Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

Ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm Ai Cập

 

Thứ bẩy 29-4-2017 là ngày thứ hai ĐTC viếng thăm Ai Cập. ĐTC đã có hai sinh hoạt chính: ban sáng ngài chủ sự thánh lễ  cho tín hữu tại vận động trường của lực lượng phòng không, và ban chiều ĐTC gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại đại chủng viện toà Thượng Phụ công giáo Copte, truớc khi ra phi trường trở về Roma. Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC.

Lúc  8 giờ 50 ĐTC rời Toà Sứ Thần Toà Thánh để đi xe đến Sân vận động của lực lượng phòng không cách đó 19 cây số. Sân vận động này cũng còn gọi là “Sân vận động ngày 30 tháng 6”, là một phần trong làng thể thao của Không quân Ai Cập, đuợc xây cất và điều khiển bởi Bộ Quốc Phòng Ai Cập, nhằm mục đích ghi nhớ các chiến công của không quân Ai Cập trong cuộc chiến chống lại Israel hồi năm 1970. Đây cũng là nơi diễn ra các trận tranh tài bóng đá hạng A của Ai Cập. Hồi năm 2015 nó cũng là nơi xảy ra các cuộc đụng độ giữa các người hâm mộ bóng đá và cảnh sát khiến cho 22 người thiệt mạng. Sân vận động có chỗ cho 30.000 người. Khán đài và bàn thờ được dựng trên sân cỏ, hai bên có hai lều cho ca đoàn dàn nhạc và các phóng viên truyền hình. Phía trước hai bên khán đài dành cho mấy trăm linh mục đồng tế. Chính giữa trước khán đài là chỗ dành cho các quan khách, trong  đó có ghế cho tổng thống Abd Al-Fattah Al- Sisi và chính quyền Ai Cập cũng như các đại sứ các nước. Tín hữu đã mang theo nhiêu biểu ngữ chào mừng ĐTC và phất cờ Toà Thánh và bong bóng hai mầu vàng trắng. Cũng có bong bóng kết như tràng hạt được thả lên khi ĐTC tiến vào sân vận động.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ sáng giờ địa phương và được cử hành bằng tiếng Latinh và A rập.

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, A rập, Anh, Pháp và Ý.

Giảng trong thánh lễ ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc Chúa Nhật thứ III mùa Phục Sinh và nói:

** Bình an cho anh chị em. Hôm nay Phúc Âm Chúa Nhật thứ 3 mùa Phục Sinh nói với chúng ta về lộ trình của hai môn đệ làng Emmaus rời bỏ Giêrusalem. Một Tin Mừng có thể được tóm gọn trong ba từ: chết, phục sinh và sự sống.

Truớc hết là từ chết. Hai môn đệ trở về cuộc sống thường ngày của họ, tràn đầy vỡ mộng và tuyệt vọng. Vị Thầy đã chết, và vì thế hy vọng thật là vô ích. Họ bị mất hướng, vỡ mộng và thất vọng. Con đường của họ là một việc trở lại đàng sau; nó là một xa rời kinh nghiệm đớn đau của Đấng Bị Đóng Đanh.  Cuộc khủng hoảng của Thập Giá, còn tệ hơn thế nữa “gương mù” và “sự điên dại” của Thập Giá (x. 1 Cr 1,18; 2,2) xem ra đã chôn vùi mọi hy vọng của họ, đem mọi khát vọng của họ vào mồ.

Họ không thể tin rằng Thầy và Đấng Cứu Thế, Đấng đã cho các kẻ chết sống lại và chữa lành người bệnh tật, lại có thể kết thúc bị treo trên thập giá hổ nhục. Họ đã không thể hiểu rằng Thiên Chúa Toàn Năng đã không thể cứu Người khỏi một cái chết hổ nhục như vậy. Thập giá Chúa Kitô đã là thập giá của các tư tưởng của họ về Thiên Chúa; cái chết của Chúa Kitô đã là một cái chết  của những gì họ đã tưởng tượng là Thiên Chúa. Thật vậy, họ đã là những người đã chết trong sự hiểu biết hạn hẹp của họ.

Biết bao lần con người tự đủ cho chính mình, khước từ thắng vượt tư tưởng cuả họ về Thiên Chúa, về một vì thiên chúa được tạo dựng theo hình ảnh và giống con người! Biết bao lần ta thất vọng, khước từ tin rằng sự toàn năng của Thiên Chúa không phải là sự toàn năng của sức mạnh, của quyền bính, nhưng chỉ là sự toàn năng của tình yêu, của tha thứ và sự sống!

Các môn đệ đã nhận biết Chúa Giêsu “trong việc bẻ bánh”, trong Thánh Thể. Nếu chúng ta không để cho bức màn che mờ đôi mắt chúng ta bị xé ra, nếu chúng ta không để cho con tim chai cứng và các thành kiến của chúng ta bị bẻ gẫy, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra gương mặt của Thiên Chúa.

Thứ hai là từ Sống lại.  Trong cái tối tăm của đêm đen nhất, trong sự tuyệt vọng đảo lộn nhất, Chúa Giêsu đến gần các ông và bước đi trên con đường của họ để họ có thể khám phá ra rằng Ngài là « đường, là sự thật và là sự sống » (Ga 14,6). Chúa Giêsu biến đổi nỗi thất vọng của họ thành sự sống, để khi niềm hy vong của con người biến mất,  bắt đầu sáng lên niềm hy vọng của Thiên Chúa : « Điều không thể trước mắt loài người , thì có thể đối với Thiên  Chúa » (x. Lc 18, 27 ; 1,37).

ĐTC khẳng định : khi con người đụng tới tận đáy của thất bại và sự bất lực, khi nó lột bỏ sự vỡ mộng là người tốt nhất, là tự đủ, là trung tâm thế giới, thì khi đó Thiên Chúa giơ tay ra cho nó để biến đổi đêm đen của nó thành rạng đông, sự buồn sầu của nó thành niềm vui, cái chết của nó thành sự sống lại, con đường đi tháo lui của nó thành việc trở lại Giêrusalem, nghĩa là trở lại với sự sống và chiến thắng của Thập Giá (x. Dt 11,34).

** Thật vậy, sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh hai môn đệ trở lại tràn đầy niềm vui, lòng tin tưởng và hăng say, sẵn sàng làm chứng. Đấng Phục Sinh đã khiến cho họ sống lại từ trong nấm mồ của sự không tin và buồn sầu của họ. Khi gặp Đấng Bị Đóng Đanh Phục Sinh họ đã tìm thấy lời giải thích và sự thành toàn của Thánh Kinh, Lề Luật và các Ngôn Sứ ; họ đã tìm ra ý nghĩa sự thất bại bề ngoài của Thập Giá.

Ai không đi qua kinh nghiệm của Thập Giá cho tới sự thật của Sự Sống Lại, thì tự kết án mình sống tuyệt vọng. Thật thế  chúng ta không thể gặp gỡ Thiên Chúa mà không truớc hết đóng đinh các tư tưởng hạn hẹp về một vì thiên chúa phản ánh sự hiểu biết của chúng ta  về sự toàn năng và quyền bính của Ngài.

Thứ ba là từ sự sống : Việc gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh đã biến đổi cuộc sống của hai môn đệ, bởi vì sự găp gỡ Đấng Phục Sinh biến đổi mọi cuộc sống và khiến cho mọi khô cằn được phong phú. Thật vậy, sự Phục Sinh không phải là một niềm tin nảy sinh trong Giáo Hội, nhưng Giáo Hội đã nảy sinh từ niềm tin vào Sự Phục Sinh. Thánh Phaolô nói : « Nếu Chúa Kitô đã không chết, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng » (1 Cr 15,14). Đấng Phục Sinh biến mất khỏi mắt họ, để dậy chúng ta rằng chúng ta không thể giữ Chúa Giêsu trong sự hữu hình lịch sử của Ngài : « Phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin !» (Ga 20,29 ; x. 20,17) Giáo Hội phải biết và tin rằng Ngài sống với mình và làm cho mình sinh động trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh và trong các Bí Tích. Các môn đệ làng Emmaus đã hiểu điều này và họ trở lại Giêrusalem để chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác : « Chúng tôi đã trông thấy Chúa… Phải, Ngài đã sống lại thật ! » (x. Lc 24,43). Rút tiả từ kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus ĐTC nói : Kinh nghiệm của hai môn đệ làng Emmaus dậy chúng ta rằng làm đầy các nơi thờ tự thật vô ích, nếu con tim chúng ta trống rỗng sự kính sợ Thiên Chúa và sự hiện diện của Ngài ; cầu nguyện thật vô ích, nếu lời cầu hướng tới Chúa của chúng ta không biến thành tình yêu thương đôi với người anh em ; thật vô ích biết bao nhiêu đạo hạnh, nếu nó không được linh hoạt bởi đức tin và tình bác ái ; thật vô ích lo lắng cho vẻ bề ngoài, bởi vì Thiên Chúa nhìn linh hồn và trái tim con người (1 Sm 16,17) và Ngài ghét sự giả hình (x. Lc 11,37-54 ; Cv 5,3-4). Đối với Thiên Chúa, không tin tốt hơn là một tín hữu giả, một người giả hình ! ĐTC định nghĩa niềm tin đích thực như sau : Đức tin đích thật là đức tin khiến cho chúng ta bác ái hơn, thương xót hơn, liêm chính hơn và nhân bản hơn ; chính nó linh hoạt trái tim và đưa nó tới chỗ yêu thương hết mọi người, không phân biệt và không thiên tư ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ trông thấy nơi người khác, không phải một kẻ thù cần đánh bại, nhưng một người anh em cần yêu thương, phục vụ và trợ giúp ; nó là đức tin đưa chúng ta tới chỗ phổ biến, bảo vệ và sống nền văn hoá gặp gỡ, đối thoại, tôn trọng và huynh đệ ; nó đưa chúng ta tới sự can đảm tha thứ cho ai xúc phạm tới chúng ta, giơ tay ra cho một người bị ngã ; cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ đói ăn, thăm viếng người bị tù, trợ giúp trẻ mồi côi, cho kẻ khát uống, cứu giúp người già cả và cần dược trợ giúp (Mt 25,31-45). Lòng tin đích thực là lòng tin đưa chúng ta tới chỗ bảo vệ các quyền của người khác, với cùng sức mạnh và lòng hăng say mà chúng ta dùng để bảo vệ các quyền của chúng ta. Thật ra, càng lớn lên trong đức tin và sự hiểu biết bao nhiêu, thì lại càng lớn lên trong sự khiêm nhường và ý thức mình bé nhỏ bấy nhiêu.

** Anh chị em thân mến, Thiên Chúa chỉ ưa thích đức tin được tuyên xưng với cuộc sống, bởi vì sự triệt để duy nhất được chấp nhận đối với các tín hữu là sự triệt để của tình bác ái ! Bất cứ loại triệt để nào không đến từ Thiên Chúa thì không đẹp lòng Ngài !.

Giờ đây, như các môn đệ làng Emmaus anh chị em hãy trở lại Giêrusalem của anh chị em, là cuộc sống thường ngày, các gia đình, công việc làm và quê hương yêu dấu của anh chị em, tràn đầy tươi vui, can đảm và niềm tin. Đừng sợ hãi mở rộng con tim cho ánh sáng của Chúa Phục Sinh và hãy để cho Ngài biến đổi sự không chắc chắn của anh chị em thành sức mạnh tích cực cho anh chị em và cho người khác. Đừng sợ hãi yêu thương tất cả mọi người, bạn cũng như thù, bởi vì sức mạnh và kho tàng của tín hữu là  trong tình yêu sống động. Xin Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Gia đã sống trong vùng đất được chúc phúc này, soi sáng con tim và chúc lành cho anh chị em và đất nước Ai Cập thân yêu, là quốc gia, từ bình minh của Kitô giáo, đã tiếp nhận việc rao truyền Tin Mừng của thánh sử Mạccô và tạo thành lịch sử của nhiều vị tử đạo và một đoàn ngũ các thánh nam nữ ! Al Massih Kam Bilhakika kam ! Chúa Kitô đã phục sinh Ngài đã sống lại thật !

Hàng trăm linh mục đã giúp ĐTC cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Trước khi ĐTC ban phép lành cuối lễ cho mọi người, Đức Ibrahim Isaac Sidrak, Thượng Phụ công giáo Copte Alessandria, đã nhân danh Giáo Hội và toàn dân Ai Cập ngỏ lời tri ân ĐTC đã nhận lời mời viếng thăm Ai Cập. Chuyến viếng thăm diễn tả khẩu hiệu được chọn « Vị Giáo Hoàng của hoà bình trong đất nước Ai Cập hoà bình ». Đó là một sứ điệp cho thế giới và xác nhận bản chất của Ai Cập là yêu thương hoà bình và liên tục cố gắng khẳng định hoà bình trong vùng Trung Đông và trên toàn thế giới. Nó cũng xác nhận sự sẵn sàng chung sống giữa các tín hữu của các niềm tin khác nhau,  và khả năng hấp thụ các nền văn hóa khác nhau. Ai Cập, chiếc nôi của các tôn giáo, là quê hương tiếp đón các ngôn sứ và Thánh Gia ẩn trốn kiếm tìm an ninh. Đức thượng phụ cũng nhắc tới tên gọi Phanxicô và Năm Thánh Lòng  Thương Xót đã được Giáo Hội Ai Cập sống sâu đậm, đặc biệt qua Công Nghị hồi tháng 2 năm nay. Giáo Hội Ai Cập hiệp nhất trong truyền thống của mình tư tưởng thần học của Đông Phương và Tây Phương,  và rộng mở cho các nền văn hóa khác nhau. Điều này khiến cho nó được phong phú trong cuộc sống tinh thần, trong đức tin và phụng vụ, cũng như trong việc biểu lộ Giáo Hội Tông Truyền.

Đức Thượng Phụ cũng không quên cám ơn tổng thống Al Sisi đã có sáng kiến mời ĐTC viếng thăm Ai Cập, và làm mọi sự để giúp cho chuyến viếng thăm đuợc thực hiện thành công.

ĐTC đã tặng Đức Thượng Phụ một chén thánh, và Đức Thượng Phụ tặng ĐTC một bức khắc bằng gỗ quý. Sau khi ban phép lành cuối lễ cho tín hữu và từ giã mọi người, ĐTC đã trở về Toà Sứ Thần Toà Thánh để dùng bữa trưa với các Giám Mục và đoàn tuỳ tùng, rồi nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến đại chủng viện để chủ sự buổi cầu nguyện và gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

** Lúc 14 giờ 45 giờ địa phương ĐTC đã đi xe đến đại chủng viện công giáo copte cách đó 17 cây số để chủ sự buổi cầu nguyện có sự tham dự của hàng giáo sĩ, tu sĩ và các chủng sinh. Đại chủng viện thánh Lêo Cả của Toà Thượng Phụ công giáo Copte nằm trong khu phố Maadi ở ngoại ô mạn nam thủ đô Cairô. Đây là nơi đa số các ứng viên linh mục tương lai được đào tạo.

ĐTC đã được  Đức Thượng Phụ , Linh Mục Giám đốc và phó giám đốc đại chủng viện, tiếp đón tại cửa chính đại chủng viện. Có 10 tu sĩ nam nữ Bề trên giám tỉnh các dòng hiện diện tại Ai Cập chào mừng ĐTC. Sau đó ĐTC đã chụp hình lưu niệm với các linh mục và 30 chủng sinh và trao đổi quà tặng. Tiếp đến mọi người tiến ra sân thể thao, nơi có 1.500 người gồm các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh hiện diện.

Ngỏ lời chào mừng ĐTC Linh Mục Toma Adly, giám đốc đại chủng viện, nói biến cố ĐTC thăm đại chủng viện biểu tượng cho sự thánh hiến giống như biến cố Chúa Giêsu đã hiện ra với hai tông đồ trên đường về làng Emmaus. Ngài xin ĐTC cầu nguyện cho các chủng sinh các tu sĩ và cho các vị có trách nhiệm đào tạo họ.

Sau đó mọi ngươi hát thánh vịnh 121: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Giavê, là Đấng đựng nên cả đất trời…”. Tiếp đến mọi người nghe tuyên đọc Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5 ghi lại giáo huấn của Chúa Giêsu: “Các con là ánh sáng thế gian…”

7 cám dỗ người sống đồi thánh hiến cần mạnh mẽ chống trả

Ngỏ lời với các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh ĐTC cám ơn họ về chứng tá, và tất cả những điều thiện ích họ thực hiện mỗi ngày trong các hoàn cảnh khó khăn. ĐTC khích lệ mọi người tin tưởng, làm chứng tá cho sự thật, gieo vãi và vun trồng mà không chờ đợi được gặt hái. Giữa biết bao nhiêu lý do khiến nản lòng và biết bao ngôn sứ của tàn phá kết án, giữa biết bao tiếng nói tiêu cực và tuyệt vọng các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là một sức mạnh tích cực, là ánh sáng và muối của xã hội Ai Cập, là đầu máy kéo con tầu đi tới đích. Họ là những người gieo vãi hy vọng, xây dựng các cây cầu, và là những người làm việc cho đối thoại và hoà hợp.

Nhưng điều này chỉ có thể nếu họ không nhượng bộ 7 loại cám đỗ sau đây: Thứ nhất, đừng để cho mình bị sự tuyệt vọng và bi quan yếm thế lôi cuốn, nhưng biết noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân lành hướng dẫn đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi và suối nưóc mát, luôn tràn đầy sáng kiến và óc sáng tạo, biết ủi an ngay cả khi con tim mình bị thương tích, khổ đau vì con cái vô ơn. Lòng trung thành của chúng ta với Chúa không bào giò được tuỳ thuộc lòng biết ơn của con người.

Thứ hai, đừng liên tục than van, đổ lỗi cho người khác, cho các thiếu sót của các bề trên, cho các điều kiện của giáo hội hay xã hội, và thiếu tinh thần trách nhiệm. Trái lại, phải biết biến đổi mọi chướng ngại thành cơ may, chứ không phải biến mỗi khó khăn thành lời tố cáo. Ai lúc nào cũng than và là người không muốn làm việc.

Thứ ba, đừng bép xép và ganh tỵ gây thương tích cho người khác, thay vì trợ giúp người bé nhỏ lớn lên và vui mừng vì các thành công của các anh chị em khác. Ganh tỵ là một bệnh ung thư dần mòn giết chết cơ thể.

** Thứ bốn, đừng so sánh mình với người khác. Khác biệt diễn tả sự phong phú. Mỗi người là  duy nhất. So sánh khiến ta rơi vào thù hận hay kiêu căng, lười biếng và bị tê liệt. Phải biết tập sống sự khác biệt tình tình, các đặc sủng và ý kiến, trong lắng nghe và ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần.

Thư năm là cám dỗ của “chủ trương Pharaô”, nghiã là cứng lòng và khép kín đối với Chúa, cảm thấy mình cao hơn người khác, vênh vang đòi được phục vụ thay vì phục vụ.

Thư sáu là cám dỗ của cá nhân chủ nghĩa, như ngạn ngữ Ai cập có nói: “Tôi, và sau tôi là lụt hồng thuỷ”, chỉ biết nghĩ đến mình thay vì nghĩ tới tha nhân, và không hề xấu hổ. Giáo Hội là cộng đoàn và ơn cứu rỗi của một chi thể gắn liền với sự thánh thiện của tất cả mọi người.

Cám dỗ thứ bẩy là bước đi mà không có địa bàn và mục đích. Đánh mất đi căn tính của mình, “không là thịt cũng không là cá”. Sống với con tim chia rẽ và tinh thần thế tục, quên đi tình yêu đầu đời của mình. Không có căn tính rõ ràng người sống đời thánh hiến bước đi mà không có định hướng, thay vì hướng dẫn người khác thì bị lạc đường. Căn tính thật của các linh mục tu sĩ nam nữ và chủng sinh là con cái Giáo Hội Ai Cập, có các gốc rễ cao quý cổ xưa, thành phần của Giáo Hội hoàn vũ, như một cây đâm rễ sâu duới đất và lớn lên trời.

Chống lại các cám dỗ này không dễ. Nhưng nếu đâm rễ sâu, ở lại trong Chúa Giêsu thì có thể chiến thắng chúng. Càng đâm rễ sâu trong Chúa, chúng ta càng sống động và phong phú. ĐTC đặc biệt đề cao cuộc sống đan tu, là kho tàng vô giá mà Giáo Hội Ai Cập đã cống hiến cho Giáo Hội. Ngài khích lệ các đan sĩ kín múc từ gương của thánh Phaolô ẩn tu, thánh Antonio và các Thánh Giáo Phụ sa mạc và các đan sĩ. ĐTC xin Thánh Gia che chở và chúc lành cho hàng giáo sĩ tu sĩ và chủng sinh và tín hữu toàn Giáo Hội tại Ai Cập, giúp họ chu toàn sứ mệnh là ánh sáng và muối men tại đây. Ngài xin Chúa ban cho họ nhiều hoa trái của Thánh Linh

Sau khi ban phép lành ĐTC từ giã mọi người để đi xe ra phi trường quốc tế Cairo cách đó 40 cây số đáp máy bay trở về Roma.

Lễ nghi giã biệt đã diễn ra tại phi trường lúc 16 giờ 45 giờ địa phương. Tổng thống Al Sisi đã tiếp đón ĐTC tại cửa vào khu vực dành cho thượng khách và vào phòng danh dự đàm đạo với ngài một lúc. ĐTC đã duyệt qua hàng chào danh dự, rồi chào từ biệt tổng thống trước khi lên thang máy bay.

Máy bay đã cất cách rời phi trường thủ đô Cairô của Ai Cập lúc sau 17 giờ và về tới Roma sau 3 giờ 30 phút bay. Từ phi trường Ciampino ĐTC đã đi xe về Vaticăng, kết thúc chuyến viếng thăm mục vụ Ai Cập hai ngày.

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha viếng thăm Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte

Đức Thánh Cha viếng thăm Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte

CAIRO. Trong cuộc gặp gỡ Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập, chiều ngày 28-4-2017 tại Cairo, ĐTC bày tỏ tình liên đới sâu đậm với Giáo Hội này đã chịu nhiều đau khổ.

 Hoạt động cuối cùng của ĐTC trong ngày đầu tiên tại Ai Cập là cuộc viếng thăm tại Tòa Thượng Phụ Chính Thống Copte, cách khách sạn Al-Màsah 6 cây số và tọa lạc tại khu vực Kitô ở cổ thành Cairo trong đó có Nhà thờ chính tòa thánh Marco được khánh thành hồi năm 1968.

Khu thánh đường này đã bị khủng bố ngày 11 tháng 12 năm 2016: một quả bom đã nổ trong nhà nguyện thánh Phêrô, không xa văn phòng của Đức Thượng Phụ Tawadros II, làm cho 29 người chết và 31 người bị thương. Vụ khủng bố này xảy ra đúng ngày lễ Mawlid, tức là kỷ niệm sinh nhật của Mohammed.

Đến tòa Thượng Phụ vào lúc quá 6 giờ chiều, ĐTC cùng với phái đoàn của ngài đã được Đức Thượng Phụ Tawadros II tiếp đón, và hội kiến riêng.

Ngài năm nay 65 tuổi (1952), làm GM từ 20 năm nay (1997), và được chọn lên kế nhiệm Đức Shenuda III vào tháng 11 năm 2012, trở thành người kế vị thứ 118 của thánh Marco thánh sử. Ngài đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến hồi tháng 5 năm 2013 tại Vatican, đúng 40 năm sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa ĐGH Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Shenuda III, mở đầu cho cuộc đối thoại thần học giữa hai Giáo Hội. Trong dịp đó, Đức Thượng Phụ Tawadros đã mời ĐTC đến viéng thăm Ai Cập.

Diễn văn của ĐTC

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Tawadros II, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm của Đức Thượng Phụ tại Vatican ngày 10-5 năm 2013, ngày đó trở thành ngày thân hữu giữa Copte và Công Giáo, ngài cũng nói đến quá trình đối thoại đại kết từ sau tuyên ngôn chung giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Shenuda III hồi năm 1973, đồng thời nhấn mạnh đến hành trình hiệp thông cần được đào sâu thêm. Trong tiến trình này, các thánh và các vị Tử đạo thúc đẩy chúng ta trở thành một hình ảnh sống động của Jerusalem thiên quốc (Gl 4,26). ĐTC nói:

”Cùng nhau chúng ta được kêu gọi làm chứng về Chúa Giêsu, mang niềm tin của chúng ta cho thế giới, trước tiên bằng cách sống đức tin, vì sự hiện diện của Chúa Giêsu được thông truyền bằng cuộc sống và nói bằng ngôn ngữ tình thương nhưng không và cụ thể. Các tín hữu Chính Thống Copte và Công Giáo, chúng ta ngày càng có thể nói bằng thứ ngôn ngữ chung là ngôn ngữ bác ái: trước khi khởi sự một sáng kiến làm điều thiện, thật là đẹp nếu chúng ta tự hỏi xem chúng ta có thể thi hành sáng kiến ấy với các anh chị em chúng ta, những người cùng chia sẻ niềm tin nơi Chúa Kitô. Như thế chúng ta kiến tạo tình hiệp thông trong cuộc sống cụ thể hằng ngày bằng chứng tá sống thực, và Chúa Thánh Linh sẽ mở ra những con đường hiệp nhất mà chúng ta không nghĩ tới.”

ĐTC cũng ca ngợi tinh thần tông đồ xây dựng mà Đức Thượng Phụ Tawadros dành cho Giáo Hội Công Giáo Copte: một sự gần gũi mà ngài biết ơn và biểu lộ qua sáng kiến rất đáng khen là Hội Đồng quốc gia các Giáo Hội Kitô, mà Đức Thượng Phụ đã khai sáng để các tín hữu của Cháu Kitô có thể ngày càng hoạt động với nhau để mưu ích cho xã hội Ai Cập.

Cũng trong diễn văn, ĐTC nhắc đến phong trào đại kết bằng máu. Ngài nói: ”Bao nhiêu vị tử đạo tại phần đất này, từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, đã sống đức tin một cách anh dũng cho đến độ đổ máu đào chứ không chối Chúa và không chiều theo những lời dua nịnh của thần dữ, và không chiều theo cám dỗ lấy sự ác đáp trả sự ác. Tử đạo thư của Giáo Hội Copte chứng tỏ điều đó. Rất tiếc là ngày nay máu vô tội của những tín hữu vô phương thế tự vệ tiếp tực phải đổ ra.

”Cũng như chỉ có một thành Jerusalem thiên quốc duy nhất, tử đạo thư của chúng ta cũng là duy nhất, và những đau khổ của anh chị em cũng là đau khổ của chúng tôi. Máu vô tội của các vị tử đạo liên kết chúng ta với nhau. Được củng cố nhờ chứng tá của anh em, chúng ta cố gắng chống lại bạo lực bằng cách rao giảng và gieo vãi điều thiện, làm gia tăng sự hòa hợp và duy trì sự hiệp nhất, cầu nguyện để bao nhiêu hy sinh mở ra con đường dẫn đến tương lai hiệp thông trọn vẹn giữa chúng ta và an bình cho tất cả mọi người.

Sau diễn văn, DTC và Đức Thượng Phụ còn ký vào một tuyên chung nhấn mạnh đến bí tích rửa tội chung và quyết tâm dấn thân đại kết của hai Giáo Hội.

Tưởng niệm các vị tử đạo

Sau diễn văn của ĐTC, hai phái đoàn đã trao đổi quà tặng: ngài tặng Đức Thượng Phụ bức ảnh Mẹ Thiên Chúa dịu hiền, vẽ trên gỗ và tượng thánh Phanxicô đang giơ hai tay lên trời, trong cử chỉ chúc tụng công trình của Đấng Tạo Hóa.

Rồi ĐTC cùng với Đức Thượng Phụ, và các vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác, trong đó có Anh giáo, đi rước đến Nhà thờ Thánh Phêrô chỉ cách đó 100 mét để tham dự buổi cầu nguyện đại kết với sự hiện diện của các vị thủ lãnh các Giáo Hội Kitô khác, đặc biệt là Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios, Giáo chủ Chính Thống Constantinople ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong buổi cầu nguyện, mọi người đã nghe đọc bài Tin Mừng về các mối phúc thật, trong đó nổi bật lời Chúa Giêsu dạy: Phúc cho những ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9). ĐTC và Đức Thượng Phụ Tawadros II lần lượt xướng lên những lời cầu nguyện và mọi người chúc bình an cho nhau, và cùng đọc kinh Lạy Cha, trước khi đặt vòng hoa tưởng niệm gần 30 tín hữu bị thiệt mạng trong vụ khủng bố ngày 11-12 năm ngoái trong nhà nguyện thánh Phêrô.

Kết thúc cuộc viếng thăm và cầu nguyện, ĐTC đã về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở thủ đô Cairo, cách tòa Thượng Phụ 10 cây số để dùng bữa tối. Sau đó từ bao lơn tòa Sứ Thần, ĐTC đã chào thăm và chúc lành cho 300 bạn trẻ Công Giáo Ai Cập tụ tập tại cổng vào tòa Sứ Thần. Họ thuộc số 3 ngàn bạn trẻ tham dự cuộc lữ hành từ miền bắc và miền nam về Thủ đô Cairo nhân cuộc viếng thăm của ĐTC.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

Đức Thánh Cha phát biểu tại Hội nghị Hòa bình ở Cairo

CAIRO. ĐTC Phanxicô đề cao giáo dục như phương thế xây dựng hòa bình đồng thời tái lên án nạn buôn bán võ khí như nguyên nhân kéo dài chiến tranh trên thế giới.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong bài diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Đại Học Al Azhar của Hồi giáo ở Cairo tổ chức.

Đại học Al Azhar

Al Azhar, nguyên ngữ Arập có nghĩa là ”Huy hoàng hay sáng ngời”, đây là Đại học cổ kính và uy tín nhất trong thế giới Hồi giáo, được thành lập năm 969, tức là 1 năm sau khi người Hồi giáo Shiite đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, gọi là Fatemiti, chinh phục được Ai Cập và thành lập thành Cairo. Đại học này chủ yếu đào tạo các Imam và nhắm mục đích truyền bá Hồi giáo và Văn hóa Hồi giáo và hiện nay có gần 300 ngàn sinh viên đến từ tất cả các nước Hồi giáo. Cùng với Đại học có Đền thờ Hồi giáo cùng tên.

Các học giả Hồi giáo, gọi là Uléma, thuộc Al Azhar thường đưa ra những giáo pháp, fatwa, liên quan đến những tranh luận được các nơi trong thế giới Hồi giáo Sunnit gửi về và xin giải đáp liên quan đến cách hành xử đúng đắn của cá nhân và xã hội Hồi giáo.

Vị Đại Imam của Al Azhar hiện thời là Ahmed el-Tayyeb, năm nay 71 tuổi (1946) và do Tổng thống Hosni Mubarak bổ nhiệm sau khi ông Muhammad Sayyid Tantawy qua đời năm 2010. Ông đậu tiến sĩ triết học Hồi giáo ở Đại học Sorbonne bên Pháp và làm viện trưởng Đại học Al Azhar từ năm 2003. Trước đó Ông là Đại Mufti của Ai Cập.

Đến đại học Al Azhar lúc 4 giờ chiều, ĐTC đã được đại diện của Đại Imam tiếp đón và hướng dẫn tới thư phòng của Ông el-Tayyeb để hội kiến riếng. Trong dịp này ngài tặng vị Đại Imam pho tượng thánh Phanxicô bằng đồng, trong tư thế đang giơ hai tay lên trời để chúc tụng Đấng Tạo Hóa.

Diễn văn tại Hội nghị hòa bình

Tiếp đến, ĐTC đến Trung tâm Hội nghị của Đại học Al Azhar cách đó 8 cây số, nơi đang diễn ra Hội nghị quốc tế về hòa bình, với sự tham dự của các vị lãnh đạo Hồi giáo và các tôn giáo khác, cùng với các giáo sư và sinh viên đại học Hồi giáo.

Mở đầu cuộc gặp gỡ, đại Iman Al Tayyeb đã nói đến thảm trạng của nhân loại ngày nay, bao nhiêu sinh mạng bị tàn phá vì chiến tranh. Nạn buôn bán võ khí làm cho chiến tranh và chết chóc kéo dài. Người ta tạo nên những căng thẳng, những cuộc nổi dậy về tôn giáo, những xung đột và khác biệt phe phái và chủng tộc giữ những người dân trong cùng một quốc gia. Trớ trêu thay, những điều đó xảy ra ở thế kỷ 21 này, mệnh danh là thế kỷ văn minh với những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật. Trong bối cảnh trên đây vị Đại Imam đề cao vai trò và sự đóng góp của các tộn giáo cho việc xây dựng hòa bình. Điều đầu tiên trong nền luân lý đạo đức ở đây là tình huynh đệ giữa con người với nhau và sự cảm thông, từ bi giữa con người, được dựng nên như con cái của Allah, những người con yêu quí nhất đối với Allah chính là những người mở rộng các thiện ích cho các con cái của Allah. Giá trị này có thể ngăn cản thế giới khỏi bị biến hành một tình trạng rừng rú, trong đó những con quái vật cấu xé lẫn nhau.

Về vần ĐTC, trong bài diễn văn, ngài đề cao tầm quan trọng của đối thoại liên tôn trong việc mưu cầu hòa bình. Ngài ca ngợi hoạt động của Ủy ban hỗn hợp đối thoại giữa Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn và Ủy ban của đại học Al Azhar về đối thoại.

”3 đường hướng căn bản, nếu được liên kết chặt chẽ với nhau, có thể giúp ho việc đối thoại, trước tiên là nghĩa vụ về căn tính, tiếp đến là can đảm đón nhận người khác, và sau cùng là ý hướng chân thành:

Nghĩa vụ bảo vệ căn tính vì không thể xây dựng đối thoại trên sự mơ hồ hoặc hy sinh thiện ích để làm hài lòng người khác; can đảm chấp nhận tha nhân, vì không thể coi và đối xử như kẻ thù những người khác biệt với mình về tôn giáo hoặc văn hóa, nhưng cần đón nhận họ như một người đồng hành, trong xác tín chân thành, theo đó thiện ích của mỗi người hệ tại thiện ích của tất cả; sau cùng là ý hướng chân thành, vì đối thoại không phải là một chiến lược để thực hiện những hậu ý, nhưng là con đường sự thật, đáng được kiên nhẫn đi theo để biến đổi sự cạnh tranh thành sự cộng tác.

ĐTC khẳng định rằng ”Giáo dục về sự cởi mở tôn trọng và đối thoại chân thành với người khác, nhìn nhận các quyền và tự do cơ bản của họ, nhất là về tôn giáo, chính là con đường tốt nhất để cùng nhau xây dựng tương lai, để trở thành những người kiến tạo nền văn minh. Bởi vì giải pháp khác với nền văn minh gặp gỡ chỉ có thể là sự thiếu văn minh vì đụng độ. Để thực sự chống lại những hành vi man rợ của kẻ xách động oán thù và bạo lực, cần đồng hành và làm cho các thế hệ được trưởng thành, họ đáp trả chủ trương tàn phá của sự ác, bằng sự kiên nhẫn tăng trưởng trong sự thiện.

Cũng trong diễn văn tại Hội nghị quốc tế về hòa bình do Viện đại học Al Azhar tổ chức, ĐTC đề cao đất nước Ai Cập như một lãnh thổ của liên kết, của các giao ước. ”Những tôn giáo khác nhau tại đây tạo nên một hình thức làm cho nhau được thêm phong phú để phục vụ cộng đồng quốc gia duy nhất. Các tín những khác nhau gặp gỡ nhau và các nền văn hóa cũng vậy được giao tiếp với nhau, nhưng không bị lẫn lộn, trái lại nhìn nhận tầm quan trọng của sự liên kết để mưu công ích. Sự liên minh như thế ngày nay là điều cấp thiết hơn bao giờ hết.

ĐTC cảnh giác chống lại nguy cơ ngày nay: một đàng người ta muốn đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư, không nhìn nhận tôn giáo như một chiều kích cấu thành con người và xã hội, nhưng đàng khác người ta lẫn lộn lãnh vực tôn giáo và chính trị, mà không có sự phân biệt thích hợp. Có nguy cơ là tôn giáo bị sự quản lý thế sự thu hút và bị những quyền lực trần tục cám dỗ bằng những lời dua nịnh, và lợi dụng tôn giáo.

ĐTC xác quyết rằng tôn giáo không phải là một vấn đề, nhưng là thành phần của giải pháp cho vấn đề.

Và ĐTC kết luận rằng: “Trong tư cách là những vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được kêu gọi vạch mặt bảo lực đội lốt thánh thiêng giả tạo, dựa vào sự tuyệt đối hóa sự ích kỷ, thay vì sự cởi mở chân chính đối với Đấng Tuyệt Đối. Chúng ta phải tố giác những vi phạm chống lại phẩm giá và các quyền con người, đưa ra ánh sáng những toan tính biện minh mọi hình thức oán thù nhân danh tôn giáo, và lên án chúng như một sự giả mạo Thiên Chúa. Thánh danh Ngài là Thánh, Ngài là Thiên Chúa Hòa Bình… Cùng nhau chúng ta tuyên bố sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người, chống lại bất kỳ hình thức bạo lực nào về mặt thể lý, xã hội, giáo dục hoặc tâm lý. Tín ngưỡng nào không nảy sinh từ một con tim chân thành và từ một tình yêu chân chính đối với Thiên Chúa Từ Bi thì đó là một hình thức theo đạo vì qui ước hoặc vì xã hội, nó không giải thoát nhưng còn đè bẹp con người. Hễ ta càng tăng trưởng trong niềm tin nơi Thiên Chúa, thì ta càng tăng trưởng trong tình yêu đối với tha nhân.

ĐTC không quên đề cao nghĩa vụ thăng tiến hòa bình. Không chiều theo thứ tôn giáo hòa đồng lẫn lẫn, nghĩa vụ của chúng ta là cầu nguyện cho nhau, cầu xin Chúa ban ơn hòa bình, gặp gỡ, đối thoại và thăng tiến sự hòa hợp trong tinh thần cộng tác và thân hữu. Ngài lên án những chủ trương mỵ dân và nạn buôn bán võ khí, cần ngăn chặn làn sóng tiền bạc và võ khí đổ cho những kẻ xách động bạo lực.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Ai Cập

Đức Thánh Cha lên đường viếng thăm Ai Cập

CAIRO. Sáng ngày 28-4-2017, ĐTC Phanxicô đã khởi đầu chuyến viếng thăm tại thủ đô Cairo của Ai Cập trong vòng 27 tiếng đồng hồ để thăng tiến hòa bình, tăng cường quan hệ với Hồi giáo và quan hệ đại kết với Giáo Hội Chính Thống Copte.

Đây là chuyến tông du thứ 18 của ĐTC Phanxicô tại nước ngoài và có khẩu hiệu là ”Vị Giáo Hoàng của hòa bình tại Ai Cập an bình”.

Vài nét về Ai Cập

Ai cập, quốc gia ĐTC đến thăm, rộng hơn 1 triệu cây số vuông trong đó khu vực có dân cư sinh sống không vượt quá 6% diện tích toàn quốc. Phần lớn dân chúng sống ở vùng bình nguyên sông Nilo, con sông dài nhất thế giới với 6.671 cây số. 82% lãnh thổ còn lại của Ai Cập là sa mạc.

Trong số 90 triệu dân nước này, khoảng 90% theo Hồi giáo Sunnit, 10% là tín hữu Chính Thống Copte, và có 270 ngàn tín hữu Công Giáo Copte, tương đương với 0,31% dân số, một Giáo Hội được thành lập khi một số tín hữu Chính Thống xin trở về hiệp nhất với Tòa Thánh hồi thế kỷ 18.

Giáo Hội Chính Thống Copte thuộc vào số các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, là những Giáo Hội ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo la tinh và Chính Thống Hy Lạp vì họ không chấp nhận Công đồng chung Calcedonia năm 451. Cùng thuộc nhóm này có Giáo Hội Arméni Tông truyền, Chính Thống Siriac, và Chính Thống Etiopi, Chính Thống Syro bên Ấn Độ. Các Giáo Hội này cũng được gọi là các Giáo Hội tiền Công đồng Calcedonia.

Giáo Hội Công Giáo tại Ai Cập, ngoài các tín hữu theo nghi lễ Copte chiếm đa số, còn có 6 nghi lễ khác là la tinh, Arméni, Maronite, Công Giáo Siriac, Canđê và Hy lạp Melkite. Từ năm 1969, các GM và các bề trên cấp cao của các dòng tu họp thành Hội đồng giáo phẩm Công Giáo Ai Cập, và được Tòa Thánh phê chuẩn qui chế hồi năm 1992. Chủ tịch Hội đồng này hiện nay là Đức Ibrahim Isaac Sedrak, 62 tuổi Thượng Phụ thành Alessandria của Công Giáo Copte.

Chương trình

Sau khi đến Phi trường thủ đô Cairo, ĐTC tới phủ tổng thống Ai Cập, tại đây diễn ra nghi thức đón tiếp, rồi ngài hội kiến riêng với tổng thống, trước khi đến Đại học Hồi giáo Al Azhar, chào thăm Đại Imam Ahmed Al Tayyeb, trước khi đến thính đường Đại học nơi đang diễn ra Hội nghị quốc tế về hòa bình do Đại học này tổ chức từ thứ tư, 27-4-2017. Sau diễn văn của vị đại Imam và bài diễn văn của ĐTC.

 Cuộc viếng thăm của ngài được tiếp tục với cuộc gặp gỡ 800 người thuộc chính quyền, ngoại giao đoàn và các tổ chức của xã hội Ai Cập.

Phần cuối cùng trong các sinh hoạt của ĐTC chiều hôm qua và cuộc viếng thăm Đức Thượng Phụ Tawadros II, hay cũng gọi là Teodoro II, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập, và tham dự buổi cầu nguyện đại kết với đại diện các Giáo Hội Kitô khác.

Cám ơn các ký giả

Trên chuyến bay, ĐTC đã chào thăm các ký giả đi cùng và nói: ”Đây là một cuộc viếng thăm hiệp nhất, huynh đệ. Tôi cám ơn anh chị em vì hoạt động trong hai ngày khẩn trương này. Đây là một cuộc công du có một mong đợi đặc biệt, vì được thực hiện với lời mời của Tổng thống Ai Cập, của Đức thượng phụ Tawadros, Đức Thượng Phụ Công Giáo Alessandria và Đại Iman ở viện Al Azhar. Cám ơn sự đồng hành của anh chị em, vì giúp dân chúng hiểu cuộc viếng thăm này, bao nhiêu người muốn theo dõi”.

Đến Cairo

Sau 3 giờ 15 phút bay từ Roma, vượt qua 2.350 cây số, máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng đã đáp xuống phi trường quốc tế của thủ đô Cairo lúc 2 giờ chiều, giờ địa phương. Đây là một thành phố cổ kính có từ thế kỷ thứ 10 và đông dân nhất tại Phi châu với 10 triệu dân cư, và nếu kể cả vùng ngoại ô thì lên tới 15 triệu người. Cairo cũng được coi là thành phố đẹp nhất thế giới về nghệ thuật Hồi giáo và hãnh diện vì chiếm kỷ lục về số các văn sĩ, thi sĩ, ký giả, nghệ sĩ, và điện ảnh viên trong thế giới Hồi giáo.

Từ trên máy bay bước xuống, ĐTC đã được bộ trưởng đặc ủy của Tổng thống, cùng với Đức Thượng Phụ Ibrahim Isaac Sedrak, Chủ tịch Hội đồng Giáo phẩm Công Giáo Ai Cập và Đức Sứ Thần Tòa Thánh Jan Thomas Limchua, cùng với một số chức sắc Công Giáo tiếp đón và hướng dẫn về dinh Tổng thống ở Heliopolis cách đó 9 cây số. Hiện diện tại phi trường cũng có một phái đoàn hơn 100 đại biểu Kitô và Hồi giáo đón tiếp ĐTC, trong đó có bà Evelin Matta, một tín hữu Kitô. Bà cám ơn ngài vì đã quyết định giữ nguyên chương trình viếng thăm Ai Cập sau vụ khủng bố tại hai thánh đường Chính thống Copte 9 ngày trước khi ngài lên đường.

Tại dinh Tổng thống đã diễn ra nghi thức chính thức tiếp đón ĐTC với quốc thiều và hàng quân danh dự. Tiếp đến ngài hội kiến riêng tới Tổng thống Abdel Fattah Al Sisi tại phòng khánh tiết. Ông năm nay 63 tuổi (1954), nguyên là cựu sinh viên ở đại học Al Azhar và tốt nghiệp quân trường Ai Cập năm 1977 rồi dần dần tiến thân trong binh nghiệp, cho đến khi được tổng thống Mohamed Morsi bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Ai Cập vào năm 2012. Một năm sau đó, tổng thống Morsi bị ông hạ bệ trong một cuộc đảo chánh và năm 2014, Ông được bầu làm tổng thống.

Cuộc hội kiến giữa ĐTC và tổng thống Ai Cập kết thúc với phần trao đổi quà tặng và chụp hình lưu niệm.

G. Trần Đức Anh OP

Thánh tích của Cha Piô sẽ được kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ

Thánh tích của Cha Piô sẽ được kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ

New York – Thánh tích của Cha Piô, một linh mục dòng Cappuchino mang các dấu thánh của Chúa Giêsu, sẽ được trưng bày cho các tín hữu kính viếng tại một số giáo phận ở Hoa kỳ vào tháng 5 và vào mùa thu năm nay, nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh của thánh nhân.

Thánh tích của Cha Piô sẽ được đưa đến 12 nơi trên khắp nước Mỹ, bắt đầu từ ngày 6-8/05 ở nhà thờ chánh tòa hai thánh Phêrô và Phaolô ở Philadelphia.

Thời gian thánh tích đến các địa điểm khác như sau:

– Ngày 09/05 ở nhà thờ chánh tòa thánh Phaolô, Pittsburgh.

– Ngày 10-11/05 ở vương cung thánh đường chánh tòa Vô nhiễm nguyên tội, Denver.

– Ngày 13/05 ở nhà thờ chánh tòa Chúa Phục sinh, Lincoln, Nebraska.

– Ngày 18-19/05 ở nhà thờ thánh Anrê, Pasadena, California.

– Ngày 20-21/05 ở nhà thờ thánh Anna, Arlington, Virginia.

– Ngày 17-18/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Patrick, New York.

– Ngày 20/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Giuse Thợ, La Crosse, Wisconsin.

– Ngày 20/09 ở nhà thờ chánh tòa thánh Gioan thánh sử, Milwaukee.

– Ngày 22-23/09 ở vương cung thánh đường thánh Gioan thánh sử, 

– Ngày 24/09 ở nhà thờ thánh Têrêsa, Trumbull, Connecticut.

– Ngày 29/09 ở nhà thờ chánh tòa Đức Mẹ Lên trời, Saginaw, Michigan.

Cha thánh Piô sinh ngày 25/05/1887, trong một gia đình nghèo, với tên gọi Francesco Forgione. Cậu Francesco gia nhập dòng Capuchin khi 15 tuổi và được thụ phong linh mục khi 23 tuổi. Ngay sau khi thụ phong linh mục, Cha Piô báo với các bề trên về các kinh nghiệm thiêng liêng và những dấu hiệu thể lý, cùng với các vấn đề sức khỏe của Cha.

Năm 1918, khi Cha 30 tuổi, Cha bắt đầu nhận các dấu thánh  – các vết thương của Chúa Giêsu bị đóng đinh, máu chảy ra từ chân, tay và sườn của Cha. Các vết thương này kéo dài suốt 50 năm, cho đến khi Cha qua đời.

Các dấu hiệu và quyền năng đặc biệt của Cha Piô đã thu hút đông đảo dân chúng đến đan viện của Cha ở San Giovanni Rotondo. Các bề trên đã muốn hạn chế sự xuất hiện của Cha trước công chúng và định chuyển Cha đi nơi khác, nhưng vì dân chúng phản đối nên các vị đã không thực hiện điều này.

Sau nhiều năm ngồi giải tội cho hàng dài các hối nhân đến xưng tội và sau khi chịu đau đớn vì bệnh tật, Cha Piô qua đời năm 1968.

Năm 2002, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong Cha Piô lên hàng hiển thánh. (CNS 26/04/2017)

Hồng Thủy 

Thiên Chúa là Đấng ở cùng con người, đồng hành và lo lắng cho con người

Thiên Chúa là Đấng ở cùng con người, đồng hành và lo lắng cho con người

** Thiên Chúa là Emmanuel, Đấng ở cùng chúng ta và sẽ ở cùng chúng ta cho tới tận thế. Ngài luôn luôn đồng hành với chúng ta, lo lắng cho chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta trên con đường lữ hành trần gian.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm qua. Trong bài huấn dụ ĐTC tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về niềm hy vọng kitô bằng cách quảng diễn văn bản trích từ Phúc Âm thánh Mátthêu chương 28 các câu 16 và 18 tới 20 viết rằng: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến… Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,16.18-20). ĐTC nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,20). Các lời cuối cùng của Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc lại lời loan báo ngôn sứ chúng ta tìm thấy ở đầu Phúc Âm. “Người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt 1,23; x. Is 7,14). Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta, mọi ngày, cho tới tận thế. Chúa Giêsu sẽ bước đi với chúng ta, mọi ngày, cho tới tận thế.

Toàn Phúc Âm được gói ghém giữa hai câu trích này là các lời thông truyền cho chúng ta mầu nhiệm của một vì Thiên Chúa, mà tên Ngài và căn tính của Ngài là “ở cùng chúng ta”, Ngài không phải là một Thiên Chúa bị cô lập, nhưng là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, một cách đặc biệt với chúng ta, nghĩa là với con người.

ĐTC định nghĩa Thiên Chúa của Kitô giáo như sau:

** Thiên Chúa chúng ta không phải là một vì Thiên Chúa vắng mặt, bị bắt cóc bởi một bầu trời rất xa xôi; trái lại Ngài là một vì Thiên Chúa “si mê” con người, yêu thương một cách dịu hiền tới độ không có khả năng tự tách rời khỏi con người. Loài người chúng ta khéo léo trong việc chặt đứt các ràng buộc và các cây cầu. Nhưng Thiên Chúa thì không. Nếu trái tim chúng ta lạnh lùng, thì trái tim của Thiên Chúa vẫn nóng bỏng. Thiên Chúa của chúng ta luôn đồng hành với chúng ta, cả khi, vì mạo hiểm, chúng ta quên Ngài. Trên đỉnh cao chia rẽ việc không tin khỏi lòng tin, thật định đoạt việc khám phá ra rằng chúng ta được Thiên Chúa Cha yêu thương và đồng hành, không bao giờ bị Ngài bỏ rơi.

Đời chúng ta là một cuộc hành hương, một con đường. Cả những người được đánh động bởi một niềm hy vọng thuần tuý nhân loại, cũng nhận thức được cám dỗ ở chân trời thúc đẩy họ khám phá các thế giới họ chưa biết tới. Linh hồn chúng ta là một linh hồn di cư. Thánh Kinh đầy những câu chuyện  của người hành hương và khách lữ hành. Ơn gọi của Abraham bắt đầu với lệnh truyền này: “Hãy rời bỏ xứ sở” (St 12,1). Và tổ phụ rời khỏi mảnh thế giới mà ông biết rõ và nó là một  trong các nôi của nền văn minh thời đó. Chúng ta không trở thành người trưởng thành, nếu không nhận thức ra sự hấp dẫn của chân trời: ranh giới giữa trời và đất đòi được đạt tới bởi một dân tộc gồm những người bước đi.

Trong lộ trình của mình trên thế giới, con người không bao giờ cô đơn. Nhất là kitô hữu không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi, bởi vì Chúa Giêsu bảo đảm không chỉ chờ đợi chúng ta vào cuối hành trình của chúng ta, nhưng đồng hành với từng người trong chúng ta mọi ngày.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nêu lên câu hỏi: Việc Thiên Chúa săn sóc cho con người kéo dài cho tới khi nào? Cho tới khi nào Chúa Giêsu bước đi với chúng ta, cho tới khi nào Ngài sẽ săn sóc chúng ta?

Câu trả lời của Phúc Âm không để cho chúng ta nghi ngờ: cho tới tận thế! Trời đất sẽ qua đi, các niềm hy vọng của con người sẽ bị xoá nhoà, nhưng Lời Chúa lớn lao hơn mọi sự sẽ không qua đi. Và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa Giêsu bước đi với chúng ta. Sẽ không có ngày nào trong cuộc sống mà con tim của Thiên Chúa không lo lắng cho chúng ta. Nhưng có ai đó có thể nói: “Cha đang nói gì vậy?” Tôi nói điều này: sẽ không có ngày nào trong cuộc sống trong đó chúng ta sẽ thôi là một âu lo đối với Thiên Chúa. Ngài lo lắng cho chúng ta, và bước đi với chúng ta. Và tại sao Ngài làm điều đó? Một cách đơn sơ bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Anh chị em đã hiểu điều này chưa? Ngài yêu thương chúng ta.

Và chắc chắn Thiên Chúa sẽ lo liệu cho mọi nhu cầu của chúng ta, Ngài sẽ không bỏ rơi chúng ta trong lúc gặp thử thách và đen tối. Sự chắc chắn này xin đuợc làm tổ trong tâm hồn chúng ta để không bao giờ bị tắt ngấm. Có ai đó gọi nó là “Sự Quan Phòng”. Nghĩa là sự gần gũi của Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa, việc Thiên Chúa bước đi với chúng ta cũng gọi là sự “Quan Phòng của Thiên Chúa”. Ngài thấy trước cho cuộc sống chúng ta.

** Không phải vô tình mà giữa các biểu tượng kitô của niềm hy vọng có một biểu tượng tôi rất thích: đó là cái mỏ neo. Nó diễn tả rằng niềm hy vọng của chúng ta không mơ hồ; nó không lẫn lộn với tâm tình thay đổi của người muốn cải tiến các chuyện của thế giới này một cách không thể thực hiện được, chỉ cậy dựa trên sức mạnh của ý chí riêng. ĐTC giải thích gốc rễ niềm hy vọng kitô như sau:

Thật ra, niềm hy vọng kitô  có gốc rễ không phải trong sự hấp dẫn của tương lai, nhưng trong sự chắc chắn về điều Thiên Chúa đã hứa và đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Nếu Ngài đã bảo đảm với chúng ta là sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, nếu khởi đầu của mỗi ơn gọi là một “Theo Ta”, mà Ngài bảo đảm với chúng ta là sẽ luôn luôn ở trước chúng ta, thì tại sao lại sợ hãi? Với lời hưá này các kitô hữu có thể bước đi ở khắp nơi. Cả khi đi qua các phần thế giới bị thương tích, nơi các sự việc không chạy tốt đẹp, chúng ta ở giữa những kẻ vẫn tiếp tục hy vọng. Thánh vịnh nói: “Dù qua qua thung lũng âm u, con không sợ nguy khốn, vì Chúa ở cùng con” (Tv 23,4). Chính ở đâu tối tăm lan tràn, thì cần thắp lên một ánh sáng. Chúng ta hãy trở lại với cái mỏ neo. Đức tin của chúng ta là mỏ neo trên trời. Chúng ta có cuộc sống được neo vào trên trời. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta bám chặt vào dây: nó luôn luôn ở đó. Và chúng ta tiến tới, bởi vì chúng ta chắc chắn rằng cuộc sống chúng ta có một mỏ neo trên trời, trên bờ nơi chúng ta sẽ tới.

Chắc chắn rồi, nếu chúng ta chỉ tin tưởng nơi các sức mạnh của chúng ta thôi, chúng ta sẽ có lý để  cảm thấy  thất vọng và thua cuộc, vì thế giới thường chứng minh cho thấy nó chống lại các luật lệ của tình yêu. Biết bao lần nó thích các luật lệ của ích kỷ. Nhưng nếu còn sống trong chúng ta xác tín Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta và thế giới một cách dịu hiền, thì khi đó viễn tượng lập tức thay đổi. Người xưa có nói: “Con người lữ hành, đuợc nâng đỡ bởi niềm hy vọng”. Dọc dài con đường, lời hứa của Chúa Giêsu “Thầy ở cùng các con” khiến cho chúng ta đứng vững, được nâng đỡ, với viềm hy vọng, bằng cách  tín thác rằng Thiên Chúa nhân từ đã hoạt động để thực hiện điều xem ra không thể được một cách nhân loại, bởi vì mỏ neo ở trên bãi biển trên trời.

Dân thánh trung thành của Thiên Chúa là dân đứng trên chân – là người lữ hành – và bước đi, mà đứng thẳng và bước đi trong hy vọng. Và bất cứ đâu họ đi, họ đều biết rằng Thiên Chúa đi trước họ: không có phần đất nào trên thế giới vượt thoát khỏi chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh. Và chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh là chiến thắng nào?  Chiến thắng của tình yêu.

** ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau trong đó có Hiệp hội giáo hoàng truyền giáo do ĐHY Philippe Barbarin, TGM Lyon hướng dẫn, cũng như cộng đoàn Con Tầu của ông Jean Vanier, và các tín hữu đến từ Pháp và Bỉ. Ngài cũng chào các đoàn hành hương đến từ Anh quốc, Ailen, Đan Mạch, Phần Lan, Nigeria, Australia, Niu Dilen, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngài xin Chúa Kitô Phục Sinh đổ tràn đầy tình yêu thương xót của Thiên Chúa Cha xuống trên họ và gia đình họ.

Trong số các nhóm nói tiếng Đức ngài chào tín hữu đến từ Gais vùng Alto Adige, do ĐC Ivo Muser hướng dẫn, các nữ sinh trường Đức Bà Diessen. ĐTC cũng chào các tín hữu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Brasil, đặc biệt là sinh viên học sinh Carcavelos và Porto Alegre, cũng như tín hữu các giáo xứ Queluz và cộng đoàn Obra de Maria, các tỉnh trưởng và nhân viên phối hợp vùng Bairrada, các quân nhân và các thường dân đua xe đạp. Ngài phó thác mọi công việc phục vụ tha nhân của họ cho Đức Mẹ.

Chào các nhóm Ba Lan ĐTC nói Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã mừng lễ Lòng Thương Xót Chúa và lễ kính thánh Adalberto, Bổn Mạng Ba Lan,  cũng như kỷ niệm 600 năm thành lập toà Giáo chủ Gniezno. ĐTC phó thác cho thánh Giám Mục tử đạo các chủ chăn và tín hữu Ba Lan và khích lệ họ duy trì sống động truyền thống tinh thần và văn hóa cao quý của Ba Lan.

Ngài cũng chào tín hữu Croat đặc biệt là các sinh viên trường sĩ quan cũng như các sĩ quan do ĐC Jure Bogdan hướng dẫn. Ngài xin Thiên Chúa chúc lành cho họ trong mọi sứ mệnh hoà bình của họ.

Trong các nhóm tiếng Ý ĐTC chào các cặp vợ chồng tổng giáo phận Ancona Osimo mừng 50 năm thành hôn và cầu mong chuyến hành hương Roma giúp họ tái khám phá ra các bí tích đã nhận lãnh như dấu chỉ hữu hiệu của ơn thánh Chúa trong cuộc sống. Ngài xin họ nói với giới trẻ rằng cuộc sống hôn nhân kitô rất đẹp. Ngoài ra ĐTC cũng chào các tham dự viên đại hội xây cất chống động đất tại châu Mỹ Latin, do Đại học âu châu tổ chức, các cha dòng Ngôi Lời cao niên tuổi thứ ba, hiệp hội Linh Mục bóng đá và tín hữu nhiều giáo phận Italia. Ngài cầu mong chuyến hành hương Roma củng cố ý thức thuộc gia đình giáo hội của từng người.

Chào giới trẻ người đau yếu và các đôi tân hôn ngài nhắc thứ ba vừa qua là lễ kính thánh sử Mạccô, môn đệ của thánh Phaolô. Cầu mong cho người trẻ biết noi gương thánh sử quyết tâm theo Chúa ; xin thánh nhân trợ giúp các anh chị em đau yếu trong thử thách khó khăn, và nhắc cho các đôi tân hôn biết tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Toà Thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Các giám mục bang Victoria, Australia, chống trợ tử

Các giám mục bang Victoria, Australia, chống trợ tử

Melbourne, Australia – “Làm cho chết êm dịu và trợ giúp tự tử là đối ngược với chăm sóc và nó thể hiện sự bỏ rơi các bệnh nhân và những người đang bị đau đớn, những người già và người đang hấp hối.” Các Giám mục bang Victoria của Australia đã xác định như thế trong thư mục vụ gửi các tín hữu ngày 18/04.

Bốn Đức cha của các giáo phận thuộc bang Victorian viết: “Chúng tôi yêu cầu người dân bang Victoria tiếp tục yêu thương và chăm sóc những người bệnh và đang chịu đau đớn hơn là bỏ rơi, để họ chịu “chết êm dịu”  và ủng hộ việc tự tử. Khả năng chăm sóc của chúng ta nói nhiều về sức mạnh của xã hội chúng ta.”

Các luật gia ở bang Victoria đang dự định cho phép “trợ giúp chết”, nghĩa là cho phép cả làm cho chết êm dịu và trợ giúp tự tử, giới hạn ở một số trường hợp.

Năm 2016, ủy ban quốc hội yêu cầu bang Victoria phát triển việc hợp pháp hóa trợ giúp tự tử và làm cho chết êm dịu. Chính phủ đã thông qua đề xuất này và hiện tại đang có một cuộc tham vấn để quyết định cách thế cho các luật này được thực hiện "an toàn".

Các giám mục Victoria phản đối: “Chúng ta cần hiểu rõ rằng – không có cách an toàn để giết người hay giúp họ giết chính họ.” Các ngài nói rằng giới răn “chớ giết người” là trung tâm của cả luật Thánh kinh và dân luật, và các ngài khuyến khích các tín hữu Công giáo và những người khác cầu nguyện và hành động chống lại dự luật.

Các đức cha nói tiếp: “Trong khi đối diện với sự kết thúc sự sống của một người thân yêu không bao giờ dễ dàng, chúng ta không thể ùng hộ việc hợp pháp hóa này, dù nó được miêu tả thế nào… Trợ giúp vào giờ chết của chúng ta là điều tất cả chúng ta muốn cho mình và cho người khác, tuy nhiên, nó không nên là việc chính hay uống thuốc độc.

Các đức cha khẳng định rằng thay vì hợp pháp hóa việc trợ giúp tự tử, mọi người nên đáp lời các bệnh nhân và người đau bệnh với “sự thật và lòng cảm thông”. Mọi người có nhiệm vụ “bảo vệ, nuôi dưỡng và duy trì sự sống bằng khả năng tốt nhất của mình.”

Các đức cha nhắc lại lời Đức giáo hoàng Phanxicô nói với các thầy thuốc Italia, đối ngược lòng cảm thông giả dối của việc trợ tử với “lòng cảm thông của Tin mừng”, điều đồng hành với chúng ta trong những lúc khó khăn và lòng cảm thương của người Samaritano nhân hậu, là người đã đến gần và giúp đỡ cách cụ thể.”

Theo các đức cha, việc bang miền bác Australia liên tục loại bỏ luật chết êm dịu và trợ tử là bởi vì các nghị sĩ nhận ra việc hợp pháp hóa này đe dọa sự sống của những người yếu đuối dễ tổn thương nhất.

Các đức cha nhấn mạnh đến những phúc lộc người cao tuổi mang lại cho xã hội và khuyến khích chăm sóc họ với lòng biết ơn, như “một phần của moth văn hóa yêu thương và chăm sóc.” 

Các đức cha cám ơn chính quyền về sự dấn thân trong việc chăm sóc và khuyến khích đầu tư thêm vào đường hướng này thay vì trợ tử hay cho “chết êm dịu”. Các ngài nói đến sự đóng góp của Công giáo trong ạng lưới chăm sóc bệnh viện, bệnh viện, chăm sóc người cao tuổi và các dịch vụ khác, và khuyến khích chính quyền hỗ trợ thêm cho các hoạt động này. (CAN 25/04/2017)

Hồng Thủy

Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo sẽ tham dự Thánh lễ của Đức Giáo hoàng ở Ai cập

Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo sẽ tham dự Thánh lễ của Đức Giáo hoàng ở Ai cập

Cairo – Không chỉ các Kitô hữu chờ đợi chuyến viếng thăm của Đức giáo hoàng Phanxicô nhưng cả đất nước Ai cập.

Theo Đức cha Anba Antonios Aziz Mina, giám mục Công giáo Copte ở Guizeh, một dấu chứng của sự quan tâm rộng rãi đến chuyến viếng thăm của Đức giáo hoàng sẽ được thấy qua sự tham gia đa dạng Thánh lễ do ngài cử hành vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ bảy, 29/04, tại sân vận động của căn cứ không quân, ở ngoại ô thủ đô Cairo.

Đức cha Anba Antonios giải thích: “Trước đó, Thánh lễ được dự định cử hành tại một cơ sở trong nhà, ở trung tâm Cairo. Việc thay đổi chương trình là do nhu cầu, không chỉ vì ở sân vận động có thể tổ chức bảo vệ an ninh tốt hơn, nhưng cũng để bảo đảm có nhiều chỗ đầy đủ cho những ai muốn tham dự. Con số tín hữu Công giáo tối đa có thể là 5-6 ngàn và sân vận động có thể chứa 20 ngàn. Sẽ có nhiều tín hữu Chính thống Copte và các Kitô hữu của các giáo hội và cộng đoàn giáo hội địa phương, cũng như các tín hữu Hồi giáo, bên cạnh các phái đoàn đạo đời chính thức.”

Khi đến nơi, Đức giáo hoàng sẽ đi một vòng quanh sân vận động trên xe mui trần để chào các tín hữu và mọi người hiện diện. (Agenzia Fides 26/4/2017)

Đức Giáo hoàng đóng góp vào dự án bãi biển cho người khuyết tật

Đức Giáo hoàng đóng góp vào dự án bãi biển cho người khuyết tật

Vatican – Một tổ chức bác ái ở Ý, điều hành và bảo trì một bãi biển Roma cho các người khuyết tật, đã nhận được đóng góp bất ngờ của Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Trong thông cáo ngày 25/04, tổ chức bác ái “Hoạt động của Tình yêu”, đã bày tỏ sự hân hoan và ngạc nhiên khi nhận được đóng góp nhân danh Đức Giáo hoàng Phanxicô của Đức tổng giám mục Konrad Krajewski, chánh sở từ thiện của Đức Giáo hoàng.

Tổ chức bác ái này điều hành bãi biển "La Madonnina", gần phi trường Fiumicino, cách Roma hơn 17 dặm về hướng tây nam. Bãi biển này được thiết kế đặc biệt cho người khuyết tật và được trang bị các đường đi bộ thuận tiện cho việc đến bãi biển và xung quanh khu vực.

Theo trang web của tổ chức, các tình nguyện viên và các nhân viên y tế từ liên đoàn bơi lội người khuyết tật Italia sẵn sàng để bảo đảm cho các du khách được vui vẻ và an toàn.

Tổ chức cũng cho biết, kèm theo món quà đóng góp, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng ban phép lành của ngài cho các tình nguyện viên và cách đặc biệt, cho những người khuyết tật đến bãi biển này và gia đình của họ. Theo tổ chức bác ái, ý hướng của dự án này là tạo nên một  bãi biển, nơi cho moi người có thể tận hưởng biển cả với những ích lợi của nó.

Tổ chức cho biết số tiền đóng góp của Đức Giáo hoàng chi trả tiền thuê bãi biển cho cả năm. (CNS 25/04/2017)

Hồng Thủy

 

Một thương nhân hưu trí tặng tượng Đức Mẹ Fatima để cổ võ sùng kính Đức Mẹ

Một thương nhân hưu trí tặng tượng Đức Mẹ Fatima để cổ võ sùng kính Đức Mẹ

Từ tháng 01/2013 đến nay, Jose Camara, một thương nhân hưu trí người Bồ đào nha, hiện sống ở Cascais, cách thủ đô Lisbon khoảng hơn 30 cây số, đã tặng hơn 1000 tượng Đức Mẹ Fatima được làm thủ công ở Fatima, cho các giáo xứ, trường học, tu viện, các phong trào Công giáo, nhà tù, vv., và ngay cả cho các cá nhân, trên khắp thế giới. Không chỉ tặng các tượng Đức Mẹ, ông Camara còn trả chi phí vận chuyển, gửi các tượng. Mỗi khi ông Camara nghĩ là ông đã hoàn thành sứ vụ thì lại có ai đó cần một tượng Đức Mẹ Fatima để truyền bá lòng tôn sùng Mẹ, và ông lại tiếp tục công việc.

Ông Camara cho biết, ông bắt đầu việc tặng tượng này với ý tưởng ban đầu là tặng 12 tượng Đức Mẹ Fatima làm bằng tay cho các giáo xứ ở Nam phi, nơi ông đã sống nhiều năm. Sau khi việc dâng tặng của ông được đăng tải trên tuần báo Công giáo “The Southern Cross” ở Nam Phi, chỉ trong tuần lễ đầu tiên, ông đã nhận được 63 thư xin tượng. Cho đến nay ông đã gửi hơn 1000 tượng Đức Mẹ đến hơn 30 nước: từ khắp châu Phi, cho đến Thánh địa Israel, Ấn độ, Philippines, Australia, Anh, Đức, Guatemala, Hoa kỳ, ngay cả các xứ ở Bồ đào nha và một số nơi xa xôi như đảo Reunion và Mauritius. Công việc của ông bắt nguồn từ những người mà ông gặp, ví dụ một linh mục ở Namibia đã lái xe cả ngàn cây số để mua một tượng cho giáo xứ.

Các tượng Đức Mẹ mà ông Camara gửi tặng được làm thủ công, sơn bằng tay, có các kích cỡ khác nhau để dùng trong các nhà thờ. Để đổi lại việc nhận tượng Đức Mẹ, các giáo xứ phải hứa là cộng đoàn giáo xứ sẽ lần hạt Mân côi mỗi tháng một lần và đặt tượng tại bàn thờ hay nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ Fatima.

Ông Camara kể lại hai cuộc gặp gỡ ấn tượng đối với những người nhận tượng. Một phụ nữ ở Cape Town bị ung thư và đang chờ chết. Bà ao ước được Đức Mẹ Fatima đồng hành khi trên giường bệnh. Mặc dù không thường tặng tượng Đức Mẹ cho các cá nhân, ông Camara đã gửi một tượng cho phụ nữ này như là một quà tặng riêng. Thời gian nhận được tượng thường bị chậm trễ do các thủ tục quan thuế và thường cần đến 4 tháng để các pho tượng đến được nơi nhận. Như thế có lẽ pho tượng Đức Mẹ không đến kịp với nữ bệnh nhân đang chờ chết. Nhưng ông Camara vẫn gửi pho tượng cho bà và phó thác cho Đức Mẹ Fatima.

Bốn tháng sau, ông Camara nhận được email, cho biết là phụ nữ này đang trên giường chờ chết nhưng tượng Đức Mẹ họ vẫn chưa nhân được tượng Đức Mẹ. Từ Bồ đào nha, ông Camara tin chắc là bức tượng đang ở sở hải quan Cape Town. Người chị của nữ bệnh nhân đã vội vã đến sở hải quan và xin được nhận bức tượng sớm và đưa đến bệnh viện. Người phụ nữ bị ung thư đã có thể ôm bức tượng và hạnh phúc với Đức Mẹ. Sau đó 24 tiếng đồng hồ, bà đã bình an ra đi. Ông Camara nói: “đó là đức tin. Tôi đã không tin là bà ta có thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ (trước khi qua đời). Một thiếu nữ ở Anh thì viết thư cho ông Camara để xin một pho tượng cho cha của cô đang ở tù tại Kent. Ông Camara đã gửi một bức tượng đến nhà tù và bây giờ, cha của cô gái đó đọc kinh Mân Côi với các bạn tù hàng ngày.

Ông Camara chia sẻ là ông không thể tiếp tục công việc này mãi. Bên cạnh chi phi mua và gửi các pho tượng, các việc lặt vặt, giấy tờ, gửi hàng, làm cho ông bị căng thẳng khi mà ông không còn là một người trẻ nữa và đối mặt với các vấn đề xấu hơn của sức khỏe, và đặc biệt là số tiền tiết kiệm của ông đã gần hết. Ông Camara không muốn mình được nổi tiếng qua việc làm nay, ông không tìm bất cứ lợi lộc gì, nhưng chỉ muốn phục vụ Đức Mẹ Fatima và Thiên Chúa.

Ông Camara kết luận: “Tôi tin việc bác ái thật sự là phải tham gia vào: cởi áo khoác và gọn gàng, xắn tay áo và đối diện với dự án và ngay cả những chi phí to lớn. Và chúng ta phải làm, không phải để vinh danh cho riêng cá nhân mình, nhưng là thực hành với tình yêu dành cho Mẹ Maria của chúng ta. Đức Mẹ của chúng ta đang từ trời cao ban xuống những ơn lành.” (CNS 20/04/2017)

Hồng Thủy

 

Sứ điệp video của Đức Thánh Cha gửi Ai Cập

Sứ điệp video của Đức Thánh Cha gửi Ai Cập

VATICAN. ĐTC hy vọng chuyến viếng thăm của ngài tại Ai Cập là một an ủi và khích lệ cho các tín hữu Kitô và là một sứ điệp thân hữu quí mến đối với nhân dân Ai Cập và trong vùng.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp video gửi quốc dân Ai Cập công bố hôm 25-4-2017 trước cuộc viếng thăm của ngài từ ngày 28 đến 29-4 tới đây. ĐTC nói:

”Tôi thực sự vui mừng đến như một người bạn, như sứ giả hòa bình và như một người hành hương tại đất nước, cách đây hơn 2 ngàn năm, đã cho Thánh Gia tị nạn và tá túc khi trốn chạy những đe dọa của vua Hêrôđê (Xc Mt 2,1-16). Tôi hân hạnh được viếng thăm miền đất đã được Thánh Gia thăm viếng!

Sau khi cám ơn Tổng thống, Đức Thượng Phụ Chính Thống Tawadros II, Đại Iman của Đại học Al-Azhar, và Đức Thượng Phụ Công Giáo Copte, ngài nói:

”Tôi mong ước rằng cuộc viếng thăm này là một vòng tay ôm an ủi và khích lệ cho tất cả các tín hữu Kitô ở Trung Đông; một sứ điệp thân hữu và quí mến đối với tất cả mọi người dân Ai Cập và trong vùng; một sứ điệp huynh đệ và hòa giải cho mọi người con của Abraham, đặc biệt là thế giới Hồi giáo, trong đó Ai Cập chiếm một chỗ hàng đầu. Tôi cầu mong cuộc viếng thăm này cũng là một đóng góp giá trị cho cuộc đối thoại liên tôn với thế giới Hồi giáo và đối thoại đại kết với Giáo Hội Chính Thống Copte kính mến.

ĐTC nhận xét thêm rằng: ”Thế giới chúng ta bị bạo lực mù quáng xâu xé – đánh cả vào trọng tâm đất nước yêu quí của quí vị – thế giới ấy đang cần hòa bình, tình thương và lòng thương xót; cần những người kiến tạo hòa bình và những người tự do và giải thoát, cần những người can đảm biết học hỏi từ quá khứ để xây dựng tương lai mà không khép kín trong những thiên kiến; thế giới ấy đang cần những người bắc cầu hòa bình, đối thoại, công lý và tình nhân đạo”. (SD 25-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Loan báo Tin Mừng trong khiêm nhường chứ không bằng quyền lực

Loan báo Tin Mừng trong khiêm nhường chứ không bằng quyền lực

Việc loan báo Tin Mừng được thực hiện trong khiêm nhường, và cần vượt qua cám dỗ của niềm tự hào kiêu hãnh. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Ra đi loan báo không ngừng nghỉ

Cần ra đi, để loan báo Tin Mừng. Biết đi ra, đây là phong cách sống của người rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng không kiếm tìm sự an toàn, không kiếm tìm những gì là bảo hiểm là bảo đảm. Không. Nếu một nhà giảng thuyết mà kiếm tìm những bảo đảm này nọ, người ấy không phải là nhà rao giảng đích thật của Tin Mừng. Bởi lẽ những nhà giảng thuyết không chân thực ấy, sẽ không đi ra, sẽ tìm điểm dừng, sẽ tìm bến đậu an toàn.

Trước tiên là hãy đi, hãy đi ra. Tin Mừng mà Chúa Giêsu Kitô công bố, luôn cần chúng ta đứng dậy và đi ra, luôn là tiến bước trên đường. Tiến bước trên cả con đường vật lý lẫn con đường tâm linh, và chắc chắn với nhiều khó khăn vất vả khổ đau. Có nhiều người đau yếu, nhiều người khổ đau đang loan báo Tin Mừng cho Giáo Hội, cho các Kitô hữu, và cho bản thân chúng ta. Chúng ta hãy thử nghĩ về điều ấy.

Khiêm nhường loan báo Tin Mừng

Tin Mừng đích thật là Tin Mừng về Chúa Kitô chịu đóng đinh và đã phục sinh. Tại sao sự khiêm tốn lại cần thiết? Bởi vì chúng ta mang trong mình và ra đi loan báo sự khiêm nhường và thứ vinh quang rất khiêm nhường. Việc loan báo Tin Mừng gặp phải nhiều cám dỗ. Đó là cám dỗ của quyền lực, cám dỗ của sự tự hào kiêu hãnh, cám dỗ của thế gian. Nhiều thói thế gian lẻn vào và dụ dỗ chúng ta trong việc rao giảng. Khi chiều theo những cám dỗ ấy, lời rao giảng mất đi sức mạnh của Tin Mừng.

Thế nên, Thánh Phêrô đã nói: “Hãy coi chừng, hãy cảnh giác, hãy cẩn thận… vì kẻ thù của anh em là ma quỷ như sư tử gào thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng những nỗi thống khổ như thế”. Thế đó, việc loan báo Tin Mừng, nếu là việc loan báo đích thực, thì luôn phải đối diện với nhiều cám dỗ.

Có Chúa cùng đồng hành

Chúa sẽ ủi an chúng ta và ban sức mạnh, để chúng ta có thể tiếp tục tiến bước. Chúa luôn đồng hành cùng chúng ta, nếu chúng ta trung thành với sứ điệp Tin Mừng, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để với lòng khiêm nhường chân thật ra đi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh. Cho dù đối với người đời, Chúa Kitô chịu đóng đinh, là cớ vấp phạm, là điều ngu ngốc, và là sự thất bại.

Nguyện xin Chúa ban ân sủng, để chúng ta khiêm tốn lên đường loan báo Tin Mừng, với lòng tự tin đặt nơi chính Chúa. Đó là Tin Mừng chân thật, rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm, rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người. Dù cho có người coi đó là sự điên rồ, là điều không chấp nhận được, thì chúng ta vẫn biết rằng Chúa ở gần chúng ta, ở trong chúng ta, ở bên chúng ta, đồng hành với chúng ta, cùng hoạt động với chúng ta và chuẩn nhận các việc chúng ta làm.

Tứ Quyết SJ

 

Cuộc lạc quyên giúp Thánh Địa

Cuộc lạc quyên giúp Thánh Địa

Ngày 14 tháng 4 thứ sáu Tuần Thánh vừa qua đã có cuộc quyên góp trong mọi nhà thờ trên toàn thế giới để trợ giúp các kitô hữu tại Thánh Địa. Ngày này đã do các Giáo Hoàng phát động nhằm mục đích “duy trì mối dây liên kết giữa tất cả mọi kitô hữu toàn thế giới với các Nơi Thánh trên quê hương của Chúa Giêsu. Tuy nhiên,  trợ giúp Thánh Địa cũng có nghĩa là góp phần cụ thể để tái lập hoà bình, đẩy xa chủ trương cực đoan, khủng bố phá hoại và khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau, chung sống với nhau trong tinh thần khoan nhượng. Cuộc lạc quyên năm 2015-2016 cho Thánh Địa đã thu được hơn 5 triệu 275 ngàn mỹ kim và hơn 1 triệu 833 ngàn Euros.

ĐGH Phaolô VI đã gọi Thánh Địa là “sách Phúc Âm thứ năm”. Đối với chúng ta là các kitô hữu tin nhưng không trông thấy, các Nơi Thánh là việc tiếp cận giúp gần gũi Chúa Giêsu trên bình diện thể lý.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị bài phỏng vấn ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, về cuộc lạc quyên trợ giúp Thánh Địa năm nay.

Hỏi: Thưa ĐHY, trong thư gửi các Giám Mục toàn thế giới để phát động việc quyên góp trợ giúp các kitô hữu Thánh Địa, ĐHY đã viết rằng” ngày nay sống đức tin trong vùng Trung Đông thật không phải là điều dễ dàng”, đặc biệt tại những nước như Iraq, Siria và Ai Cập, nơi các cộng đoàn kitô đã sống kinh nghiệm đại kết của máu, và nơi có  cám dỗ rất lớn rời bỏ quê hương, nếu không nói là từ bỏ đức tin của mình”. Làm thế nào để duy trì sống động niềm hy vọng của vùng đất khốn khổ này?

Đáp: Tôi không tin rằng việc cho tiền có thể ngăn cản cuộc xuất cư của các kitô hữu Thánh Địa. Chúng tôi cố ý yểm trợ các Giáo Hội này với tình huynh đệ liên đới.

Hỏi: Việc trợ giúp duy trì các Nơi Thánh được thực thi như thế nào thưa ĐHY?

Đáp: Việc giữ gìn và bảo trì các Nơi Thánh cũng như việc trợ giúp và nâng đỡ các cộng đoàn kitô nhỏ địa phương rất là quan trọng. Và chúng tôi làm điều đó qua các trợ giúp cho các trường học công giáo và các cơ sở giáo dục, cả trong nước Israel cũng như trên đất của người Palestin. Tôi nghĩ tới đại học Bếtlêhem, nơi có tới 70% sinh viên là tín hữu hồi, và họ được đối xử y như các sinh viên kitô. Tôi cũng nghĩ tới các chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai, là động lực của cuộc sống mục vụ của Giáo Hội. Tôi cũng nghĩ tới các công tác trợ giúp bác ái xã hội, y tế, và tất cả các cơ cấu khác do các kitô hữu Thánh Địa điều hành.

Hỏi: Số tiền quyên góp được phân chia ra sao thưa ĐHY?

Đáp: 65% số tiền lạc quyên hằng năm sẽ được dành cho quỹ Quản thủ Thánh Địa, và 35% dành cho Bộ các Giáo Hội công giáo Đông phương. Trong cả hai trường hợp chúng được sử dụng cho việc bảo quản các đền thánh, các nơi tiếp đón khách hành hương, và các việc cử hành cũng như trợ giúp các cộng đoàn kitô tại Thánh Địa, là các viên đá sống động của Giáo Hội, với các nhu cầu cuộc sống, rao giảng Tin Mừng, thăng tiến xã hội, giáo dục, công lý và hoà bình. Thế rồi cũng để bảo đảm cho việc trợ giúp đào tạo  và cho cuộc sống của các linh mục chủng sinh, cho các cơ cấu bác ái xã hội, đặc biệt là tài trợ cho các trường công giáo, trong đó có đại học  Bếtlêhem là nơi gặp gỡ của các thế hệ trẻ với 70% là sinh viên hồi. Hàng năm đại học nhận đuợc 200.000 mỹ kim, và tiền quyên góp do các sư huynh La Dalle phát động với sự trợ giúp của các tổ chức công tư khác. Tất cả nhằm thăng tiến con người toàn diện theo tinh thần của Thông điệp Tiến Bộ các dân tộc của ĐGH Phaolo VI, mà chúng ta mừng kỷ niêm 50 năm công bố trong các ngày này.

Hỏi: Trong tình hình hiện nay có vấn nạn rất lớn:  liệu các tín hữu kitô có ở lại trong vùng Trung Đông không, thưa ĐHY?

Đáp: Chiến tranh, các bạo lực, khủng bố phá hoại thúc đẩy các kitô hữu di cư. Công tác của Giáo Hội không chỉ được diễn tả qua  các liên lạc ngoại giao mà Toà Thánh có với các nước khác nhau và Toà Thánh xin họ làm những gì có thể để bảo đảm an ninh và hoà bình – là những điều kiện tiên quyết để họ ở lại – nhưng Toà Thánh cũng gần gũi họ trên bình diện thiêng liêng và vật chất nữa. Ngày nay hơn bao giờ hết chúng ta gần gũi với nước Siria, với dân chúng sống trong thành phố Aleppo, với nước Iraq, với dân chúng sống tại Mossul, thương khóc các nạn nhân, và không phải chỉ thương khóc các nạn nhân kitô mà thôi.

Hỏi: Thưa ĐHY, việc quyên góp cũng được dành để cho việc đào tạo thiêng liêng và nhân bản của hàng giáo sĩ và các người sống đời thánh hiến. Đây cũng là một câu trả lời cho các nhu cầu của các cộng đoàn kitô vùng  Trung Đông, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi. Chúng tôi nhấn mạnh trên việc đào tạo toàn vẹn cho hàng giáo sĩ và các người sống đời thánh hiến bằng cách trợ giúp các chủng sinh của các Giáo Hội kitô thuộc nhiều lễ nghi khác nhau hiện diện tại Thánh Địa.

Hỏi: Làm sao có thể hy vọng rằng một linh mục không rời bỏ các nơi thánh này, nếu ngài không có con tim và linh hồn bị đóng đanh vào Thập Giá của Chúa Giêsu? Việc xuất cư của các kitô hữu cũng được biện minh bởi sự kiện các linh mục bỏ đi như đã xảy ra bên Iraq, thưa ĐHY?

Đáp: Nếu các linh mục không được đào tạo toàn vẹn, thì khó mà có thể ở lại với đoàn chiên trong các quốc gia vùng này.

Hỏi: Hiện nay có một  cấp thiết ưu tiên đó là việc tiếp đón người di cư tỵ nạn trốn chạy chiến tranh như bên Libăng, Giordania và Thổ Nhĩ Kỳ… Việc dấn thân cứu trợ nhân đạo có thể khiến cho sự chú ý tới công tác giữ gìn các Nơi Thánh bị nới lỏng hơn không thưa ĐHY?

Đáp: Các Nơi Thánh bằng đá gạch thì vẫn còn nguyên đó.

Hỏi: Như vậy có nghĩa là  các kitô hữu, cũng như tín hữu các tôn giáo khác không bị lệ thuộc vào các dinh thự đền đài, có đúng thế không thưa ĐHY?

Đáp: Ngày 22 tháng 3 vừa qua chúng tôi đã khánh thành việc trùng tu Thánh Mộ và tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu nữa chúng tôi cũng sẽ trông thấy lễ khánh thành việc trùng tu vương cung thánh đường Giáng Sinh tại Bếtlêhem.  Trong việc trùng tu vật chất này, như ĐTC Phanxicô đã nói, chúng tôi phải trông thấy việc trùng tu tinh thần là hoa trái của việc hoán cải cá nhân và việc hoán cải của Giáo Hội.

Hỏi: Thưa ĐHY việc tái mở Thánh Mộ mới đây cho tín hữu và du khách hành hương kính viếng có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây đã là một trong các điểm tột đỉnh của nỗ lực giữ gìn, bảo trì và trùng tu các nơi thánh. Và lời cầu nguyện đại kết mà ĐTC Phanxicô đã làm hồi tháng 5 năm 2014 trở thành vĩnh viễn qua ước mong của mọi cộng đoàn kitô hiện diện tại Thánh Địa hoạt động để củng cố cơ cấu của Thánh Mộ. Đã có sự hợp tác của Toà Thánh, qua Phủ Quốc Vụ Khanh và Bộ các Giáo Hội Đông Phương, Toà Thượng Phụ chính thống hy lạp Giêrusalem cũng như Toà Thượng Phụ Armeni, các Giáo Hội Kitô địa phương, các  ân nhân và các cơ quan của thế giới hồi giáo, cũng như của quốc vương Giordania. Dấu chỉ này của sự hiệp nhất muốn tiếp tục qua một thoả hiệp mới, dự trù tái thiết nền và vùng chung quanh Thánh Mộ, cho phép bảo đảm việc trùng tu. Cũng đang có việc trùng tu vương cung thánh đường Bếtlêhem nơi Chúa Giêsu đã giáng sinh. Cả trong trường hợp này nữa Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cũng đóng góp. Con đường còn dài, chính quyền Palestina cũng chú ý tới việc này vì giá trị quốc tế của đền thờ vượt qua các ranh giới quốc gia và lợi lộc riêng tư, như các cây cột của vương cung thánh đường nhắc nhớ chúng ta, vì chúng đi từ thời vua Olaf của Na Uy cho tới thánh Bagio, và biết bao nhiêu vị thánh thuộc nhiều dân tộc và quốc gia khác. Hai công cuộc trùng tu này là dấu chỉ của tương lai nên một mà chúng ta hy vọng có thể được thực hiện, nhất là tại Thánh Địa nơi có một sự hiện diện đa hình dạng của các Giáo Hội Kitô.

Hỏi: Thưa ĐHY, có một yếu tố quan trọng làm thành sức sinh động của Giáo Hội tại Thánh Địa: đó là việc hành hương. Mặc dù có dấu hiệu cho thấy việc hành hương bắt đầu trở lại, con số tín hữu và khách hành hương giảm sút, vì có các căng thẳng trong vùng và một việc thông tin miêu tả Thánh Địa như là một nơi không an ninh, có đúng thế không?

Đáp: Các chuyến hành hương là một quyên góp trong việc quyên góp. Chúng là một trợ giúp cho các kitô hữu địa phương, trong đó có người làm việc trong lãnh vực du lịch tôn giáo. Số tín hữu hành hương giảm cũng khiến cho việc trợ giúp này gặp nguy hiểm. Chắc chắn là việc miêu tả Thánh Địa như nơi có nhiều căng thẳng có thể ảnh hưởng trên làn sóng hành hương.

Hỏi: Trái lại, sự kiện Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và Phanxicô viếng thăm Thánh Địa đã thúc đẩy làn sóng hành hương lên cao. Và nhiều tín hữu hành hương cũng cho biết là tình hình Thánh Địa có an ninh, và việc hành hương các Nơi Thánh gây ra một cú sốc tinh thần, có phải vậy không thưa ĐHY?

Đáp. Vâng, thật là rất đẹp khi thấy một Giám Mục hướng dẫn tín hữu giáo phận đi hành hương Thánh Địa.

Hỏi: Việc trợ giúp các cộng đoàn kitô và các Nơi Thánh là một loại “ngoại giao” của tình liên đới. Hành động này có thể góp phần cho nền hoà bình tại Thánh Địa và cho việc triệt hạ các hình thức cuồng tín tôn giáo dưỡng nuôi các hành động khủng bố phá hoại bên trong và bên ngoài tôn giáo như thế nào thưa ĐHY?

Đáp: Chúng ta phải tìm trở thành những người hoạt động cho hoà bình một cách cụ thể và không chỉ hạn chế trong các lời tuyên bố mà thôi. Yểm trợ Thánh Địa là góp phần cụ thể cho hoà bình, là làm chứng tá rằng có thể sống chung với nhau, trong an ninh và hoà bình tại Israel, tại Palestina, bên Siria, bên Iraq; là đẩy xa khuynh hướng cực đoan và khủng bố, là khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau, chung sống với nhau và khoan nhượng đối với nhau. Trợ giúp các kitô hữu của các vùng đất này là góp phần xây dựng hoà bình.

( SD 14-4-2017; Os.Rom. 12-4-2017)

Linh Tiến Khải

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với Đức Thánh Cha: 23-4-2017

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với Đức Thánh Cha: 23-4-2017

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa chúa nhật 23-4-2017, cũng là ”Chúa nhật Áo Trắng, ĐTC Phanxicô diễn giải về Lòng Thương Xót của Chúa và lễ kính Lòng Chúa Xót Thương.

Ngài nói với hơn 20 ngàn tín hữu hiện diện:  Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Mỗi chúa nhật chúng ta tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng trong mùa này sau lễ Phục Sinh, chúa nhật có một ý nghĩa càng rạng ngời hơn. Trong truyền thống của Giáo Hội, chúa nhật này được gọi là ”in albis”, thành ngữ này muốn nhắc lại nghi thức mà những người đã chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục Sinh thi hành. Mỗi người nhận được một áo trắng, alba, để chỉ phẩm giá mới của con cái Thiên Chúa. Chúa nhật hôm nay cũng vậy, các tân tòng nhận được một chiếc áo trắng nhỏ tượng trưng, trong khi những người lớn thì mặc áo trắng lớn của mình. Áo này, xưa kia, được mặc trong một tuần lễ, cho đến chúa nhật in albis – tức là chúa nhật sau lễ Phục Sinh – khi họ cởi áo này và các tân tòng bắt đầu đời sống mới trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội.

Trong Năm Thánh 2000, thánh Gioan Phaolô 2 đã qui định rằng chúa nhật này được dâng kính Lòng Chúa thương xót. Thật là một trực giác rất đẹp! Năm Thánh đặc biệt Lòng Thương Xót cũng mới kết thúc cách đây vài tháng và chúa nhật này mời gọi chúng ta mạnh mẽ lấy lại ơn thánh xuất phát từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay là một trình thuật cuộc hiện ra của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ họp nhau trong Nhà Tiệc Ly (Xc Ga 20,19-31). Thánh Gioan kể rằng Chúa Giêsu, sau khi chào các môn đệ, Ngài nói với họ: ”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói rồi, Ngài thổi hơi vào họ và nói thêm: ”Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai ngừơi ấy được tha” (vv.21-23). Đó là ý nghĩa lòng thương xót được trình bày trong ngày Chúa Giêsu sống lại như ơn tha thứ tội lỗi. Chúa Giêsu đã thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, như nghĩa vụ đầu tiên, chính sứ mạng của Ngài là mang đến cho tất cả mọi người sự loan báo cụ thể về ơn tha thứ. Dấu chỉ hữu hình này về lòng thương xót của Chúa mang theo an bình trong tâm hồn và niềm vui được tái gặp gỡ với Chúa”.

Lòng thương xót dưới ánh sáng Phục Sinh tỏ cho thấy được nhận thức như một hình thức ý thức thực sự về mầu nhiệm chúng ta đang sống. Chúng ta biết rằng ta nhận biết qua nhiều hình thức: qua các giác qua, qua trực giác, lý trí, và những cách khác. Đúng thế, ta cũng có thể nhận biết qua kinh nghiệm về lòng thương xót nữa! Lòng thương xót mở cửa tâm trí để hiểu rõ hơn mầu nhiệm Thiên Chúa và cuộc sống bản thân chúng ta. Lòng thương xót giúp hiểu rằng bạo lực, oán hận, trả thù không có ý nghĩa gì, và nạn nhân đầu tiên chính là người sống những tâm tình ấy, vì họ bị mất phẩm giá của mình. Lòng thương xót cũng mở cửa tâm hồn và giúp biểu lộ sự gần gũi, nhất là với những người lẻ loi và bị gạt ra ngoài lề, vì làm cho họ cảm thấy là anh chị em của nhau và là con của một Cha duy nhất. Lòng thương xót giúp nhận ra những người cần an ủi và làm cho ta tìm được những lời nói thích hợp để ủi an họ. Lòng thương xót sửa ấm tâm hồn và làm cho nó nhạy cảm đối với những nhu cầu của anh chị em qua sự chia sẻ và tham gia. Tóm lại, lòng thương xót kêu gọi mọi người trở thành dụng cụ của công lý, hòa giải, và hòa bình. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng lòng thương xót chính là chìa khóa chủ yếu trong đời sống đức tin, và là hình thức cụ thể qua đó chúng ta mang lại sự cụ thể hữu hình cho sự sống lại của Chúa Giêsu.

Và ĐTC kết luận với lời khẩn nguyện, xin Mẹ Maria, Mẹ Từ Bi Thương Xót, giúp chúng ta tin và vui sống tất cả những điều ấy.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC nhắc nhở rằng: thứ bẩy 22-4-2017 tại thành Oviedo bên Tây Ban Nha có lễ phong chân phước cho Cha Louis-Antoine Ormières. Cha sống hồi thế kỷ 19, đã dùng tất cả khả năng nhân bản và tinh thần của mình để phục vụ giáo dục, và với mục đích ấy, cha đã thành lập dòng các nữ tu Thiên thần Bản mệnh. Ước gì tấm gương và lời chuyển cầu của cha đặc biệt giúp đỡ những người đang hoạt động tại các học đường và trong lãnh vực giáo dục.

ĐTC chào thăm tất cả các tín hữu Roma, những tín hữu hành hương từ Italia và bao nhiêu nước khác, đặc biệt ngài nhắc đến các tín hữu hành hương người Ba Lan và ca ngợi sáng kiến của Caritas Ba Lan nâng đỡ bao nhiêu gia đình ở Siria. Ngài không quên chào thăm các tín hữu tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa họp nhau tại Nhà Thờ Chúa Thánh Thần in Sassia gần Vatican, nơi đặc biệt cử hành các buổi lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa.

Sau cũng, ĐTC gửi lời cám ơn tất cả những người đã gửi lời chúc mừn gngài nhân dịp lễ Phục Sinh. Ngài cũng chân thành chúc mừng họ và cầu xin cho mỗi người, mỗi gia đình được ơn thánh của Chúa Phục Sinh.

G. Trần Đức Anh OP

 

Đức Thánh Cha phê bình chính sách Âu Châu về tỵ nạn

Đức Thánh Cha phê bình chính sách Âu Châu về tỵ nạn

ROMA. ĐTC đề cao tầm quan trọng của các vị tử đạo và phê bình chính sách Âu Châu về di dân và tỵ nạn.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi Phụng Vụ Lời Chúa tại Vương cung thánh đường thánh Bartolomeo ở Roma chiều thứ bẩy 22-4-2017 do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức để tưởng niệm ”các vị tử đạo mới” trong thế kỷ 20 và 21.

Mở đầu, Giáo Sư Andrea Riccardi, Sáng lập viên Cộng đồng thánh Egidio, đã cám ơn ĐTC và nêu nhận xét: ”Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng trong tư cách là Kitô hữu chúng ta không chiến thắng bằng quyền lực, võ khí, tiền bạc, sự đồng thuận, Kitô hữu không phải là những anh hùng, nhưng họ chỉ có một sức mạnh duy nhất là sức mạnh khiêm tốn của đức tin và tình yêu; họ không cướp mất sự sống nhưng trao ban sự sống, như Chúa Giêsu đã làm, Đấng đã không tự cứu bản thân, và không trốn chạy khỏi Jerusalem”.

Trong buổi cầu nguyện cho 3 chứng nhân trình bày chứng từ, đặc biệt là bà Roselyne Hamel, em gái của cha Jacques Hamel bị hai tên khủng bố Hồi giáo sát hại hồi năm ngoái ở Pháp. Bà nói: ”Ước gì sự hy sinh của cha Jacques mang lại những hoa trái, để con người ngày nay có thể tìm được con đường sống chung trong an bình”.

Trong bài giảng sau các bài sách thánh, ĐTC Phanxicô nhắc lại rằng Giáo Hội là Giáo Hội nếu là Giáo Hội của những vị tử đạo, tức là những người đã nhận được ơn tuyên xưng Chúa Giêsu cho đến chết.. và cũng có bao nhiêu vị tử đạo âm thầm, những ngừơi nam nữ trung thành với sức mạnh dịu dàng của tình thương, với tiếng nói của Chúa Thánh Linh, và trong cuộc sống hằng ngày, họ tìm cách giúp đỡ anh chị em và yêu mến Thiên Chúa không chút dè dặt”.

ĐTC cũng ứng khẩu nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại trại tị nạn ở đảo Lesbo bên Hy Lạp hồi tháng 4 năm 2016, và nói: ”Ngày hôm nay tôi muốn thêm một hình ảnh nữa, đó là những người tị nạn và những cuộc bách hại các tín hữu Kitô.. Khi ở đảo Lesbo, tôi chào những người tị nạn, tôi thấy một người đàn ông khoảng 30 tuổi với 3 đứa con nhỏ, ông nhìn tôi và nói: ”Thưa cha, con là người Hồi giáo, vợ con là tín hữu Kitô và những tên khủng bố đến đất nước chúng con. Họ nhìn chúng con và hỏi xem chúng con theo đạo nào, và khi thấy vợ có một thánh giá, chúng bảo vợ con vứt thánh giá đi. Vợ con không chịu làm theo lời chúng, thế là chúng cắt cổ vợ con ngay trước mặt con. Chúng con rất thương yêu nhau”.

ĐTC nói tiếp: ”Đó là hình ảnh mà ngày hôm nay tôi mang như một món quà. Tôi không biết người đàn ông ấy còn ở đảo Lesbo hay đã được đi định cư tại nơi hác. Tôi không biết ông ấy có khả năng ra khỏi cái trại tập trung ấy hay không, các trại tị nạn là những trại tập trung, vì có đông chật người tại đó. Người ta bỏ họ tại đó vì những hiệp định quốc tế dường như quan trọng hơn các quyền con người. Người đàn ông tị nạn ấy không nuôi oán hận, ông ta là người hồi giáo đã phải chịu thập giá đau khổ ấy và ông mang thập giá đó không chút oán hận. Ông nương náu trong tình thương của vợ”.

Sau buổi cầu nguyện, ĐTC còn gặp gỡ và chào thăm những người tị nạn được đến Italia qua hành lang nhân đạo do Cộng đồng thánh Egidio và Ban lãnh đạo Tin Lành Valdesi làm trung gian.

ĐTC cũng tố giác sự tàn ác chống lại những người di dân và nói: ”Ước gì lòng quảng đại từ miền nam, nơi đảo Lampedusa, Sicilia, và Lesbo có thể lây sang tất cả chúng ta. Chúng ta ở trong nền văn minh không sinh con cái, nhưng chúng ta lại khép kín cửa đối với những người di dân, thái độ này có nghĩa là tự sát. Chúng ta hãy nghĩ đến sự tàn ác mà ngày nay người ta hăng say gây ra cho dân tị nạn, cho sự bóc lột những người đến từ những con thuyền, và họ ở lại đó tại những nước quảng đại, Italia và Hy Lạp đón nhận họ nhưng các hiệp định quốc tế không để họ được đi định cư nơi khác”. Và ĐTC khuyên: ”Nếu tại Italia mỗi thành phố làng xã đón tiếp 2 người di dân thì sẽ có chỗ cho tất cả mọi người” (RG, Repubblica 22-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

Sứ điệp Tòa Thánh gửi các Phật Tử

VATICAN. Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn chúc mừng các Phật Tử trên thế giới nhân dịp lễ Vesakh và cổ võ cùng nhau cấp thiết thăng tiến một nền văn hóa hòa bình và bất bạo động.

Trên đây là nội dung Sứ điệp của ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, và của Đức Cha Tổng thư ký Miguel Ángel Ayoso Guixot, công bố hôm 22-4-2017 nhân lễ Vesakh. Đối với các tín đồ Phật giáo nguyên thủy, lễ này mừng cuộc đản sinh, thành đạo và viên tịch của Đức Phật, trong khi các tín đồ Phật giáo đại thừa, cử hành các biến cố đó vào những ngày khác nhau. Năm nay lễ Vesakh được cử hành vào ngày 10-5 tới đây.

Trong sứ điệp, Hội đồng Tòa Thánh nhận xét rằng trong khi nhiều tín hữu dấn thân thăng tiến hòa bình, thì có những người khác lại khai thác tôn giao để biện minh cho những hành vi bạo lực và oán thù…

Chúa Giêsu và Đức Phật cũng cổ võ bất bạo động và là những người xây dựng hòa bình. Như ĐGH Phanxicô đã viết ”Cả Chúa Giêsu cũng sống trong thời kỳ bạo lực. Ngài dạy rằng chiến trường đích thực trong đó bạo lực và an bình đụng độ nhau chính là tâm hồn con người: ”Thực vậy, từ bên trong, tức là từ tâm hồn con người, xuất phát những ý hướng xấu” (Mc 7,21) (Sứ điệp Ngày thế giới hòa bình 2017).

Cả Đức Phật cũng loan báo một sứ điệp bất bạo động và hòa bình, khuyến khích tất cả mọi người ”hãy chiến thắng kẻ giận dữ không phải bằng sự nổi giận, chiến thắng kẻ gian ác bằng sự từ nhân, chiến thắng kẻ lầm than bằng sự quảng đại, và thắng kẻ gian dối bằng sự thật” (Kinh Pháp Cú [Dhammapada], n. XVII, 3).

Cụ thể hơn, Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn cổ võ sự dấn thân chung của các tín hữu Kitô và Phật tử và khẳng định rằng:

”Chúng ta đồng ý là bạo lực nảy sinh từ trái tim con người, và sự ác của con người đưa tới những cơ cấu gian ác. Vì thế chúng ta được kêu gọi thực hiện một công trình chung: nghiên cứu những nguyên nhân gây nên bạo lực; giảng dạy cho các tín hữu liên hệ cách thức chiến thắng sự ác trong tâm hồn của họ; giải thoát khỏi sự ác các nạn nhân cũng như những người phạm những hành vi bạo lực; huấn luyện tâm trí của tất cả mọi người, đặc biệt là các trẻ em, hãy yêu mến và sống an bình với tất cả mọi người và với môi trường; giảng dạy rằng không có hòa bình nếu không có công lý, và cũng không có công lý đích thực nếu không có tha thứ; mời gọi tất cả mọi người hãy cộng tác vào việc phòng ngừa các xung đột trong sự tái thiết các xã hội bị phân tán; khuyến khích các phương tiện truyền thông xã hội tránh và bài trừ những diễn văn oán thù, và những tương quan phe phái, khiêu khích; khuyến khích những cuộc cải tổ giáo dục để phòng ngừa sự giải thích xuyên tạc và xấu xa về lịch sử và các sách Kinh Thánh; sau cùng là cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới qua việc cùng nhau tiến bước trên con đường bất bạo động” (SD 22-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Hội nghị đầu tiên của Hiệp hội khoa học gia Công giáo

Hội nghị đầu tiên của Hiệp hội khoa học gia Công giáo

Chicago, Illinois – Từ ngày 21-23/04, Hội nghị đầu tiên của Hiệp hội Khoa học gia Công giáo sẽ diễn ra tại Hotel Knickerbocker ở Chicago.

Hội nghị sẽ tập trung trên các vấn đề về sự khởi đầu: nguồn gốc của ý thức, nguồn gốc của ngôn ngữ loài người, nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc của sinh vật sống. Dự kiến sẽ có khoảng 100 tham dự viên vào buổi khai mạc hội nghị.

Hiệp hội Khoa học gia Công giáo được thành lập vào giữa năm 2016 với mục đích làm chứng về sự hòa hợp giữa ơn gọi của khoa học gia và đời sống đức tin. Nó giúp nuôi dưỡng tình thân hữu giữa các nhà khoa học và cung cấp tài liệu và diễn đàn thảo luận cho những người có câu hỏi về khoa học và đức tin, trong khi vẫn gắn kết với giáo huấn Công giáo.

Marissa March, nhà vật lý và nghiên cứu gia từ trường đại học Pensylvania sẽ trình bày về đề tài “Khoa học gia Công giáo trong thế giới thế tục: Ý nghĩa của ơn gọi chúng ta là gì và làm sao phân biệt được chúng ta?”

Còn cha Joachim Ostermann, một tu sĩ dòng Phanxicô người Canada, một giáo sư hóa sinh, sẽ nói về khoa học dưới ánh sáng của quan điểm Kitô giáo về con người.

Các thuyết trình viên Công giáo khác gồm có tu sĩ Guy Consolmagno, dòng Tên, giám đốc đài thiên văn Vatican; Karin Öberg, giáo sư thiên văn học của đại học Havard; và Kenneth R. Miller, giáo sư sinh học của đại học Brown.

Cũng có một số thuyết trình viên không Công giáo như Robert C. Berwick, chuyên viên khoa học vi tính ở Học viện kỹ thuật Massachusetts, nói về những ý tưởng mà ông và giáo sư Noam Chomsky đã phát triển về nguồn gốc của ngôn ngữ loài người và lý do họ tin là không có loài vật nào có thứ gì giống ngôn ngữ loài người; John D. Barrow, một giáo sư vật lý lý thuyết đến từ đại học Cambridge, thảo luận về quan điểm của ông về nguồn gốc và tiến hóa của vũ trụ.

Hiệp hội Khoa học gia Công giáo có vài trăm thành viên, bao gồm các nhà nghiên cứu hàng đầu trong các lãnh vực sinh học vũ trụ, lý thuyết tiến hóa, vv. Chủ tịch của Hiệp hội là Stephen M. Barr, giáo sư vật lý và thiên văn học của đại học Delaware. Đức Tồng giám mục Charles Chaput của Philadelphia là cố vấn của Hiệp hội. (CNA 19/04/2017)

Hồng Thủy

Một Linh mục dòng Tên bị bắt cóc ở miền nam Nigeria

Một Linh mục dòng Tên bị bắt cóc ở miền nam Nigeria

Abuja – Cha Samuel Okwuidegbe, dòng Tên, 50 tuổi, bị bắt cóc hôm 18/04, trên đường từ thành phố Benin đến Onitsha.

Theo tin của báo La Croix, cha Okwuidegbe đang đi đến nơi giảng tĩnh tâm, cách trung tâm tĩnh tâm nơi cha điều hành và sống với 3 tu sĩ dòng Tên khác 150 cây số. Chiếc xe của cha được cảnh sát tim thấy khi họ đi tìm cha.

Cha Rigobert Kyungu Musenge, Tổng thư ký dòng Tên vùng châu Phi và Madagasca cũng cho biết là có 2 người khác bị bắt cóc cùng với cha Okwuidegbe và theo cha, đây là lần đầu tiền một linh mục dòng Tên là nạn nhân của vụ bắt cóc ở trong vùng. Cha không nghĩ là cha Okwuidegbe bị bắt cóc vì là linh mục.

Năm 2016, một số linh mục Công giáo bị bắt cóc tại các vùng khác nhau ở Nigeria, đặc biệt là ở khu vực phía nam.

Cha Sylvester Onmoke, chủ tịch hội linh mục giáo phận của Nigeria đã mô tả “làn sóng bắt cóc các linh mục và tu sĩ gần đây như một cuộc tấn công vào Giáo Hội”. (Agenzia Fides 21/4/2017)

Hồng Thủy

Đức Thánh Cha sẽ phong thánh hai hiển thánh tại Fatima

Đức Thánh Cha sẽ phong thánh hai hiển thánh tại Fatima

VATICAN. ĐTC sẽ chủ sự lễ phong hiển thánh cho hai chân phước thiếu nhi Phanxicô và Giacinta Marto vào ngày 13-5 tới đây tại Fatima, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại đây với 3 mục đồng.

Tin trên đây được ĐTC thông báo trong công nghị Hồng Y sáng ngày 20-4-2017 tại Vatican.

Chân phước Phanxicô qua đời năm 1919 lúc mới được 11 tuổi và em ruột là Giacinta qua đời năm 1920 khi được 10 tuổi. Cả hai đã được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 13-5-2000 tại Fatima. Với Phanxicô và Giacinta Marto, đây là lần đầu tiên trong lịch sử hai trẻ em không phải là tử đạo, được phong hiển thánh.

Trước đó, Bộ Phong thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của hai chân phước thiếu nhi: một em bé 6 tuổi ở Brazil, năm 2013, bị té từ lầu 3 xuống vệ đường và bị thương ở đầu và não bộ. Thân nhân em đã cầu xin hai chân phước cứu chữa và em bé đã được lành bệnh hoàn toàn.

35 chân phước khác

Trong công nghị, ĐTC cũng quyết định phong hiển thánh cho 35 vị chân phước. Trước khi đọc bản giới thiệu các vị chân phước, ĐHY Angelo Amato cũng nhắc đến các trẻ em trên thế giới ngày nay, nạn nhân của bạo hành và lạm dụng.

Đứng đầu danh sách được trình bày là Cha Andrea de Soveral, Cha Ambrogio Francesco Ferro, LM giáo phận, và giáo dân Matteo Moreira cùng với 27 vị tử đạo tại Brazil. 30 chân phước này tử đạo ngày 16-7-1645 và 3-10-1645, vì bị những người Tin Lành Calvin Hòa Lan giết trong cuộc xung đột với các tín hữu Công Giáo Bồ đào nha.

Tiếp đến là 3 chân phước thiếu niên tử đạo người Mêhicô là Cristoforo, Antonio và Giovanni, bị giết vì đức tin ở Mêhicô năm 1529. 3 vị này quen được gọi là ”Các trẻ tử đạo ở Tlaxcala”, là những thổ dân đầu tiên trở lại Công Giáo ở Mêhicô, bị giết vì đã nhân danh đức tin Kitô từ chối sự tôn thờ thần tượng và tục đa thê.

Thứ ba là Cha Faustino Miguez, thuộc dòng Scolopi, sáng lập Hội dòng Calasanziano của các Nữ tử Chúa là Mục Tử.

Thứ tư là chân phước LM Angelo da Acri, tục danh là Luca Antonio Falcone, thuộc dòng Capucino, qua đời năm 1739, thọ 70 tuổi.

35 chân phước sẽ được phong hiển thánh ngày 15-10 năm nay (SD 20-4-2017)

G. Trần Đức Anh OP 

 

Dự án “làng Đức Giáo hoàng Phanxicô” ở Trung phi

Dự án “làng Đức Giáo hoàng Phanxicô” ở Trung phi

Bangui – Một ngôi làng mang tên “Đức Giáo hoàng Phanxicô” sẽ là nơi gặp gỡ của các cộng đồng tôn giáo khác nhau ở Cộng hòa Trung Phi. Dự án đang được phái đoàn các chuyên viên về Trung phi của Vatican nghiên cùng với Chương trình của các tôn giáo của Trung phi nghiên cứu.

Martin Nkafo Nkamitia, giám đốc phân bộ Nghiên cứu cỗ võ văn hóa Trung phi và chủ tịch phái đoàn các chuyên viên Vatican về Trung phi nhắc lại: “Đức Giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định Bangui là thủ đô tinh thần của nhân loại. Ngài đã mở cửa Năm Thánh ở Bangui. Lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội Cửa Thánh được mở bên ngoài Vatican. Đó là những cảm thức không thể bỏ qua. Bởi thế chúng tôi đã nghĩ đén việc thành lập một ngôi làng, nơi có thể là điểm gặp gỡ của các cộng đồng tôn giáo ở Trung Phi, để ghi nhớ cuộc viếng thăm Trung phi của Đức Thánh Cha.”

Dự án làng “Đức Giáo hoàng Phanxicô” đã được trình lên tổng thống Trung phi và thị trưởng Bangui trong dịp bổ nhiệm của Đức hồng y Dieudonné Nzapalainga.

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã thăm Trung phi từ ngày 29-30/11/2015 và đã để lại một kỷ niêm tại quốc gia này, đặc biệt trên bình diện các mối tương giao liên tôn, nhờ cuộc viếng thăm ấn tượng những người di dân tụ họp trong đền thờ Hồi giáo chính của khu PK5. (Agenzia Fides 20/4/2017)

Hồng Thủy