Thái độ vâng phục

Thái độ vâng phục

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.

Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về "Cuộc Đời Của Mình", Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:

Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.

Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.

Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.

Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa "Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa".

Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Veritas Radio

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?

2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?

3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Lời nói đi đôi với việc làm

Lời nói đi đôi với việc làm

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:

Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.

Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.

Thưa anh chị em,

Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.

Thưa anh chị em,

Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.

Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.

Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.

Hối hận nên lại đi

Hối hận nên lại đi

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông."

Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu, những người đáng kính vì đạo đức và học thức, những người đáng trọng vì chức vụ.

Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?

Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.

Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.

Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật. Tiếc thay chính sự đạo đức của họ lại làm cho họ tự mãn và khép kín đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.

Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn. Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.

Đi làm hay không đi làm vườn nho đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.

Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.

Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.

"Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu, để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?"

"Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến"

Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).

Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.

Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.

Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu. Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi, sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.

Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.

Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).

Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống: "Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy" (Mt 7,21).

Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu, nhưng lại không thuộc về Đức Kitô, bởi có một khoảng cách rất xa giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?

Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Đức Thánh Cha khuyến khích chuẩn bị Hội nghị Thánh Thể quốc tế thứ 51

Đức Thánh Cha khuyến khích chuẩn bị Hội nghị Thánh Thể quốc tế thứ 51

VATICAN. ĐTC Phanxicô cầu mong Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần tới đây tại Cebu, Philippines, sẽ giúp các tín hữu thông ban niềm hy vọng đã nhận lãnh cho con người ngày nay.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 27-9-2014, dành cho 80 đại biểu của các HĐGM trên thế giới về Roma tham dự Đại hội chuẩn bị cho Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 51, sẽ tiến hành tại thành phố Cebu bên Philippines từ ngày từ ngày 24 đến 31-1 năm 2016 với chủ đề ”Chúa Kitô ở trong anh chị em, niềm hy vọng vinh quang” (Cl 1,27)

ĐTC nhận xét rằng ”đề tài này làm sáng tỏ mối liên hệ giữa Thánh Thể, sứ mạng truyền giáo và niềm hy vọng Kitô. Ngày nay trên thế giới đang thiếu hy vọng, vì thế nhân loại đang cần được lắng sứ điệp về niềm hy vọng của chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô”.

ĐTC nói thêm rằng ”Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 51 là cơ hội để cảm nghiệm và hiểu Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ biến đổi với Chúa trong lời Ngài và hy tế tình thương của Ngài, để tất cả có thể được sống và sống dồi dào” (Xc Ga 10,10). Hội nghị ấy là cơ hội thuận tiện để tái khám phá đức tin như nguồn mạch ân sủng, mang lại niềm vui và hy vọng, trong đời sống bản thân, gia đình và xã hội”.

ĐTC giải thích: ”Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể sẽ là nguồn hy vọng cho thế giới, nếu chúng ta được biến đổi nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh theo hình ảnh của Đấng mà chúng ta gặp gỡ, chúng ta đón nhận sứ mạng biến đổi thế giới bằng cách trao tặng cuộc sống sung mãn mà chính chúng ta đã nhận lãnh và cảm nghiệm, mang hy vọng, tha thứ, sự chữa lành và tình thương cho những người đang cần, đặc biệt là những người nghèo khổ, kém may mắn và bị áp bức, chia sẻ cuộc sống và khát vọng của họ, và đồng hành với họ trong cuộc tìm kiếm một cuộc sống nhân bản đích thực trong Chúa Giêsu Kitô”.

Tham dự khóa họp 3 ngày (25-27/9/2014) tại Vatican, dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Piero Marini, Chủ tịch Ủy Ban Tòa Thánh về các Hội nghị Thánh Thể quốc tế, có một phái đoàn của tổng giáo phận Cebu, do Đức TGM sở tại José Palma hướng dẫn.

Hội nghị Thánh Thể quốc tế tiến hành 4 năm một lần. Lần trước đây vào năm 2012 tại Dublin, thủ đô Cộng hòa Ireland (SD 27-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại Hội Phong Trào Focolari

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các thành viên Phong trào Focolari (Tổ Ấm), hăng say cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội cho con người thời này.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26-9-2014 tại Vatican dành cho 500 đại biểu sắp kết thúc Tổng Đại hội của Phong trào ở Castel Gandolfo từ ngày 1 đến 28-9-2014 và đã tái cử chị Maria Voce trong nhiệm vụ chủ tịch với nhiệm kỳ 6 năm. ĐTC nói: ”Trung thành với đoàn sủng từ đó phong trào được khai sinh và được nuôi dưỡng, Phong trào Tổ Ấm ngày nay đang đứng trước cùng một nghĩa vụ chờ đợi toàn thể Giáo Hội, đó là với tinh thần trách nhiệm và óc sáng tạo, đóng góp phần đặc thù của mình cho vận hội mới loan báo Tin Mừng”.

ĐTC gửi đến các thành viên của phong trào 3 lời sau đây, đó là: chiêm ngắm, đi ra ngoài, và huấn luyện.

Trước tiên là chiêm ngắm Thiên Chúa và các kỳ công tình thương của Chúa, ở lại trong Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Đấng đã đến cắm lều giữa chúng ta (Xc Ga 1,14).. Chiêm ngắm là điều kiện không thể thiếu được để hiện diện liên đới và hoạt động hiệu năng, thực sự hữu hiệu và tinh tuyền. ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Tôi khích lệ anh chị em trung thành với lý tưởng chiêm ngắm này, kiên trì trong việc tìm kiếm sự kết hiệp với Thiên Chúa, trong tình yêu thương anh chị em mình, kín múc những phong phú từ Lời Chúa và Truyền thống của Giáo Hội”.

Thứ hai là đi ra ngoài. .. Ra ngoài như Chúa Giêsu xuất phát từ lòng Chúa Cha để loan báo lời tình thương cho tất cả mọi người, đến độ hy sinh bản thân trên thập gia.. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu động thái ra khỏi chính mình, tiến bước và luôn tái gieo vãi, đi xa hơn, để quảng đại thông truyền cho tất cả mọi người Tình Thương của Thiên Chúa, trong niềm tôn trọng và như Tin Mừng dạy chúng ta ”Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì cũng hãy cho nhưng không” (Mt 10,8).

Sau cùng là ”lên lớp”, là huấn luyện. ĐTC mời gọi Phong trào Tổ Ấm quan tâm huấn luyện các thế hệ trẻ và nói rằng “Nếu không có công tác huấn luyện này thì thật là một ảo tưởng khi nghĩ mình có thể thực hiện một dự phóng nghiêm túc và lâu dài để phục vụ nhân loại mới”.

Ngài nhắc lại lập trường của Chị Chiara Lubich, vị sáng lập Phong trào Tổ Ấm, cổ võ các thành viên ”huấn luyện con người thế giới, nghĩa là những người nam nữ có tâm hồn của Chúa Giêsu để có thể nhận ra và giải thích những nhu cầu, những lo âu và hy vọng nơi tâm hồn mọi người”. (SD 26-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Tòa Thánh kêu gọi chống khủng bố trong sự tôn trọng luật pháp

Tòa Thánh kêu gọi chống khủng bố trong sự tôn trọng luật pháp

NEW YORK. Tòa Thánh kêu gọi thực thi các hoạt động chống khủng bố trong sự tôn trọng các giới hạn luân lý và luật pháp, đồng thời tìm cách bài trừ tận gốc rễ nạn khủng bố.

Lập trường trên đây được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trình bày tại Hội đồng bảo an LHQ hôm 24-9-2014, trong cuộc thảo luận về các chiến binh khủng bố ngoại quốc, liên quan tới vấn đề ”Những đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế do các vụ khủng bố gây nên”.

ĐHY Parolin xác quyết rằng các quốc gia phải cùng nhau chu toàn nghĩa vụ tiên quyết là bảo vệ những người bị bạo lực đe dọa và những vụ trực tiếp tấn công phẩm giá con người. Ngài nhắc lại lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói sau vụ khủng bố ngày 11-9 năm 2001 tại Mỹ, theo đó ”Quyền bảo vệ các quốc gia và dân tộc chống lại những hành vi khủng bố không cho phép sử dụng bạo lực để chống lại bạo lực, nhưng đúng hơn ”quyền đó phải được thực thi trong sự tôn trọng các giới hạn luân lý và luật pháp khi tôn trong các mục đích và phương tiện. Kẻ có tội phải được xác định rõ, vì tội phạm gian ác luôn có tính chất bản thân và không thể nới rộng cho cả một quốc gia, một nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo mà những khủng bố là có thể là phần tử”.

ĐHY Quốc vụ khanh nói thêm rằng: ”Sự cộng tác quốc tế cũng phải giải quyết những nguyên nhân sâu xa tạo nên nạn khủng bố quốc tế. Trong thực tế, thách đố khủng bố hiện nay có một yếu tố mạnh mẽ về mặt văn hóa xã hội. Những người trẻ ra nước ngoài gia nhập các tổ chức khủng bố thường xuất thân từ những gia đình di dân nghèo, họ thất vọng vì cảm thấy như một tình trạng bị gạt bỏ, và thiếu sự hội nhập, thiếu các giá trị trong một số xã hội. Cùng với những phương tiện luật pháp và tài nguyên để ngăn cản các công dân của mình khỏi trở thành những chiến binh khủng bố, các chính quyền cũng cần phải làm việc với xã hội dân sự để giải quyết những vấn đề của cộng đồng có nguy cơ vị cực đoan hóa và bị tuyển mộ, để giúp họ hội nhập thỏa đáng vào xã hội”.

Trong bài tham luận, ĐHY Parolin cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề của những người có tín ngưỡng, phải lên án những kẻ lợi dụng tín ngưỡng để biện minh cho bạo lực. Như ĐGH Phanxicô đã nói trong cuộc viếng thăm mới đây tại Albani: ”Đừng ai coi mình là khiên thuẫn của Thiên Chúa trong khi đề ra kế hoạch và thi hành những hành vi bạo lực và đàn áp! Ước gì đừng ai lạm dụng tôn giáo như cái cớ để thực thi những hành động chống lại phẩm giá con người và chống lại các quyền căn bản của mỗi người nam nữ, nhất là quyền sống và quyền tự do tôn giáo của mỗi người”. (SD 25-9-2014)

Trong phiên nhóm hôm 24-9-2014, Hội đồng bảo an LHQ đã thông qua một nghị quyết có tính cách bắt buộc, đòi các nước thành viên phải ngăn chặn các công dân của mình, không được gia nhập các nhóm thánh chiến thuộc Nhà Nước Hồi giáo ở Iraq và Syria.

Tổng thống Mỹ, Barack Obama, đã chủ tọa khóa họp. Ông kêu gọi các chính phủ hãy hết sức cố gắng ngăn chặn việc tuyển mộ và tài trợ các dân quân khủng bố Hồi giáo, đồng thời ông kêu gọi thiết lập một chiến dịch hoàn cầu nhắm phá vỡ phong trào khủng bố.

Nghị quyết trên đây đã được tất cả các nước thành viên Hội đồng bảo an LHQ thông qua.

Từ tháng trước Hoa Kỳ đã mở các cuộc không tập chống lại Nhà Nước Hồi giáo ở Iraq và từ đêm 23-9-2014 trở đi, các cuộc oanh kích này cũng được thực hiện tại Syria với sự tham dự của 5 nước Arập. Theo tin từ Syria, các cuộc dội bom trong hai đêm đó đã làm cho ít nhất 14 chiến binh Hồi giáo và 5 thường dân bị thiệt mạng. Một nhà máy lọc dầu của Syria nằm trong tay các dân quân hồi giáo cũng bị oanh kích. Nhà máy này mang lại lợi nhuận mỗi ngày 2 triệu Mỹ kim cho Nhà Nước Hồi giáo (Asia News 25-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Albania là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau

Albania là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau

Albania, vùng đất của các vị tử đạo, là mẫu gương của sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa tín hữu các tôn giáo khác nhau.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần với Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường thánh Phêrô ngày 24-9-2014. Trong các đoàn hành hương cũng có đoàn hành hương 37 tín hữu Canada do cha Trần Trung Dung dòng Đa Minh hướng dẫn và một số tín hữu đến từ các nước Âu châu.

Như quý vị đã biết Đức Thánh Cha Phanxicô mới công dụ mục vụ tại Albania hôm Chúa Nhật 21-9-2014, vì thế trong bài huấn dụ ngài đã chia sẻ với mọi người một số cảm tưởng của ngài. Đức Thánh Cha cảm tạ Thiên Chúa đã cho ngài viếng thăm dân nước Albania để biểu lộ sự gần gũi của ngài và của toàn thể Giáo Hội. Ngài cám ơn Hội Đồng Giám Mục Albania, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các giới chức đạo đời và tất cả những ai đã cộng tác vào việc tổ chức chuyến viếng thăm để mọi sự xảy ra tốt đẹp. Đề cập đến lý do chuyến viếng thăm Đức Thánh Cha nói:

Chuyến viếng thăm đã nảy sinh từ ước muốn đi đến một nước đang sống một kinh nghiệm chung sống hòa bình giữa các thành phần tôn giáo khác nhau, sau khi đã bị đàn áp lâu dài bởi một chế độ vô thần và vô nhân. Đối với tôi xem ra là điều quan trọng khích lệ dân nước Albania trên con đường này, để nó kiên trì tiếp tục con đường đó và đào sâu mọi mặt cho thiện ích chung. Vì vậy trung tâm điểm của chuyến viếng thăm đã là cuộc gặp gỡ liên tôn, nơi đó tôi đã có thể hài lòng nhận thấy rằng sự chung sống hòa bình và phong phú giữa những người thuộc các tôn giáo khác nhau không phải chỉ là điều đáng cầu chúc, nhưng một cách cụ thể là điều khả thể và làm được. Đây là một cuộc đối thoại đích thật và phong phú, khước từ chủ trương tương đối và chú ý tới căn tính của từng người. Thật thế, điều chung cho các biểu lộ tôn giáo khác nhau là con đường cuộc sống, thiện chí thực thi sự thiện cho tha nhân, mà không từ chối và giảm thiểu các căn tính của mình.

Cuộc gặp gỡ với các linh mục, các người sống đời thánh hiến, các chủng sinh và các phong trào giáo dân đã là dịp đặc biệt cảm động để tưởng niệm và nhớ ơn nhiều vị tử đạo của đức tin. Nhờ sự hiện diện của vài người cao niên đã sống trên da thịt mình các bách hại kinh khủng, được vang vọng lên đức tin của biết bao chứng nhân anh dũng của quá khứ, là những người đã theo Chúa Kitô cho tới các hậu quả tột cùng. Chính từ sự kết hiệp thân tình này với Chúa Giêsu, từ tương quan tình yêu với Người đã nảy sinh ra sức mạnh đối với họ cũng như đối với mọi vị tử đạo, giúp đương đầu với các biến cố đớn đau dẫn đưa họ tới chỗ tử đạo. Cả ngày nay cũng như hôm qua, sức mạnh của Giáo Hội không đến từ các khả năng tổ chức hay từ các cơ cấu, tuy đây cũng là những điều cần thiết. Sức mạnh của chúng ta là tình yêu của Chúa Kitô! Một sức mạnh nâng đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn, và gợi hứng cho hoạt động tông đồ để cống hiến cho tất cả mọi người lòng tốt, sự tha thứ, và như thế chứng minh cho thấy lòng xót thương của Thiên Chúa.

Khi đi dọc con đường chính từ phi trường dẫn đến quảng trường trung ương thành phố Tirana, tôi đã có thể nhận ra chân dung của 40 linh mục đã bị sát hại trong thời độc tài cộng sản và hiện đang có án phong chân phước cho các vị. Đức Thánh Cha nói về các linh mục ấy như sau:

Các vị thêm vào con số hàng trăm tu sĩ, tín hữu kitô và hồi giáo đã bị ám sát, tra tấn, bỏ tù và đầy ải chỉ vì đã tin nơi Thiên Chúa. Đó là các năm đen tối, trong đó tự do tôn giáo đã bị san bằng, và việc tin nơi Thiên Chúa bị cấm ngặt; hàng ngàn nhà thờ Kitô và đền thờ hồi giáo đã bị phá hủy, biến thành các nhà kho và phòng chiếu bóng quảng bá ý thức hệ mác xít; các sách tôn giáo bị đốt, và người ta cấm các cha mẹ đặt các tên tôn giáo của cha ông cho con cái. Kỷ niệm các biến cố thê thảm này là điều nòng cốt đối với tương lai của một dân tộc. Ký ức về các vị tử đạo đã kháng cự trong niềm tin bảo đảm cho số phận của dân nước Albania; bởi vì máu đã không đổ ra vô ích, nhưng là một hạt giống sẽ đem lại hoa trái hòa bình và cộng tác huynh đệ.

Thật thế, ngày nay Albania không chỉ là một thí dụ sự tái sinh của Giáo Hội, nhưng cũng là gương mẫu của sự chung sống hòa bình giữa các tôn giáo nữa. Vì thế các vị tử đạo đã không phải là những kẻ bại trận, nhưng là những người chiến thắng: trong chứng tá anh hùng của họ rạng ngời lên quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn an ủi dân Người, bằng cách mở ra các con đường mới và các chân trời của niềm hy vọng.

Sứ điệp hy vọng này, dựa trên niềm tin nơi Chúa Kitô và trên ký ức của quá khứ, tôi đã tín thác cho toàn dân Albania, mà tôi thấy hứng khởi và tươi vui trong các nơi gặp gỡ và các buổi cử hành, cũng như trên đường phố thủ đô Tirana. Tôi đã khích lệ mọi người kín múc các năng lực luôn mới mẻ từ Chúa Phục Sinh, để có thể là men Tin Mừng trong xã hội và dấn thân như đã xảy ra, trong các sinh hoạt bác ái và giáo dục.

Một lần nữa tôi xin cảm ơn Chúa vì với chuyến viếng thăm này Người đã cho tôi gặp một dân tộc can đảm và mạnh mẽ, đã không để cho mình bị khổ đau bẻ gẫy. Tôi tái mời gọi các anh chị em Albani can đảm làm việc thiện để xây dựng hiện tại và tương lai cho đất nước và cho Âu châu. Tôi tín thác các hoa trái chuyến viếng thăm của tôi cho Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành được tôn kính tại Đền thánh Scutari, để Mẹ tiếp tục hướng dẫn con đường của dân tộc tử đạo này. Ước chi kinh nghiệm khó khăn của qúa khứ luôn đâm rễ sâu trong việc rộng mở cho tha nhân, đặc biệt cho các người yếu đuối nhất, và khiến cho nó trở thành tác nhân của năng động bác ái cần thiết trong bối cảnh xã hội văn hóa hiện nay.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương Tây Âu và Bắc Mỹ cũng như các nhóm tín hữu đến từ Á châu như Trung quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, hay từ Phi châu như Kenya, hoặc từ châu Mỹ Latinh như Porto Ricco, Mêhicô, Ecuador, El Salvador, Costa Rica, Uruguay, Argentina, Brasil.

Chào các tín hữu đến từ vùng Trung Đông ngài khích lệ họ luôn là các chứng nhân đích thực của Chúa Kitô và của sự thật, của hòa giải và sự hiệp nhất, chứng nhân của công lý, hòa bình và tình bác ái.

Nhắc tới các nạn nhân bệnh dịch Ebola tại nhiều nước Phi châu ngài mời gọi mọi người cầu nguyện cho họ. Ngài cũng cầu mong cộng đồng quốc tế trợ giúp người dân các nước này để làm vơi dịu các nỗi khổ đau của họ. Ngài đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các anh chị em này.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các Tiểu Đệ Chúa Giêsu và các Thừa sai Đức Tin đang họp tổng tu nghị tai Roma, cũng như các tham dự viên Khóa đào tạo do Trung tâm linh hoạt truyền giáo tổ chức và các thành viên của Phong trào Cho một thế giới mới.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết thứ ba vừa qua Giáo Hội kính nhớ thánh Giáo Hoàng Lino. Ngài đã sống trong thời có các cuộc bách hại gắt gao các kitô hữu. Ngài cầu chúc gương yêu thương Giáo Hội của thánh nhân linh hứng cho cuộc sống tinh thần của từng người, giúp tập can đảm đương đầu với các lúc khó khăn thử thách, xác tín rằng Chúa không bao giờ để cho con cái Người thiếu sự đỡ nâng và ơn thánh.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và trợ giúp người di dân tỵ nạn

Đức Thánh Cha kêu gọi liên đới và trợ giúp người di dân tỵ nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu sống tinh thần của Giáo Hội như người mẹ, để quảng đại liên đới, đón nhận và giúp đỡ những người di dân và tỵ nạn.

Trên đây là nội dung nòng cốt sứ điệp của ĐTC công bố ngày 23-9-2014, nhân Ngày Thế Giới di dân và tỵ nạn sẽ được cử hành vào ngày 18-1-2015, với chủ đề ”Giáo Hội không biên giới: Mẹ của tất cả mọi người”.

Sứ điệp được ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

ĐTC viết ”Giáo Hội không biên giới, Mẹ của mọi người, phổ biến trên thế giới nền văn hóa đón tiếp và liên đới, theo đó không một ai bị coi là vô ích, ở ngoài lề hoặc bị gạt bỏ. Nếu cộng đồng Kitô sống thực chức phận làm mẹ của mình, thì sẽ nuôi dưỡng, định hướng và chỉ đường, kiên nhẫn tháp túng, trở nên gần gũi qua việc cầu nguyện và trong các hoạt động từ bi bác ái”.

ĐTC áp dụng nguyên tắc trên đây vào hiện tượng di dân và tị nạn đang lan rộng trên thế giới ngày nay: bao nhiêu người phải bỏ nguyên quán, thực hiện cuộc du hành hy vọng với nhiều rủi ro nguy hiểm, với một hành lý đầy ước muốn và sợ hãi, đi tìm kiếm những điều kiện sống nhân bản hơn. Nhưng nhiều khi làn sóng di dân ấy khơi lên sự ngờ vực và đố kỵ, cả trong các cộng đồng Kitô..”

ĐTC nhận xét rằng những nghi ngờ và thành kiến là điều trái ngược với giới răn của Kinh Thánh dạy phải tôn trọng đón tiếp và liên đới với người ngoại kiều túng thiếu.. Trong tình cảnh đó, ”lòng can đảm tin, cậy, mến, giúp thu hẹp khoảng cách giữa những thảm trạng của con người. Chúa Giêsu Kitô luôn chờ đợi được nhìn nhận trong những di dân và tị nạn, những người tản cư và lưu vong; cả trong thế giới ngày nay, Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ tài nguyên, và nhiều khi cần từ bỏ một cái gì đó trong sự sung túc mà ta đã đạt được”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng nhận xét rằng ”Các phong trào di dân ngày nay ở mức độ rộng lớn đến độ chỉ có sự cộng tác có hệ thống và thực sự, trong đó có sự can dự của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, mới có thể điều hành và xử lý các phong trào ấy một cách hữu hiệu. Thực vậy, các cuộc di dân đặt câu hỏi cho tất cả mọi người, không những vì thực tại những hiện tượng ấy, nhưng còn vì những vấn đề ”xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo mà chúng khơi lên, vì những thách đố bi thảm chúng đề ra cho cộng đồng quốc gia và quốc tế” (Biển Đức 16, Thông điệp Caritas in veritate, 62).

ĐTC xác quyết rằng ”Đối lại sự hoàn cầu hóa hiện tượng di dân, cần phải có sự hoàn cầu hóa tình bác ái và cộng tác, để làm cho điều kiện sống của người di dân xứng với con người hơn. Đồng thời, cần tăng cường những nỗ lực để kiến tạo những điều kiện thích hợp hầu đảm bảo việc giảm bớt từ từ những nguyên do thúc đẩy cả một dân tộc phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh và hạn hán, nhiều khi nguyên do này gây ra những nguyên do khác. Ngoài tình liên đới với người di dân và tị nạn, cần có lòng can đảm và óc sáng tạo cần thiết để phát triển trên bình diện thế giới, một trật tự kinh tế tài chánh công bằng và liên chính hơn, cùng với sự gia tăng dấn thân xây dựng hòa bình, là điều kiện không thể thiếu được để có tiến bộ đích thực”.

ĐHY Vegliò cho biết năm ngoái (2013) trên thế giới có khoảng 232 triệu người di dân, tức là tăng hơn 77 triệu người, tương đương với 50% trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2013. (SD 23-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha lên án lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người

Đức Thánh Cha lên án lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người

TIRANA. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án những kẻ lạm dụng danh Thiên Chúa để giết người và gọi đó là hành động phạm thánh trầm trọng nhất.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo ở Albani tại trụ sở Đại Học Công Giáo ”Đức Bà chỉ bảo đàng lành”, ở Tirana, thủ đô Albani, chiều chúa nhật 21-9-2014.

Tham dự cuộc gặp gỡ có 6 Cộng đoàn tôn giáo chính ở Albani, gồm Hồi giáo, Huynh đoàn Hồi giáo Bektashi, Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành và Do thái giáo. Mỗi vị lãnh đạo có 3, 4 người tháp tùng. Ngoài ra có các GM Công Giáo Albani và các vị trong đoàn tùy tùng của ĐTC.

Lên tiếng trong cuộc gặp gỡ, ĐTC bày tỏ lòng tôn trọng sâu xa đối với các vị lãnh đạo và các cộng đồng tôn giáo ở Albani. Ngài nhắc đến lời ĐTC Gioan Phaolô 2 đã nói khi viếng thăm Albani hồi năm 1993: ”Tự do tôn giáo là một thành trì chống lại mọi chế độ độc đoán và là một đóng góp quyết định cho tình huynh đệ của nhân loại.. Tự do tôn giáo chân thực tránh mọi cám dỗ có thái độ bất bao dung và phe phái, trái lại, thăng tiến những thái độ đối thoại tôn trọng và xây dựng” (Sứ điệp gửi quốc dân Albani ngày 25-4-1993).

ĐTC nói: ”Chúng ta không thể không nhìn nhận rằng sự bất bao dung đối với những ngừơi có xác tín tôn giáo khác với xác tín của mình là một kẻ thù nguy hiểm, ngày nay đang biểu lộ tại nhiều miền trên thế giới. Trong tư cách là tín hữu, chúng ta phải đặc biệt cảnh giác để tôn giáo và luân lý đạo đức mà chúng ta đang sống với xác tín và hăng say làm chứng luôn được biểu lộ qua những thái độ xứng đáng với mầu nhiệm mà chúng ta muốn tôn kính, quyết liệt loại bỏ – như điều không chân thật, vì không xứng đáng với Thiên Chúa và con người, – tất cả mọi hình thức lạm dụng tôn giáo một cách sai trái. Tôn giáo chân chính là nguồn an bình chứ không phải là nguồn sinh ra bạo lực! Không ai có thể sử dụng danh Thiên Chúa để phạm những hành vi bạo lực! Giết người nhân danh Thiên Chúa là một tội phạm thánh trầm trọng! Kỳ thị nhân danh Thiên Chúa là điều vô nhân đạo”. ĐTC nói đến hai thái độ đặc biệt hữu ích để thăng tiến quyền tự do căn bản là tự do tôn giáo:

”Thứ nhất là nhìn nơi mỗi người nam nữ, kể cả những người không thuộc truyền thống tôn giáo của mình, không phải như những người cạnh tranh, và càng không phải là kẻ thù, nhưng như những anh chị em. Ai chắc chắn về xác tín tôn giáo của mình thì không cần phải áp đặt, tạo sức ép trên người khác: họ biết rằng chân lý có sức mạnh riêng lan tỏa ra. Xét cho cùng tất cả chúng ta là những người lữ hành trên mặt đất này, và trong hành trình của chúng ta, trong khi chúng ta khao khát sự thật và vĩnh cửu, chúng ta không sống như những thực tại độc lập và tự mãn, và càng không phải như những cá nhân hoặc nhóm quốc gia, văn hóa và tôn giáo, nhưng chúng ta lệ thuộc nhau, chúng ta được ủy thác cho sự chăm sóc của nhau. Mỗi truyền thống tôn giáo, từ bên trong của mình, phải làm sao để ý đến sự hiện hữu của người khác.

”Thái độ thứ hai là dấn thân bênh vực công ích. Mỗi lần sự gắn bó với truyền thống tôn giáo của mình làm nảy mầm một sự phục vụ xác tín hơn, quảng đại hơn, vô vị lợi hơn cho toàn thể xã hội, thì có một sự thực thi đích thực và phát huy tự do tôn giáo. Như thế tự do này không phải chỉ là một không gian tự lập được đòi hỏi một cách chính đáng, nhưng như một tiềm năng làm cho gia đình nhân loại được phong phú nhờ sự dần dần thực thi tự do tôn giáo. Càng phục vụ tha nhân, ta càng tự do! Chúng ta hãy nhìn chung quanh: bao nhiêu nhu cầu của người nghèo, xã hội chúng ta còn phải tìm ra những con đường tiến tới công bằng xã hội rộng lớn hơn, hướng tới sự phát triển kinh tế bao gồm mọi người! Tâm hồn con người cần phải để ý đến ý nghĩa sâu xa của những kinh nghiệm cuộc sống và phục hồi hy vọng dường nào! Trong lãnh vực hoạt động này, những người nam nữ được hướng dẫn nhờ các giá trị thuộc truyền thống tôn giáo của mình có thể cống hiến quan trọng, một sự đóng góp không thể thay thế được. Đây là môi trường đặc biệt phong phú cho việc đối thoại liên tôn.

Sau cùng, ĐTC còn nhấn mạnh nguyên tắc: ”không thể đối thoại nếu không khởi hành từ chính căn tính của mình. Không có căn tính thì không thể có đối thoại. Chẳng vậy đó chỉ là một thứ đối thoại ảo tưởng, đối thoại trên không khí, chẳng mang lại ích lợi gì. Mỗi người chúng ta có căn tính tôn giáo và phải trung thành với căn tính ấy.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

Lần đầu tiên Đức Thánh Cha Phanxicô khóc công khai

TIRANA. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm động đến rơi lệ khi nghe chứng từ của 1 LM Albani đã bị kết án tử hình và của một nữ tu tại nước này.

Chiều chúa nhật 22-9-2014, trong chuyến viếng thăm mục vụ ”chớp nhoáng” từ sáng tới chiều ở Albani, ĐTC đã chủ sự buổi hát kinh chiều tại Nhà thờ chính tòa thủ đô Tirana với 7 GM Albani, cùng với khoảng 150 LM, 400 tu sĩ nam nữ và các chủng sinh, các thành viên phong trào giáo dân.

Sau lời chào của Đức TGM sở tại, Rrok Mirdita, một linh mục và một nữ tu đã kể lại những gian khổ đã chịu trong thời kỳ bị bách hại.

Trước tiên là Cha Ernest Simoni, 84 tuổi, từng bị kết án tử hình, nhưng rồi được biến cải thành 27 năm lao động khổ sai trong các trại khác nhau. Cha bị nhà nước cộng sản bắt giam từ lễ giáng sinh năm 1963, kết án tử hình vì đã cử hành 3 lễ cầu nguyện cho Tổng thống Kennedy của Mỹ bị ám sát chết 1 tháng trước đó. Cha bị tra tấn và đối xử vô nhân đạo. Sau đó, án tử hình được biến cải thành 18 năm tù, trong đó có nhiều năm lao động khổ sai, và sau khi được trả tự do một thời gian, cha bị bắt trở lại, tổng cộng là 27 năm tù đày.

Trong thời gian đó, cha vẫn cử hành thánh lễ thuộc lòng bằng tiếng la tinh, cũng vậy con đã giải tội và bí mật phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Khi cha Simoni dứt lời, ĐTC đã tiến đến ôm vị linh mục thật lâu và khóc vì cảm động.

Chứng từ thứ hai được nữ tu Marije Kaleta, 85 tuổi, thuộc dòng Dấu Thánh Chúa Kitô, có chú là Cha Ndoc Suma, một linh mục đã chịu đau khổ nhiều năm trời trong cảnh tù ngục và lao động khổ sai. Ngày nay đang được giáo hội tiến hành án phong chân phước.
Sau 7 năm tu dòng, chị Kaleta phải hồi tục vì tu viện bị nhà nước đóng cửa. Nhưng chị vẫn âm thầm rửa tội cho các trẻ em, mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân. Chị kể:

”Hôm ấy con đi làm từ hợp tác xã trở về nhà. Dọc đường con nghe có tiếng người gọi con. Một phụ nữ chạy đến và xin con rửa tội rửa tội cho đứa con bà đang bồng trên tay. Con sợ vì biết đó là vợ một cán bộ cộng sản, con nói với bà ta là ”tôi không có gì để rửa tội”, vì bấy giờ chúng con đang ở trên đường. Nhưng bà rất tha thiết và nói với con rằng ở kênh gần đó có nước. Nhưng con nói với bà ấy là ”tôi không có gì để kín nước”. Nhưng bà ta cứ nài nỉ xin con rửa tội cho đứa con gái của bà. Sau khi thấy niềm tin của bà như thế, con cởi một cái dầy bằng plastic của con, để kín nước từ con kênh và rửa tội con đứa bé gái. Ngoài ra, nhờ quen biết các linh mục, con được may mắn giữ Mình Thánh Chúa trong tủ nhỏ ở nhà con, và con mang Mình Thánh cho các bệnh nhân và những người sắp qua đời.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đích thực

Tôn trọng các nhân quyền căn bản và tự do tôn giáo là góp phần thăng tiến và phát triển thiện ích quốc gia đỉch thực.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài phát biểu trước các giới chức chính quyền Albania trong chuyến viếng thăm nước này Chúa Nhật 21-9-2014. Đây là chuyến công du thứ tư ngoài Italia, chỉ kéo dài 11 giờ đồng hồ.

Ban sáng Đức Thánh Cha đã đi xe đến phi trường quốc tế Fiumicino để lấy máy bay đi Tirana. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Cha Gino Reali, Giám Mục giáo phận Porto Santa Rufina bao gồm phi trường Fiumicino. Chiếc máy bay của hãng hàng không Alitalia A320 đã cất cánh lúc 7 giờ rưỡi và đã đến phi trường quốc tế ”Mẹ Têrêxa” lúc 9 giờ.

Đón tiếp Đức Thánh Cha tại phi trường Tirana có Đức Tổng Giám Mục Ramiro Moliner Inglés, Sứ Thần Tòa Thánh tại Albania, Thủ tướng Edi Rama, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Văn hóa Albania. Hiện diện tại phi trường cũng có vài giới chức chính quyền khác, các Giám Mục Albania và một nhóm tín hữu.

Sau khi duyệt qua hàng chào danh dự Đức Thánh Cha và Thủ tướng đã vào phòng khách phi trường đàm đạo một lúc.

Albania rộng hơn 28 ngàn cây số vuộng, có hơn 3 triệu dân, 97% là người Albani, 1% là người Hy lạp, 2% còn lại gồm người Arumeni, Rom, Serbi, Macedoni, Montenegrini và Armeni. Ngoài ra cũng có các nhóm thiểu số khác như người Bosniaci hồi giáo, Ashkhli, Gorani và Do thái. Trên bình diện tôn giáo 56.7% tổng số dân theo Hồi giáo, 10% theo Công Giáo, 6.8% theo Chính Thống, 2.1% là tín hữu Bektashi, 5.7% theo các tôn giáo khác và 16.2% không theo tôn giáo nào.

Thành phố Tirana được thành lập năm 1614 và trở thành thủ đô năm 1920, hiện có hơn 421 ngàn dân và là thành phố đông dân nhất Albania. Hiện nay Tirana đang trong giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và thành thị hóa manh mẽ, với việc xây cất nhiều dinh thự, công viên, và tái thiết các cơ sở tôn giáo, đặc biệt là các cơ sở kitô bị phá hủy trong thời đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ và dưới chế độ cộng sản vô thần. Trong số các nơi thờ tự kitô bị chế độ cộng sản phá hủy năm 1967 có nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu của các cha dòng Tên và nhà thờ chính tòa chính thống Chúa Kitô Phục Sinh, được xây năm 2012 trên một thửa đất khác.

Tổng giáo phận Tirana Durazzo có hơn 1.2 triệu dân, trong đó có 135 ngàn tín hữu công giáo, tức chiếm 11%, với 19 giáo xứ. Nhân lực gồm Đức Cha Rrok Mirdita, 9 linh mục triều, 30 linh mục dòng, 33 tu huynh, 121 nữ tu, 1 đại chủng sinh. Giáo Hội điểu khiển 14 cơ sở giáo dục và 7 trung tâm bác ái.

Lúc 9 giờ 15 phút Đức Thánh Cha đã đi xe về Dinh tổng thống nơi diễn ra lễ nghi chào đón chính thức. Dinh tổng thống hiện nay do vua Zog cho xây trong các năm 1939-1941, sau đó đã được tu sửa thêm. Tổng thống Bujar Nishani năm nay 48 tuổi, có vợ và hai con, đã từng du học bên Hoa Kỳ và đậu tiến sĩ Luật năm 2004, từng là giáo sư tại Hàn lâm viện quân sự Tirana, nhân viên bộ Nội vụ và làm Bộ trưởng Nội Vu năm 2009, 2011-2012, rồi được bầu làm tổng thống từ tháng 6 năm 2012.

Tổng thống Nishani đã tiếp đón Đức Thánh Cha tại cửa vào dinh tổng thống. Ban nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Albania. Sau đó hai vị và đoàn tùy tùng tiến vào đại sảnh chụp hình lưu niệm, ký tên vào sổ vàng và giới thiệu phái đoàn hai bên. Tiếp đến Đức Thánh Cha hội kiến riêng với tổng thống trong ”Thư phòng xanh”. Sau đó tổng thống giới thiệu gia đình và trao đổi qùa tặng. Lúc 10 giờ tổng thống tháp tùng Đức Thánh Cha vào phòng khách Scandenberg để gặp gỡ hàng lãnh đạo dân sự, Ngoại giao đoàn và vài vị lãnh đạo tôn giáo.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha tổng thống Nishani bầy tỏ niềm vui của toàn dân Albania vì sự hiện diện của ngài trong một đất nước Albania dân chủ tự do, đã thoát khải ách thống trị độc tài tàn ác của chế độ cộng sản khinh rẻ và chà đạp các quyền tự do của con người. Ngày nay Albania là một quốc gia trong đó người dận thuộc các Giáo Hội công giáo, chính thống và hồi giáo chung sống trong hòa bình, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau chung xây đất nước. Tuy nhiên, dân nước Albania cũng phải đương đầu với nhiều thách đố mới của chế độ tư bản và việc toàn cầu hóa với các hậu qủa tiêu cực của nó.

Đáp lời tổng thống Đức Thánh Cha bầy tỏ niềm vui được đến viếng thăm Albania, vùng đất của các anh hùng đã hy sinh mạng sống cho nền độc lập quốc gia, vùng đất của các vi tử đạo đã làm chứng cho đức tin trong các thời gian khó khăn của các cuộc bách hại, vùng đất của chim đại bàng và hiếu khách. Một phần tư thế kỷ đã qua đi, kể từ khi Albania tìm lại được con đường cam go chiến thăng của tự do. Nó đã cho phép xã hội Albania bước vào con đường tái thiết vật chất và tinh thần, huy động được biết bao năng lực và sáng kiến, rộng mở cho sự cộng tác và trao đổi với các quốc gia trong vùng Balcan và Địa Trung Hải, với Âu châu cũng như toàn thế giới. Nó đã cho phép nhìn tương lai với sự tin tưởng và niềm hy vọng, khởi sự các chương trình và dệt lại các liên hệ thân hữu với các quốc gia gần xa. Việc tôn trọng các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo và tự do tư tưởng, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển xã hội và kinh tế của một quốc gia. Đức Thánh Cha nhấn mạnh điểm này như sau:

Khi phẩm giá con người đưọc tôn rọng và các quyền của nó được thừa nhận và bảo đảm, thì cũng nở hoa óc sáng tạo và việc kinh doanh, và bản vị con người có thể khai triển nhiều sáng kiến của mình để mưu cầu công ích. Tôi đặc biệt vui mừng vì một đăc thái hạnh phúc của Albania, cần được giữ gìn cẩn trọng: đó là sự chung sống hòa bình và cộng tác giữa các thành phần tôn giáo khác nhau. Bầu khí tôn trọng lẫn nhau giữa các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo là một thiện ích qúy báu đối với quốc gia và nó có ý nghĩa, đặc biệt trong thời đại chúng ta, trong đó ý nghĩa tôn giáo bị làm cho méo mó bởi các nhóm cuồng tín, và các khác biệt giữa các tôn giáo bị bóp méo và lèo lái khiến cho chúng trở thành một yếu tố nguy hiểm của xung đột và bạo lực, thay vì là dịp đối thoại cởi mở, tôn trọng và suy tư chung về ý nghĩa của việc tin nơi Thiên Chúa và sống theo luật lệ của Người.

Đừng có ai nghĩ rằng có thể lấy Thiên Chúa làm thuẫn đỡ, trong khi dự tính có các cử chỉ bạo lực và đàn áp! Đừng có ai viện cớ tôn giáo cho các hoạt động trái nghịch với phẩm giá và các quyền nền tảng của con người, trước hết là quyền sống và quyền tự do tôn giáo của tất cả mọi người! Trái lại, điều đang xảy ra tại Albania chứng minh cho thấy sự chung sống hòa bình phong phú giữa các con người và các cộng đoàn thuộc các tôn giáo khác nhau, không chỉ là điều đáng cầu chúc, nhưng một cách cụ thể là đIều có thể làm được. Sự chung sống hòa bình giữa các cộng đoàn tôn giáo khác nhau, thật ra, là một thiện ích vộ giá đối với hòa bình và phát triển hài hòa của một dân tộc. Đó là một gía trị cần được giữ gìn và gia tăng mỗi ngày với sự giáo dục tôn trọng các khác biệt và các căn tính đặc thù rộng mở cho đối thoại và cộng tác cho thiện ích của mọi người, với việc thực thi sự hiểu biết và qúy trọng nhau. Đó là một ơn cần luôn luôn nài xin Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Ước gì Albania luôn theo đuổi con đường này, và trở thành một gương mẫu cho biết bao quốc gia khác noi theo!

Sau mùa đông của sự cộ lập và các bách hại, cuối cùng mùa xuân của sự tự do đã tới. Qua các cuộc bầu cử tự do và các cơ cấu mới, sự đa nguyện dân chủ đã được cũng cố, và điều này cũng đã tạo thuân tiện cho việc tái lập các sinh hoạt kinh tế, khiến cho nhiều người dân Albania không còn phải di cư tìm công ăn việc làm nữa, nhưng ở lại trên quê hương để góp phần xây đựng nó từ bên trong.
Về phần mình, Giáo Hội đã có thể có được trở lại cuộc sống bình thường, tái lập hàng giáo phẩm. Các nơi thờ tự, trường học, trung tâm giáo dục và bác ái được tái thiết để phục vụ toàn xã hội và toàn quốc gia.

Tuy nhiên, giờ đây có các thách đố mới cần trả lời. Trong một thế giới hướng tới việc toàn cầu hóa cần phải làm mọi cố gắng để sự tiến bộ và phát triển kinh tế sinh ích lơi cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ cho một phần của dân chúng. Ngoài ra, sự phát triển đó sẽ không đích thật, nếu không có thể chịu đựng được và công bằng, nếu nó không chú ý tới các quyền của người nghèo và không tôn trọng môi sinh. Đối lại sự toàn cầu hóa các thị trường cần phải có sự toàn cầu hóa tình liên đới. Song song với sự tăng trưởng kinh tế cần phải tôn trọng môi sinh nhiều hơn. Cùng với các quyền cá nhân cũng phải bảo vệ quyền của các thực tại trung gian giữa cá nhân và Nhà nước, trước hết là các gia đình.

Sau cuộc gặp gỡ các giới chức lãnh đạo Albania tổng thống đã tháp tùng Đức Thánh Cha ra xe để ngài đến quảng trường Mẹ Têrexa cử hành thánh lễ cho tín hữu. Đức Thánh Cha đã đi xe jeep mui trần đến quảng trường cách đó 800 mét giữa tiếng vỗ tay reo vui của tín hữu. Họ vẫy cờ Tòa Thánh có hình Đức Thánh Cha và huy hiệu chuyến viếng thăm. Nhiều tín hữu đeo khăn quàng cổ mầu trắng và mầu vàng. Họ cũng mang theo ca bieu ngữ chào mừng Đức Thánh Cha hay có viết ”Đức Phanxicô là môt người trong chúng ta”. Khi đến quảng trường Đức Thánh Cha đã chào ông bà tỉnh trưởng. Ông Lulzim Xhelal Basha, thị trưởng Tirana, đã trao chià khóa thành phố cho Đức Thánh Cha như dấu chỉ toàn dân thủ đô tiếp đón vị thượng khách.

Khán đài nơi Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ mầu trẳng với các ghế ngồi mầu vàng và thảm đỏ. Bên phải bàn thờ có ảnh Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành. Tham dự thánh lễ cũng có tổng thống, thủ tướng, các giới chức chinh qyuền và đại diện của các tôn giáo bạn. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có hơn 30 Hồng Y, Giám Mục và mấy trăm linh mục. Thánh lễ vừa bắt đầu được một lúc thì trời đổ mưa lớn, nhưng sau đó lại tạnh ráo rồi lại mưa vào cuối thánh lễ. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh, các bài đọc và lời cầu giáo dận bằng tiếng Albani.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đem tình yêu của Thiên Chúa đến trần gian và muốn phổ biến nó qua sự hiệp thông và tình huynh đệ. Người thành lập một cộng đoàn gồm Mười Hai Tông Đồ, và sai họ cùng với 72 môn đệ khác đi rao giảng Tin Mừng, theo một kiễu rất đơn sơ, đi vào từng nhà một và nói lời chào binh an ”Bình an cho nhà này”. Đây không chỉ là một lời chào, mà còn là một ơn nữa. ơn bình an. Hôm nay, khi đến quảng trường dâng kính một người con gái khiêm tốn nhưng cao cả của vùng đất này, là chân phước Mẹ Têrexa Cacutta, tôi muốn lập lại lời chào ấy: bình an cho nhà của anh chị em, bình an cho con tim của anh chị em, bình an cho quốc gia của anh chị em.

Trong sứ mệnh của 72 của môn đệ Chúa phản ánh kinh nghiệm truyền giáo của cộng đoàn kitô thuộc mọi thời đại. Chúa phục sinh và hằng sống không chỉ gửi Mười Hai Tông Đồ, mà gửi toàn thể Giáo Hội, gửi từng tín hữu được rửa tội ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Nhưng đôi khi các cửa bị đóng kín. Áp dụng vào trường hợp của Albania Đức Thánh Cha nói:

Trong qúa khứ gần đây cánh cửa của nước Albania cũng đã bi đóng kín, với khóa của các cấm đoán và luật lệ của một chế độ khước từ Thiên Chúa và ngăn cản sự tự do tôn giáo. Những người sợ hãi sự thật và tự do đã làm mọi sự để xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi trái tim con người và loại bỏ Chúa Kitô và Giáo Hôi khỏi lịch sử quê hương của anh chị em, cả khi nó đã là một trong các nơi đầu tiên đón nhận ánh sáng Tin Mừng. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolo đã nhắc tới vùng Illiria thời đó bao gồm cả Albania ngày nay. Khi nghĩ tới các thập niên đau khổ tàn bạo và các cuộc bách hại khốc liệt chống lại các tín hữu công giáo, chính thống và hồi giáo, chúng ta có thể nói rằng Albania đã là một vùng đất của các vị tử đạo: nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dận đã trả giá cho sự trung thành của họ bằng chính mạng sống… Biết bao kitô hữu đã không gập mình trước các đe dọa, nhưng đã không do dự tiếp tục con đường lòng tin. Trong tinh thần tôi tới bức tường của nghĩa trang Scutari, biểu tượng sự tử đạo của các tín hữu công giáo, nơi họ đã bị xứ bắn, và tôi cảm động đặt vòng hoa của lời cầu nguyện và tưởng niệm ghi ơn không tàn phai. Chúa đã gần gũi, hường dẫn, an ủi và nâng đỡ anh chị em trên cánh đại bàng, như Người đã làm xưa kia đối với dân Israel. Chim đại bàng được biểu hiệu trên quốc kỳ của anh chi em nhắc nhớ ý nghĩa của niềm hy vọng, luôn đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, là Đấng không gây thất vọng, nhưng luôn ở bên cạnh anh chị em, đăc biệt trong những lúc khó khăn.

Ngày nay các cánh cửa của Albania đã rộng mở và đang chín mùi cho một mùa truyền giáo mới đối với mọi thành phần dân Chúa: mỗi tín hữu đều có một chỗ đứng và một vai trò phải chu toàn trong Giáo Hội và trong xã hội. Từng người được mời gọi quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng và làm chứng cho tình bác ái, củng cố các tương quan liên đới để thăng tiến các điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn cho tất cả mọi người. Hôm nay tôi đến để khích lệ và làm cho niềm hy vọng lớn lên trong anh chị em và chung quanh anh chị em, để lôi cuốn các thế hệ trẻ dưỡng nuội mình bằng Lời Chúa và mở cửa lòng cho Chúa Kitô. Ước chi niềm tin của anh chị em luôn tươi vui rạng rỡ; Hãy cho thấy rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trao ban ý nghĩa cho cuộc sống con người, của mọi người. Cùng hiệp thông với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ tôi khuyến khích anh chị em hãy hăng say hoạt động mục vụ và tiếp tục tìm ra các hình thức mới để Giáo Hôi hiện diện trong xã hội. Tôi đặc biệt kêu gọi người trẻ đừng sợ hãi quảng đại đáp trả lời Chúa Kitô kêu mời đi theo Ngài. Trong ơn gọi linh mục tu sĩ các bạn sẽ tìm thấy sự giàu có và niềm vui tận hiến chính hình để phục vụ Thiân Chúa và tha nhân.

Hỡi Giáo Hội sống trên đất nước Albania này, xin cám ơn về gương trung thành của ngươi với Tin Mừng! Biết bao nhiệu con trai con gái ngươi đã đau khổ vì Chúa Kitô, đến hy sinh mạng sống. Xin chứng tá của họ nâng đỡ các bước chân ngươi ngày hôm nay và ngày mai, trên con đường tình yêu, sự tự do, công lý và hòa bình. Amen.

Bài giảng của Đức Thánh Cha đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay của tín hữu.

Ngỏ lới với mọi người trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi các bạn trẻ xây dựng cuộc sống trên Chúa Kitô là Đá Tảng, vì Ngài luôn trung thành, cả khi chúng ta bất trung. Đức Thánh Cha nói: Hỡi các bạn trẻ, các con là thế hệ mới của đất nước Albania. Với sức mạnh của Tin Mừng và gương của các vị tử đạo, hãy biết nói không với thần tượng của tiền bạc, nói không với sự tự do giả dối cá nhân chủ nghĩa, nói không với các tùy thuộc và bạo lực. Trái lại, hãy nói có với nền văn hóa của sự gặp gỡ và tình liên đới, nói có với vẻ đẹp bất khả phân ly của thiện mỹ, nói có với cuộc sống tiệu bao với tâm hồn lo lớn nhưng trung thành trong những điều nhỏ nhặt. Như thế các con sẽ xây dựng một đất nước Albania và một thế giới tốt đẹp hơn. Đức Thánh Cha đã phó thác toàn Giáo Hội và dân tộc Albani, cách riếng các gia đình, trẻ em và người già cho sự chở che hiền mẫu của Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành Scutari.

Sau cùng, ngài đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau khi từ giã tín hữu Đức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để cùng các Giàm Mục và đoàn tùy tùng dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tuc các sinh hoạt khác vào ban chiều là: gặp gở hàng lãnh đạo các tôn giáo khác tại đại học Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành; cử hành buổi hát kinh chiều với các linh mục tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các phong trào giáo dân tại nhà thờ chính tòa; gặp gỡ các trẻ em và nhân viên các trung tâm bác ái toàn nước Albania tại nhà Betania, trước khi ra phi trường lấy máy bay trở về Roma.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 94 Giám Mục mới thuộc các xứ truyền giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến 94 Giám Mục mới thuộc các xứ truyền giáo

VATICAN. ĐTC khích lệ các GM thực thi sự ”hoán cải truyền giáo”, sống và hành động giữa Dân Chúa như những người phục vụ.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 94 GM thuộc 49 quốc gia, thụ phong trong thời gian gần đây, vừa kết thúc khóa bồi dưỡng 2 tuần lễ ở Roma, do Bộ truyền giáo tổ chức. Trong số các vị có 4 GM Phụ Tá của Việt Nam: Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo (Xuân Lộc), Đức Cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long (Hưng Hóa), Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Viên (Vinh) và Đức Cha Giuse Trần Văn Toản (Long Xuyên).

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, Đức TGM Savio Hàn Đại Huy SDB, Tổng thư ký và nhiều LM đã phụ giúp trong khóa học ở Học Viện Thánh Phaolô.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến sự cấp thiết của việc hoán cải truyền giáo (Evangelii gaudium); một sự hoán cải liên hệ tới mỗi tín hữu đã chịu phép rửa, mỗi giáo xứ, và dĩ nhiên là các vị mục tử được kêu gọi sống và làm chứng trước tiên, trong tư cách là người hướng dẫn các giáo hội địa phương. Vì thế – ngài nói – ”tôi khuyến khích anh em hãy qui hướng cuộc sống và sứ vụ Giám mục của mình vào sự biến đổi truyền giáo này, đang gọi hỏi Dân Chúa”.

ĐTC cũng nhắc lại giáo huấn của Công Đồng chung Vatican 2 theo đó ”Các GM trong khi thi hành sứ vụ làm cha và chủ chăn giữa các tín hữu của mình phải cư xử như 'những người phục vụ', luôn có trước mắt tấm gương của vị Mục Tử nhân lành, Đấng đã đến để phục vụ chứ không phải để phục vụ, và hiến mạng sống vì mọi người. Tấm gương sáng ngời về việc phục vụ mục vụ là các thánh Tử Đạo Hàn Quốc Anrê Kim Đại Kiến (Kim Taegon) LM, Phaolô Đinh Hạ Tường (Chong Hasang) và các bạn tử đạo mà chúng ta kính nhớ hôm nay. Gắn bó với Chúa Kitô, vị Mục Tử nhân lành, các thánh Tử Đạo không do dự đổ máu đào vì Tin Mừng, mà các ngài là những người trung thành ban phát và là chứng nhân anh dũng”.

ĐTC đặc biệt nhấn mạnh rằng: ”Giáo Hội đang cần các vị Mục Tử, nghĩa là những người phục vụ', cần những Giám Mục biết quì gối trước người khác để rửa chân cho họ. Các vị Mục Tử gần dân, là những người cha, người anh hiền từ, kiên nhẫn và từ bi; yêu mến thanh bần, tự do vì Chúa, cũng như đơn sơ và có cuộc sống khổ hạnh. Anh em được mời gọi không ngừng canh chừng đoàn chiên được ủy thác cho anh em, để giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất và trung thành với Tin Mừng và Giáo Hội. Anh em hãy cố gắng mang lại một đà tiến truyền giáo đích thực cho các cộng đoàn giáo phận của anh em, để họ ngày càng thêm các phần tử mới, nhờ chứng tá cuộc sống và sứ vụ giám mục của anh em được thi hành như một việc phục vụ Dân Chúa. Anh em hãy gần gũi các GM của mình, chăm sóc đời sống tu trì và yêu mến người nghèo”

ĐTC cũng bày tỏ mong ước các GM Trung Quốc thụ phong trong những năm gần đây cũng được tham dự cuộc gặp gỡ hôm nay. ”Tự thâm tâm, tôi hy vọng ngày ấy sẽ không xa!”

Sau cùng, ĐTC nhắc đến Thượng HĐGM thế giới sắp tới về gia đình và nhấn mạnh rằng gia đình ở nơi căn cội công trình truyền giảng Tin Mừng, với sứ mạng giáo dục, tham gia tích cực vào đời sống cộng đoàn giáo xứ. Ngài nói:
”Tôi khuyến khích anh em thăng tiến việc mục vụ gia đình, để các gia đình được tháp tùng và huấn luyện, có thể đóng góp tốt đẹp nhất vào đời sống Giáo Hội và xã hội”.

Trong số các GM tham dự khóa bồi dưỡng, đông nhất là 14 GM Ấn độ, 7 GM Nigeria. (SD 20-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

Đức Thánh Cha tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ về dự án Mục Vụ ”Niềm vui Phúc Âm”

VATICAN. Chiều ngày 19-9-2014, ĐTC đã tiếp kiến 2 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ quốc tế về ”dự án mục vụ 'Niềm vui Phúc Âm”. Ngài mời gọi các nhân viên của Giáo Hội quan tâm đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức dưới sự hướng dẫn của Đức TGM chủ tịch Rino Fisichella tổ chức từ ngày 18 đến 20-9-2014.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, trong đó có khoảng 25 HY, GM và nhiều nữ tu, ĐTC nhận xét rằng “đứng trước bao nhiêu đòi hỏi mục vụ, trước bao nhiêu yêu cầu của con người, chúng ta có nguy cơ kinh hãi và co cụm vào mình trong thái độ sợ hãi và tự vệ. Từ đó nảy sinh cám dỗ tự mãn và duy giáo sĩ, đóng khung đức tin trong những luật lệ và chỉ thị, như những người biệt phái, kinh sư và tiến sĩ Luật thời Chúa Giêsu đã làm. Chúng ta có mọi sự rõ ràng, ngăn nắp, nhưng dân chúng vẫn phải tìm kiếm và tiếp tục đói khát Thiên Chúa”.

ĐTC cũng cảnh giác các nhân viên mục vụ đừng chạy theo sự chiêu dụ mê hoặc, thúc đẩy ta biến việc mục vụ thành một loạt những sáng kiến liên tiếp, mà không lãnh hội được điều thiết yếu trong việc dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều khi chúng ta quan tâm gia tăng các hoạt động hơn là chú ý đến con người và cuộc gặp gỡ của họ với Thiên Chúa. Một nền mục vụ không có sự chú ý như thế thì dần dần sẽ trở nên vô ích… Một nền mục vụ không có kinh nguyện và chiêm niệm thì không bao giờ đi vào tâm hồn con người. Nó chỉ dừng lại ở bề mặt mà không để cho hạt giống Lời Chúa có thể nảy mầm, tăng trưởng và sinh nhiều hoa trái (Xc Mt 13,1-23). (SD 19-9-2014).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio


 

Thợ làm vườn nho

Thợ làm vườn nho

Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.

Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:

“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.

Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.

Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.

Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.

Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.

Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

Veritas Radio

Lý lẽ của trái tim

Lý lẽ của trái tim

Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:

1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.

2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.

3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.

Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.

Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?

2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?

3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ghen tị

 Ghen tị

Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?

Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.

Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình. Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.

Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?

Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.

Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

Công bằng hay bác ái?

Công bằng hay bác ái?

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:

Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.

Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.

Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.

Thưa anh chị em,

Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.

Anh chị em thân mến,

Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).

Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.

Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

 

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tân Giám Mục

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tân Giám Mục

VATICAN. ĐTC nhắn nhủ các GM mới tăng cường đời sống nội tâm, kết hiệp với Chúa để có thể chu toàn sứ mạng mục tử.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 18-9-2014, dành cho các GM mới thuộc bộ GM và Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, về Roma tham dự khóa bồi dưỡng.

Hiện diện tại buổi tiến kiến có ĐHY Tổng trưởng Bộ GM Marc Ouellet, và ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương.

Trong bài huấn dụ dài, ĐTC đề cập đến nhiều khía cạnh của đời sống và sứ vụ GM, đặc biệt là sự hiện diện giữa đoàn chiên. Ngài nói: ”Tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nhắc nhở cho các vị Mục Tử của Giáo Hội về mối liên hệ không thể tách rời giữa sự hiện diện bền vững của GM và sự tăng trưởng của đoàn chiên. Mỗi công trình cải tổ đích thực của Giáo Hội Chúa Kitô bắt đầu bằng sự hiện diện, từ sự hiện diện của Chúa Kitô không bao giờ thiếu, nhưng cũng từ sự hiện diện của vị Mục Tử cai quản nhân danh Chúa Kitô…”

ĐTC nói thêm rằng: ”Để ở lại hoàn toàn trong các giáo phận của anh em, cần luôn luôn ở lại trong Chúa và đừng trốn chạy Chúa: cần ở lại trong Lời Chúa, trong Thánh Thể của Người, trong ”những điều thuộc về Chúa Cha” (Xc Lc 2,49) và nhất là trong thập giá của Chúa. Đừng dừng lại qua đường, nhưng ở lại lâu trong Chúa! Như ngọn đèn không tắt trước Nhà Tạm trong các nhà thờ chính tòa huy hoàng của anh em, hoặc trong các nhà nguyện tầm thường, cũng vậy trong cái nhìn của anh em, đoàn chiên không thiếu cuộc gặp gỡ với ngọn lửa của Chúa Phục Sinh”.

ĐTC cũng nhắc nhở các GM nuôi ảo tưởng vì cám dỗ muốn thay đổi dân. ”Anh em hãy yêu mến dân mà Thiên Chúa ban cho anh em, cả khi họ ”đã phạm những tội tầy đình”, anh em đừng mệt mỏi lên cùng Chúa để xin ơn tha thứ cho họ và một khởi đầu mới..

”Tôi khuyên nhủ anh em hãy vun trồng nơi mình, trong tư cách là Cha và là Chủ  Chăn, một thời gian nội tâm trong đó anh em có thể dành chỗ cho các linh mục của anh em: tiếp đón, lắng nghe và hướng dẫn họ. Tôi muốn anh em là những Giám Mục người ta có thể tìm đến và tiếp xúc được, không phải bằng bao nhiêu phương tiện truyền thông mà anh em sở hữu, nhưng bằng khoảng không gian nội tâm mà anh em dành để đón tiếp con người, với những nhu cầu cụ thể của họ, trao ban cho họ đầu đủ giáo huấn của Giáo Hội, chứ không phải một danh sách những điều phải than phiền”.

Sau cùng, ĐTC nói với các GM rằng: Xin anh em vui lòng đừng sa vào chước cám dỗ hy sinh tự do của anh em bằng cách bao quanh mình với những quần thần, những người ủng hộ, vì nơi môi miệng của GM Giáo Hội và thế giới có quyền luôn tìm được Tin Mừng làm cho chúng ta được tự do” (SD 18-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lễ giỗ lần thứ 12 Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận

Lễ giỗ lần thứ 12 Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận

ROMA: Lúc 9 giờ sáng 18-9-2014, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, đã chủ sự thánh lễ tại Nhà Thờ Đức Mẹ Cầu Thang ở Roma, nhân lễ giỗ lần thứ 12 của vị Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

Tại thánh đường này của dòng Camêlô nhặt phép có mộ của Đức Cố hồng Y. Đồng tế thánh lễ có Đức Cha Mario Toso, Tổng thư ký Hội Đồng và gần 30 linh mục Việt Nam và Ý, trước sự hiện diện của gần 100 người gồm các nữ tu Việt Nam, chủng sinh, tu sinh Việt Nam một số giáo dân và thân nhân bạn hữu và cộng tác viên của Đức Cố Hồng Y trong Hội Đồng.

Giảng trong thánh lễ, ĐHY Turkson đã khai triển ý nghĩa các bài đọc thánh lễ, ngài liên kết những đau khổ mà ĐHY Phanxicô đã chịu trong tình trạng tù đày với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. ĐHY cùng mời gọi mọi người cầu nguyện để án phong chân phước cho ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận được tiến hành mau lẹ và tốt đẹp.
ĐHY Nguyễn Văn Thuận qua đời ngày 16-9 năm 2002 hưởng thọ 74 tuổi. Hồi đầu tháng 7 năm 2013, cuộc điều tra cấp giáo phận để làm án phong chân phước cho Đức Cố HY đã được kết thúc trọng thể và toàn bộ hồ sơ được chuyên lên Bộ Phong Thánh để cứu xét. (TPN 18-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio