làm nhiều khu vực dành cho các loại tù nhân khác nhau: nam, nữ, người trẻ, các tù nhân tội nhẹ và các tù nhân tội trọng. Khu nhà tù dành cho nam giới, nơi ĐTC đến thăm sáng thứ sáu 10-7-2015, được gọi tắt là PS 4, có 2.800 tù nhân và đặc biệt có khu vực dành cho các thân nhân, khoảng 1.500 người mỗi ngày. Họ có thể sống chung giống như trong một làng do chính các tù nhân quản trị.

Nhà tù Palmasola được dư luận biết đến nhiều nhất là sau một vụ nổi loạn và cuộc tấn công đàn áp bằng súng xịt xăng đặc hồi năm 2013 làm cho 31 tù nhân thiệt mạng và 36 người phỏng nặng. Đức Cha Jesus Juarez Parraga, TGM giáo phận Sucre, chủ tịch Ủy ban mục vụ xã hội, Caritas Bolivia và đặc trách mục vụ nhà tù, hy vọng cuộc viếng thăm của ĐTC sẽ thu hút sự chú ý của dư luận về tình trạng các nhà tù tại Bolivia và Mỹ châu la tinh nói chung. Các nhà tù này thường đông chật, tù nhân phải chịu nạn bạo lực và các tù nhân thanh toán, hành hạ nhau.

Đến nhà tù lúc 9 giờ rưỡi sáng, ĐTC đã chào thăm nhiều tù nhân, thân nhân, con cái họ tụ tập tại sân thể thao của nhà tù, cùng với nhiều người khác, trước khi tiến lên lễ đài đơn sơ. Hiện diện tại buổi gặp gỡ có Bộ trưởng tư pháp và các giới chức chính quyền Bolivia.

 Thảm trạng các nhà tù ở Bolivia

Đầu buổi gặp gỡ, Đức Cha Jesus Juarez Parraga, TGM giáo phận Sucre, chủ tịch Ủy ban mục vụ xã hội, Caritas Bolivia và đặc trách mục vụ nhà tù, đã cám ơn ĐTC đến thăm và nói rằng Giáo hội là chứng nhân về tình thương của Thiên Chúa giữa những người lầm than và khích lệ quyết tâm của những người thiện nguyện cũng như các nhân viện mục vụ nhà tù; cuộc viếng thăm của ĐTC cũng lưu ý các giới chức chính quyền hãy nhạy cảm ơn đối với vấn đề nhà tù và mở rộng con tim xã hội để có một lời đáp trả từ bi đối với tình trạng những người bị mất tự do.

Đức TGM Suarez nhắc đến thảm trạng của các tù nhân ở Bolivia và tình trạng đó là dấu hiệu một xã hội tạo ra nghèo đói, chênh lệch và bạo lực, dấu hiệu chứng tỏ sự suy yếu của những điểm tham chiếu luân lý trong gia đình, trong ngành giáo dục và cả trong các tôn giáo, thiếu sự tương hợp giữa một bên là các qui luật bảo vệ luật pháp cao độ, và bên kia là ngành công lý làm thương tổn các quyền của tù nhân.

Đức Cha Suarez cũng nói đến gương mù trong ngành công lý ở Bolivia. Theo thống kê đầu năm nay, 84% các tù nhân không được xét xử, công lý quá chậm chạp. Tỷ lệ chật chột lên tới 326%. Hơn 900 trẻ em sống trong tù với cha mẹ kể cả tại Palmasola. Tình trạng không thể chịu nổi đến độ có những tù nhân nhận tội để đổi lấy án tù ngắn hơn, dù họ vô tội.

Đức cha nói thêm rằng cuộc viếng thăm hôm nay của ĐTC, gặp gỡ các tù nhân tại đây, phần nào họ đại diện cho 15 ngàn người đang bị thiếu tự do tại 53 nhà tù trên toàn quốc.

Tiếp lời Đức TGM, ba tù nhân cũng trình bày chứng từ tình cảnh của họ và của các tù nhân khác.

Huấn dụ của ĐTC

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhận thấy qua chứng từ của Đức TGM Jesus Juarez và của đại diện tù nhân, sự đau khổ không thể dập tắt niềm hy vọng nơi thẳm sâu tâm hồn và sự sống tiếp tục nảy mầm mạnh mẽ trong những nghịch cảnh.

ĐTC nói đến kinh nghiệm và xác tín bản thân của ngài: ”Người mà anh chị em đang thấy trước mặt đây là một người đã được tha thứ. Một người đã được cứu thoát khỏi nhiều tội lỗi của mình. Và tôi tự giới thiệu như thế trước mặt anh chị em. Tôi không có gì nhiều để trao tặng anh chị em, nhưng điều tôi có, điều tôi yêu mến, tôi muốn trao tặng anh chị em, chia sẻ với anh chị em, đó là Chúa Giêsu Kitô, là lòng từ bi của Chúa Cha. Người đến để tỏ cho chúng ta, làm choi tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta trở nên hữu hình. Một tình yêu tích cực, thực sự. Một tình yêu chữa lành, tha thứ, nâng dậy, chăm sóc.

ĐTC nhắc đến sự tích thánh Phêrô và Phaolô bị cầm tù, bị tước mất tự do, nhưng trong những hoàn cảnh ấy các vị đã được nâng đỡ, không lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Đó chính là lời cầu nguyện, kinh nguyện bản thân và cộng đoàn. Các vị đã cầu nguyện và được cộng đoàn cầu nguyện cho. Hai hành động ấy cùng nhau họp thành một mạng lưới nâng đỡ cuộc sống và hy vọng, giúp chúng ta khỏi tuyệt vọng và khích lệ chúng ta tiếp tục tiến bước. Một mạng lưới nâng đỡ sự sống, cuộc sống của anh chị em và những người thân của anh chị em.

ĐTC khẳng định rằng khi Chúa Giêsu đi vào cuộc sống một người, thì họ không còn bị cầm tù trong quá khứ của họ nữa, nhưng bắt đầu nhìn hiện tại một cách khác, với một niềm hy vọng khác. Họ bắt đầu nhìn bản thân, nhìn thực tại của mình với một cặp mắt khác. Họ không còn bị cầm giữ trong những gì đã xảy ra, nhưng có khả năng khóc và tìm được sức mạnh để bắt đầu lại. Nếu có lúc nào anh chị em cảm thấy buồn sầu, đau khổ, xuống tinh thần, thì tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đanh. Trong cái nhìn của Chúa, tất cả chúng ta đều tìm được chỗ. Tất cả chúng ta đều có thể phó thác cho Chúa những vết thương, những đau khổ và cả những tội lỗi của chúng ta nữa. Trong các vết thương của Chúa, các vết thương của chúng ta tìm được chỗ đứn. Để được săn sóc, thanh tẩy, biến đổi, hồi sinh.

ĐTC nói: ”xác tín ấy thúc đẩy chúng ta hoạt động cho phẩm giá của mình. Tình trạng bị giam tù không còn như trước nữa, nhưng nó trở nên thành phần của một tiến trình tái hội nhập vào xã hội. Tuy tình trạng nhà tù có nhiều điều tiêu cực, quá chật chội, công lý chậm chạp, thiếu các phương pháp trị liệu và chính sách phục hồi, không kể nạn bạo lực… Tuy chúng ta phải chiến đấu chống lại các thực tại ấy, nhưng chúng ta không thể cho là mọi sự đều vô ích.

ĐTC nhấn mạnh rằng tại Trung tâm phục hồi này, sự sống chung phần nào cũng tùy thuộc anh chị em. Đau khổ và thiếu thốn có thể làm cho con tim của anh chị em trở nên ích kỷ và tạo dịp cho những xung đột, nhưng chúng ta cũng có khả năng biến đổi chúng thành những dịp thực thi tình huynh đệ chân thực. Anh chị em hãy giúp đỡ nhau, đừng sợ giúp đỡ nhau. Ma quỉ tìm kiếm sự cạnh tranh, chia rẽ, phe phái. Anh chị em hãy chiến đấu để tiến bước.

Sau cùng, ĐTC không quên khích lệ tất cả những người làm việc tại Trung tâm phục hồi này, từ ban giám đốc, cho đến các nhân viên cảnh sát nhà tù và các nhân viên khác. Ngài nói: ”Anh chị em đang thực thi công việc phục vụ công cộng cơ bản. Anh chị em có một vai trò quan trọng trong tiến trình giúp các tù nhân tái hội nhập, có công tác nâng đỡ người khác trỗi dậy và không hạ xuống, mang lại phẩm giá chứ không hạ nhục, khích lệ chứ không đè bẹp”.

Sau khi ban phép lành cho các tù nhân và mọi người, ĐTC đã tới giáo xứ ”Thánh Giá” cách đó 14 cây số để gặp gỡ 37 GM Bolivia trước khi ra phi trường Viru Viru ở Santa Cruz để đáp máy bay sang Paraguay, chặng chót trong chuyến viếng thăm 8 ngày của ngài ở Mỹ châu la tinh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hai triệu người dự Lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại Bolivia

Hai triệu người dự Lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha tại Bolivia

Hai triệu người dự thánh lễ tại Bolivia

SANTA CRUZ. Hằng  triệu tín hữu đã tham dự thánh lễ đầu tiên ĐTC Phanxicô cử hành tại thành phố Santa Cruz, thủ đô kinh tế của Bolivia, sáng ngày 9-7-2015.

ĐTC đã rời tòa nhà ĐHY Terrazas Sandoval, nguyên TGM Santa Cruz từ lúc quá 9 giờ sáng. Ngài đi xe díp mày trắng có mái kiếng che tiến qua các đại lộ rộng rãi dài 1 cây số dười dẫn đến quảng trường Chúa Kitô Cứu Thế để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tụ tập tại đây. Ngoài những người da trắng còn có đông đảo các tín hữu thuộc 36 bộ tộc thổ dân tại Bolivia, nhiều người mặc y phục truyền thống.

Nhiều màn hình khổng lồ đã được bố trí dọc theo đại lộ để những người ở xa lễ đài cũng có thể tham dự thánh lễ ĐTC cử hành bắt đầu lúc 10 giờ sáng.

Thánh lễ này cũng là lễ khai mạc Đại Hội Thánh Thể toàn quốc kỳ 5 của Bolivia và sẽ được tiếp nối tại thành phố Tarija. Ngoài tiếng Tây Ban Nha, còn có những phần của thánh lễ, kinh nguyện, bài đọc bằng các tiếng thổ dân như Guaranì, Quechua và Aimara.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 50 GM Bolivia và các GM khách, và hàng trăm Linh Mục trong phẩm mục màu trắng. Phần thánh ca do một ca đoàn hùng hậu 500 ca viên đồng phục màu đen và vàng đảm trách.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đi từ sự kiện các môn đệ đứng trước tình trạng 4 ngàn người nghe Chúa Giêsu giảng và không có gì để ăn. Các môn đệ xin Chúa giải tán họ vì không thể kiếm đủ lương thực cho đám đông ấy. Từ đó ngài nêu bật trách nhiệm của mọi người góp phần làm việc để không ai bị loại trừ trong xã hội. ĐTC nói:

”Đứng trước bao nhiêu tình trạng đói khổ trên thế giới, có thể chúng ta nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta.

”Đường hướng người ta chủ trương áp đặt trong thế giới ngày nay thật dễ chiếm chỗ trong một con tim tuyệt vọng. Đường hướng đó tìm cách biến đổi mọi sự thành đối tượng trao đổi, tiêu thụ, tất cả đều có thể thương lượng được. Đường hướng ấy chủ trương chỉ dành chỗ cho một thiểu số, và gạt bỏ tất cả những người ”không sản xuất”, không được coi là thích hợp và xứng đáng, vì họ có vẻ là không có lợi gì. Một lần nữa Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ”Không cần phải bảo họ ra đi, chính các con hãy cho họ ăn!”

”Đó là một lời mời gọi ngày nay vẫn còn vang vọng mạnh mẽ đối với chúng ta: ”Không cần một ai phải ra đi; hãy chấm dứt tình trạng bị gạt bỏ, chính các con hãy cho họ ăn”. Chúa Giêsu tiếp tục nói với chúng ta điều ấy tại quảng trường này. Đúng vậy! Hãy chấm dứt tình trạng gạt bỏ người, chính các con hãy cho họ ăn. Quan niệm của Chúa Giêsu không chấp nhận sự gạt bỏ những người yếu nhất, những người đang túng thiếu hơn cả. Khi chấp nhận sự thách đố ấy, thì chính Chúa nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. Chỉ dẫn của Chúa được tóm gọm trong 3 câu: Ngài cầm lấy một chút bánh và vài con cá, chúc tụng, phân chia và giao cho các môn đệ phân phát cho người khác. Đó chính là con đường phép lạ. Chắc chắn đây không phải là ma thuật hay là tôn thờ thần tượng. Qua 3 hành động ấy, Chúa Giêsu biến đổi được chủ trương gạt bỏ thành một đường hướng hiệp thông, cộng đồng. Tôi muốn nhấn mạnh vắt tắt 3 hành động ấy.

Người cầm lấy. Điểm khởi hành là: Chúa rất nghiêm túc coi trọng sinh mạng những người của Ngài. Ngài nhìn tận mắt và qua đó ngài hiểu cuộc sống, tâm tình của họ. Ngài thấy trong cái nhìn ấy điều đang đập và điều ngưng đập trong ký ức và con tim của dân Ngài. Ngài cứu xét và đề cao giá trị của điều ấy. Ngài đề cao giá trị của tất cả những gì tốt mà họ có thể cống hiến, tất cả những gì tốt đẹp trên đó có thể xây dựng được. Nhưng Chúa không nói về những đồ vật hoặc tài nguyên văn hóa hay ý tưởng, nhưng là những con người. Sự phong phú đích thực của một xã hội được đo lường trong cuộc sống của dân chúng, được đo lường nơi những người già có khả năng thông truyền sự khôn ngoan và ký ức của dân tộc cho những người bé nhỏ nhất. Chúa Giêsu không lơ là, không coi nhẹ phẩm giá của một ai, không viện cớ là họ không có gì để cho hoặc để chia sẻ.

– Hành động thứ hai là chúc tụng. Chúa cầm lấy và chúc tụng Cha ở trên trời. Ngài biết rằng những món quà đó là một hồng ân của Thiên Chúa, vì thế Ngài không đối xử với những vật ấy như bất kỳ vật nào, vì tất cả sự sống ấy là thành qủa của tình yêu thương xót. Chúa nhìn nhận điều ấy. Ngài đi xa hơn cái vẻ bề ngoài và trong cử chỉ chúc tụng, ngợi khen, Ngài xin Chúa Cha ban hồng ân Thánh Linh. Chúc phúc hay làm phép bao gồm 2 cái nhìn ấy, một đàng là cảm tạ và đàng khác là có thể biến đổi. Có nghĩa là nhìn nhận rằng sự sống luôn luôn là một hồng ân, một món quà khi đặt trong tay Chúa thì đạt được một sức mạnh tăng thêm nhiều. Chúa Cha của chúng ta không tước bỏ điều gì, Ngài làm tăng thêm nhiều.

– Sau cùng là trao ban. Trong Chúa Giêsu không có sự cầm lấy mà đồng thời không có một sự chúc lành, và không có một sự chúc lành mà không có trao ban. Chúc lành luôn luôn là một sứ mạng, có một mục tiêu, chia sẻ, cùng phân chia điều mình đã nhận lãnh, vì chỉ qua sự trao ban, chia sẻ, chúng ta mới tìm được nguồn mạch vui mừng, chúng ta mới cảm nghiệm được ơn cứu độ.

Từ những giải thích trên đây, ĐTC đề cập đến Đại hội Thánh Thể toàn quốc kỳ 5 của Giáo Hội tại Bolivia, được khai mạc hôm nay nhưng sẽ tiến hành tại Tarija. Ngài nói:

”Đó là Bí tích hiệp thông, làm cho chúng ta thoát khỏi cá nhân chủ nghĩa để cùng nhau sống ơn gọi theo Chúa, và làm cho chúng ta xác tín rằng điều chúng ta sở hữu và chính con người của chúng ta, nếu được đón nhận, chúc phúc và dâng hiến, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa, do quyền năng tình thương của Chúa, có thể trở thành bánh cho tha nhân.

Giáo hội là một cộng đoàn tưởng niệm. Vì thế, trung thành với mệnh lệnh của Chúa, được lập lại mỗi lần ”Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Giáo Hội hiện tại hóa từ đời nay sang đời kia, nơi mọi góc trên trái đất, mầu nhiệm Bánh Sự Sống. Giáo hội làm cho mầu nhiệm ấy hiện diện và trao tặng chúng ta. Chúa Giêsu muốn chúng ta tham gia vào sự sống của Ngài và qua chúng ta, sự sống ấy hóa ra nhiều trong xã hội chúng ta. Chúng ta không phải là những người cô lập, phân cách, nhưng là một dân tộc có ký ức được hiện tại hóa và luôn được dâng hiến”.

Một cuộc sống tưởng niệm cần những người khác, cần những quan hệ, cần gặp gỡ, cần tình liên đới thực sự, có khả năng đi vào con đường đón nhận, chúc phúc và dâng hiến, theo đường hướng của tình yêu.

Cuối thánh lễ, sau lời cám ơn của Đức Cha Sergio Gualberti Calandrina, TGM sở tại, ĐTC đã trao Thánh Giá truyền giáo cho một số thừa sai.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Những đề nghị ”cách mạng” của Đức Thánh Cha Phanxicô

ĐTC gặp gở các đại biểu

SANTA CRUZ. Trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn đại biểu thuộc các Phong trào dân chúng nhóm tại Santa Cruz, Bolivia, chiều ngày 9-7-2015, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ chống lại các hình thức thực dân mới và đưa ra nhiều đề nghị ”cách mạng” cải tiến nền kinh tế thế giới.

ĐTC đã đến khu vực Hội chợ triển làm Expo Feria ở thành phố Santa Cruz khoảng 5 giờ rưỡi chiều để gặp gỡ các tham dự viên Cuộc gặp gỡ thế giới kỳ 2 của các Phong trào nhân dân. Trung tâm này có diện tích 5 ngàn mét vuông và có hội trường Gaurayo có thể chứa được 3 ngàn người.

Tại đây trong những ngày từ 7 đến 9-7-2015 đã diễn ra cuộc gặp gỡ lần thứ 2 các Phong trào dân chúng, được tổ chức với sự cộng tác của Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Tham dự sinh hoạt này có các đại biểu của các phong trào dân chúng đến từ các nước trên thế giới như giới lao động bấp bênh, và giới kinh tế không chính thức, đại diện các tầng lớp nông dân không ruộng đất, những người dân tại các khu phố nghèo, các thổ dân, và di dân. Ngoài ra cũng có một đoàn đại diện những người dấu tranh thuộc các phong trào xã hội.

Trong số các tham dự viên từ phía Tòa Thánh có ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hòa bình; Đức GM Marcelo Sanchez Sorondo, người Argentina, Chưởng Ấn Hàm lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của các phong trào dân chúng này đã được tổ chức tại Vatican hồi tháng 10 năm ngoái, và trong số các tham dự viên cũng có tổng thống Evo Morales của Bolivia.

Khi ĐTC đến nơi vào lúc quá 5 giờ rưỡi chiều, ngài đã được 6 tham dự viên, 3 nam 3 nữ, trao tặng Văn kiện chung kết của Hội nghị và cũng được trình bày tổng quát nội dung văn kiện. Cả tổng thống Evo Morales cũng lên tiếng trong dịp này và ông đã phát biểu 30 phút, trước khi ĐTC trình bày lập trường của ngài.

Diễn văn của Đức Thánh Cha

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phong trào này hồi tháng 10 năm ngoái (2014) tại Vatican trong một bầu không khí huynh đệ, quyết định, dấn thân, khao khát công lý. Và bây giờ cuộc gặp gỡ thứ hai này nhắm tạo cơ hội để thảo luận về những cách thức tốt đẹp hơn để vượt thắng những tình trạng bất công trầm trọng đang làm cho bao nhiêu người bị gạt bỏ trên thế giới phải chịu đau khổ.

Thực trạng cần thay đổi

1. Trước tiên ĐTC nhận xét rằng chúng ta đang cần một sự thay đổi. Đây là những vấn đề chung cho mọi nước Mỹ châu la tinh và toàn thể nhân loại. Các vấn đề có tính chất hoàn cầu và không một nước nào một mình có thể giải quyết được:

– Chúng ta có biết nhìn nhận rằng tình trạng hiện nay không tốt trong một thế giới có bao nhiêu nông dân không có ruộng đất, bao nhiêu gia đình không có nhà ở, bao nhiêu công nhân viên không có quyền lợi, nhiều người bị thương tổn trong phẩm giá của họ hay không?

– Chúng ta có nhận ra rằng tình trạng hiện nay không tốt vì bao nhiêu cuộc chiến tranh điên rồ bùng nổ và bạo lực huynh đệ tương tàn gia tăng trong các khu phố của chúng ta hay không? Vì đất đai, nước, không khí và tất cả những sinh vật trong thiên nhiên đang liên tục bị đe dọa hay không?

Những thực tại tàn phá ấy tương ứng với một chế độ đang trở thành hoàn vũ, một chế độ áp đặt tiêu chuẩn lợi lộc bằng bất kỳ giá nào, không nghĩ đến sự gạt ra ngoài lề xã hội hoặc phá hủy thiên nhiên. Ngày nay sự lệ thuộc lẫn nhau trên trái đất đòi phải có những câu trả lời hoàn cầu cho các vấn đề địa phương. Sự hoàn cầu hóa niềm hy vọng, nảy sinh từ các dân tộc và gia tăng giữa người nghèo, phải thay thế sự hoàn cầu hóa tình trạng gạt ra ngoài lề và sự dửng dưng!

ĐTC nhận xét rằng ngay cả nơi những nhóm thiểu số đang thu hẹp, tưởng rằng mình được hưởng lợi nhờ chế độ ấy, nhưng thực tế họ cũng đang cảm thấy bất mãn và nhất là buồn sầu. Nhiều người đang chờ đợi một sự thay đổi giải thoát họ khỏi sự sầu muộn cá nhân chủ nghĩa ấy khiến họ trở thành nô lệ. Có lẽ nó đang gây thiệt hại không thể chữa lành cho hệ thống kinh tế. Sự ham hố vô độ đối với tiền bạc đang thống trị. Việc phục vụ công ích bị loại xuống hàng thứ yếu. Khi tư bản trở thành thần tượng và điều khiển những chọn lựa của con người, khi sự tham lam tiền bạc kiểm soát toàn bộ chế độ kinh tế đã hội, làm hư hỏng xã hội, phá hủy tình huynh đệ giữa con người với nhau, thúc đẩy dân tộc này chống lại dân tộc khác và đe dọa cả căn nhà chung của chúng ta.

Trước những tin tức đen tối hằng ngày, chúng ta tin rằng mình chẳng có thể làm được gì, nên chỉ cần chăm sóc mình và gia đình bé nhỏ của mình với tình thương yêu. Nhưng tương lai của nhân loại phần lớn ở trong khả năng tổ chức và thăng tiến những sáng kiến khác, trong nỗ lực hằng ngày tìm kiến 3 điều là: công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và trong sự tham gia tích cực vào những tiến trình thay đổi lớn trên bình diện quốc gia, miền và hoàn cầu.

Trách nhiệm của các Phong trào dân chúng

Sau khi trình bày thực trạng trên đây, ĐTC nói với các vị lãnh đạo các phong trào dân chúng rắng:

2. Anh chị em là những người phổ biến sự thay đổi, những tiến trình thay đổi. Phải quan niệm sự thay đổi không phải như một cái gì một ngày kia sẽ xảy tới, vì ta đề ra những chọn lựa này hay chọn lựa khác về phương diện chính trị hoặc vì ta thiết lập cơ cấu xã hội này hay cơ cấu kia. Một sự thay đổi cơ cấu mà không có sự hoán cải chân thành trong thái độ và trong tâm hồn thì sớm muộn gì cũng trở thành một thứ bệnh bàn giấy, hư hỏng và sụp đổ. Mỗi người chúng ta chỉ là thành phần của một toàn bộ phức tạp và khác nhau, tác động trên nhau trong thời gian. Chúng ta phải chú ý đến những con người cụ thể, với khuôn mặt và danh tánh. Chúng ta rùng mình trước bao nhiêu đau khổ và cảm động vì ”chúng ta đã thấy và đã nghe” không phải những con số thống kê lạnh lùng, nhưng là những vết thương của nhân loại đau khổ, những vết thương của chúng ta, thân thể chúng ta. Điều này rất khác với sự đề ra những lý thuyết trừu tượng hoặc thái độ phẫn nộ ”tao nhã”. Sự gắn bó với khu phố, đất đai, lãnh thổ, công ăn việc làm, công đoàn, nhận ra mình trong khuôn mặt người khác, sự gần gũi hằng ngày, với những lầm than cơ cực và những cử chỉ anh hùng thường nhật, và điều giúp thực thi sứ mạng không phải đi từ những ý tưởng hay ý niệm, nhưng từ cuộc gặp gỡ chân thành giữa con người với nhau, vì ta không yêu thương những ý niệm hay ý tưởng, nhưng ta yêu thương con người.

ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải làm việc trong viễn tượng không phe phái, và tìm cách giải quyết tận căn các vấn đề tổng quát là nạn nghèo đói, chênh lệch và loại trừ. Như thế các phong trào dân chúng trở thành một giải pháp khác với thứ hoàn cầu hóa loại trừ. Giáo Hội không thể và không được xa lạ với tiến trình ấy trong việc loan báo Tin Mừng. Sự cộng tác với các phong trào dân chúng, trong niềm tôn trọng nhau, có thể tăng cường những cố gắng và củng cố các tiến trình thay đổi.

Những đề nghị của ĐTC

Sau cùng, ĐTC đề cập đến một vài thách đố quan trong trong thời điểm lịch sử hiện nay. Ngài xác quyết rằng Giáo Hoàng cũng như Giáo Hội không có độc quyền giải thích thực tại xã hội hoặc đề nghị những giải pháp cho các vấn đề hiện nay. Đúng hơn, không có một công thức. Vì thế, ĐTC đề nghị 3 nghĩa vụ lớn”

1. Thứ I là đặt kinh tế phục vụ các dân tộc. Con người và thiên nhiên không phải phục vụ tiền bạc. Không chấp nhận một thứ kinh tế loại trừ và bất chính trong đó tiền bạc thống trị thay vì phục vụ. Nền kinh tế này giết hại, gạt bỏ, phá hủy Mẹ Trái đất. Nền kinh tế phải là một sự quản lý tốt căn nhà chung. Một nền kinh tế thực sự có tính chất cộng đồng, lấy hứng từ Kitô giáo, phải bảo đảm phẩm giá cho các dân tộc, ”một sự thịnh vượng không loại trừ thiện ích nào”. Công ăn việc làm, nhà ở và đất đai, và cả việc giáo dục, sức khỏe, đổi mới, những sáng tác nghệ thuật và văn hóa, truyền thông, thể thao và giải trí. Cần cơ cấu hóa toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối để những khả năng và đòi hỏi của mỗi người được diễn tả thích hợp trong chiều kích xã hội. Đó không phải là một ảo tưởng hay tưởng tượng.

Những tài nguyên trong thế giới, kết quả của lao công thuộc các thế hệ các dân tộc và là hồng ân trong công trình tạo dựng, dư đủ cho sự phát triển toàn diện mỗi người và tất cả mọi người. Trái lại hệ thống hiện hành theo đuổi những mục tiêu khác. Do sự gia tăng vô trách nhiệm các nhịp độ sản xuất, tăng cường trong kỹ nghệ và nông nghiệp những phương pháp gây hại cho Mẹ Trái Đất, nhân danh mức sản xuất, người ta tiếp tục phủ nhận không cho hằng tỷ anh chị em được hưởng các quyền cơ bản nhất về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chế độ này làm thương tổn dự phóng của Chúa Giêsu. Sự phân phối công bằng các hoa trái của trái đất và lao công của con người không phải chỉ là một sự thương người. Đó là một nghĩa vụ luân lý. Đối với các Kitô hữu, sự dấn thân như thế càng mạnh mẽ hơn, vì đó là một giới răn.

Nghĩa vụ thứ hai là liên kết các dân tộc chúng ta trên hành trình hòa bình và công lý. Các dân tộc trên thế giới muốn làm chủ vận mạng của mình. Họ muốn tiến bước trong an bình trên con đường tiến về công lý. Họ không muốn sự bảo hộ hoặc những sự xen mình, trong đó kẻ mạnh nhất bắt những kẻ yếu phải tùng phục. Họ yêu cầu rằng nền văn hóa, ngôn ngữ, các tiến trình xã hội và các truyền thống tôn giáo của họ được tôn trọng. Không quyền bính nào – trong thực tế hoặc được thiết lập – có quyền tước đoạt các nước nghèo khỏi quyền thực thi trọn vẹn chủ quyền của mình, và khi xảy ra như thế, họ thấy đó là những hình thức thực dân mới làm thương tổn nghiêm trọng khả năng hòa bình và công lý, vì ”hòa bình không những dựa trên sự tôn trọng các quyền con người, nhưng còn trên sự tôn trọng các quyền của các dân tộc, đặc biệt là quyền độc lập” (Toát yếu xã hội, 157).

Trong những năm gần đây, sau bao nhiêu hiểu lầm, nhiều nước Mỹ châu la tinh đã thấy sự gia tăng tình huynh đệ giữa các dân tộc, để làm cho chủ quyền của mình được tôn trọng, chủ quyền của mỗi nước, và chủ quyền của vùng này nói chung. Nhưng ta phải rất để ý, vì chế độ thực dân mới có những khuôn mặt mới. Đó là quyền lực vô danh của thần tiền bạc: các liên minh, một số hiệp ước được gọi là tự do mậu dịch và sự áp đặt các phương thế tiết kiệm ngày càng làm cho các công nhân và người nghèo phải thắt lưng buộc bung. Cũng vậy, sự tập trung độc quyền các phương tiện truyền thông tìm cách áp đặt những kiểu mẫu tiêu thụ và một thứ đồng nhất về văn hóa, là một sắc thái khác của chế độ thực dân mới. Đó là chế độ thực dân ý thức hệ. Như các GM Phi châu đã nói, nhiều khi chúng chủ trương biến các nước nghèo thành những mảnh của một cơ cấu, một phần của một guồng máy khổng lồ.

Không có vấn đề trầm trọng nào của nhân loại có thể được giải quyết nếu không có sự đối tác giữa các quốc gia và dân tộc trên bình diện quốc tế. Nhưng sự đối tác không có nghĩa là áp đặt, không được ép nước này phải phục vụ và tùng phục quyền lợi của nước khác. Chế độ thực dân, cũ và mới, biến các nước nghèo thành những người cung cấp nguyên liệu và công nhân rẻ tiền, nó gây ra bạo lực, nghèo đói, cưỡng bách di dân, vì nó chối bỏ quyền được phát triển toàn diện. Đó là một sự bất chính và bất chính thì sinh ra bạo lực mà không có ngành cảnh sát, quân đối hoặc mật vụ nào có thể ngăn chặn được.

Chúng ta hãy chống lại những hình thức thực dân cũ và mới. Chúng ta hãy ủng hộ chấp nhận cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc và các nền văn hóa.

Sau cùng, ĐTC nhìn nhận có những sự ác do các tín hữu Kitô gây ra trong dòng lịch sử. Ngài nói: ”Tôi muốn nói thật là rõ ràng, như thánh Gioan Phaolô 2, tôi khiêm tốn xin lỗi, không những vì những xúc phạm của Giáo Hội, nhưng vì những tội ác chống lại các dân tộc bản xứ trong thời kỳ gọi là chinh phục Mỹ châu. Tôi cũng xin tất cả mọi người, tín hữu hay không tín hữu, nhớ đến nhiều GM, LM và giáo dân đã và đang còn loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu với lòng can đảm và hiền từ, tôn trọng và trong an bình; khi rời bỏ cõi đời này, họ đã để lại những công trình thật cảm động, thăng tiến nhân bản và yêu thương, nhiều khi ở cạnh các dân tộc bản xứ hoăc tháp tùng các phong trào bình dân cho đến độ tử đạo. Giáo Hội, các con cái nam nữ của mình là thành phần của căn tính các dân tộc Mỹ châu la tinh. Căn tính mà tại đây cũng như tại các nước khác, một số quyền lực quyết liệt muốn xóa bỏ, đôi khi vì đức tin của chúng ta có tính chất cách mạng, vì đức tin chúng ta thách thức bạo quyền của thần tiền bạc. Ngày nay chúng ta kinh hoàng nhận thấy như tại Trung Đông và các nơi khác trên thế giới ngưới ta bách hại, tra tấn, ám sát các anh chị em chúng ta vì niềm tin của họ nơi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng phải tố giác điều đó: trong cuộc thế chiến thứ 3 từng mảnh này mà chúng ta đang sống, có một thứ diệt chủng đang xảy ra và phải chặn đứng lại.

Nghĩa vụ thứ ba, có là lẽ quan trọng nhất mà chúng ta phải đảm nhận hôm nay, đó là bảo vệ Mẹ Trái Đất của chúng ta.

Chúng ta cảm thấy thất vọng gia tăng vì các hội nghị thượng đỉnh quốc tế nối tiếp nhau mà không có tiến bộ quan trọng nào. Có một mệnh lệnh khẩn thiết về luân lý đạo đức rõ rệt, không thể trì hoãn được phải hành động mà chưa được đáp ứng. Ta không thể để cho một số lợi lộc – nó có tính chất toàn cầu nhưng không hoàn vũ – áp đặt trên các nước, bắt các nước và các tổ chức quốc tế phải tùng phục và tiếp tục thiên nhiên. Các dân tộc và các phong trào được kêu gọi lên tiếng, động viên và đòi hỏi một cách ôn hòa nhưng kiên trì, yêu cầu chấp nhận những biện pháp thích hợp.

ĐTC kết thúc dài 55 phút. Sau cùng ngài nói: ”Xin anh chị em nhớ rằng niềm hy vọng không đánh lừa và xin nhớ cầu nguyện cho tôi. Nếu ai không thể cầu nguyện, thì xin hãy nghĩ đến tôi một cách tích cực!”. Trước đó ngài cũng nói rằng: ”Với thông điệp của ngài, tương lai không ở trong những kẻ cường quyền, nhưng trong tay các dân tộc”.

Sau cuộc gặp gỡ với hàng ngàn đại diện của các phong trào dân chúng, ĐTC đã về tòa TGM Santa Cruz để dùng bữa tối và nghỉ đêm.

G. Trần Đức Anh OP- Radio Vatican