Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

Phiên khoáng đại thứ 3 của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình

VATICAN. Trong phiên khoáng đại thứ 3, sáng 7-10-2014, các nghị phụ Thượng HĐGM thế giới đã bàn về vấn đề những người ly dị.

ĐTC hiện diện tại phiên họp do ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa và bàn về ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Trong phần phát biểu về chủ đề được xác định, một số nghị phụ đã kêu gọi tăng cường việc chuẩn bị hôn nhân, để không những bí tích này được thành sự nhưng còn được những kết quả phong phú. Các nghị phụ cũng đề nghị không nên chỉ tìm kiếm những phương dược cho những cuộc hôn nhân bị thất bại, nhưng còn phải để ý đến những điều kiện làm cho hôn phối được thành sự và phong phú. Điều này cần phải thông truyền một quan niệm về hôn nhân không phải như một điểm tới, nhưng là một hành trình hướng về một mục tiêu cao cả hơn, một con đường tăng trưởng bản thân và cho đôi vợ chồng, một sức mạnh và là nguồn năng lực.

Cần luôn tháp tùng các đôi vợ chồng trong hành trình cuộc sống, qua một nền mục vụ gia đình khẩn trương và nghiêm túc. Hành trình chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối phải lâu dài, theo nhân cách của mỗi người và nghiêm ngặt, đừng sợ thấy con số các hôn phối cử hành tại nhà thờ bị giảm sút. Chẳng vậy người ta sẽ gặp nguy cơ làm cho các tòa án hôn phối bị tràn ngập công việc.

– Một điểm khác được các nghị phụ trình bày tại Thượng HĐGM là ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông. Các phương tiện này nhiều khi xâm nhập đời sống và trình bày những ý thức hệ trái ngược với đạo lý của Hội Thánh về gia đình và hôn nhânm. Trong viễn tượng này, người ta nói các tín hữu Công Giáo cần được bảo vệ, nhưng cũng cần được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn. Giáo Hội phải cung cấp giáo huấn một cách chính xác và quyết liệt hơn, trình bày đạo lý không phải như một danh sách những điều cấm đoán, nhưng gần gũi với các tín hữu, như Chúa Giêsu đã làm. Theo cách thức ấy, khi hành động trong sự đồng cảm và dịu dàng, Giáo Hội có thể thu hẹp khoảng cách giữa đạo lý và thực hành, giữa giáo huấn của Giáo Hội và đời sống thường nhật của các gia đình. Vì điều cần thiết không phải là chọn lựa giữa đạo lý và lòng từ bi, nhưng là khởi sự một nền mục vụ sáng suốt, nhất là để khích lệ các gia đình đang gặp khó khăn, thường cảm thấy mình không thuộc về Giáo Hội.

– Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ đã nói nhiều về những cặp vợ chồng gặp khó khăn, những người ly dị tái hôn. Một số nghị phụ khẳng định rằng Giáo Hội đừng đưa ra một sự phán xét đối với những cặp ấy nhưng trình bày chân lý, với cái nhìn cảm thông, vì dân chúng đi theo sự thật và theo Giáo Hội nếu Giáo Hội nói lên chân lý. Liều thuốc từ bi mang lại sự đón tiếp, chăm sóc và nâng đỡ. Lý do cũng vì các gia đình đau khổ không tìm kiếm những giải pháp mục vụ mau lẹ, họ không muốn chỉ là những con số thống kê, nhưng cảm thấy nhu cầu được soi sáng, cảm thấy được đón nhận và yêu mến. Giáo Hội phải dành nhiều chỗ hơn cho tiêu chuẩn bí tích, hơn là tiêu chuẩn luật pháp.

Về vấn đề những người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, một số nghị phụ khẳng định rằng bí tích Thánh Thể không phải là bí tích của những người hoàn hảo, nhưng là của những người đang trên đường lữ hành.

Tại Thượng HĐGM có trình bày 3 chiều kích đặc thù của gia đình, đó là: ơn gọi sự sống, đặc tính truyền giáo, được hiểu như làm chứng về Chúa Kitô qua sự hiệp nhất gia đình; sau cùng là đón tiếp tha nhân, vì gia đình là trường học đầu viên về tha nhân, là nơi người ta có thể học sự kiên nhẫn và chậm rãi, đối nghịch với với nhịp sống ồ đạt của thế giới ngày nay. Một chiều kích khác của tế bào gia đình được nêu bật trong sự thánh thiện, vì gia đình giáo dục về sự tháanh thiện, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, là Giáo Hội tại gia, phục vụ công trình loan báo Tin Mừng, là tương lai của nhân loại.

Trong phiên họp thứ ba, các nghị phụ cũng nói đến tầm quan trọng của việc huấn giáo về gia đình, nhất là cho các trẻ em, và việc cầu nguyện trong gia đình, vì việc cầu nguyện này tới tới một sự sinh ra đức tin, giúp cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên họp thứ 2 của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. Lúc 9 giờ sáng thứ ba, 7-10-2014, Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường thứ III về ”những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng” đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 trước sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ. ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila, chủ tọa phiên họp theo lượt.

ĐHY loan báo chủ đề của phiên họp là ”Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên” (I,3) và ”gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô' (I, 4) như đã được trình bày trong chương 3 và 4 thuộc phần thứ I của tài liệu làm việc.

Sau lời giới thiệu của ĐHY Tagle, đôi vợ chồng dự thính viên George và Cynthia Campos người Philippines đã trình bày chứng từ. Ông George là Giám đốc tổ chức ”Các đôi vợ chồng vì Chúa Kitô” và bà Cynthia là thành viên của tổ chức này. Cả hai đều thuộc tổng giáo phận Manila.

Chúng tôi sẽ tường thuật nội dung phiên họp này trong bản tin tới.

Họp báo của Cha Lombardi

Khác với các công nghị GM thế giới trước đây, lần này Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM không phổ biến các bản tóm tắt bài phát biểu do chính nghị phụ thực hiện. Trái lại, mỗi ngày đều có một cuộc họp báo ngắn để tường trình tổng quát cho giới báo chí những gì đã được trình bày trong phiên họp.

Trưa thứ hai 6-10-2014, sau phiên khoáng đại thứ I, cha Lombardi Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, đã chủ tọa cuộc họp báo này với sự tham dự của ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của Thượng HĐGM, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris là người đã chủ tọa phiên họp thứ I, và ĐHY Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Thượng HĐGM đang tiến hành.

ĐHY Peter Erdoe

Ngỏ lời với giới báo chí, ĐHY Peter Erdoe nói đến một vài thay đổi trong phương pháp của Thượng HĐGM, vì ĐTC đã thay đổi qui luật của Công nghị GM, chẳng hạn ngài qui định rằng từ nay ngôn ngữ chính thức của Thượng HĐGM là tiếng Ý, thay vì tiếng la tinh như từ trước đến nay, dĩ nhiên là có phần thông dịch. Sự thay đổi này cũng làm cho công việc của Tổng tường trình viên dễ dàng hơn. Trong những Công nghị GM trước đây, các nghị phụ phải nghe bài tường trình cả tiếng đồng hồ bằng tiếng la tinh, và đó là điều không dễ dàng đối với mọi người.

Những thay đổi đáng kể khác trong phương pháp liên quan đến nội dung và cách thức soạn bản tường trình trước khi thảo luận, nhất là vì sau khi nhận được Tài liệu làm việc, các Nghị Phụ được yêu cầu gửi trước bài phát biểu của mình về Văn phòng Tổng thư ký trước cuối tháng 9 vừa qua. Vì thế, nhiều bài phát biểu đã được gửi về, và dựa trên các văn bản đó, chúng tôi dang soạn bài tường trình sau cuộc thảo luận. Dĩ nhiên cũng cần theo dõi các bài phát biểu của các nghị phụ trong những ngày tại tại Hội trường THĐGM, vì không phải tất cả các nghị phụ đều trình bày giống như đã viết trên giấy và gửi về trước, ngoài ra cũng có những bài phát biểu tự do. Tóm lại là phải thu thập tất cả để soạn bản tường trình sau cuộc thảo luận. Khi soạn bản tường trình trước cuộc thảo luận, chúng tôi cũng có thể để ý đến nội dung của một số bài phát biểu trên giấy đã được gửi về. Chúng tôi nghĩ, như thế có thể nhắc đến vắn tắt một số lập trường quan trọng từ những câu trả lời, và dĩ nhiên chúng tôi cũng dựa trên Tài liệu làm việc. Văn kiện này thực ra đã là kết quả của cuộc đúc kết các bản trả lời từ các nơi gửi về. Vì thế có thể nói là toàn Giáo Hội được tham khảo ý kiến hai lần. Tóm lại công việc của chúng tôi như tường trình viên là tổng hợp những gì được trình bày, và nói một cách thơ phú hơn, công việc đó hệ tại ”lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐHY Vingt-Trois

Tiếp lời ĐHY Erdoe, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, một trong 3 vị Chủ tịch thừa ủy, là người đã chủ tọa phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM sáng thứ hai 6-10, vừa qua, đã lên tiếng lưu ý các ký giả về cám dỗ muốn diễn tả kinh nghiệm của Thượng HĐGM theo kinh nghiệm mình đã có về các cuộc thảo luận tại quốc hội.

ĐHY nói: ”Trong cuộc thảo luận tại quốc hội, người ta cố gắng đạt tới một mục đích là đi tới một đa số và một thiểu số. Các chế độ dân chủ, hay ít là các chế độ ”mặc bộ áo dân chủ”, nói là đa số thắng thiểu số và thiểu số phải phục tùng đa số. Nhưng công việc tại Thượng HĐGM không phải như vậy. Các nghị phụ ở đây không phải để đạt được đa số từ những lập trường được trình bày. Các vị ở đó là để làm việc, làm sao phát triển được một ý chí chung trong Giáo Hội. Ý chí này là động viên về những mục tiêu rõ ràng và chính xác bao nhiêu có thể, và phần còn lại thì để cho các Giáo Hội địa phương thi hành.

Phiên họp khoáng đại thứ 2

Lúc 5 giờ chiều thứ hai 6-10-2014, Thượng HĐGM đã nhóm phiên khoáng đại thứ 2 với sự hiện diện của ĐTC và 180 nghị phụ và bàn về chủ đề: 'Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình” (I,1), và ”Việc hiểu biết và đón nhận Kinh Thánh và các văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình” (I,2). Hai đề tài này thuộc chương thứ I và thứ II trong phần thứ I của Tài liệu làm việc.

Chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola

Mở đầu mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola người Australia, dự thính viên tại Thượng HĐGM này. Ông bà là đồng giám đốc Hội đồng Công Giáo Australia về hôn nhân và gia đình. Họ kể lại kinh nghiệm trong gia đình về việc sống căng thẳng giữa một bên là khẳng định chân lý, và bên kia là sự cảm thông và từ bi. Cụ thể là người con trai của Ông bà Pirola là một người đồng tính luyến ái. Một hôm, nggười con ấy nói là muốn đưa người bạn trai của anh ta về nhà. Ông bà là người hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội, nhưng phải làm sao trước yêu cầu của người con? Ông bà bị giằng co giữa một bên là tôn trọng và chấp nhận chân lý và giáo huấn của Hội Thánh, và bên kia là từ bi yêu thương người con. Ông bà biết rằng các cháu muốn ông bà đón nhận đứa con và bạn trai của anh ta trong gia đình. Vì thế câu trả lời của ông bà có thể được tóm tắt trong câu: ”Đó là con chúng tôi!”.

Theo ông bà Ron và Mavis Pirola, điều này có thể là ”kiểu mẫu loan báo Tin Mừng cho các giáo xứ khi gặp những hoàn cảnh tương tự”. Vai trò của Giáo Hội là làm cho thế giới nhận biết tình thương của Thiên Chúa.

Ông bà dự thính viên còn kể thêm rằng: ”Một người bạn gái của chúng tôi ly dị và cho biết là nhiều khi không cảm thấy hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của bà. Nhưng bà vẫn đi dự lễ thường xuyên và không than thở gì với các con của bà. Đối với giáo xứ, bà là một gương mẫu về sự can đảm dấn thân đương đầu với những nghịch cảnh. Từ những người như bà chúng ta học cách nhận ra rằng tất cả chúng ta mang những thương tích nội tâm trong cuộc sống của mình. Ý thức về những vết thương nội tâm của mình, giúp chúng ta rất nhiều trong việc giảm bớt xu hướng xét đoán người khác, một thái độ cản trở việc loan báo Tin Mừng”.

Nội dung phát biểu của các nghị phụ

Sau chứng từ của ông bà Pirola, một số nghị phụ đã phát biểu ý kiến, mỗi vị tối đa là 4 phút. Nội dung các bài phát biểu của các nghị phụ có thể tóm tắt như sau:

Đi từ tiền đề gia đình là tế bào cơ bản của xã hội loài người, là chiếc nôi của tình yêu nhưng không, và việc nói về hôn nhân và gia đình bao hàm một sự giáo dục về lòng chung thủy, nhiều nghị phụ nhấn mạnh rằng cần phải bảo vệ gia đình vì tương lai của nhân loại tùy thuộc gia đình.

Ngoài ra, từ nhiều phía, người ta thấy cần phải thích ứng ngôn ngữ của Giáo Hội, để đạo lý của Hội thánh về gia đình, về sự sống, tính dục, được hiểu đúng đắn: cần đối thoại với thế giới, noi gương Công đồng chung Vatican 2, nghĩa là có thái độ cởi mở phê bình, nhưng chân thành. Lý do vì nếu Giáo Hội không lắng nghe thế giới, thì thế giới cũng chẳng nghe Giáo Hội. Và cuộc đối thoại có thể dựa trên những đề tài quan trọng như phẩm giá bình đẳng giữa người nam và người nữ, sự phủ nhận bạo lực.

Có nghị phụ nói: chúng ta không phải giải thích Tin Mừng, nhưng là chứng tỏ Tin Mừng và nhất là cần có sự can dự của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng, nêu rõ đoàn sủng truyền giáo của giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng không thể là một lý thuyết xuông, nhưng phải làm sao để chính các gia đình làm chứng tá cụ thể về vẻ đẹp và về chân lý Phúc Âm, Thách đố ở đây là đi từ một thế tự vệ tới một thái độ đề nghị và tích cực, nghĩa là tái đẩy mạnh khả năng đề nghị gia sản đức tin với một ngôn ngữ mới, hy vọng, nhiệt thành, hăng say, trình bày chứng tá có sức thuyết phục, bắc những nhịp cầu giữa ngôn ngữ của Giáo Hội và ngôn ngữ của xã hội. Theo nghĩa đó có nghị phụ đề nghị sử dụng viêc huấn giáo Kinh Thánh hơn là thần học suy lý, vì nói đúng ra, con người không còn thỏa mãn vì sự ích kỷ và tìm kiếm những lý tưởng. Cũng vì con người muốn hạnh phúc và Kitô hữu biết rằng hạnh phúc là chính Chúa Kitô, nhưng họ không tìm được ngôn ngữ thích hợp để nói điều đó cho thế giới. Trái lại Giáo Hội phải có sức thu hút, làm việc để thu hút, với thái độ thân thiện đối với thế giới.

– Về những đôi vợ chồng gặp khó khăn, có nghị phụ nhấn mạnh rằng Giáo Hội phải gần gũi họ trong sự cảm thông, tha thứ và từ bi: lòng từ bi là phẩm tính đầu tiên của Thiên Chúa, nhưng cần nhìn sự từ bi trong bối cảnh công lý, chỉ như thế ta mới tôn trọng thực sự toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa.

Hộn nhân đang và vẫn còn là bí tích bất khả phân ly, nhưng vì chân lý là Chúa Kitô, một ngôi vị, chứ không phải là một toàn bộ các qui luật, nên điều quan trọng là duy trì những nguyên tắc, tuy thay đổi những hình thức cụ thể trong việc áp dụng. Tóm lại như ĐGH Biển Đức 16 đã nói, đó là ”sự mới mẻ trong sự liên tục”: Thượng HĐGM này không đặt lại vấn đề đạo lý, nhưng suy tư về Mục Vụ, tức là về sự phân định tinh thần để áp dụng đạo lý ấy trước những thách đố của gia đình ngày nay. Theo nghĩa đó lòng từ bi không loại bỏ các giới răn, nhưng là chìa khóa để giải thích các giới răn.

Ngoài ra, trong Công nghị cũng nhấn mạnh rằng cần phải cứu xét những tình trạng bất toàn với lòng tôn trọng: ví dụ những cặp nam nữ sống chung không kết hôn, nhưng họ sống trong sự chung thủy và với tình yêu thương, trình bày những yếu tố thánh hóa và sự thật. Vì thế điều thiết yếu là trước tiên cần nhìn những yếu tố tích cực, để Thượng HĐGM mang lại can đảm và hy vọng cho cả những hình thức bất toàn của gia đình, những hình thức có thể đề cao giá trị theo nguyên tắc tiệm tiến. Cần thực sự yêu mến các gia đình gặp khó khăn.

Trong bối cảnh một xã hội mà người ta tôn thờ cái tôi của mình, đưa tới sự giải trừ gia đình, cần nêu rõ sự đánh mất ý nghĩa Giao Ước giữa con người với Thiên Chúa. Do đó việc loan báo vẻ đẹp của gia đình, không thể là một khoa thẩm mỹ, trình bày một lý tưởng thuần túy phải bắt chước, nhưng phải trình bày tầm quan trọng sự sự dấn thân chung kết dựa trên Giao Ước của đôi vợ chồng với Thiên Chúa.

– Một điểm thiết yếu khác là sự phủ nhận thái độ giáo sĩ trị, nhiều khi Giáo Hội dường như quan tâm tới quyền bính hơn là phục vụ và vì thế không soi sáng cho tâm hồn con người. Do đó cần tái noi gương Chúa Kitô, tìm lại sự khiêm tốn: việc cải tổ Giáo Hội phải bắt đầu bằng việc cải tổ giáo sĩ, vì nếu các tín hữu thấy các vị mục tử noi gương Chúa Kitô, thì họ sẽ tái gần gũi với Giáo Hội, và như thế Giáo Hội có thể đi từ tình trạng chỉ loan báo Tin Mừng để trở thành người loan báo Tin Mừng.

Và các nghị phụ cũng bàn về đề tài giá trị thiết yếu cảu tính dục trong hôn nhân: thực vậy người ta nói rất nhiều để phê bình tính dục ngoài hôn nhân, đến độ tính dục trong hôn nhân dường như là một sự nhân nhượng đối với một sự bất toàn. Thượng HĐGM nhấn mạnh tới sự cần thiết phải huấn luyện kỹ lưỡng hơn cho các LM, các chính sách bênh vực gia đình và đẩy mạnh việc thông truyền đức tin giữa lòng gia đình.

Trong giờ thảo luận tự do từ 6 đến 7 giờ chiều, có 2 đề nghị được đưa ra: xin Thượng HĐGM gửi một sứ điệp khích lệ và quí mến đối với các gia đình ở Irak, đang bị đe dọa vì cuộc tàn sát do trào lưu Hồi giáo cuồng tín gây ra và phải chạy trốn để không từ bỏ đức tin. Đề nghị này được đa số các nghị phụ bỏ phiếu chấp thuận.

Đề nghị thứ hai là cần suy tư về hàng giáo sĩ có gia đình trong các Giáo Hội Đông phương, họ cũng thường sống những cuộc khủng hoảng gia đình, và có thể đi tới chỗ yêu cầu được ly dị.

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

 

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

Phiên khoáng đại đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám Mục thế giới về gia đình

VATICAN. ĐTC Phanxicô xin các nghị phụ nói rõ và nói thẳng ý kiến và xác tín của mình trong Thượng HĐGM.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong lời chào mừng các nghị phụ trong phiên họp khoáng đại đầu tiên của Thượng HĐGM khóa ngoại thường thứ 3 về gia đình, sáng ngày 6-10-2014 tại Hội trường Thượng HĐGM ở nội thành Vatican, về về ”các thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Phiên họp bắt đầu lúc 9 giờ, dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris và trước sự hiện diện của ĐTC với 181 nghị phụ, cùng với các dự thính viên. Trên bàn chủ tọa trong Hội trường THĐGM, cạnh ngài còn có ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, 3 Hồng Y chủ tịch thừa ủy, ĐHY Tổng tường trình viên, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của khóa họp này.

Trong kinh giờ Ba, ĐHY Lluós Martínez Sistach, nguyên TGM Barcelona, Tây Ban Nha, đã trình bày một bài suy niệm ngắn.

Đến lượt ĐTC chào mừng mọi người. Ngài nói:

Các Hồng Y, Thượng Phụ, GM, anh chị em thân mến

Tôi nồng nhiệt chào mừng anh chị em tham dự cuộc gặp gỡ này và thành tâm cám ơn sự hiện diện ân cần và quí giá và tham dự của anh chị em.

Nhân danh anh chị em, tôi muốn nồng nhiệt cám ơn tất cả những ngừơi đã tận tụy làm việc, trong kiên nhẫn và với khả năng chuyên môn, qua những tháng dài, đọc, thẩm định và soạn thảo các đề tài, văn bản và công việc của Thượng HĐGM khóa ngoại thường này.

ĐTC đặc biệt cám ơn ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký THĐGM Đức cha Phó Tổng thư ký và tất cả các nhân viên của Văn phòng Tổng thư ký đã làm việc không biết mệt mỏi và còn tiếp tục làm việc cho Thượng HĐGM này. ĐTC cũng cám ơn Hội đồng Hậu Thượng HĐGM thế giới khóa 13, vị Tổng tường trình viên, Tổng thư ký và các HĐGM đã làm việc rất nhiều, cũng như 3 vị HY thừa ủy.

Tiếp đến ĐTC cám ơn các HY, Thượng Phụ, GM và các tham dự viên khác, và nói rằng: sự tham dự của anh chị em làm cho công việc của Thượng HĐGM này được phong phú, tinh thần đoàn thể của hàng GM và công nghị tính để mưu ích cho Giáo Hội và các gia đình. Tôi cũng muốn tinh thần công nghị thể hiện qua việc chọn vị Tường trình viên, Tổng thư ký và các vị chủ tịch thừa ủy. Vị tường trình viên và Tổng thư ký đặc biệt do Hội đồng hậu Thượng HĐGM trực tiếp bầu lên, trong khi 3 vị Chủ tịch thừa ủy thừa ủy thì tôi đã xin Hội đồng đề nghị và tôi đã theo đó để bổ nhiệm.

ĐTC nói với các nghị phụ:

”Anh em mang tiếng nói của các Giáo Hội địa phương, tập họp ở cấp địa phương của HĐGM. Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội địa phương là do Chúa thiết lập; các Giáo Hội địa phương được hiểu như thế là do con người thành lập.

Tiếng nói này anh em mang đến trong công nghị. Đó là một trách nhiệm lớn: mang những thực tại và các Giáo Hội, để giúp các Giáo Hội ấy tiến bước trên con đường là Tin Mừng gia đình.

Một điều kiện tổng quát cơ bản là: nói rõ ràng. Xin đừng ai nói: ”Điều này không thể nói; ai đó sẽ nghĩ về tôi thế này thế kia..” Cần nói tất cả những gì mình cảm thấy trong tinh thần tự do ngôn luận.

Sau công nghị Hồng y lần cuối hồi tháng 2 năm 2014, trong đó có nói về gia đình, một Hồng Y đã viết cho tôi rằng: rất tiếc là vài Hồng Y không có can đảm nói một số điều vì tôn trọng ĐGH, cho rằng ĐGH nghĩ khác. Điều này không tốt, đó không phải là đặc tính công nghị, vì cần phải nói tất cả những gì mà trong Chúa mình cảm thấy phải nói: không vị nể con người, không nhút nhát. Và đồng thời, phải khiêm tốn lắng nghe và thành tâm đón nhận trong tinh thần cởi mở điều mà các anh em nói. Với hai thái độ đó, ta thực thi công nghị tính. Vì thế, tôi xin anh em, hãy có những thái độ huynh đệ ấy trong Chúa: nói trong tinh thần tự do ngôn luận và khiêm tốn lắng nghe. Và hãy thi hành điều đó trong tinh thần thanh thản và yên hàn, vì công nghị luôn tiến hành với Phêrô và dưới Phêrô, và sự hiện diện của Giáo Hoàng là bảo đảm cho tất cả.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta hãy cộng tác để năng động tính của công nghị được củng cố rõ ràng.

ĐHY Baldisseri
Sau lời chào của ĐTC, ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã trình bày những chỉ dẫn thực tiễn trong việc tiến hành Thượng HĐGM: mỗi nghị phụ được quyền phát biểu tối đa 4 phút theo thứ tự các đề tài được ấn định cho mỗi phiên họp. Bài phát biểu đó, sau khi trình bày, trở thành tài sản của Thượng HĐGM. Các nghị phụ được tự do trả lời phỏng vấn với các nhân viên truyền thông và trình bày những gì mình thấy là nên nói. Mỗi ngày sẽ có một cuộc họp báo theo sự phối hợp của Cha Lombardi, giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, và có sự tham dự của một vài nghị phụ.

Các nghị phụ theo dõi một video về cách sử dụng các dụng cụ tại Hội trường Thượng HĐGM, từ ống nghe cho đến việc chọn các sinh ngữ được thông dịch trực tiếp, dụng cụ bỏ phiếu và báo sự hiện diện. Sau khi các nghị phụ bấm vào máy, tổng cộng có 181 nghị phụ có mặt trong phiên khoáng đại đầu tiên sáng hôm qua.

Bài dẫn nhập của ĐHY Baldisseri

Sang đến bài dẫn nhập vào Thượng HĐGM khóa ngoại lệ thứ III, trước tiên, ĐHY Baldisseri đặc biệt cám ơn ĐTC vì đã quyết định tôn phong chân phước cho ĐGH Phaolô 6 vào chúa nhật 19-10 tới đây, trong lễ bế mạc Thượng HĐGM này. Đức Phaolô 6 được phong chân phước trong bối cảnh Thượng HĐGM, ghi đậm một dấu hiệu quan trọng về đoàn thể tính và công nghị tính. Sau 50 năm, Đức Cố Giáo Hoàng vẫn là một nhân vật thời sự.

ĐHY Baldisseri gợi lại diễn tiến chuẩn bị Thượng HĐGM khóa đặc biệt này về gia đình, từ lúc ĐTC tuyên bố triệu tập, xác định đề tài, bổ nhiệm Tổng thư ký mới, đến việc soạn tài liệu chuẩn bị, bổ nhiệm các chức sắc khác của Công nghị GM thế giới này.

Việc tham khảo ý kiến sâu rộng trong Giáo Hội được khởi sự với bản câu hỏi kèm theo tài liệu chuẩn bị. Có 83,11% những người có quyền thuộc các HĐGM đã trả lời, gần 65,40% các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã trả lời, gần 77% các Công nghị các Giáo Hội Công Giáo đông phương đã trả lời góp ý, không để nhiều nhận xét từ các nhân và các nhóm trong và ngoài Giáo Hội.

Dựa vào các bản góp ý gửi đề, một tài liệu làm việc đã được soạn thảo với sự cộng tác của một nhóm 9 chuyên gia. Tài liệu này đã được giới thiệu trong cuộc họp báo ngày 26-6 năm nay và được phổ biến rộng rãi trên trang mạng của Tòa Thánh.

Thành phần tham dự

Về thành phần tham dự công nghị này, ĐHY Baldisseri cho biết có tổng cộng 253 người, trong đó có 191 nghị phụ có quyền bỏ phiếu. Các vị gồm 3 thành phần: trước tiên có 162 vị tham dự do chức vụ, tiếp đến có 3 vị được bầu lên, sau cùng là 26 nghị phụ do ĐTC bổ nhiệm gồm 14 HY, 8 GM, 4 LM.

Các nghị phụ do chức vụ gồm 13 vị thủ lãnh của các Công nghị Giám Mục các Giáo hội Công Giáo nghi lễ đông phương tự quản, sau đó là 114 vị Chủ tịch HĐGM (trong đó có Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam); tiếp đến là 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Theo quyết định của ĐTC, trong số các nghị phụ theo chức vụ có thêm các HY, GM thành viên của Hội đồng Thượng HĐGM thứ 13, là những vị đã chuẩn bị công nghị GM khóa đặc biệt sắp bắt đầu.

Có 3 nghị phụ tham dự vì được bầu lên, đó là 3 Bề trên Tổng quyền: dòng Tên, dòng Capuchino và dòng thánh Giuse (CSI). Sau cùng là 26 vị do ĐTC bổ nhiệm, đến từ nhiều nơi trên thế giới.

Trong số 191 nghị phụ, có 61 Hồng y, 1 Hồng Y thượng phụ, 7 Thượng Phụ, 1 TGM trưởng, 67 TGM và 47 GM, 1 LM giám chức và 6 LM dòng.

Xét về xuất xứ có 42 nghị phụ Phi châu, 38 từ Mỹ châu, 29 từ Á châu, 78 vị từ Âu Châu và 4 vị từ Úc châu.
Ngoài ra có 16 chuyên gia và 38 dự thính viên nam nữ, trong đó có 12 cặp vợ chồng, và 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em. Trong số các chuyên gia cũng có 1 cặp vợ chồng.

Cầu nguyện cho Thưng HĐGM

Ngoài các sự kiện đó, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM đã cổ võ các sáng kiến cầu nguyện cho công nghị GM đặc biệt này. Nhất là vào lễ thánh gia thất, chúa nhật 29-12 năm ngoái, buổi cầu nguyện được cử hành đồng thời tại 3 nơi là Vương cung thánh đường Đức Mẹ Truyền Tin ở Nazareth, Đền Thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, và Đền thờ Thánh Gia ở thành Barcelona, Tây Ban Nha. Trong dịp đó văn bản kinh cầu nguyện cho Thượng HĐGM do ĐTC soạn cũng được phổ biến.

Chúa nhật 28-9 vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký cũng mời gọi các HĐGM, các hội đoàn và phong trào trên thế giới tổ chức ngày cầu nguyện cho Thượng HĐGM. Và từ ngày 6-10-2014, tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma, các tín hữu cũng cầu nguyện cho công nghị GM này trong nhà nguyện Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma. Sáng kiến này được sự cộng tác của giáo phận Roma, và tại nhà nguyện ấy có đặt thánh tích của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, và song thân của Người là chân phước Zélie và Louis Martin, cũng như thánh tích của hai chân phước Ông Bà Luigi và Maria Baltrame Quatrocchi người Italia.

Trong bài tường trình, ĐHY Baldisseri nói đến hành trình Thượng HĐGM theo tinh thần công nghị được ĐTC nhấn mạnh rất nhiều và tiến hành qua 2 giai đoạn: công nghị đặc biệt hiện nay và Thượng HĐGM khóa thường lệ vào năm tới. Đây là một thời điểm thuận tiện: các vị chủ chăn và tín hữu để cho mình được Chúa Thánh Linh hướng dẫn hầu thực hiện công nghị tính này vốn được ĐTC nhiều lần nhắc như một yếu tố quan trọng trong đời sống Giáo Hội… Hiệp nhất trong sự khác biệt: không có con đường Công Giáo nào khác để chúng ta liên kết với nhau. Trong tinh thần công nghị và hiệp thông huynh đệ ấy, các giai đoạn chuẩn bị Thượng HĐGM này đã được tiến hành.

Danh sách các chủ đ

ĐHY Baldisseri cũng nói đến cuốn cẩm nang Thượng HĐGM đã được phát cho các nghị phụ và các tham dự viên khác. Tài liệu này rất quan trọng để theo dõi công việc của công nghị GM này. Lịch trình tiến hành được đăng ở phần cuối cuốn Cẩm Nang, theo đó cuộc thảo luận tại Hội trường Thượng HĐGM, trong tuần lễ thứ I, từ phiên khoáng đại thứ hai sẽ tiến hành theo chủ đề:

Chiều thứ hai này, có hai đề tài: Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 1), kiến thức về Kinh Thánh và Giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình (Phần I, ch. 2).
Trong phiên họp thứ 3, có 2 đề tài: Tin Mừng gia đình và luật tự nhiên (Phần I, ch. 3). Gia đình và ơn gọi con người trong Chúa Kitô (Phần I, Ch. 4). Chiều thứ 3, 7-10, chủ đề là ”Mục vụ gia đình và các đề nghị khác nhau được đề ra (II, 1). Sáng thứ tư trong phiên khoáng đại thứ 5, sẽ bàn về những thách đố mục vụ gia đình (II, 2). Trái lại ban chiều sẽ nói về những tình trạng mục vụ khó khăn (II, 3). Phiên khoáng đại thứ 7, sáng thứ năm 8-10 sẽ bàn về các thách đố mục vụ liên quan tới sự cởi mở đối với sự sống (III, 1), trong khi phiên thứ 8 vào ban chiều sẽ nói về Giáo Hội và gia đình đứng trước thách đố giáo dục (III, 2).

Mỗi phiên họp theo chủ đề sẽ được mở đầu với phần nhập đề ngắn của vị Chủ tịch thừa ủy theo lượt, tiếp đến là chứng từ của các dự thính viên nam nữ được chọn, ưu tiên dành cho các đôi vợ chồng, qua đó họ có thể soi sáng đề tài bằng kinh nghiệm sống của họ, cung cấp một viễn tượng giáo dân làm cho cuộc thảo luận được phong phú.
Trong tuần lễ thứ hai của công nghị sẽ có các cuộc thảo luận nhóm bàn về bản tường trình sau tuần lễ thứ I, theo cùng thứ tự các chủ đề.

Bản tường trình các cuộc thảo luận nhóm sẽ được trình bày tại các phiên khoáng đại để được Thượng HĐGM phê chuẩn. Như thế sẽ không có việc soạn các đề nghị như trước kia. Bản tường trình này sẽ được đệ lên ĐTC để tùy ngài quyết định. Văn kiện này cũng là điễm khởi hành để chuẩn bị Thượng HĐGM khóa thường lệ thứ 14 sẽ tiến hành vào tháng 10 năm tới, 2015. Nói khác đi, sau khi thích ứng, văn kiện ấy sẽ trở thành tài liệu chuẩn bị cho Thượng HĐGM lần tới để tham khảo ý kiến và soạn Tài liệu làm việc cho khóa họp năm tới.
Đến 10 giờ rưỡi sáng hôm qua, ĐHY Vingt-Trois tuyên bố các nghị phụ được nửa giờ giải lao.

ờng trình ĐHY Peter Erdoe

Tái nhóm vào lúc 11 giờ, các nghị phụ đã nghe ĐHY Peter Erdoe, người Hungari, Tổng trường trình của công nghị GM này đọc bài tường trình dài hơn 1 tiếng đồng đồ về thực tại gia đình ngày nay và các vấn đề cần được công nghị này bàn tới.

Dựa theo Tài liệu làm việc, qua các chủ đề như Tin mừng gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng.
I. Trước tiên là phương pháp phân định về gia đình, rồi đến phương pháp làm việc của Thượng HĐGM này.
II. ”Tin Mừng về gia đình và việc mục vụ gia đình, với các tiểu đề như:
– Thách đố giáo dục của gia đình: là trường dạy về tình người, về xã hội, Giáo Hội và sự thánh thiện – Sự vững chắc và rõ ràng trong hành trình huấn luyện
– Gia đình như người giữ vai chính trong việc loan báo Tin Mừng
– Hoạt động mục vụ trong những tình trạng khủng hoảng
– Những khó khăn từ bêntrong gia đình và những sức ép từ bên ngoài
III. Những tình trạng mục vụ khó khăn, gồm các tiểu đề:
– Giáo hội như nhà Cha
– Sự thật và lòng từ bi thương xót
– những vụ sống chung và hôn nhân dân sự
– việc săn sóc mục vụ những người ly dị và tái hôn. Về vấn đề này được nhiều ngừơi nói tới, nhưng ĐHY Erdoe nói đây chỉ là một trong rất nhiều thách đố mục vụ cam go ngày nay. Và cũng có một số nước không hề có vần đề này, vì họ chẳng có hôn phối dân sự. Một số khác, con số ly dị giảm sút vài người ta không muốn tái hôn sau sự thất bại của hôn phối thứ I.
– Thủ tục giáo luật giải hôn phối và con đường ngoài tòa án.
– ĐHY cũng bàn đến thói quen thực hành của các Giáo hội chính thống.
IV. là Gia đình và tin mừng sự sống, gồm các tiểu đề như
– việc loan báo Tin Mừng sự sống
– gia đình trong bối cảnh quan hệ
– Trách nhiệm của Giáo hội và việc giáo dục
– Các vấn đề liên hệ tới Thông hiệp Sự Sống con người
Và ĐHY Erdoe kết luận rằng thách đố mà Thượng HĐGM này cần đương đầu là làm sao thành công trong việc tái đề nghị cho thế giới ngày nay, phần nào cũng giống như thời kỳ đầu của Giáo Hội, sức thu hút của Sứ điệp Kitô về hôn nhân và gia đình, nhấn mạnh niềm vui mà hôn nhân và gia đình mang lại nhưng đồng thời cung cấp những câu trả lời đích thực và đượm tình bác ái cho bao nhiêu vấn đề liên hệ tới cuộc sống gia đình ngày nay.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Vẻ đẹp của cuộc sống gia đình

Phỏng vấn ông bà Franco và Giuseppina Miano

Trong các ngày từ mùng 5 đến 19 tháng 10 năm 2014 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới khóa đặc biệt về gia đình diễn ra tại nội thành Vaticăng với sự tham dự của 253 người đến từ năm châu. Trong số các Nghị phụ có 114 vị Chủ tịch các Hội Đồng Giám Mục, 25 vị thủ lãnh các cơ quan trung ương của Tòa Thánh, 9 thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục, 3 Bề trên tổng quyền do các dòng nam bầu lên, và 26 Nghị phụ do Đức Thánh Cha Phanxicộ bổ nhiệm. Các tham dự viên khác gồm 8 đại biểu của các Giáo Hội Kitô anh em, 38 dự thính viên, trong số này có 13 cặp vợ chồng, thêm vào đó là 16 chuyện gia.

Trong số các chuyên gia tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục nói trên có hai ông bà Franco và Giuseppina Miano, cả hai đều là giáo sư triết học. Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn hai ông bà về vẻ đẹp của gia đình và Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Hỏi: Thưa hai giáo sư, ông bà nghĩ gì về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình mà hai người sẽ tham dự trong tư cách là các chuyên viên?

Đáp (ông Franco): Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đặc biệt này về gia đình là một dịp rất hay đẹp giúp suy tư về một thực tại, mà mọi kitô hữu đều chú ý và được Giáo Hội lưu tâm vì tầm quan trọng của gia đình đối với cuộc sống xã hội và cuộc sống của tất cả mọi người. Vì thế, chúng tôi thực sự hài lòng vì được chỉ định tham dự.

Đáp (bà Giuseppina): Chúng tôi cảm thấy trách nhiệm mà mình có qua việc chỉ định này và kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ sống trong Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Hỏi: Ông bà là cha mẹ, nhưng cũng là giáo sư đại học, vì thế luôn luôn tiếp xúc với người trẻ. Vai trò này của ông bà có thể đóng góp gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Có. Một sự đóng góp cụ thể trong hướng nền tảng, bởi vì nhà tôi và tôi, chúng tôi xác tín về tầm quan trọng của việc kể lại rằng cuộc sống gia đình trước hết là vẻ đẹp, tình yêu, niềm vui, cả các mệt nhọc cũng như các khó khăn, nhưng chúng được đương đầu với một sự chú ý cho phép vượt thắng các khó khăn. Trước hết, cần nói rằng có thể có một cuộc sống gia đình đẹp, đây là câu chuyện mà chúng tôi phải kể lại, mà chúng tôi phải trao ban cho các thế hệ mới. Trong một nghĩa nào đó đây là một bổn phận.

Đáp (bà Giuseppina): Phần đóng góp của chúng tôi là phần đóng góp cụ thể, phát xuất từ việc sống tới chỗ sâu thẳm của thực tại, mà người ta sẽ đề cập đến trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Bởi vì khi nói về gia đình, thì không phải là nói về một cái gì trừu tượng, mà là nói về một thực tại cuộc sống và tương quan, trong đó có các kinh nghiệm làm thành cuộc sống con người. Nghề dậy học của tôi dẫn đưa tôi tới chỗ không chỉ dấn thân trong nghề nghiệp như là phụ nữ, mà nó cũng là một việc rất đặc biệt, bởi vì đó là một công việc bao gồm sự nghiên cứu, suy tư, tìm tòi, so sánh, và là một công việc cũng bao gồm một trách nhiệm đặc biệt, bởi vì nó diễn ra bên trong phân khoa của một phân khoa thần học, và vì thế bao gồm việc đào tạo các con người, sẽ có một trách nhiệm đặc biệt trong cuộc sống xã hội.

Hỏi: Tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục này dừng lại lâu trên gương mặt của người cha, nhưng cũng minh nhiên các khía cạnh thê thảm trong điều kiện của nữ giới: chẳng hạn nó nói tới cảnh bạo lưc trong gia đình trên nhiều phần đất của thế giới này. Riêng hai giáo sư, thì hai giáo sư nghĩ sao?

Đáp (ông Franco): Liên quan tới người cha, tôi tin rằng các nét nhấn mạnh trong tài liệu làm việc khiến cho tất cả mọi người đều chú ý tới một vấn đề, thường đặc biệt cấp bách trong các xã hội tây phương: nghĩa là làm sao để mỗi người cha, mỗi người mẹ có thể phục hồi tính cách chuyên biệt trong vai trò của mình, tức sự chuyên biệt trong sự hiến dâng của mình, và như thế người cha có thể là cha tới tận cùng thẳm con người mình, có khả năng đồng hành một cách yêu thương, nhưng cũng có khả năng thực thi một vai trò hướng dẫn, đồng hành chắc chắn và có uy tín. Đó là uy tín của gương mặt hiền phụ, nếu nó được phục hồi.

Đáp (bà Giuseppina): Để cho phẩm giá của phụ nữ được thừa nhận cho tới tận cùng và một cách thực sự, thì đường đi còn xa lắm. Và tôi cũng tin rằng đường còn dài kể cả sự đích thực của tương quan trở thành một cái gì có thể thực hiện và cụ thể. Vấn đề bạo lực đối với các phụ nữ trong gia đình không chỉ là vấn đề liên quan tới phụ nữ, nó cũng liên quan tới nam giới và nữ giới nữa; nó liên quan tới kiểu người ta quan niệm và sống tương quan giữa con người với nhau, liên quan tới ý thức và cả nhân tính của chúng ta nữa. Bạo hành nữ giới là dấu chỉ của một sự đánh mất nhân bản tính gia tăng, hay của một con đường nhân bản hóa còn có trước mặt con đường rất dài cần phải đi.

Hỏi: Thưa giáo sư Franco, trong qúa khứ giáo sư đã từng là Chủ tịch phong trào Công Giáo Tiến Hành Italia. Kinh nghiệm này có giúp giáo sư trong công việc tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình không?

Đáp (ông Franco): Chắc chắn là nó sẽ giúp tôi rồi, bởi vì kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trước tiên là kinh nghiệm của một đại gia đình phục vụ Giáo Hội và phục vụ xã hội. Gia đình trong đó có các trẻ em, các người trẻ, và người trưởng thành, người già cả, có những người độc thân và những cặp vợ chồng… Và vì thế ý thức của gia đình, của một hiệp hội hiệp nhất là một khía cạnh khác nữa, mà ngày nay người ta đặc biệt cần đến, bởi vì cuộc sống của Giáo Hội ngày càng được đón nhận như là sự sống của một gia đình. Và kinh nghiệm của phong trào Công Giáo Tiến Hành trong các năm này đã khiến cho tôi gặp biết bao nhiêu người, và vì thế tiếp xúc với biết bao nhiêu kinh nghiệm tốt lành được phổ biến trên đất Italia, nhưng trong một mức độ nào đó được phổ biến trên toàn thế giới, cũng như các vất vả mệt nhọc, mà ngày nay người ta cảm thấy, và Giáo Hội có thể góp phần dấn thận của minh và đề ra một giải pháp cho các vấn đề.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình sẽ kéo dài hai tuần, các con của giáo sư đã tiếp nhận tin cha mẹ được chỉ định làm chuyên viên tham dự Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế Giới như thế nào?

Đáp (bà Giuseppina): Các con chúng tôi đã rất hài lòng, khi nghe tin chúng tôi được chỉ định tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục như là chuyên viên. Chúng đã khá lớn rồi, bởi vì cả hai đều là các sinh viên đại học. Chúng hoàn toàn tham dự, chúng đã luôn luôn tham dự và lần này cũng thế chúng tham dự vào dấn thận của chúng tôi. Trong một cách thức nào đó, chúng cũng bị lôi cuốn vào trong kinh nghiệm này, cũng như trong biết bao nhiêu kinh nghiệm dấn thân của cuộc sống gia đình. Và đây là điều hay đẹp, bởi vì chúng tôi nghĩ tới dấn thân của mình tại Thượng Hội Đồng Giám Mục một cách riêng tư và đặc biệt như thế, trong kiểu chia sẻ rộng rãi bên trong gia đình. Do đó chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đựơc mời gọi không chỉ cống hiến một phần kiểu lý thuyết trừu tượng, nhưng một phần đóng góp nảy sinh từ cuộc sống, từ sự cụ thể của cuộc sống. Và bên trong sự cụ thể đó của cuộc sống gia đình chúng tôi, có tương quan rất mạnh mẽ và quan trọng với con cái qua sự đối thoại và đối chiếu với chúng.

Hỏi: Như thế thì hai giáo sư cầu chúc những gì cho Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình, xét rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2014 sẽ là giai đoạn đầu tiên của lộ trình sẽ được bổ túc bằng Thượng Hội Đồng Giám Mục chung năm 2015 cũng được dành cho gia đình?

Đáp (ông Franco): Chúng tôi cầu chúc rằng đây là một dịp rất hay đẹp của một suy tư được Chúa Thánh Thần soi sáng, có khả năng của một cuộc đối thoại sống động và ý nghĩa, chú ý tới thực tại trong đó chúng ta sống và chú ý tới tiếng nói của tất cả mọi người.

Đáp (bà Giuseppina): Tôi cầu chúc Thượng Hội Đồng Giám Mục lôi cuốn rộng rãi, để Giáo Hội ngày càng có khả năng đồng hành với cuộc sống của con người, dẫn đưa họ tới cuộc gặp gỡ với tình yêu thương của Chúa, biến đổi cuộc sống, khiến cho nó xinh đẹp hơn, sáng láng hơn, và làm phát sinh ra các tiềm năng tốt lành hơn của con người, nâng cao phẩm giá và ý nghĩa sâu xa của nó.

(RG 10-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

ĐTC khai mạc Thượng HĐGM khóa đặc biệt về gia đình

Kính thưa quí vị thính giả,

Đúng 11 tháng sau khi tài liệu chuẩn bị được công bố, lúc 10 giờ sáng chúa nhật hôm qua, 5-10, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể để khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa đặc biệt thứ 3 với chủ đề ”Những thách đố về việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô có 230 vị, gồm 191 nghị phụ gồm trong đó có 61 Hồng Y, 7 Thượng Phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương tự quản, trong đó có 2 vị TGM Trưởng, 115 TGM và GM, phần còn lại là 7 LM nghị phụ, ngoài ra có gần 38 LM chuyên gia và cộng tác viên.

Đứng cạnh ĐTC trên bàn thờ là 6 chức sắc của Thượng HĐGM gồm vị Tổng tường trình viên là ĐHY Peter Erdoe, TGM Ezstergom Budapest, Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu; tiếp đến là 3 vị Chủ Tịch thừa ủy gồm ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Brazil, và ĐHY Luis Antonio Tagle, TGM Manila. Sau cùng là ĐHY Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM, và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám mục này.

Cách đây 2 năm, ngày 7-10 năm 2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ khai mạc Thượng HĐGM thế giới, khóa thường lệ thứ 13 về việc tái truyền giảng Tin Mừng, có 408 vị đồng tế với ngài, trong đó có 250 nghị phụ, dự thính viên và chuyên viên cũng như các cộng tác viên của Thượng HĐGM, thêm vào đó có 75 GM thuộc HĐGM Tây Ban Nha và Đức vì hôm đó cũng là lễ tôn phong thánh Gioan Avila người Tây Ban Nha và thánh nữ Hildegard von Bingen người Đức là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có Ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên, đảm trách.

Sau đây là bài giảng trong thánh lễ của Đức Thánh Cha:

Hôm nay, ngôn sứ I-sa-i-a và bài Tin Mừng đã vận dụng hình ảnh vườn nho của Thiên CHúa. Vườn nho của Thiên Chúa là “giấc mơ” của Ngài, là dự phóng mà Ngài ấp ủ với tất cả tình yêu của mình, hệt như một người tá điền quan tâm đến vườn nho của mình. Nho là một loài cây vốn đòi hỏi nhiều sự chăm sóc.
Giấc mơ của Thiên Chúa là dân của Người: Người đã gieo trồng và nuôi dưỡng họ với một tình yêu tín trung và kiên nhẫn, để họ có thể trở thành một dân thánh, một dân sản sinh nhiều hoa trái thơm ngọt của sự công chính.

Nhưng trong thời các ngôn sứ ngày xưa cũng như trong dụ ngôn của Đức Giêsu, giấc mơ của Thiên Chúa đã bị hủy hoại. I-sa-i-a nói rằng vườn nho mà ông đã hết mực yêu mến và chăm sóc “lại sản sinh toàn nho dại”; còn Thiên Chúa thì những mong họ “sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (c.7), Trong bài Tin Mừng, trái lại, chính các tá điền đã phá hủy dự phóng của Thiên Chúa: họ không thực thi bổn phận của họ, nhưng chỉ suy nghĩ đến lợi ích của chính mình.

Đức Giêsu trong dụ ngôn của mình, đã nhắm đến các thượng tế và bậc lão thành ở trong dân, đó là những người tự cho mình là “thông thái”, là tầng lớp lãnh đạo dân. Họ là những người được Thiên Chúa, gửi gắm cho “giấc mơ của Người” một cách cụ thể, đó là dân của Người, để họ nuôi dưỡng, chăm sóc, gìn giữ dân khỏi những thú dữ. Đây là nghĩa vụ của những thủ lãnh của dân: chăm sóc vườn nho với sự tự do, sáng tạo và cần mẫn.

Nhưng Đức Giêsu nói rằng những tá điền đã chiếm đoạt vườn nho; bởi tính tham lam và sự ngạo mạn, họ đã muốn làm với vườn nho điều họ muốn, và như thế họ đã không cho Thiên Chúa khả năng hiện thực hóa giấc mơ của Ngài trên dân mà Ngài chọn.

Cám dỗ của tính tham lam luôn luôn có đó. Chúng ta có thể nhận ra nó ngay cả trong lời tiên báo của Ê-dê-ki-en dành cho các mục tử, mà thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích trong một bài giảng trứ danh của mình mà chúng ta vẫn hay đọc trong Các giờ kinh Phụng vụ. Tính tham lam tiền bạc và quyền lực. Và để thỏa mãn sự tham lam này những mục tử xấu xa bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn họ chẳng buồn động ngón tay vào. (x.Mt 23,4)

Chúng ta cũng vậy, trong khóa họp này, chúng ta được kêu gọi để lao tác cho vườn nho của Thiên chúa. Thượng HĐGM thế giới không phải để thảo luận những ý tưởng hay ho và cấp tiến, hay để xem ai là người thông minh hơn… nhưng để nuôi dưỡng và chăm nom vườn nho của Thiên Chúa được tốt hơn, để cộng tác với giấc mơ của Người, nhắm đến dự phóng tình yêu trên dân của Thiên Chúa. Trong trường hợp này, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến gia đình, vốn ngay từ khởi đầu đã là một phần thiết yếu trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tất cả chúng ta đều là tội nhân và chúng ta có thể rơi vào cám dỗ “tự chiếm đoạt” vườn nho, bởi lòng tham luôn ngự trị nơi những con người như chúng ta. Giấc mơ của Thiên Chúa thường xung đột với thói đạo đức giả của một vài tôi tớ của Người. Chúng ta có thể “phá tan” giấc mơ của Thiên Chúa nếu chúng ta không để Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan vượt quá sự hiểu biết, để lao tác một cách quảng đại cùng với sự tự do đích thực và sự sáng tạo khiêm nhường.

Anh em nghị phụ thân mến, để nuôi dưỡng và chăm sóc vườn nho một cách tốt đẹp, con tim và tâm trí của chúng ta cần phải được gìn giữ ở trong Đức Giêsu Kitô bởi sự “bình an của Thiên Chúa vốn vượt lên trên mọi hiểu biết của con người", như thánh Phaolô đã nói (Phil 4,7). Như thế những suy tư và dự phóng của chúng ta có thể thích ứng với giấc mơ của Thiên Chúa: kiến tạo một dân thánh thuộc riêng về Người và sản sinh những hoa trái của Nước Trời (Mt 21,43).

Cũng trong ngày Chúa Nhật hôm nay, vào lúc 12h, các tín hữu hành hương lại tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô để nghe huấn từ của Đức Thánh Cha và nhận phép lành từ ngài. Trong bài chia sẻ, Đức Thánh Cha lại tiếp tục khai thác về chủ đề “Vườn nho của Thiên Chúa” và xin mọi người cầu nguyện cho cuộc họp Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra trong những ngày tới đây, bàn về vấn đề mục vụ cho các gia đình.

Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của ngài:

“Anh chị em thân mến!

Sáng hôm nay, cùng với Thánh lễ đồng tế trong Đền thờ Thánh Phêrô, chúng ta đã khai mạc Đại hội ngoại thường của Thượng HĐGM thế giới. Các nghị phụ của Thượng HĐGM, đến từ nhiều vùng trên thế giới, sẽ sống cùng tôi và cùng với nhau trong hai tuần nghiêm túc, được bồi bổ từ cầu nguyện, để lắng nghe và đối thoại về đề tài “Những thách đố của việc mục vụ gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”

Lời Chúa hôm nay giới thiệu hình ảnh của vườn nho hệt như biểu tượng của dân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Như một vườn nho, dân riêng đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm, đòi hỏi một tình yêu tín trung và kiên nhẫn. Như thế, điều Thiên Chúa làm với chúng ta thì chúng ta cũng được kêu gọi để làm những mục tử. Thậm chí người ta phải quan tâm đến gia đình như thể một cách thức lao tác cho vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì người ta phải sản sinh hoa trái của Vương quốc Thiên Chúa. (Mt 21, 33-43)

Nhưng để gia đình có thể tự mình bước đi tốt đẹp, cùng với niềm tin và sự hy vọng, cần được bổ dưỡng bởi Lời Chúa. Chính vì điều này thật là một sự trùng hợp hạnh phúc trong ngày hôm nay, khi những anh em Dòng thánh Phaolô đã muốn thực hiện việc phân phát sách Kinh Thánh cách rộng rãi, nơi Quảng trường này và tại nhiều nơi khác. Chúng ta cám ơn những anh em Dòng thánh Phaolo của chúng ta. Anh em đã thực thi việc này nhân dịp 100 năm thành lập Dòng, bởi chân phước Giacomo Alberione, một tông đồ vĩ đại về truyền thông. Vì thế, hôm nay, vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng GM về gia đình, cùng với sự trợ giúp của anh em dòng Thánh Phao-lô, chúng ta có thể nói rằng: một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! Một cuốn Kinh Thánh dành cho mỗi gia đình! “Nhưng thưa cha, chúng con có tới hai, tới ba cuốn!” “Nhưng người ta giấu chúng đi đâu rồi?” Ôi, không phải bởi vì…cuốn Kinh Thánh, cũng chẳng phải để đặt nó nơi giá sách, nhưng phải giữ và mang chúng nơi đôi tay, để đọc nó thường xuyên, để hiện diện cùng với nó một cách cá vị, vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đều đặn mỗi tối, đặc biệt là ngày Chúa nhật. Như thế thì gia đình mới tăng trưởng, và vững bước cùng với ánh sáng và sức mạnh của Lời Chúa! Đây là cuốn Kinh Thánh mà anh em dòng Thánh Phao lô trao cho các bạn , mỗi gia đình một cuốn. Nhưng các bạn phải chú ý! Đừng láu cá để tay này lấy rồi, tay kia lại còn lấy nữa? Với một tay thôi để mang sách Kinh Thánh về nhà.

Cha mời gọi tất cả mọi người hãy trợ giúp những công việc của Thượng HĐGM cùng với lời cầu nguyện, khẩn khoản nài xin Đức Mẹ, sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Nữ Trinh Maria. Giờ phút này, chúng ta hiệp thông cách thiêng liêng cùng với nhiều người, đang ở Thánh địa Pompei, dâng lên Đức Mẹ Mân Côi lời kinh “Supplica” truyền thống. Lời kinh ban bình an cho tất cả gia đình và toàn thể thế giới.

Jos. Trần Đức Anh, OP
Jos. Nguyễn Huy Mai

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình

Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về “những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra quản lý.

Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa cành sâu bệnh… thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng ra hoa, kết trái.

Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta, những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các hoa trái trổ sinh.

Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích xã hội thì những người quản lý là những người được giao phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn dân của một tập thể, của một đất nước… Theo chiều kích tôn giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do Chúa đặt định (x.Rm 13,1)

Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến. Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại các ngài.

Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao vườn nho cho những người khác.

Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.

Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).

LM Giuse Nguyễn văn Nghĩa

CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

 CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO – CÂU CHUYỆN ĐỜI TA

Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ, được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn, đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt vong.

Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho. Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con. Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong thánh ý Chúa.

Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu, tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.

Các con, sinh viên học sinh thân mến,

Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con. Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường, luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu, buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự thành công.

Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều. Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.

Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?

2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ xứng hợp không?

3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách nhiệm đó không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tá điền và vườn nho

Tá điền và vườn nho

Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.

Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.

Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.

Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.

Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.

Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.

Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và ban hơn nữa cho chúng ta hay không?

Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta, và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Ngài”.

Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn, vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Sưu tầm

Được và mất

Được và mất

Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt chân, thì Lừa trả lời:

– Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.

Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra đã, để khỏi bị gai đâm.

Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ chạy.

Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.

– Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt, chứ đâu dạy ta làm thày lang!

Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học, thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta: Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả bi thảm.

Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người. Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.

Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.

Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái lạc cho bản thân.

Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.

Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!

Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm, hay đã cản trở không cho người khác làm”.

Sưu tầm

Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh

Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh

VATICAN. ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cám ơn và khuyến khích các vị Sứ Thần Tòa Thánh thực thi những sáng kiến cụ thể giúp các chính quyền và dư luận ý thức về thảm trạng các tín hữu Kitô tại Trung Đông.

Trong bài giảng thánh lễ đồng tế sáng 4-10-2014, với các vị Sứ thần Tòa Thánh ở Trung Đông, Liên hiệp Âu Châu và LHQ, ĐHY Parolin nhắc đến thảm trạng đau thương mà các tín hữu Kitô và nhiều người khác đã và đang phải chịu ở Trung Đông: bao nhiêu cộng đoàn Kitô có từ thời các Tông Đồ đang phải đương đầu với những nguy hiểm trầm trọng và bách hại công khai. ĐHY nói:

”Thật là đau buồn khi nhận thấy các quyền lực sự ác tồn tại và tích cực hoạt động, nơi một số tâm trí băng hoại có sự xác tín rằng bạo lực và kinh hoàng là phương pháp người ta có thể dùng để áp đặt ý chí quyền lực cho người khác, thậm chí họ còn nấp sau chủ trương ngụy tạo gọi là để củng một một quan niệm tôin giáo nào đó! Đó thực là một sự sa đọa cảmthức tôn giáo chân chính, gây nên những hậu quả bi thảm và cần phản ứng lại. Giáo Hội không thể im lặng trước sự bách hại mà bao nhiêu con cái mình phải chịu và cộng đồng quốc tế không thể giữ thái độ trung lập giữa những người bị gây hấn và kẻ gây hấn”.

ĐHY Parolin nhấn mạnh rằng: ”Không được bỏ qua những gì có thể làm để thoa dịu thân thận của các anh chị em chúng ta đang bị thử thách và để ngăn chặn kẻ hung bạo. Chúa Quan Phòng cũng muốn dùng chúng ta, tự do và hoạt động, óc sáng tạo của chúng ta, sáng kiến và sự dấn thân hằng ngày của chúng ta”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh xác quyết rằng ”Những Kitô hữu bị bách hại và tất cả những người phải chịu đau khổ bất công phải có thể nhận thấy Giáo hội là tổ chức đang bênh vực họ, cầu nguyện và hành động cho họ, và Giáo Hội không sợ khẳng định sự thật, trở thành lời nói của những kẻ không có tiếng nói, bênh vực và bảo vệ những người bị bỏ rơi, người tị nạn và người bị kỳ thị”. (SD 4-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật

VATICAN. Sáng 4-10-2014, ĐTC đã tiếp kiến 7 ngàn vận động viên khuyết tật và những người tháp tùng. Ngài ca ngợi chứng tá của họ như một khích lệ cho những người khác đồng cảnh ngộ.

Các vận động viên hay lực sĩ đến từ nhiều nước trên thế giới về Roma tham dự cuộc thi đấu thể thao với chủ đề ”Hãy tin tưởng để sống động” (Believe to be alive).

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, sau khi đề cao giá trị của thể thao, ĐTC nhận xét rằng: việc thực hành thể thao của các vận động viên khuyết tật là một ”sứ điệp khích lệ cho tất cả những người sống trong những hoàn cảnh tương tự và trở thành một lời mời gọi dấn thân với tất cả năng lực của mình để cùng nhau thực hiện những gì tốt đẹp, vượt lên trên những hàng rào mà chúng ta có thể gặp chung quanh mình, và trước tiên là những hàng rào trong nội tâm của mình”.

ĐTC cũng nói: ”Các vận động viên thân mến, chứng tá của anh chị em là một dấu chỉ hy vọng to lớn. Đó là một bằng chứng cho thấy trong mỗi người có những tiềm năng mà nhiều khi chúng ta không tưởng tượng được, và chúng có thể phát triển trong niềm tín thác và liên đới. Thiên Chúa Cha là người đầu tiên biết điều đó và Người nhìn chúng ta với lòng tín nhiệm, Người yêu thương chúng ta trong thân phận hiện tại nhưng Chúa cũng làm cho chúng ta tăng trưởng theo những gì chúng ta có thể trở thành. Vì thế, trong nỗ lực của anh chị em đạt tới một nền thể thao không hàng rào, một thế giới không có người bị loại trừ, anh chị em không bao giờ lẻ loi! Thiên Chúa là Cha chúng ta ở cùng anh chị em”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Ước gì thể thao trở thành một thao trường đối với tất cả anh chị, trong đó anh chị em tập luyện hằng ngày trong niềm tôn trọng chính mình và người khác, một thao trường mang lại cho anh chị em cơ hội biết những người và môi trường mới, giúp anh chị em cảm thấy mình là thành phần tích cực của xã hội”.

Chúa nhật 5-10-2014, lần đầu tiên ở đường Hòa Giải và Quảng trường Piô 12 liền trước Quảng trường Thánh Phêrô có bố trí một diễn trường lớn cho ngành thể thao khuyết tật, thuộc các bộ môn khác nhau. Lúc 12 giờ trưa, các tham dự viên cũng tham gia buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC Phanxicô (SD 4-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại hội của Bộ Giáo Sĩ

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đại hội của Bộ Giáo Sĩ

VATICAN. ĐTC khích lệ Bộ giáo sĩ trong các hoạt động xoay quanh 3 lãnh vực: ơn gọi, huấn luyện và loan báo Tin Mừng.

Ngài trình bày lập trường này trong buổi tiếp kiến sáng ngày 3-10-2014, dành cho 80 tham dự viên đại hội của Bộ giáo sĩ, tiến hành dưới quyền chủ tọa của ĐHY Tổng trưởng Beniamin Stella và trong đó có 23 HY và 4 GM thành viên.

ĐTC ví ”ơn gọi được Chúa đặt trong tâm hồn một số người người như kho tàng quí giá giấu trong ruộng, cần phải được khám phá và mang ra ánh sáng. Kho tàng này không phải chỉ để làm cho vài người được phong phú. Người được kêu gọi thi hành một thừa tác vụ không phải là ”chủ nhân” ơn gọi của mình , nhưng là người quản lý một hồng ân mà Chúa ủy thác cho họ để mưu ích cho tất cả mọi ngừơi, cả những người ở xa và không thực hành đạo.”
Tiếp đến là việc huấn luyện. Đó là một sự đáp lại của con người, của Giáo Hội, đối với hồng ân mà Chúa ban qua ơn gọi. Vấn đề ở đây là bảo tồn và phát huy ơn gọi, để ơn gọi được trưởng thành. Ơn gọi là những viên kim cương thô cần phải được mài dũa cẩn thận, trong sự tôn trong lương tâm con người và kiên nhẫn, để nó chiếu sáng giữa lòng dân Chúa.

ĐTC đặc biệt khai triển khía cạnh thứ ba là loan báo Tin Mừng. Mỗi ơn gọi là để phục vụ cho sứ mạng và sứ mạng của các thừa tác viên thánh chức là loan báo Tin Mừng dưới mọi hình thức. Sứ mạng này khởi hành trước tiên từ cuộc sống trước khi được biểu lộ qua việc làm. Các linh mục được liên kết trong một tình huynh đệ bí tích, nên hình thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là làm chứng về tình huynh đệ và hiệp thông giữa các LM với nhau và với Đức GM. Từ tình hiệp thông như thế có thể nảy sinh một đà tiến truyền giáo mạnh mẽ, giải thoát thừa tác viên thánh chức khỏi cám dỗ muốn tìm kiếm sự đồng thuận và ủng hộ của người khác và an sinh của mình, thay vì được đức bác ái mục tử thúc đây để loan báo Tin Mừng đến tận những vùng ngoại ô xa xăm nhất.

ĐTC nói thêm rằng ”trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, các LM được kêu gọi gia tăng ý thức mình là những mục tử được sai đi ở giữa đoàn chiên, để làm cho Chúa hiện diện qua Thánh Thể và ban phát lòng từ bi của Chúa. Vấn đề ở đây là ”sống như linh mục” chứ không phải là ”làm linh mục”, và cần được giải thoát khỏi mọi tinh thần trần tục, với ý thức rằng chính đời sống của linh mục là một việc loan báo Tin Mừng, trước khi truyền giáo bằng những hành động. Thật là đẹp khi thấy các linh mục vui tươi trong ơn gọi, với niềm thanh thản từ nội tâm, nâng đỡ linh mục cảc trong những lúc vất vả và đau khổi! Và điều này sẽ không bao giờ xảy ra nếu không cầu nguyện”. (SD 3-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi giải quyết các vấn đề Trung Đông

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi giải quyết các vấn đề Trung Đông

VATICAN. Tòa Thánh kêu gọi đừng đơn phương giải quyết các vấn đề ở Trung Đông bằng võ lực.
Lập trường trên đây được Đức TGM Dominique Mamberti, ngoại trưởng Tòa Thánh, trình bày trong phiên họp sáng ngày 3-10-2014 tại Vatican của các vị Sứ Thần Tòa Thánh ở các nước Trung Đông và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh.

Đức TGM Mamberti đã trình bày về tình hình chính trị tổng quát ở Trung Đông và những nguyên tắc hướng dẫn hoạt động của Tòa Thánh. Ngài khẳng định rằng cần phải tìm kiếm hòa bình qua một giải pháp ”miền” và toàn bộ không bỏ qua lợi ích của phe nào, và qua đối thoại chứ không phải bằng những quyết định đơn phương áp đặt bằng võ lực.

Về hiện tượng khủng bố, Đức TGM ngoại trưởng tái khẳng định tầm quan trọng của việc bài trừ chủ nghĩa cực đoan là nguồn cội của khủng bố. Các vị lãnh đạo tôn giáo phải giữ một vai trò quan trọng, cổ võ đối thoại liên tôn và đặc biệt là sự cộng tác của tất cả mọi người để mưu thiện ích cho xã hội. Khi theo dõi tình hình chính trị ở Trung Đông và nói chung trong quan hệ với các nước có đa số dân theo Hồi giáo, Tòa Thánh luôn nghĩ đến các vấn đề cơ bản là việc bảo vệ và tôn trọng các tín hữu Kitô cũng như các nhóm thiểu số, như những công dân với đầy đủ danh nghĩa và nhân quyền, nhất là quyền tự do tôn giáo.

Trong phiên họp sáng thứ sáu, 3-10, Đức Sứ Thần Tòa Thánh tại Israel kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Jerusalem và Palestine đã trình bày về cuộc xung đột Israel-Palestine và về sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Thánh Địa. Ngài nhấn mạnh rằng để có sự ổn định cho vùng Trung Đông và hòa bình tại vùng này, điều chủ yếu là phải giải quyết cuộc xung đột giữa Israel và Palestine. Thực vậy, sau bao nhiêu năm, cuộc xung đột này tiếp tục không được giải quyết, với những hậu quả rất trầm trọng cho vùng này và thế giới.

Đức Sứ Thần cũng xác nhận rằng cuộc hành hương của ĐTC Phanxicô tại Thánh Địa và cuộc gặp gỡ cầu nguyện sau đó tại Vatican đã mở ra những hy vọng hòa bình. Cuộc xung đột mới đây tại Gaza nhắc nhở rằng tình trạng thật là trầm trọng và khó khăn, nhưng cần phải canh tân các nỗ lực ngoại giao để đạt tới một giải pháp công chính và lâu bền, tôn trọng quyền của cả hai phe trong cuộc xung đột. (SD 3-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các vị Sứ Thần Tòa Thánh ở Trung Đông nhóm họp tại Vatican

Các vị Sứ Thần Tòa Thánh ở Trung Đông nhóm họp tại Vatican

VATICAN. Trong những ngày từ 2 đến 4-10-2014, các vị Sứ Thần Tòa Thánh tại Trung Đông nhóm họp tại Vatican với các vị lãnh đạo liên hệ tại Tòa Thánh.

Ngoài các vị Sứ Thần tại Ai Cập, Israel, Jerusalem, Palestine, Giordani, Iraq, Iran, Liban, Syria và Thổ nhĩ kỳ còn có ba vị Đại diện Tòa Thánh tại LHQ ở New York, Genève, và Liên hiệp Âu Châu.

Từ phía các cơ quan Trung Ương Tòa Thánh, đó ĐHY Quốc vụ khanh và 2 vị TGM phụ tá, ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo, Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, Hiệp nhất các tín hữu Kitô, Công lý và Hòa bình, di dân và Cor Unum.

Thông cáo của cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh công bố trưa ngày 2-4-2014, cho biết cuộc gặp gỡ diễn ra tại Phủ Quốc Vụ khanh Tòa Thánh và có đề tài chính là ”Sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông”.

”Cuộc họp là một biểu hiện sự gần gũi và quan tâm của ĐTC đối với vấn đề quan trọng này. Chính ngài đã muốn dẫn nhập khóa họp, ngài cám ơn các tham dự viên đến cầu nguyện và cùng nhau suy tư về những gì cần làm để đáp ứng tình trạng bi thảm các tín hữu Kitô Trung Đông và các tôn giáo và chủng tộc thiểu số đang phải chịu vì bạo lực lan tràn trong toàn vùng. Với những lời rất cảm động, ĐTC đã biểu lộ sự lo âu của ngài về tình hình chiến tranh đang trải qua tại bao nhiêu nơi và hiện tượng khủng bố, coi rẻ sinh mạng con người. Ngài cũng nhắc đến vấn đề buôn bán võ khí là căn cội của bao nhiêu vấn đề, cũng như thảm trạng nhân đạo của nhiều người buộc lòng phải bỏ xứ sở ra đi. ĐTC tái khẳng định tầm quan trọng của lời cầu nguyện và cầu mong có những sáng kiến và hành động ở mọi cấp độ, để bày tỏ tình liên đới của toàn thể Giáo Hội đối với các tín hữu Kitô ở Trung Đông, và làm sao để cộng đồng quốc tế cũng như mọi người thiện chí can dự vào, để đáp ứng các nhu cầu của rất nhiều người đang chịu đau khổ trong Vùng.

Tiếp đến, ĐHY Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh đã trình bày ý nghĩa và mục đích của khóa họp. ĐHY Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương đã tường trình tổng quát về tình hình các tín hữu Kitô ở Trung Đông, đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề và khơi lên một cuộc đối thoại sinh động với các tham dự viên.

Sau đó, các vị Đại diện Tòa Thánh ở Siria và Irak đã thông báo về tình trạng các tín hữu Kitô tại các nước liên hệ. ĐHY Sarah Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm) trình bày về vai trò của Giáo Hội trước cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Trung Đông. Rồi các tham dự viên trao đổi và kết thúc phiên họp ban sáng.

Bàn chiều có bài tường trình của ĐHY Tauran Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn nói về các viễn tượng đối thoại liên tôn với Hồi giáo và những thách đố đối với các tín hữu Kitô ở Trung Đông. ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, tường trình về cuộc viếng thăm mới đây cảu ngài tại Irak trong tư cách là Đặc Sứ của ĐTC.

Sau khi đối thoại, các tham dự viên nguyện kinh chiều và kết thúc ngày họp đầu tiên. (SD 2-10-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

LỜI KINH GẦN GŨI CUỘC SỐNG

 LỜI KINH GẦN GŨI CUỘC SỐNG

Phụng vụ bước vào tháng Mân Côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của Dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân Côi. Tràng hạt Mân Côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.

Chuỗi Mân Côi trong tiếng La-tinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân Côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân Côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

1. Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
 
Chuỗi Mân Côi thật cao qúy, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân Côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đa-minh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội.
 
Thế kỷ XVI, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân Côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo hội.
 
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Rô-ma, Đức giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các Vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
 
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân Côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân Côi.
 
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân Côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân Côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
 
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêsa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người Công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:

– Anh có thường lần chuỗi không?
 
Thưa không –
Anh trả lời.

Lúc ấy, Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:

– Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
 
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói:

– Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.

Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà qúy giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: "Hàng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu". Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.

Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: "Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác".

2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
 
Chuỗi hạt Mân Côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức Ki-tô không ngừng. Đức Ki-tô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (Đức Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).

Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:

– Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mân Côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.
 
Thánh Gio-an Pha-olô II nói: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”.

Đức Lê-ô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân Côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ  Vương Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con".
 
Thánh giáo hoàng Pi-ô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
"Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối".

Thánh Pi-ô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.

Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
 
Đức Pi-ô IX đã khuyên nhủ: "hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình".
 
Đức Pi-ô XI viết: "Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi".
 
Đức Pi-ô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: "Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi". Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân Côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân Côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục: "Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày". Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Thánh Gio-an XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân Côi.

Thánh Gio-an Phao-lô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gáp-ri-en và người chị họ Ê-li-sa-bét nói với Mẹ. Toàn thể Giáo hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
 
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân Côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
 
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân Côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả hai trăm lần, như hai trăm đóa hoa hồng dâng kính Mẹ.

Đức Pi-ô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các Thánh vịnh của Đa-vít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
 
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
 
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
 
Kinh Mân Côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay, nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân Côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
 
Điều thuận lợi của chuỗi Mân Côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 200 Kinh Mân Côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.

Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

Kinh Mân Côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân Côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên Tòa Chúa. Amen.


Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người

Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người

Thiên Chúa ban cho Giáo Hội tràn đầy các ơn của Chúa Thánh Thần và các đặc sủng khác nhau để sinh ích lợi cho tất cả mọi người, để cho toàn cộng đoàn kitô lớn lên hài hòa trong đức tin và tình yêu của Người như một thân thể duy nhất của Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 1-10-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Tham dự buổi tiếp kiến đã có hàng ngàn nhóm hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và châu Âu, trong đó có phái đoàn 90 người Việt Nam ở Houston do cha Nguyễn Ngọc Thụ hướng dẫn. Cũng có các đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như Côte d'Ivoire, Camerun, Nam Phi, Namibia; hay từ Á châu như Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ, Malaysia, Philippines, Sri Lanka; hoặc từ châu Mỹ Latinh như Argentina, Mêhicô, Costa Rica, El Salvador, Paraguay, Colombia, Perù, Chile, Brasil, và từ Australia.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý: ”Các đặc sủng: khác biệt trong hiệp nhất”. Ngài nói: Ngay từ đầu Chúa đã làm tràn đầy Giáo Hội với các ơn của Thần Khí Ngài, và như thế khiến cho Giáo Hội luôn sống động và phong phú. Trong các ơn đó có vài ơn đặc biệt quý báu cho việc xây dựng và con đường của cộng đoàn kitô: đó là các đặc sủng. Vậy trong bài giáo lý hôm nay chúng ta muốn tìm hiểu đặc sủng là gì? Làm sao nhận ra nó và đón nhận nó? Và nhất là sự kiện trong Giáo Hội có nhiều đặc sủng khác nhau và sự khác biệt và đa diện đó của các đặc sủng bị coi là điều tốt đẹp hay là một vấn đề.

Trong ngôn ngữ chung, khi nói tới ”đặc sủng” người ta thường hiểu nó là một tài năng, một sự khéo léo tự nhiên. Vì thế, đứng trước một người đặc biệt tài giỏi và hấp dẫn người ta thường nói: ”Đó là một người có đặc sủng”. ”Nó có nghĩa là gì?”. ”Tôi không biết, nhưng họ là người đặc sủng”. Chúng ta nói như vậy. Tuy không biết nhưng chúng ta nói như thế: ”Đó là một người đặc sủng”.

Tuy nhiên, trong viễn tượng kitô, thì đặc sủng cao hơn một đức tính cá nhân, một bẩm tính mà người ta có thể có; đặc sủng là một ơn thánh, một ơn do Thiên Chúa Cha rộng ban, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần. Và nó là một ơn được ban cho ai đó không phải vì họ giỏi hơn những người khác hay xứng đáng hơn, nhưng đó là một món qùa Thiên Chúa ban cho, để với chính sự nhưng không và tình yêu thương họ có thể dùng để phục vụ toàn cộng đoàn, cho thiện ích của tất cả mọi người. Một cách nhân loại thì người ta nói như thế này: Thiên Chúa ban cho đặc tính này, đặc sủng kia cho người này nhưng không phải cho cá nhân họ, mà là để phục vụ toàn cộng đoàn.

Hôm nay trước khi ra quảng trường tôi đã tiếp kiến biết bao nhiêu trẻ em tàn tật trong đại thính đường Phaolô VI, đông lắm. Có một hiệp hội tận hiến cho việc săn sóc các trẻ em này: là cái gì vậy? Hiệp hội này, các người nam nữ này có đặc sủng săn sóc các trẻ em tàn tật. Đó là một đặc sủng.

Cần phải nhấn mạnh ngay một điều quan trọng là sự kiện một người không thể tự mình hiểu mình có một đặc sủng hay không và đặc sủng nào. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe có người nói: ”Tôi có phẩm chất này, tôi biết hát hay lắm”, và không ai có can đảm nói với họ: ”Tốt hơn là bạn nên im đi, bởi vì bạn hành hạ tất cả chúng tôi khi bạn hát!” Không ai có thể nói tôi có đặc sủng này. Chính bên trong cộng đoàn nảy nở ra các ơn mà Thiên Chúa Cha ban tràn đầy cho chúng ta. Và chính trong lòng cộng đoàn mà người ta học và nhận ra các đặc sủng như là một dấu chỉ tình yêu thương của Người đối với mọi con cái Người. Vì thế thật là tốt, nếu từng người trong chúng ta tự hỏi: ”Chúa có khơi dậy nơi tôi đặc sủng nào không, trong ơn thánh của Thần Khí Người, và các anh em tôi trong cộng đoàn kitô đã nhận biết ra và khích lệ? Và tôi đã có cung cách hành xử như thế nào đối với đặc sủng đó: tôi có sống quảng đại bằng cách dùng nó để phục vụ mọi người hay không, hay tôi lơ là với nó và cuối cùng quên nó? Hay nó lại trở thành cớ cho tôi kiêu ngạo, đến độ luôn luôn than vãn về người khác và yêu sách rằng trong cộng đoàn người ta phải làm theo kiểu của tôi?” Đó là các câu hỏi mà chúng ta phải đưa ra. Nếu có một đặc sủng trong tôi, nếu đặc sủng đó được Giáo Hội thừa nhận, và nếu tôi có bằng lòng với đặc sủng đó hay tôi hơi ghen tương các đặc sủng của người khác và muốn có đặc sủng đó… Không, đặc sủng là một ơn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban tặng cho mà thôi.

Tuy nhiên, kinh nghiệm đẹp nhất là khám phá ra biết bao nhiêu đặc sủng khác nhau và biết bao ơn của Thần Khí, mà Thiên Chúa Cha đã ban tràn đầy cho Giáo Hội. Đức Thánh Cha giải thích sự khác biệt của các đặc sủng như sau:

Điều này không được coi như là một lý do của sự lẫn lộn, khó chịu: tất cả là các món qùa Thiên Chúa Cha tặng ban cho cộng đoàn kitô, dể nó có thể lớn lên hài hoà, trong đức tin và tình yêu của Người, như một thân thể duy nhất, thân mình của Chúa Kitô. Cùng Thần Khí, Đấng ban sự khác biệt của các đặc sủng, làm thành sự hiệp nhất của Giáo Hội: cùng Thần Khí. Do đó, đứng trước sự đa diện này của các đặc sủng, con tim chúng ta phải rộng mở cho niềm vui và phải nghĩ: ”Đẹp biết bao! Biết bao nhiêu ơn khác nhau, bởi vì chúng ta tất cả đều là con cái Thiên Chúa và đều được yêu thương một cách duy nhất”.

Vì vậy, khốn cho chúng ta nếu các ơn này trở thành lý do của ghen tương và chia rẽ! Như thánh tông đồ Phaolô nhắc nhớ trong thư thứ I gửi tín hữu Côrintô chương 12, mọi đặc sủng đều quan trọng dưới mắt Thiên Chúa, đồng thời không có ai là không thể thay thế được. Điều này có nghĩa là trong cộng đoàn kitô chúng ta cần nhau, và mỗi ơn nhận lãnh được thể hiện tràn đầy, khi được chia sẻ với các anh em khác, cho thiện ích của tất cả mọi người. Đó là Giáo Hội! Và khi Giáo Hội, trong sự đa diện của các đặc sủng, được diễn tả ra trong sự hiệp thông, thì không thể sai lầm: đó là vẻ đẹp và sức mạnh của ý thức đức tin, của ý nghĩa siêu nhiên của đức tin, do Chúa Thánh Thần ban để chúng ta tất cả cùng nhau bước vào trọng tâm của Tin Mừng và học đi theo Chúa Giêsu trong cuộc sống.

Hôm nay Giáo Hội mừng nhớ thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu. Chị thánh qua đời năm 24 tuổi và đã rất yêu thương Giáo Hội, muốn làm thừa sai, muốn có mọi đặc sủng và nói: ”Không, tôi muốn làm cái này cái nọ”, và muốn có mọi đặc sủng. Chị đã cầu nguyện và cảm thấy đặc sủng của mình là tình yêu và đã nói câu hay đẹp này: ”Trong lòng Giáo Hội con sẽ là tình yêu”. Và đặc sủng này tất cả chúng ta đều có: đó là khả năng yêu thương. Hôm nay chúng ta hãy xin thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu khả năng yêu thương Giáo Hội biết bao này, yêu thương Giáo Hội nhiều và chấp nhận mọi đặc sủng với tình yêu thương của con cái Giáo Hội, của Mẹ Thánh Giáo Hội phẩm trật.

Các bạn thân mến, đó là điều Chúa xin chúng ta hôm nay: nhận biết các đặc sủng với niềm vui và lòng biết ơn, các đặc sủng mà Chúa phân phát trong cộng đoàn, và dấn thân cho nhau, theo các sứ vụ và phục vụ mà chúng ta được mời gọi. Như thế Giáo Hội lớn lên với ơn thánh của Chúa và trong mọi thời và mọi nơi, trở thành dấu chỉ đáng tin cậy và là chứng tá sống động cho tình yêu của Thiên Chúa.

Chào các tín hữu nói tiếng Đức Đức Thanh Cha nhắc cho họ biết tháng Mười là tháng Mân Côi. Ngài mời gọi mọi người suy gẫm cuộc sống và công trình của Chúa Kitô với đôi mắt của Mẹ Maria. Ngài nói: anh chị em hãy lần hạt Mân Côi và như thế đồng hành với công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình.

Trong tiếng Tây Ban Nha ngài đã đặc biệt chào Đức Cha Javier Echevarría. Giám hạt Opus Dei và tín hữu về tham dự lễ phong chân phước cho Đức Cha Alvaro del Portillo. Ngài xin gương sáng của chân phước trợ giúp họ quảng đại đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi sống thánh thiện, làm việc tông đồ trong cuộc sống thường ngày, phục vụ Giáo Hội và toàn nhân loại.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha cầu mong tình yêu mà thánh nữ Terexa Hài Đồng Giêsu có đối với Giáo Hội là giáo huấn cho cuộc sống thiêng liêng của họ. Ngài cầu chúc các anh chị em bệnh nhân dùng lời cầu nguyện như dụng cụ đương đầu với những lúc khổ đau khó khăn nhất. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng cuộc sống hôn nhân trên sự tôn trọng và lòng chung thủy với nhau.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Tổng Đại hội của phong trào Tổ ấm Focolarini

Tổng Đại hội của phong trào Tổ ấm Focolarini

Phỏng vấn ông Franco Pizzorno, phối hợp viên Ủy ban chuẩn bị tổng đại hội

Từ ngày mùng 1-9-2014, 500 đại biểu của phong trào Tổ ấm Focolarini từ khắp nơi trên thế giới đã tề tưu về Trung tâm Mariapoli tại Castel Gandolfo cách Roma 30 cây số, để tham dự tổng đại hội. Cùng tham dự cũng có 49 khách mời, trong đó có 15 vị thuộc các Giáo Hội Kitô khác.

Trong tổng đại hội các tham dự viên sẽ bầu chị tân Chủ tịch, vị đồng chủ tịch và các vị lãnh đạo khác của phong trào cũng như đề ra các đường hướng hoạt động cho sáu năm tới. Vào cuối đại hội sẽ có buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho các tham dự viên tại Vatican.

Ngỏ lời với các tham dự viên đại hội kéo dài cho tới ngày 28-9-2014, chị Maria Voce, Chủ tịch mãn nhiệm của Phong Trào Tổ Ấm, đã lấy lại tư tưởng của tháng, trích từ thư thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Roma chương 15 câu 7: ”Anh em hãy đón nhận nhau như Chúa Kitô đã đón nhận anh em, để sáng danh Thiên Chúa” (Rm 15,7). Chị mời gọi mọi người hãy có thái độ đó.

Đây không phải là điều đương nhiên, vì các đại biểu đến từ mọi miền của trái đất, và đem theo mình các thảm cảnh của các dân tộc đang phải sống trong chiến tranh gây chết chóc tàn phá tang thương, hay bị thiên tai, hoặc bị thử thách bởi các khủng hoảng kinh tế.

Tiếp đến chị Maria Voce đã đọc vài điện thư bầy tỏ tình hiệp thông với các đại biểu Phong Trào. Anh Gerhard Pross, tin lành, thuộc tổ chức Ymca tỉnh Esslingen bên Đức, viết: ”Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới các tham dự viên Tổng Đại Hội. Tôi rất ý thức được tầm quan trọng của các ngày này đối với anh chị em, đối với từng người cũng như với tất cả Phong Trào Tổ Ấm. Tôi ước mong đồng hành với các anh các chị trong những ngày này với một lời cầu nguyện đặc biệt, xin Chúa Thánh Thần hiện diện và hướng dẫn anh chị em”.

Nhóm ”Thân hữu Fon” tỉnh Fonjumetaw bên Cameroon thì cầu chúc cuộc họp tinh thần quan trọng này, nhằm tiếp nối gia tài tình yêu thương hướng tới tình huynh đệ đại đồng của chị Chiara Lubich, gặt hái nhiều thành qủa tốt đẹp.

Tiến sĩ Walter Baier, Tổng thư ký mạng lưới các nhà trí thức cánh Tả Âu châu ”Transform-europe”, viết trong điện thư: ”Mục đích một nhân loại công bằng, liên đới và huynh đệ hơn hiệp nhất chúng ta, trong đó sự khác biệt được sống, không phải như chia rẽ nhưng như sự phong phú… Xin cầu chúc các anh các chị sự khôn ngoan: để các anh các chị có thể diễn đạt sự chuyên biệt của các anh các chị trong cuộc sống ngày nay, và tôi bảo đảm với các anh các chị sự gần gũi của tôi”.

Tiếp theo đó mọi người đã xem một video nhắc lại ”gia tài của chị Chiara Lubich” trong đó có đoạn chị trả lời cho những người hỏi về tương lai của Phong Trào sau khi chị qua đời. Chị Chiara Lubich đã trả lời rằng chị tin tưởng rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa những người yêu thương nhau nhân Danh Chúa (Mt 18,20) sẽ tiếp tục hướng dẫn Phong Trào tiến bước. Sau đó các tham dự viên đã bỏ phiếu chấp thuận luật lệ của Đại Hội. Các ngày từ mùng 2 tới mùng 4 tháng 9 được dành cho việc tĩnh tâm, trước khi chính thức bước vào các cuộc thảo luận và sinh hoạt khác của đại hội.

Phong trào Tổ Ấm nảy sinh vào năm 1943 trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, do sáng kiến của chị Chiara Lubich (1920-2008) như là một phong trào canh tân tinh thần và xã hội. Chị Chiara Lubich định nghĩa phong trào là ”một dân tộc nảy sinh từ Tin Mừng”. Được thúc đẩy bởi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ ”Để tất cả chỉ là một” (Ga 17,21) Phong trào nhắm mục đích cộng tác vào việc xây dựng một thế giới hiệp nhất hơn, trong thái độ tôn trọng và trân qúy sự khác biệt. Phong trào ưu tiên dùng sự đối thoại như phương thế, và liên lỉ dấn thân xây dựng các cây cầu và tương quan huynh đệ giữa các cá nhân, các dân tộc, và các môi trường văn hóa. Thành viên của Phong trào bao gồm người thuộc mọi lứa tuổi, ơn gọi, tôn giáo, xác tín, chủng tộc, quốc gia và văn hóa.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông Franco Pizzorno, thành viên phong trào, có gia đình, và là một trong hai phối hợp viên của Ủy ban chuẩn bị đại hội.

Hỏi: Thưa ông Pizzorno, Ủy ban chuẩn bị này đã được thành lập khi nào vậy?

Đáp: Vào tháng 9 năm 2013 chị Maria Voce, Chủ tịch phong trào, đã thành lập Ủy ban gồm 20 thành viên thuộc mọi miền địa lý và văn hóa. Ủy ban đã đã tìm cách thu thập mọi ý kiến, nhận xét, cảm tưởng, đề nghị và nguyện vọng của mọi thành viên phong trào, đặc biệt là của người trẻ, liên quan tới các đề tài mà họ cảm thấy liên hệ nhất với thời điểm này của phong trào. Và năm ngoái đã có khoảng 3,000 đề nghị được gửi tới Ủy ban.

Hỏi: Từ các đề nghị đó Ủy ban đã lựa chọn một số đề tài: 12 đề tài sẽ được thảo luận trong đại hội, có đúng thế không thưa ông?

Đáp: Vâng, đúng thế. chúng tôi đã có thể nhận diện khoảng một chục đề tài nền tảng, trong đó có 3 đề tài đã được nhiều người cảm thấy nhất, chúng là các đề tài ”hàng ngang”. Đó là sự quan trọng của việc rộng mở cho thế giới bên ngoài, tầm quan trọng của việc duy trì và đào sâu sự hiệp nhất của phong trào, và tầm quan trọng của việc đào tạo các thành viên. Có thể tóm tắt ba điểm này trong một câu sau đây: ”đi ra ngoài, cùng nhau, được chuẫn bị”, hay ”được chuẩn bị, cùng nhau, đi ra ngoài”. Trên ba đề tài chính này sẽ được ghép vào 8-9 đề tài chuyên biệt khác như: vấn đề của gia đình ngày nay, tương quan giữa Giáo Hội và các Giáo Hội, sự rộng mở cho tất cả các tôn giáo khác vv….

Hỏi: Chỉ nghe các đề tài không thôi, người ta cũng nhận ra rằng Phong trào được mời gọi đi ra một cách mạnh mẽ, nhìn vào thế giới nhiều hơn và dìm mình vào trong thực tế nhiều hơn, có đúng thế không thưa ông?

Đáp: Chúng ta hãy nói rằng cởi mở đối với thế giới nằm trong yếu tố di truyền của Phong trào Tổ Ẩm. Thật thế, mục đích của chúng tôi là ”Ut unum sint” Xin cho tất cả mọi người trở nên một. Nhưng dĩ nhiên là việc đọc hiểu những gì xảy ra trên thế giới với các mâu thuẫn của nó, các vết thương của nó, các khó khăn của nó cũng đã khích lệ chúng tôi hơn nữa trong việc mở rộng chân trời của phong trào theo hướng này. Thế rồi, đặc biệt lời nói và gương sống của Đức Thánh Cha Phanxicô, việc rộng mở ra cho các vừng ngoại biên… như là phong trào công giáo chúng tôi cũng muốn đáp trả lại chỉ dẫn này của Giáo Hội.

Hỏi: Khi nhìn giai đoạn chuẩn bị cho tổng đại hội cũng như chính tổng đại hội, người ta thấy nổi bật lên nét phong phú của sự trao đổi giữa các nền văn hóa, các chủng tộc, các quốc gia khác nhau. Làm thế nào để gộp chung lại một dân tộc đa diện như thế, mà vẫn chú ý tới các khác biệt?

Đáp: Chắc chắn rồi, thách đố không phải là đơn sơ, nhưng như là kinh nghiệm bé nhỏ mà chúng tôi đã sống trong tư cách là Ủy ban chuẩn bị: chúng tôi là những người đến từ nhiều vùng địa lý, nền văn hóa và ơn gọi khác nhau, nhưng chúng tôi đã thành công trong việc tạo ra một sự hiệp nhất lớn giữa chúng tôi, và như thế cũng làm trung gian để tìm thu thập các đề nghị khác nhau. Như vậy tôi tin tưởng rằng bên trong Phong trào, nơi nền tảng là việc liên tục thực thi trở thành một người trong chúng tôi, và lắng nghe người khác cho tới tận cùng. Điều này chắc chắn sẽ lá dụng cụ giá trị để đi tới chổ đưa ra các đường hướng cụ thể. Cũng bởi vì sự hiệp nhất giữa chúng tôi, mà chúng tôi muốn kiên trì theo đuổi, sẽ đem tới ánh sáng của Chúa Thánh Thần giúp phân định một cách cụ thể các con đường cần đi theo.

Hỏi: Thưa ông Pizzorno, trong một thế giới trong đó xem ra xung đột lại thắng thế, đặc sủng của Phong trào Tổ Ấm cổ võ sống yêu thương hiệp nhất và rộng mở xem ra vô cùng thời sự và rất mạnh mẽ, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn rồi. Tôi còn cho là thời sự hơn bao giờ hết nữa, nơi đâu các vết thương của xã hội và của nhân loại hiển nhiên như thế, nếu không nói là thê thảm như thế, thì chính ở đó chúng tôi cảm thấy được mời gọi đem phần đóng góp của sự hiệp nhất vào trong các đổ bể đó, là thuốc chữa và giải pháp duy nhất đích thật cho tất cả mọi chấn thương này. Đặc sủng của chị Chiara Lubich đã là điều này: đặc sủng của sự hiệp nhất tự nó mời gọi từng người trong chúng ta trở thành người đem sự hiệp nhất ấy tới khắp nơi chúng ta sống, bắt đầu bằng cuộc sống thường ngày, bắt đầu bằng các cơ cấu, trong đó chúng ta đang sống, bắt đầu từ Giáo Hội, cũng như bắt đầu từ các cơ cấu quốc tế.

(RG 1-9-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

Tòa Thánh cổ võ đối phó hữu hiệu với nạn khủng bố quốc tế

NEW YORK. Tòa Thánh kêu gọi LHQ canh tân các qui luật của mình để đối phó hữu hiệu với những hình thức mới của nạn khủng bố quốc tế.

Lập trường trên đây được ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, trình bày trong bài tham luận hôm 29-9-2014 tại Đại hội đồng thứ 69 của LHQ đang tiến hành tại New York.

ĐHY nhận xét rằng LHQ cho đến nay có thái độ thụ động trước những hành vi thù nghịch mà dân chúng vô tội phải chịu. Vì thế trong thư đề ngày 9-8 năm nay gửi ông tổng thư ký LHQ, ĐTC Phanxico đã kêu gọi các ”cơ quan thẩm quyền của LHQ, đặc biệt những cơ quan trách nhiệm về an ninh, hòa bình, công pháp nhân đạo và trợ giúp người tị nạn, tiếp tục nỗ lực hoạt động, phù hợp với Lời Tựa và những điều khoản quan trọng trong Hiến chương LHQ.”

ĐHY Parolin gọi tình trạng bi thảm ở miền bắc Irak và một số nơi ở Siria là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ: đó là sự hiện hữu của một tổ chức khủng bố đe dọa mọi quốc gia, thề giải tán các nước và thay thế bằng một chính phủ thế giới ngụy tôn giáo. Như ĐTC đã nói, rất tiếc là ngày nay có những người muốn đạt tới quyền lực bằng cách cưỡng bách lương tâm, tước đoạt sự sống, bách hại và giết người nhân danh Thiên Chúa (Xc Oss.Rom. 3-5-2014).

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhấn mạnh rằng ”hiện tượng mới mẻ trên đây với mọi khía cạnh bi thảm của nó, phải thúc đẩy cộng đồng quốc tế thăng tiến một câu trả lời thống nhất, dựa trên các tiêu chuẩn pháp lý vững chắc và thái độ sẵn sàng cộng tác cho công ích.”

Để đối phó với nạn khủng bố hoàn cầu như thế, Tòa Thánh đặc biệt lưu ý về hai lãnh vực: trước tiên là xử lý nguồn gốc văn hóa và chính trị của những thách đố hiện nay, nhìn nhận nhu cầu phải có những chiến lược mới để giải quyết các vấn đề quốc tế này, trong đó các nhân tố văn hóa giữ một vai trò cơ bản.

Lãnh vực thứ hai là nghiên cứu sâu rộng hơn về hiệu năng của công pháp quốc tế ngày nay, nhất là những cơ cấu mà LHQ sử dụng để phòng ngừa chiến tranh, ngăn chặn những kẻ gây hấn, bảo vệ dân chúng và giúp đỡ các nạn nhân.

ĐHY Parolin khẳng định rằng ”những thách đố do các hình thức khủng bố mới mẻ đề ra không được làm cho chúng ta có những quan điểm thái quá và coi các nền văn hóa đối nghịch nhau. Thái độ thu hẹp trong việc giải thích tình trạng đụng độ khủng bố như thế, coi chúng là ”sự đụng độ giữa các nền văn minh”, là điều lợi dụng sự sợ hãi và những thành kiến hiện có, và chỉ dẫn tới những phản ứng bài người ngoại quốc, rốt cục chỉ ủng cố chính những tâm tình ở nơi trọng tâm chủ nghĩa khủng bố. Những thách đố chúng ta đang đương đầu phải dẫn tới một lời tái kêu gọi đối thoại về tôn giáo và liên văn hóa, thực hiện những phát triển mới trong công pháp quốc tế, thăng tiến những sáng kiến hòa bình công chính và can đảm”. (SD 30-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên

VATICAN. Sáng chúa nhật 28-9-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ 40 ngàn người cao niên và dâng thánh lễ với hơn 80 ngàn tín hữu sau đó.

Từ 8.30 sáng, đã có khoảng 40 ngàn người cao niên đến từ 20 quốc gia, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, để tham dự cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về gia đình tổ chức với chủ đề ”Phúc lành sống lâu”.

Họ sinh hoạt với những bài đọc Kinh Thánh, trong đó có trình thuật về bà Sarah, người vợ son sẻ của tổ phụ Abraham, chuyện bà Ruth được con dâu Noemi săn sóc và tháp tùng, bà Elisabeth và chồng là Zacharia, rồi chứng từ, suy tư, chuyện kể, xen lẫn những bản nhạc.

Sinh hoạt

Lúc 9 giờ 22 phút, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tiến vào quảng trường. Năm nay đã 87 tuổi và nhận lời mời của ĐTC và tham dự phần gặp gỡ. Đây là lần thứ 3 ngài xuất hiện trước công chúng kể từ khi từ nhiệm. Lần đầu tiên ngày 22-2 năm nay tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi lễ tấn phong các Hồng y mới. Lần thứ hai ngày 27-4 trong lễ tôn phong hiển thánh cho hai ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2.

Gần 9 giờ rưỡi, ĐTC Phanxicô đến và được một số ông bà nội với các cháu đón tiếp. Ngài ngồi trước bàn thờ cạnh Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình.

Trong lời chào mừng, Đức TGM gọi Đức Biển Đức 16 là ”ông nội đầu tiên” trong các ông bà nội ngoại hiện diện tại quảng trường, và nhắc đến tuổi già thường bị sống như một cuộc đắm tàu và mong manh, như một án phạt. Nhưng Đức TGM cũng gợi lại lời bà Anna Magnani hãnh diện vì những vết nhăn trên mặt mà bà đạt được từng nét một”.

Chứng từ đầu tiên được trình bày trước ĐTC và mọi người sau lời chào mừng của Đức TGM Paglia là ông bà Mubarak 74 tuổi và Anneesa Hano, người Irak, thành hôn từ 51 năm nay và có 10 người con, 12 người cháu. Họ đến từ thành phố Qaraqosh, gần Mossul ở miền bắc Irak. Họ đại diện cho rất nhiều gia đình Kitô bị trục xuất và tị nạn trước sự tấn công của lực lượng thánh chiến Nhà Nước Hồi giáo. Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình giải thích rằng: ”Chứng từ của đôi vợ chồng già người Irak này nhắc nhớ cho tất cả mọi người rằng chiến tranh thực là điều điên rồ; chúng tôi hy vọng thế giới học bài học này, như ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở”.

Cùng với những lời kể của Ông bà Mubarak và Anneesa Hano, có một băng Video được Elisa Grevo và Federico Fazzuoli thực hiện, kể lại những địa điểm và các tiếng chuông nhà thờ ở thành Alqosh như từ 2 ngàn năm nay ở vùng bình nguyên Ninive. Tiếng chuông này cùng với chuông của tất cả các nhà thờ Kitô khác tại đây đã im bặt từ ngày 6-8 năm nay sau khi bị dân quân của Nhà Nước Hồi giáo chiếm. Thay thế thánh giá trên tháp chuông thánh đường là lá cờ đen.

Một chứng từ khác là của cha Sebastiano, dòng Capuchino, cha gọi mình là một ông nội tinh thần của những người già, 120 người ở trong trung tâm tiếp đón ”Phanxicô và Clara”, cạnh đó có một hang đá Lộ Đức ở trong vườn. Trong số những người già ở trung tâm có những người bị bệnh suy thoái não bộ.

Huấn từ của Đức Thánh Cha

Sau phần chứng từ, ĐTC Phanxicô đã ngỏ lời với mọi người. Ngài đặc biệt cám ơn sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và nhắc lại là ngài rất hài lòng vì sự hiện diện của Người ở Vatican, như một ông nội khôn ngoan. ĐTC cám ơn Ông bà Mubarak từ Qarakos đã đến đây với các con cháu, đại diện cho bao nhiêu tín hữu Kitô tại Irak bị bách hại dữ dội. Ngài nói: ”Bạo hành đối với người già là điều vô nhân đạo, cũng như bạo hành đối với trẻ em. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi anh chị em! Ngài ở với anh chị em! Các anh chị em này chứng tỏ cho chúng ta thấy trong những thử thách khó khăn nhất, những người già có đức tin như những cây tiếp tục mang lại hoa trái. Và điều này cũng giá trị đối với những tình trạng bình thương hơn, nhưng trong đó có thể có những cám dỗ khác, và những hình thức kỳ thị, như chúng ta đã nghe trong một số chứng từ.

ĐTC cũng tái khẳng định tuổi già là một thời kỳ hồng ân, trong đó Chúa lập lại lời kêu gọi hãy bảo tồn và thông truyền đức tin, Chúa mời gọi chúng ta cầu nguyện, và nhất là chuyển cầu cho người khác: Chúa mời gọi chúng ta hãy gần gũi những người đang cần. Những người già, những ông bà nội ngoại có khả năng hiểu những hoàn cảnh khó khăn và lời cầu nguyện của họ thật mạnh mẽ.

ĐTC nhắc đến tình trạng những nước bị bách hại tôn giáo, như ở Albani, chính các ông bà đã giúp rửa tội bí mật cho các cháu, mang lại đức tin cho các cháu. Họ can đảm trong cơn bách hại và đã cứu vãn đức tin tại các nước ấy.
Ngài tái lên án nạn gạt bỏ người già, bỏ rơi họ. Đó là hậu quả của nền văn hóa gạt bỏ gây hại lớn cho thế giới chúng ta. Trẻ em bị gạt bỏ, người trẻ cũng vậy, họ không có công ăn việc làm. Người già cũng bị gạt bỏ viện cớ là để duy trì một hệ thống kinh tế quân bình, nơi trung tâm của nền kinh tế ấy không có con người, nhưng chỉ có tiền bạc. Tất cả chúng ta được mời gọi chống lại thứ văn hóa gạt bỏ, bị nhiễm độc như thế.

Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 10 giờ 20. ĐTC Phanxicô tiến đến chào và cám ơn vị tiền nhiệm của ngài, rồi chào thăm một số nhân vật trước khi chuẩn bị bắt đầu thánh lễ cũng tại quảng trường.

Thánh lễ

Đồng tế với ngài có một số GM và 100 LM cao niên. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên. Quảng trường thánh Phêrô tăng thêm số người tham dự, họ đứng tràn ra tới đường Hòa Giải.

Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC đã diễn giải cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà chị họ Elisabeth và rút ra những bài học cho tương quan giữa các thế hệ già trẻ. Ngài nói:

”Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, ngày hôm nay chúng ta đón nhận như Tin Mừng cuộc gặp gỡ giữa người trẻ và ngườ già: một cuộc gặp gỡ đầy vui mừng, đầy đức tin và hy vọng.

Maria là một người trẻ. Elisabeth là một người già, nhưng nơi bà có biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa và từ 6 tháng nay, cùng với chồng là ông Zacaria, bà đang chờ đợi một người con.

Maria, trong hoàn cảnh ấy, tỏ cho chúng ta sự sống: đi gặp một người họ hàng già, ở với bà, chắc chắn là để giúp đỡ bà, nhưng nhất là cũng để học hỏi nơi bà, là người già, một sự khôn ngoan trong cuộc sống.

Bài đọc thứ I, với những kiểu diễn tả khác nhau, vang vọng giới răn thứ tư: ”Hãy thảo kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu tại đất nước mà Chúa là Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Không có tương lai đối với dân tộc nào không có cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, không có những người con với lòng biết ơn đón nhận chứng nhân của cuộc sống từ tay cha mẹ. Và trong sự biết ơn đối với người đã thông truyền cho bạn sự sống, cũng có lòng biết ơn đối với Chúa Cha ở trên trời.

Đôi khi có những thế hệ người trẻ, vì những lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, sống và cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tự lập với cha mẹ, hầu như thể ”giải thoát mình” khỏi tàn tích của thế hệ trước đó. Thái độ đó như thể là thời kỳ niên thiếu nổi loạn. Nhưng nếu sau đó không phục hồi cuộc gặp gỡ, nếu không tìm lại một sự quân bình mới mẻ, phong phú giữa các thế hệ, thì hậu quả là một sự nghèo nàn đối với dân tộc và tự do thống trị trong xã hội là một thứ tự do giả tạo, hầu như luôn biến thành một chế độ độc đoán.

Cùng sứ điệp ấy cũng được thánh Phaolô gửi đến Timôthê, và qua thánh nhân, gửi đến cộng đoàn Kitô. Chúa Giêsu không bãi bỏ luật gia đình và sự chuyển tiếp giữa các thế hệ, nhưng đã kiện toàn luật ấy. Chúa đã hình thành một gia đình mới, trong đó liên hệ với Chúa và việc thi hành thánh ý Chúa Cha trổi vượt hơn các mối liên hệ máu mủ. Nhưng tình yêu đối với Chúa Giêsu và Chúa Cha đưa tới mức độ viên mãn tình yêu đối với cha mẹ, anh chị em, đối với các ông bà nội ngoại, đổi mới các quan hệ gia đình nhờ nhựa sống của Tin Mừng và Thánh Linh. Và như thánh Phaolô đã nhắn nhủ Timôthê, là một Chủ Chăn và vì thế cũng là cha của cộng đoàn, hãy có lòng kính trọng đối với những ngườ già và các thân nhân, và Ngài khuyên ông thi hành điều đó với thái độ con thảo: các ông cụ già ”như cha của mình”, ”bà cụ già như mẹ của mình” (Xc 1 Tm 5,1). Thủ lãnh cộng đoàn không được chuẩn chước khỏi thánh ý Chúa, trái lại, tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy thủ lãnh thi hành điều ấy với một tình yêu lớn lao hơn nữa. Như Đức Trinh Nữ Maria, tuy là Mẹ của Đấng Messia, nhưng cảm thấy được tình yêu Chúa thúc đẩy, Đấng đang nhập thể trong lòng Mẹ, và chạy đến bà chị họ già.

Và chúng ta hãy trở lại ”hình ảnh' đầy vui mừng và hy vọng, đầy đức tin và đức ái. Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Trinh Nữ Maria, ở nhà bà Elisabeth, cũng như bà và Zacaria chồng bà cầu nguyện với những lời của thánh vịnh đáp ca hôm nay: ”Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con, là niềm tín thác của con ngay từ thời trẻ trung của con.. Xin đừng để con lâm vào tuổi già, đừng bỏ rơi con khi sức lực con tàn tạ.. Khi tuổi già đến và tóc bạc, lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, cho đến khi con loan báo quyền năng Chúa, những công trình của Chúa cho mọi thế hệ” (Tv 71,5.9.18). Mẹ Maria trẻ trung lắng nghe và cẩn giữ mọi sự trong lòng. Sự khôn ngoan của bà Elisabeth và Zacharia đã làm cho tâm hồn trẻ được phong phú; họ không phải là chuyên gia về việc làm cha làm mẹ, vì đối với họ đó cũng là lần mang thai đầu tiên, nhưng là chuyên gia về đức tin, niềm tin nơi Thiên Chúa, về niềm hy vọng đến từ Chúa: đó là điều mà thế giới đang cần, trong mọi thời đại. Mẹ Maria đã biết lắng nghe các cha mẹ già và đầy kinh ngạc, đã cẩn giữ như kho tằng sự khôn ngoan của họ, và đó là điều quí giá đối với Mẹ, trong hành trình như một phụ nữ, một người vợ, người mẹ.

Như thế, Mẹ Maria chỉ cho chúng ta con đường: con đường gặp gỡ giữa những người trẻ và người già. Tương lai của một dân tộc nhất thiết đòi phải có cuộc gặp gỡ ấy: những người trẻ mang lại sức mạnh để dân tiến bước và người già củng cố sức mạnh ấy với ký ức và sự khôn ngoan bình dân.

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng các ngôn ngữ Anh, Hoa, Đức, Ba Lan và Pháp, cộng đoàn đã cầu cho Giáo Hội, cho những người bị bách hại vì đức tin, xin Chúa ban cho họ sức mạnh trong con thử thách và bách hại, trong những tủi nhục và ngỡ ngàng; cầu cho những người già cô độc và bệnh tật, xin Chúa an ủi tâm hồn họ trong đau khổ và bỏ rơi, trong thử thách và sầu muộn; cầu cho các ông bà nội ngoại, xin Chúa tháp tùng công việc của họ trong quảng đại và khôn ngoan, trong sự mong manh và âm thầm.

Cuối thánh lễ, như thường lệ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu, các cộng đoàn, cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sẽ khai diễn chúa nhật tới 5-10-2014 về việc mục vụ gia đình. Ngài không quên phó thác biến cố quan trọng này cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Phần rỗi của dân Roma và xin Mẹ phù hộ những người già trên toàn thế giới.

ĐTC cũng trao cho một số người cao niên đại diện cho mọi người khác sách Phúc Âm theo thánh Marco, ấn bản chữ to.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều tạ ơn 200 năm tái lập dòng Tên

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều tạ ơn 200 năm tái lập dòng Tên

ROMA. ĐTC Phanxicô mời gọi các tu sĩ dòng Tên tiếp tục phục vụ Giáo Hội, can đảm cùng nhau đương đầu với những thách đố ngày nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi này trong bài giảng tại buổi hát kinh chiều thứ bẩy 27-9-2014 tại Nhà Thờ Chúa Giêsu ở Roma, nhân dịp tạ ơn kỷ niệm 200 năm ĐGH Piô 7 tái lập dòng Tên.

Dòng Tên được thánh Ignatio Loyola thành lập năm 1539 nhưng bị ĐGH Clémente 14 giải tán năm 1773 dưới sức ép của các triều đình Âu Châu. Ngày 7 tháng 8 năm 1814, ĐGH Piô 7 ban sắc chỉ ”Sollicitudo omnium ecclesiarum” (mối quan tâm của toàn thể các Giáo Hội) tái lập dòng Tên.

Nhà Thờ Chúa Giêsu của dòng Tên ở trung tâm Roma là nơi có giữ hài cốt thánh Ignatio cũng như một cánh tay của Thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền viễn đông, và cũng có mộ của nhiều Bề trên Tổng quyền của dòng. Kể từ khi làm Giáo Hoàng ngày 13-3 năm ngoái, ĐTC Phanxicô đã đến Nhà thờ Chúa Giêsu 4 lần. Hiện diện tại thánh đường này trong buổi hát Kinh Chiều, ĐHY João Aviz de Braz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, Cha Bề Trên Tổng Quyền Adolfo Nicolas và khoảng 300 tu sĩ dòng Tên cùng với một số tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc lại những biến cố đau thương dòng Tên đã trải qua, từ những vụ bị nhà cầm quyền trục xuất khỏi Tây Ban Nha, Pháp, Bồ đào nha cho đến khi bị Đức Clemente XIV giải tán năm 1773. Ngài nhắc đến tinh thần vâng phục của dòng giữa những tủi nhục, giữa những mất mát tất cả, thậm chỉ cả căn tính công khai của mình. Cha Ricci, Bề Trên Tổng quyền bấy giờ, vẫn nhắn nhủ anh em duy trì tinh thần bác ái, hiệp nhất, tuân phục, kiên nhẫn, đơn sơ theo Phúc Âm, và sống tình bạn đích thực với Thiên Chúa.

ĐTC khẳng định rằng ”Con thuyền dòng Tên đã bị sóng gió vùi dập và không nên ngạc nhiên vì sự kiện đó. Cả con thuyền thánh Phêrô ngày nay cũng có thể bị như vậy. Đêm tối và quyền lực của bóng đen vẫn luôn gần kề.. Các tu sĩ dòng tên phải luôn là ”những tay chèo lành nghề và dũng cảm” (Piô VII, Sollecitudo omnium ecclesiarum): anh em hãy chèo dù thế nào đi nữa! Hãy chèo, hãy vững mạnh, kể cả khi gặp gió ngược! Hãy chèo để phục vụ Giáo Hội! Hãy cùng nhau chèo! Nhưng trong khi chèo – tất cả chúng ta đều chèo, kể cả Giáo Hoàng cũng chèo với con thuyền thánh Phêrô – chúng ta phải cầu nguyện thật nhiều: 'Lạy Chúa, xin cứu chúng con! Lạy Chúa, xin cứu dân Chúa!”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Ngày nay, dòng Tên đang đương đầu một cách khôn ngoan và cần cù với cả vấn đề bi thảm của những người tị nạn và di tản; trong tinh thần phân định, Dòng đang cố gắng liên kết việc phục vụ đức tin với sự thăng tiến công lý, phù hợp với Tin Mừng. Ngày hôm nay tôi tái khẳng định điều mà ĐGH Phaolô 6 đã nói với Tổng tu nghị thứ 32 của chúng ta mà chính tôi đã nghe: “Bất kỳ nơi nào trong Giáo Hội, cả trong những cánh đồng khó khăn và khắc nghiệt nhất, nơi các ngã tư của các ý thức hệ, nơi các chiến hào xã hội, đã và đang có sự đối chiếu giữa những đòi hỏi nóng bỏng của con người và sứ điệp ngàn đời của Tin Mừng, tại những nơi đó đã và đang có các tu sĩ Dòng Tên”. (SD 27-9-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio