Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Các Kitô hữu không phải là nô lệ của những lề luật

Những người cứng nhắc thì sợ tự do mà Thiên Chúa ban, họ sợ yêu mến. Kitô hữu là nô lệ của tình yêu mến, chứ không nô lệ cho lề luật. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

“Chúc tụng Chúa đi!” là lời ca khen của tác giả Thánh Vịnh 103 dâng lên Thiên Chúa vì những kỳ công vĩ đại. Chúa Cha làm nên biết bao điều kỳ diệu với công trình sáng tạo. Chúa Con thực hiện công trình cứu chuộc lạ lùng. Khi một trẻ thơ hỏi Thiên Chúa rằng vì sao Ngài tạo nên thế giới, thì Chúa sẽ nói “vì yêu mến”.

Hãy mở rộng cõi lòng, đừng cậy dựa vào các điều luật

Tại sao Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ này? Đơn giản vì Ngài chia sẻ chính sự toàn hảo của chính Ngài. Và trong cuộc tái tạo, Thiên Chúa sai chính Con Một tới để làm cho những gì đã bị xấu đi  – trở lại đẹp đẽ, những gì sai lỗi – trở về đúng đắn, những gì tệ hại – trở về tốt lành.

Khi Chúa Giêsu nói: “Cha tôi hằng làm việc, thì tôi cũng làm việc”, các luật sĩ cảm thấy chướng tai gai mắt và muốn giết Chúa. Tại sao? Bởi vì họ không thể đón nhận những gì từ Thiên Chúa như là quà tặng. Đối với họ, chỉ có công thẳng mà thôi, vì họ chỉ dựa vào các điều luật. Thay vì mở lòng đón nhận những quà tặng từ Thiên Chúa, họ lại khép kín vào những luật lệ, có lẽ 500 điều luật, có lẽ còn hơn… Họ không biết nhận ơn lành của Thiên Chúa. Có những món quà chỉ nhận được khi có tự do mà thôi. Thế mà họ lại sợ tự do Thiên Chúa ban, họ sợ tình yêu mến.

Kitô hữu làm nô lệ cho tình yêu, chứ không nô lệ cho lề luật

Đó là lý do hôm nay chúng ta ca tụng Chúa Cha: “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng! Con yêu mến Ngài quá đỗi, vì biết bao ơn lành Ngài đã ban. Ngài đã cứu độ con, Ngài đã dựng nên con.” Đó là lời cầu nguyện chúc tụng ngợi khen, đó là lời nguyện của niềm vui sướng. Lời nguyện ấy đem lại cho chúng ta niềm vui của đời sống người Kitô.

Có những Kitô hữu rất buồn chán vì họ đóng cửa tâm hồn, vì họ không bao giờ biết đón nhận quà tặng của Thiên Chúa, vì họ sợ tự do là điều luôn đi kèm cùng quà tặng. Những người như thế chỉ biết có luật lệ và bổn phận, những bổn phận đóng khung. Làm như thế là làm nô lệ cho lề luật, và không có tình yêu mến. Trái lại, khi làm nô lệ cho tình yêu mến, bạn có tự do. Đó là điều thật tuyệt!

Làm thế nào để nhận được ơn cứu độ

Có những người đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và sống như Chúa Giêsu, Con Một Chúa Cha, trong tình yêu mến, trong sự hiền từ và trong tự do. Nhưng cũng có những người nép mình trong cái khung khép kín của những lề luật; họ có vẻ an toàn, càng nhiều luật lệ càng có vẻ an toàn hơn, mà kỳ thực thì không có tự do, không có niềm vui.

Có hai công trình của Thiên Chúa. Đó là công trình sáng tạo và công trình cứu chuộc. Mỗi người chúng ta có thể tự hỏi lòng mình: Làm thế nào để sống cách tuyệt vời hai công trình kỳ diệu ấy? Nguyện xin Chúa giúp chúng ta hiểu được những điều vĩ đại mà Ngài đã làm khi sáng tạo vũ trụ vì tình yêu mến! Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình yêu của Ngài, để ngày hôm nay chúng ta có thể cùng nhau thưa lên: “Lạy Chúa, Ngài thật tuyệt vời biết bao! Xin tạ ơn Ngài, xin cám ơn Ngài!”

Tứ Quyết SJ

Là ánh sáng và muối ngăn chặn hư thối trong cộng đoàn và xã hội

Là ánh sáng và muối ngăn chặn hư thối trong cộng đoàn và xã hội

Chúng ta tất cả đều được mời gọi là ánh sáng và là muối trong môi trường sống thường ngày, bằng cách kiên trì trong nhiệm vụ làm cho thực tại con người tái sinh trong tinh thần của Tin Mừng, trong viễn tượng của Nước Thiên Chúa, và bằng cách đẩy xa các yếu tố gây ô nhiễm như ích kỷ, ghen tương, nói xấu là những thứ làm hư thối các cộng đoàn của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật hôm qua, cũng là Chúa Nhật bảo vệ sự sống tại Italia về đề tài “Các ngưởi nam nữ bảo vệ sự sống theo vết chân của thánh Têrêxa Calcutta”

Trong bài huấn dụ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật trích từ Diễn văn Các Phúc Thật, trong đó Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ thuộc mọi thời đại, bao gồm cả chúng ta nữa, chu toàn sứ mệnh của mình là ánh sáng và là muối giữa trần gian. Ngài nói:

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta là một phản chiếu ánh sáng của Ngài, qua chứng tá của các việc lành. Chúa nói: “Ánh sáng của các con cũng phải rạng ngời trước loài người như thế, để họ trông thấy các việc làm tốt lành của các con và vinh danh Thiên Chúa Cha của các con ở trên trời” (Mt 5,16). Các lời này nhấn mạnh rằng từ các việc lành của mình chúng ta có thể được nhận biết như các môn đệ đích thật của Đấng là Ánh Sáng trần gian, không phải trong lời nói mà từ các việc làm của chúng ta. Thật thế, nhất là cung cách hành xử của chúng ta – trong điều thiện và trong điều ác – để lại một dấu vết nơi tha nhân. Như vậy, chúng ta có một bổn phận và một trách nhiệm đối với ơn đã nhận lãnh: ánh sáng của đức tin ở trong chúng ta qua Chúa Kitô và hoạt động của Chúa Thánh Thần, chúng ta không được giữ nó lại như thể là của riêng mình. Trái lại, chúng ta được mời gọi làm cho nó toả sáng lên trong thế giới, và trao nó cho những người  khác, qua các công việc làm tốt lành. Và thế giới cần tới ánh sáng của Tin Mừng biết bao nhiêu: ánh sáng biến đổi, chữa lành và bảo đảm ơn cứu độ cho ai tiếp nhận nó! Ánh áng này chúng ta phải đem theo với các việc lành của chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Ánh sáng đức tin, trong khi cho đi, không bị tắt, nhưng được củng cố. Trái lại, nó có thể suy giảm, nếu chúng ta không dưỡng nuôi nó với tình yêu thương và các việc bác ái. Như thế, hình ảnh của ánh sáng gặp gỡ hình ảnh của muối.  Thật vậy, trang Tin Mừng nói với chúng ta như là môn đệ của Chúa Kitô rằng chúng ta cũng là “muối của đất” (c. 13). Muối là một yếu tố, ban hương vị, giúp duy trì thực phẩm khỏi hư thối, và vào thời Chúa Giêsu đã không có các tủ lạnh.  ĐTC giải thích thêm như sau:

Vì thế, sứ mệnh của các kitô hữu trong xã hội là trao ban hương vị cho cuộc sống với đức tin và tình yêu thương, mà Chúa Kitô đã ban cho chúng ta, đồng thời  giữ xa các mầm giống gây ô nhiễm của ích kỷ, ghen tuơng, nói xấu nói hành vv. Các mầm giống này làm hư hỏng cuộc sống các cộng đoàn của chúng ta, là các cộng đoàn, trái lại, phải bừng sáng  lên như các nơi của sự tiếp đón, của tình liên đới và của sự hoà giải. Để chu toàn sứ mệnh này chúng ta cần là những người đầu tiên được giải thoát  khỏi sự suy đồi thối nát của các ảnh hưởng thế tục, ngược lại với Chúa Kitô và Tin Mừng; và việc thanh tẩy này không bao giờ kết thúc, nhưng được làm một cách liên tục, được làm mỗi ngày.

Từng người trong chúng ta được mời gọi là ánh sáng và là muối trong môi trường sống thường ngày, bằng cách kiên trì trong nhiệm vụ làm cho thực tại con người tái sinh trong tinh thần của Tin Mừng, trong viễn tượng của Nước Thiên Chúa. Xin sự che chở hiền mẫu của Mẹ Maria Rất Thánh luôn trợ giúp chúng ta, Mẹ là môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu và là mẫu gương của các tín hữu, mỗi ngày sống ơn gọi và sứ mệnh của mình trong  lịch sử. Xin Mẹ của chúng ta giúp chúng ta luôn luôn để cho Chúa thanh tẩy và soi sáng, để tới lượt mình chúng ta trở thành  “muối đất” và “ánh sáng trần gian”.

Tiếp đến DTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới “Ngày bảo vệ sự sống” tại Italia về đề tài “Các người nam nữ bảo vệ sự sống noi gương thánh Terexa Calcutta”. Ngài nói: tôi xin hiệp nhất với các Giám Mục Italia trong việc cầu mong có một hành động can đảm giáo dục bảo vệ sự sống. Mỗi một sự sống đều thánh thiêng. Chúng ta hãy làm cho nền văn hóa sự sống  tiến lên như câu trả lời cho cái luận lý gạt bỏ và cho việc suy giảm dân số. Chúng ta hãy gần gũi và cùng cầu nguyện cho các trẻ em đang ở trong hiểm nguy của việc ngưng mang thai, cũng như cho các người đang ở giai đoạn sau cùng của cuộc sống – mọi sự sống đều thánh thiêng – để đừng có ai bị bỏ cô đơn một mình, và để tình yêu bênh vực ý nghĩa cuộc sống. Chúng ta hãy nhớ tới lời mẹ Têrexa: “Sư sống là vẻ đẹp, bạn hãy hâm mộ nó; sự sống là sự sống, hãy bênh vực nó!” dù là với trẻ em đang lớn lến, hay với người gần chết: mọi sự sống đều thánh thiêng!

Tôi xin chào tất cả những ai đang hoạt động cho sư sống, các giáo sư các đại học Roma, và những ai cộng tác vào việc đào tạo các thế hệ mới, để họ có khả nằng xây dựng một xã hội tiếp đón và xứng đáng với mọi người.

ĐTC cũng chào các tín hữu hành hương, các nhóm giao xứ và hội đoàn đến từ nhiều nước khác nhau trong đó có các tín hữu các giáo phận Vienne, Granada, Melitta, Acquaviva delle Fonti tỉnh Bari, và các sinh viên  Penafiel Bồ Đào Nhà và Badajoz Tây Ban Nha.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha tiếp 1,100 doanh nhân ”kinh tế và hiệp thông”

Đức Thánh Cha tiếp 1,100 doanh nhân ”kinh tế và hiệp thông”

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 4-2-2017, ĐTC đã tiếp kiến và khích lệ 1.100 doanh nhân từ 49 quốc gia, đang thực thi nền ”kinh tế và hiệp thông”.

Nền kinh tế này được khởi xướng cách đây 25 năm do chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào ”Focolare” (Tổ Ấm), đứng trước những chênh lệch quá lớn mà chị nhận thấy tại thành phố São Paolo, Brazil. Theo nền kinh tế này, các doanh nhân trở thành những tác nhân hiệp thông: doanh nghiệp không những có thể không phá hủy sự hiệp thông giữa con người với nhau, nhưng còn xây dựng và thăng tiến tình hiệp thông đó.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cập đến 3 đề tài là tiền bạc, nghèo đói và sau cùng là hiệp thông và doanh nghiệp.

– Ngài nhận xét rằng ”tiền bạc là quan trọng nhất là khi không có và lương thực, trường học, tương lai con cái tùy thuộc tiền bạc, nhưng nó trở thành thần tượng khi trở thành cứu cánh. Sự hà tiện là tội tôn thờ thần tượng tiền bạc, vì sự tích trữ tiền bạc cho mình trở thành mục tiêu hoạt động của mình. Khi chế độ tư bản biến việc tìm kiếm lợi tức thành mục tiêu duy nhất của nó, thì nó có nguy cơ trở thành một hình thức thờ phượng.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC đề cao nền kinh tế hiệp thông đặt lợi tức làm của chung. Ngài nói: ”Cách thức tốt nhất và cụ thể nhất để không biến tiền bạc thành thần tượng là chia sẻ nó với tha nhân, nhất là với người nghèo, hoặc giúp người trẻ học hành và làm việc, vượt thắng cám dỗ thần tượng bằng tình hiệp thông. Khi anh chị em chia sẻ và trao tặng những lợi tức của mình, tức là anh chị em đang thực hiện một cử chỉ linh đạo cao độ, qua những cử chỉ anh chị em nói với tiền bạc rằng: mày không phải là Thiên Chúa”.

– ĐTC cũng ca ngợi nỗ lực vượt thắng nghèo đói như một đề tài trung tâm của Phong trào kinh tế hiệp thông. Ngài ghi nhận ngày nay có nhiều sáng kiến và phương thế để khắc phục nghèo đói, kể cả các thứ thuế được đề ra trong tinh thần liên đới. Tinh thần liên đới này bị phủ nhận bằng sự trốn thuế. Hành vi trốn thuế trước tiên là điều bất hợp pháp, và nó cũng là sự phủ nhận qui luật căn bản của cuộc sống, đó là tương trợ nhau.

ĐTC nhận xét rằng chế độ tư bản tiếp tục tạo nên những người bị gạt ra ngoài lề.. Vấn đề luân lý đạo đức chính của chế độ tư bản như thế là tạo ra những người bị gạt bỏ để rồi tìm cách giấu kín họ hoặc săn sóc họ để người ta không còn thấy họ nữa. Một hình thức nghèo trầm trọng của một nền văn minh là không còn nhìn thấy những người nghèo của mình nữa, trước đó người nghèo bị gạt bỏ và rồi bị giấu kín đi.

ĐTC kêu gọi ”không những giúp đỡ người nghèo, cứu chữa những người gặp nạn, nhưng còn phải làm sao để phòng ngừa để họ đừng trở thành nạn nhân. Nhất là cần hành động trước khi con người bị kẻ cướp tấn công và bóc lột, cần bài trừ những cơ cấu tội lỗi tạo ra những kẻ cướp và nạn nhân. Một doanh nhân chỉ là người samaritano nhân lành thì họ thi hành một nửa bổn nhận của mình: họ săn sóc các nạn nhân ngày nay, nhưng không giảm bớt các nạn nhân ngày mai”.

– Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng ”Từ 25 năm nay, anh chị em nói: hiệp thông và doanh nghiệp có thể sống chung và cùng tăng trưởng. Kinh nghiệm của anh chị em hiện nay chỉ giới hạn vào một số nhỏ các doanh nghiệp, rất nhỏ bé, so với đại tư bản trên thế giới. Nhưng cuộc chiến thuộc lãnh vực tinh thần và trong lãnh vực đời cuộc sống không lệ thuộc số nhiều. Một đoàn chiên nhỏ, một đồng tiền, một con chiên, một hạt ngọc trai, muối, men, là những hình ảnh về Nước Trời chúng ta gặp trong các sách Phúc Âm… Không cần đông người để thay đổi cuộc sống chúng ta, chỉ cần muối và men không bị biến chất.. Mỗi khi cá nhân, dân tộc và thậm chí cả Giáo Hội nghĩ đến việc cứu độ trần thế bằng cách gia tăng số lượng, thì họ kiến tạo những cơ cấu quyền lực mà quên đi người nghèo. Chúng ta hãy cứu vãn nền kinh tế chúng ta, bằng cách tiếp tục là muối và men;.. Cần làm sao để không đánh mất nguyên lý tác động, là men của tình hiệp thông, bằng cách chia sẻ” (SD 4-2-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Chúa Giêsu ngắm nhìn chúng ta, mỗi người chúng ta

Nếu chúng ta kiên trì nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ ngạc nhiên khám phá ra rằng Người luôn quan sát mỗi người chúng ta với lòng yêu thương. Đó là ý tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng Thánh lễ kính thánh Gioan Bosco tại nhà nguyện thánh Marta.

Chúa Giêsu không nhìn đám đông cách chung chung. Ngài nhìn mỗi người

Đức Thánh Cha chú giải đoạn thư gửi tín hữu Do thái, trong đó tác giả mời gọi chúng ta “kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” Ngài cũng giải thích bài Tin Mừng rằng chính Chúa Giêsu nhìn chúng ta và nhận thấy chúng ta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu ở gần chúng ta, “Người luôn ở giữa đám đông.” “Không phải là với những vệ sĩ bảo vệ cho Người, để cho đám đông không thể chạm vào Người. Không! Người ở đó và đám đông bao lấy Người. Mỗi khi Người xuất hiện, có một đám đông lớn. Các chuyên gia thống kê có lẽ có thể xuất bản ‘Sự nổi tiếng của Thầy Giêsu đang giảm đi’… Nhưng Chúa Giêsu tìm kiếm điều khác: Ngài tìm dân chúng. Và dân chúng tìm Ngài: dân chúng dán mắt vào Ngài và Ngài dán mắt vào dân chúng. ‘Đúng, vào dân chúng, vào đám đông’ – ‘không, vào mỗi người!’ Đây là điểm đặc biêt của cái nhìn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không nhìn đám đông chung chung: Ngài nhìn mỗi người.”

Chúa Giêsu quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta

Tin Mừng thánh Marco thuật lại 2 phép lạ. Thứ nhất, Chúa Giêsu chữa người đàn bà bị băng huyết 12 năm trời. Giữa đám đông, bà đã có thể chạm được áo choàng của Ngài. Và Chúa Giêsu đã nhận ra có người chạm vào Ngài. Thứ hai, Chúa Giêsu làm cho bé gái 12 tuổi con ông Giairô sống lại. Người nhận ra cô bé đang đói và yêu cầu cha mẹ cho cô ăn. Đức Thánh Cha nhận xét: “Cái nhìn của Chúa Giêsu đến với điều lớn lao cũng như nhỏ bé. Ngài nhìn ngắm tất cả: nhìn ngắm tất cả chúng ta, nhưng nhìn mỗi người chúng ta. Ngài quan sát những vấn đề nghiêm trọng, niềm vui to lớn của chúng ta, và cũng ngắm nhìn những chuyện nhỏ bé của chúng ta. Bởi vì Người gần chúng ta. Chúa Giêsu không sợ hãi những điều to lớn nhưng cũng để ý đến những điều nhỏ bé. Chúa Giêsu nhìn chúng ta như thế.”

Sự kinh ngạc khi gặp gỡ Chúa Giêsu

Đức Thánh Cha khẳng định rằng nếu chúng ta chạy “với sự kiên trì và mắt hướng nhìn về Chúa Giêsu”, thì sẽ xảy đến với chúng ta những điều xảy ra với dân chúng sau khi con gái ông Giairo đã sống lại, đó là “họ đầy kinh ngạc.” Ngài giảng giải thêm: “Tôi đi, nhìn ngắm Chúa Giêsu, tôi tiến bước, ngắm nhìn Chúa Giêsu và tôi tìm thấy điều gi? Ngươi đang ngắm nhìn tôi! Điều này làm cho tôi kinh ngạc vô cùng. Sự kinh ngạc khi gặp Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta đừng sợ hãi! Chúng ta không sợ hãi như người đàn bà đi đến sờ vào áo choàng của Người. Chúng ta đừng sợ! Chúng ta chạy trên con đường này. Luôn luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu. Và chúng ta sẽ có sự ngạc nhiên tốt đẹp này, chúng ta sẽ tràn đầy sự ngạc nhiên: chính Chúa Giêsu ngắm nhìn tôi.” (SD 31/01/2017)

Hồng Thủy

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Thiên Chúa cứu thoát chúng ta trong cách thế của Ngài

Cũng giống như bà Giuđitha chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần sáng thứ tư trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã nhắc tới bà Giuđitha, một nữ anh hùng vĩ đại giữa các gương mặt phụ nữ nổi bật của lịch sử dân Do thái. Sách Giuđitha kể lại cuộc chinh phục quân sự của vua Nabucodonosor cai trị Ninive, trải rộng biên giới của đế quốc bằng cách chiến thắng và bắt các dân tộc chung quanh thần phục mình. Người đọc hiểu ngay rằng mình đang đứng trước một kẻ thù lớn không thể chiến thắng được, đang gieo vãi chết chóc tàn phá, đang đi cho tới Đất Hứa, và khiến cho cuộc sống của con cái Israel gặp hiểm nguy.

Thật thế, dưới sự lãnh đạo của tướng Hôlôphécnê, đạo binh của vua Nabucodonosor đang bao vây một thành phó vùng Giudea là Betula, bằng cách cắt đứt việc tiếp tế nước, và làm suy yếu sự kháng cự của dân. ĐTC cho thấy thảm cảnh của dân thành Betulia như sau:

Tình hình thê thảm đến độ dân thành xin với các kỳ mục đầu hàng quân địch. Các lời của họ tuyệt vọng: “Vì thế, giờ đây chẳng có ai đến cứu giúp chúng tôi. Trái lại, Thiên Chúa đã bán đứng chúng tôi vào tay chúng, khiến chúng tôi phải phơi xác trước mặt chúng, phải chết khát và bị tận diệt.” Họ đi đến chỗ nói điều này: “Thiên Chúa đã bán đứt chúng ta rồi”; Nỗi tuyệt vọng nơi dân chúng rất lớn. Họ nói với các thủ lãnh: “Vậy các ông hãy gọi ngay chúng lại và trao nộp thành cho dân của Hô-lô-phéc-nê và cho toàn thể đạo quân của ông tha hồ cướp phá” (Gđ 7,25-26). Kết cục xem ra không thế tránh được, khả năng tín thác nơi Thiên Chúa đã cạn kiệt. Khả năng tín thác nơi Thiên  Chúa đã cạn kiệt. Và biết bao lần chúng ta đi tới các tình trạng tận cùng trong đó chúng ta cũng không còn cảm thấy khả năng tin tưởng nơi Chúa nữa. Đây là một cám dỗ xấu! Và một cách mâu thuẫn, xem ra là để thoát chết, chỉ còn cách tự nộp mình vào tay kẻ giết mình. Họ biết rằng các binh sĩ này sẽ vào cướp bóc thành phố, để bắt các phụ nữ làm nô lệ, và giết chết tất cả mọi người khác. Đây chính là “sự tận cùng”.

** ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Và trước biết bao tuyệt vọng như thế, thủ lãnh dân thử đề nghị một yểm trợ hy vọng: kháng cự trong vòng 5 ngày nữa, và chờ đợi sự can thiệp cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng đó là một hy vọng yêu ớt, khiến cho ông kết luận rằng: “Nếu những ngày ấy trôi qua mà chẳng ai đến cứu giúp, tôi sẽ làm theo lời anh em” ( Gđt 7,31). Tội nghiệp cho con người: không có lối thoát. Năm ngày được cho Chúa để can thiệp; và tội lỗi chính là đây; năm ngày được dành cho Thiên Chúa để can thiệp, năm ngày chờ đợi, nhưng với viễn tượng của cái chết. Họ cho Chúa năm ngày để cứu họ, nhưng họ biết họ không tin tưởng, họ chờ đợi điều tồi tệ nhất. Trên thực tế, không còn ai nữa trong dân còn có khả năng hy vọng. Họ đã tuyệt vọng.

Chính trong tình trạng như thế bà Giuđitha xuất hiện trên sân khấu. Là một phụ nữ goá bụa rất xinh đẹp và khôn ngoan bà ngỏ lời  với dân chúng trong ngôn ngữ của lòng tin. Bà can đảm quở trách dân chúng thẳng mặt và nói: “Các vị muốn thử thách Thiên Chúa toàn năng… Quả thật, đối với các vị, tâm khảm con người đã khôn dò, suy tưởng con người đã khôn thấu, thì làm sao các vị có thể hiểu được Thiên Chúa, Đấng làm nên mọi sự, làm sao hiểu được tư tưởng và thấu suốt được dự tính của Người? Không, nhất định không, thưa anh em, đừng chọc giận Chúa, Thiên Chúa chúng ta. Giả như trong năm ngày ấy, Người không muốn cứu giúp chúng ta, thì vào những ngày Người muốn, Người vẫn thừa sức bảo vệ chúng ta hoặc tiêu diệt chúng ta trước mặt kẻ thù… Vì thế, một khi chúng ta kiên nhẫn đợi chờ Người cứu độ và kêu cầu Người đến cứu giúp, Người sẽ đoái nghe lời chúng ta, nếu điều ấy đẹp lòng Người” (Gđt 8,13.14-15.17). Đó là ngôn ngữ của niềm hy vọng. Chúng ta hãy gõ cửa con tim Thiên Chúa. Ngài là Cha, Ngài có thể cứu thoát chúng ta. Người phụ nữ goá bụa này cũng có nguy cơ bị xấu mặt trước những người khác! Nhưng bà can đảm! Bà tiến tới! Đây là một ý kiến của tôi: các phụ nữ can đảm hơn nam giới – Tín hữu vỗ tay tán đồng.

Và với sức mạnh của một ngôn sứ bà Giuđitha kêu gọi mọi người trong dân để đưa họ trở lại với lòng tin tưởng nơi Thiên  Chúa; với cái nhìn của một ngôn sứ bà trông thấy xa hơn chân trời chật hẹp của các thủ lãnh và sự sợ hãi còn khiến cho nó hẹp hơn nữa. Bà khẳng định: chắc chắn Thiên Chúa sẽ hành động, trong khi đề nghị chờ đợi năm ngày là một kiểu để thử thách Ngài và để tránh ý muốn của Ngài. Chúa là Thiên Chúa của việc cứu độ – và bà tin vào điều đó – bất kỳ nó xảy ra trong hình thức nào. Là ơn cứu độ giải thoát khỏi thù địch và làm cho sống, nhưng trong các chương trình khôn dò của Ngài, có thể là cứu độ cả việc nộp mình cho cái chết. Là phụ nữ của đức tin, bà biết điều đó. Thế rồi chúng ta biết kết cục, như câu chuyện kết thúc: Thiên Chúa cứu. ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

** Anh chị em thân mến,  chúng ta đừng bao giờ đặt các điều kiện cho Thiên Chúa, nhưng hãy để cho niềm hy vọng chiến thắng các sợ hãi của chúng ta. Tín thác nơi Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong các chương trình của Ngài mà không yêu sách, và cả chấp nhận rằng ơn cứu độ và sự trợ giúp của Chúa đến với chúng ta trong cách thức khác với các chờ mong của chúng ta. Chúng ta xin Chúa sự sống, sức khoẻ, tình thương mến, hạnh phúc. Và thật đúng đắn làm điều ấy, nhưng trong ý thức rằng Thiên Chúa biết rút ra sự sống từ cả cái chết, rằng chúng ta có thể sống kinh nghiệm sự bình an cả trong bệnh tật, và rằng có thể thanh thản cả trong cô đơn, và hạnh phúc cả trong khóc lóc. Không phải chúng ta có thể dậy cho Thiên Chúa điều Ngài phải làm, điều chúng ta cần. Ngài biết hơn chúng ta và chúng ta phải tín thác, bởi vì các con đường và các tư tưởng của Ngài khác với các con đường và các tư tưởng của chúng ta.

Con đường của bà Giuđitha chỉ cho chúng ta là con đường của sự tin tưởng, của việc chờ đợi trong an bình, của lời cầu nguyện và của sự vâng phục. Đó là con đường của niềm hy vọng. Không có các chịu trận dễ dàng, bằng cách làm tất cả những gì trong các khả năng của chúng ta, nhưng luôn luôn ở lại trong luống cầy ý muốn của Chúa. Và tại sao chúng ta biết?:  bà đã cầu nguyện biết bao, bà đã nói với dân biết bao và rồi, can đảm và ra đi, bà đã tìm cách tới gần tướng chỉ huy đạo binh, và thành công trong việc chặt đầu ông ta. Bà can đảm trong đức tin và trong các hoạt động. Và bà luôn luôn kiếm tìm Chúa! Thật vậy bà Giuđitha có một chương trình của bà, bà hoàn thành nó một cách thành công, và đưa dân tới chiến thắng, nhưng luôn luôn trong thái độ của đức tin của người chấp nhận tất cả từ tay Thiên Chúa, chắc chắn về lòng lành của Ngài.

Như vậy, một phụ nữ đầy lòng tin và can đảm sẽ trao ban trở lại cho dân chúng đang gặp nguy hiểm chết chóc sức mạnh và dẫn họ đi trên các nẻo đường của niềm hy vọng, bằng cách chỉ chúng cho cả chúng ta nữa. Và chúng ta, nếu chúng ta có một chút ký ức: có biết bao lần chúng ta đã nghe các lời khôn ngoan, can đảm, từ những người khiêm tốn, từ những phụ nữ khiêm tốn mà một người nghĩ rằng – tuy không khinh rẻ họ – là những người dốt nát… Nhưng đó là các lời của sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Các lời nói của các bà nội bà ngoại. Có biết bao lần các bà nội bà ngoại biết nói lời đúng đắn, lời của niềm hy vọng, bởi vì các ngài có kinh nghiệm cuộc sống, đã đau khổ nhiều, các ngài đã tín thác nơi Thiên Chúa, và Chúa ban ơn này để các ngài cho lời khuyên hy vọng.

Và khi bước đi trên các con đường ấy sẽ là niềm vui và ánh sáng phục sinh tín thác nơi Chúa với các lời của Chúa Giêsu: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin hãy cho chén này xa con. Nhưng không phải theo ý con mà theo ý Cha” (Lc 22,42). Và đó là lời cầu nguyện của sự khôn ngoan, tin tưởng và niềm hy vọng

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt tín hữu giáo phận Arras. Ngài nói: hôm nay chúng ta kính nhớ lễ thánh Phaolô hoán cải.Thánh nhân mời gọi chúng ta để cho Chúa Thánh Thấn hướng dẫn. Xin thánh nhân giúp chúng ta lớn lên trong sự tin tưởng nơi sự Quan phòng của Thiên Chúa và trở thành các chứng nhân của niềm hy vọng.

Chào các đoàn hành hương nói tiếng Anh đến từ Hoa Kỳ, trong bối cảnh của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu ngài đặc biệt chào các sinh viên của học viện đại kết Bossey và ca đoàn đan viện Westminster Anh quốc, và cám ơn lời ca tiếng hát của họ. Ngài xin Thiên  Chúa ban chọ họ và gia đình họ niềm vui và sự an bình.

Với các nhóm nói tiếng Đức ĐTC nói bà Giuđitha là phụ nữ của niềm tin và lòng can đảm được công bố là “có phúc trước mặt Thiên Chúa hơn mọi phụ nữ” (Gđt 13,18). Bà nhắc nhớ Trinh nữ diễm phúc Maria, Mẹ Chúa Kitô và mẹ của niềm hy vọng. Nơi Mẹ chúng ta hãy học bước đi trên các nẻo đường hy vọng và tín thác nơi Chúa là Đấng dẫn chúng ta từ bóng tối tới sự sáng phục sinh.

Chào các nhóm nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt là các tín hữu Brasil, ngài nói nếu họ biết hát bài thánh ca chúc tụng Đức Bà Aparecida thì có thể hát. Tôi mời gọi anh chị em trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Chúa thách đố chúng ta ra khỏi thế giới bé nhỏ chật hẹp của mình để tiến tới Nước của Thiên Chúa và của sự tụ do đích thực. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng anh chị em để anh chị em đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho mọi người.

ĐTC cũng chào các nhóm nói tiếng Ý, đặc biệt các bề trên tỉnh dòng Anh em hèn mọn, hiệp hội cảnh sát Caserta, và huynh đoàn thánh Stefano Rieti. Ngài khích lệ mọi người trung thành với Chúa Kitô để niềm vui Phúc Âm có thể rạng ngời trong xã  hội.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc tới lễ kính thánh Phaolô trở lại. Ước chi gương mặt của thánh nhân trở thành mẫu gương cuộc sống môn đệ cho các bạn trẻ. ĐTC mời gọi các bệnh nhân dâng hy sinh khổ đau cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô. Ngài nhắn nhủ các đôi tân hôn noi gương thánh nhân dành chỗ nhất cho Thiên Chúa và cho tình yêu trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người

Linh Tiến Khải

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày Thế giới Truyền thông thứ 51

VATICAN. Trong sứ điệp nhân Ngày Thế Giới truyền thông công bố hôm 24-1-2017, ĐTC kêu gọi nhìn thực tại trong nhãn giới Tin Mừng và truyền thông trong niềm hy vọng.

Ngày Thế giới truyền thông lần thứ 51 sẽ được cử hành vào chúa nhật 28-5-2017 với chủ đề ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5). Thông truyền hy vọng và tín thác trong thời đại ngày nay”.

Trong sứ điệp, ĐTC nhận xét rằng nhờ tiến bộ kỹ thuật, rất nhiều người ngày nay có thể đồng thời nhận được và phổ biến sâu rộng các tin tức, những tin lành hoặc những tin dữ, tin thật hoặc tin giả. Tâm trí con người giống như cối xay nước, có thể xay các tin tức như các hạt thành bột làm bánh ngon, hoặc xay những cỏ lùng, cỏ dại.

Ngài viết: ”Tôi muốn sứ điệp này có thể đi tới và khích lệ tất cả những người trong lãnh vực nghề nghiệp cũng như trong các tương quan giữa con người với nhau, mỗi ngày có thể ”xay” bao nhiêu thông tin để tạo nên bánh thơm ngon cho những người nuôi dưỡng mình bằng thông tin. Tôi muốn nhắn nhủ tất cả hãy thực hiện một hoạt động truyền thông xây dựng, từ khước những thành kiến đối với nhau, cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ, nhờ đó họ có thể học cách nhìn thực tại với niềm tin tưởng đầy ý thức”.

ĐTC kêu gọi hãy phá vỡ cái vòng lẩn quẩn lo âu và chặn đứng cái vòng sợ hãi, kết quả của thói quen chỉ tập trung sự chú ý với những ”tin dữ” như chiến tranh, khủng bố, gương xấu và mọi thứ thất bại trong cuộc sống con người”.

Với ý hướng đó, ĐTC cổ võ nhìn thực tại và những biến cố dưới ánh sáng Tin Mừng, như đeo một ”đôi kiếng” thích hợp để nhìn thực tại từ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, với niềm xác tín: Thiên Chúa liên đới với con người trong mọi hoàn cảnh, tỏ cho chúng ta thấy chúng ta không đơn độc, vì chúng ta có một Người Cha không bao giờ quên con cái mình. ”Đừng sợ, vì Ta ở với con” (Is 43,5).. Nơi Chúa, cả tăm tối và chết chóc cũng trở thành nơi hiệp thông với Ánh sáng và Sự sống. Từ đó nảy sinh một niềm hy vọng ai cũng có thể đạt tới, chính tại nơi mà cuộc sống gặp phải sự cay đắng vì thất bại”. ĐTC viết:

”Nước Thiên Chúa đã ở giữa chúng ta, như một hạt giống ẩn giấu đối với cái nhìn hời hợt và sự tăng trưởng của hạt giống đó diễn ra trong thầm lặng. Ai có đôi mắt được Thánh Linh làm cho trong sáng, thì thấy được hạt giống ấy nầm, và không để cho mình bị cướp mất niềm vui của Nước Trời vì những cỏ lùng cỏ dại luôn hiện diện”.

ĐTC xác quyết rằng ”niềm tín thác ấy làm cho chúng ta có khả năng hành động – trong nhiều hình thức truyền thông – với xác tín rằng có thể nhận thấy và soi sáng tin vui hiện diện trong thực tại của mỗi lịch sử và nơi khuôn mặt của mỗi người”.

”Ai tin tưởng, để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn, thì có khả năng phân định trong mỗi biến cố điều xảy ra giữa Thiên Chúa và nhân lại, nhìn nhận chính Chúa đang dệt nên lịch sử cứu độ trong bối cảnh bi thảm của thế giới này” (SD 24-1-2017)

G. Trần Đức Anh

Tân Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei

Tân Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei

ROMA. Đức Ông Fernando Ocáriz người Tây Ban Nha đã được bầu làm tên Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei.

Đức Ông Ocáriz đã được Tổng Hội của Giám hạt nhóm tại Roma bầu lên và được ĐTC phê chuẩn chiều tối ngày 23-1-2017, và trở thành người kế nhiệm thứ ba của vị sáng lập là thánh Josémaría Esquivá de Balaguer, thay thế Đức Cha Javier Echevarría qua đời ngày 12-12 năm 2016.

Đức ông Ocáriz năm nay 73 tuổi, sinh năm 1944 tại Paris trong một gia đình Tây Ban Nha lưu vong sang Pháp thời nội chiến 1936-1939 và là con út trong số 8 người con. Ngài tốt nghiệp vật lý học tại Đại học Barcelona năm 1966, rồi đậu cao học thần học tại Đại học Giáo hoàng Laterano ở Roma, sau đó đậu tiến sĩ tại Đại học Navarra của giám hạt tòng nhân Opus Dei. Sau khi thụ phong linh mục, cha Ocáriz làm việc mục vụ với giới trẻ và sinh viên đại học. Trong thập niên 1980, cha là một trong những giáo sư khởi xướng Đại học Thánh Giá của Opus Dei ở Roma và giảng dạy môn thần học cơ bản tại đây.

Năm 1994 Đức Ông Ocáriz được bổ nhiệm làm Tổng đại diện của Giám hạt Opus Dei và 10 năm sau, 2014, làm Đại diện phụ tá của Bề trên Giám hạt. Trong những ngày tới đây, ngài sẽ chọn các vị đại diện và thành viên hội đồng theo đề nghị của Tổng Hội với nhiệm kỳ 8 năm.

Theo niên giám năm 2016 của Tòa Thánh, Giám hạt tòng nhân Opus Dei, phần nào giống như một giáo phận không biên giới, hiện có 2094 Linh mục với 1797 nhà thờ và trung tâm mục vụ, 300 chủng sinh và gần 92 ngàn giáo dân (SD 24-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Dù giận Thiên Chúa nhưng vẫn cầu nguyện

Dù giận Thiên Chúa nhưng vẫn cầu nguyện

Làm theo ý muốn của Thiên Chúa không có nghĩa là chúng ta không càm ràm hoặc giận Ngài, điều quan trọng là chúng ta phải sống thực – không giả dối, và rồi cuối cùng chúng ta thưa với Chúa: “Này con đây!”. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Câu chuyện của lời thân thưa “Này con đây!”

Theo bài đọc trích thư gửi tín hữu Do thái, khi đến thế gian, Chúa Kitô nói: “Lạy Cha, của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Ngài không muốn. Thì này con đây, con đến để thi hành thánh ý Cha”. Lịch sử cứu độ chính là câu chuyện về lời thưa “Này con đây!”. Sau khi Adam lẩn trốn vì sợ hãi Thiên Chúa, Chúa đã bắt đầu gọi mời và lắng nghe những lời đáp lại “Này con đây! Con sẵn lòng. Con sẵn sàng.” Những lời ấy được vang lên trong dòng lịch sử qua lời thưa của Abraham, của Mose, Elia, Isaia, Gieremia, cho tới lời thưa xin vâng tuyệt hảo của Mẹ Maria, và chóp đỉnh là lời thưa xin vâng của chính Chúa Giêsu. Lịch sử của lời thưa “Này con đây!” không phải theo kiểu tự động, bởi vì Thiên Chúa ngỏ lời với những ai Ngài mời gọi.

Thiên Chúa luôn luôn trong cuộc đối thoại với những ai mà Ngài ngỏ lời trên con đường này, con đường của tiếng thưa “Này con đây!”. Thiên Chúa hết sức kiên nhẫn. Khi đọc sách ông Gióp, chúng ta thấy tất cả những lời than vãn, những điều không hiểu, những phản ứng, và Chúa đã nói với ông, Chúa sửa đổi tâm hồn ông… và cuối cùng, ông thú nhận: “Vâng. Lạy Chúa, Chúa thật phải lẽ. Lâu nay con chỉ biết Chúa dựa vào những tiếng đồn thổi. Giờ đây mắt con đã nhìn thấy Ngài”. Đó là lời thưa xin vâng, và đời sống Kitô hữu là thế, là thân thưa: Này con đây, con đến để thực thi ý Chúa. Hết lần này đến lần khác… Thật là tuyệt khi đọc Kinh Thánh, vì ở đó chúng ta tìm thấy những lời thân thưa của dân đối với Chúa, đó là những câu trả lời và điều ấy quá đẹp: “Này con đây, con đến để làm theo ý Ngài”.

Đừng bao giờ sống giả vờ trước Thiên Chúa

Làm thế nào để tôi có thể thưa lên lời xin vâng “Này con đây!” đối với Thiên Chúa? Có lẽ tôi giống như Adam, tức là chạy trốn, ẩn núp và không đáp lại. Hoặc là khi Chúa gọi tôi, thay vì thưa lên “Này con đây!” thì tôi lại nói “Chúa muốn gì ở con chứ?”. Hoặc là tôi trốn chạy giống như Giona, ông không muốn làm điều Chúa nói với ông. Hoặc là tôi chỉ giả bộ làm theo ý Chúa, tức là chỉ sống kiểu bề ngoài thôi, giống như các kinh sư và luật sĩ, và Chúa Giêsu đã mắng cho những người như thế là kẻ đạo đức giả. Hoặc là chúng ta sống kiểu “”chọn đường khác mà đi” giống như các thầy Levi và thầy tư tế trong câu chuyện người Samari nhân hậu. Vì thầy Levi và thầy tư tế trong câu chuyện ấy đã bỏ mặc nạn nhân nửa sống nửa chết trên đường, và tránh qua một bên mà đi. Chúng ta đáp lại Thiên Chúa trong cách thức nào?

Dù giận Thiên Chúa thì hãy cứ cầu nguyện

Thiên Chúa thích nói chuyện với chúng ta. Một số người nói với tôi rằng: “Nhưng thưa Cha, nhiều lần khi con đi cầu nguyện, con tức giận với Chúa…” Tôi đáp lại: Đúng thế, nhưng hãy cứ tiếp tục cầu nguyện! Thiên Chúa thích những điều ấy, ngay cả khi bạn giận Ngài, và Ngài sẽ nói về những gì mà bạn đang cảm nhận, được diễn tả trên gương mặt bạn. Ngài yêu mến bạn bởi vì Ngài là Người Cha. Còn bạn, bạn sẽ thân thưa “Này con đây!” Hay là bạn ẩn núp? Hoặc là chạy trốn? Hoặc là sống giả vờ? Hoặc là chọn con đường khác? Mỗi người chúng ta có thể tự đưa ra câu trả lời. Nguyện xin Chúa Thánh Thần thương ban ân sủng để chúng ta tìm thấy lời đáp của chính mình.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

Đức Thánh Cha bế mạc năm kỷ niệm 800 năm lập dòng Đa Minh

ROMA. Lúc 4 giờ chiều thứ bẩy 21-1-2017, ĐTC đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano ở Roma nhân dịp bế mạc năm kỷ niệm 800 năm DGH Onorio III phê chuẩn dòng Đa Minh.

 Thánh lễ này cũng kết thúc 4 ngày hội nghị quốc tế (17-21/1/2017) tại Đại học Thánh Tômaso Aquino (Angelicum) ở Roma về các khía cạnh trong sứ vụ của dòng Đa Minh. Hơn 600 tu sĩ và giáo dân Đa Minh từ nhiều nước đã tham dự sinh hoạt này.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tạ ơn có 20 Hồng Y, Giám Mục và khoảng 100 LM, đặc biệt là ĐHY Dominik Duka OP, TGM Praha thuộc Cộng hòa Tiệp, Đức TGM Carlos Azpiros OP, người Argentina, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh và Cha đương kim Tổng quyền Bruno Cadoré, O.P. Hiện diện trong thánh đường có khoảng hơn 3 ngàn người, trong đó có đông đảo các tu sĩ nam nữ và giáo dân Đa Minh đến từ các nước. Phần thánh ca do ca đoàn Ba Lan từ Cracovia đảm trách.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn hai bài đọc (2 Tm 4,1-8 và Mt 5,13-19) trong đó thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ Timothê hãy kiên trì rao giảng rao giảng, dù con người chỉ thích tìm kiếm những điều mới mẻ, không chịu nghe chân lý, nhưng chỉ thích những huyền thoại; tiếp đến là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ hãy trở thành muối đất và ánh sáng thế gian, hãy tôn vinh Chúa Cha bằng những công việc lành, và nhờ đó, làm cho những người chứng kiến ngợi khen Chúa Cha trên trời.

Toàn văn bài giảng của ĐTC

”Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta hai cảnh tượng của con người trái ngược nhau: một bên là ”hội hóa trang” (carnevale) của sự hiếu kỳ trần tục, và bên kia là sự tôn vinh Chúa Cha qua các công việc lành. Và đời sống chúng ta cũng luôn tiến qua hai cảnh tượng ấy. Thực vậy, những cảnh tượng này ở mọi thời đại đều có, như lời thánh Phaolô nói với Timothê (Xc 2 Tm 4,1-5). Và cả thánh Đa Minh với các anh em đầu tiên của Người, cách đây 800 năm, cũng trải qua hai cảnh tượng ấy.

Thánh Phaolô cảnh giác Timôthê hãy loan báo Tin Mừng giữa một bối cảnh trong đó người ta luôn tìm kiếm những ”thầy mới”, ”những huyền thoại”, các đạo lý khác, các ý thức hệ.. họ ”ngứa tai” (2 Tm 4,3). Đó là ”hội hóa trang” theo sự hiếu kỳ trần tục, quyến rũ. Vì thế thánh Phaolô dạy môn đệ Ngài với những động từ mạnh mẽ, như ”hãy nhấn mạnh”, ”hãy khuyên nhủ”, ”khiển trách”, ”khuyên bảo” rồi ”cảnh thức”, ”chịu đựng đau khổ' (vv.2.5)

Thật là hay khi thấy rằng hồi đó, 2 ngàn năm về trước, các tông đồ của Tin Mừng đã đứng trước quang cảnh đó, và ngày nay, cảnh tượng ấy đã phát triển nhiều và được hoàn cầu hóa vì sự thu hút của trào lưu duy tương đối chủ quan. Xu hướng tìm kiếm điều mới mẻ của con người tìm được một môi trường lý tưởng trong xã hội trọng bề ngoài, xã hội tiêu thụ, trong đó nhiều khi người ta ”xào lại' những thứ cũ kỹ, nhưng điều quan trọng là làm cho chúng có vẻ tân kỳ, có sức thu hút, hấp dẫn. Cả chân lý cũng bị giả mạo. Chúng ta bước đi trong ”xã hội gọi là lỏng”, không có những điểm cố định, không dựa vào căn bản nào, thiếu những điểm tham chiếu vững chắc và bền vững; chúng ta sống trong thứ văn hóa phù du, ”dùng rồi vứt bỏ”.

Đứng trước thứ ”hội hóa trang” trần tục ấy, có một quang cảnh hoàn toàn đối nghịch lại, như chúng ta thấy qua những lời Chúa Giêsu vừa nghe đọc: ”Những việc làm ấy tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16). Vậy sự chuyển tiếp từ sự hời hợt của lễ hội giả tạo tiến đến sự tôn vinh diễn ra như thế nào? Thưa nó diễn ra nhờ những công việc lành của những người, khi trở thành môn đệ Chúa Giêsu, họ trở thành ”muối” và ”ánh sáng”. Chúa Giêsu nói: ”Ánh sáng của các con phải chiếu tỏa rạng ngời trước mặt loài người để người ta thấy việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Giữa thứ ”hội hóa trang” quá khứ và hiện nay, câu trả lời của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, sự nâng đỡ vững chắc giữa môi trường ”lỏng” chính là những công việc lành chúng ta có thể thực hiện nhờ Chúa Kitô và Thánh Linh của Ngài, và những việc ấy làm nảy sinh trong tâm hồn lời cảm tạ Chúa Cha, lời chúc tụng, hoặc ít là sự ngưỡng mộ và câu hỏi: ”tại sao?”, ”tại sao người ấy cư xử như thế?”; sự băn khoăn của thế giới đứng trước chứng tá Tin Mừng.

Nhưng để sự đánh động ấy xảy ra được, thì điều cần là muối không bị mất vị và ánh sáng không bị che giấu (Xc Mt 5,13-15). Chúa Giêsu đã nói rất rõ điều đó: nếu muối nhạt thì nó chẳng có ích gì. Khốn cho muối nếu mất vị! Khốn cho một Giáo Hội mất hương vị! Khốn cho một linh mục, một tu sĩ, một hội dòng đánh mất hương vị!

Hôm nay, chúng ta tôn vinh Chúa Cha vì công việc mà thánh Đa Minh, đầy ánh sáng và muối của Chúa Kitô, đã thực hiện trong 800 năm qua; một công trình phục vụ Tin Mừng, được rao giảng bằng lời nói và bằng cuộc sống; một công trình, nhờ ơn của Chúa Thánh Linh, đã làm cho bao nhiêu người nam nữ được trợ giúp để không bị tản mát giữa ”thứ hội hóa trang” của sự hiếu kỳ trần tục, trái lại họ cảm thấy hương vị của đạo lý lành mạnh, của Tin Mừng, và đến lượt họ, họ trở thành ánh sáng và muối, thành những người thực hiện những công lành.. thành những anh chị em đích thực, tôn vinh Thiên Chúa và họ dạy cách tôn vinh Chúa bằng những công việc lành trong cuộc sống” (SD 21-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Cha Francisco Lopez Sedano: Trừ tà là một sứ vụ thiêng liêng

Mexico – Cha Francisco Lopez Sedano 80 tuổi, thuộc dòng các Thừa sai Chúa Thánh Linh, là một Linh mục chuyên trừ quỷ người Mêhicô. Trong 40 năm qua, cha Sedano đã thực hiện ít nhất 6000 vụ trừ quỷ. Cha nói là quỷ sợ cha.

Chia sẻ với báo Los Angeles Ngày nay, cha cho biết khi ma quỷ nói với cha qua người bị quỷ nhập, cha trả lời rằng: “Ta không là ai cả, nhưng tôi đến từ Chúa Kitô, Chúa và Chủ của mày và bây giờ mày xuất ra ngay. Nhân danh của Người, ta ra lệnh cho mày xuất ra. Đi ra!”

Trong cuộc phỏng vấn, cha Sedano nêu bật 4 điều mà cha nhận thấy trong những năm thực hiện việc trừ quỷ. Thứ nhất, quỷ là một người chứ không phải là một đồ vật. Chúa Giêsu đã đối mặt với quỷ và nói với nó nhiều lần. Quỷ muốn chia cắt chúng ta khỏi Thiên Chúa, làm chúng ta sợ hãi, đe dọa chúng ta, làm chúng ta run sợ. Nó mang đến cho chúng ta sự lười biếng, mệt mỏi, buồn ngủ, mất lòng tin, thất vọng, hận thù; mọi thứ tiêu cực.

Điều thứ hai, cha Sedano lưu ý, đó là ma quỷ đi vào trong con người là bởi vì họ cho phép nó làm điều này. Cha nói: “Quỷ không thể đi vào trong chúng ta nếu chúng ta không mở cửa cho nó. Bởi vì điều này, Thiên Chúa cấm việc thực hành phép thuật, mê tín dị đoan, ma thuật, phù thủy, bói toán, tư vấn người chết, các lực lượng vô hình và chiêm tinh học. Đây là bảy vùng đất của những lời dối trá và lừa dối.”

Một điều nữa cha Sedano nhận thấy đó là người bị quỷ nhập có những cách cư xử đặc biệt. Cha đã quan sát những người bị quỷ ám, “họ bắt đầu la hét, sủa như chó, hét hay quằn quại và  họ bò trườn như một con rắn trên mặt đất. Có hàng ngàn hình thức.” Cha cho biết, có một thanh niên 18 tuổi đã đẩy 5 ghế dài lớn  rất nặng mà bình thường cần sức của 10 người để di chuyển. Họ đã cần 3 người để giữ anh ta khi cha thực hiện việc trừ quỷ. Họ có thể leo lên các bức tường và cũng có thể bay.” Thỉnh thoảng người bị quỷ nhập nghe các tiếng nói, cảm thấy bị Thiên Chúa ghét hay loại bỏ. Có người bị đau lưng nhưng mà bác sĩ nói là sưc khỏe của họ không có vấn đề. Cha Sedano nói: “Những thương tổn của Satan nằm ngoài sự kiểm soát của y học.

Điều cuối cùng cha Sedano nhận thấy là việc trừ quỷ là một nhiệm vụ thiêng liêng. Cha xem việc trừ quỷ của mình đến từ nhu cầu cần thiết sau khi chứng kiến những trường hợp nặng nề và đau đớn. Cha cho biết, một Linh mục bạn đã giúp cha nhận thấy rằng chiến đấu chống lại Ác thần là một đòi buộc. 3 mệnh lệnh được Chúa truyền là mang lời của Chúa, chữa người đau bệnh và xua trừ ma quỷ. (CNA 19/01/2017)

Hồng Thủy

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

Sự sọ hãi cái chết khiến cho con người cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa

** Sự sợ hãi kinh hoàng trước cái chết vén mở cho thấy nhu cầu hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống, khiến cho con người cầu nguyện, xin cứu giúp, và nhận biết Chúa đích thật và duy nhất của trời và đất. Dưới ánh sáng lòng thương xót của Thiên Chúa và của mầu nhiệm phục sinh cái chết có thể trở thành “chị chết” và dịp nhận biết niềm hy vọng gặp gỡ Chúa.

 ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ngài đã giới thiệu gương mặt của ông Giôna là vị ngôn sứ đã tìm cách tránh né lời mời gọi của Thiên Chúa và khước từ phục vụ chương trình cứu độ của Thiên Chúa như kể trong sách Giôna, là cuốn sách ngắn chỉ có 4 chương, nhưng giầu giáo huấn liên quan tới lòng thương xót của Thiên Chúa là Đấng tha thứ.

Giôna là một ngôn sứ “đi ra”, và cũng là một ngôn sứ chạy trốn! Đó là một ngôn sứ đi ra, mà Thiên Chúa gửi ra vùng ngoại biên, là Ninivê để hoán cải dân chúng thành phố lớn này. Nhưng đối với một tín hữu do thái như Giôna Ninivê diễn tả một thực tại đe dọa, là kẻ thù gây nguy hiểm cho Giêrusalem, và vì thế phải hủy diệt, chứ không được cứu thoát. Vì thế, khi Thiên Chúa gửi Giôna đi rao giảng trong thành phố ấy, thì ngôn sứ vốn biết lòng lành của Chúa và ước mong tha thứ, tìm cách trốn tránh nhiệm vụ của mình và chạy trốn. ĐTC tiếp tục bài huấn dụ như sau:

** Trong cuộc trốn chạy của ông ngôn sứ tiếp cận với các người ngoại giáo, là các thuỷ thủ của con tầu ông đã lên để tránh xa Thiên Chúa và sứ mệnh của mình. Và ông trốn xa, bởi vì Ninivê đã ở trong vùng Iraq, và ông trốn sang Tây Ban Nha, trốn thật. Và chính thái độ của các người ngoại giáo này, cũng như rồi sẽ là thái độ của dân thành Ninivê sau đó, cho phép chúng ta hôm nay suy  tư một chút về niềm hy vọng được diễn tả ra bằng lời cầu nguyện truớc hiểm nguy và cái chết.

Thật thế, trong khi vượt biển đã xảy ra một trận bão khủng khiếp, và Giôna xuống hầm tầu để ngủ. Trái lại, các thủy thủ, các người ngoại giáo này, khi thấy mình sắp chết “mỗi người khẩn cầu thần linh của họ” (Gn 1,5).

Thuyền trưởng đánh thức Giona dậy và nói: “Sao làm gì mà ngủ thế này? Dậy, kêu cầu thần của ông đi chứ! May ra ngài sẽ nghĩ tới chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng” (Gn 1,6).

Phản ứng của các người ngoại giáo này là phản ứng đúng đắn truớc hiểm nguy, bởi vì chính đó là lúc con người sống trọn vẹn kinh nghiệm sự giòn mỏng và nhu cầu cứu rỗi của mình. Bản năng kinh sợ phải chết vén mở cho thấy sự cần thiết hy vọng nơi Thiên Chúa của sự sống. “May ra Thiên Chúa nghĩ tới chúng ta và chúng ta sẽ không chết”: đó là các lời nói của niềm hy vọng  trở thành lời cầu nguyện, lời cầu nguyện tràn đầy âu lo, thốt lên từ miệng lưỡi con ngưòi trước nguy hiểm của cái chết gần kề.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: quá thường khi chúng ta dễ  xem thường việc hướng tới Thiên Chúa trong nhu cầu, làm như thể nó chỉ là một lời cầu nguyện nhắm tới lợi lộc, và vì thế bất toàn. Nhưng Thiên Chúa biết sự yếu đuối của chúng ta, Ngài biết rằng chúng ta nhớ đến Ngài là để xin cứu giúp, và với nụ cucời khoan dung của môt ngưòi cha Ngài đáp trả một cách nhân hậu.

** Khi Giôna thừa nhận trách nhiệm của mình và để mình bị ném xuống biển, hầu cứu thoát các bạn đồng hành của ông, bão tố dịu xuống. ĐTC giải thích như sau:

Cái chết cận kề đã khiến cho các người ngoại giáo cầu nguyện, và làm cho ngôn sứ sống ơn gọi phục vụ tha nhân của ông, mặc dù tất cả, bằng cách hy sinh chính mình cho họ, và dẫn đưa những người sống sót tới chỗ nhận biết Chúa và chúc tụng Ngài. Các thuỷ thủ đã cầu nguyện vì sợ hãi hướng tới các thần linh của họ, giờ đây với lòng chân thành kính sợ Chúa, họ nhận biết Thiên Chúa thật, dâng lễ tế và lời khấn nguyền.  Niềm hy vọng đã khiến cho họ cầu xin để khỏi chết, lại vén mở cho thấy nó quyền năng hơn nữa, và làm ra một thực tại đi xa hơn những gì họ hy vọng: họ không chỉ không thiệt mạng trong trận bão, mà còn rộng mở cho việc nhận biết Chúa thật và duy nhất của trời đất.

Tiếp đó cả dân chúng thành Ninivê trước viễn tượng bị huỷ diệt, họ cũng sẽ cầu nguyện, được thúc đẩy bởi niềm hy vọng nói sự tha thứ của Thiên Chúa. Họ sẽ đền tội, khẩn nài Chúa và trở về với Ngài, bắt đầu từ nhà vua, cũng như vị thuyền trưởng, trao ban tiếng nói cho niềm hy vọng khi nói rằng: “Biết dâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại… và chúng ta sẽ không phải chết” (Gn 3,9). Đối với họ cũng như đối với thủy thủ đoàn trong trận bão, đối diện với cái chết và được cứu thoát đã đưa họ tới sự thật. Và như thế dưới lòng thương xót của Chúa và còn hơn thế nữa dưới ánh sáng  của mầu nhiệm phuc sinh, cái chết có thể trở thành “chị chết của chúng ta” cũng như đối với thánh Phanxicô thành Assisi, và diễn tả đối với từng người và mỗi người trong chúng ta, dịp kinh ngạc hiểu biết niềm hy vọng và gặp gỡ Chúa.

Xin Chúa làm cho chúng ta hiểu mối dây nối kết giữa lời cầu nguyện và niềm hy vọng. Lời cầu nguyện đưa bạn tiến tới trong hy vọng, và khi các sự việc trở thành tăm tối, cần phải cầu nguyện nhiều hơn! Và sẽ có nhiều hy vọng hơn.

** ĐTC đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, đặc biệt là một đoàn hành hương đến từ Tân Caledonia. Ngài cũng chào các đoàn hành hương Niu Dilen, Philippines, Canada và Hoa Kỳ, cũng như các tín hữu nói tiếng Đức, đặc biệt là phái đoàn của Lộ trình đại kết âu châu, do bà chủ tịch Annette Kurschus hướng dẫn. Ngài nói cuộc dừng chân của họ tại Roma là một dấu chỉ đại kết rất ý nghĩa, đặc biệt trong tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu. Nó diễn tả sự hiệp thông đã đạt được qua con đường đối thoại trong các thập niên qua. Phúc Âm của Chúa Kitô là trung tâm điểm cuộc sống chúng ta và hiệp nhất những người nói các thứ tiếng khác nhau, sống trong các quốc gia khác nhau và trong các cộng đoàn khác nhau. Tôi cảm động nhớ tới lời cầu đại kết tại Lund bên Thụy Điển ngày 31 tháng 10 năm ngoái. Trong tinh thần kỷ niệm cuộc Cải Cách chúng ta nhìn vào những gì kết hiệp chúng ta hơn là nhìn vào những gì chia rẽ chúng ta, và chúng ta cùng nhau tiếp tục con đường đào sâu sự hiệp thông và trao ban cho nó một hình thái ngày càng hữu hình hơn.

Tại Âu châu niềm tin chung này nơi Chúa Kitô như là một sợi chỉ xanh của niềm hy vọng chúng ta thuộc về nhau. Hiệp thông, hoà giải và hiệp nhất là các điều có thể. Như là kitô hữu chúng ta có trách nhiệm đối với sứ điệp này và chúng ta phải làm chứng cho nó bằng cuộc sống của mình. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ý chí hiệp nhất và giữ gìn tất cả mọi người bước đi trên con đường hiệp nhất.

ĐTC cũng chào các tín hữu nói tiếng Bồ Đào Nha, đặc biệt nhóm “Brasilien Tropical Violins”.

Chào các tín hữu Ba Lan ĐTC nhắc tới tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu và nói: Tình yêu của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta hoà giải. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để mọi cộng đoàn kitô hiểu biết hơn lịch sử thần học và giáo luật của mình, và luôn rộng mở hơn cho sự hoà giải. Xin Thần Khí thấm nhuần chúng ta với lòng nhân hậu, sự hiểu biết và ý chí cộng tác.

ĐTC cũng chào các tín hữu Croát, đặc biệt là các trẻ em Bosni Erzegovine cùng các gia đình tiếp đón các em trên đảo Sicilia. Ngài cầu chúc các em sống tình huynh đệ trong các gia đình tiếp đón các em, và có cơ may sống bầu khí hy vọng. Chỉ như thế các người trẻ công giáo, chính thống và hồi giáo mới có thể cứu vãn niềm hy vọng sống trong một thế giới huynh đệ, công bằng và hoà bình, chân thành hơn và phù hợp hơn với chiều kích của con người. Ngài xin các em sống vững vàng trong đức tin, cầu nguyện cho hoà bình và hiệp nhất của quê hương các em và toàn thế giới. ĐTC cũng cám ơn các gia đình tỏ tình liên đới kitô tiếp đón các em nêu gương yêu thương cho mọi người. Cần phải luôn luôn tiếp đón, che chở, bảo vệ và lắng nghe các trẻ em mồ côi với tình thương mến.

Trong số các nhóm nói tiếng Ý ĐTC chào đặc biệt các nữ tu dòng thánh Agostino nữ tử của Chúa Giêsu và Mẹ Maria; và các nam tu sĩ Agostino, cũng như Hiệp hội các chưởng khế công giáo do ĐC Domenico Sorrentino, TGM Assisi tháp tùng. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc lại đề tài tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu năm nay về đề tài “Tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy hoà giải”. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho sự hiệp nhất, các người đau yếu dâng các hy sinh khổ đau cho ý chỉ này, và các cặp vợ chồng mới cưới sống kinh nghiệm tình yêu hôn nhân như tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi nguời.

Linh Tiến Khải

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Đừng dậm chân tại chỗ mà hãy can đảm tiến bước

Hãy là những Kitô hữu can đảm, với cái neo chắc chắn là niềm hy vọng, để có thể vững vàng trước những khoảnh khắc đen tối. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng lười biếng mà cam đảm lên

Sống một cách can đảm, đó là lối sống của người Kitô hữu. Can đảm tiến về phía trước. Đó là thái độ cần có trong cuộc sống, giống như người vận động viên chăm chỉ luyện tập để dành chiến thắng. Hãy đối diện với sự lười biếng bằng lòng dũng cảm.

Có những Kitô hữu lười biếng, có những Kitô hữu không muốn nhấc chân lên để bước, có những Kitô hữu không muốn tranh đấu để tạo nên những thay đổi, những gì mới mẻ, những gì tốt đẹp cho mọi người. Những Kitô hữu ấy lười biếng và tìm thấy Giáo Hội như là trạm dừng, như là bãi đậu xe. Và tôi có thể nói rằng, các Kitô hữu ấy là những giáo dân, là những linh mục, là những giám mục… Tất cả. Có những Kitô hữu như thế! Đối với họ, Giáo Hội là bến đậu an toàn, là bến đậu cho cuộc sống. Những Kitô ấy làm tôi nghĩ tới điều mà đứa bé nói với ông bà rằng: “Ông bà hãy cẩn thận, đừng có ngăn cản nước, vì nếu nước không chảy, thì trước tiên nước sẽ bị bẩn”.

Bám chắc vào neo hy vọng để vững vàng trong giông tố

Điều gì giúp cho người Kitô hữu có thể sống can đảm? Đó là niềm hy vọng. Những Kitô hữu lười biếng, vì họ không có niềm hy vọng, vì họ đang “nghỉ hưu”. Thật là tốt đẹp để nghỉ hưu sau nhiều năm làm việc. Nhưng hãy cẩn thận, chẳng tốt đẹp gì nếu cả cuộc đời đều là nghỉ hưu.

Thông điệp của ngày hôm nay là niềm hy vọng, hy vọng là không thất vọng, hy vọng là còn có điều gì khác nữa. Niềm hy vọng là cái neo vững chắc cho cuộc sống. Niềm hy vọng chính là cái neo: chúng ta ném cái neo xuống, nó bám chắc, và chúng ta nắm vững sợi dây. Đó là niềm hy vọng của chúng ta. Đừng nghĩ rằng: đây là bầu trời, thật là đẹp, và tôi vẫn còn… Không. Hy vọng có nghĩa là chiến đấu, là bám chắc sợi dây, là đạt tới. Trong cuộc tranh đấu hằng ngày thì hy vọng chính là đức tính để mở rộng các chân trời chứ không đóng lại! Có lẽ, nếu bạn hiểu thì hy vọng chính là đức tính mạnh mẽ nhất. Hy vọng: sống trong hy vọng, sống bằng hy vọng, luôn nhìn tới phía trước với lòng can đảm. Một số người trong anh chị em có thể nói: “Vâng, thưa cha, nhưng có những lúc tệ hại, khi ấy dường như mọi sự đều tối đen, con nên làm gì?” Khi ấy, hãy nắm chắc sợi dây và chịu đựng với đầy nghị lực.

Xin ơn vượt thắng tính ích kỷ

Chúng ta phải can đảm nhìn lại và rồi bước tiếp. Những Kitô hữu tốt lành cũng vẫn thường mắc sai lỗi. Tất cả chúng ta đều có những sai lỗi. Những người đứng yên một chỗ, có vẻ như chẳng làm gì sai. Khi bạn không thể bước đi vì mọi sự đều tăm tối, vì mọi thứ đều đóng lại, thì bạn phải có khả năng chịu đựng, bạn phải kiên trì. Chúng ta có thể bền lòng bền chí vì chúng ta có niềm hy vọng, vì chúng ta không thất vọng, vì Thiên Chúa không thất vọng.

Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi đang thế nào? Đời sống đức tin của tôi thế nào? Đời sống của tôi là những chân trời rộng mở, tràn đầy hy vọng, can đảm tiến bước, hay lại là cuộc sống hâm hẩm thậm chí là một cuộc sống không có khả năng chịu đựng những thời khắc đen tối? Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, để chúng ta có thể vượt thắng tính ích kỷ vốn chỉ biết lo cho mình mà không thèm nhìn anh chị em.

Tứ Quyết SJ

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

Đức Thánh Cha rửa tội cho 13 hài nhi từ các vùng bị động đất

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều thứ bẩy, 14-1-2017, tại nhà nguyện nhà trọ thánh Marta nơi ngài cư ngụ, ĐTC đã ban phép rửa tội cho 13 hài nhi sinh sau các trện động đất ở miền trung Italia hồi tháng 8 và tháng 10 năm ngoái.

Qua việc cử hành này, ĐTC giữ lời đã hứa. Đức Cha Dominico Pompilli, GM giáo phận Rieti, giải thích rằng ngày 4-10 năm 2016, khi viếng thăm làng Amatrice, nơi bị động đất nặng nhất, một bà mẹ giới thiệu hài nhi con của bà với ĐTC và hỏi xem ngài có thể rửa tội cho cháu không. Ngài đã nhận lời và quyết định nới rộng cho cả các hài nhi sinh tại các vùng bị động đất.

Cuối thánh lễ, một số trẻ em và cha mẹ đã tặng cho ĐTC một tập với những bức họa gợi lại cuộc viếng thăm của ngài ở hai nơi bị động đất nặng là Amatrice và Accumoli. (RG 15-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

Đức Thánh Cha tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ tố giác chế độ kinh tế gạt bỏ con người vì họ không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhuận của các xí nghiệp.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 14-1-2017 dành cho 85 tham dự viên quốc tế ”cuộc thảo luận bàn tròn” do Ngân Quỹ hoàn cầu (Globl Foundation) tổ chức tại Roma trong hai ngày 13 và 14-1 vừa qua. Trong số các tham dự viên cũng có ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, sau khi đề cao khẩu hiệu của Ngân Quỹ Hoàn cầu là ”Cùng nhau chúng ta dấn thân cho công ích của hoàn cầu”, ĐTC khẳng định rằng: ”Thật là điều không thể chấp nhận được, vì vô nhân đạo, một chế độ kinh tế thế giới gạt bỏ người nam, người nữ và trẻ em, vì những người này dường như không còn hữu ích theo các tiêu chuẩn lợi nhận của các xí nghiệp và các tổ chức khác. Chính sự gạt bỏ con người như thế là một sự thoái hóa và làm cho bất kỳ chế độ chính trị và kinh tế nào trở nên vô nhân đạo: những người gây ra hoặc cho phép sự gạt bỏ tha nhân – những người tị nạn, các trẻ em bị lạm dụng hoặc bị biến thành nô lệ, những người nghèo chết trên đường vì trời lạnh – thì chính những kẻ ấy trở thành như những chiếc máy vô hồn, họ ngầm chấp nhận nguyên tắc theo đó chính họ, sớm muộn gì cũng sẽ bị gạt bỏ, khi họ không còn hữu ích cho một xã hội đặt thần tiền bạc ở trung tâm”.

ĐTC Phanxicô nhắc lại lập trường của thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã từng cảnh giác chống lại nguy cơ lan tràn khắp nơi ý thức hệ duy tư bản, không để ý gì đến hiện tượng gạt con người ra ngoài lề, bóc lột, tha hóa con người, làm ngơ không biết đến bao nhiêu người còn sống trong tình trạng lầm than về vật chất và tinh thần..

Trong bối cảnh đó, ĐTC cũng đề cao bao nhiêu nỗ lực của các cá nhân và các tổ chức tìm cách chữa lành những tai ương do sự hoàn cầu hóa vô trách nhiệm gây ra. Thánh Têrêsa Calcutta là biểu tượng những cố gắng như thế. Mẹ cúi mình trên những người kiệt lực, bị bỏ mặc cho chết trên vỉa hè, nhìn nhận nơi họ phẩm giá Chúa ban… Mẹ đã lên tiếng nói với những kẻ cường quyền trên trái đất để họ nhìn nhận các tội ác nghèo đói do họ gây ra.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là thái độ đầu tiên có thể đưa tới sự hoàn cầu hóa tình liên đới và sự sộng tác. Trước tiên, mỗi người đừng dửng dưng đối với những vết thương của người nghèo, nhưng học cách cảm thông với những người đang chịu đau khổ vì bách hại, cô đơn, cưỡng bách di tản hoặc vì gia đình bị phân rẽ, cảm thông với những người không được săn sóc sức khỏe, những người chịu đói, lạnh hoặc nóng”.

Ngân Quỹ hoàn cầu (The Global Foundation) được khởi xướng năm 1998 ở Australia, và lan rộng trên thế giới, trẻ thành một diễn đàn đặc biệt trong đó những người thiện chí và có phương thế họp nhau, trao đổi và giúp đáp ứng những thách đố lớn trên thế giới ngày nay, cổ võ một nền kinh tế thịnh vượng chung.. (SD 14-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

Các Giám Mục Pháp và Đức bênh vực người trẻ di dân và tị nạn

PARIS. Các GM Pháp và Đức kêu gọi gia tăng giúp đỡ người di dân và tị nạn, nhất là các trẻ vị thành niên.

Trong thông cáo công bố hôm 12-1-2017, nhân ngày thế giới di dân và tị nạn lần thứ 103 sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-1 tới đây, các GM Pháp và Đức nhắc đến sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân ngày này, qua đó ngài lưu ý về số phận các trẻ em và người trẻ là những người không được bảo vệ, gấp 3 lần so với những người lớn. Theo thống kê năm 2015, trong số hơn 65 triệu người tị nạn trên thế giới có quá một nửa là trẻ vị thành niên. Riêng tại Liên hiệp Âu châu, năm 2014 chỉ có 23 ngàn người trẻ di dân và tị nạn, năm 2015 sau đó, con số ấy tăng quá gấp 4 lần tức là 100 ngàn. Năm 2016 chắc chắn con số ấy càng gia tăng thê. Các GM Pháp và Đức viết:

”Đứng trước kỷ lục đau buồn ấy, điều cần thiết hơn bao giờ hết là phải chiến đấu chống lại những nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Đặc biệt con số đông đảo các thiếu niên tị nạn không có người đi kèm ở Âu Châu đang đề ra cho chúng ta những thách đố hết sức lớn lao”.

Các GM Pháp cũng nhắc lại lời ĐTC khẳng định rằng ”Vì chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô nơi những người bé mọn và dễ bị tổn thương nhất, chúng ta phải làm tất cả những gì có thể theo khả năng để bảo vệ phẩm giá của những người trẻ di dân và tị nạn.. Nhiều trẻ vị thành niên bị bó buộc phải mại dâm hoặc bị đưa vào vòng kỹ nghệ dâm ô, bị cưỡng bách lao động hoặc xung vào quân ngũ, hay trong những hình thức tội phạm khác, các em là những người bị bó buộc phải trốn chạy vì xung đột và bách hại”.

HĐGM Pháp và Đức nhận định rằng ”Giáo hội Công giáo tại hai nước này có nhiều tài nguyên để đồng hành với những người trẻ di dân để giúp các em trên con đường đạt tới sự tự lập. Đứng trước thách đố rộng lớn, cần phải nới rộng các đề nghị hiện có và phát triển hơn nữa. Trọng tâm hoạt động được tiến hành theo nguyên tắc: khích lệ mỗi trẻ em phát huy khả năng của mình, đồng thời cũng không được quên trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tư cách là những nước đã ký Hiệp ước Genève, Hiệp ước Liên hiệp Quốc về quyền của các trẻ em và các hiệp ước quốc tế khác, nươc Pháp và Đức nhìn nhận các trẻ vị thành niên di dân có những quyền đặc thù. Vì thế chúng tôi kêu gọi các vị hữu trách chính trị tại hai nước liên hệ chu toàn nghĩa vụ bảo đảm những điều kiện pháp lý và hành chánh, giúp các trẻ vị thành niên có được một đời sống xứng đáng nơi chúng ta. Cần phải tôn trọng quyền được sống tuổi thơ trong mọi hoàn cảnh” (SD 12-1-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Đức Hồng y Dolan đọc đoạn sách Khôn ngoan trong lễ nhậm chức của ông Trump

Washington – Đức Hồng y Timothy M. Dolan của New York cho biết, đoạn Kinh thánh ngài chọn để đọc trong lễ nhậm chức của tổng thống Donald J. Trump được lấy từ chương 9 sách Khôn ngoan. Đó là lời cầu nguyện của vua Salomon, xin ơn khôn ngoan để lãnh đạo đất nước theo ý Thiên Chúa.

Đức Hồng y Dolan nói với hãng tin Công giáo Hoa kỳ là ngài luôn cầu nguyện điều này và nói đùa rằng Chúa chưa ban cho ngài điều khấn xin.

Đức Hồng y giải thích rằng qua nhiều thế kỷ, lời cầu nguyện của Salomon đã được dâng lên Chúa. Trong lời cầu nguyện, vua Salomon nhận thức rằng Thiên Chúa tạo dựng con người “để cai quản thế giới trong sự thánh thiện và công bình và để xét xử với trái tim ngay thẳng.” Nhà vua tiếp tục cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan “hằng ngự bên tòa Chúa, và xin đừng đuổi con khỏi các con cái Ngài.”

Vua Salomon cũng khẩn cầu Thiên Chúa ban đức Khôn ngoan “để Người ở cùng và hành động với con, để con có thể biết điều làm đẹp lòng Chúa.” Vua cầu xin để các việc làm của vua sẽ được chấp nhận và vua sẽ phân xử dân Chúa cách chính trực và xứng với ngai vàng của vua cha.

Đức Hồng y Dolan có một phút để đọc lời cầu nguyện này và ngài cho biết một phút là đủ cho ngài. Ngài được yêu cầu gửi lời cầu nguyện mình đã chọn đến cho đội ngũ của ông Trump. Ngài không biết có phải để kiểm soát hay không nhưng đối với ngài điều này là thích hợp.

Đức Hồng y Dolan cùng với 3 vị lãnh đạo các tôn giáo khác sẽ xuất hiện trên bục khi buổi lễ nhậm chức của tổng thống Trump bắt đầu. Ngài cũng biết có những phê bình về việc ngài tham dự vào lễ nhậm chức này và đã nhận được các lời phê bình. Ngài đã trả lời cho những phê bình là nếu bà Hilary Clinton đắc cử và mời ngài, thì ngài cũng sẽ hiện diện như một vinh dự. Đức Hồng y nói thêm: “Chúng tôi là các mục tử và các lãnh đạo tôn giáo trong tổ chức cầu nguyện thánh thiện. Người ta yêu cầu chúng tôi cầu nguyện với họ và cho họ. Điều đó không có nghĩa là chúng tôi vì họ hay chống lại họ. Đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng tôi.”

Đối với Đức Hồng y, lễ nhận chức của một tổng thống mới cũng có thể là cơ hội của hy vọng và canh tân cho đất nước. Ngài nói: “Nhiều người có thể có những nghi ngờ về tổng thống đắc cử và tôi chắc chắn cũng thế, như đối với vị tổng thống sắp tới. Nhưng trong truyền thống vĩ đại của Hoa kỳ, chúng ta nhìn vào thời điểm của vị tổng thống sắp tới như một cơ hội của hy vọng … một cách thế để cho một người một cơ hội và cố gắng để hoàn thành những lời ông ta đã hứa.” (CNS 12/01/2017)

Hồng Thủy

 

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, không có tâm hồn ngồi lỳ

Để có thể đi theo Chúa Giêsu, bạn phải lên đường, bạn phải bước đi, bạn không được dậm chân tại chỗ với tâm hồn ngồi lỳ. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Đừng đứng một chỗ rồi nhìn vào cuộc sống người khác mà xét đoán

Nhiều lần người ta muốn tung hô Chúa làm vua, vì họ nhận thấy Chúa là “nhà chính trị lỗi lạc” nhưng Chúa bỏ họ mà ẩn đi nơi khác. Thế nhưng Chúa vẫn để cho dân chúng đi theo Ngài vì Ngài biết chúng ta đều là những kẻ tội lỗi. Vấn đề lớn nhất là có những người không theo Chúa Giêsu mà lại lỳ ra đó.

Có người cứ đứng đó, đứng ở bên lề đường mà quan sát. Họ ngồi một chỗ mà không nhúc nhích. Có một số kinh sư ngồi đó nhìn, nhìn từ hành lang. Họ không bước đi trong cuộc sống, nên chẳng có gì phải sợ gặp nguy hiểm cả! Họ ở yên một chỗ mà xét đoán người dân. Thậm chí có những lời nặng nề như: Nhìn đám dân ngu muội kìa! Đúng là những kẻ nhẹ dạ cả tin, những kẻ mê tín! Chúng ta cũng bao lần làm như thế, khi đứng nhìn lòng đạo đức bình dân của những người đơn sơ. Tâm thế giáo sĩ trị đã làm cho chúng ta gây hại tới mức nào cho Giáo hội. Những chuyện như thế vẫn còn tiếp diễn.

Để gặp được Chúa Giêsu, cần dám mạo hiểm

Những người hôm nay đến với Chúa Giêsu đã phải làm cuộc đánh liều. Đó là dỡ mái nhà ra, tạo một cái lỗ để có thể thả cái chõng có người bất toại xuống trước mặt Chúa. Họ đã mạo hiểm với chủ nhà, vì chủ nhà có thể kiện họ và họ phải hoàn trả chi phí sửa nhà. Câu chuyện về người phụ nữ bị bệnh 18 năm cũng thế. Bà đã liều khi chạm vào gấu áo Chúa. Bà liều lĩnh vì bà có thể bị xấu hổ vì việc làm ấy. Chúng ta cũng thử nghĩ về người phụ nữ Canaan. Tất cả họ đã liều mạng và đã tìm thấy ơn cứu độ.

Việc đi theo Chúa, không phải là điều dễ dàng, nhưng rất đẹp. Khi đi theo Chúa, luôn có những bất trắc rủi ro. Nhưng rồi chúng ta sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và được Chúa chữa lành. Chúng ta biết mình là kẻ tội lỗi, và để theo Chúa, để gặp Chúa, chúng ta cần can đảm liều lĩnh.

Đừng có một tâm hồn ngồi lỳ trong thất vọng

Đi theo Chúa Giêsu bởi vì chúng ta cần điều gì đó trong việc đi theo Chúa, và điều ấy có nghĩa là theo Chúa trong đức tin. Đây chính là đức tin. Tin tưởng phó thác nơi Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu, nên những kẻ khiêng người bất toại hôm nay mới dám liều dỡ mái nhà tạo cái lỗ, để giúp người bất toại có thể gặp được Chúa. Họ tin Chúa bởi vì Chúa có thể chữa lành cho người bất toại.

Tôi có thể tự hỏi: Lạy Chúa Giêsu, con có tín thác vào Chúa, con có dâng trọn cuộc sống con cho Chúa không? Có những tâm hồn ngồi lỳ ra đó, nhìn xem người khác, nhìn xem cuộc sống. Tâm hồn con có ngồi lỳ ra đó, có đóng cửa trong cay đắng, trong thất vọng không? Hôm nay mỗi người có thể tự hỏi lòng mình những câu hỏi ấy.

Tứ Quyết SJ

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Tự hỏi lòng mình để sống ngày hôm nay

Cuộc sống của chúng ta là một ngày sống, ngày không thể lặp lại. Hôm nay, chúng ta đừng cứng lòng, nhưng hãy mở tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Sống ngày hôm nay

Tôi nói điều này không phải là để dọa anh chị em, rằng thật đơn giản khi nói: cuộc sống của chúng ta chính là ngày hôm nay: ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi nghĩ thế. Ngày mai sẽ là ngày mai của vĩnh cửu, ngày mai không bao giờ cùng, ngày mai mãi mãi ở bên Chúa. Nếu tôi thực sự sống ngày hôm nay, tôi hỏi Chúa Thánh Thần: Lạy Chúa, con phải sống như thế nào trong ngày hôm nay?

Mở cõi lòng cho Thiên Chúa

Trong trái tim của chúng ta, có cuộc chơi dành cho chính ngày hôm nay. Chúng ta có mở rộng tâm hồn mình cho Chúa không? Tôi thường cảm thấy được đánh động khi nhìn và lắng nghe những bậc cao niên, thường là các linh mục và nữ tu, nói với tôi: “Thưa cha, xin hãy cầu nguyện để con bền đỗ tới cùng.” – “Nhưng các vị đã dâng hiến trọn đời, đã sống mọi ngày trong cuộc đời để phục vụ Chúa rồi, còn sợ gì nữa…?” – “Không, không, con muốn cuộc sống được trọn vẹn, xin hãy cầu nguyện để lòng con mạnh mẽ trong đức tin, và không bị chiều theo những cám dỗ những tội lỗi…”

Tự hỏi lòng mình về ngày hôm nay

Ngày hôm nay không thể lặp lại: cuộc sống là thế. Và tâm hồn, hãy mở cõi lòng, mở cõi lòng mình cho Thiên Chúa, hãy vừng tin, đừng khép tâm hồn, đừng cứng lòng, đừng bị tội lỗi lừa dối. Chúa Giêsu đã từng gặp quá nhiều người đóng cửa tâm hồn: đó là các kinh sư, đó là những người đã kết án Chúa, là những người chuyên gài bẫy Chúa.

Chúng ta trở về nhà chỉ với hai từ này: “ngày hôm nay” và “tâm hồn tôi”. Đây là ngày hôm nay của tôi sao? Ngày hôm nay tôi thế nào? Tôi có sống trong sự hiện diện của Chúa không? Tâm hồn tôi ra sao? Lòng tin của tôi có mạnh mẽ không? Tâm hồn tôi có được dẫn dắt bởi Chúa không? Với câu hỏi về ngày hôm nay và câu hỏi về cõi lòng mình, chúng ta hãy xin Chúa ban những ơn cần thiết cho mỗi người chúng ta. 

Tứ Quyết SJ

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Các thần tượng giả ăn cắp sự tụ do và biến con người thành nô lệ chúng

Khi tin tưởng vào các thần tượng bằng vật chất, hay do trí óc chúng ta làm ra, khi biến các thực tại hạn hẹp thành tuyệt đối, khi giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng của chúng ta, biến Ngài thành một vị thần giống chúng ta, có thể hiểu được, thấy trước được như các thần tượng vô hồn, là chúng ta đặt hy vọng vào hư vô. Chỉ khi tin tưởng nơi Chúa chúng ta mới trở nên như Ngài, phước lành của Ngài biến đổi chúng ta thành con cái chia sẻ sự sống của Ngài.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã đề cập tới niềm hy vọng như nhu cầu sơ đẳng của con người: hy vọng vào tương lai, tin tưởng nói sự sống, suy nghĩ tích cực. Mùa Vọng và mùa Giáng Sinh là thời gian của năm phụng vụ nhằm thức tỉnh nơi dân Thiên Chúa niềm hy vọng. Nhưng thật quan trọng là niềm hy vọng ấy phải đặt để vào điều có thể thực sự giúp chúng ta sống và trao ban ý nghĩa cho cuôc đời mình. Chính vì thế mà Thánh Kinh cảnh báo chúng ta chống lại các niềm hy vọng giả dối, các niềm hy vọng giả dối này mà thế gian trình bầy với chúng ta, bằng cách lột mặt nạ sự vô ích của chúng và chỉ cho thấy cái vô nghĩa của chúng. Và Thánh Kinh làm điều đó bằng nhiều cách thế, nhất là bằng cách tố cáo các thần tượng giả mà con người liên tục bị cám dỗ đặt để niềm tin tưởng của nó, bằng cách biến nó trở thành đối tượng niềm hy vọng của mình.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: đặc biệt các ngôn sứ và các người khôn ngoan nhấn mạnh trên điều ấy, bằng cách đụng chạm tới điểm nhức nhối trên con đường lòng tin của tín hữu. Và ĐTC giải thích như sau:

Bởi vì tin là tín thác nơi Thiên Chúa – ai tin thì tín thác nơi Thiên Chúa – nhưng tới lúc trong đó, khi phải đụng chạm với các khó khăn của cuộc sống, con người cảm nghiệm được sự giòn mỏng của sự tin tưởng của nó và cảm thấy cần có các chắc chắn khác nhau, các chắc chắn cụ thể, có thể sờ mó được. “Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng tình hình hơi xâu một chút, và tôi cần một sự chắc chắn hơi cụ thể môt chút.” Và ở đó, nguy hiểm là ở đó. Và khi đó chúng ta bị cám dỗ tìm cả các an ủi mau qua, xem ra lấp đầy sự trống rỗng của nỗi cô đơn và làm nhẹ bớt cái mệt nhọc của việc tin tưởng.

** Và chúng ta nghĩ có thể tìm chúng trong an ninh. mà nó có thể cho – chẳng hạn – tiền bạc hay trong các liên minh với những người quyền thế; hoặc trong tinh thần thế tục; hay trong các ý thức hệ dối trá. Nhưng chúng ta thích các thần tượng, chúng ta thích các thần tượng biết bao! Có một lần nọ, tại Buenos Aires, tôi phải đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác, cách nhau ít nhiều khoảng một ngàn mét. Và tôi đi bộ. Ở giữa hai nhà thờ có một công viên, và trong công viên có rất nhiều các bàn nhỏ, nơi có các thầy bói ngồi; và có rất đông ngưòi xếp hàng dài chờ. Bạn đưa bàn tay cho họ, và họ bắt đầu nói. Nhưng diễn văn luôn luôn giống nhau: có một phụ nữ trong cuộc đời ông, có một bóng đen đang đến, nhưng mọi sự sẽ thành công tốt… Và rồi bạn trả tiền. Điều này có trao ban an ninh cho bạn không? Đó là một sự chắc chắn – xin anh chị em cho phép tôi dùng từ này – của một sự ngu độn – Nhưng đó là một thần tượng: tôi đã đi tới bà thầy bói ông thầy bói, hay tôi đã đi coi bài – Tôi biết là không có ai trong anh chị em làm điều này đúng không? – Tín hữu cười – và tôi đã thành công hơn. Nó làm tôi nhớ tới cuốn phim có tựa đề “Phép lạ tại Milano” của người làm cái đó, thật là thối cái mũi… giá 100 đồng Lire. Họ bắt bạn trả tiền để cho họ ca tụng bạn, trao ban cho bạn một niềm hy vọng giả dối. Đó là thần tượng, và chúng ta gắn bó biết bao với chúng: chúng ta mua các niềm hy vọng giả dối. Và Đấng là niềm hy vọng của sự nhưng không, Đấng đã trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô, một cách nhưng không, đã cho chúng ta sự sống, Đấng ấy thì chúng ta không tin tưởng bao nhiêu…

Đôi khi chúng ta tìm chúng nơi một thần linh có thể cúi gập trước các đòi hỏi của chúng ta, và can thiệp một cách kỳ điệu để biến đổi thực tại, và làm cho nó trở thành như chúng ta muốn; nghĩa là một thần tượng và như là thần tượng nó không thể làm gì hết, bất lực và dối trá.

Có một thánh vịnh tràn đầy khôn ngoan miêu tả cho chúng ta một cách hết sức gợi ý cái giả dối của các thần tượng này, mà thế gian cống hiến cho niềm hy vọng của chúng ta, và con người thuộc mọi thời đại bị cám dỗ đặt tin tưởng nơi chúng. Đó là thánh vịnh 115. Thánh vịnh viết như thế này: “Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc, chỉ do tay người thế tạo thành. Có mắt có miệng, không nhìn không nói, có mũi có tai, không ngửi không nghe. Có hai tay, không sờ không mó có hai chân, không bước không đi, từ cổ họng, không thốt ra một tiếng. Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy.” (Tv 115,4-8).

Tác giả thánh vịnh trình bầy với chúng ta một cách châm biếm thực tại tuyệt đối phù du của các thần tượng này. Và ĐTC giải thích thêm điểm này như sau:

** Và chúng ta phải hiểu rằng đây không chỉ là các hình tượng làm bằng kim loại và chất liệu khác, nhưng cũng là các hình tượng mà trí óc chúng ta xây dựng nữa, khi chúng ta tin tưởng nới các thực tại hạn hẹp mà chúng ta biến thành tuyệt đối, hay khi chúng ta giản lược Thiên Chúa vào các lược đồ và tư tưởng về thần linh của chúng ta; một thần linh giống chúng ta, có thể hiểu và tiên liệu, y như các thần tượng mà thánh vịnh nói tới. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chế tạo một thần linh theo hình ảnh của nó, và cũng là một hình ảnh vụng về: không nghe, không cử động và nhất là không thế nói. Nhưng chúng ta lại hài lòng đi tới với các thần tượng hơn là đi tới với Chúa. Chúng ta càng hài lòng hơn với niềm hy vọng phù du trao ban điều giả dối này, thần tượng này hơn là niềm hy vọng vĩ đại chắc chắn mà Chúa ban cho chúng ta…

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: đối chọi với niềm hy vọng nơi một Chúa của sự sống, là Đấng với Lời của Ngài đã tạo dựng nên thế giới và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, người ta tin tưởng nơi các thần tượng câm nín. Các ý thức hệ, với các yêu sách tuyệt đối của chúng, các giầu sang – và đây là một thần tượng lớn – các giầu sang, quyền lực và thành công, sự phù vân, với các ảo tưởng vĩnh cửu và toàn năng của chúng, các giá trị như vẻ đẹp vật lý và sức khỏe, khi chúng trở thành thần tượng cần phải hy sinh mọi sự, tất cả chúng đều là các thực tại làm lẫn lộn tâm trí, và thay vì tạo điều kiện cho sự sống thì nó dẫn đưa tới cái chết.

Thật là xấu xa nghe biết và gây đau đớn cho tâm hồn điều, mà cách đây nhiều năm tôi đã nghe được trong giáo phận kia: có một phụ nữ một phụ nữ giỏi giang, rất đẹp, đẹp lắm, và bà khoe khoang sắc đệp của bà, bà bình luận như thể là chuyện tự nhiên: “Ô, vâng tôi đã phải phá thai, vì gương mặt tôi quan trọng lắm”.Thế đó… Đây là các thần tượng,  chúng đưa bạn tới con đường sai lầm, và không trao ban cho bạn niềm hạnh phúc.

Sứ điệp của thánh vịnh rất rõ ràng: nếu ta đặt tin tưởng nơi các thần tượng, thì ta cũng trở thành như chúng: là các hình ảnh trống rỗng với tay không sờ mó, với chân không bước đi, miệng không thể nói. Ta không còn gì để nói nữa, ta trở thành không có khả năng trợ giúp, thay đổi các sự vật, không có khả năng cười, trao ban chính mình, không có khả năng yêu thương. Và cả chúng ta là các ngưòi của Giáo Hội, chúng ta cũng gặp nguy cơ này khi chúng ta “trần tục hoá chính mình”. Cần phải ở trong thế gian, nhưng bảo vệ chính mình khỏi các ảo tưởng của thế gian là các thần tượng này mà tôi đã nêu trên đây.

Như thánh vịnh tiếp tục, cần phải tín thác và hy vọng nơi Thiên  Chúa, và Thiên  Chúa sẽ chúc phúc. Thánh vinh nói: “Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy Chúa, chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ khiên che. Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy Chúa… Ai kính sợ Chúa hãy tin cậy Chúa …Chúa nhớ đến ta và sẽ ban phúc cả: sẽ chúc phúc” (Tv 115,9-11). Chúa luôn luôn nhớ, cả trong những lúc xấu xa, nhưng Ngài nhớ đến chúng ta. Và đó là niềm hy vọng của chúng ta. Và niềm hy vọng không gây thất vọng. Không bao giờ. Không bao giờ gây thất vọng. Các thần tượng luôn luôn gây thất vọng: chúng là các tưởng tượng, chúng không thật.

** Đây là thực tại tuyệt vời của niềm hy vọng: khi tín thác nơi Chúa ta trở thành như Ngài, phúc lành của Ngài biến đổi chúng ta, biến đổi chúng ta thành con cái Ngài, chía sẻ sự sống của Ngài. Niềm hy vọng nơi Thiên Chúa làm cho chúng ta bước vào trong ánh sáng hoạt động của kỷ niệm của ký ức Ngài chúc lành cho chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Và khi đó có thể vọt lên tiếng Alleluia, chúc tụng Thiên Chúa hằng sống và chân thật, là Đấng vì chúng ta đã sinh ra từ Đức Maria, đã chết trên thập giá và sống lại trong vinh quang. Và nơi vì Thiên Chúa này chúng ta hy vọng, và Thiên Chúa này không phải là một thần tượng, không bao giờ gây thất vọng.

ĐTC đã chào các nhóm hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các đại chủng sinh chủng viện Saint Sulpice Issy- les -Moulineaux; các đoàn hành hương đến từ Hoa Kỳ, Australia và Nhật Bản; cũng như các nhóm nói tiếng Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,  và Ba Lan. Ngài nói thế giới cống hiến cho chúng ta biết bao niềm hy vọng giả, thay vì trao ban tin tưởng chúng ăn cắp sự tự do và biến chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Các thần tượng cũng như ma tuý hứa hẹn niềm vui, nhưng lại ăn cướp sự tự do. Vì thế việc chữa lành nô lệ các thần tượng trước hết là nhận biết chúng, quyết định thoát khỏi, can đảm từ bỏ chúng, và nhất là đặt niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thật hằng sống là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói năm nay Ba Lan mừng 100 năm tu huynh Alberto Chmielowski sinh ra.  Tôi khuyến khích anh chị em noi gương vị thánh của lòng thương xót, anh em của những người vô gia cư, dân nghèo và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, để đem tình yêu thương, bác ái và niềm hy vọng tới cho mọi người.

ĐTC cũng lưu ý tín hữu đừng để mình bị lừa bởi những kẻ xấu muốn làm tiền họ, vì các vé tham dự tiếp kiến đều hoàn toàn miễn phí.

Trong các nhóm tiếng Ý ngài đặc biệt chào các linh mục giáo sư các chủng viện, học viện thành viên chi nhánh đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nhắc tới lễ Chúa chịu phép rửa Chúa Nhật vừa qua. Ngài khích lệ mọi người tái khám phá ra ơn bí tích Rửa Tội đã nhận lãnh, và kín múc từ đó niềm tin nơi Giáo Hội, sức mạnh giúp đối phó với khổ đau bệnh tật và lòng can đảm dấn thân trong cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải.

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất

Đời sống của người Kitô hữu không cần những gì là khác lạ và khó khăn, nhưng là cuộc sống đơn sơ biết đặt Chúa Giêsu là trung tâm của những chọn lựa hàng ngày. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta, nhân ngày đầu tiên của mùa Thường Niên.

Sau những ngày Giáng Sinh, chúng ta bắt đầu mùa Phụng vụ mới, mùa Thường Niên, nhưng trung tâm của đời sống người Kitô hữu luôn là Chúa Giêsu, vì Người là Lời đầu tiên và vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng là Chủ Tể vũ trụ, là Đấng Cứu Độ thế gian. Ngoài Người ra, không còn Đấng nào khác.

Trung tâm của đời sống chúng ta là chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa đã tỏ mình cho chúng ta, và chúng ta được mời gọi để nhận ra Người trong cuộc sống, trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống, để nhận ra Người để nhận biết Người. Nhưng có người trong anh chị em nói: “Thưa cha, con biết cuộc đời các thánh, con biết các cuộc hiện ra và còn hơn thế nữa.” “Đúng thế, các thánh là các thánh, các ngài thật vĩ đại! Không phải tất cả các cuộc hiện ra đều chân thực!” Các thánh thì quan trọng nhưng tâm điểm phải là Chúa Giêsu Kitô. Không có Chúa Giêsu Kitô thì sẽ không có các thánh. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Trung tâm đời sống của tôi có phải là Chúa Giêsu Kitô không? Mối tương quan giữa tôi và Chúa Giêsu là gì? Có ba việc giúp chúng ta nhận thấy chắc chắc rằng, Chúa Giêsu là trung tâm của đời mình.

Nhận biết Chúa Giêsu

Việc thứ nhất là biết Chúa Giêsu để còn nhận ra Người. Nhiều người đã không nhận biết Chúa, giống như các kinh sư, các thượng tế, các luật sĩ, những người phái Xađốc, phái Pharisêu. Thậm chí họ còn kết án Chúa, còn giết Chúa. Chúng ta tự hỏi: Điều gì giúp cho ta có thể nhận biết Chúa Giêsu? Đó là cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, đó là đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục làm việc. Ngài sẽ làm cho những hạt giống nảy mầm và trổ sinh hoa trái.

Thờ lạy Chúa Giêsu

Việc thứ hai là thờ phượng Chúa Giêsu. Đừng chỉ xin Người điều này điều nọ, cũng đừng chỉ cám ơn Người. Thờ phượng Chúa trong thinh lặng, trong khoảng lặng của tâm hồn. Không gì có thể đáng mến đáng quý cho bằng một mình Thiên Chúa.

Có lời cầu nguyện ngắn trong Kinh Sáng Danh “Sáng Danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, nhưng nhiều lần chúng ta đọc như vẹt. Lời cầu nguyện này chính là lòng tôn thờ, tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tôn thờ, cùng với những lời nguyện ngắn, và trong thinh lặng trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta thờ lạy Chúa Giêsu và thân thưa: “Lạy Chúa, Chúa là Đấng duy nhất, Chúa là khởi thủy và là tận cùng. Con muốn ở với Chúa trong sự sống của Chúa, trong sự vĩnh cửu viên mãn của Chúa. Chúa là Đấng duy nhất.”

Bước theo Chúa Giêsu

Nhiệm vụ thứ ba là bước theo Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên. Điều ấy có nghĩa là đặt Chúa Giêsu làm trung tâm của đời sống chúng ta.

Đó chính là đời sống của người Kitô hữu. Đời sống ấy rất đơn sơ, nhưng chúng ta cần ân sủng của Chúa Thánh Thần để Ngài khơi lên trong lòng chúng ta ước muốn nhận biết Chúa Giêsu, để thờ lạy Người và bước theo Người. Chúng ta cầu nguyện để có sức mạnh làm điều ấy trong từng ngày của cuộc đời.

Tứ Quyết SJ