Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Bên trong Đền thờ Thánh Phêrô

Our Lady or Sorrow

Giới thiệu bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô

Lần trước chúng ta đã tìm hiểu quảng trường, các nét đại cương Đền Thờ Thánh Phêrô và Dinh Tông Toà. Hôm nay xin mời quý vào thăm bên trong Đền thờ Thánh Phêrô. Bên trên Cửa Thánh là bức khảm đá mầu hình thánh Phêrô theo họa đồ của Ciro Ferri năm 1675.

Khi bước qua Cửa Thánh ngay bên phải là nhà nguyện Pietà, có tượng Đức Mẹ bồng xác Chúa Giêsu do Michelangelo tạc năm 1.500, lúc ông 24 tuổi. Đây là một trong các bức tượng gây xúc cảm nhất trong tất cả các tác phẩm điêu khắc do chính ông ký tên – giữa ngực và vai trái của Đức Mẹ. Năm 1975 có một chàng loạn óc đã cầm búa đập khiến tượng Đức Mẹ bị gẫy mũi và tay. Tượng đã được tu sửa, và cũng từ ngày đó có kính chắn đạn bên ngoài, không ai có thể đến gần hơn. Tranh trên vòm nhà nguyện diễn tả cảnh Thánh Giá chiến thắng do Lanfranco vẽ.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Giá bên trong có cây thánh giá gỗ thời Trung Cổ rất quý của Cavallini. Bên dưói bàn thờ có quan tài của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Giữa nhà nguyện 2 và 3 của gian phải là tượng ĐGH Leo III do Fabris tạc năm 1836. Bên trái là đài kỷ niệm hoàng hậu Christina nước Thụy Điển do Carlo Fontana xây. Phần này hiện được trưng dụng làm phòng thánh nơi ĐGH và các Hồng Y, Giám Mục mặc phẩm phục cử hành thánh lễ.

Bước sang gian giữa đền thờ, bạn cảm nhận được sự cân đối hoà hợp khiến chúng ta có cảm tưởng đền thờ không lớn lắm. Nhưng bạn thử đến gần bồn nước thánh có hai thiên thần bé chầu hai bên, bạn sẽ biết mình cao lớn tới mức nào.

Trần đền thờ cong, mạ vàng, trang hoàng hình hộp nhưng cũng dùng để phóng thanh. Gian giữa dài 187 mét, gian ngang 137 mét 50. Gần cửa gian chính giữa có một phiến đá vân ban tròn, xưa kia đặt trước bàn thờ chính. Dịp lễ Giáng Sinh năm 800 hoàng đế Carlo Magno đã quỳ trên  đó để được ĐGH Leo III  đội triều thiên phong làm Hoàng Đế Tây Phương. Xa hơn chút nữa là các tấm kim loại có ghi chiều kích các nhà thờ chính ở Âu châu, nhưng không chính xác. Bốn vòm khổng lồ rộng 13 mét, cao 23 mét nâng đỡ trần đền thờ dựa trên các cột trụ lớn, gồm hai cột kiểu Côrintô có sọc chụm vào nhau. Trong các vòm đục sâu vào các trụ là tượng của các thánh lập dòng.

Nhà nguyện thứ hai bên phải là nhà nguyện kính thánh Sebastiano có tượng ĐGH Pio XI. Trên bàn thờ có bức khảm đá mầu thánh Sebastiano tử đạo. Giữa nhà nguyện 3 và 4 là đài kỷ niệm ĐGH Innocente XII. Bên trái là đài kỷ niệm nữ bá tước Matilde della Toscana do Bernini xây.

Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Thể. Cửa thép do Borromini vẽ kiểu. Nhà tạm bằng đồng mạ vàng là tác phẩm của Bernini. Trên bàn thờ có bức tranh Chúa Ba Ngôi của Pietro da Cortona. Từ khi lên làm Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II xin nữ tu các dòng thay phiên nhau chầu Mình Thánh Chúa từ sáng tới chiều tại mọi vương cung thánh đường ở Roma, xin cho có nhiều ơn gọi linh mục tu sĩ, vì đại chủng viện Roma hồi đo hầu như không có  chủng sinh. Sau vài năm số chủng sinh đã gia tăng và có năm đã lên tới 150 thầy. Bàn thờ bên phải kính thánh Phanxicô thành Assisi. Bên trái có cửa dẫn lên Dinh Tông Toà. Cạnh nhà nguyện bên phải là đài kỷ niệm ĐGH Gregorio XIII do Rusconi tạc. Bên trái là mộ ĐGH Gregorio XIV.

Trên bàn thờ cạnh cột trụ lớn nâng mái vòm đền thờ có tranh vẽ thánh Giêrôlamô rước lễ. Bên dưới bàn thờ là xác của thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Sau 37 năm qua đời, khi được phong chân phước xác ĐGH vẫn còn y nguyên không hư nát.

Phiá bên phải hiện nay có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau nên không thể thăm viếng.

Tựa trụ cột khổng lồ bên phải nâng mái vòm đền thờ là tượng đồng Thánh Phêrô ngồi trên ngai cẩm thạch bên trên có tàn che bằng đồng. Tượng do nhà điêu khắc Arnolfo di Cambio tạc hồi thế kỷ XIII. Vào các dip lễ lớn tượng được mặc áo choàng đỏ và đội mũ ba tầng rất đẹp. Tín hữu có thói quen hôn kính và vuốt chân thánh nhân nên sau bao thế kỷ hai chân ngài mòn láng.

Mái tròn của đền thờ có chu vi 42 mét, cao 119 mét, là một kỳ công kiến trúc nổi tiếng với những đường nét đơn sơ nhưng oai nghiêm hùng vĩ và chan hoà ánh sáng từ bên ngoại rọi vào qua 16 cửa sổ lớn. Vòm mái chia ra thành 16 rải  quạt với 6 hàng các bức đồ khảm đá mầu rực rỡ do Cavalier d’ Arpino vẽ kiểu diễn tả Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria, các Thánh Tông Đồ vv… trên chóp đỉnh là Thiên Chúa Cha.

Mái vòm dựa trên 4 cột trụ khổng lồ chu vi 71 mét, được trang hoàng với các tượng cao 5 mét. Từ bên phải là thánh Longino cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa do Bernini tạc; đối diện là thánh nữ Elena mẹ hoàng đế Costantino đã tìm ra thánh giá Chúa năm 326 khi đi hành hương Thánh Địa, do Bolgi tạc; bên trái là thánh nữ Veronica người đã lau mặt Chúa trên đường khổ nạn, do Mochi tạc; và đối diện là thánh Anrê, em thánh Phêrô, bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X, do Duquesnoy tạc.

Trên 4 góc cột trụ là các bức khảm đá mầu diễn tả 4 Thánh Sử Mátthêu, Marcô, Luca và Gioan. Trên nữa bên trong vòng tròn là hàng chữ Latinh: “Con là đá, trên đá này Ta sẽ xây Giáo Hội Ta và Ta sẽ trao cho con chià khóa Nước Trời”. Rồi có Kinh Tin Kính chạy dọc quanh đền thờ.

Chính giữa là Bàn thờ tuyên xưng đức tin nơi ĐGH cử hành thánh lễ. Ngoài bàn thờ chính có 29 bàn thờ cạnh. Chiếc tàn khổng lồ bằng đồng lấy từ cửa đồng Pantheon cao 29 mét do Bernini đúc và chạm trổ giữa các năm 1624-1633. Bốn cột hình vặn cong theo kiểu các cây cột trong nhà nguyện Pietà. Triều thiên bên trên được trang hoàng với 4 thiên thần, mỗi vị cao 3 mét 50.

Phía trước bàn thờ là nhà nguyện Tuyên Xưng Đức Tin do kiến trúc sư Maderno xây, chung quanh có 95 ngọn đèn đốt sáng liên lỉ. Bên dưới là tượng ĐGH Pio VI quỳ cầu nguyện.

Thẳng dưới bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin là hòm đựng hài cốt thánh Phêrô. Các cuộc đào bới khảo cổ giữa các năm 1940-1949 đã đưa ra ánh sáng nghĩa trang cổ thuộc thế kỷ thứ II-III  và mộ thánh Phêrô. Hài cốt thánh nhân được gói trong một miếng vải điều có sợi vàng quý giá và đặt trong một hộc xây sâu vào tường, bên ngoài có đề chữ Hy lạp “Petros eni” , nghĩa là “Phêrô ở đây” hay “Phêrô ở trong này”. Hộc này thuộc tầng trên của đài kỷ niệm dâng kính thánh nhân.

Đàng sau bàn thờ chính là ngai toà thánh Phêrô do Bernini xây năm 1656. Chiếc ngai khổng lồ bên trong đựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của thánh Phêrô được 4 thánh Giáo Phụ nâng trên tay: phía trước là thánh Agostino và thánh Ambrogio của Giáo Hội Latinh, phía sau là thánh Atanasio và thánh Gioan Kim Khẩu của Giáo Hội Hy lạp.

Bên trên ngai có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch, chính giữa có hình Chim Bồ Câu biểu tượng cho Chúa Thánh Thần là Đấng luôn soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội.

Bên phải ngai toà thánh Phêrô là đài kỷ niệm ĐGH Urbano VIII do Lorenzo Bernini tạc, với tượng một bộ xương người, Đức Urbano VIII và hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Phụ nữ dang cho con bú tượng trưng cho Đức Bác Ái là Costanxa Bonarelli người tình của kiến trúc sư Bernini.

Bên trái ngai tòa là đài kỷ niệm ĐGH Phaolo III, vị Giáo Hoàng triệu tập Công Đồng Chung Trento chống lại phong trào Cải cách của Luther, do Guglielmo della Porta tạc: phiá trên có tượng bằng đồng của ĐGH, đang cúi xuống ban phép lành cho tín hữu, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho nhân đức Cẩn Trọng là hình của thân mẫu ĐGH bà Giovannella Caetani và nhân đức Công Bằng, là hình của Giulia Farnese, em gái ĐGH.

Gian ngang cánh phải của đền thở hiện có các toà giải tội bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, không thể thăm viếng. Đây đã là nơi họp Công Đồng Chung Vatican I năm 1870. Ở phía này còn có các nhà nguyện Gregorio, nhà nguyện kính Tổng lãnh thiên thần Micae, nhà nguyện kính thánh nữ Petronilla, nhà nguyện Cây cột, nơi còn giữ lại một cây cột đền thờ do hoàng đế Costantino xây hồi thế kỷ thứ IV.  Bên phải là bàn thờ và mộ ĐGH Leo Cả và bức tranh tả cảnh ĐGH gặp hoàng đế Attila do họa sĩ Algardi vẽ năm 1650. Chính giữa là bia mộ ĐGH Leo XIII, tiếp đến là đài kỷ niệm ĐGH Alessandro VII do Bernini tạc có bộ xương người và bên dưới có cửa ra, qua đó quan tài các Hồng Y được đưa đi an táng  sau thánh lễ. Trên bàn thở đối diện là bức tranh Thánh Tâm Chúa hiện ra với thánh nữ Margherita Maria Alacoque của họa sĩ Muccioli.

Gian ngang cánh trái có nhà nguyện kính thánh Giuse với các bức tranh thánh Giuse, thanh Toma và thánh Phêrô. Tiếp đến là lối vào phòng mặc áo và kho tàng đền thờ. Ỏ đây có bảng danh sách 148 Giáo Hoàng được chôn cất dưới hầm đền thờ thánh Phêrô, trong đó có các Giáo Hoàng thuộc thế kỷ XX là Pio X, Biển Đức XV, Pio XI, Pio XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II. Bảo tàng viện Kho  tàng  đền thờ có từ thời hoàng đế Costantino, nhưng qua bao vụ cướp bóc của quân rợ Sarazin năm 846 và vụ cướp bóc Roma năm 1572, các vụ trả nợ theo thoả hiệp Tolentino năm 1797 và dưới thời cộng hòa 1848, khiến cho kho tàng mất đi rất nhiều báu vật.

Tiếp đến trong gian dọc bên trái là nhà nguyện Gregorio hay nhà nguyện Clementina, nhà nguyện Ca đoàn, nhà nguyện Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, bên dưói bàn thờ có xác của Thánh Giáo Hoàng Pio X qua đời năm 1914, còn nguyên ven không hư nát, và sau cùng là nhà nguyện giếng rừa tội.

Linh Tiến Khải

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

Đền thờ và quảng trường thánh Phêrô

St Peter's Square

Đền Thờ và quảng trường Thánh Phêrô

Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, trong mục Sinh Hoạt hôm nay và các lần tới chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị các vương cung thánh đường lớn tại Roma, bắt đầu là Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đền thờ Thánh Phêrô được xây trên mộ của thánh nhân, tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64. Chương 12 sách Công Vụ kể rằng sau khi ra lệnh chém đầu Giacôbê là anh của Gioan, vua Hêrôđê thấy việc này làm vừa lòng người Do thái nên ra lệnh bắt cả Tông đồ Phêrô là Thủ lãnh Giáo Hội. Nhưng đêm trước ngày bị đem ra xử, thiên thần Chúa đã giải thoát Phêrô. Ông đến nhà bà Maria, mẹ của Marcô, kể lại việc Chúa đã đưa ông ra khỏi tù như thế nào. Thánh nhân xin họ báo tin cho Giacôbê và các Tông Đồ khác biết, rồi đi đến một nơi khác. Rời bỏ đất Palestina thánh Phêrô sang tới Roma rao giảng Tin Mừng cho dân chúng tại đây. Cộng đoàn Kitô Roma đã không do các Tông Đồ thành lập, nhưng chắc chắn do các lính Roma, trong đó có quan bách quản Cornelio, ông Longino là người lính đã cầm đòng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu,  và những người Roma đã tin theo Chúa Giêsu, cũng như các thương gia hay các nô lệ biết Chúa tin Chúa nên truyền bá Tin Mừng cho những người khác, và hình thành ra cộng đoàn kitô Roma, bao gồm nhiều nô lệ.  Vào thế kỷ thứ Nhất tại Roma có tới 1 triệu nô lệ thuộc đủ mọi quốc tịch và giai tầng xã hội, kể cả người trí thức. Đa số các đền đài thành quách của đế quốc được xây dựng với xương máu của các nô lệ.

Vào năm 64 hoàng đế Nêron muốn xây một thành Roma mới nên ra lệnh cho lính đốt các khu xóm ổ chuột. Vụ hoả hoạn cố ý này đã khiến cho dân chúng Roma nổi loạn. Hoàng đế liền vu khống cho các kitô hữu và bắt đầu bách hại họ. Nhớ lời Chúa Giêsu dặn: khi họ bắt bớ các con ở thành này, hãy trốn qua thành khác, thánh Phêrô bỏ Roma đi ra ngoài thành theo đường Appia Antica, là con lộ nối liền trung tâm đế quốc Roma với các vùng khác: lên phía bắc dọc ven biển qua Tiểu Á và xuống phía nam qua tới Phi châu. Nhưng khi vừa ra khỏi thành khoảng 500 mét, thánh nhân gặp Chúa Giêsu đi vào ngược chiều nên ngài hỏi: “Domine, quo vadis, Lậy Thầy Thầy đi đâu?”. Chúa Giêsu trả lời: “Ta vào thành để chết một lần nữa.” Hiểu ý thánh Phêrô quay vào thành và liền bị hoàng đế Neron bắt, đem ra xử ở quảng trường trong khu phố do thái, hiện có nhà thờ Đức Bà in Trastevere, rồi bị điệu đi đóng đinh tại hí trường Neron trên đồi Vaticăng. Hí trường này hiện ở bên dưới đại thính đường Phaolô VI. Khi bị đóng đinh Thánh Phêrô nói với các lý hình là ngài không xứng đáng chết như Thầy mình nên xin họ giộng ngược đầu thánh giá xuống đất. Tín hữu đã chôn cất thánh nhân ngay trong nghĩa trang cổ của Roma nằm cạnh hí trường. Hiện nay nghĩa trang này ở bên dưới Đền Thờ thánh Phêrô.

Trong các năm 77-88 ĐGH Anacleto đã cho xây một nhà nguyện nhỏ dâng kính thánh Phêrô. Năm 313 hoàng đế Costantino ký sắc lệnh bỏ bắt bớ Kitô giáo và năm 324 khi  cho xây vương cung thánh đường nguy nga đầu tiên kính thánh nhân ngay trên mộ ngài, hoàng đế đã ra lệnh lấp đất toàn bộ nghĩa trang này. Đền thờ được ĐGH Silvestro thánh hiến năm 326, dài bằng hai phần ba đền thờ hiện nay gồm 5 gian dọc, còn dấu tích các bức tường và một số cột ở bên dưới đền thờ hiện nay. Đền thờ đã chỉ hoàn tất năm 349, sau 25 năm kiến trúc dưới thời hoàng để Costanzo, con của hoàng đế Costantino. Trong các thế kỷ sau đó đền thờ đã được tu bổ và trang hoàng với nhiều chất liệu khác nhau như đá cẩm thạch quý lấy từ các đền đài ngoại giáo ở Roma hay từ Đông Phương, kể cả gỗ bá hương của Libăng. Trước bàn thờ chính có một tảng đá vân ban tròn. Chính tại đây năm 800 hoàng đế Carlo Cả đã quỳ để được ĐGH Leo III thánh hiến phong vương. Tảng đá này hiện còn được gắn trên nền đền thờ hiện nay, cách cửa vào hơn chục thước.

Cho tới năm 1308, các ĐGH cư ngụ trong dinh gần Đền Thờ thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính toà của Roma. Nhưng năm 1308 quân Pháp đánh Italia và bắt ĐGH về Avignon. Các Giáo Hoàng sống tại Avignon cho tới năm 1377, khi thánh nữ Catarina thành Siena viết thư cho ĐGH nói rằng chỗ của ĐGH là tại Roma. Trong thời gian này đền thờ thánh Phêrô đã hầu như bị bỏ hoang nên hư hại rất nhiều.

Vào năm 1452 thấy đền thờ muốn sập, ĐGH Nicolo V quyết định xây đền thờ mới và giáo nhiệm vụ cho kiến trức sư Bernardo Rossellino. Nhưng phải đợi cho đến năm 1502 công việc xây cất mới tiến triển với ĐGH Giulio II. Kiến trúc sư Donato Bramante bỏ đồ hình thánh gia latinh của Rossellini để theo đồ hình thánh giá hy lạp 4 cánh bằng nhau, với một mái tròn lớn chính giữa và hai mái nhỏ hai bên. Năm 1515 Raffaello lấy lại đồ hình thánh gia latinh. Petruzzi theo đồ hình thánh gia Hy lạp. Sangallo lấy lại họa đồ thánh gia latinh. Năm 1546 khi ĐGH Phaolo III giao cho Michelangelo việc xây cất ông lại theo đồ hình thánh giá hy lạp. Khi Michelangelo qua đời năm 1564, Vignola hoàn thành hai mái tròn nhỏ, trong khi các kiến trúc sư Pirro Ligorio, Giovanni della Porta và Domenico Fontana hoàn thành mái tròn lớn. ĐGH Palolo V truyền cho Carlo Maderno nối dài gian chính giữa đền thờ thành hình thánh giá latinh với hành lang và mặt tiền như thấy hiện nay. Ngày 18 tháng 11 năm 1626 ĐGH Urbanbo VIII long trọng thánh hiến đền thờ mới nhân kỷ niệm 1,300 năm ngày thánh hiến đền thờ cũ. Kiến trúc sư Bernini xây thêm hai tháp chuông nhỏ, nhưng phải phá đi một cái, vì vết nứt dưới chân móng.

Đền thờ thánh Phêrô có diện tích 15.160 mét vuông, trong khi nhà thờ chính toà Milano chỉ có 11,700 mét vuông, Saint Paul ở Luân Đôn 7,875 mét vuông, thánh nữ Sophia ở Costantinopoli là 6.890 mét vuông Koeln 6.166 mét vuông, Nhà thờ Đức Bà Paris 5,966 mét vuông. Tất cả các nhà thờ khác lọt thẳm trong đền thờ thánh Phêrô.

Đền thờ dài 211 mét 50 kể cả mặt tiền. Gian giữa cao 46 mét 20 , rộng 27 mét 50. Gian ngang bên trong dài 137 mét 50. Mái tròn kể cả thánh giá cao 132 mét 50, chu vi 42 mét, nhỏ hơn mái tròn của Pantheon 1 mét 40.

Mặt tiền đền thờ dài 114 mét 69, cao 45 mét 44, kiểu barốc, có 4 trụ chính và 8 cây cột nâng mái tiền đường, với hàng chữ dâng kính có từ thời ĐGH Phaolo V. Bên trên có 5 cửa và 5 bao lơn. Bao lơn chính giữa là nơi ĐGH ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới trong các dịp lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh và Đầu Năm mới. Cũng từ bao lơn này Hồng Y niên trưởng công bố tên của Đức Tân Giáo Hoàng sau khi được Mật nghị Hồng Y bầu.

Trên cùng là sân thượng trang hoàng với các bức tượng cao 5 mét 70: Chúa Giêsu, thánh Gioan Baotixita và 11 Tông Đồ, không có thánh Phêrô, và hai chiếc đồng hồ do kiến trúc sư Giuseppe Valadier làm năm 1822. Dưới đồng hồ  bên trái là quả chuông có chu vi 7 mét 50 nặng 9 tấn 3.

Tiền đường dẫn vào đền thờ dài 71 mét, rộng 13 mét. Bên trái là tượng hoàng đế Carlo Cả, bên phải là tượng hoàng đế Costantino do Bernini tạc năm 1670. Cửa thứ nhất bên phải là Cửa Thánh chỉ mở trong các Năm Thánh. Đối diện với cửa chính giữa là bức khảm đá mầu nổi tiếng của Giotto tựa là “Con thuyền nhỏ” hay “Dẹp yên bão tố”, tượng trưng cho con thuyền Giáo Hội lênh đênh giữa sóng gió trần gian, nhưng luôn có Chúa hiện diện hộ phù.

Cánh cửa đồng chính giữa thuộc đền thờ cũ do Filarete chạm trổ giữa các năm 1439-1445 diễn tả Chúa Giêsu Đức Mẹ, hai thánh Phêrô Phaolô và cảnh các ngài tử đạo: thánh Phêrô bị đóng đinh ngược và thánh Phaolô bị chặt đầu. Các bức vẽ trên cao diễn tả các cảnh thần thoại và cảnh Roma, thú vật, hoa trái và chân dung các hoàng đế. Cửa thứ hai và thứ 5 là của nhà điêu khắc Giacomo Manzù.

Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII cho đào khảo cổ nghĩa trang bên dưới và người ta đã tìm thấy xương của thánh Phêrô được gói trong một miếng nhung đỏ viền chỉ vàng đặt trong một hộc có bảng viết “Petros Eni” Phêrô ở đây. Xương thánh nhân hiện được đặt trong một hòm ở hầm đền thờ, thẳng bên dưới bàn thờ tuyên xưng đức tin.

Quảng trường thánh Phêrô là một trong các quảng trường rộng và đẹp nhất thế giới, dài 340 mét rộng 240 mét. Chính giữa hình bầu dục, hai đầu hình thang. Quảng trường do kiến trúc sư Bernini xây giữa các năm 1656-1667. Nó biểu tượng cho trung tâm Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và gồm hai hàng hiên giống như đôi cánh tay Mẹ hiền Giáo Hội giang rộng đón chào các đoàn con từ khắp nơi trên thế giới tuốn về. Hai hàng hiên có mái che gồm 88 trụ cột lớn và 280 cây cột kiểu đô rích xếp thành 4 hàng, bên trên được trang hoàng với 140 bức tượng các thánh và huy hiệu của ĐGH Alessandro VI. Phần lớn trong số các cây cột này được lấy từ các đền đài ngoại giáo, chẳng hạn như đền Septizionium thời hoàng đế Settimo Severo, cai trị Roma từ năm 193 tới 211.

Chính giữa quảng trường là tháp bút nham thạch đỏ cao 25 mét 50 lấy từ thành phố Heliopolis bên Ai Cập, và được hoàng đế Caligula đặt ở chính giữa hí trường trên đồi Vatican. Ngày 10 tháng 9 năm 1586 ĐGH Sisto V truyền cho kiến trúc sư Domenico Fontana dựng tháp bút giữa quảng trường. Ông đã phải huy động 800 công nhân, 150 con ngựa và rất nhiều máy móc mới dựng nổi. Chung quanh tháp bút là hình hoa hồng gió bốn phương. Giữa tháp bút và hai phông ten có một tảng đá tròn, từ đó có thể trông thấy bốn hàng cột của mái hiên sắp thành hàng thẳng tắp như thể chỉ có một cột.

Hai phông ten hai bên  cao 14 mét, cái bên phải xây hồi thế kỷ XVI dưới thời ĐGH Sisto V, cái bên trái hồi thế kỷ XVIII dưới thời ĐGH Clemente XI. Kể từ thời ĐGH Pio IX tượng thánh Phêrô do De Fabris tạc và tượng thánh Phaolô do Tadolini tạc thay thế hai bức tượng của Paolo Romano. Bên phải quảng trường là Cửa Đồng dẫn lên Dinh Tông Toà. Cửa sổ thứ hai tầng trên cùng là nơi ĐGH thường đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu mỗi trưa Chúa Nhật và trong vài ngày lễ. Phiá nối tiếp có mái xanh là Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh. Đàng sau là mái cuả nhà nguyện Sistina nơi các Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Trên mái có ống khói nhỏ. Khi chưa bầu xong, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói đen. Khi bầu xong rồi, các phiếu được đốt với một thứ dầu ra khói trắng, như dấu chỉ đã có Tân Giáo Hoàng. Sau đó từ bao lơn chính giữa mặt tiền đền thờ ĐHY niên trưởng sẽ công bố cho tín hữu đợi dười quảng trường biết “Habemus Papam Chúng ta có Giáo Hoàng” với danh tánh và tên gọi của ngài. Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng ra mắt chào và ban phép lành đầu tay cho dân chúng.

Quảng trường thánh Phêrô có thế chứa được hơn 200,000 người. Nếu đứng chật ở cả quảng trường Piô XII và Đại Lộ Hoà Giải thì được hơn 300,000.

Đại lộ Hoà Giải được xây năm 1937 trên các khu xóm thời Trung Cổ và Phục Hưng, sau khi Toà Thánh và nước Italia ký thỏa hiệp Laterano ngày 11 tháng 2 năm 1929 thừa nhận Quốc gia Thành Phố Vatican. Vatican là quốc gia độc lập, trong đó ĐGH là quốc trưởng, có một Hồng Y thống đốc điều hành các việc hành chánh dân sự, có toà án, nhà in, nhà băng, tiền, tem thư, bưu điện, siêu thị, nhà ga xe lửa, viện bảo tàng và đài phát thanh. Nước ĐGH chỉ gồm 44 héc ta là quốc gia nhỏ bé nhất thế giới, bao gồm Đền Thờ Thánh Phêrô, Điện Vaticăng các đền thờ Đức Bả Cả, Thánh Gioan Laterano, Thánh Phaolô ngoại thành, Dinh Bộ Truyền Giáo, các Giáo hoàng học viện trực thuộc Bộ, và một số dinh thự khác.  Thành phố quốc gia Vatican đã chi là nơi ở của các Giáo Hoàng từ năm 1377, khi ĐGH từ Avignon trở vể Roma. Trưóc đó cho tới năm 1309 các vị sống trong dinh Laterano cạnh đền thờ, là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma.

Sát quảng trường Pio XII bên phải là Bộ Phụng Tự và một số bộ khác, bên trái là Bộ Giáo Dục công giáo, Bộ Giáo Sĩ và các dòng tu.  Một số dinh thự hai bên đại lộ cũng là tài sản của Toà Thánh. Nhà thờ Traspontina thuộc thế kỷ XI. Dinh thự cuối cùng bên trái là Đài phát thanh Vatican, đối diện với Lâu đài Thiên Thần. Dinh thụ bên phải là trụ sở của một số tổ chức trong đó có Hội Đồng Toà Thánh bảo vệ sự sống.

Linh Tiến Khải

Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Kỷ niệm 170 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Salette

Our Lady Of Salette

LA SALETTE. Hôm 19-3-2016, Đền thánh Đức Mẹ La Salette bên Pháp đã kỷ niệm đúng 170 năm Đức Mẹ hiện ra với 2 mục đồng tại đây.

 Ngày 19-3 năm 1846, Đức Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên Mélanie Calvat 15 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi trên núi gần làng La Salette-Fallavaux ở cao độ 1800 mét. Đức Mẹ được ánh sáng bao phủ, đang khóc và ngồi trên táng đá, hai tay ôm đầu, Mẹ đứng lên, gọi và trao cho hai thiếu niên một sứ điệp mời gọi Dân Chúa hãy thành tâm hoán cải.

 Nhân lễ kỷ niệm, tại Đền thánh Đức Mẹ La Salette có nghi thức mở cửa Năm Thánh trong vòng 6 tháng, cho đến ngày 13-11 năm nay. Đền thánh cách thủ đô Paris khoảng 650 cây số về hướng đông nam.

 Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Cha Silvano Marisa, Bề trên tổng quyền dòng thừa sai La Salette, nói rằng: ”Sứ điệp vừa nói của Đức Mẹ muốn đánh động lương tâm của Dân Chúa, và Mẹ Maria xuất hiện như vị sứ giả của Thiên Chúa để nhắc nhớ dân về lòng trung thành, về ơn gọi Kitô mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội.

 Cha Marisa cũng nhận định rằng: ”Quả là một điều thật đẹp khi thấy Đức Mẹ bắt đầu bằng cách mời gọi hai thiếu niên đến gần. Đó cũng là sứ điệp của Năm Thánh Lòng Thương Xót hiện nay, sứ điệp của một vị Thiên Chúa có một trái tim bao la đến độ Ngài không thể giữ cho mình, nhưng muốn thông truyền tình thương của Ngài cho tha nhân. Và Mẹ Maria có công tác giúp người người cởi mở tâm hồn với Thiên Chúa. Mẹ Maria đã tập trung sứ điệp của Mẹ vào chính Chúa Kitô. Hai thiếu niên kể lại: Thánh Giá mà Mẹ mang trên ngực sáng ngời như thể là Thánh Giá sống động…”

 Dòng thừa sai La Salette hiện nay có 950 tu sĩ tại 29 nước trên thế giới, và Cha Marisa nói: Sự hiện diện của chúng tôi muốn là một yếu tố rất đơn sơ, khiêm tốn, phục vụ sự hòa giải. Nơi nào dân Chúa sống, chịu đau khổ, nơi đó chúng tôi muốn hiện diện với lời mạnh mẽ kêu goi hoán cải, dựa trên sứ điệp chúng tôi đã nhận lãnh từ Đức Mẹ La Salette” (RG 20-3-2016)

 G. Trần Đức Anh OP

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha và Đức Thượng Phụ Kirill

LA HABANA. Trong Tuyên ngôn chung, ĐTC và Đức Thượng Phụ Chính Thống Nga kêu gọi chấm dứt bách hại Kitô đồng thời hứa dấn thân cộng tác với nhau.

Tuyên ngôn được hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga ký và công bố dài 5 trang và gồm 30 đoạn, nhấn mạnh đến những điểm chung của hai Giáo Hội, rồi đề cập đến tình hình ở Trung Đông và Bắc Phi, nơi mà nhiều gia đình, làng mạc và thành thị của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị hoàn toàn tiêu hủy. Các vị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế cấp thiết hành động để ngăn ngừa, đừng để những cuộc trục xuất các tín hữu xảy ra nữa, chấm dứt bạo lực và khủng bố, đảm bảo cho cứu trợ nhân đạo đầy đủ được đưa tới cho các nạn nhân. Hai vị gọi những tín hữu Kitô bị giết là những vị tử đạo thời nay”, giúp hiệp nhất các Giáo Hội với nhau qua sự chia sẻ đau khổ. Ngoài ra cần cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không còn tôn trọng các căn tính tôn giáo nữa. Tuyên ngôn cũng nói về tình trạng nghèo đói cùng cực, hàng triệu người di dân đang gõ cửa các nước giàu có.

Về vấn đề luân lý, tuyên ngôn nói đến những vấn đề như phá thai, làm cho chết êm dịu, những kỹ thuật mới về việc sinh sản, và những đe dọa chống lại lập trường của các Giáo Hội về hôn nhân.

Chi tiết Tuyên Ngôn

Đi vào chi tiết hơn, Tuyên ngôn chung mở đầu với câu trích từ thư thứ 2 của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu thành Corinto: ”Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).

 ”Bởi ý Chúa Cha Đấng là nguồn mạch mọi hồng ân, nhân danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, Đấng An Ủi, chúng tôi, Giáo Hoàng Phanxicô và Kirill, Thượng Phụ Mascơva và toàn nước Nga, đã gặp nhau hôm nay tại La Habana. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa, được tôn vinh trong Ba Ngôi, vì cuộc gặp gỡ này, cuộc gặp gỡ đầu tiên trong lịch sử. Chúng tôi vui mừng gặp gỡ nhau như anh em trong đức tin Kitô để ”nói bằng tiếng nói sinh động” (2 Ga 12), lòng với lòng, và thảo luận về những quan hệ hỗ tương giữa hai Giáo Hội, về những vấn đề thiết yếu của đức tin chúng ta và những viễn tượng phát triển nền văn minh của nhân loại.”

Đau buồn vì mất hiệp nhất

Hai vị Giáo Chủ lên án ”sự đánh mất tình hiệp nhất, hậu quả của sự yếu đuối con người và tội lỗi”, với ý thức về sự ”tồn đọng của nhiều chướng ngại”, đồng thời cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này ”có thể góp phần vào việc tái lập sự hiệp nhất” như Thiên Chúa mong muốn. Mục đích là để cùng nhau ”đáp ứng những thách đố thời nay. Tín hữu Công Giáo và Chính Thống phải học cách làm chứng tá hòa hợp cho chân lý trong những lãnh vực có thể và cần phải thực hiện”.

Lên án bách hại Kitô

 Về cuộc bách hại các tín hữu Kitô và chiến tranh ở Siria, Irak, Tuyên ngôn khẳng định rằng: ”Cái nhìn của chúng tôi trước tiên hướng về những miền trên thế giới, nơi mà các tín hữu Kitô đang bị bách hại”, chứng nhân về sự hiệp nhất trong đau khổ và tử đạo. ”Tại nhiều nước ở Trung Đông và Bắc Phi, các anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô bị tiêu diệt cả gia đình, làng mạc và thành phố. Thánh đường của họ bị tàn phá và cướp bóc dã man, các đồ vật thánh bị xúc phạm, các đền đài bị phá hủy. Tại Siria, Irak và tại các nước khác ở Trung Đông, chúng tôi đau lòng nhận thấy sự xuất cư ồ ạt của các tín hữu Kitô và của các cộng đoàn tôn giáo khác. Chúng tôi xin Cộng đồng quốc tế hãy cấp thiết hành động để phòng ngừa, không để xảy ra thêm những cuộc trục xuất các tín hữu Kitô ra khỏi Trung Đông, và chấm dứt nạn bạo lực và khủng bố, đồng thời đảm bảo một cuộc cứu trợ nhân đạo ở bình diện rộng lớn cho dân chúng đang chịu đau thương và cho bao nhiêu người tị nạn ở các nước láng giềng. Hai vị cũng kêu gọi giải thoát những người bị bắt cóc.

 Đối thoại liên tôn

 Về vấn đề đối thoại liên tôn, Tuyên ngôn của hai vị Giáo Chủ viết: ”Trong thời đại âu lo này, đối thoại liên tôn là điều không thể thiếu được, và các vị lãnh đạo tôn giáo có trách nhiệm đặc biệt trong việc giáo dục các tín đồ của mình hãy tôn trọng các tín ngưỡng khác: ”Thật là điều tuyệt đối không thể chấp nhận được những toan tính biện minh cho những hành động gian ác với những khẩu hiệu tôn giáo. Không tội ác nào có thể phạm nhân danh Thiên Chúa”.

Tự do tôn giáo

Về tự do tôn giáo ngày càng bị đe dọa, Đức Phanxicô và Đức Kirill bày tỏ lo âu vì tình trạng tại nhiều quốc gia trong đó các tín hữu Kitô ngày càng bị giới hạn tự do tôn giáo, quyền được làm chứng về các xác tín của mình và không được sống phù hợp với các xác tín ấy. ”Sự biến đổi của một số nước thành những xã hội tục hóa, xa lạ với mọi tham chiếu về Thiên Chúa và chân lý của Ngài, tạo nên một đe dọa trầm trọng cho tự do tôn giáo. Đối với chúng tôi, sự giới hại các quyền của Kitô hữu là một nguồn mạch lo âu, thậm chí họ còn bị kỳ thị khi một số lực lượng chính trị, do ý thức hệ duy thế tục hướng dẫn, nhiều khi rất cực đoan, tìm cách gạt các Kitô hữu ra ngoài lề đời sống công cộng”. Trước tình cảnh đó, hai vị Giáo Chủ Công Giáo và Chính Thống Nga kêu gọi hãy cảnh giác chống lại sự hội nhập Âu Châu không tôn trọng các căn tính tôn giáo, vì các vị xác tín rằng Âu Châu phải trung thành với các căn cội Kitô của mình”.

Liên đới với người nghèo và di dân

 Đề cập tới sự liên đới với người nghèo và những người di dân, Tuyên ngôn kêu gọi đừng dửng dưng lãnh đạm trước số phận của hàng triệu người di dân và tị nạn đang gõ cửa các nước giàu có. Sự tiêu thụ vô độ, như người ta thấy ở một số nước phát triển cao, đang dần dần làm cạn tài nguyên của trái đất chúng ta. Sự chênh lệch gia tăng trong việc phân phối các tài nguyên trái đất gia tăng cảm thức về sự bất công đối với các hệ thống quan hệ quốc tế. Các Giáo Hội Kitô được kêu gọi bênh vực những đòi hỏi của công lý, tôn trọng các truyền thống của các dân tộc và một tình liên đới đích thực với tất cả những người đang chịu đau khổ.

Gia đình, sự sống và trợ tử

Về gia đình, sự sống và việc làm cho chết êm dịu, hai vị Giáo Chủ bày tỏ lo âu vì cuộc khủng hoảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. ”Chúng tôi lấy làm tiếc vì một số hình thức sống chung nay đang được đặt ngang hàng với sự kết hiệp của hôn nhân, trong khi ý niệm về việc làm cha làm mẹ .. bị loại ra ngoài ý thức công cộng”. Chúng tôi xin tất cả mọi người hãy tôn trọng quyền sống bất khả nhượng. Hàng triệu trẻ em bị tước đoạt mất quyền được sinh ra trên thế giới. Tiếng kêu của máu các hài nhi không được sinh ra đang kêu thấu tới Thiên Chúa” (Xc St 4,10). Hai vị Giáo Chủ cũng lo âu vì sự lan tràn nạn làm cho chết êm dịu và các kỹ thuật sinh sản nhờ y khoa. Các vị kêu gọi những người trẻ Kitô đàng sợ đi ngược dòng khi bảo vệ chân lý của Thiên Chúa”.

Chống chiêu dụ tín đồ

Tiếp tục tuyên ngôn chung ký kết tại La Habana, ĐTC Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill chống lại chủ trương chiêu dụ tín đồ và kiến tạo sự hiệp nhất Kitô bằng cách đưa các tín hữu Chính Thống hiệp nhất với Tòa Thánh. Hai vị cầu mong rằng cuộc gặp gỡ này có thể góp phần vào sự hòa giải, tại những vẫn còn sự căng thẳng giữa các tín hữu Công Giáo nghi lễ Đông phương và Chính Thống. Loại trừ mọi hình thức chiêu dụ tín đồ. ”Ngày nay điều rõ ràng là: phương pháp đưa các tín hữu Chính Thống về hiệp nhất với Tòa Thánh, hiểu như một sự kết hiệp một cộng đoàn này vào một cộng đoàn khác, tách rời khỏi Giáo Hội của họ, không phải là phương pháp giúp tái lập sự hiệp nhất. Nhưng các cộng đoàn Giáo Hội đã xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử như thế có quyền hiện hữu và làm tất cả những gì cần thiết để thoả mãn những đòi hỏi tinh thần của các tín hữu thuộc quyền, đồng thời tìm cách sống an bình với những người láng giềng. Các tín hữu Chính Thống và Công Giáo nghi lễ đông phương cần hòa giải với nhau và tìm ra những hình thức sống chúng hai bên có thể chấp nhận.

Ucraina

Về nền hòa bình ở Cộng hòa Ucraina, Tuyên ngôn kêu gọi chấm dứt bạo lực tại nước này, đã gây ra nhiều nạn nhân, xô đẩy xã hội vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và nhân đạo. Hai vị lãnh đạo cũng cầu mong rằng ”sự ly giáo giữa các tín hữu Chính Thống ở Ucraina có thể được vượt thắng dựa trên căn bản giáo luật Chính Thống hiện hành.. Tất cả các tín hữu Chính Thống ở Ucraina được sống trong an bình và hòa hợp, và các cộng đồng tôn giáo tại nước này, góp phần vào điều này, làm sao để cho người ta ngày càng thấy rõ tình huynh đệ Kitô của chúng ta.

 Hai vị lãnh đạo kết luận rằng ”Chúng ta không phải là những người cạnh tranh với nhau nhưng là anh em, và ý niệm này phải hướng dẫn tất cả các hoạt động của chúng ta đối với nhau và đối với thế giới bên ngoài. Chúng tôi nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo và Chính Thống ở mọi nước hãy học cách sống chung với nhau trong an bình và yêu thương”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 12

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 12

Xuân Xưa và Nay

 

12.3.1 Bài Tập C-1:

       

Mùa xuân thường được liên hệ đến những điều gì?  Em hãy nghĩ tới những điều thường liên hệ đến mùa xuân nhưng chưa được nêu lên trong họa đồ hình tròn này.

MuaXuanCircleMap

12.3.2 Bài Tập C-2:

 

So sánh và tương phản giữa mùa xuân ngoài thiên nhiên và mùa xuân trong lòng người. Trong hai loại mùa xuân này, có những điểm gì giống cũng như khác nhau.  Sau đây là một họa đồ bong bóng đôi gợi ý cho sự giống và khác nhau đó.  Em hãy phát triển thêm ý tưởng của em nếu cần thiết.  Em có thể vẽ lại họa đồ với những ý tưởng mới phát hiện của em.

 

SoSanhMuaXuan-DoubleBuble

12.3.3 Bài Tập C-3:

 

Cho dù chúng ta được mùa đông giá lạnh, mùa xuân ấp áp, mùa hè nóng bức, hay mùa thu mát mẻ, chúng ta vẫn nên cảm tạ Đấng Tạo Thành, vì sao?  Trong họa đồ cầu nối sau, chúng ta thấy  mối liên hệ của một cuộc vượt qua những khó khăn để hưởng lấy và cảm nhận được sự ngọt ngào của những giọt nước sau cơn khát nhiều ngày. Em hãy vẽ thêm những mối liên hệ tương tự như họa đồ cầu nối được cho. Ví dụ:

  • Cơn khát nhiều ngày – Nước lạnh với đá
  • Cơn đói cồn cào – Tô phở nghi ngút

 

LaChuyenVuotQua-BridgeMap

Di hài Thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

Di hài Thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

Di hài thánh Piô và Leopoldo Mandic sẽ được đưa về Roma

ROMA. Di hài hai vị thánh nổi bật về sứ vụ giải tội sẽ được đưa về Roma cho các tín hữu kính viếng nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Đó là Cha Thánh Piô (1877-1968) và thánh Leopoldo Mandic (1866-1942) gốc Croát, cả hai đều thuộc dòng Phanxicô Capuchino. Theo ý muốn của ĐTC, di hài hai vị thánh sẽ được đưa về Đền thờ Thánh Phêrô, trong dịp ngài cử hành thánh lễ đồng tế trọng thể vào ngày thứ tư lễ tro, 10-2 tới đây, với các thừa sai Lòng Thương Xót.

Di hài hai thánh sẽ được di chuyển khoảng 400 cây số từ thành Padova bắc Italia và từ San Giovanni Rotondo nam Italia về Vương cung thánh đường thánh Lorenzo chiều ngày 3 tháng 2 tới đây. Thánh đường này được giao cho các cha dòng Capuchino coi sóc. Chiều ngày 5-2, di hài hai thánh sẽ được rước về Đền thờ Thánh Phêrô

Sáng thứ bẩy, 6-2, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC sẽ tiếp kiến chung các tín hữu thuộc gần 2,500 nhóm cầu nguyện của Cha Piô, các nhân viên Bệnh viện “Nhà Thoa dịu đau khổ” do Cha Thánh Piô thành lập, cùng với các tín hữu thuộc tổng giáo phận Manfredonia – Veste – San Giovanni Rotondo, nơi thánh nhân đã sinh sống và hoạt động.

Sáng thứ ba 9-2, ĐTC sẽ chủ sự thánh lễ đồng tế với các tu sĩ Capuchino toàn thế giới, một dòng hiện có hơn 10,600 tu sĩ.

Thứ tư lễ tro 10-2, trong thánh lễ đồng tế trọng thể tại Đền thờ thánh Phêrô, ĐTC sẽ ủy thác cho khoảng 1 ngàn vị Thừa sai lòng Thương Xót sứ mạng trở thành ”dấu chỉ lòng thương yêu từ mẫu của Giáo Hội đối với Dân Chúa.. Các thừa sai này sẽ được các GM sai đi các nơi trong các giáo phận thuộc quyền để linh hoạt dân Chúa và thi hành các sáng kiến liên quan đến Lòng Thương Xót, giải tội, giải vạ.

Sáng thứ năm 11-2, sau thánh lễ do Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, chủ sự, di hài hai vị thánh sẽ được đưa về nơi an nghỉ của các ngài. (SD 4-1-2016)

G. Trần Đức Anh OP, Vatican Radio

Phúc Chiếu của Đức Thánh Cha về thi hành luật giải hôn phối

Phúc Chiếu của Đức Thánh Cha về thi hành luật giải hôn phối

Đức Thánh Cha

VATICAN. Ngày 11-12-2015, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến Phúc chiếu (Rescritto) của ĐTC Phanxicô về việc thi hành và tuân giữ qui luật mới ngài ban hành việc thủ tục giải hôn phối.

Phúc chiếu được ĐTC ký ngày 7-12-2015 (Rescritto ex audientia) nhắm tạo nên hòa hợp giữa thủ tục mới giải hôn phối với các qui luật riêng của Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma, trong khi chờ đợi cải tổ tòa án này.

Việc hòa hợp này trở nên cần thiết sau khi ĐTC ban hành hai Tự Sắc ”Chúa Giêsu là Thẩm Phán hiền lành (Mitis Iudex Dominus Iesus) và ”Chúa Giêsu hiền lành và thương xót” (Mitis et Misericors Iesus) ngày 15-8 năm nay để đơn giản và mau lẹ hóa thủ tục cứu xét để tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Hai tự sắc này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 8-12-2015.

Một trong những quyết định của ĐTC là: ”Các luật cải tổ thủ tục giải hôn phối nói trên bãi bỏ hoàn toàn mọi luật lệ trái ngược với luật vừa bắt đầu có hiệu lực, luật chung cũng như luật riêng cho địa phương, hay luật đặc biệt, kể cả những luật đã được phê chuẩn dưới hình thức đặc biệt.

Trong một khoản khác, ĐTC qui định rằng Tòa Thượng Thẩm Rota hãy cứu xét các án xin giải hôn phối theo tinh thần nhưng không theo Tin Mừng, nghĩa là không bắt phải trả án phí luật sư, nhưng vẫn giữ nguyên nghĩa vụ luân lý của các tín hữu giàu có đóng góp theo công lý để giúp đỡ các án nghèo”.

Trong Phúc Chiếu, ĐTC cũng khẳng định rằng các luật vừa bắt đầu có hiệu lực muốn biểu lộ sự gần gũi của các gia đình bị thương tổn, và mong muốn rằng nhiều người đang phải sống trong thảm trạng hôn phối thất bại được hưởng hoạt động chữa lành của Chúa Kitô, qua các cơ cấu Giáo Hội, với mong ước họ sẽ trở thành các thừa sai mới của lòng Chúa Thương Xót đối với các anh chị em khác, mưu ích cho định chế gia đình”.

Bình luận của Đức Ông Pinto

Trong một bài bình luận ngắn đăng trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, số ra chiều ngày 11–12-2015, Đức Ông Pio Vito Pinto, niên trưởng tòa Thượng Thẩm Rota (và là chủ tịch Ủy ban 9 người giúp ĐTC đi tới quyết định ban hành 2 tự sắc nói trên), nhận xét rằng Phúc chiếu gồm 2 phần:

– Trong phần thứ I: vì mỗi luật có tầm mức quan trọng như luật cải tổ thủ tục giải hôn phối, đều gặp sự chống đối, đó là điều dễ hiểu, nên ĐTC muốn tái khẳng định rằng luật mới nay đã ban hành thì đòi phải tuân giữ. (Như hồi ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành bộ giáo luật năm 1983 cũng có sự chống đối. Phúc chiếu hôm nay của ĐTC Phanxicô, cũng như hồi ĐGH Gioan Phaolô 2 công bố bộ giáo luật, vâng theo qui luật tối hậu là phần rỗi các linh hồn, và Người Kế Nhiệm thánh Phêrô là thầy đầu tiên và cũng là người phục vụ qui luật ấy.

– Phần thứ hai liên hệ tới Tòa Thượng Thẩm Rota là tòa án tông tòa, luôn nổi bật về sự khôn ngoan trong các quyết định xử án. (SD 11-12-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phiên tòa đầu tiên xử Vatileaks 2

Phiên tòa đầu tiên xử Vatileaks 2

Phiên tòa đầu tiên xử 5 bị cáo lấy trộm và phổ biến tài liệu mật Vatican

VATICAN. Sáng ngày 24-11-2015, tòa án tại Vatican đã nhóm phiên đầu tiên xét xử 5 bị can bị cáo về tội lấy trộm và phổ biến tài liệu mật của Vatican.

5 bị can là Đức Ông Angel Lucio Vallejo Balda, người Tây Ban Nha, Tổng thư ký Sở tài chánh Vatican và từng là tổng thư ký Ủy ban nghiên cứu các cơ cấu của Vatican cần được cải tổ, gọi tắt là Cosea. LM này tiếp tục bị giam tại trại Hiến binh Vatican kể từ khi bị bắt ngày 2-11 vừa qua. Tiếp đến là bà Francesca Immacolata Chaouqui, thành viên Ủy ban này, và Ông Nicola Maio, cộng tác viên của Đức Ông Vallejo. Sau cùng là hai ký giả là Emiliano Fittipaldi và Gianluigi Nuzzi đã dùng một phần các tài liệu đánh cắp để xuất bản thành 2 cuốn sách. Hai ký giả có luật sự biện hộ tự chọn, trong khi 3 người đầu tiên có luật sư do tòa chỉ định.

Theo thông cáo được công bố, phiên tòa kéo dài 1 giờ 10 phút. Sau khi Ủy viên công tố đã đọc cáo trạng, chủ tịch tòa án cho biết đã chuyển đến chủ tịch tòa kháng án đơn xin của Ông Nuzzi và Đức Ông Vallejo Balda xin bổ nhiệm thêm luật sư do đương sự chọn.

Luật sư được tòa chỉ định cho Đức Ông Vallejo là Bellardini khiếu nại vì thời gian không đủ trình bày bằng chứng và bảo vệ, còn ký giả Fittipaldi qua luật sư Musso của ông yêu cầu tuyên bố việc triệu tập để xét xử là vô hiệu lực vì thiếu chính xác về các sự kiện cáo buộc đương sự.

Giáo Sư Zannotti, Ủy viên công tố, đã trả lời cho vấn nạn thứ hai và cho biết vụ kiện này không có ý chà đạp tự do báo chí, nhưng bị cáo được yêu cầu trả lời về đường lối hành động của ông ta để kiếm tin và các tài liệu, và điều này được ghi trong cáo trạng.

Đoàn thẩm phán đã thảo luận trong 45 phút, và sau đó đã tuyên bố bác bỏ hai lời khiếu nại. Việc xét xử tiến hành với phiên tòa thứ hai lúc 9.30 phút sáng thứ hai, 30-11 tới đây, bắt đầu với các cuộc chất vấn các bị can, bắt đầu từ Đức ông Vallejo, rồi đến bà Chaouqui, sau đó là các bị can khác. Dự kiến sẽ có các phiên tòa khác trong tuần tới.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 08

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 08

Ca Dao Việt Nam

 

BatComDay

 

Có nhiều phương cách để học ca dao, trong bài này chúng ta sẽ dùng các mô hình để tìm mối quan hệ giữa sự vật.  Trong các mô hình này, sẽ có cả tiếng Anh cho các em tại hải ngoại dể hiểu nhưng không phải nhằm mục đích chuyển dịch sang Anh ngữ.  Một trong những vấn đề của dịch thuật là rất khó giữ được cái “hồn” của văn chương nguyên thủy.  Phương pháp sử dụng mô hình nhằm trợ giúp để dể hiểu hơn mà thôi.  Khi đã là một mô hình, nó chỉ là một trong những cách để tái tạo lại nhưng không phải duy nhất đúng.

Mục đích quan trọng nhất của học ca dao là rút ra những bài học kinh nghiệm và luân lý được chuyển tải qua những vần thơ dân gian đó.  Chúng rất có thể vẫn có giá trị cho những người đời sau. Trở lại bài ca dao “Bát Cơm Đầy”, để tiếp tục nhận lãnh những bát cơm ngon, chúng ta cần biết trân quý những đóng góp của người khác.  Không biết trân quý công sức của người khác cũng giống như chúng ta nói rằng: “chúng tôi không cần những bát cơm đó nữa.”  Tại sao người ta lại mang những bát cơm ngon đến với chúng ta khi chính ta không cần?   Một bát cơm đầy, dẻo và thơm chính là do công sức khó nhọc của biết bao người. Người nông dân gieo hạt.  Người cấy trồng và người gặt hái thu hoạch vào cuối mùa.  Hạt vừa thu hoạch cũng phải được bảo quản đúng mức, chuyên chở đến nơi được chế biến tại các nông trại.  Sau đó các bao gạo trắng và sạch sẽ được phân phối và bán ở các chợ hay siêu thị.  Đôi khi những bao gạo nhập cảng phải được chuyên chở bằng tàu thủy xuyên qua cả một hay hai đại dương.  Khi hạt gạo về đến nhà cũng phải được mẹ hay chị chúng ta nấu lên đúng cách mới cho ta được một bát cơm ngon miệng.  Cũng giống như thế, chúng ta phải biết nâng niu và quý trọng công sức của những người nuôi sống chúng ta.  Nếu chúng ta suy nghĩ cho cùng, một bát cơm ngon cũng nhờ vào ơn Trời cho gió thuận mưa hòa, cho hạt lúa có thể biến thành cơm, cho sức người đủ khỏe mạnh và khôn ngoan để làm công việc biến hóa đó cho chúng ta.  Có phải rằng, một đời người được nhận lãnh không phải một nhưng hàng trăm, hàng ngàn, hàng chục ngàn bát cơm cho đến hết cõi đời?

Bộ Truyền Giáo bác bỏ những tin vu khống

Bộ Truyền Giáo bác bỏ những tin vu khống

Bộ truyền giáo

Trong thông cáo công bố hôm 11-11-2015, Bộ Truyền giáo cho biết, trái ngược với tin tức sai lầm được phổ biến, Bộ hoàn toàn tuân theo đường hướng của ĐTC Phanxicô về việc cải tổ các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh, và những cải tổ hành chánh do Bộ Kinh Tế của Tòa Thánh trù định, Bộ Truyền giáo đệ trình cho Bộ Kinh Tế tất cả các ngân sách dự chi và kết toán chi thu. Vì thế những tin tức do một số cơ quan thông tin phổ biến là không đúng sự thật. Ví dụ họ viết rằng Bộ Truyền giáo cho thuê các bất động sản sang trọng với giá ”thân hữu” và thậm chí còn đón nhận cả một phòng tắm hơi, và là sở hữu chủ của Khách Sạn Priscilla.

Bộ Truyền giáo xác quyết rằng: ”Tất cả các bất động sản thuộc quyền sở hữu của Bộ Truyền giáo, – do ân nhân tặng để giúp các xứ truyền giáo,- đều được cho thuê với giá trị trường; không thiếu những trường hợp ngoại lệ vì tình trạng nghèo. Các bất động sản đó được cho thuê trong sự tôn trọng luật pháp hiện hành của Italia, cả Bộ truyền giáo lẫn người quản trị đều tuân hành luật pháp đó. Lợi nhuận đến từ việc cho thuê các bất động sản ấy chủ yếu được dùng để bảo trì Bộ Truyền Giáo, Đại học Giáo Hoàng Urbaniana, các tổ chức truyền giáo và các giáo phận trẻ tại các xứ truyền giáo. Bộ Truyền giáo vẫn nộp thuế đều đặn cho chính quyền Italia (năm 2014, Bộ đã trả thuế IMU bất động sản là 2.169.200 Euro nguyên cho thủ đô Roma).

Thông cáo cũng nói rằng: ”Bộ truyền giáo biết ơn các ân nhân, qua sự giúp đỡ của họ, họ góp phần vào việc loan báo Tin Mừng và hỗ trợ vô số các sáng kiến giáo dục, xã hội và y tế tại các nước nghèo nhất”.

Sau cùng Bộ cảnh giác rằng nếu còn tái diễn việc phổ biến những tin tức sai sự thật và có ý gian, thì Bộ truiyền giáo sẽ buộc lòng phải bảo vệ thanh danh của mình nơi các cơ quan thích hợp”

Bộ Truyền giáo là cơ quan phối hợp hoạt động của 1.100 giáo phận thuộc các miền truyền giáo. Phần lớn các giáo phận này được Bộ giúp đỡ.

Cha Lombardi lại phải cải chính

Mặt khác, cùng ngày 11-11-2015, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, lại phải lên tiếng cải chính tin của một vài hãng thông tấn và báo chí loan tin thiên lệch và không chính xác về nội dung một văn kiện mật, cho rằng Cơ quan quản trị tài sản của Tòa Thánh, gọi tắt là APSA, trong quá khứ đã bị lạm dụng vào một hoạt động tài chánh bất hợp pháp. Nhà chức trách tư pháp của Vatican đã mở cuộc điều tra về việc phổ biến tài liệu đó. Cơ quan APSA luôn cộng tác với các cơ quan có thểm quyền, và không hệ bị điều tra, đồng thời tiếp tục thi hành hoạt động của mình trong sự tôn trọng các qui luật hiện hành”.

Cha Lombarbi cũng cho biết: Hiến binh Vatican, trong tư cách là cảnh sát tư pháp, đã báo cho Công tố viện Vatican hoạt động của hai ký giả Nuzzi và Fittipaldi, có thể họ đã cộng tác vào tội phạm phổ biến tin tức và văn kiện mật, chiếu theo luật số IX của Quốc gia thành Vatican, ngày 13-7 năm 2013 (art. 116 bis c.p).

Trong hoạt động điều tra, Công tố viện đã thu thập các bằng chứng cho thấy hai ký giả đã sự cộng tác vào tội phạm, và với tư cách đó họ bị điều tra.

Các giới chức điều tra cũng cứu xét một số lập trường của những người khác, vì lý do chức vụ, có thể đã cộng tác vào việc lấy những tài liệu mật vừa nói (SD 11-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

52 ngàn tín hữu tham dự thánh lễ Đức Thánh Cha cử hành tại Firenze (Florence)

52 ngàn tín hữu tham dự thánh lễ Đức Thánh Cha cử hành tại Firenze (Florence)

Pope Francis waves to the crowds at the Mass in Florence

FIRENZE. Trong thánh lễ trước 52 ngàn tín hữu tại Firenze, trung Italia, ĐTC mời gọi Giáo Hội quan tâm và gần gũi dân chúng, đồng thời gắn bó với Chúa Kitô.

Trong cuộc viếng thăm mục vụ tại Firenze (Florence) ngày 10-11-2015, sau khi gặp gỡ các GM và 2500 đại biểu của 220 giáo phận toàn nước Italia, ĐTC đến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Truyền Tin gần đó để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin và viếng thăm các bệnh nhân tại đây, rồi ngài tiến qua quán ăn cạnh đó tên là ”thánh Phanxicô người nghèo” do Caritas Firenze đảm trách. Tại đây ĐTC đã dùng bữa trưa với 60 người nghèo thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, trong đó có 30 người Italia.

Sau khi nghỉ trưa tại tòa TGM, lúc gần 15 giờ chiều, ĐTC đã đến Sân vận động ”Artemio Franchi”. Ngài tiến qua các lối đi để chào thăm 52 ngàn tín hữu ngồi chật thao trường. Đồng tế với ngài có các GM của 220 giáo phận Italia và hơn 300 linh mục. Lễ đài tại đây do các tù nhân tự nguyện làm để tặng ĐTC.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đã diễn giảng bài Tin Mừng ghi lại lời Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: người ta bảo Thầy là ai? Và các con nói Thầy là ai? Sau cùng là lời tuyên xưng của thánh Phêrô: Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống!

Từ những ý tưởng đó, ĐTC nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải quan tâm đến con người và cuộc sống của họ: duy trì một sự tiếp xúc lành mạnh với thực tại, nghĩa là với cuộc sống cụ thể của dân chúng, những đau buồn và vui mừng của họ, là cách thức duy nhất để có thể giúp đỡ, huấn luyện và đả thông với họ. Các môn đệ của Chúa Giêsu không bao giờ được quên mình đã được chọn từ đâu nghĩa là từ nơi dân chúng, và không bao giờ được rơi vào cám dỗ có thái độ xa cách, như thể những điều dân chúng nghĩ và sống chẳng liên hệ gì đến mình.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: điều quyết định đối với căn tính và sứ mạng của chúng ta là biết Chúa Giêsu trong sự thật, chỉ như thế chúng ta mới có thể nhìn thấy chân lý trong thân phận con ngừơi của chúng ta và mới có thể góp phần nhân bản hóa trọn vẹn xã hội.

ĐTC cũng nói với các tín hữu rằng: ”Anh chị em thân mến, ngày nay cũng vậy, niềm vui của chúng ta là chia sẻ niềm tin và cùng nhau thưa với Chúa Giêsu: ”Đối với chúng con, Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Niềm vui của chúng ta cũng là đi ngược dòng và vượt lên trên dư luận thông thường, dư luận này ngày nay cũng như thời xưa, không nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một Đấng vượt lên trên một vị ngôn sứ hoặc một tôn sư. Niềm vui của chúng ta là nhận ra nơi Chúa Giêsu sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng được Chúa Cha sai đi, là Chúa Con đến để trở thành dụng cụ cứu độ nhân loại. Sự tuyên xưng đức tin này mà Simon Phêrô xướng lên vẫn có giá trị đối với chúng ta. Sự tuyên xưng ấy không phải chỉ là nền tảng ơn cứu độ chúng ta, nhưng cũng là con đường qua đó ơn cứu độ được thể hiện và là mục tiêu phải tiến tới”.

Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh tới khía cạnh bác ái của thuyết nhân bản mà thành Firenze đã từng chứng kiến. Thuyết này luôn có một khuôn mặt bác ái. “Thiên Chúa và con người không phải là hai thái cực đối nghịch nhau: cả hai vẫn luôn tìm kiếm nhau, vì Thiên Chúa nhận ra nơi con người chính hình ảnh của Ngài và con người chỉ nhận ra mình khi nhìn Thiên Chúa. Đó là sự khôn ngoan đích thực và sách Huấn Ca mô tả như đặc tính của người bước theo Chúa. Đó là sự khôn ngoan của thánh Lêô Cả, người miền Toscana này, kết quả của sự đồng qui các yếu tố khác nhau: lời nói, trí tuệ, kinh nguyện, giáo huấn, ký ức. Thánh Lêrô cũng nhức nhở chúng ta rằng không thể có sự khôn ngoan chân thực nếu không ở trong mối liên hệ với Chúa Kitô và trong việc phục vụ của Giáo Hội”.

Sau khi kết thúc thánh lễ, ĐTC đã đáp trực thăng bay về Vatican lúc quá 6 giờ chiều, kết thúc cuộc viếng thăm tron ngày tại hai giáo phận Prato và Firenze.

Cuộc viếng thăm được hơn 850 ký giả đăng ký để theo dõi và tường thuật.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha lên án vụ phổ biến tài liệu mật Tòa Thánh

Đức Thánh Cha lên án vụ phổ biến tài liệu mật Tòa Thánh

ĐTC lên án vụ đánh trộm tài liệu

VATICAN. ĐTC mạnh mẽ lên án vụ ”Vatileaks 2”, lấy trộm và phố biến tài liệu mật của Tòa Thánh qua hai cuốn sách mới xuất bản tại Italia.

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 8-11-2015 với gần 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

Anh chị thân mến,

 Tôi biết rằng nhiều người trong anh chị em bị xáo trộn hoang mang vì những tin được truyền đi những ngày qua vì những tài liệu mật của Tòa Thánh bị lấy trộm và phổ biến.

”Vì thế, tôi muốn nói trước tiên với anh chị rằng ăn trộm các tài liệu ấy là một tội phạm. Đó là một hành vi đáng trách, chẳng giúp ích gì. Chính tôi đã yêu cầu thực hiện cuộc nghiên cứu ấy, và tôi và các cộng sự viên của tôi đã biết rõ các tài liệu ấy, và các biện pháp đã được đề ra và chúng bắt đầu mang lại thành quả, một số kết quả cũng thấy được rồi.

”Vì thế tôi muốn đoan chắc với anh chị em rằng sự kiện đau buồn chắc chắn không cản tôi khỏi công việc cải tổ mà chúng tôi đang tiến hành với các cộng sự viên của tôi và với sự hỗ trợ của tất cả anh chị. Đúng vậy với sự hỗ trợ của toàn thể Giáo Hội, vì Giáo Hội được canh tân bằng lời cầu nguyện và sự thánh thiện hằng ngày của mỗi tín hữu đã chịu phép rửa.

Vì thế tôi cám ơn anh chị em và xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi và cho Giáo Hội, đừng để mình bị hoang mang nhưng tiến bước trong niềm tín thác và hy vọng.”

Hai người tiếp tay vào vụ lấy trộm tài liệu là Đức Ông Lucio Angel Vallejo Balda, người Tây Ban Nha và bà Francesca Chaouqui. Các tài liệu đó được dùng để viết hai cuốn sách:

Cuốn thứ nhất của ký giả Gianluigi Nuzzi với tựa đề: ”Đàng Thánh Giá. Từ những băng thu thanh và tài liệu chưa từng xuất bản. Cuộc chiến khó khăn của ĐGH Phanxicô để thay đổi Giáo Hội”. Cuốn thứ hai của ký giả Emiliano Fittipaldi, với tựa đề ”Hà tiện. Những tài liệu tỏ lộ sự giàu có, gương mù và những bí mật trong Giáo Hội của ĐGH Phanxicô”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn của ”Nhật báo đường phố”

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn của ”Nhật báo đường phố”

VATICAN. Trong cuộc phỏng vấn dành cho ”Nhật báo Đường Phố” ở Hòa Lan, ĐTC phê bình những tín hữu nói về những người nghèo khổ và vô gia cư nhưng lại sống như ông hoàng Pharaon.

 

”Nhật báo Đường Phố” (Straatniuws) thuộc Hệ thống các báo đường phố, là một tổ chức bác ái qui tụ hơn 113 báo đường phố ở 35 nước trên thế giới. Hàng chục ngàn người vô gia cư bán các báo này trên các đường phố để có thể sống còn.

 

Trong cuộc phỏng vấn, ĐTC nhắc đến hai cám dỗ mà Giáo Hội thường gặp phải. ”Trước tiên Giáo Hội cần phải nói sự thật, kể cả bằng chứng tá về sự nghèo khó. Nếu một tín hữu nói về nghèo khó hoặc về những người vô gia cư, mà lại sống như ông hoàng Pharaon, thì không thể được.

 

”Cám dỗ thứ hai là thỏa hiệp với chính quyền. Ta có thể ký kết những hiệp định, nhưng phải rõ ràng, minh bạch. Ví dụ chúng ta điều hành dinh thự này, nhưng kết toán phải được kiểm soát để tránh tham nhũng. Vì luôn luôn có cám dỗ tham ô trong đời sống công cộng”.

 

ĐTC cũng phê bình sự kiện nhiều khi phân phát tiền bạc và đồ cứu trợ cho người nghèo, có sự ăn chặn. Ngài kể lại rằng một hôm ngài hỏi một bộ trưởng lương thiện đặc trách cứu trợ ở Argentina: Khi quí vị gửi đề cứu trợ, thực phẩm, quần áo, tiền bạc, cho người nghèo, trong số những đồ mà quí vị gửi, có bao nhiêu đến tay người nghèo? Ông bộ trưởng đáp: 35%. Như vậy là có 65% bị ăn chặn. Đó là sự tham ô!” (SD 6-11-2015)

 

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

2 người bị bắt ở Vatican vì lấy trộm và phổ biến tài liệu mật

2 người bị bắt ở Vatican vì lấy trộm và phổ biến tài liệu mật

Cha Lombardi

VATICAN. 2 người đã bị bắt tại Vatican vì lấy trộm và phố biến tin tức và tài liệu mật.

Hôm 2-11-2015, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết 2 đương sự là Đức Ông Lucio Angel Vallejo Balda, và bà Francesca Chaouqui.

Đức ông Vallejo người Tây Ban Nha, 54 tuổi, chuyên gia và kinh tế và đã từng giữ các chức vụ quản lý cho giáo phận và cho HĐGM ở Tây Ban Nha, và hiện là Tổng thư ký sở Kinh tế tài chánh của Vatican; tiếp đến là bà Chaouqui, 33 tuổi. Cả hai người từng là thành viên Ủy ban do ĐTC Phanxicô thiết lập hồi tháng 7 năm 2013 để nghiên cứu và đề ra hướng đi về việc tổ chức các cơ cấu kinh tế quản trị của Tòa Thánh (gọi tắt là COSEA). Do đề nghị của Ủy ban này, ĐTC Phanxicô đã thiết lập ”bộ kinh tế” và bổ nhiệm ĐHY George Pell làm chủ tịch.

Hồi đó, Đức Ông Vallejo loan báo mình sẽ trở thành Tổng thư ký (nhân vật thứ 2) của ”Bộ” mới này, nhưng trong thực tế, ĐTC đã bổ nhiệm Đức Ông Alfred Xuereb, người Malta, nguyên là bí thư của ĐGH Biển Đức 16 và bí thư của ĐGH Phanxicô. Đức Ông Vallejo tiếp tục giữ nhiệm vụ Tổng thư ký sở Kinh tế tài chánh, tuy nhiên, trong kế hoạch cải tổ, cơ quan này sẽ bị dẹp và biến thành cơ quan kiểm soát tài chánh.

Cha Lombardi nói: ”Trong khuôn khổ điều tra cảnh sát tư pháp do Hiến binh Vatican khởi sự và thực thi từ vài tháng nay về vụ lấy trộm và phổ biến tin tức và tài liệu mật, hôm thứ bẩy 31-10 và chúa nhật 1-11, hai người nói trên đã bị triệu tập để hỏi cung về những yếu tố và những bằng chứng đã thu thập được.

 Sau cuộc hỏi cung, 2 người ấy đã bị giam giữ để tiếp tục điều tra. Hôm 2-11-2015, Văn phòng Chưởng tín (công tố viện) gồm giáo sư luật sư Gian Piero Milano, Chưởng tín, và giáo sư luật sư Roberto Zannotti, phụ tá chưởng tín, đã xác nhận việc bắt giam, nhưng quyết định trả tự do cho bà Chaouqui, vì bà đã cộng tác vào cuộc điều tra.

Việc phổ biến tin tức và tài liệu mật là một tội chiếu theo luật số IX của Quốc gia thành Vatican (13-7-2013), điều số 10 (điều số 116b của bộ hình luật).

Cha Lombardi cũng nói đến 2 cuốn sách sắp được xuất bản dựa trên những tài liệu và tin tức do hai đương sự cung cấp và khẳng định rằng ”Lần này cũng như đã xảy ra trong quá khứ, hai cuốn sách ấy là kết quả một sự phản bội trầm trọng đối với sự tín nhiệm của ĐGH, và đối với các tác giá, đó là một hoạt động nhắm thủ lợi từ một hành vi bất chính trầm trọng là sự trao các tài liệu mật. Khía cạnh pháp lý và có thể là hình luật của hành động này là đối tượng đang được Văn phòng chưởng tín cứu xét để có thể đưa ra các biện pháp, và nếu cần sẽ nhờ đến sự cộng tác quốc tế (nhờ nhà chức trách tư pháp Italia can thiệp).

Sự xuất bản thuộc loại này không hề góp phần thiết lập sự minh bạch và sự thật, nhưng chỉ tạo nên sự hoang mang và những giải thích thiên lệch và sai trái. Tuyệt đối cần tránh sự mơ hồ khi nghĩ rằng đó là một cách thức để giúp đỡ sứ mạng của ĐTC.

Hai cuốn sách dự kiến được xuất bản là cuốn ”Hà tiện” (Avarizia) do ký giả Emiliano Fittipaldi của báo Espresso và cuốn ”Đàng Thánh Giá” (Via Crucis) do ký giả Gianluigi Nuzzi của công ty truyền hình Mediaset. (SD 2-11-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm phiên khoáng đại thứ 6 và 7

Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm phiên khoáng đại thứ 6 và 7

Thượng Hội Đồng Giám Mục ngày thứ 6 và 7

VATICAN. Thứ bẩy 10-10-2015, Thượng HĐGM đã dành hai phiên khoáng đại thứ 6 và thứ 7, sáng và chiều để lắng nghe các nghị phụ phát biểu ý kiến về phần hai của Tài liệu làm việc.

Phần này mang tựa đề ”Sự phân định ơn gọi gia đình”, và đề cập tới những khía cạnh như: Chúa Giêsu và gia đình: đặc tính bất khả phân ly như hồng ân và nghĩa vụ; gia đình hình ảnh Chúa Ba Ngôi, chiều kích truyền giáo của gia đình; đặc tính bất khả phân ly của hôn phối va niềm vui sống chung, lòng từ bi thương xót đối với các gia đình bị thương: sứ mạng của Giáo Hội, v.v.

Sau hai phiên khoáng đại thứ bẩy hôm qua, chúa nhật hôm nay, 11-10, các nghị phụ được nghỉ, và trong hai ngày thứ hai và thứ ba này, các vị lại nhóm trong các nhóm nhỏ để thảo luận về phần 2 của Tài liệu làm việc.

Phúc trình của 13 nhóm

Sáng thứ sáu vừa qua, 9-10, các đại diện 13 nhóm nghị phụ đã trình bày kết quả các cuộc thảo luận nhóm về khía cạnh lắng nghe các thách đố về gia đình, tức là phần đầu của Tài liệu làm việc và đã đưa ra hơn 200 đề nghị sửa chữa phần đầu của Tài liệu này, cũng như những điểm mới cần nhấn mạnh.

– Qua phúc trình của các nhóm, người ta thấy một số nhận xét nổi bật như: phần trình bày của tài liệu làm việc nhấn mạnh nhiều quá tới những khía cạnh tiêu cực mà các gia đình ngày nay đang gặp phải, và nhiều nghị phụ đề nghị làm nổi bật hơn vẻ đẹp và sức sinh động của gia đình, bớt nói về các cuộc khủng hoảng, nhưng nói nhiều hơn về hy vọng.

 – Một nhận xét nổi bật thứ hai liên quan đến việc mục vụ gia đình: sở dĩ gia đình ngày nay bị khủng hoảng, có lẽ vì trong Giáo Hội đã có những thiếu sót trong việc giáo dục về đức tin. Theo một nghĩa nào đó, Giáo Hội phải chịu trách nhiệm về tình trạng gia đình ngày nay, vì đã có những tư tưởng hầu như ”như thời trung cổ” đối với gia đình, không phù hợp với thực tại, quá nhấn mạnh về luật lệ, qui tắc, và thiếu một cái nhìn toàn diện.

– Có vài nhóm nghị phụ nhận xét rằng lối đề cập vấn đề như trong phần I của tài liệu làm việc có tính chất quy hướng về Âu Châu, đặt nặng quá nhiều các khía cạnh tây phương, lối trình bày như thế ít thu hút và cũng có phần lộn xộn, nhất là trong việc xác định mình muốn nói với ai. Vì thế, các nghị phụ ấy muốn văn kiện chung kết của Thượng HĐGM có tính chất ”tươi mát”, rõ ràng, đơn sơ hơn, không có tính chất chuyên môn, nhưng dễ hiểu đối với tất cả mọi người”.

– Một số nhóm yêu cầu đào sâu phần trình bày lý thuyết về giống (gender Theory), đang được các thế lực quốc tế cổ võ hoặc áp đặt trong các hệ thống giáo dục tại các nước, và lý thuyết này đe dọa tương lai của hôn nhân và gia đình, vì cho rằng sự khác biệt nam nữ chỉ là kết quả của văn hóa, phong tục và giáo dục, chứ không có nền tảng sinh lý tự nhiên nào.

Nhiều nghị phụ kêu gọi tăng cường việc mục vụ cho người di dân và tị nạn, với những hệ lụy đối với đời sống gia đình của họ. Cũng vậy, cần quan tâm hơn tới những người già cả và tàn tật, các trẻ em bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ.

– Nhóm tiếng Pháp thứ hai, do ĐHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, điều hợp, đề nghị có sự can thiệp của Huấn quyền Hội Thánh để làm cho vấn đề gia đình sáng tỏ hơn về mặt thần học và giáo luật.

Nhóm thứ hai tiếng Anh, đề nghị làm sao để mỗi Giáo Hội địa phương tìm cách xác định những hoàn cảnh của những gia đình ở ngoài lề xã hội và đáp ứng về mục vụ. Nhóm nghị phụ tiếng Đức cũng nêu bật điều này là làm sao trong văn kiện chung kết của Thượng HĐGM có sự tôn trọng những đặc tù và khác biệt về văn hóa giữa lòng Giáo Hội vì cần có một phân tích và phán đoán khác nhau.

Có một số nhóm nhận xét rằng 3 tuần lễ Thượng HĐGM là thời gian quá ngắn, không đủ để cứu xét tất cả các vấn đề được nêu lên. Ngoài ra, có những nghị phụ đặt câu hỏi: không biết những cuộc thảo luận hoặc những đề nghị của mỗi nhóm, có được Ủy ban soạn văn kiện chung kết để ý tới hay không. Hoặc như Đức Cha Jean-Paul Vesco OP, người Pháp, GM giáo phận Oran bên Algérie, vốn ủng hộ việc cho các cặp ly dị tái hôn rước lễ, kêu gọi cần làm sao để Công nghị GM thế giới này không rơi vào tình trạng ”trái núi đẻ ra con chuột”! (SD 9-10-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hãy biết phân định và tỉnh thức, ngay cả khi mọi sự có vẻ tốt đẹp

Hãy biết phân định và tỉnh thức, ngay cả khi mọi sự có vẻ tốt đẹp

ĐTC giảng trong thánh lễ tại nhà nguyện Martha ngày 9 tháng 10 năm 2015

Giảng trong thánh lễ sáng ngày 09-10 tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha nói: “Luôn nghĩ xấu cho những người làm điều tốt, vu khống người khác vì ghen tị, xếp đặt những cạm bẫy để mưu hại tha nhân là những hành vi đến từ ma quỷ. Thế nên, trong bối cảnh đó, một Kitô hữu phải biết phân định và tỉnh thức, phân định trong tất cả mọi sự, ngay cả khi mọi sự ấy dường như đang tốt đẹp.”

Những giáo thuyết cứng nhắc

Bài Tin Mừng của ngày thứ sáu (09.10) thuật lại việc Đức Giêsu trừ một tên quỷ. Ngài đã làm một việc tốt lành cho người bị quỷ ám. Trong số những người đang nghe Ngài giảng dạy và chứng kiến phép lạ, có những kẻ đã tin và nhận ra uy quyền của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nhưng cũng có những kẻ tố cáo Ngài dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trử quỷ. Đức Thánh Cha nói: “Đã có những người không muốn nghĩ tốt về Đức Giêsu. Họ luôn tìm cách hiểu và giải thích lời nói cũng như hành động của Ngài theo một cách thế sai lạc để chống lại Ngài. Có những người chống đối Ngài vì ghen tị; một số khác là vì có sẵn trong đầu những giáo thuyết cứng nhắc; một số khác vì sợ quân đội Roma sẽ đến và thảm sát họ. Bởi rất nhiều những lý do như thế, họ đã cố gắng tìm cách để loại trừ uy quyền của Đức Giêsu và thậm chí lăng nhục, vu khống Ngài.”

Phân định và cảnh giác

Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu hãy phân định và cảnh giác. Phân định trong những tình huống cụ thể để biết điều nào đến từ Thiên Chúa và điều nào đến từ ma quỷ, vì ma quỷ luôn tìm cách để lừa dối và bịp bợp chúng ta chọn lựa những con đường sai trái. Chúng ta không thể bình tĩnh, thản nhiên trước những điều có vẻ là đang tốt đẹp, nhưng phải phân định và xem chúng đến từ đâu, gốc rễ của chúng là gì.

Ma quỷ sẽ làm tê liệt lương tâm

Không chỉ có phân định nhưng phải luôn cảnh giác; vì trong hành trình đức tin, cám dỗ luôn quay trở lại và thần dữ không bao giờ biết mệt mỏi. Khi thần dữ xuất ra khỏi một người, nó vẫn kiên nhẫn chờ đợi để quay trở lại. Nếu để nó quay trở lại, tình trạng của người ấy sẽ còn thê thảm hơn trước. Đức Thánh Cha giải thích: “Chúng ta đã biết rằng ma quỷ trước hết sẽ quấy rối và giày vò một người. Nhưng sau đó, hắn sẽ ẩn núp và cùng với bè lũ của hắn từ từ gõ cửa và xin phép cách rất lịch sự. Rồi hắn sẽ đi vào và sống với người đó trong mọi hoạt động của đời sống hằng ngày. Dần dần, hắn mới đưa ra những chỉ dẫn. Với cách thức như thế, ma quỷ từ từ thuyết phục người đó làm mọi sự với một tâm thức hoài nghi và khiến lương tâm trở nên dửng dưng, không còn biết phân biệt tốt-xấu.

Đức Thánh Cha nói: “Làm tê liệt lương tâm là một sự dữ khủng khiếp. Bởi vì khi thần ô uế thành công trong việc làm tê liệt lương tâm con người, hắn đã thực sự chiến thắng. Hắn đã trở thành ông chủ của lương tâm ấy rồi. Và như thế, người đó đang sống trong một cách thức giống như là con cái của thần dữ.”

Hãy luôn thực hành việc xét mình

Đức Thánh Cha nhắc lại hai từ: cảnh giác và phân định. Cảnh giác tức là làm việc xét mình hằng ngày. Quả thế, Giáo hội khuyên chúng ta luôn thực hành việc xét mình: Điều gì đã xảy ra trong tâm hồn tôi ngày hôm nay và bởi lý do gì? Tiếp đến là phân định. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: những bàn luận, lời nói, sự giảng dạy đến từ đâu? Ai nói những điều này? Nói tóm lại, hãy biết phân định trong mọi sự và hết sức cảnh giác. Đừng để bị quyến rũ, lừa dối và mê hoặc. Cuối cùng, Đức Thánh Cha kết luận: “Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng này. Đó là ơn luôn biết phân định và cảnh giác.” (SD 09-10-15)

Vũ Đức Anh Phương

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Sứ điệp ĐTC Phanxicô nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 (2016)

Logo ngày giới trẻ 2016

VATICAN. Trong sứ điệp công bố sáng ngày 28-9-2015 nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 sẽ được cử hành cấp hoàn vũ vào cuối tháng 7 năm tới tại Cracovia, Ba Lan, TC Phanxicô mời gọi các bạn trẻ mang ngọn lửa từ bi thương xót của Chúa Kitô vào đời sống thường nhật và thực thi mỗi tháng một công việc bác ái.

Sau đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7)

 Các bạn trẻ rất thân mến,

 Chúng ta đã tới giai đoạn chót trong cuộc lữ hành tiến về Cracovia, nơi chúng ta sẽ cùng nhau cử hành Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 31 vào tháng 7 năm tới (2016). Hành trình dài và đòi nhiều cố gắng này được lời Chúa Giêsu hướng dẫn, rút từ ”Bài giảng trên núi”. Chúng ta đã khởi sự hành trình này hồi năm 2014, cùng nhau suy niệm về Mối Phúc thứ I: ”Phúc cho những người có tinh thần thanh bần vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Đề tài cho năm 2015 là ”Phúc cho ai có tâm hồn thanh khiết, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Trong năm đang ở trước mặt, chúng ta muốn để cho mình được Lời này soi sáng: ”Phúc cho những ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7).

 1. Năm Thánh Lòng Thương Xót

 Với chủ đề này, Ngày Quốc Tế giới trẻ Cracovia năm 2016 được tháp nhập vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, trở thành một Năm Thánh thực sự và riêng cho người trẻ trên bình diện thế giới. Đây không phải là lần đầu tiên Đại hội giới trẻ quốc tế trùng vào một Năm Thánh. Thực vậy, chính trong Năm Thánh Cứu Độ 1983/1984, thánh Gioan Phaolô 2 đã triệu tập lần đầu tiên các bạn trẻ toàn thế giới vào Chúa Nhật Lễ Lá. Rồi trong Đại Năm Thánh 2000, hơn 2 triệu người trẻ từ 165 quóc gia đã họp mặt tại Roma để cử hành Ngày Quốc tế giới trẻ lần thứ 15. Như đã xảy ra trong 2 trường hợp trước đây, tôi chắc chắn rằng Năm Thánh giới trẻ ở Cracovia sẽ là một trong thời điểm nổi bật của Năm Thánh này!

 Có sẽ vài người trong các bạn tự hỏi: ”Năm Thánh này được cử hành trong Giáo Hội là gì? Sách Lêvi đoạn thứ 25 giúp hiểu ”Năm Vui Mừng đối với dân Israel có nghĩa là gì? Cứ 50 năm, người Do Thái thổi kèn hân hoan (jobel) triệu tập họ (jobil) cử hành một năm thánh, như một thời kỳ hòa giải (jobal) đối với tất cả mọi người. Trong thời kỳ này, người ta phải phục hồi quan hệ tốt với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên, dựa trên tinh thần nhưng không. Vì thế, trong số các vấn đề, người ta cổ võ sự tha thứ nợ nần, đặc biệt trợ giúp những ai lâm vào tình trạng lầm than, cải tiến các quan hệ giữa con người với nhau và giải phóng những người nô lệ. Chúa Giêsu Kitô đã đến để loan báo và thực hiện thời đại vĩnh cửu của ơn Chúa, mang đến cho người nghèo tin vui, sự giải thoát cho các tù nhân, cho người mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được tự do (Xc Lc 4,18-19). Nơi Ngài, nhất là trong Mầu Nhiệm Vượt qua, ý nghĩa thâm sâu nhất của Năm Thánh được viên mãn. Khi Giáo Hội nhân danh Chúa Kitô tuyên bố Năm Thánh, tất cả chúng ta đều được mời gọi cống hiến dồi dào các dấu chỉ sự hiện diện và sự gần gũi của Thiên Chúa, thức tỉnh nơi các tâm hồn khả năng nhìn điều thiết yếu. Đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, ”là thời kỳ để Giáo Hội tìm lại ý nghĩa sứ mạng mà Chúa đã ủy thác trong Ngày Phục Sinh: đó là trở thành dụng cụ lòng thương xót của Chúa Cha” (Bài giảng Kinh Chiều I Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, 11-4-2015)

 2. Thương Xót như Chúa Cha

 Khẩu hiệu Năm Thánh đặc biệt này là ”Thương xót như Chúa Cha” (Xc Misericordiae Vultus, 13), và chủ đề Ngày Quốc Tế giới trẻ lần tới cũng tương ứng với chủ đề của Năm Thánh. Vì thế chúng ta tìm cách hiểu rõ hơn ý nghĩa lòng thương xót của Chúa. Để nói về lòng thương xót, Cựu Ước dùng nhiều từ ngữ khác nhau, trong đó những từ ý nghĩa nhất là hesed và rahamim. Từ thứ nhất được áp dụng cho Thiên Chúa, diễn tả lòng trung tín không ngừng của Ngài đối với giao ước cùng dân Ngài, Dân mà Ngài yêu thương và tha thứ mãi mãi. Từ thứ hai, rahamim, có thể được dịch là ”lòng”, đặc biệt nhắc nhớ cung lòng người mẹ và làm cho chúng ta hiểu tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài như tình thương của một người mẹ đối với con mình. Ngôn sứ Isaia diễn tả điều ấy với chúng ta: ”Một phụ nữ lại quên con mình đến độ không cảm động vì người con từ lòng mình sao? Cho dù họ có quên đi nữa, Ta sẽ không bao giờ quên con” (Is 49,15). Một tình yêu thuộc loại này bao hàm việc dành chỗ cho tha nhân ở trong lòng mình, cảm thấy, chịu đau khổ và vui mừng với tha thân. Trong ý niệm Kinh Thánh về lòng thương xót cũng bao hàm một tình yêu cụ thể, trung thành, nhưng không và biết tha thứ. Trong đoạn này của ngôn sứ Osean, chúng ta có một thí dụ rất đẹp về tình yêu Thiên Chúa, được so sánh với tình thương của một người cha đối với con mình: ”Khi Israel còn là một trẻ nhỏ, Ta đã thương yêu nó và đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập, nhưng hễ Ta càng gọi thì chúng càng xa Ta; […] Ta đã tập cho Efraim bước đi, Ta cầm tay nó, nhưng chúng không hiểu rằng Ta đã chăm sóc chúng. Ta đã lôi kéo chúng bằng những mối liên hệ nhân nghĩa, bằng những liên hệ ân tình, đối với chúng Ta như người nâng một đứa bé áp vào má, Ta cúi mình trên nó để đút nó ăn” (Hs 11,1-4). Mặc dù thái độ sai lầm của đứa con, đáng bị trừng phạt, nhưng tình yêu của người cha trung tín và luôn tha thứ cho người con thống hối. Như chúng ta thấy, trong lòng thương xót luôn kèm theo sự tha thứ; lòng thương xót không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một thực tại cụ thể qua đó Chúa bày tỏ tình thương của Ngài như tình thương của một người cha và một người mẹ cảm động đến tận thâm tâm vì người con mình. […] Lòng thương xót đến từ thẳm sâu tâm hồn như một tình cảm sâu đậm, tự nhiên, đầy dịu dàng và cảm thương, nhân nhượng và tha thứ” (Misericordiae Vultus, 61).

 Tân Ước nói với chúng ta về lòng thương xót của Chúa (eleos) như tổng hợp ”công trình mà Chúa Giêsu đã đến để thực hiện trong trần thế nhân danh Chúa Cha” (Xc Mt 9,13). Lòng thương xót của Chúa chúng ta được biểu lộ trên hết khi Ngài cúi mình trên sự lầm than của con người và chứng tỏ sự cảm thương của Ngài đối với người cần được cảm thông, chữa lành và tha thứ. Trong Chúa Giêsu tất cả đều nói về lòng thương xót. Đúng hơn, chính Chúa là lòng thương xót. Trong chương 15 của Tin Mừng Luca, chúng ta có thể thấy 3 dụ ngôn về lòng thương xót: dụ ngôn con chiên lạc, dụ ngôn đồng tiền bị mất, và dụ ngôn được biết đến như ”dụ ngôn người con trai hoang đàng”. Trong 3 dụ ngôn ấy, điều gây ấn tượng mạnh cho chúng ta là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui mà Ngài cảm thấy khi tìm lại một người tội lỗi và tha thứ cho họ. Đúng vậy, niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ! Ở đây có tổng hợp toàn thể Tin Mừng. ”Mỗi người chúng ta là con chiên lạc, là đồng tiền bị mất; mỗi người chúng ta là người con trai hoang đàng đã làm hư mất tự do của mình ”khi theo những thần tượng giả dối, những ảo ảnh hạnh phúc, và đã mất tất cả. Nhưng Thiên Chúa không quên chúng ta, Chúa Cha không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài là người cha kiên nhẫn, luôn chờ đợi chúng ta! Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, nhưng luôn trung tín. Và khi chúng ta trở về cùng Ngài, Ngài đón nhận chúng ta như những người con, trong nhà Ngài, vì không bao giờ Ngài ngừng chờ đợi chúng ta với tình yêu thương, dù là một lúc. Và con tim của Ngài vui mừng vì mỗi người con trở về. Con tim Ngài mừng rỡ vì Ngài hân hoan. Thiên Chúa có niềm vui ấy, khi một trong chúng ta là những kẻ tội lỗi đến cùng Ngài và xin lỗi” (Angelus 15-9-2013).

 Lòng thương xót của Thiên Chúa rất cụ thể và tất cả chúng ta được kêu gọi đích thân cảm nghiệm. Khi tôi 17 tuổi, một hôm phải đi với các bạn, tôi đã quyết định ghé vào một nhà thờ trước. Tại đó tôi đã thấy một linh mục mở tâm hồn tôi trong tòa giải tội. Cuộc gặp gỡ ấy đã thay đổi đời tôi! Tôi đã khám phá thấy rằng khi chúng ta cởi mở tâm hồn với lòng khiêm tốn và minh bạch, chúng ta có thể chiêm ngắm cụ thể lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi đã xác tín rằng nơi con người của vị linh mục ấy, Thiên Chúa đang chờ đợi tôi, trước khi tôi đi bước đầu để đến nhà thờ. Chúng ta tìm Chúa, nhưng chính Chúa luôn đi trước chúng ta, Ngài luôn tìm kiếm chúng ta, và thấy chúng ta trước. Có lẽ có người trong chúng ta có một gánh nặng trong tâm hồn và nghĩ: tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều kia. Các bạn đừng sợ! Chúa đang chờ đợi các bạn! Chúa là Cha, Ngài luôn chờ đợi chúng ta! Thật là đẹp dường nào khi gặp trong bí tích hòa giải vòng tay thương xót của Chúa Cha, khám phá tòa giải tội như nơi chốn của lòng Thương Xót, để cho mình được tình thương từ bi của Chúa đánh động, Đấng luôn tha thứ cho chúng ta!

 Còn bạn, hỡi người bạn trẻ, nam và nữ, bạn chẳng bao giờ thấy cái nhìn yêu thương vô biên đặt trên bạn sao, cái nhìn yêu thương vượt lên trên mọi tội lỗi, giới hạn, thất bại của bạn, và tiếp tục tín nhiệm bạn và nhìn cuộc sống của bạn với niềm hy vọng sao? Bạn có ý thức về giá trị của bạn trước mặt một Thiên Chúa, vì yêu thương, đã ban cho bạn tất cả sao? Như thánh Phaolô đã dạy chúng ta, ”Thiên Chúa chúng tỏ tình thương của Ngài đối với chúng ta qua sự kiện, khi chúng ta còn là ngừơi tội lỗi, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,8). Nhưng chúng ta có thực sự hiểu sức mạnh của những lời ấy không? Tôi biết thánh giá Giới Trẻ thật là quí giá đối với các bạn, thánh giá này là món qua của thánh Gioan Phaolô 2 và ngay từ năm 1984 đã tháp tùng tất cả cuộc gặp gỡ thế giới của các bạn. Bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu cuộc hoán cải chân thành và đích thực đã nảy sinh trong cuộc sống của bao nhiêu bạn trẻ từ cuộc gặp gỡ với thánh giá trơ trụi ấy! Đây là câu trả lời: thánh giá là dấu chỉ hùng hồn nhất về lòng thương xót của Thiên Chúa! Thánh gia làm chứng cho chúng ta về mức độ tình thương của Thiên Chúa đối với ”nhân loại là yêu thương vô biên! Trong thánh giá, chúng ta có thể động chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa và để cho mình được chính lòng thương xót động chạm đến! Ở đây tôi muốn nhắc đến giai thoại 2 kẻ bất lương bị đóng đanh cạnh Chúa Giêsu: một người ngạo mạn, không nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, chế nhạo Chúa. Trái lại người khác nhìn nhận mình đã lầm lỗi, ngỏ lời với Chúa và nói: ”Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến con khi Ngài vào trong Nước của Ngài. Chúa Giêsu nhìn ông ta với lòng thương xót vô biên và trả lời ông: ”Ngày hôm nay, anh sẽ được ở cùng tôi trên thiên đàng” (Xc Lc 23,32.39-43). Chúng ta đồng hóa mình với ai trong hai người ấy? Với kẻ ngạo mạn và không nhìn nhận lỗi lầm của mình ư? Hay là với người kia, nhìn nhận mình cần lòng thương xót của Chúa và khẩn cầu với tất cả tâm hồn? Nơi Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì chúng ta trên thánh giá, chúng ta luôn tìm được tình yêu vô điều kiện, nhìn nhận cuộc sống chúng ta như một thiện ích và luôn ban cho chúng ta cơ hội bắt đầu lại.

 3. Niềm vui đặc biệt được là dụng cụ lòng thương xót của Chúa

 Lời Chúa dạy chúng ta rằng ”Cho đi thì phúc hơn là nhận lãnh” (Cv 20,35). Chính vì lý do đó, Mối Phúc thứ 5 tuyên bố: phúc cho những người có lòng thương xót. Chúng ta biết rằng Chúa yêu thương chúng ta trước. Nhưng chúng ta chỉ thực sự có phúc, hạnh phúc, nếu chúng ta đi vào lý luận của Thiên Chúa về việc trao tặng, theo tiêu chuẩn tình yêu nhưng không, nếu chúng ta khám phá rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta vô biên để làm cho chúng ta có thể yêu mến như Ngài, vô giới hạn. Như thánh Gioan đã nói: ”Hỡi các con rất quí mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu là bởi Thiên Chúa: ai yêu thương, thì được sinh ra bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. [..] Tình yêu hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Ngài như hy tế đền tội cho chúng ta. Hỡi các con rất quí mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, cả chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4,7-11).

 Sau khi đã giải thích một cách rất tóm tắt cách thức Thiên Chúa thực thi lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta, tôi muốn đề nghị với các bạn cách thức cụ thể để chúng ta có thể trở thành dụng cụ của lòng thương xót của Chúa đối với tha nhân.

 Tôi nghĩ đến gương của chân phước Piergiorgio Frassati. Người đã nói: ”Chúa Giêsu viếng thăm tôi mỗi buổi sáng trong khi rước lễ, tôi viếng thăm đáp lễ Ngài một cách nghèo nàn mà tôi có thể, khi viếng thăm những người nghèo”. Piergiorgio là một người trẻ đã hiểu thế nào là có một con tim từ bi, nhạy cảm đối với những người túng thiếu nhất. Người trao tặng họ hơn cả những điều vật chất; Người tặng họ chính bản thân mình, dành cho họ thời giờ, lời nói, khả năng lắng nghe. Piergiorgio phục vụ người nghèo một cách rất kín đáo, không bao giờ tỏ cho người khác thấy. Người sống thực lời dạy của Phúc Âm: ”Trong khi con làm phúc, tay trái đừng biết việc tay phải của con làm, để việc làm phúc của con ở trong vòng kín đáo” (Mt 6,3-4). Các bạn hãy nghĩ rằng một ngày trước khi qua đời, vì bị bệnh nặng, Piergiorgio còn căn dặn về cách thức giúp đỡ những người bạn nghèo túng của mình. Trong lễ an táng, thân nhân và các bạn hữu kinh ngạc vì thấy sự hiện diện của bao nhiêu người nghèo mà họ không biết, những người nghèo ấy đã được thanh niên Piergiorgio quan tâm và giúp đỡ.

 Tôi luôn thích liên kết các Mối Phúc của Tin Mừng với chương thứ 25 của Phúc Âm theo thánh Mathêu, khi Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta những công việc từ bi và nói rằng chúng ta sẽ bị phán xét dựa trên các công việc ấy. Vì thế tôi mời gọi các bạn hãy tái khám phá những công việc bác ái về thể lý: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần trụi y phục, đón tiếp những người ngoại kiều, giúp đỡ các bệnh nhân, viếng thăm những người bị cầm tù, chôn kẻ chết. Và chúng ta đừng quên những công việc bác ái tinh thần: khuyên bảo kẻ ngờ vực, giảng dạy kẻ dốt nát, cảnh giác kẻ có tội, an ủi kẻ sầu muộn, tha thứ những xúc phạm, kiên nhẫn chịu đựng những người làm phiền ta, cầu xin Chúa cho kẻ sống và kẻ chết. Như các bạn thấy, lòng từ bi thương xót không phải là thái độ xề xòa cái gì cũng tốt, và cũng chẳng phải là tình cảm ủy mị. Ở đây có một sự kiểm chứng xem chúng ta có phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không, chúng ta có đáng tín nhiệm trong tư cách là Kitô hữu trong thế giới ngày nay hay không?

 Với các bạn trẻ là những người rất cụ thể, tôi đề nghị trong 7 tháng đầu của năm 2016, mỗi tháng các bạn hãy chọn một công việc từ bi bác ái thể lý và tinh thần để thực thi. Hãy để cho kinh nguyện của thánh nữ Faustina soi sáng, thánh nữ là tông đồ lòng thương xót của Chúa trong thời đại chúng ta ngày nay:

 ”Lạy Chúa, xin giúp con làm cho đôi mắt con trở nên từ bi, làm sao để con không bao giờ nuôi dưỡng ngờ vực và không xét đoán theo những vẻ bề ngoài, nhưng biết nhận ra điều đẹp đẽ trong tâm hồn tha nhân và trợ giúp họ (..).

 Xin làm cho thính giác của con từ bi, để con cúi mình trên những nhu cầu của tha nhân, cho đôi tai con không dửng dưng đối với những đau khổ và tiếng rên xiết của tha nhân (..)

 Xin làm cho lưỡi con được từ bi và không bao giờ nói xấu người khác, nhưng có một lời an ủi và tha thứ đối với mỗi người (…).

 Xin làm cho đôi tay con từ bi và đầy những hành động tốt (..) cho đôi chân con từ bi, để con luôn chạy đến giúp đỡ tha nhân, chiến thắng sự lười biếng và mệt mỏi của con (…)

 Xin làm cho tâm hồn con từ bi, để con tham phần vào mọi đau khổ của tha nhân (Nhật ký 163).

 Vì thế sứ điệp Lòng thương xót của Chúa trở thành một chương trình sống rất cụ thể và yêu sách, vì bao hàm những công việc. Và một trong những công việc từ bi hiển nhiên nhất, nhưng có lẽ thuộc vào số những việc khó thực hành nhất, đó là tha thứ cho người đã xúc phạm tới chúng ta, người ta gây điều ác cho chúng ta, những người mà chúng ta coi là kẻ thù. ”Bao nhiêu lần tha thứ dường như là điều khó khăn dường nào! Nhưng tha thứ chính là dụng cụ được đặt trong bàn tay yếu đuối của chúng ta để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn. Từ bỏ sự oán hận, giận dữ, bạo lực và trả thù, chính là những điều kiện cần thiết để sống hạnh phúc” Dung mạo thương xót, 9).

 Tôi gặp bao nhiêu người trẻ nói mình mệt mỏi vì thế giới đang chia rẽ dường nào, trong đó các phe đụng độ nhau, bao nhiêu là chiến tranh, và có cả những kẻ dùng tôn giáo của mình để biện minh cho bạo lực. Chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta được từ bi thương xót với những kẻ làm điều ác cho chúng ta. Như Chúa Giêsu trên thánh giá đã cầu nguyện cho những kẻ đã đóng đinh Ngài: ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Con đường duy nhất để chiến thắng sự ác chính là lòng từ bi thương xót. Công lý là cần thiết, nhưng tự nó không đủ. Công lý và từ bi phải đi song đôi với nhau. Tôi mong ước dường nào cho tất cả chúng ta được hiệp nhất trong một kinh nguyện chung, từ thâm tâm chúng ta, khẩn cầu xin Chúa thương xót chúng ta và toàn thế giới!

 4. Cracovia đang chờ đợi chúng ta!

 Chỉ còn vài tháng nữa là đến cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Ba Lan. Cracovia, thành phố của thánh Gioan Phaolô 2 và thánh nữ Faustina Kowalska, đang chờ đợi chúng ta với vòng tay và con tim rộng mở. Tôi tin rằng Chúa Quan Phòng đã hướng dẫn chúng ta cử hành Năm Thánh giới trẻ tại đó, nơi hai vị đại tông đồ lòng thương xót của Chúa thời nay đã sống. Đức Gioan Phaolô 2 đã trực giác thấy rằng đây là thời đại của lòng thương xót. Vào đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài, ngài đã viết thông điệp ”Thiên Chúa giàu lòng xót thương”. Trong Năm Thánh 2000, ngài đã phong thánh cho nữ tu Faustina, và thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa, vào chúa nhật thứ hai Phục Sinh. Và năm 2002, ngài đã đích thân khánh thành tại Cracovia Đền thánh Chúa Giêsu Thương xót, phó thác thế giới cho lòng Thương Xót của Chúa và cầu mong sứ điệp này đi tới tất cả mọi người trên trái đất và được tràn đầy niềm hy vọng trong tâm hồn. Cần thông truyền cho thế giới ngọn lửa thương xót ấy. Trong lòng thương xót của Chúa, thế giới sẽ tìm được an bình, và con người tìm được hạnh phúc!” (Bài giảng lễ cung hiến Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa ở Cracovia, 17-8-2002).

 Các bạn trẻ rất thân mến, Chúa Giêsu thương xót, được họa trong bức ảnh mà dân Chúa tôn kính ở Đền thánh Cracovia dâng kính Ngài, đang chờ đợi các bạn. Chúa tín nhiệm và chờ đợi các bạn! Chúa có bao nhiêu là điều quan trọng để nói với mỗi người các bạn.. Đừng sợ ngắm nhìn đôi mắt đầy tình thương vô biên của Ngài đối với các bạn và hãy để cho cái nhìn thương xót của Chúa đi tới các bạn, Người sẵn sàng tha thứ tội lỗi của các bạn, một cái nhìn có khả năng thay đổi cuộc đời của các bạn và chữa lành những vết thương trong tâm hồn các bạn, một cái nhìn thỏa mãn khát vọng sâu xa trong tâm hồn trẻ trung của các bạn:

 ”Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!”. Các bạn hãy để cho lòng thương xót vô biên của Chúa đánh động để trở thành những tông đồ của lòng thương xót qua các công việc, lời nói và kinh nguyện, trong thế giới chúng ta bị thương vì lòng ích kỷ, oán thù và bao nhiêu điều tuyệt vọng. Hãy mang ngọn lửa tình thương xót của Chúa Kitô mà thánh Gioan Phaolô 2 đã nói, vào trong các môi trường đời sống thường nhật của các bạn và cho đến tận bờ cõi trái đất. Trong sứ mạng này, tôi tháp tùng các bạn bằng những lời cầu chúc và kinh nguyện, tôi phó thác tất cả các bạn cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Từ Bi thương xót, trong giai đoạn chót của hành trình chuẩn bị tinh thần cho Ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới tại Cracovia. Tôi thành tâm chúc lành cho tất cả các bạn.

 Vatican ngày 15 tháng 8 năm 2015

 Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời

 Phanxicô

 G. Trần Đức Anh OP, dịch từ nguyên bản tiếng Ý

Hài cốt thánh Têrêsa và song thân được trưng dịp Thượng HĐGM

Hài cốt thánh Têrêsa và song thân được trưng dịp Thượng HĐGM

Song thân của Thánh Teresa

ROMA. Suốt trong thời gian Thượng HĐGM thế giới sắp tới về gia đình, hài cốt thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và song thân sẽ được trưng bày tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma cho các tín hữu kính viếng.

Hôm 30-9-2015, Cha Antonio Sangalli, dòng Cát Minh, Phó Thỉnh nguyện viên án phong thánh cho song thân thánh Têrêsa, cho biết hài cốt 3 vị thánh sẽ được đặt tại Nhà nguyện Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma (Salus Populi Romani) ở Đền thờ Đức Bà Cả, từ ngày 4 đến 25-10 là thời gian nhóm Thượng HĐGM thế giới thứ 14 về gia đình.

Song thân của thánh nữ Têrêsa, ông bà chân phước Louis Martin và Zélie Guérin, sẽ được ĐTC Phanxicô tôn phong hiển thánh sáng chúa nhật 18-10-2015, đầu thánh lễ tại Quảng trường thánh Phêrô. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, một đôi vợ chồng không tử đạo, được phong hiển thánh cùng nhau. Thật là một ý nghĩa lớn khi ĐTC phong hiển thánh cho hai vị trong khuôn khổ Thượng HĐGM về gia đình.

Cha Sangalli nói: ”Ông bà Louis và Zélie đã chứng tỏ bằng cuộc sống rằng tình yêu vợ chồng là một dụng cụ nên thánh, là con đường dẫn đến sự thánh thiện được hai người cùng nhau thực hiện. Theo tôi, đây là yếu tố quan trọng nhất để lượng định giá đình ngày nay. Có một nhu cầu rất lớn về một linh đạo đơn sơ được thực hiện trong đời sống thường nhật”.

Cả việc trưng bày thánh tích các vị thánh ấy ở Đền thờ Đức Bà Cả cũng có một ý nghĩa đặc biệt, vì trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma mà ĐTC Phanxicô rất tôn kính, ngài đã cầu xin Đức Mẹ ban nhiều thành quả cho Thượng HĐGM này và cho tất cả các gia đình trên thế giới”.

Các tín hữu có thể kính viếng thánh tích trong giờ mở cửa bình thường của Đền thờ Đức Bà Cả, mỗi ngày từ 7 giờ sáng đến 19 giờ tối (SD 30-9-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Vô Gia Đình – Hector Malot – Hà Mai Anh dịch

Vô Gia Đình – Hector Malot – Hà Mai Anh dịch
PHẦN THỨ NHẤT
CHƯƠNG I
LÀNG TÔI

VoGiaDinh

 


Tôi là một đứa trẻ bỏ rơi.
Nhưng cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có một người mẹ như những đứa trẻ khác, vì lúc nào tôi khóc thì lại có một bà đến ôm ấp, dỗ dành cho tôi nín.
Không bao giờ tôi đi ngủ lại không có bà đến vuốt ve tôi. Về mùa đông, khi gió gieo tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà kéo chân tôi ủ vào hai bàn tay bà và ru tôi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ giọng hát và câu hát của bà.
Khi tôi chăn bò trên những con đường cỏ xanh hay ở bãi hoang mà chợt gặp mưa to, bà vội vã chạy ra đón, kéo vạt áo che đầu cho tôi và đưa tôi về.
Khi tôi cãi nhau với một đứa trẻ khác, bà bảo tôi kể lại cho bà nghe rồi bà tìm lời ngọt dỗ tôi và bao giờ cũng cho tôi là phải.

Vô Gia Đình

Lớp Sáu (2015-2016): Bài Học 01

TỪ VÀ CẤU TẠO CỦA TỪ TIẾNG VIỆT

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Từ và đơn vị cấu tạo từ

1. 1. Lập danh sách các từ và các tiếng trong các câu sau:

 Thần / dạy / dân / cách / trồng trọt, / chăn nuôi / và / cách / ăn ở.

                                                                                      (Con Rồng cháu Tiên)

Tiếng

Thần

dạy

dân

cách

trồng

trọt

chăn

nuôi

cách

ăn

Từ

Thần

dạy

dân

cách

trồng trọt

chăn nuôi

cách

ăn ở

 

 

 

 

Các dấu gạch chéo là dấu hiệu lưu ý về ranh giới giữa các từ. Như vậy, có từ chỉ gồm một tiếng, có từ lại gồm hai tiếng.


Bài Học 01: Bài Hát “Cho Con”

1.1 Giới Thiệu:

               Bài hát “Cho Con” của ca nhạc sĩ  Phạm Trọng Cầu được nhiều người biết đến nhờ lời ca trong sáng và giai điệu nhẹ nhàng.  Nội dung của tác phẩm thích hợp cho thiếu nhi và cũng tương đối dễ hát.  Trong phần sau, chúng tôi sẽ dùng các họa đồ cùng hình ảnh minh họa để diễn tả nội dung và sự liên hệ giữa các nhân vật trong câu chuyện.  Cuốn sách này cũng có kèm theo một bộ DVD với bài “Cho Con” do nhóm ca sĩ Cao Thái Sơn trình bày.  Bài hát được đặt dưới dạng Power Point và chiếu thành một phim minh họa.  Các em học sinh có thể tập hát cho đến khi thuộc lòng.  Sau đó các em ngưng không nhìn lên màn ảnh để có thể hát không cần xem tài liệu. Trong khi học bài hát này, các em hãy quan sát và suy nghĩ về các nhân vật và sự việc trong mối liên hệ như thế nào với nhau.  Nếu thấy các chữ khó, các em có thể nhờ thầy cô hay phụ huynh giúp.  Các em cũng có thể tự tra cứu theo tự điển tiếng Việt-Việt hoặc Việt-Anh.

 

1.5.3 Trò Chơi

               Hãy dùng các vật liệu được cho sau đây để điền vào họa đồ sao cho nó có ý nghĩa.

1) Đất đai

2) Con người

3) Văn hóa

4) nuôi dưỡng

5) đóng góp vào

6) ảnh hưởng

7) phát triển và bảo vệ

8) Quê Hương

 

Trò Chơi - Điền Vào Chỗ Trống