Đức Thánh Cha buồn vì báo chí giải thích xuyên tạc

Đức Thánh Cha buồn vì báo chí giải thích xuyên tạc

VATICAN. Đức TGM Angelo Becciu, Phụ Tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết ĐTC ”ngỡ ngàng và buồn” vì nhiều gia đình đông con hoang mang trước những tin tức báo chí loan đi không đúng về những lời nói của ngài.

Trong những ngày qua, nhiều báo chí Italia và quốc tế đăng tin với những tựa đề như: ”ĐGH dạy: điều lý tưởng là mỗi gia đình có 3 con”, hoặc ”ĐGH nói: các gia đình đừng sinh sản như thỏ!”.. Đó là điều hầu như duy nhất được các báo nhấn mạnh từ cuộc họp báo của ĐTC trên máy bay hôm 19-1-2015 trên đường từ Manila về Roma.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công Giáo Tương Lai (Avvenire) số ra ngày 22-1-2015, Đức TGM Becciu cho biết đã trình cho ĐTC các bài báo ấy. Ngài tỏ ra ngạc nhiên và buồn vì sự giải thích không đúng của nhiều báo chí về lập trường của ngài. ĐTC không hề nói điều lý tưởng là mỗi gia đình chỉ nên có 3 ngừơi con. ”Đây là con số mà các nhà xã hội và dân số học coi là mức tối thiểu để dân số được ổn định. ĐGH không hề muốn nói đó là con số ”đúng” mà mỗi gia đình nên có. Mỗi gia đình Công Giáo, dưới ánh sáng ơn thánh, được kêu gọi phân định theo một loạt các mô thức của con người và Thiên Chúa để xác định đâu là số con mà mình phải có”.

Đức TGM Becciu nhấn mạnh rằng: ”Chính vì muốn làm sáng tỏ sự việc, nên trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 21-1 vừa qua, ĐTC đã mau lẹ gửi những lời quí mến và khích lệ đến các gia đình đông con. Ngài khẳng định rằng sự sống luôn luôn là một thiện ích và sự kiện có nhiều con là một hồng ân của Thiên Chúa và phải luôn cảm tạ Chúa”. Trong bài giáo lý, ĐTC cũng tái khẳng định giáo huấn của ĐGH Phaolô 6 trong Thông điệp ”Humanae Vitae” (Sự Sống Con người) về sự sinh sản có trách nhiệm.

Theo Đức TGM Becciu, câu ĐTC nói ”không thể sinh sản như thỏ” phải được giải thích theo nghĩa: việc sinh sản của con người không thể theo tiêu chuẩn bản năng như động vật, nhưng là kết quả của một hành vi trách nhiệm, bắt nguồn trong tình yêu và trong sự hiến thân cho nhau. Rất tiếc là nền văn hóa hiện đại có xu hướng làm giảm thiểu vẻ đẹp chân chính và giá trị cao cả của tình yêu vợ chồng, với tất cả những hậu quả tiêu cực theo sau đó” (Avvenire 22-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đối thoại, hiệp nhất và cộng tác để chung xây một xã hội huynh đệ công bằng và thịnh vượng

Đối thoại, hiệp nhất và cộng tác để chung xây một xã hội huynh đệ công bằng và thịnh vượng

Tin Mừng có khả năng gợi hứng cho một xã hội xứng đáng với con người, trong đó có chỗ cho phẩm giá của từng người và các khát vọng của người dân. Các tôn giáo có một vai trò tích cực trong việc thăng tiến đối thoại, hiệp nhất và cộng tác để xây dựng một xã hội huynh đệ, công bằng và thịnh vượng. Cần phải bảo vệ gia đình, chiến đấu chống nạn gian tham hối lộ, nền văn hóa gạt bỏ và tôn thờ tiền bạc, và ý thức hệ thực dân ám sát gia đình.

Trên đây là vài tư tường ĐTC Phanxicô đã trình bầy với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường haolô VI sáng thứ tư 21-1-2015.

ĐTC Phanxicô vừa mới công du mục vụ hai nước Sri Lanka và Philippines về hôm thứ hai vừa qua. Vì thế trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hôm qua ĐTC đã chia sẻ với tín hữu và du khách hành hương một số kinh nghiệm và cảm tưởng của ngài.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC nói: sau chuyến viếng thăm Đại Hàn cách đây mấy tháng tôi đã lại sang Á châu, là đại lục của các truyền thống văn hóa và tinh thần phong phú. Chuyến viếng thăm đã là một cuộc gặp gỡ tươi vui với các cộng đoàn giáo hội làm chứng cho Chúa Kitô trong các quốc gia này: tôi đã củng cố họ trong đức tin và tinh thần truyền giáo.

Tiếp đến ĐTC đã chia sẻ các cảm tưởng của ngài và nói: Tôi sẽ luôn luôn giữ trong tim kỷ niệm tiếp đón tươi vui của các đám đông – trong vài trường hợp mênh mông như đại dương – đã đồng hành với những lúc ý nghiã nhất trong chuyến công du này. Ngoài ra tôi đã khích lệ cuộc đối thoại liên tôn trong việc phục vụ hòa bình, cũng như trên lộ trình của các dân tộc này hướng tới sự hiệp nhất và phát triển xã hội, đặc biệt là với sự chủ động của các gia đình và giới trẻ.

Tột đỉnh chuyến viếng thăm Sri Lanka là lễ phong hiển thánh cho cha Giuse Vaz vị thừa sai vĩ đại. Vị linh mục thánh này đã rất thường khi ban phát các bí tích cho các tín hữu trong lén lút, nhưng đã trợ giúp những người khốn khỏ thuộc mọi tôn giáo và điều kiện xã hội, không phân biệt ai. Gương sống thánh thiện và tình yêu thương của ngài đối với tha nhân tiếp tục gợi hứng cho Giáo Hội tại Sri Lanka trong công tác tông đồ bác ái và giáo dục. Tôi đã giới thiệu thánh Vaz như mẫu gương cho tất cả mọi kitô hữu, ngày nay được mời gọi đề nghị sư thật cứu rỗi với tất cả mọi người khác trong một bối cảnh đa tôn giáo, trong sự tôn trọng người khác, với lòng kiên trì và lòng khiêm tốn. Sri Lanka là một quốc gia có cảnh thiên nhiên xinh đẹp, và người dân nước này đang tìm tái thiết sự hiệp nhất sau một cuộc nội chiến dài và thê thảm. Đề cập tới cuộc gặp gỡ với các giới chức chính quyền Sri Lanka ĐTC nói:

** Trong cuộc gặp gỡ với các vị lãnh đạo chính quyền tôi đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đối thoại , tôn trọng phẩm giá con người, của nỗ lực lôi cuốn tất cả mọi người vào trong việc tìm kiếm các giải pháp thích hợp giúp hoà giải và xây dựng công ích. Các tôn giáo khác nhau có một vài trò ý nghĩa phải chu toàn cho mục đích này. Cuộc gặp gỡ của tôi với các vị lãnh đạo tôn giáo đã là một xác nhận các tương quan tốt đẹp đã có giữa các cộng đoàn khác nhau. Trong bối cảnh này tôi đã khích lệ sự hợp tác đã có giữa tín hữu của các tôn giáo khác nhau, cả trong việc chữa lành biết bao người bị khổ đau trong các năm qua với dầu thỏa dịu của sự tha thứ. Đề tài hòa giải cũng đã là đặc thái chuyến viếng thăm Đền thánh Đức Bà Madhu, rất được tôn kính bởi người Tamil và Singale, và là đích điển hành hương của tín hữa các tôn giáo khác. Tại nơi thánh này chúng tôi đã xin Mẹ Maria là Mẹ chúng ta ban cho nhân dân Sri Lanka ơn hiệp nhất và hòa bình.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: Từ Sri Lanka tôi đã sang Philippines, là nơi Giáo Hội đang chuẩn bị mừng kỷ niệm 500 năm lãnh nhận Tin Mừng. Đây là quốc gia công giáo chính của Á châu, và nhân dân Phi nổi tiếng là có đức tin sâu đậm, tinh thần đạo đức và lòng hăng say, kể cả tại ngoại quốc. Trong cuộc gặp gỡ của tôi với các giới chức chính quyền cũng như trong những lúc cầu nguyện và thánh lễ kết thúc có rất đông người tham dự, tôi đã nhấn mạnh sư phong phú liên tục của Tin Mừng và khả năng của nó gợi hứng cho một xã hội xứng đáng với con người, trong đó có chỗ cho phẩm giá của từng người và các khát vọng của nhân dân Phi.

Mục đích chính của chuyến viếng thăm và lý do tôi đã quyết định đến Philippines là để bầy tỏ sự gần gữi của tôi đối với các anh chị em đã bị tàn phá bởi trận bão Yolanda. Tôi đã tới Tacloban, trong vùng bị bão tàn phá nặng nề, nơi tôi đã bầy tỏ sự ngưỡng mộ đối với đức tin và khả năng đứng dậy của người dân địa phương. Rất tiếc tại Tacloban các điều kiện thời tiết khó khăn đã gây ra một nạn nhân vô tội khác: đó là cái chết của chị Kristel, một thiên nguyện viên trẻ, bị gió thổi bay một cơ cấu đánh ngã và gây tử vong. Tôi đã cám ơn tất cả mọi người khắp nơi trên thế giới đã đáp ứng nhu cầu của người dân nơi đây với sự trợ giúp quảng đại. Quyền năng tình yêu của Thiên Chúa, được mạc khải trong mầu nhiệm của Thập Giá, đã hiển nhiên trong tinh thần liên đới, được chứng minh bởi nhiều cử chỉ bác ái và hy sinh ghi dấu các ngày đen tối này.

** Cuộc gặp gỡ với các gia đình và giới trẻ tại Manila đã là những điểm cao của chuyến viếng thăm tại Philippines. Các gia đình lành mạnh nòng cốt đối với cuộc sống xã hội. Thật là trao ban an ủi va hy vọng, khi thấy biết bao gia đình đông tiếp đón con cái như là một ơn đích thật của Thiên Chúa. Họ biết rằng mỗi một người con là một phúc lành.

Tôi dã nghe nói rằng các gia đình đông con và việc sinh nhiều con là một trong các lý do gây ra nghèo đói. Đối với tôi xem ra nó là một ý kiến quá đơn sơ. ĐTC khằng định như sau:

Tôi có thể nói rằng, tất cả chúng ta có thể nói rằng lý do chính của nghèo túng là một hệ thống kinh tế đã lấy con người ra khỏi trung tâm và đặt thần tiền vào đó; một hệ thống kinh tế loại trừ, luôn luôn loại trừ: loại trừ trẻ em, loại trừ người già, loại trừ người trẻ, không có việc làm… và tạo ra nền văn hóa gạt bỏ mà chúng ta đang sống. Chúng ta quen trông thấy những người bị gạt bỏ. Đây là lý do chính của nghèo túng, chứ không phải vì các gia đình đông con.

Khi gợi lại khuôn mặt của thánh Giuse, là Đấng đã che chở cuộc sống của Chúa Hài Nhi, rất được tôn kính trong quốc gia này, tôi đã nhắc nhớ rằng cần phải che chở các gia đình, đang phải đương đầu với nhiều đe dọa, để chúng có thể làm chứng cho vẻ đẹp của gia đình trong chương trình của Thiên Chúa. Cũng cần bảo vệ các gia đình khỏi các ý thức hệ thực dân mới ám sát căn tính và sứ mệnh của gia đình.

Thật đã là niềm vui cho tôi được ở với giới trẻ Philippines để lắng nghe các niềm hy vong và các âu lo của họ. Tôi đã muốn cống hiến cho họ sự khích lệ của tôi đối với các nỗ lực của họ góp phần vào việc canh tân xã hội, đặc biệt qua việc phục vụ người nghèo và bảo vệ môi sinh và thiên nhiên. Việc săn sóc người nghèo là một yếu tố nòng cốt của cuộc sống và chứng tá kitô của chúng ta. Tôi cũng đã nêu bật điều này trong chuyến viếng thăm. Nó bao gồm việc khước từ tất cả mọi hình thái gian tham hối lộ ăn trộm của người nghèo và đòi hỏi một nền văn hóa của sự liêm chính.

Tôi xin cảm tạ Chúa về chuyến viếng thăm mục vụ tại Sri Lanka và Philippines. Tôi xin Chúa luôn luôn chúc lành cho hai quốc gia này và củng cố sự trung thành của các tín hữu kitô đối với sứ điệp tin mừng của ơn cứu độ, sự hòa giải và hiệp thông của chúng ta trong Chúa Kitô.

** ĐTC đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện trong đại thính đường Phaolô VI. Bên cạnh các đoàn hành hương Bắc Mỹ và châu âu, cũng có các nhóm đến từ Nhật Bản, Mexico và Argentina.

Trong các nhóm Ý ĐTC đặc biệt chào giáo sư các đại chủng viện và học viện thành viên của Đại học giáo hoàng Urbaniana của Bộ Truyền Giáo, các sinh viên Học viện đại kết đại học Bossey. Ngài chúc mọi người có chuyến hành hương Roma kích thích họ đào sâu Lời Chúa và loan báo Chúa Giêsu Cứu Thế. Chào ngưởi trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn ĐTC nói: Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu là dịp tốt giúp suy tư về sự tùy thuộc của chúng ta vào Chúa Kitô và Giáo Hội. Ngài khích lệ ngưởi trẻ cầu nguyện cho mọi kitô hữu trở thành gia đình duy nhất của Thiên Chúa. ĐTC xin các anh chị em đau yếu dâng các khổ đau của họ để cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Giáo Hội Chúa Kitô. Ngài cầu mong các đôi tân hôn sống kinh nghiệm của tình yêu nhưng không, giống như tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

 

Đài Vatican phỏng vấn Đức Hồng Y Fernando Filoni

Đài Vatican phỏng vấn Đức Hồng Y Fernando Filoni

TIN VIỆT NAM. Trong chương trình viếng thăm Giáo Hội tại Việt Nam, sáng ngày 21-1-2015, ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo đã đến viếng thăm giáo xứ Hòa Bình thuộc giáo phận Hưng Hóa và chủ sự lễ ban bí tích Khai Tâm Kitô giáo cho hàng trăm dự tòng.

Chiều hôm trước đó, 20-1, ĐHY đã gặp Ban tôn giáo chính phủ, rồi được thủ tướng Việt Nam tiếp kiến..

Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Roberto Piermarini, trưởng các ban thông tin của Đài Vatican, ĐHY Filoni đã kể lại một số cảm tưởng của ngài:

– Giáo Hội tại Việt Nam là một Giáo Hội rất sinh động. Tôi đã gặp thấy tại Hà Nội này và cả sáng hôm nay (21-1), tại giáo xứ Hòa Bình trong giáo phận Hưng Hóa, một Giáo Hội rất đẹp, rất sinh động, rất khả ái và rất nhiệt thành. Hôm nay trong giáo xứ ấy tôi đã ban phép rửa tội cho hơn 200 tín hữu – người lớn, cả các cha mẹ và trẻ em-. Đó là những tín hữu phần lớn là người dân tộc, sống trong các cộng đoàn ở miền núi. Đó thực là một buổi lễ rất đẹp. Sau khi chịu phép rửa tội, họ được nhận lãnh bi tích Thêm Sức và Thánh Thể. Rồi có một đại lễ cho toàn thể cộng đoàn để đón nhận các anh chị em từ nay là thành phần của Giáo Hội địa phương. Đó là những yếu tố vắn tắt để giải thích vẻ đẹp, sức sinh động của Giáo Hội này và tất cả sự sẵn sàng của họ cùng tiến bước với Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc dấn thân truyền giáo.

H. ĐHY đã được chính quyền Việt Nam tiếp đón như thế nào? Cuộc viếng thăm ca ĐHY có thể là một bước tiến xa hơn nữa trong quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh hay không?

Đ. Tôi nghĩ và hy vọng là như thế. Với sự ngạc nhiên từ phía tôi, trước tiên tôi đã được Ban tôn giáo chính phủ tiếp kiến, ông trưởng ban và các cộng sự viên của ông, tôi đã gặp Ban tôn giáo chính phủ trong một tiếng đồng hồ, rồi sau đó được thủ tướng Việt Nam tiếp kiến trong 45 phút. Ông là người rất tử tế, ông đã gặp Đức Thánh Cha và vì thế ông có nhắc lại cuộc gặp gỡ với Ngài. Tôi thấy ông là người rất cởi mở, rất sẵn sàng tiếp tục cuộc đối thoại đã được khởi sự và dần dần có thể thực hiện những bước tiến. Rồi chiều hôm nay (21-1), tôi cũng có cuộc gặp gỡ hơn 3 khắc đồng hồ với ông bí thư đảng cộng sản ở Hà Nội, và ông cũng là thành viên Ủy ban trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi rất dễ chịu, về lòng quí mến đối với nhân dân Việt Nam, sự dấn thân từ phía các tín hữu Công Giáo. Tôi tái khẳng định rằng đối thoại là yếu tố cơ bản để cảm thông lẫn nhau, và ở căn bản sự đối thoại cần phải có sự quí chuộng. Và sự quí chuộng mà Tòa Thánh có đối với nhân dân Việt Nam cũng được biểu lộ qua tình yêu thương, đó không phải chỉ là một khía cạnh hoàn toàn là hình thức quí mến, nhưng là một tình yêu sâu xa đối với dân tộc Việt Nam, đặc biệt là đối với cộng đoan Kitô. Vì thế, tôi đón nhận những yếu tố tích cực củng tố cuộc đối thoại đã có và dĩ nhiên chúng tôi hy vọng là có thể tiến triển nữa. Đó là đường hướng mà tôi thấy. Tham dự cuộc đối thoại của tôi cũng có Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Đức TGM Girelli Đại diện Tòa Thánh, Đức TGM Hà Nội: tất cả chúng tôi đều có sự ngạc nhiên ấy và ấn tượng tốt về một quan hệ chắc chắn là sẽ còn có thể tăng trưởng”.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Nội dung bài nói chuyện của ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội

Nội dung bài nói chuyện của ĐHY Filoni Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội

** Như qúy vị đã biết, trong các ngày từ 19 đến 25 tháng giêng ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo, viếng thăm Việt Nam, theo lời mời của ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch HĐGMVN.

Lúc 10 sáng ngày 20-1 vùa qua ĐHY đã gặp gỡ các linh mục toàn Giáo tỉnh Hà Nội. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung bài nói chuyện của ngài.

Mở đầu bài nói chuyện ĐHY nói: Anh em thân mến trong chức Linh Mục, tôi xin chào anh em tất cả, và tôi đem đến cho anh em phép lành của ĐTC Phanxicô. Tôi hài lòng được ở trên miền đất được chúc phúc này, miền đất của một Giáo Hội sinh động và vững vàng, nơi máu của nhiều vị tử đạo đã đổ ra một cách anh hùng. Hàng năm vào ngày 24 tháng 11 Giáo Hội cử hành việc tưởng nhớ các Thánh Anrê Dũng Lạc linh mục và 116 bạn tử đạo, tôi có dịp đọc lại bức thư hay đẹp của thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, viết trong ngục gửi các chủng sinh. Tình yêu của ngài đối vớí Chúa Giêsu và Giáo Hội cũng như sự lo lắng mục vụ cho các chủng sinh được giao phó cho ngài, đánh động tôi rất nhiều. Gương sáng của ngài luôn luôn dấy lên trong tôi ước muốn nồng cháy đối với Chúa và việc phục vụ Giáo Hội Ngài. Như là các linh mục có trách nhiệm với các giáo đoàn Việt Nam anh em được mời gọi là “muối đất và ánh sáng” (x. Mt 5,13-15) trong xã hội này. Hãy noi gương các tiền nhân tử đạo anh dũng của anh em và hãy xứng đáng là những người kế vị các ngài.

** Tiếp tục diễn văn ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo đề cập tới công tác rao truyền Tin Mừng. Ngài nói: Anh em thân mến, đề trài rao giảng Tin Mừng vẫn còn và sẽ luôn luôn đáng kể, bởi vì Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Đề tài này đã được ĐTC Phanxicô nhắc lại và nêu bật đặc biệt trong Tông huấn “Niềm vui Phúc Âm”. Tài liệu qúy báu này phải là điểm tham chiếu cho Giáo Hội Việt Nam, được mời gọi đồng thời bưóc đi trên con đường hoán cải và dấn thân rao giảng Tin Mừng. Trong nghĩa đó chúng ta hãy nhớ rằng việc rao giảng Tin Mừng nảy sinh từ Tin Mừng và liên tục tái sinh trong cuộc găp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu thay đổi đời sống đồng thời trao ban niềm vui sâu xa đích thật luôn hướng tới chỗ truyền thông. ĐTC viết: “Nếu có một ai đã tiếp nhận tình yêu trao ban cho mình ý nghĩa cuộc sống, làm sao lại có thể kìm hãm ước muốn thông truyền nó cho người khác được?” (EG, 8). Rao giảng Tin Mừng là loan báo Chúa Kitô, gặp gỡ Ngài và được Ngài canh tân. Thật là hay, điều ĐTC đã viết trong Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin và lấy lại trong Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm: “Giáo Hội không lớn lên vì chiêu dụ tín đồ nhưng vì hấp dẫn” (s. 14). Như là những người rao giảng Tin Mừng chúng ta sống kinh nghiệm niềm vui Phúc Âm trong việc trở thành con cái của Thiên Chúa, là linh mục của Chúa, trong việc phục vụ tín hữu được giao phó cho cho sự chăm sóc của chúng ta.

** ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo cũng đã đề cập tới tầm quan trọng của đời sống thiêng liêng. Ngài nói: Trước hết tôi muốn nói tới đời sống thiêng liêng của linh mục, bởi vì “nếu chúng ta sống theo Thần Khí, chúng ta cũng bước đi theo Thần Khí”, theo lời thánh Phaolô dậy các tín hữu Galát (5,25). Với các lời này thánh Tông Đồ nhắc cho chúng ta nhớ rằng cuộc sống thiêng liêng của linh mục phải được linh hoạt bởi Thần Khí của Thiên Chúa, là Đấng dẫn đưa chúng ta tới sự thánh thiện, được hoàn thiện bởi lòng bác ái. Chúng ta là linh mục, còn hơn mọi tín hữu khác, chúng ta được mời gọi sống thánh thiện bởi căn tính của mình: là những người đã được thánh hiến với dầu và được sai đi loan báo sứ điệp tươi vui cho người nghèo. Việc thánh hóa linh mục trước hết hệ tại mối dây thân tình và sâu xa với Chúa Giêsu, là Đầu và là Mục Tử của Giáo Hội. Các linh mục được mời gọi sống tính cách triệt để của Tin Mừng, bước theo Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Trước hết linh mục là một người được mời gọi trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu Thượng Tế và là Linh Mục Đời Đời. Nói cách khác, chúng ta phải yêu như Chúa Giêsu yêu, nghĩ như Chúa Giêsu nghĩ, hành động như Chúa Giêsu hành động, phục vụ như Chúa Giêsu phục vụ, trong mọi lúc của cuộc đời. Là linh mục không phải là một nghề hay một văn phòng bàn giấy có thể chọn thi hành trong một thời gian, rồi thôi. Là linh mục là “một kiểu sống” chứ không phải là một công việc. Vị linh mục sống chức linh mục của mình, nhưng không bao giờ hoàn toàn chiếm hữu nó. Là các linh mục của Thiên Chúa, hơn là các giáo sĩ, nghĩa là những người quen thuộc với một điều kiện tôn giáo trong chức linh mục. Để sống tràn đầy căn tính linh mục, đời sống thiêng liêng của linh mục phải gắn liền với lời cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa. Cầu nguyện và lắng nghe, như Mẹ Maria. Đó là thái độ của người tín thác nơi quyền năng của Thiên Chúa, để cho mình được Thiên Chúa sửa dậy và để cho Thiên Chúa hoạt động trong cuộc đời mình.

** Điểm thứ tư ĐHY Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo trình bầy trong bài nói chuyện với các linh mục giáo tỉnh Hà Nội sáng ngày 20 tháng Giêng là cuộc sống luân lý. ĐHY nói: Liên quan tới cuộc sống luân lý tôi muốn nói về việc độc thân linh mục. Sự lựa chọn này phải đuợc nhìn trong bối cảnh của “mối dây mà sự độc thân có với Phép Truyền Chức Thánh, khiến cho vị linh mục trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu Kitô, là Đầu và là Phu Quân của Giáo Hội. Giáo Hội, như là Hôn Thê của Chúa Giêsu Kitô, muốn được linh mục yêu thương một cách toàn vẹn và triệt để như kiểu Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Giáo Hội” (Pastores Dabo Vobis, 29). Hiểu như thế linh mục sẽ tiếp nhận sự độc thân “với quyết định tự do và yêu thương cần liên lỉ canh tân” (ibid.), vì ý thức về sự yếu đuối của điệu kiện là người của mình. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng “để sống tất cả các đòi buộc luân lý, nục vụ và tinh thần của việc độc thân linh mục lời cầu nguyện khiêm tốn và tin tưởng là điều tuyệt đối cần thiết (ibid,). Có một cách duy trì cuộc sống linh mục đó là vun trồng một tương quan huynh đệ với các anh em khác trong chức linh mục. Việc đồng hành và sư nâng đỡ của các linh mục luôn luôn là một ơn thánh và là một cứu giúp quý báu giúp cho chức linh mục và sứ vụ của chúng ta được sinh động. Nơi đâu thiếu một tương quan huynh đệ giữa các linh mục, thì nơi đó luôn luôn bắt đầu một cuộc khủng hoảng. Cần duy trì một tương quan tốt với cả Giám Mục của mình nữa, là cha và là đầu của Giáo Hội địa phương, trong sự qúy trọng và tin tưởng thổ lộ.

** Điểm cuối cùng ĐHY Filoni trình bầy là đời sống mục vụ. Ngài nói với các linh mục: Liên quan tới cuộc sống mục vụ ĐTC Phanxicô đã cảnh báo chúng ta về nguy cơ các linh mục gặp phải là “ám ảnh lo lắng cho thời giờ riêng tư của mình”. Ngài viết : “Điều này xảy ra một cách thường xuyên do sự kiện người ta cảm thấy nhu cầu cấp thiết phải duy trì các khoảng không độc lập, làm như thể nhiệm vụ rao truyền Tin Mừng là một thuốc độc nguy hiểm, thay vì là một trả lời tươi vui đối với tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng triệu vời chúng ta cho một sứ mệnh và khiến cho chúng ta hoàn toàn và phong phú. Vài người kháng cự lại đến độ cảm thấy cho tới tận cùng hương vị của sứ mệnh và bị lôi cuốn vào sự thờ ơ gây tê liệt” (EG, 81). Để tận hiến toàn cuộc sống và sức lực cho việc phục vụ Giáo Hội, chúng ta cần có tình bác ái mục vụ của Chúa Giêsu, là Đấng đã trao ban mạng sống mình cho đoàn chiên. Chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu trong việc tận hiến chính mình và trong việc phục vụ. Chính lòng bác ái mục vụ mà chúng ta đã được thấm nhuần, sẽ làm cho sứ vụ linh mục của chúng ta được phong phú và sẽ định đoạt kiểu suy tư và hành xử của chúng ta” (Pastores Dabo Vobis, 23). Tình bác ái mục vụ đòi hỏi nơi chúng ta việc hoán cải mục vụ, xin chúng ta “ra khỏi các tiện nghi của mình và có can đảm đi tới các vùng ngoại biên cần ánh sáng Tin Mừng” (EG, 20). Mục tiêu ưu tiên của lòng bác ái mục vụ là những người nghèo, những người bị gạt bỏ ngoài lề, những người bé nhỏ, đau yếu, những người tội lỗi và những người không tin.

Thể rồi trong các thành phố lớn cần chú ý đến các người di cư và các nô lệ mới. Trong sứ điệp gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2015 ĐTC đã đề cập tới nhiều gương mặt của cảnh nô lệ: các công nhân bị biến thành nô lệ, các người di cư, các nam nữ nô lệ tình dục vv… Ngoài ra, trong sứ điệp cho Ngày Đi Cư Tỵ Nạn 2015 lần thứ 101 (3-9-2014) ĐTC đã viết rẳng Chúa Giêsu là “người rao giảng Tin Mừng tuyệt vời, là hiện thân Tin Mừng; và sự ân cần của Ngài đặc biệt hướng tới những người dễ bị tổn thương nhất và bị gạt bỏ ngoài lề, mời gọi tất cả mọi người lo lắng cho các người giòn mỏng nhất và nhận ra gương mặt đau khổ cùa Ngài, nhất là nơi các nạn nhân của các hình thức mới của sự nghèo túng và nô lệ”. Tình bác ái mục vụ khiến cho chúng ta luôn luôn sẵn sàng lãnh nhận bất cứ dấn thân nào cho thiện ích của Giáo Hội và của các linh hồn.

Anh em thân mến trong chức Linh Mục, tôi xin cám ơn lòng nhiệt thành và dấn thân không mệt mỏi của anh em trong công tác rao truyền Tin Mừng. Chúng ta hãy tiến lên, đươc linh hoạt bời tình yêu thương chung đối với Chúa và Giáo Hội Thánh Mẹ chúng ta. Xin Đức Mẹ La Vang che chở và đồng hành với anh em. Chúng ta hãy hiệp nhất trong lời cầu nguyện.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo gặp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

Đức Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo gặp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

HÀ NỘI. Lúc 8 giờ rưỡi sáng thứ ba, 20-1-2015, ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, đã gặp HĐGM Việt Nam tại tòa TGM Hà Nội.

Hiện diện trong dịp này cũng có Đức TGM Leopoldo Girelli, đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Sau lời giới thiệu của ĐHY Tân Cử Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, TGM Hà Nội, và diễn văn chào mừng của Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Đọc, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo đã ngỏ lời với các GM Việt Nam.

Trước tiên ngài chúc mừng Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn được ĐTC chọn làm Hồng Y trong những ngày qua và sẽ gia nhập Hồng Y đoàn vào ngày 14-2 tới đây. ”Đây thực là một cử chỉ rất đẹp đối với vị Giám Mục nhiệt thành này và là một vinh dự lớn cho Giáo phận Hà Nội và toàn thể Việt Nam. Tôi rất hài lòng được ở đây với anh em và thành tâm cám ơn Hội Đồng Giám Mục vì đã mời tôi viếng thăm đất nước của Anh em.”

ĐHY Filoni nhắc đến cuộc viếng thăm tại Việt Nam của hai vị tiền nhiệm ĐHY Crescenzio Sepe và ĐHY Ivan Dias, ”hai vị mang theo mình ấn tượng thật đẹp về một Giáo Hội sinh động. Cả tôi, trong dịp ấy tôi cũng có thể thấy tận mắt sức sinh động của các cộng đoàn anh em, nhiềm tin kiên vững của các tín hữu Việt Nam, mà tôi đã nghe trong các cuộc gặp gỡ với anh em và từ những phúc trình của vị Đại diện Tòa Thánh. Tôi biết rằng mức thực hành đạo thật là cao, từ 80 đến 93%, và nồng nhiệt, không những vào chúa nhật nhưng cả các ngày thường. Tôi cũng biết rằng trong tất cả các giáo phận và giáo xứ ở Việt Nam, các tín hữu thích họp thành các hội đoàn tông đồ giáo dân, và đây là điều rất hay. Khắp nơi họ tỏ ra đặc biệt quan tâm tới Lời Chúa và học hỏi giáo lý. Ngoài ra, họ muốn góp phần theo những cố gắng và khả năng của mình vàoviệc xây dựng và phát triển Giáo Hội cũng như đất nước.”

ĐHY Filoni nhắc đến Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Phúc Âm), là một văn kiện quí giá, vì là văn kiện chứa đựng chương trình hoạt động của Giáo Hội và trình bày viễn tượng của ĐGH Phanxicô về Giáo Hội trong những năm tới đây. Văn kiện này nói rằng ”niềm vui Phúc âm là căn bản của việc loan báo Tin Mừng. Niềm Vui Phúc Âm nảy sinh và tái nảy sinh từ cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu, từ đó phát xuất sự thay đổi trong cuộc sống và hoạt động truyền giáo..”

ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo cũng nói đến kỷ niệm 50 năm Sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng chung Vatican 2 về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. ”Văn kiện khẳng định rằng hoạt động truyền giáo nảy sinh trực tiếp từ chính bản chất của Giáo Hội. Do động lực truyền giáo này, các hạt giống đầu tiên của đức tin được đưa tới Việt Nam này, do công trình của các cha dòng Tên, Hội thừa sai Paris, Dòng Đa Minh, dòng thánh Augustino, Phanxicô và bao nhiêu người khác. Những hạt giống bé nhỏ đã ăn rễ trong nền văn hóa và các phong tục, đến độ ngày nay đức tin đã đi vào sời sống của bao nhiêu người Việt Nam..”

”Sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng ngày nay vẫn còn giá trị. ĐTC Phanxicô, trong Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm”, khi trích dẫn thông điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc (Redemptoris Missio) đã tái khẳng định rằng ”hoạt động truyền giáo, cả ngày nay, vẫn là thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội” và ”chính nghĩa truyền giáo phải là trách nhiệm đầu tiên” (n.15) của các Giám Mục. Giám Mục như là đầu và là trung tâm hoạt động tông đồ của giáo phận, phải thăng tiến, điều khiển và phối hợp hoạt động truyền giáo, và hơn nữa, phải khuyến kích tất cả mọi thành phần Dân Chúa tham gia hoạt động truyền giáo…”

ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo cũng đề cao ”Vị Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, chứng nhân hy vọng và là thừa tác viên lòng từ bi của Chúa, thực là mẫu gương đặc biệt về việc loan báo Lời Chúa, trong mọi lúc, dù thuận lợi hay không thuận lợi, Người cũng chỉ cho chúng ta thấy cách thực thực thi lòng kiên nhẫn và khôn ngoan, đặc biệt là trong việc đối thoại. Đức Thánh Cha Phanxicô thường khẳng định rằng cần phải thăng tiến đối thoại và nền văn hóa gặp gỡ”.

Và ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo nói với HĐGM Việt Nam rằng: ”Vai trò của HĐGM anh em hệ tại trước tiên là hướng dẫn và phối hợp công cuộc loan báo Tin Mừng, để tránh phân tán năng lực về nhân sự và hoạt động, làm sao để toàn thể thực tại – địa phương, dân sự và xã hội- có thể được hội nhập với nhau, đặt trong tình hiệp thông những cố gắng của cá nhân và các nhóm họp thành Giáo Hội. Như thế sự hiệp nhất được thể hiện trong sự đa diện, và sự hiệp nhất ấy không phải là đồng nhất”.

”Trước khi kết thúc những suy tư vắn của tôi, tôi muốn gửi đến tất cả các anh em trong hàng giám mục, một lời đánh giá cao hoạt động truyền giáo mà anh em đang thực hiện, vì lòng quảng đại mục vụ và về tình hiệp thông đáng ca ngợi của anh em với Đức Thánh Cha.”

”Tôi phó thác mỗi người trong anh em, các giáo phận và sứ vụ chủ chăn của anh em cho sự bảo vệ từ mẫu của Đức Mẹ La Vang. Xin Chúa Thánh Linh, nhờ lời chuyển đầu của Mẹ maria, củng cố nơi anh em ước muốn phụng sự Nước Thiên Chúa, với tất cả tâm hồn và sức lục, trong tình liên đới với Đức Thánh Cha và giữa anh em với nhau”.

G. Trần Đức Anh OP – Viatican Radio

6 triệu người tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha tại Manila

6 triệu người tham dự thánh lễ với Đức Thánh Cha tại Manila

VATICAN. Chiều chúa nhật 18-1-2015, 6 triệu người – theo chính quyền địa phương – đã tham dự thánh lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Công viên Rizal (Luneta) ở thủ đô Manila, là hoạt động cuối cùng của ngài trong 3 ngày viếng thăm Philippines.

Lúc 2 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã rời tòa Sứ Thần Tòa Thánh để đến Công viên Luneta cách đó 7 cây số, để cử hành thánh lễ cho các tín hữu. Công viên này có tên chính thức là Rizal, tên của Ông José Rizal, anh hùng quốc gia, vốn là một thi sĩ, văn sĩ và là nhà cách mạng bị người Tây Ban Nha hành quyết vì tội khuynh đảo hồi năm 1896.

Công viên Luneta rộng 60 hécta, có thể chứa được vài triệu người, vào những dịp đại lễ toàn quốc. Đặc biệt trong dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 10, ngày 15-1 năm 1995, có tới 4 triệu tín hữu đến tham dự thánh lễ do thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng cử hành tại đây.

 

Khi đến nơi, ĐTC Phanxicô đã dành 45 phút đồng hồ, đi xe díp trắng tiến qua các lối đi của công viên rộng lớn, để chào thăm các tín hữu. Trong số các tín hữu tham dự thánh lễ với ĐTC Phanxicô chiều hôm qua, cũng có tổng thống Aquino III và nhiều vị lãnh đạo trong chính phủ. Mọi người đều mặc áo mưa, giống như buổi gặp gỡ ban sáng của ĐTC với các bạn trẻ.

Và cũng như nhiều buổi phụng vụ và gặp gỡ khác, thánh lễ ĐTC cử hành chiều hôm qua cũng có các bài đọc, kinh nguyện, bằng 7 ngôn ngữ của Philippines, không kể tiếng Anh và la tinh.

Thánh lễ có chủ đề là lễ kính Chúa Hài Đồng, với tượng Chúa Hài Nhi đặt cạnh bàn thờ, và rất được tôn kính tại Philippines. Đồng tế với ĐTC còn có hằng trăm Giám Mục và hàng ngàn linh mục. Phần thánh ca do một ca đoàn rất hùng hậu, với hàng ngàn ca viên ở bên phải của lễ đài.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đã nhắc đến lễ kính Chúa Hài Đồng, và ngài làm nổi bật mối liên hệ giữa Nước Thiên Chúa và mầu nhiệm thơ ấu thiêng liêng, Tin Mừng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ, con đường hòa bình, ngay chính và công lý. Ngài nói:

“Ngày hôm nay thánh Phaolô nói với chúng ta rằng trong Chúa Kitô chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, là anh chị em với nhau trong Cháu Kitô. Đó là thực chất của chúng ta, đó là căn tính của chúng ta. Chúng ta thấy rõ điều này được biểu lộ một cách đẹp đẽ nhất qua sự liên đới của dân Philippines với các anh chị em bị cuồng phong.

”Philippines là quốc gia Công Giáo thứ I của Á châu; đây là một hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa, một phúc lành. Nhưng đó cũng là một ơn gọi. Dân Philippines được mời gọi trở thành những thừa sai nổi bật tại Á Châu.

”Do tội lỗi, con người đã làm biến thái vẻ đẹp thiên nhiên; vì tội lỗi, con người cũng phá hủy sự hiệp nhất và vẻ đẹp của gia đình nhân loại chúng ta, tạo nên những cơ cấu xã hội làm cho nạn nghèo đói, dốt nát và tham nhũng tiếp tục kéo dài. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng đe dọa lớn nhất đối với kế hoạch mà Thiên Chúa đề ra cho chúng ta đã và vẫn luôn luôn là sự dối trá. Ma quỷ là cha của sự dối trá. Nó thường che đậy những âm mưu dưới cái vẻ tối tân, sự quyến rũ của những gì là tân thời, của lập luận mình cũng phải như người khác. Nó làm cho chúng ta lạc hướng vì ảo ảnh khoái lạc nhất thời và những thú tiêu khiển hời hợt. Và thế là chúng ta phung phí những hồng ân đã nhận lãnh từ Thiên Chúa, vui chơi với những máy móc vô ích; chúng ta phí phạm tiền bạc trong cờ bạc và rượu chè; chúng ta co cụm vào mình. Chúng ta lơ là, không tập trung vào những điều thực sự đáng kể. Chúng ta không sống trong nội tâm như trẻ thơ. Thực vậy, như Chúa đã dạy, trẻ thơ có sự khôn ngoan riêng, không phải là thứ khôn ngoan của trần thế này. Chính vì thế sứ điệp của Chúa Hài Đồng rất là quan trọng. Chúa nói với mỗi người chúng ta một cách sâu xa, nhắc nhở cho chúng ta căn tính sâu xa nhất, đó là chúng ta được kêu gọi trở thành gia đình của Thiên Chúa.

ĐTC nói tiếp:

”Chúa Hài Đồng cũng nhắc nhở chúng ta rằng cần phải bảo tồn căn tính ấy. Chúa Hài Đồng là người bảo vệ đất nước này, Ngài nhắc nhở chúng ta cần phải bảo vệ cac gia đình của chúng ta và đại gia đình là Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa, và thế giới là gia đình nhân loại của chúng ta.

ĐTC nhận xét rằng ”Rất tiếc là ngày nay gia đình đang cần được bảo vệ chống lại những cuộc tấn công mưu mô và những chương trình trái ngược với tất cả những gì chúng ta coi là thánh thiêng và chân thật, tất cả những gì là cao thượng và đẹp đẽ trong nền văn hóa của chúng ta. Chúng ta có nghĩa vụ phải bảo vệ, hướng dẫn và khuyến khích người trẻ, giúp họ kiến tạo một xã hội xứng với gia sản lớn lao về tinh thần và văn hóa. Đặc biệt chúng ta cần coi mỗi trẻ em như một hồng ân cần đón nhận, yêu thương và bảo vệ. Và chúng ta phải chăm sóc ngừơi trẻ, không để họ bị cướp mất niềm hy vọng và phải sống trên các đường phố.

”Chính một hài nhi bé bỏng đã mang lại lòng từ nhân của Thiên Chúa, lòng từ bi và công chính vào trong thế giới. Hài Nhi ấy đã chống lại sự bất lương và tham nhũng, là gia sản của tội lỗi và Ngài chiến thắng trên những tàn tích ấy nhờ quyền năng của thập Giá.

Cuối thánh lễ, Đức TGM Villegas, Chủ tịch HĐGM Philippines và ĐHY TGM Manila sở tại, Antonio Tagle, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC và hứa sẽ tháp tùng ngài tới các khu ngoại ô của cuộc sống.

Trước khi ban phép lành cuối lễ, ĐTC còn chủ sự nghi thức thắp nến, trao cho những người sẽ được gửi đi truyền giáo.

Thánh lễ kết thúc lúc 5 giờ chiều giờ địa phương. ĐTC còn đi xe mui trần để tiếp tục chào thăm các tín hữu tại khu vực hành lễ trong bầu không khí vất phấn khởi của các tín hữu.

Thứ hai hôm nay, 19-1, ĐTC Phanxicô sẽ kết thúc chuyến viếng thăm 3 ngày tại Philippines. Ban sáng ngài sẽ cử hành thánh lễ riêng tại nguyện đường tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Manila, trước khi đến căn cứ không quân Villamor cách đó 8 cây số để đáp máy bay Airbus 340 của hãng hàng không Philippines lúc 10 giờ sáng giờ địa phương, trở về Roma. Theo dự kiến, ngài sẽ về đến Roma lúc gần 6 giờ chiều cùng ngày hôm nay, giờ Roma, sau chuyến bay dài 14 giờ 40 phút từ thủ đô của Philippines, vượt qua quãng đường dài 10 ngàn 400 cây số.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm mục vụ Philippine

Tường thuật ngày thứ hai ĐTC Phanxicô viếng thăm mục vụ Philippine

** Thứ bẩy 17 tháng giêng hôm qua là ngày thứ hai trong chuyến ĐTC viếng thăm Philippines ba ngày. Đáng lẽ ĐTC đã có ba sinh hoạt chính: ban sáng ngài lấy máy bay tử Manila đi Tacloban trên đảo Leyte và lúc 10 giờ cử hành thánh lễ cho tín hữu tại phi trường quốc tế Tacloban Daniel Romualdez. Sau khi dùng bữa trưa với vài người sống sót sau trận bão Yolanda Haiyan và nghỉ ngơi chốc lát, vào ban chiều ĐTC làm phép khánh thành Trung tâm cho người nghèo Phanxicô, rồi gặp gỡ các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các gia đình sống sót sau trận bão Yolanda Haiyan trong nhà thờ chính tòa giáo phận Palo.

Tuy nhiên vì lý do trời Philippines qúa xấu có mưa bão, nên các sinh hoạt ban chiều bị hủy bỏ. ĐTC đã phải rời đảo Leyte lúc 13 giờ.

Sau đây là chi tiết hoạt động của ĐTC.
Lúc 7 giờ 30 ĐTC rời Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để ra phi trường Villamor cách đó 8 cây số lấy máy bay đi Tacloban nằm trên đảo Leyte cách xa Manila 650 cây số. Tuy gió lớn nhưng máy bay chở ĐTC đã có thể cất cánh, trong khi máy bay chở các giới chức chính quyền đi sau đó nửa tiếng bị gió thổi quá mạnh đẩy phi cơ ngoài phi đạo, khiến cho một người bị thương.

Thành phố Tacloban có hơn 217 ngàn dân cư cách xa Palo là thủ phủ đảo Leyte 10 cây số, và thuộc tổng giáo phận Palo. Ngày mùng 8 tháng 11 năm 2013 đảo Leyte và đặc biệt thành phố Tacloban đã bị bão Yolanda-Haiyan tàn phá khiến cho hơn 10.000 người chết, phá hủy mọi cơ cấu hạ tầng bao gồm cả phi trường thành phố và mọi cơ cấu truyền thông.

Tổng giáo phận Palo được thành lập năm 1937 có hơn 1,8 triệu dân cư trong đó có hơn 1,4 triệu là tín hữu công giáo, tức chiếm 77%. Giáo phận có 65 giáo xứ, 17 cứ điểm truyền giáo, 137 linh mục giáo phận, 26 linh mục dòng, 36 tu huynh, 162 nữ tu khấn, 84 đại chủng sinh, 1 thầy sáu vĩnh viễn. Giáo phận điều khiển 62 cơ cấu giáo dục và 5 trung tâm bác ái.

** Sau 1 giờ 15 phút bay máy bay chở ĐTC và đoàn tùy tùng đã đến phi trường Tacloban lúc 9 giờ 30. Chào đón ĐTC tại phi trường có ĐTGM Palo John Du, ông thống đốc đảo Leyte và hai thị trưởng thành phố Tacloban và Palo. Có một nhóm trẻ em trình diễn các vũ điệu cổ truyền chào mừng ĐTC.

 

Sau lễ nghi chào đón đơn sơ ĐTC đã lên xe bọc kính đến lễ đài nằm cách đó 600 mét để cử hành thánh lễ cho tín hữu. Khu vực này có thể chứa tới nửa triệu người. Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Anh với các bài đọc bằng tiếng Binisaya là thổ ngữ của đảo Leyte-Samar.

Giảng buông trong thánh lễ ĐTC mời gọi mọi người cùng nhau chúc tụng Thiên Chúa vì tình yêu, lòng thương xót và cùng đau khổ của Người, được tỏ lộ ra trong tình liên đới với các nạn nhân của trận bão đã tàn phá vùng này một cách nặng nề cách đây 14 tháng.

Ngài nói: Trong bài đọc thứ nhất chúng ta đã nghe rằng chúng ta có một thượng tế cao cả có khả năng cảm thương các yếu hèn của chúng ta, bởi vì chính Người cũng đã bị thử thách trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15). Chúa Giêsu cũng giống như chúng ta. Chúa Giêsu đã sống như chúng ta. Người giống chúng ta trong mọi sự, trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi, bởi vì Người không phải là một tội nhân. Nhưng để giống chúng ta Người đã mặc lấy, Người đã mang lấy các tội lỗi của chúng ta. Người đã thành tội lỗi (x. 2 Cr 5,21). Thánh Phaolô là người đã biết Chúa rất rõ nói lên điều đó. Và Chúa Giêsu luôn luôn đi trước chúng ta, và khi chúng ta có thể đi qua vài thánh giá, thì Người đã đi qua trước rồi.

Tiếp tục bài giảng ĐTC giải thích lý do thánh lễ và cuộc gặp gỡ cộng đoàn tín hữu đảo Leyte như sau:

Và nếu hôm nay chúng ta tất cả tụ tập nhau nơi đây, 14 tháng sau trận bão Yolanda, là bởi vì chúng ta xác tín rằng chúng ta sẽ không thất vọng trong đức tin, bởi vì Chúa Giêsu đã trải qua trước. Trong cuộc khổ nạn của Người Người đã mang trên mình mọi khổ đau của chúng ta. Và khi – xin anh chị em cho phép tôi thổ lộ tâm tình với anh chị em – khi từ Roma tôi đã trông thấy tai ương này, tôi đã cảm thấy rằng tôi phải đến đây thăm anh chị em. Trong những ngày này, tôi đã quyết định làm cuộc du hành tới đây. Tôi đã muốn đến đây để ở với anh chị em – hơi trễ tràng anh chị em sẽ nói vậy – đúng thế, nhưng tôi ở đây.

** Tôi ở đây để nói với anh chị em rằng Đức Giêsu là Chúa, Người không gây thất vọng. “Thưa cha, một người trong anh chị em có thể nói với tôi, Chúa đã làm con thất vọng vì con đã mất nhà cửa, con đã mất những gì con có, con đau bệnh… “ Điều bạn nói với tôi đúng thật như vậy, và tôi tôn trọng các tâm tình của bạn: nhưng tôi thấy Chúa Giêsu bị đóng đanh ở đó, và từ đó Người không làm chúng ta thất vọng. Người đã được thánh hiến là Chúa trên ngai ấy, và ở đó Người đã trải qua tất cả các tai ương mà chúng ta có. Đức Giêsu là Chúa. Và là Chúa từ Thập Giá, ở đó Ngài thống trị! Vì thế Ngài có khả năng hiểu biết chúng ta, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ nhất: Ngài đã trở nên giống chúng ta trong mọi sư, Vì thế chúng ta có một Chúa có khả năng khóc với chúng ta, có khả năng đồng hành với chúng ta trong những lúc khó khăn nhất của cuộc sống.

Nhiều người trong anh chị em đã mất tất cả. Tôi không biết phải nói gì với anh chị em. Nhưng Ngài biết, Ngài biết nói gì với anh chị em. Nhiều người trong anh chị em đã mất một phần gia đình. Tôi chỉ biết thinh lặng, tôi đồng hành với anh chị em với con tim thinh lặng… Nhiều người trong anh chị em đã tự hỏi khi nhìn lên Chúa Kitô: “Lậy Chúa, tại sao?” Và Chúa trả lời từng người từ trái tim của Ngài. Tôi không có lời nào khác để nói với anh chị em. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Kitô: Ngài là Chúa và Ngài hiểu biết chúng ta vì Ngài đã trải qua tất cả các thử thách đã đổ xuống trên chúng ta.

Và cùng với Ngài bị đóng đanh dã có Mẹ Ngài. Chúng ta giống như trẻ em ở dưới đó: trong những lúc đau khổ, buồn sầu, trong những lúc trong đó chúng ta không hiểu gì hết, trong những lúc chúng ta muốn nổi loạn, chúng ta chỉ giơ tay nắm lấy áo Mẹ và nói với Mẹ: “Má ơi”. Như một trẻ em khi lo sợ nó nói “Mẹ ơi”. Có lẽ đó là lời nói duy nhất có thể diễn tả điều mà chúng ta cảm thấy trong những lúc đen tối: “Mẹ! Mẹ ơi!”

Chúng ta hãy cùng nhau giữ một lúc thinh lặng. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa: Ngài có thể hiểu biết chúng ta, bởi vì Ngài dã trải qua tất cả những điều đó. Và chúng ta hãy nhìn Mẹ chúng ta, và như một đứa bé dưới kia đang nắm chặt lấy áo mẹ nó và với con tim chúng ta hãy nói với Mẹ: “Mẹ ơi”. Trong thinh lặng chúng ta hãy cầu nguyện, mỗi người hãy nói lên điều mình cảm thấy.

Mọi người thinh lặng cầu nguyện.

ĐTC nói thêm trong bài giảng buông:

** Chúng ta không cô đơn, chúng ta có một người mẹ, chúng ta có Chúa Giêsu là Anh Cả. Chúng ta không đơn độc. Vì chúng ta cũng có nhiều anh chị em khác đã đến trợ giúp chúng ta trong lúc gặp tai ương. Và chúng ta cũng cảm thấy là anh chị em với nhau hơn, khi tương trợ nhau, bởi vì chúng ta đã giúp đỡ nhau.

Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với anh chị em. Xin tha lỗi cho tôi, nếu tôi không có các lời khác. Nhưng xin anh chị em chắc chắn cho rằng Chúa Giêsu không gây thất vọng. Chúng ta chắc chắn rằng tình yêu và sự dịu hiền của Mẹ chúng ta không gây thất vọng. Và bám chặt vào Mẹ như con cái và với sức mạnh mà Chúa Giêsu Anh Cả của chúng ta trao ban cho, chúng ta tiến bước. Và chúng ta tiến bước như là anh chị em với nhau.

Sau thánh lễ xe bọc kích đã chở ĐTC đi một vòng để ngài chào tín hữu, rồi về Tòa Tổng Giám Mục cách đó 12 cây số. Tòa Tổng Giám Mục nằm trên một ngọn đồi trên đó có một khu vực gồm nhà dưỡng lão và trung tâm cho trẻ em mồ côi, do Hội Đồng Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm tài trợ.

Tại đây ngài đã dùng bữa trưa với 30 thân nhân của các nạn nhân bão Yolanda-Haiyan, trong đó cũng có vài đại chủng sinh.

Như chúng tôi đã nói vì trời mưa bão ĐTC đã phải rút ngắn chương trình viếng thăm để có thể trở về Manila sớm, trước khi tình hình trở thành tồi tệ thêm. Ngài đã chỉ đứng từ xa làm phép Trung tâm người nghèo Phanxicô cách đó 100 mét. Trung tâm này vẫn còn đang trong giai đoạn xây cất, do cộng đoàn đặc sủng Nam Hàn “Khottongnae Brothers of Jesus” coi sóc. Đây là Hiệp hội được linh mục John Oh Woong Jin thành lập hồi thập niên 1970, được gợi hứng bởi lời Chúa nói: “Tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé mọn nhất này của Thầy là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40).

Tại trung tâm có khoảng 50 trẻ em mồ côi và người già, cùng với vài nữ tu và thiện nguyện viên của cộng đoàn đặc sủng Khottongnae, đã được ĐTC viếng thăm trong chuyến công du Nam Hàn ngày 16 tháng 8 năm 2014.

** ĐTC đã lên xe bọc kính đến nhà thờ chính tòa Palo cách đó 2 cây số để gặp gỡ các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, đại chủng sinh, và gia đình các nạn nhân bão Yolanda-Haiyan. Hiện diện trong nhà thờ chính tòa có khoảng 500 người.

Nhà thờ chính tòa Palo được dâng kính Chúa Hiển Dung, do hai linh mục đòng Tên Juan del Campo và Alonso Humanes rao truyền Tin Mừng trong vùng này xây cất năm 1596. Chỉ trong vài năm Palo đã trở thành một cứ điểm truyền giáo chính của đảo. Tiếp đến có các thừa sai dòng Agostino (1768) và Phanxicô (1843) đến làm việc tại đây. Hai tháp của nhà thờ được thêm vào hồi năm 1850 và thêm chiếc đồng hồ lớn ở mặt tiền năm 1896. Năm 1939 nhà thờ được tuyên bố là nhà thờ chính tòa. Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến nhà thờ biến thành nhà thương quân đội và trung tâm tiếp đón thường dân chạy loạn. Bàn thờ dát vàng thuộc thế kỷ XVII là một thí dụ của kiểu kiến trúc gô tích. Các chặng đường Thánh Giá do các nghệ sĩ địa phương tạc. Trên tường nhà thờ thời Tây Ban Nha có huy hiệu của dòng Tên.

Cha sở nhà thờ chính tòa tiếp đón ĐTC và trao thánh giá cho ngài hôn kính theo truyền thống tại đây. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong hình thức rất ngắn gọn. ĐTC đã không dọc bài diễn văn viết sẵn. Ngỏ lời trong dịp này ngài nói: Xin chào anh chị em. Tôi xin cám ơn sự tiếp đón của anh chị em. Cả ĐHY Tagle đang vào và cả ĐHY Parolin Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Hôm nay là sinh nhật của ngài. Cần phải hát cái gì đi.

Ca đoàn đã hát bài “Happy Birthday to you” chúc mừng sinh nhật ĐHY.

ĐTC nỏi tiếp. Xin cám ơn. Tôi phải nói với anh chị em điều mà tôi không thích phải nói tí nào cả. Theo chương trình dự định thì năm giờ chiều máy bay mới trở về Manila. Nhưng có trận bão cấp 2 đang thổi nên các phi công đã nói với chúng tôi là phải đi lúc một giờ. Chúng tôi chỉ có đủ giờ đến phi trường thôi, vì các tiên đoán cho biết thời tiết sẽ xấu hơn vào ban chiều. Tôi xin lỗi anh chị em vì điều này… Tôi buồn lắm. Tôi rất tiếc, bởi vì tôi có bài diễn văn viết sẵn muốn đọc cho anh chị em nghe. Chúng ta hãy phó thác mọi sự trong tay Đức Mẹ, vì bây giờ tôi phải đi. Anh chị em biết vấn đề là gì không? Đó là vì máy bay không thể đáp xuống đây được. Vấn đề là ở đó.

Tiếp đến ĐTC mời mọi người cùng ngài đọc Kinh Kính Mừng rồi ngài ban phép lành tòa thánh cho tất cả trước sự nuối tiếc vì cuộc gặp gỡ quá ngắn ngủi.

Sau phép lành ĐTC còn nói thêm: Tôi xin anh chị em hai điều: thứ nhất cầu nguyện cho tôi và thứ hai xin bình thản.

** Vào cuối buổi gặp gỡ một số ân nhân tài trợ việc trùng tu mái nhà thờ chính tòa và vài nhà thờ bị hư hại đã được giới thiệu với ĐTC. Ngài đã đi ra phía cửa hông bên phải và dừng lại thắp nến và cầu nguyện tại đài tưởng niệm các nạn nhân trận bão Yoanda-Haiyan.

Sau đó ĐTC lên xe ra phi trường Tacloban lấy máy bay trở về Manila. Máy bay đã cất cánh lúc 13 giờ và về tới phi trường Villamor sau hơn một giờ bay. Từ phi trường ĐTC đã đi xe về Tòa Sứ Thần cách đó 7 cây số để dùng bữa tối và nghỉ ngơi, kết thúc sớm ngày thứ hai chuyến viếng thăm Philippines ba ngày.

Cha Lombari Phát ngôn viên Tòa Thánh cho biết ĐTC đã được báo tin về cái chết của một nữ thiện nguyện viên sau thánh lễ tại Tacloban và ngài đã cầu nguyện cho cô. Ngoài ra ĐTC cũng hỏi ông Alberto Gasbarri, nhân viên tổ chức chuyến viếng thăm liên quan tới tai nạn và xin ông tiếp xúc với gia đình của nạn nhân để bầy tỏ tình liên đới của ngài.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các gia đình Philippines

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các gia đình Philippines

MANILA. Chiều 16-1-2015, ĐTC Phanxicô đã đến đến khu trung tâm thương mại Mall of Asia Arena ở thủ đô Manila, để gặp gỡ các gia đình tụ tập tại Hội trường thể thao tại đây.

Ở bên ngoài Hội trường có hàng chục ngàn tín hữu chờ đợi để chào đón, nên xe chở ĐTC đã đi vòng qua các lối đi để chào thăm mọi người. Bầu khí rất nồng nhiệt. Họ theo dõi cuộc gặp gỡ qua các màn hình từ bên ngoài.

Rồi ĐTC tiến vào Hội trường nơi có 20 ngàn người đã chờ sẵn. Ngài dừng lại chào thăm và chúc lành cho những người tàn tật ngồi trên ghế lăn, trước khi bước lên lễ đài.

 

Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa, được mở đầu với lời chào mừng của Đức Cha Chủ tịch Ủy ban GM Phi về gia đình, của một gia đình đông con và phần trình bày của một gia đình về tình trạng nghèo đói, về những khó khăn vì vợ chồng con cái phải xa cách nhau vì phải xuất cư tìm công ăn việc làm, sau cùng của một đôi vợ chồng bị điếc trình bày bằng ngôn ngữ dấu hiệu.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài Tin Mừng thuật lại biến cố thánh Giuse, Mẹ Maria mang Chúa Hài Đồng tị nạn sang Ai Cập (Mt 2,13-15.19-23), ĐTC nhắc nhở các gia đình hãy ”nghỉ ngơi trong Chúa”, dành thời giờ cho việc cầu nguyện, dấn thân trong việc chuẩn bị thế giới đón chờ ngày trở lại của Chúa, chống lại trào lưu duy tương đối và nền văn hóa phù du, sau cùng là trở thành tiếng nói ngôn sứ trong cộng đoàn. Ngài kêu gọi củng cố các gia đình ở Philippines như một nguồn năng lực sự sống cho toàn thể xã hội.

Những ý tưởng trên đây ĐTC rút ra từ những suy niệm về bài Tin Mừng theo thánh Mathêu kể lại biến cố thiên thần hiện ra với thánh Giuse và dạy Người mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,13-15.19-23). Ngài nói:

”Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không những nghỉ ngơi một lần, nhưng là hai lần. Chiều hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả anh chị em và cùng với anh chị em suy tư về hồng ân gia đình.

”Sự nghỉ ngơi của thánh Giuse tỏ lộ ý Chúa cho thánh nhân. Trong lúc nghỉ ngơi trong Chúa, chúng ta tạm ngưng nhiều nghĩa vụ và hoạt động thường nhật. Chúa cũng đang nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta trong bài đọc Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong kinh nguyện và chứng tá của chúng ta, trong sự yên tĩnh của tâm hồn. Chúng ta hãy suy tư về điều Chúa nói với chúng ta, nhất là trong Tin Mừng chiều hôm nay. Có 3 khía cạnh của đoạn Kinh Thánh này, tôi muốn xin anh chị em suy xét, đó là: nghỉ ngơi trong Chúa, trỗi dậy với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và trở thành tiếng nói ngôn sứ.

– Về điểm thứ nhất, nghỉ ngơi trong Chúa. ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của hành động này, dành những giờ nghỉ ngơi, thinh lặng trong tâm hồn, dành thời giờ cho việc cầu nguyện… ”Nếu chúng ta không cầu nguyện thì chúng ta sẽ không biết điều quan trọng nhất, đó là thánh ý Chúa đối với chúng ta. Và nếu chỉ hoạt động mà không cầu nguyện thì chúng ta chỉ làm được rất ít việc.”
Nghỉ ngơi để cầu nguyện là điều đặc biệt quan trọng đối với gia đình. Chính trong gia đình mà chúng ta phải học trước tiên về cách thức cầu nguyện… Trong gia đình chúng ta học yêu thương, tha thứ, quảng đại, và cởi mở chứ không khép kín và ích kỷ. Chúng ta học cách đi xa hơn những nhu cầu của mình, gặp gỡ tha nhân và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ.

– Thứ hai là trỗi dậy với Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Những lúc nghỉ ngơi quí giá, nghỉ với Chúa trong kinh nguyện, là những lúc chúng ta muốn kéo dài. Nhưng cũng như thánh Giuse, sau khi nghe tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, đứng lên và hành động. Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi trần thế, nhưng kéo chúng ta vào sâu hơn trong thế giới. Thực vậy, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc thù trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa đến trong trần thế của chúng ta.

Trong những sứ vụ các tín hữu cần thi hành, ĐTC đặc biệt nói đến sứ mạng bênh vực gia đình. Ngài nói: ”Có nhiều sức ép trên gia đình ngày nay. Tại Philippines này có vô số các gia đình con đang chịu đau khổ vì hậu quả của các thiên tai. Tình trạng kinh tế làm cho nhiều gia đình phải chia ly vì di cư để tìm công ăn việc làm và những vấn đề tài chánh làm cho nhiều gia đình bị căng thẳng. Trong khi quá nhiều người sống trong nghèo đói lầm than, thì những người khác lại bị thu hút vào trào lưu duy vật và những lối sống phá hủy gia đình và những đòi hỏi căn bản nhất của luân lý Kitô giáo. Gia đình cũng bị đe dọa vì những toan tính ngày càng gia tăng của một số người muốn định nghĩa lại chính định chế gia đình, hoặc vì trào lưu duy tương đối, nền văn hóa phù du, thiếu cởi mở đối với sự sống.” ĐTC nói tiếp:

”Thế giới chúng ta đang cần những gia đình tốt và vững mạnh để khắc phục những đe dọa ấy! Philippines đang cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ vẻ đạp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và là một nâng đỡ, nêu gương cho các gia đình khác”.

– Sau cùng, Tin Mừng nhắc nhở chúng ta về nghĩa vụ của Kitô hữu phải là những tiếng nói ngôn sứ trong các cộng đoàn chúng ta. .. Khi gia đình sinh sản và giáo dục con cái trong đức tin và các giá trị tốt đẹp, dạy con cái góp phần xây dựng xã hội, thì họ trở thành một phúc lành trong thế giới chúng ta. Tình thương của Thiên Chúa trở nên hiện diện và hoạt động qua cách thức chúng ta yêu thương và nhờ công việc lành chúng ta làm. Chúng ta mở rộng Nước Chúa trong thế giới này. Và khi làm như thế chúng ta tỏ ra trung thành với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta nhận lãnh khi chịu phép rửa tội.

Và ĐTC kết luận rằng: ”trong năm nay, các GM của anh chị em đã ấn định Năm Người Nghèo. Tôi xin anh chị em, trong tư cách là gia đình, hãy đặc biệt để ý đến ơn gọi của chúng ta trở thành các môn đệ thừa sai của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là sẵn sàng đi xa hơn gia đình của anh chị em, và săn sóc những anh chị em khác đang ở trong tình cảnh túng thiếu nhất. Tôi xin anh chị em đặc biệt chứng tỏ sự quan tâm đối với những người không có gia đình, nhất là nhưng người già và trẻ em không có cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy lẻ loi, cô độc và bị bỏ rơi, nhưng giúp họ biết rằng Chúa không quên họ.

Trong bài huấn dụ, ngoài phần dọn sẵn, ĐTC cũng ứng khẩu nhiều đoạn nói rằng tiếng Tây Ban Nha và một linh mục dịch sang tiếng Anh. Ngài khuyến khích các gia đình hãy mơ ước những điều tốt đẹp nhất cho vợ chồng, cái và những người thân yêu. ĐTC cũng tiết lộ ngài có lòng kính mến đặc biệt đối với thánh Giuse, người thường ít nói và im lặng nhiều. Mỗi khi gặp vấn đề đó khăn, ngài thường viết những điều ấy trên giấy và đặt dưới tượng thánh Giuse để trên bàn của ngài, để Thánh Giuse ”mơ” và giúp ngài giải quyết.

Cuộc gặp gỡ được tiếp nối với các lời nguyện giáo dân và bài thánh ca kính Đức Mẹ với phép lành của ĐTC.

Chương trình ngày thứ bẩy 17-1-2015

Sáng thứ bẩy 17-1, ĐTC sẽ đáp máy bay lúc quá 8 giờ sáng từ căn cứ không quên Villamor ở Manila để bay tới thành phố Tacloban trên đảo Leyte, cách Manila 650 cây số về hướng đông nam. Thành phố này có hơn 200 ngàn dân cư và thuộc vùng bị cuồng phong Hayan hay cũng gọi là bão Yolanda, tàn phá ngày 8 tháng 11 năm 2013 làm cho hơn 10 ngàn người chết và mất tích, các cơ cấu hạ tầng, kể cả sân bay của thành phố, cũng như các đường giao thông bị thiên tai phá hủy.

Đến nơi, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ tại sân bay Tacloban cho các tín hữu vào lúc 10 giờ. Ban trưa tại tòa TGM Palo sở tại, ngài sẽ dùng bữa với 30 người sống sót trong đó có một vài chủng sinh.

Ban chiều lúc 3 giờ ngài sẽ làm phép ”Trung tâm Giáo hoàng Phanxicô cho người nghèo” do một Cộng đoàn Canh tân trong Thánh Linh ở Hàn Quốc thành lập và quản trị. Rồi ngài đến Nhà thờ chính tòa Palo để gặp gỡ 500 người gồm các GM, LM, tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và gia đình những người sống sót, trước khi đáp máy bay trở về thủ đô Manila.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với các GM, LM tại Manila

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với các GM, LM tại Manila

MANILA. Đức Thánh Cha kêu gọi hàng giáo sĩ, tu sĩ Philippines xa tránh chủ nghĩa duy vật, sống thanh bần, thanh liêm và quan tâm giúp đỡ người nghèo.

Đó là nội dung bài giảng trong thánh lễ ngài cử hành sáng ngày 16-1-2015 tại Nhà thờ chính tòa Manila, với 600 vị gồm các GM và LM Philippines trước sự hiện diện của 1400 nữ tu và chủng sinh toàn quốc. Các vị đến từ các giáo phận toàn quốc, mỗi giáo phận được gởi 10 đại diện.

Ngoài ra cũng có các vị GM đến từ các nước Á châu khác, đứng đầu là ĐHY Gracias, TGM giáo phận Bombay Ấn độ, Chủ tịch Liên HĐGM Á châu.

Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Manila, được coi là mẹ của tất cả các thánh đường ở Philippines. Thánh đường nguyên thủy tại đây được kiến thiết cách đây 434 năm, tức là vào năm 1581, bằng tre và lá dừa. Qua dòng lịch sử nhà thờ đã bị hủy hoại nhiều lần vì bão tố và hỏa hoạn, động đất và bom đạn trong thời thế chiến thứ II. Nhà thờ hiện nay có từ thập niên 1950 và được ĐGH Gioan Phaolô 2 nâng lên hàng tiểu vương cung thánh đường.
Cách đây 3 năm, tức là hồi tháng 2 năm 2012, Nhà thờ chính tòa bị đóng cửa để tu bổ, nhất là để củng cố, thiết lập hệ thống an ninh cần thiết chống động đất. Phí tổn 1 triệu rưỡi mỹ kim đã được các xí nghiệp lớn và các tín hữu tài trợ.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắc đến cố gắng của các GM, LM và tu sĩ trong quá khứ không những để loan báo Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội tại đất nước Philippines này, nhưng còn kiến tạo một xã hội theo tinh thần Phúc Âm, bác ái, tha thứ, và liên đới phục vụ công ích. ”Giống như họ, ngày nay anh chị em cũng đang thi hành các công tác tình thương. Giống như họ, anh chị em cưũng được kêu gọi kiến tạo những nhịp cầu để các dân tộc Á châu đón nhận lời Chúa. .. Chúng ta được kêu gọi trở thành những sứ giả tình thương của Chúa Kitô” (2 Cr 5,20). ĐTC nói:

”Là sứ giả của Chúa Kitô trước tiên có nghĩa là mời gọi mỗi người hãy canh tân cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu (Ev. Gaudium 3). Lời mời gọi này phải là trọng tâm chương trình kỷ niệm loan báo Tin Mừng tại Philippines. Nhưng Tin Mừng cũng là một lời mời gọi hoán cải, xét mình, trong tư cách cá nhân và cộng đoàn. Các GM Philippines đã có lý khi dạy rằng Giáo Hội tại nước này được mời gọi nhìn nhận và chiến đấu chống lại những nguyên nhân gây ra bất bình đẳng và bất công trong xã hội nước này, khiến cho nó mâu thuẫn với giáo huấn của Chúa Kitô. Tin Mừng kêu gọi mỗi Kitô hữu hãy sống một cuộc sống lương thiện, thanh liêm, dấn thân cho công ích. Nhưng Tin Mừng cũng kêu gọi các cộng đồng Kitô kiến tạo những nhóm người lương thiện, nhưng mạng liên đới có thể lan rộng trong xã hội để biến đổi xã hội bằng chứng tá ngôn sứ của mình”.

Trong mục đích ấy, ĐTC mời gọi các LM và tu sĩ nam nữ hãy tăng cường cuộc gặp gỡ hằng ngày với Chúa trong kinh nguyện và chống lại mọi cám dỗ duy vật. ”Chỉ khi nào chúng ta trở nên thanh bần, tước bỏ sự tự mãn, thì chúng ta mới có thể đồng hóa với những anh chị em hèn mọn nhất. Chúng ta sẽ nhìn sự việc dưới ánh sáng mới và chân thành và liêm chính đáp ứng thách đố loan báo sự quyết liệt của Tin Mừng trong một xã hội quá quen với sự loại trừ, những thái độ phe phái và bất bình đẳng tỏ tường.

ĐTC đặc biệt quan tâm đến các linh mục tu sĩ trẻ và chủng sinh hiện diện trong buổi lễ. Ngài nói: ”Anh chị em hãy ở giữa những người trẻ, họ có thể bị hoang mang và xuống tinh thần, nhưng họ tiếp tục coi Giáo Hội như bạn đồng hành và là nguồn hy vọng của họ. Anh chị em hãy gần gũi những người sống trong một xã hội bị nghèo đói và tham nhũng đè nặng, nhưng nản chí, muốn buông xuôi tất cả, rời bỏ trường học và sống bụi đời. Anh chị em hãy công bố vẻ đẹp và sự thật về hôn nhân Kitô cho một xã hội đang bị cám dỗ vì những quan niệm xáo trộnv ề tính dục, hôn nhân và gia đình. Các định chế này ngày càng bị tấn công do những thế lực mạnh mẽ đe dọa làm biến thái chương trình sáng tạo của Thiên Chúa và phản bội những giá trịđích thực đã soi sáng và hình thành những điều đẹp đẽ trong nền văn hóa của Philippines.

Cuối thánh lễ, ĐHY Antonio Luis Tagle, TGM Manila sở tại, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC. ĐHY nói: ”Người Phippines chúng con bị mọi tai ương nhưng không bị đè bẹp, như thánh đường này bị hỏa hoạn và động đất tàn pha, nhưng rồi lại tái sinh, như dân tộc Philippines. Đức tin làm cho chúng con liên tục chống lại bao nhiêu những vụ hỏa hoạn hằng ngày, động đất, cuồng phong và chiến tranh. Và ngay nhiều người nghèo chúng con đang trỗi dậy từ thiên tại và những tai ương do con người gây ra, trong lúc chúng con đang chiến đấu thì ĐTC đến với chúng con. Ngài không mang lửa để hủy diệt, nhưng để thanh tẩy. Ngài mang động đất đến không phải để làm tan vỡ nhưng để thức tỉnh chúng con”.

Thánh lễ kết thúc lúc 1 giờ trưa giờ địa phương. Trước khi trở về tòa Sứ thần để dùng bữa và nghỉ ngơi, ĐTC đã ghé vào nhà một nhà gần Thánh đường, thuộc tổ chức TNK do cha Mathieu Dauchez, 40 tuổi, người Pháp sáng lập để đón nhận và săn sóc các trẻ em bụi đời. Ngoài 20 trẻ nữ sống tại đây còn có hàng trăm trẻ em khác dành cho ĐTC một cuộc tiếp đón thật đơn sơ nhưng rất cảm động. Các em ca hát và tặng ngài một bức tranh khảm làm bằng giấy mầu, một hình chụp Mình Thánh Chúa được đặt khu rác nhân dịp các em tổ chức chầu Thánh Thể tại đây..

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp chính quyền Philippines

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp chính quyền Philippines

MANILA. ĐTC Phanxicô khuyến khích chính quyền Philippines cải tổ các cơ cấu xã hội gây ra bất công và bài trừ nạn tham ô hối lộ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc gặp gỡ chính quyền Philippines sáng ngày 16-1-2015.

Thứ sáu, 16-1, là ngày thứ hai của ĐTC Phanxicô tại Philippines. Ngài đã từ Sri Lanka đến sân bay của căn cứ không quân Villamor ở Manila lúc gần 6 giờ chiều thứ năm vừa qua sau hơn 6 giờ bay. Vì biết ĐTC bay suốt ngày nên chắc là mệt, nên nghi thức đón tiếp chính thức với diễn văn được dời sang ngày hôm sau. Dầu vậy Tổng thống Benigno Aquino vẫn ra sân bay đón tiếp ĐTC cùng với hàng chục ngàn người, nhất là các em học sinh, ở trong khu vực phi trường, và dọc đường suốt 9 cây số về tòa Sứ Thần Tòa Thánh, đã có 2 triệu người, theo ban tổ chức, đã dành cho ngài một cuộc chào đón hết sức nồng nhiệt. Lúc đó là trời tối, nên xe chở ĐTC được bật đèn sáng để mọi người có thể thấy ngài.

ĐTC chính thức bắt đầu hoạt động tại Philippines từ sáng thứ sáu, 16-1, và ngài đã có 3 hoạt động chính: trước tiên là nghi thức đón tiếp chính thức tại Phủ Tổng Thống, gặp gỡ tổng thống, chính quyền và ngoại giao đoàn, rồi sau đó ngài cử hành thánh lễ với các GM, LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh tại Nhà thờ chính tòa Manila. Ban chiều vào lúc 5 giờ rưỡi, ngài gặp gỡ các gia đình tại Hội trường thể thao ở khu trung tâm thương mại Mall of Asia Arena. Sau đây là chi tiết các hoạt động của ĐTC.

Thăm tổng thống và gặp chính quyền

Lúc 9 giờ sáng, ĐTC đã từ Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đến Phủ Tổng thống Philippines, cũng gọi là Dinh Malacanan, cách đó 5 cây số. Xưa kia đây là dinh của quan toàn quyền thời thuộc địa Tây Ban Nha, được xây cất năm 1802.
Lễ nghi đón tiếp ĐTC diễn ra lúc 9 giờ 15 phút với 21 phát đại bác chào mừng, duyệt qua đoàn quân danh dự, quốc thiều Vatican và Philipines, cũng như giới thiệu các thành phần của hai phái đoàn, trước khi ĐTC tiến vào trong dinh để hội kiến riêng với Tổng thống Benigno Cổ Hoàng Cơ Aquino III. Ông năm nay 54 tuổi (1960), là con của Thượng nghị sĩ Ninoy Aquino bị ám sát tại Phi trường Manila năm 1983 và của bà tổng thống Corazón Aquino Cổ Hoàng Cơ. Ông đắc cử tổng thống như ứng viên của Đảng Tự do trong buộc bầu cử hồi năm 2010 và kế nhiệm bà Gloria Arroyo.

Sau khi hội kiến riêng với Tổng thống Aquino III và gặp gỡ gia đình ông, ĐTC đã tiến sang phòng nghi lễ Rizal để gặp các giới chức chính quyền và ngoại giao đoàn, tổng cộng là 450 người.

Diễn văn ca ĐTC

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC cho biết cuộc viếng thăm của ngài tại Philippines diễn ra trong khuôn khổ chuẩn bị kỷ niệm 500 năm bắt đầu công bố Lời Chúa Giêsu Kitô tại đất nước này, mừng vào năm 2021 tới đây. Tiếp đến cuộc viếng thăm cũng liên hệ mật thiết tới cuộc tàn phá do cuồng phong Yolanda gây ra. Ngài ngưỡng mộ nỗ lực liên đới của dân chúng, nhất là người trẻ, và đồng thời muốn bày tỏ sự gần gũi với những người bị tổn thương vì thiên tại này. Ngài không quên kêu gọi cải tổ những cơ cấu xã hội bất công, bài trừ nạn tham nhũng thường là tin chiếm hàng đầu tại nước này, và giải quyết nạn nghèo đói, khiến cho 25% dân Phi hiện nay đang phải sống với lợi tức 1 mỹ kim mỗi ngày. ĐTC nói:

”Tấm gương liên đới này cũng là một bài học rất quan trọng đối với tương lai. Cũng như một gia đình, mỗi xã hội kín múc năng lực từ những tài nguyên sâu rộng nhất của mình để đối phó với những thách đố mới. Philippines, cũng như các nước khác ở Á châu, đang đứng trước thách đố những thay đổi trong việc kiến tạo những nền tảng vững chắc cho một xã hội tân tiến, phản ánh những giá trị chân chính của con người, bảo vệ phẩm giá và các quyền của mỗi người vốn là hồng ân quí giá Thiên Chúa ban cho. Tất cả điều ấy đều rất quan trọng so với những bối cảnh chính trị và luân lý đạo đức mới mẻ và phức tạp.”

ĐTC nhắc đến vai trò và trách nhiệm của các nhà chính trị cần làm tất cả những gì có thể để xây dựng công ích, bảo tồn tài nguyên phong phú về nhân sự và thiên nhiên mà Chúa ban cho đất nước này. Vì thế cần kiến tạo những điều kiện cần thiết để các thể hệ trẻ kiến tạo một xã hội thực sự là công bằng, liên đới và hòa bình.
ĐTC gợi lại truyền thống Kinh Thánh qui định nghĩa vụ của mọi dân tộc phải lắng nghe tiếng nói của người nghèo và chống lại mọi hình thức chênh lệch xã hội như gương mù. Việc cải tổ những cơ cấu xã hội đang kéo dài tình trạng nghèo đói và loại trừ người nghèo, trước tiên đòi phải hoán cải tâm trí. Các GM Philippines đã ấn định năm nay là ”Năm của người nghèo”. Tiếng nói ngôn sứ này mời gọi tất cả mọi người suy tư, đổi mới trên mọi bình diện của đời sống xã hội, bài trừ nạn tham những và tát cả những gì gây ra tình trạng loại trừ và nghèo đói của bao nhiêu người trong xã hội.

Cũng trong diễn văn, ĐTC nhắc đến một hoạt động chính trong cuộc viếng thăm của ngài là gặp gỡ các gia đình, và người trẻ. Ngài nói:

”Gia đình có một sứ mạng đặc biệt trong xã hội. Thực vậy chính trong gia đình mà người trẻ học các giá trị và hấp thụ bầu không khí chân thực cho toàn thể đời sống. Vì thế, cần phải củng cố, thay vì phá hủy hoặc làm biến thái gia đình. Chúng ta biết có bao nhiêu khó khăn mà các nước dân chủ ngày nay đang gặp phải trong việc tôn trọng phẩm giá bất khả vi phạm của mỗi người, quyền của các trẻ em chưa sinh ra, cũng như quyền của người già và người bệnh. Trong bối cảnh này, các gia đình và các cộng đoàn địa phương phải chu toàn vai trò của mình trong việc kiến tạo một nền văn hòa toàn diện, tốt lành, liên đới, trung thành, như những nền tảng vững mạnh và là căn bản luân lý đạo đức vững chắc giúp xã hội sống chung.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến sự đóng góp của Philippines cho sự cộng tác quốc tế giữa các nước Á châu và ngài cũng nhắc đến nhu cầu của những người dân nước này đang sống tại nhiều nước trên thế giới, góp phần vào sự sung túc của các nước đó. Vì thế, ngài khuyến khích Philippines tiếp tục cố gắng đảm bảo cho mọi công dân một sự phát triển nhân bản toàn diện.

ĐTC không quên ca ngợi những cố gắng thăng tiến đối thoại và cộng tác giữa tín đồ các tôn giáo khác nhau và ngài bày tỏ tin tưởng là những bước tiến đã được thực hiện nhắm mang lại hòa bình ở miền nam Philippines sẽ đạt được những giải pháp đúng đắn, phù hợp với các nguyên tắc nền tảng của quốc gia trong niềm tôn trọng các quyền bất khả nhượng của mọi ngừơi, kể cả các thổ dân bản xứ và các nhóm tôn giáo thiểu số.

Rời phủ Tổng thống sau cuộc gặp gỡ, ĐTC đã tiến về Nhà thờ chính tòa Manila cách đó 5 cây số để chủ sự thánh lễ với các GM, LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tôn phong hiển thánh đầu tiên của Sri Lanka

Đức Thánh Cha tôn phong hiển thánh đầu tiên của Sri Lanka

COLOMBO. Sáng ngày 14-1-2015, ĐTC Phanxicô đã chủ sự lễ tôn phong cha Joseph Vaz, tông đồ tại đảo Tích Lan, lên bậc hiển thánh, trước sự hiện diện của hơn nửa triệu tín hữu tại thủ đô Colombo của Sri Lanka.

Lúc 7 giờ rưỡi, ĐTC đã rời tòa sứ thần Tòa Thánh để ra công viên Galle Face Green cách đó 2 cây số rưỡi. Công viên này ở trung tâm khu vực tài chánh của thủ đô Colombo, trải dài 5 cây số dọc theo bờ biển. Cũng tại nơi đây, cách đây 20 năm, ngày 21-1 năm 1995, Thánh Gioan Phaolô 2 Giáo Hoàng đã chủ sự thánh lễ trọng thể lúc 10 giờ sáng trước sự hiện diện của 300 ngàn tín hữu, để tôn phong Cha Joseph Vaz lên bậc chân phước.

Đến công viên, ĐTC Phanxicô đã dùng xe díp tiến qua các lối để để chào thăm hơn 500 ngàn tín hữu tụ tập tại đây. Nhiều người phải đứng ở ngoài vòng đai công việc. Họ từ các nơi trên toàn quốc về đây, cả những vùng xa xăm ở miền bắc Sri Lanka với đa số dân là người Tamil. Hàng ngàn người đã đến đây từ chiều hôm trước và ngủ đêm tại chỗ để sẵn sàng dự lễ.

Chính phủ cũng giúp đỡ các tín hữu bằng cách cho hằng trăm xe bus của Nhà Nước đến các giáo xứ để chở những tín hữu muốn tham dự về thủ đô Colombo. Thêm vào đó, theo lệnh của bộ trưởng giao thông Sri Lanka, có 22 chuyến xe lửa đặc biệt và giá vé được giảm bớt 50% để tạo điều kiện cho các tín hữu có thể về thủ đô Colombo. Trong số hàng trăm ngàn người tham dự thánh lễ, đặc biệt có 1 ngàn tín hữu từ giáo phận Goa bên Ấn độ là giáo phận nguyên quán của thánh Joseph Vaz. Ngoài ra, chính quyền cũng huy động 28 ngàn nhân viên cảnh sát và an ninh để giữ trật tự trong những ngày ĐTC viếng thăm.

Đến gần nhà thánh, trước khi mặc áo lễ, để cử hành thánh lễ, ĐTC đã được ông đô trưởng thành Colombo chào đón và trao tặng chìa khóa của thành phố.

Trước lễ đài, ĐTC đã được một đoàn vũ của Sri Lanka, gồm cả nam lẫn nữa, chào đón qua những điệu vũ cổ truyền. Họ cũng trình diễn các vũ điệu trong một số phần của thánh lễ.

Trước lễ đài cũng có chỗ danh dự có mái che cho tân tổng thống Serena, một phật tử.

Đồng tế với ĐTC không những có 20 GM Sri Lanka, các vị thuộc đoàn tùy tùng, nhưng có thêm 4 HY từ Ấn độ, hàng chục GM thuộc các nước Á châu, kể cả Việt Nam, 1.100 linh mục. Ngoài ra có cả LM Cosme Jose Costa, 76 tuổi, thuộc giáo phận Goa bên Ấn độ, là người đã được phép lạ của thánh Joseph Vaz hồi năm 1938, khi mẹ ngài mang thai cha đến tháng thứ 7 bà bị băng huyết trầm trọng, nhưng cha Costa đã chào đời bình an nhờ mẹ và những người thân cầu xin cha Vaz cứu giúp.

Trong số các ca viên thuộc các ca đoàn đảm trách phần thánh ca, đặc biệt có nhiều bạn trẻ nghèo, được chọn từ các giáo phận trên toàn quốc.

Trong nghi thức phong hiển thánh, sau bài ca xin ơn Chúa Thánh Thần, Đức Cha Joseph Vianney Fernando, GM Kandy nơi cha Joseph Vaz qua đời, đã xin ĐTC cử hành việc phong hiển thánh cho cha. Rồi Đức Cha Sebastião do Rosarío Ferrão, TGM giáo phận Goa bên Ấn độ, đã tóm lược tiểu sử của cha:

Tiểu sử thánh Joseph Vaz

Cha Joseph Vaz sinh năm 1651 tại làng Benaulim thuộc lãnh thổ giáo phận Goa bên Ấn Độ, song thân là người Bồ đào nha. Tốt nghiệp trung học, Joseph Vaz gia nhập chủng viện và năm 1676, và năm 25 tuổi, thầy Vaz thụ phong linh mục.

Trong những năm đầu, tân linh mục chưa nhận được bài sai đặc biệt nào, nên đã xin về hoạt động mục vụ tại Sancoale, nơi gia đình song thân sinh sống. Nhờ khiếu giảng thuyết và lòng nhiệt thành hoạt động tông đồ, nhất là ban phát bí tích hòa giải, chẳng bao lâu sau, danh tiếng của vị linh mục trẻ lan rộng. Cha Vaz còn mở một trường dạy tiếng la tinh ở Sancoale để giúp đỡ các bạn trẻ muốn đi tu.

Một năm sau ngày chịu chức, cha Vaz dâng một thánh lễ trọng thể tại nhà thờ Đức Bà phù Trợ ở Sancoale, trong đó, cha long trọng dâng hiến đời mình làm tôi tớ của Mẹ Maria. Hiện nay, bức thư do chính cha viết trong dịp đó vẫn còn được lưu giữ. Cha Vaz cũng quy tụ một nhóm linh mục khao khát sống đời khổ hạnh thành một hội dòng được Đức Giám Mục sở tại chấp thuận và chuẩn y luật dòng, đồng thời cha được bầu lên làm bề trên tiên khởi của dòng mang tên là giảng thuyết của thánh Philiphê Neri.

Cũng trong thời gian này, cha Vaz được tin Giáo Hội Công Giáo tại Tích Lan không có người chăm sóc từ 50 năm trước đó, nghĩa là từ ngày quân Hòa Lan theo phái Tin Lành cải cách chiếm đóng vùng này. Lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy cha Vaz từ bỏ nhiệm vụ bề trên để xin đi truyền giáo tại Tích Lan, mặc dù nhà cầm quyền Hòa Lan cấm cách. Giả dạng một người hành khất, cha Vaz mấy lần tìm cách lén vào lãnh thổ Tích Lan nhưng mãi đến dịp lễ Phục Sinh năm 1867, cha mới lên được con tàu đưa sang bán đảo Jaffna, tây bắc Tích Lan, thành lũy kiên cố của quân đội Hòa Lan thực dân. Được một gia đình Công Giáo tiếp đón và chở che, cha bắt đầu tìm kiếm và thu thập các tín hữu Công Giáo. Chính quyền thực dân Hòa Lan đánh hơi thấy sự lạ giữa cộng đồng Công Giáo, nên ra sức lùng bắt vị linh mục này. Mấy lần cha bị chặn xét, nhưng nhờ tài cải trang, cha được họ thả cho đi. Sự hiện diện của cha tại Jaffna trở thành một nguy hiểm đe dọa cả tính mạng của cha lẫn gia đình thân quyến của người dám chứa chấp cha. Vì thế cha buộc lòng phải dời sang Sillalai, một thị trấn toàn người Công Giáo phụ cận Jaffna. Từ đó cha mở rộng hoạt động mục vụ sang các thị trấn gần đó.

Mùa Giáng Sinh năm 1689, viên tư lệnh quân đội Hòa Lan âu lo vì sức sống đạo của tín hữu Công Giáo đang được phục hồi nên quyết lòng lùng bắt cha Vaz, nhưng không thành công. Từ Sillalai, cha Vaz sang thành Puttalam, nơi có hơn 1000 tín hữu từ hơn 50 năm chưa bao giờ được thấy linh mục nào. Cha đến vương quốc Kandy trong vùng Puttalam, với hy vọng xin quốc vương tại đây cho phép tự do đi lại thăm viếng các tín hữu nơi đây. Nhưng vì lời dèm pha của một người Hòa Lan theo Tin Lành Cải Cách, nên cha Vaz cùng hai người Công Giáo khác bị bắt giam. Cha lợi dụng ngay thời gian bị giam cầm để học tiếng bản xứ và soạn thảo một cuốn từ điển tiếng địa phương.
Khi thấy hạnh kiểm tốt của người tù, bọn cai tù cũng nới tay thả lỏng việc kiểm soát. Năm 1692, cha đã được vua Kandy là Wimaladharmasuriya, một phật tử, cho phép dựng một căn lều trong vườn rau của nhà giam để dâng lễ Giáng Sinh. Ít lâu sau, căn lều này đã được biến đổi thành một nhà thờ dâng kính Đức Mẹ để cầu xin ơn trở lại cho người ngoại đạo.

Dù bị cầm tù, cha Vaz vẫn âm thầm hoạt động mục vụ cho các tín hữu tìm đến thăm cha. Một sự kiện lạ thường đã chấm dứt thời gian cầm tù của cha: lúc ấy, nước Kandy lâm nạn hạn hán nặng nề. Các nhà sư Phật giáo lập đàn theo lời yêu cầu của nhà vua để cầu mưa nhưng không được kết quả nào. Vua Kandy nhờ đến cha Vaz. Cha xin nhà vua cho dựng một lễ đài với một Thánh Giá giữa quảng trường, rồi cha quỳ xuống cầu nguyện. Trời mưa xuống thật và lại mưa nhiều nữa, nhưng cha và lễ đài vẫn khô ráo không bị ướt chút nào. Sau biến cố lạ lùng này, vua Kandy trả tự do và cho phép cha Vaz được tự do giảng đạo mọi nơi.

Những năm sau đó, cha Vaz đã tận dụng tự do để tổ chức và củng cố hệ thống truyền giáo tại Kandy và nhiều vùng phụ cận, bất chấp hiểm nguy rình rập. Cha được dòng giảng thuyết Thánh Philiphê Neri trợ lực và được Đức Giám Mục Cochin chỉ định làm giám quản vùng Tích Lan. Cha liên tiếp kinh lược các vùng truyền giáo không biết mỏi mệt, mặc dù sức khỏe ngày càng hao mòn. Trong chuyến đi sau cùng, cha bị ngã xe và mang thương tích trầm trọng. Về đến Kandy, bệnh tình của cha trở nặng thêm. Sau khi nhận lãnh bí tích xức dầu bệnh nhân, cha cầu nguyện cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vào giữa đêm khuya ngày 16 tháng giêng năm 1711, thọ 59 tuổi. Vua Kandy đã đích thân gửi lời chia buồn với các cha thuộc hội dòng do cha thành lập trước đây. Tín hữu khắp nơi tuốn về Kandy viếng xác cha suốt ba ngày trước khi cử hành tang lễ.

Cha Joseph Vaz được Đức Gioan Phaolô 2 tôn phong chân phước trước sự hiện diện của 300 ngàn tín hữu. Đêm trước đó đã có 30 ngàn người đến địa điểm hành lễ, họ ca hát, đánh trống, canh thức cầu nguyện và ngủ lại tại chỗ để dự lễ hôm sau. Trong số các tín hữu ấy có 2 ngàn người Tamil từ khu vực do phiến quân kiểm soát ở miền bắc, đã vượt mọi nguy hiểm về thủ đô dự lễ, ngoài ra còn có 800 tín hữu đến từ Ấn độ. Đồng tế thánh lễ hôm ấy 2 có 110 vị gồm 2 HY, 30 GM và gần 80 linh mục.

Sau khi tiểu sử cha Vaz được trình bày, mọi người đã hát kinh cầu các thánh, và ĐTC Phanxicô đọc công thức tuyên bố ghi tên chân phước Joseph Vaz vào sổ bổ các thánh của Giáo Hội và truyền cho toàn thể Giáo hội tôn kính thánh nhân.

Cộng đoàn vỗ tay rất lâu và ca đoàn hân hoan hát mừng vị tân hiển thánh, vị thánh đầu tiên của Giáo Hội tại Sri Lanka, trong khi thầy phó tế rước thánh tích của cha Vaz lên bàn thờ.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi nhắc đến hoạt động của thánh Joseph Vaz, ĐTC đã rút ra những bài học cụ thể cho các tín hữu ngày nay. Ngài nói:

”Cũng như vô số các thừa sai khác trong lịch sử Giáo Hội, thánh Joseph Vaz đã đáp lại mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh truyền hãy làm cho mọi dân nước thành môn đệ của Chúa (Xc Mt 28,19). Bằng lời nói, và quan trọng hơn nữa là bằng gương sống, thánh nhân đã dẫn đưa dân chúng tại đất nước này đến niềm tin, làm cho chúng ta được ”thừa hưởng gia nghiệp giữa các thánh của Chúa” (Xc Cv 20,32).

ĐTC nói: ”Nơi thánh Joseph chúng ta thấy một dấu chỉ mạnh mẽ về lòng nhân từ và tình yêu thương của Thiên Chúa đối với các dân tộc ở Sri Lanka. Nhưng chúng ta cũng thấy nơi thánh nhân một thách đố, đó là làm sao để kiên trì trên con đường Tin Mừng, tăng trưởng trong sự thánh thiện, và làm chứng cho sứ điệp hòa giải của Tin Mừng mà Ngài đã tận hiến trọn cuộc đời.

”Là một linh mục thuộc dòng giảng thuyết ở quê hương Goa, thánh Joseph Vaz đến đất nước này do lòng nhiệt thành truyền giáo và lòng yêu thương lớn lao đối với các dân tộc tại đây thúc đẩy. Vì bấy giờ có cuộc bách hại tôn giáo, thánh nhân hóa trang như người hành khất, chu toàn nghĩa vụ linh mục nơi các cuộc gặp gỡ bí mật với các tín hữu, thường là vào ban đêm. Ngài cố gắng mang lại sức mạnh tinh thần và luân lý cho các tín hữu Công Giáo bị vây bủa. Cha đặc biệt mong ước phục vụ những người bệnh tật và đau khổ. Việc phục vụ của cha dành cho những người đau yếu được nhà vua rất quí chuộng trong thời kỳ dịch đậu mùa ở Kandy đến độ vua cho phép cha được tự do hơn trong việc làm mục vụ. Từ Kandy, cha có thể đi tới các nơi khác trong đảo. Cha hăng say thi hành công tác truyền giáo, và qua đời vì kiệt lực lúc 59 tuổi, được dân chúng kính trọng vì sự thánh thiện.
ĐTC nhận xét rằng ”Thánh Joseph Vaz tiếp tục là một mẫu gương và là thày dạy vì nhiều lý do, nhưng tôi muốn tập trung vào 3 điều.

– Thứ nhất, thánh nhân là một linh mục gương mẫu. Tại đây hôm nay có nhiều linh mục tu sĩ nam nữ, giống như thánh Joseph Vaz, đã được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Tôi khuyến khích mỗi người trong anh chị em hãy nhìn lên thánh Joseph Vaz như người hướng đạo chắc chắn. Thánh nhân dạy chúng ta cách thức đi tới những vùng ngoại ô, làm cho Chúa Giêsu Kitô được biết đến và yêu mến ở mọi nơi. Ngài cũng nêu gương về sự kiên nhẫn chịu đau khổ vì chính nghĩa Tin Mừng, vâng phục các Bề trên, chăm sóc yêu mến Giáo Hội của Thiên Chúa (Xc Cv 20,28). Cũng như chúng ta, thánh Joseph Vaz đã sống trong một thời đại có những biến chuyện mau lẹ và sâu rộng; các tín hữu Công Giáo chỉ là một thiểu số, và thường bị chia rẽ nội bộ; đôi khi có những đố kỵ, nhiều khi có những bách hại từ bên ngoài. Nhưng vì thánh nhân luôn kết hiệp trong kinh nguyện với Chúa chịu đóng đanh, ngài có thể trở nên hình ảnh sống sống cho mọi người về lòng từ bi và tình yêu thương hòa giải của Thiên Chúa.

– ”Thứ hai, thánh Joseph Vaz tỏ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự vượt thắng những chia rẽ tôn giáo trong việc phụng sự hòa bình. Tình yêu không chia sẻ của thánh nhân đối với Chúa mở cho ngài tình yêu đối với tha nhân; ngài phục vụ những người túng thiếu, bất kỳ là ai và ở nơi nào. Tấm gương của thánh nhân tiếp tục soi sáng cho Giáo Hội tại Sri Lanka ngày nay. Giáo Hội vui mừng và quảng đại phục vụ mọi thành phần trong xã hội. Giáo Hội không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, bộ tộc, giai tầng xã hội hay tôn giáo trong công tác phục vụ ở trường học, nhà thương, bệnh xá, và nhiều công tác từ thiện khác. Điều duy nhất mà Giáo Hội yêu cầu là được tự do thi hành sứ vụ của mình. Tự do tôn giáo là một nhân quyền căn bản. Mỗi người phải được tự do, một mình hoặc hiệp với người khác, tìm kiếm chân lý và công khai bày tỏ những xác tín tôn giáo của mình, không bị dọa nạt hoặc sức ép từ bên ngoài. Như cuộc sống của thánh Joseph Vaz dạy chúng ta, việc phụng tự chân thành đối với Thiên Chúa mang lại hoa trái, không phải trong sự kỳ thị, oán thù hay bạo lực, nhưng trong sự tôn trọng tính chất thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, dấn thân phục vụ an sinh của tất cả mọi ngừơi trong tinh thần yêu thương.

– Sau cùng, thánh Joseph Vaz nêu gương cho chúng ta cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo. Thánh nhân đến Tích Lan để phục vụ cộng đồng Công Giáo, trong tình bác ái theo tinh thần Phúc Âm, ngài tìm đến với mọi người. Từ bỏ quê hương, gia đình, và môi trường quen thuộc thoải mái, ngài đáp lại tiếng gọi hãy ra đi để nói về Chúa Kitô tại bất kỳ nơi nào ngài được dẫn đến. Thánh Joseph Vaz biết cách trình bày chân lý và vẻ đẹp của Tin Mừng trong một môi trường đa tôn giáo, trong niềm tôn trọng, với lòng tận tụy, kiên trì và khiêm tốn. Đó cũng là con đường của các môn đệ Chúa Giêsu ngày nay. Chúng ta được kêu gọi ra đi với cùng một lòng nhiệt thành, cùng một lòng can đảm như thánh Joseph Vaz, nhưng cũng với sự nhạy cảm của ngài, tôn trọng tha nhân, ước muốn chia sẻ với họ lời ân phúc (Xc Cv 20,32) có năng lực thăng tiến họ. Chúng ta được kêu gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Chúa.

Và ĐTC kết luận rằng: ”noi gương thánh Joseph Vaz, tôi cầu nguyện để các tín hữu Kitô tại nước này được củng cố trong đức tin và đóng góp nhiều hơn nữa cho hòa bình, công lý và hòa giải trong xã hội Sri Lanka. Đó là điều mà Chúa Kitô yêu cầu anh chị em. Đó là điều mà thánh Joseph Vaz dạy anh chị em. Đó là điều mà Giáo Hội đang cần nơi anh chị em. Tôi phó thác tất cả anh chị em cho vị thánh mới của chúng ta, để trong niềm hiệp thông với Giáo Hội trên toàn thế giới, anh chị em có thể hát bài ca mới chúc tụng Chúa và cao rao vinh quang Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất. Vì Chúa thật là cao cả, và phải được chúc tụng đời đời (Xc Tv 96,1-4). Amen.

Quà tặng

Cuối thánh lễ, ĐHY Malcom Ranjith, TGM Colobom sở tại, đã đại diện mọi người cám ơn ĐTC về món quà quí giá là lễ tôn phong vị thánh đầu tiên của Giáo Hội tại Sri Lanka. ĐHY cũng trao cho ĐTC một ngân phiếu 70 ngàn mỹ kim do các tín hữu đóng góp cho các hoạt động bác ái của ngài. ĐHY nói: ”Chúng con là một Giáo hội nghèo, nhưng chúng con cũng xin ĐTC nhận món quà này cho các công tác bác ái”.

Về phần ĐTC, ngài tặng cho Giáo Hội tại Sri Lanka bản sao bằng đồng sắc chỉ của vua Keerthi Sri Rajasinghe của nước Kandy tuyên bố không cấm những người dân Singalais muốn theo Kitô giáo và cho phép tất cả các mục tử cùng dòng được rao giảng cho những người sinh tại Sri Lanka và phật tử muốn theo Kitô giáo.

Thánh lễ kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ trong bầu không khí nồng nhiệt. Bấy giờ là 11 giờ sáng, giờ địa phương. ĐTC trở về tòa Sứ thần để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi, để chuẩn bị viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Madhu vào ban chiều.

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm Đền Thánh Đức Mẹ Madhu, bắc Sri Lanka

Đức Thánh Cha viếng thăm Đền Thánh Đức Mẹ Madhu, bắc Sri Lanka

MADHU. Chiều ngày 14-1-2015, ĐTC Phanxicô đã kính viếng Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi ở Madhu, bắc Sri Lanka, cầu nguyện với hơn 100 ngàn tín hữu và tái kêu gọi hòa giải giữa mọi người dân Sri Lanka.

Sau thánh lễ phong thánh với sự tham dự của hơn nửa triệu người tại thủ đô Colombo vào ban sáng, lúc 2 giờ chiều cùng ngày 14-1, ĐTC đã đáp trực thăng của không lực Sri Lanka từ thủ đô Colombo để bay đến Đền thánh Đức Mẹ Madhu, cách đó 250 cây số về hướng bắc và là miền có đại đa số dân thuộc sắc tộc Tamil.

Đền thánh Madhu thuộc giáo phận Mannar, hiện có 90 ngàn tín hữu Công Giáo trên tổng số 270 ngàn dân cư, với 34 giáo xứ do 55 LM giáo phận coi sóc và 330 LM dòng và 183 nữ tu.

Our-Lady-of-Madhu

Lịch sử Đền Thánh

Đền thánh Đức Mẹ Madhu đã có từ hơn 4 thế kỷ, tức là từ năm 1544 khi vua Sankili ở thành Jaffna tàn sát 600 tín hữu Công Giáo ở Mannar, vốn do các thừa sai Bồ đào nha hoán cải, vì nhà vua sợ người Bồ bành trướng ảnh hưởng. Có một số tín hữu tránh thoát được cuộc thảm sát và trong rằng họ thiết lập một nhà nguyện nhỏ bé và đặt trong đó tượng Đức Mẹ hiện nay ở trong Đền Thánh. 4 thập niên sau đó, một số tín hữu Công Giáo lại phải chạy khỏi Mannar và bắt đầu kiến thiết các thánh đường ở các vùng lân cận. Một trong các nhà thờ đó được thiết lập tại Mantai và là nơi đầu tiên được đặt tượng Đức Mẹ Madhu.
Năm 1656 người Hòa Lan theo Tin Lành Calvin đổ bộ lên đảo Tích Lan và bách hại các tín hữu Công Giáo. Có 30 gia đình Công Giáo chạy trốn từ làng này sang làng khác, họ mang theo pho tượng Đức Mẹ và 14 năm sau đó, họ định cư tại nơi ngày nay là Đền thánh Đức Mẹ Madhu. Một số tín hữu Công Giáo khác, trốn tránh cuộc bách hại của người Hòa Lan cũng chạy đến nơi này, trong số họ có một phụ nữ Bồ đào nha tên là Helena, và bà đã khởi công xây cất thánh đường nhỏ đầu tiên dâng kính Đức Mẹ Madhu.
Đức Mẹ tại đây được biết đến trên toàn đảo Tích Lan và được tôn kính như vị bảo vệ và chữa lành những người bị rắn cắn.

Khi cha Joseph Vaz từ Ấn độ đến hoạt động tại Tích Lan từ năm 1687, Công Giáo được phát triển và năm 1706, Đền thánh Đức Mẹ Madhu trở thành một trung tâm truyền giáo. Thánh đường hiện nay ở Madhu được khởi công xây cất hồi năm 1872 và năm 1824, vị Đặc Sứ của ĐGH Piô 11 đã chủ sự nghi thức đội triều tiên cho tượng Đức Mẹ.

Đền thành Đức Mẹ Mân Côi ở Madhu vẫn luôn là nơi hành hương và cầu nguyện của cac tín hữu Công Giáo và cả tín đồ các tôi giáo khác. Và mặc dù vùng này trong quá khứ đã xảy ra những cuộc giao tranh giữa phiến quân Tamil và quân đội chính phủ Sri Lanka, các GM nước này đã thành công trong việc yêu cầu cả hai phe lâm chiến chấp nhận Madhu là vùng phi quân sự, đảm bảo an ninh cho các tín hữu hành hương và nhiều người tị nạn chạy tới miền này để tránh các cuộc giao tranh. Thực vậy, từ năm 1990, khu vực 160 hécta quanh Đền thánh Đức Mẹ Madhu đã tiếp đón hàng ngàn người tị nạn chiến tranh. Sau chiến tranh, tháng 4 năm 2008, Đền Thánh Đức Mẹ được giao lại cho giáo phận Mannar va việc thờ phượng được mở lại từ tháng 12 năm 2010.

Viếng thăm

Đến Madhu lúc 3 giờ rưỡi chiều, sau 1 giờ 15 phút bay, ĐTC đã đi xe tiến qua các lối đi để chào thăm hàng trăm ngàn người tụ tập dọc theo hai bên đường và nhất tại khu vực trước Đền thánh. Tại cổng chào ngài được Đức GM địa phương, Joseph Rayyappu và chính quyền đón tiếp.

Buổi cầu nguyện tiếp đó được cử hành bằng 3 thứ tiếng: Anh, Singalais và Tamil. Vì nhà thờ nhỏ, nên lớn các tín hữu tham dự buổi cầu nguyện từ các khu vườn bên ngoài. Có một khu vực riêng dành cho các vị sư phật giáo đến tham dự buổi cầu nguyện.

Trong lời chào ĐTC, Đức GM sở tại đã gợi lại lịch sử đền thánh Đức Mẹ Madhi và cho biết Đền thánh này vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc khơi dậy và nuôi dưỡng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Và mỗi năm vào dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, hơn 600 ngàn tín hữu từ các nơi vẫn đề đây hành hương kính Đức Mẹ. Cũng vậy có đông đảo tín hữu đến kính viếng vào những dịp lễ khác và cuối tuần.

Tiếp đến mọi người đã nghe đọc bài Tin Mừng theo Thánh Mathêu về các mối phúc thật: Phúc cho những người sầu khổ vì họ sẽ được an ủi. Phúc cho những người xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những người bị bách hại vì lẽ công chính, vì nước trời là của họ (Mt 5,4.9-10).

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng tại buổi cầu nguyện, ĐTC ghi nhận sự kiện, tại Đền thánh này, mọi người Sri Lanka, dù là thuộc sắc tộc Tamil hay Singalais, đều cảm thấy như ở nhà mình, cảm thấy an ninh như một gia đình trong nhà của Mẹ. Nơi đây cũng có sự hiện diện của các gia đình từ nam chí bắc, những gia đình đã chịu nhiều đau khổ, gợi lại thời kỳ chiến tranh đẫm máu tại Sri Lanka.

Từ thời kỳ đầu của Kitô giáo ở đất nước này, các tín hữu đã cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ nh[o bé này và ngày nay vẫn con tiếp tục. Mẹ là mẹ của đông đảo các gia đình đang tìm kiếm một cuộc sống an bình. Mẹ Maria bảo vệ nhân dân Sri Lanka khỏi những nguy hiểm quá khứ và hiện tại. Mẹ luôn gần gũi Chúa Con chịu đóng đanh và gần các con cái Sri Lanka của mình.

ĐTC nói: ”Ngày hôm nay tại đây có những gia đình đã chịu đau khổ rất nhiều trong cuộc xung đột lâu dài, tạo ra vết thương lớn trong con tim Sri Lanka. Nhiều người, từ bắc chí nam, bị giết trong bạo lực kinh khủng và đẫm máu trong những năm ấy. Không người Sri Lanka nào có thể quên những biến cố bi thảm gắn liền với chính nơi này, hoặc ngày đau buồn khi tượng Đức Mẹ đáng kính, có từ thời các tín hữu Kitô đầu tiên đến Sri Lanka, bị đưa ra khỏi đền thánh Đức Mẹ.”

Dầu vậy, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy cảm tạ Đức Mẹ vì Mẹ luôn mang Chúa Giêsu cho chúng ta và luôn ban cho chúng ta sức mạnh để tái lập an bình trong tâm hồn chúng ta. Sau bao nhiêu oán thù, bao nhiêu bạo lực và tàn phá, chúng ta hãy cảm tạ Mẹ, vì Mẹ tiếp tục mang Chúa Giêsu cho chúng ta, chỉ có Chúa mới có thể chữa lành những vết thương còn rộng mở và tái lập an bình cho những con tim bị tan vỡ.
ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chỉ khi nào, dưới ánh sáng của thập giá, chúng ta hiểu được sự ác mà chúng ta có khả năng thực hiện, và thậm chí còn tham gia vào đó nữa, thì chúng ta mới có thể cảm thấy hối hận và thống hối thực sự. Chỉ khi ấy chúng ta mới có thể lãnh nhận ơn đến gần nhau với tâm tình thống hối chân thành, trao ban và đón nhận tha thứ. Chúng ta hãy cầu xin ơn từ bi của Chúa, ơn đền bù các tội lỗi và bao nhiêu sự ác mà đất nước này đã từng trải qua.

Sau cùng, ĐTC mời gọi các tín hữu cầu xin Mẹ Maria tháp tùng tất cả mọi người, Tamil cũng như Singalais, trong công cuộc tái tạo hiệp nhất mà mọi người mong muốn. Ngài nhắc nhớ rằng trong tư cách là anh chị em với nhau, chúng ta luôn có thể đi về nhà Thiên Chúa trong một tinh thần đổi mới hòa giải và huynh đệ.

Buổi cầu nguyện kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của ĐTC. Ngài cầm tượng Đức Mẹ Madhu và vẽ hình Thánh Giá trên các tín hữu. Ban quản đốc Đền thánh cũng tặng ĐTC pho tượng nhỏ bản sao tượng Đức Mẹ Madhu. Ngài cũng dâng tặng tượng Đức Mẹ xâu chuỗi quí giá và cúi đầu cung kính cầu nguyện.
Rồi ngài trở lại sân bay trực thăng gần đó để về thủ đô Colombo vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày.

G. Trần Đức Anh OP Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 12-1-2015, ĐTC Phanxicô đã trình bày lập trường của Tòa Thánh về các vấn đề thời sự quốc tế.

Buổi tiếp kiến diễn ra từ lúc 10 giờ rưỡi, trước sự hiện diện của các đại diện 180 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ Jean-Claude Michel của Tiểu vương quốc Monaco, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn và lần lượt đề cập đến những vấn đề và những vùng nóng bỏng trên thế giới cũng như khích lệ những sáng kiến hòa bình và phát triển.

Diễn văn ca ĐTC

Ngài nói: ”Hôm nay tôi muốn mạnh mẽ tái gióng lên một từ rất quí giá đối với chúng ta, đó là hòa bình! Từ này đến với chúng ta từ tiếng nói của các thiên thần, loan báo trong đêm Giáng Sinh (Xc Lc 2,14), như hồng ân quí giá của Thiên Chúa và đồng thời tỏ cho chúng ta thấy đó là trách nhiệm bản thân và xã hội mà chúng ta cần phải ân cần và mau mắn thực hiện. Nhưng bên cạnh hòa bình, hang đá máng cỏ cũng kể lại cho chúng ta một thực tại bi thảm: đó là sự phủ nhận. Trong một số hình ảnh về giáng sinh, ở Tây phương cũng như Đông phương, tôi nghĩ đến bức ảnh rạng ngời vẽ trên gỗ của Andrej Rublev – Chúa Hài Đồng không nằm thoải mái trong nôi, nhưng được đặt trong một cái mộ. Hình ảnh ấy muốn liên kết hai lễ chính của Kitô giáo – Giáng Sinh và Phục Sinh, cho thấy bên cạnh sự đón tiếp vui mừng biến cố Chúa giáng sinh, có cả một thảm kịch trong đó Chúa Giêsu bị khinh rẻ và loại bỏ cho đến độ phải chết trên thập giá”.

Nguyên nhân nền văn hóa loại bỏ
ĐTC nhận định rằng các trình thuật về sự giáng sinh của Chúa Giêsu cũng nói về ”con tim chai cứng của nhân loại” khiến họ không đón nhận Chúa Hài Đồng. Ngài cảnh giảc rằng ”Ngày nay cũng có một thái độ phủ nhận nơi chúng ta, làm cho ta không nhìn tha nhân như người anh em cần đón nhận, nhưng để họ ở bên ngoài chân trời cuộc sống chúng ta, biến họ thành một người cạnh tranh, một nhân vật thấp kém cần thống trị. Đó là một não trạng tạo nên nền văn hóa gạt bỏ không tha điều gì và cũng chẳng nể nang ai: từ các thụ tạo, cho tới con người và thậm chí cả Thiên Chúa nữa. Từ đó nảy sinh một nhân loại bị thương tổn và tiếp tục bị xâu xé vì những căng thẳng và xung đột đủ loại”.

ĐTC nhận xét rằng chúng ta có một âm hưởng đau buồn về sự kiện đó trong rất nhiều tin tức thời sự hằng ngày, mới đây nhất là cuộc thảm sát xảy ra ở Paris. Ngài đặc biệt nói đến một nhân vật tàn ác là vua Hêrôđê, khi thấy mình bị Hài Nhi Giêsu đe dọa, liền ra lệnh giết tất cả các trẻ em ở Bethlehem. Từ đó, ĐTC cảm động nhắc đến vụ thảm sát tàn bạo chưa từng có: hơn 100 trẻ em bị tàn sát cách đây hơn 1 tháng tại Pakistan.

Những hình thức nô lệ tân thời
Trong bài diễn văn trước ngoại giao đoàn, ĐTC cũng đề cập đến những thứ nô lệ tân thời, như đã nói tới trong sứ điệp nhân ngày Hòa Bình thế giới 1-1 vừa qua, và ngài tái khẳng định rằng ngày nay, chúng ta thấy con người tự do trở thành nô lệ, khi thì nô lệ thời trang, khi thì nô lệ quyền lực, tiền tài, thậm chí nô lệ những hình thức sai trái về tôn giáo. Hiển nhiên đó là những thứ nô lệ tân thời, nảy sinh từ một con tim hư hỏng, không có khả năng nhìn thấy và làm điều thiện, không theo đuổi hòa bình. ĐTC cảnh giác trước những hậu quả của não trạng ấy và thứ văn hóa nô lệ hóa, đó là sự tiếp tục lan tràn các cuộc xung đột như một thứ thế chiến thực sự, đang diễn ra từng mảnh”.

Xung đột tại Ucraina
Cuộc chiến tranh đầu tiên được ĐTC nhắc đến là tại Ucraina và ngài nhận xét rằng đất nước này đã trở thành một diễn trường thê thảm cho các cuộc xung đột. Ngài cầu mong rằng nhờ đối thoại, người ta củng cố các nỗ lực đang tiến hành để chấm dứt các hành vi thù nghịch, và các phe liên hệ bắt đầu con đường chân thành, tín nhiệm nhau trong tinh thần tôn trọng công pháp quốc tế.

Trung Đông, Irak và Siria
Một phần quan trọng trong diễn văn của ĐTC được dành cho Trung Đông, quê hương của Chúa Giêsu mà ”chúng ta không bao giờ mệt mỏi trong việc khẩn cầu hòa bình cho miền này”. Ngài nhắc lại cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình tại Vatican hồi tháng 6 năm ngoái với sự tham dự của Tổng thống Israel bấy giờ là ông Shimon Peres và thổng thống Palestine Abbas và ngài tái kêu gọi chấm dứt bạo lực, đạt tới một giải pháp giúp người Palestine và Israel rốt cục được sống trong hòa bình, để cụ thể hóa giải pháp 2 quốc gia.

Tiếp đến, ĐTC Phanxicô nói đến Irak và Siria nơi vẫn còn những cuộc xung đột kéo dài, với những hậu quả thê thảm kể cả về khía cạnh làm cho nạn khủng bố cực đoan lan tràn.

Chủ nghĩa khủng bố phủ nhận con người và Thiên Chúa
Ngài trình này một suy tư về hiện tượng khủng bố bi thảm và khẳng định rằng đó là ”hậu quả của một nền văn hóa loại bỏ được áp dụng cho Thiên Chúa. Thực vậy, trào lưu tôn giáo cực đoan, trước khi nó là một sự loại bỏ con người qua những cuộc thảm sát kinh khủng, thì nó là sự phủ nhận chính Thiên Chúa, coi Chúa chỉ là một cái cớ ý thức hệ. Đứng trước sự gây hấn bất công chống lại cả các tín hữu Kitô và các nhóm chủng tộc và tôn giáo khác trong vùng, cần có một câu trả lời nhất chí, trong khuôn khổ công pháp quốc tế, ngăn chặn sự lan tràn bạo lực, tái lập sự hòa hợp và chữa lành những vết thương sâu đậm mà các cuộc xung đột nối tiếp nhau đã tạo ra.

ĐTC tái kêu gọi cộng đồng quốc tế cũng như mỗi chính phủ hãy có những sáng kiến cụ thể để kiến tạo hòa bình và bênh vực những người đau khổ vì chiến tranh và bách hại. Ngài nhắc lại lá thư đã gửi hồi trước giáng sinh cho các Cộng đồng Kitô ở Trung Đông và nhấn mạnh rằng: ”Một Trung Đông không còn Kitô hữu thì sẽ là một Trung Đông bị biến dạng và què quặt”. Ngoài ra, một lần nữa ngài cầu mong ”các vị lãnh đạo tôn giáo, chính trị, trí thức, đặc biệt là Hồi giáo, lên án bất kỳ sự giải thích tôn giáo một cách cực đoan và duy căn, nhắm biện minh cho những hành vi bạo lực như thế”, và ĐTC cũng lấy làm tiếc vì những hình thức tàn bạo như thế cũng không thiếu ở các nơi khác trên thế giới.

Xung đột tại các nước Phi châu
ĐTC đề cập đến các cuộc xung đột ở Phi châu, và nhận xét rằng nhiều nước Phi châu cũng bị đảo lộn vì chiến tranh, bắt đầu từ Nigeria, nơi vẫn chưa chấm dứt những bạo lực chống lại các thường dân một cách bừa bãi, trong khi hiện tượng bi thảm bắt cóc người tiếp tục gia tăng tại nước này. Ngài tố giác hiện tượng đáng kinh tởm là nạn buôn các trẻ nữ bị bắt cóc để cưỡng bách kết hôn.

ĐTC cũng nghĩ đến nước Libia đang bị sâu xé vị cuộc nội chiến dài dẵng, gây ra những đau khổ khôn tả cho dân chúng và có những hậu quả trầm trọng đối với sự quân bình mong manh trong vùng này. Ngài nghĩ đến Cộng hòa Trung Phi nơi mà người ta phải đau lòng nhận thấy thiện chí của những người đang cố gắng xây dựng hòa bình đang gặp phải sự kháng cự của những hình thức chống đối và những lợi lộc phe phái ích kỷ.
ĐTC bày tỏ lo âu về tình trạng ở Sudan, vùng Sừng ở Phi châu, Cộng hòa dân Chủ Congo nơi mà hàng ngàn người phải đi tị nạn bạo lực. Ngài không quên kêu gọi các vị hữu trách dấn thân hơn để bênh vực hòa giải, hòa bình và phẩm giá con người.

Tội ác hãm hiếp
ĐTC đặc biệt tố giác sự kiện chiến tranh cũng mang theo một tội ác đáng kinh tởm là sự hãm hiếp. Đây là một sự vi phạm rất trầm trọng chống lại phẩm giá của phụ nữ, không những họ bị vi phạm trong thân thể, nhưng cả trong tâm hồn, với chấn thương khó có thể xóa bỏ được. Rất tiếc là nơi nào có chiến tranh thì người ta cũng thấy có quá nhiều phụ nữ phải chịu đau khổ vì bạo hành, do tội ác này.

Bệnh dịch Ebola
Đề cập tới bệnh dịch Ebola, ĐTC nhận xét rằng trong nền văn hóa loại bỏ cũng có một cách người ta đối xử với các bệnh nhân, bị cô lập và gạt ra ngoài lề như những người cùi mà Phúc Âm nói tới. ĐTC định nghĩa các nạn nhân Ebola như những người cùi trong thời đại chúng ta ngày nay, nhất là tại Liberia, Sierra Leone và Guinea, với hơn 6 ngàn người chết. Ngài tái cám ơn các nhân viên y tế, các tu sĩ và những người thiện nguyện chăm sóc các bệnh nhân Ebola đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế đảm bảo một sự trợ giúp nhân đạo thích hợp cho các bệnh nhân và thăng tiến một sự dấn thân chung để loại trừ bệnh dịch.

Những người tị nạn và di dân
Sang đến những người tị nạn và di dân, ĐTC nói: ”trong số những hậu quả của các cuộc xung đột, thường có sự trốn chạy của hàng ngàn người rời bỏ nguyên quán của họ… bao nhiêu người đã bỏ mạng trong những hành trình không xứng đáng với con người, phải chịu đủ thứ hành hạ của những lý hình tham lan tiền bạc. Địa Trung Hải không thể trở thành một đại nghĩa trang”.

ĐTC tố giác sự kiện nhiều người di dân, nhất là tại Mỹ châu, là các trẻ em đi một mình, dễ trở thành mồi cho những nguy hiểm. Các em đang cần được quan tâm, săn sóc và bảo vệ nhiều hơn.

Ngài nhấn mạnh thảm trạng bị từ chối mà bao nhiêu người di dân phải chịu. Họ thường đến những miền đất lạ, không có giấy tờ, cũng chẳng biết ngôn ngữ tại nước ấy. Người di dân thật khó được chấp nhận và khó tìm được công ăn việc làm. ĐTC kêu gọi thay đổi thái độ đối với họ, để đi từ thái độ dửng dưng và sợ hãi sang thái độ chân thành đón nhận tha nhân. Ngài không quên kêu gọi thiết lập những luật lệ thích hợp và sự dấn thân của quốc tế để cứu giúp những người tị nạn và di dân. Ngoài ra, cần chữa trị tận căn hiện tượng này chứ không phải chỉ chữa trị hậu quả mà thôi.

Công ăn vic làm và gia đình
ĐTC đề cập đến vấn đề công ăn việc làm và gia đình. Ngài nói: ”những người lưu vong thầm kín” đang sống trong gia cư của chúng ta: những người già, người tàn tật và người trẻ không tìm được công ăn việc làm. Những người già bị gạt bỏ khi họ bị coi như gánh nặng và sự hiện diện của họ bị coi như một sự phiền phức, trong khi người trẻ bị gạt bỏ khi người ta không giúp họ có công ăn việc làm. ĐTC nói: không có sự nghèo đói nào tệ hơn là thứ nghèo đói không có việc làm và phẩm giá của lao công, hoặc biến lao công thành một hình thức nô lệ. Sự thất nghiệp của người trẻ, cũng như sự bóc lột sức lao động của trẻ vị thành niên là điều trái ngược với phẩm giá con người và xuất phát từ một não trang đặt tiền bạc ở trung tâm và gây hại cho chính con người.

ĐTC Phanxicô tố giác sự kiện nhiều khi gia đình trở thành đối tượng cho sự gạt bỏ vì thứ văn hóa cá nhân chủ nghĩa ngày càng lan tràn, tạo ra sự giảm bớt số sinh, và những luật lệ dành ưu tiên cho những hình thức sống chung khác, thay vì nâng đỡ gia đình một cách thích hợp để mưu cộng tác cho toàn thể xã hội.

Kêu gọi Italia thắng cám dỗ đng đ
ĐTC không quên nhắc đến quốc gia Italia yêu quí, đang phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế như bao nước khác, cuộc khủng hoảng này sinh ra sự thiếu tín nhiệm và tạo điều kiện cho những xung đột xã hội. Những hậu quả của tình trạng đó người ta thấy ở Roma và Italia khi gặp bao nhiêu người sống trong tình trạng cơ cực. ĐTC nhấn mạnh rằng Italia cần phải vượt thắng bầu không khí bất an kéo dài về mặt xã hội, chính trị và kinh tế. Nhân dân Italia đừng chiều theo sự buông xuôi và cám dỗ đụng độ nhau, nhưng tái khám phá những giá trị của sự chú ý đến nhau và liên đới là nền tảng của sự sống chung với nhau và là nguồn mạch sự tín nhiệm người khác và tin tưởng nơi tương lai, nhất là đối với người trẻ.

Viếng thăm Sri Lanka và Philippines
ĐTC cũng nói đến người trẻ khi nhắc lại cuộc viếng thăm của ngài tại Hàn Quốc nhân Ngày giới trẻ Á châu và ngài đề cập đến cuộc viếng thăm ngài sắp thực hiện tại Sri Lanka và Philippines. Biến cố này chứng tỏ sự quan tâm và ân cần về mục vụ của ngài khi theo dõi các thăng trầm của Á châu. Ngài cũng tái cầu mong hai nước Triều Tiên anh em mở lại các cuộc đối thoại với nhau.

Thành quả hòa bình
Vào đầu năm mới, ĐTC cho biết ngài không muốn cái nhìn của ngài có sắc thái bi quan và ngài cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân, các cuộc gặp gỡ, đối thoại và nhất là một số thành quả của hòa bình. Trong ý hướng đó, ĐTC nhắc đến cuộc viếng thăm của ngài tại Albani, mặc dù có những vết thương phải chịu trong lịch sử gần đây, nhưng nay là một nơi sống chung hòa bình và tôn trọng tín nhiệm lẫn nhau giữa các tín hữu Công giáo, Chính Thống và Hồi giáo. Ngài nhận định rằng niềm tin chân thành nơi Thiên Chúa làm ta cởi mở đối với tha nhân, tạo ra đối thoại và hoạt động cho công ích, trong khi bạo lực luôn nảy sinh từ sự huyền thoại hóa chính tôn giáo của mình, nhiều khi viện cớ những dự án ý thức hệ, nhắm mục tiêu duy nhất là người thống trị người. ĐTC nhắc đến cuộc đối thoại đại kết và liên tôn ở Thổ Nhĩ Kỳ và tinh thần đón tiếp ở Giordani. Ngài cầu mong Liban vượt thắng được những khó khăn hiện nay về chính trị.

Hoa Kỳ và Cuba xích lại gần nhau
Trong số những ví dụ về đối thoại có thể thực sự kiến tạo được những nhịp cầu, ĐTC Phanxicô nhắc đến quyết định mới đây của Hoa Kỳ và Cuba chấm dứt sự im lặng đối với nhau dài hơn một nửa thế kỷ và xích lại gần nhau để mưu ích cho các công dân cả hai nước. Ngoài ra ngài hài lòng chào mừng ý muốn của Hoa Kỳ đóng cửa vĩnh viễn nhà tù ở Guantanamo.

ĐTC nói đến nước Burkina Faso đang dấn thân trong một thời kỳ mới cộng tác và phát triển, và Philippines đã ký một hiệp định chấm dứt những năm căng thẳng tại nước này. Ngài cũng khích lệ cuộc hòa đảm tại Colombia, sự hòa hợp ở Venezuela, và thỏa hiệp chung kết giữa Iran và nhóm các nước gọi là ”5 cộng 1”, về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào những mục tiêu hòa bình.

70 năm thành lập LHQ và hiệp định về khí hậu
Trong phần kết của bài diễn văn, ĐTC nhắc lại rằng cách đây 70 năm LHQ đã được khai sinh từ đống tro tàn của thảm họa kinh khủng là Thế Chiến thứ 2. Ngài nhắc lại bài diễn văn lịch sử của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô 6 trong cuộc viếng thăm LHQ hồi năm 1965, đó là lời kêu gọi tha thiết: ”Đừng chiến tranh nữa, đừng bao giờ gây chiến nữa”. ĐTC Phanxicô lập lại lời kêu gọi này khi đặc biệt nghĩ đến chương trình phát triển hậu 2015 với những mục tiêu phát triển dài hạn và soạn thảo một Hiệp định mới về khí hậu. Ngài xác tín rằng trong cả các tiến trình đó, một điều kiện không thể thiếu được chính là hòa bình, nảy sinh từ sự hoán cải tâm hồn”.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

 

Năng cầu khẩn Chúa Thánh Thần, và dưỡng nuôi con cái bằng Lời Chúa và gương sống đức tin

Năng cầu khẩn Chúa Thánh Thần, và dưỡng nuôi con cái bằng Lời Chúa và gương sống đức tin

Hãy thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, để Người trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh. linh hứng chúng ta và làm cho chúng ta tiến tới. Các cha mẹ hãy dưỡng nuôi con cái mình bằng Lời Chúa và gương sống đức tin.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ như trên trong thánh lễ ban bí tích Tửa Tội cho 33 trẻ em nam nữ trong nhà nguyện Sistina và trong bài huấn dụ khi đọc Kinh Truyền Tin với tín hữu và du khách hanh hương tại công trường Thánh Phêrô.

Lúc 9 giờ sáng Chúa Nhật hôm qua lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ ban Bí Tích Rửa Tội cho 33 trẻ em nam nữ, con của các nhân viên làm việc trong Tòa Thánh.

Sau lời chào mở đầu, ĐTC đã đối thoại với các cha mẹ. Ngài nói: Mở đầu buổi cử hành này, tôi xin hỏi các cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu: Anh chị em đặt tên cho con là gì? Anh chị em xin gì cho con cái anh chị em với Giáo Hội Chúa? Anh chị em thân mến khi xin Bí tích Rửa Tội cho con cái anh chị em, anh chị em dấn thân giáo dục chúng trong đức tin, để trong việc tuân giữ các giới răn chúng học yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như Chúa Kitô đã dậy chúng ta. Anh chị em có ý thức được trách nhiệm này của anh chị em không? Các cha me thưa có. Và anh chị em là các cha mẹ đỡ đầu, anh chị em có sẵn sàng trợ giúp cha mẹ các em trong nhiệm vụ quan trọng như thế không? Các cha mẹ đỡ đầu thưa có.

Tiếp đến ĐTC nói: Các trẻ em thân mến, với niềm vui lớn Giáo Hội Chúa đón nhận các con. Nhân danh Người cha làm dấu thánh giá cho các con. Và sau tôi anh chị em là cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu cũng làm dấu của Chúa Kitô Cứu Thế trên con của anh chị em.

Các cha mẹ và người đỡ đầu đã bế các em lên để ĐTC vẽ dấu thánh giá trên trán các em và họ cũng vẽ dấu thánh già trên trán chúng.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói Lời Chúa cho chúng ta thấy như một người cha và một bà mẹ giỏi Thiên Chúa muốn các sự tốt lành cho con cái Ngài. Và điều Thiên Chúa muốn trao ban là Lời ngài, làm cho chúng ta lớn lên và sinh hoa trái tốt lành trong cuộc sống, như mưa và tuyết rơi xuống khiến cho đất đai được phong phú (x. Is 55,10-11). Cũng thế anh chị em là cha me, cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, cô chú hãy giúp các trẻ em này lớn lên, nếu anh chị em cho chúng Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa Giêsu, và làm gương cho chúng bằng cách có thói quen đọc Lời Chúa mỗi ngày và mang Lời Chúa theo trong mình, trong túi trong xách tay, để đọc. Khi trông thấy anh chị em đọc Lời Chúa, các em sẽ noi theo. Các bà mẹ hãy cho con cái sữa, nếu chúng khóc vì đói, hãy bình tĩnh cho chúng bú ngay bây giờ đây. Cứ bình tĩnh (Lúc này có nhiều em khóc lớn trong nhà nguyện). Chúng ta cảm tạ Chúa vì ơn của sữa, và cầu nguyện cho các bà mẹ, biết bao nhiêu bà mẹ không có điều kiện cho con cái họ ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và trợ giúp họ. Điều mà sữa làm cho thân xác, thì Lời Chúa làm cho tinh thần: Lời Chúa lam cho đức tin lớn lên. Và nhờ đức tin chúng ta được Thiên Chúa sinh ra. Đó là điều xảy ra trong bí tích Rửa Tội. Chúng ta đã nghe lời thánh Gioan nói: “Ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì đã được Thiên Chúa sinh ra” (1 Ga 5,1). Hôm nay là đức in của anh chị em, là đức tin của Giáo Hội qua đó các em bé này nhận bí tích Rửa Tội, nhưng ngày mai, với ơn thánh Chúa sẽ là đức tin của các em, sẽ là tiếng “có” cá nhân thưa với Chúa Giêsu Kitô, Đấng trao ban cho chúng ta tình yêu của Chúa Cha. Bí tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào dân thánh Chúa là Giáo Hội, trong đó đức tin được thông truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là đức tin của Mẹ Maria, của các Tông Đồ, của các Thánh Tử Đạo. Ánh sáng đức tin được chuyền tay nhau, mà trong chốc lát nữa chúng ta sẽ đốt lên từ nến phục sinh biểu tượng cho Chúa Kitô sống lại. Anh chị em là các gia đình hãy lấy ánh sáng đức tin từ Ngài để truyền lại cho con cái. Hãy dậy cho con cái anh chị em biết rằng không thể là kitô hữu ngoài Giáo Hội, không thể theo Chúa Kitô mà không có Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là mẹ và làm cho chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Chúa Giêsu.

Trong bí tích Rửa Tội chúng ta đưọc thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần. Từ “kitô” có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu trong cùng Thánh Thần trong đó Chúa Giêsu được dìm mình trong suốt cuộc đời dương thế của Người. Người là Đấng được xức dầu, được thánh hiến. Các người được rửa tội là các kitô hữu nghĩa là những người được thánh hiến, được xức dầu. Các cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái anh chị em trở thành các kitô hữu, thì hãy giúp chúng lớn lên “chìm ngập” trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là trong hơi ấm tình yêu của Thiên Chúa, trong ánh sáng Lời Ngài. Vì thế đừng quên cầu khẩn Chúa Thánh Thần thường xuyên. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa Cha trong Kinh Lậy Cha, nhưng ít khi cầu xin Chúa Thánh Thần. Nhưng cầu khẩn Chúa Thánh Thần rất quan trọng, để Người dậy chúng ta đưa gia đình, con cái tiến tới, để cho con cái lớn lên trong bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Chẳng hạn hãy cầu khẩn với lời cầu đơn sơ này: “Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổ đầy trái tim của tín hữu Chúa và đốt lên trong chúng ngọn lửa tình yêu của Chúa”. Khi cầu nguyện như vậy, anh chị em cảm thấy sự hiện diện hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dậy chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần và sống theo Thần Khí như Chúa Giêsu. Xin Mẹ đồng hành với con cái và gia đình anh chị em.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương. Trong bài huấn dụ ngài đã đào sâu ý nghĩa lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhấn mạnh rằng với biến cố này “thời gian của trời đóng kín đã kết thúc”, chúng ta đang sống trong thời gian của lòng thương xót. ĐTC nói:

Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa chịu phép rửa kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm miêu tả điều xảy ra trên bờ sông Giorđan. Trong khi Gioan Tây Giả ban phép rửa cho Chúa Giêsu, thì trời mở ra. Thánh sử Marcô nói: “Lập tức, khi ra khỏi nước Người thấy trời mở ra” (Mc 1,10). Trở lại trong trí chúng ta lời khẩn nài thê thảm của ngôn sứ Isaia: “Ôi phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is 63,19). Lời khẩn cầu này đã được nhận lời với biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. ĐTC giải thích như sau:

Như thế đã chấm dứt “thời gian “trời đóng” ám chỉ sự xa cách giữa Thiên Chúa và con người, hậu qủa của tội lỗi. Tội lỗi làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa và bẻ gẫy mối liên hệ giữa đất và trời, và như thế xác định sự bần cùng và thất bại của cuộc sống chúng ta. Trời mở ra ám chỉ rằng Thiên Chúa đã ban ơn thánh Người để trái đất cho hoa trái của nó “(x. Tv 85,13). Như thế trái đất trở thành nơi ở của Thiên Chúa giữa loài người, và từng người trong chúng ta có khả thể gặp gỡ Con Thiên Chúa, khi kinh nghiệm tất cả tình yêu và lòng thương xót vô biên của Người.

Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa hiện diện thực sự trong các Bí Tích, một cách đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp gỡ Người nơi gương mặt của các anh chị em chúng ta, cách riêng nơi người nghèo, người bệnh, người bị tù, người tỵ nạn: họ là thịt xác sống động của Chúa Kitô khổ đau và là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình.

ĐTC nói tiếp trong bài huấn dụ: Với biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trời không chỉ xé ra, mà Thiên Chúa lại nói và làm vang lên tiếng nói của Người: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Tiếng của Thiên Chúa Cha loan báo mầu nhiệm dấu ẩn nơi Con Người được vị Tiên Hô làm phép rửa. Đức Giêsu Con Thiên Chúa nhập thể, cũng là Ngôi Lời vĩnh viễn, mà Thiên Chúa Cha đã muốn nói với thế giới. Chỉ khi lắng nghe, đi theo và làm chứng cho Lời đó, chúng ta mới có thể làm cho kinh nghiệm đức tin của chúng ta phong phú tràn đầy, mà mầm giống đã được đặt để trong chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa Tội. Và rồi biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu: điều này cho phép Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, khai mào sứ mệnh của Người là cứu rỗi tất cả chúng ta. Chúa Thánh Thần, Đấng vĩ đại bị lãng quên trong lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta thường cầu xin Chúa Giêsu; chúng ta cầu xin Chúa Cha, đặc biệt trong “Kinh Lậy Cha”, nhưng không thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, có đúng thế không? Ngài là Đấng bị bỏ quên. Chúng ta cần xin sự trợ giúp của Người, sức mạnh của Người, linh hứng của Người. Chúa Thánh Thần là Đấng đã linh hoạt toàn cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu, cũng là Thần Khí hướng dẫn cuộc sống kitô, cuộc sống của con người nam nữ nói rằng họ là tín hữu kitô và muốn là tín hữu kitô. Đặt để dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần cuộc sống kitô và sứ mệnh, mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận được nhờ sức mạnh của bí tích Thánh Tẩy, có nghĩa là tìm lại lòng can đảm tông đồ cần thiết giúp thắng vượt các thích nghi trần tục dễ dãi. ĐTC khẳng định như sau:

Trái lại, một kitô hữu, một cộng đoàn “điếc” đối với tiếng nói của Chúa Thánh Thần. thúc đẩy đem Tin Mừng đến tận cùng bờ cõi trái đất và xã hội, cũng trở thành một kitô hữu và một cộng đoàn “câm” không nói và không rao giảng Tin Mừng. Nhưng xin anh chị em nhớ điều này: hãy thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, để Người trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh. linh hứng chúng ta và làm cho chúng ta tiến tới. Xin Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ Giáo Hội, đồng hành với tất cả chúng ta là những người đã được rửa tội; xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Tin Mừng, để như thế trao ban ý nghĩa tràn đầy cho cuộc sống chúng ta.

Tiếp đến ĐTC đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã chào tín hữu và các đoàn hành hương, đặc biệt là Hiệp hội giáo dân Lòng Chúa Thương Xót. Ngài nói ngày nay cần đến lòng thương xót biết bao, và thật là điều quan trọng anh chị em giáo dân đem nó đến với các môi trường xã hội khác nhau. Anh chị em cứ tiến lên. Chúng ta đang sống trong thời gian của lòng xót thương. Đây là thời gian của lòng thương xót.

Chiều ngài mai tôi sẽ lên đường tông du tại Sri Lanka và Philippines. Xin cám ơn lời cầu chúc của anh chị em như viết trên băng rôn kia, xin cám ơn rất nhiều! Tôi xin anh chị em vui lòng đồng hành với tôi bằng lời cầu nguyện, và tôi cũng xin các anh chị em người Sri Lanka và Philipines sống tại Roma đặc biệt cầu nguyện cho tôi trong chuyến viếng thăm này.

Xin chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật an lành, cả khi trời hơi xấu một chút. Hôm nay cũng là ngày để tươi vui nhớ tới bí tích Rửa Tội của từng người. Xin anh chị em nhớ lời tôi xin là tìm ngày rửa tội của mình, để mỗi người có thể nói tôi đã được rửa tội ngày đó. Ước chi hôm nay là niềm vui của bí tích Rửa Tội. Xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em ăn trưa ngon miệng và xin hẹn gặp lại.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi tiếp tục trợ giúp tái thiết Haiti

Đức Thánh Cha kêu gọi tiếp tục trợ giúp tái thiết Haiti

VATICAN. ĐTC cổ võ tiếp tục hỗ trợ công trình tái thiết Haiti 5 năm sau trận động đất và ngài kêu gọi thực thi công trình bác ái này trong tinh thần hiệp thông.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10-1-2015 dành cho 100 tham dự viên Hội nghị do chính ngài triệu tập tại Vatican, để kiểm điểm và đẩy mạnh việc trợ giúp tái thiết Haiti 5 năm sau động đất ngày 12-1 năm 2010.

Thiên tai này tại vùng thủ đô Port-au-Prince đã làm cho khoảng 230 ngàn người thiệt mạng, 300 ngàn người bị thương và 1 triệu 200 ngàn người không còn gia cư. Hiện nay vẫn còn 40 ngàn người phải tạm trú trong các trại. Phần lớn các hạ tầng cơ sở và hàng chục ngàn gia cư cùng với tất cả cac nhà thương tại Haiti bị động đất phá hủy.

Qua Hội nghị này, ĐTC muốn dư luận quốc tế và Giáo Hội tiếp tục chú ý đến Haiti vẫn còn chịu đau khổ vì những hậu quả của trận động đất dữ dội, đồng thời tái khẳng định sự gần gũi của Giáo Hội với nhân dân Haiti trong giai đoạn tái thiết này.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC nhiệt liệt cám ơn các GM và mọi thành phần của Giáo Hội tại Haiti cũng như các tổ chức từ thiện đã tích cực góp phần cứu trợ và giúp tái thiết nước này. Ngài ghi nhận đã có nhiều công trình được thực hiện nhưng vẫn còn rất nhiều điều phải làm, đồng thời kêu gọi đặt con người ở trung tâm mọi quan tâm. ĐTC nói: ”Không có sự tái thiết thực sự cho một đất nước nếu không tái thiết con người toàn diện. Điều này có nghĩa là phải làm sao để mỗi người dân tại Haiti có những gì cần thiết về phương diện vật chất, nhưng đồng thời có thể sống tự do, trách nhiệm và cuộc sống tâm linh, tôn giáo của mình”.

ĐTC cũng nhấn mạnh khía cạnh cơ bản là tình hiệp thông Giáo Hội. Ngài ca ngợi sự cộng tác tích cực của nhiều tổ chức Giáo Hội, từ giáo phận tới các dòng tu và các cơ quan bác ái, cũng như cá nhân các tín hữu.. Đây là dấu chỉ sức sinh động của Giáo Hội và lòng quảng đại của bao nhiêu người.. Tình hiệp thông chứng tỏ bác ái không phải chỉ là giúp đỡ ngừơi khác, nhưng còn là một chiều kích thấm nhiễm cuộc sống và phá vỡ mọi hàng rào của chủ nghĩa cá nhân ngăn cản chúng ta gặp gỡ nhau.. thật là điều mâu thuẫn nếu ta sống đức bác ái chia cách nhau! Vì thế, ĐTC nói:

”Tôi mời gọi anh chỉ em hãy tăng cường tất cả các phương pháp giúp cộng tác với nhau. Tình hiệp thông Giáo Hội cũng phản ánh qua sự cộng tác với chính quyền và các tổ chức quốc tế, để tất cả đều tìm kiến sự tiến bộ thực sự của nhân dân Haiti trong tinh thần công ích”.

Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của Giáo Hội địa phương và nói rằng: ”Giáo Hội tại Haiti ngày càng trở nên sinh động và phong phú hơn, để làm chứng cho Chúa Kitô và góp phần vào sự phát triển đất nước. Về điểm này, tôi muốn khích lệ các GM Haiti, các LM và mọi nhân viên mục vụ, với lòng nhiệt thành và tình hiệp thông huynh đệ, hãy khơi dậy nơi các tín hữu một sự tái quyết tâm trong việc huấn luyện Kitô và việc loan báo Tin Mừng vui tươi và thành quả. Chứng tá bác ái Tin Mừng được hữu hiệu khi nó được nâng đỡ nhờ quanhệ bản thân với Chúa Kitô trong kinh nguyện, trong sự lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích. Đây chính là ”sức mạnh” của Giáo Hội địa phương”.

Hội nghị

Hội nghị do ĐTC triệu tập diễn ra tại tòa nhà Thánh Piô 10 thuộc Vatican, với chủ đề ”Tình hiệp thông của Giáo Hội: tưởng niệm và hy vọng cho Haiti 5 năm sau trận động đất”.

Hội nghị do Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), và Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, tổ chức, với sự cộng tác của HĐGM Haiti. Tham dự Hội nghị có các đại diện của Tòa Thánh, của Giáo Hội tại Haiti và một số HĐGM khác (như Đức Cha Thomas Wenski, TGM Miami, Florida Hoa Kỳ), các tổ chức từ thiện Công Giáo, dòng tu và một số đại diện ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Sau lời chào mừng của ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM kiêm Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh, ĐHY Robert Sarah (Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích), nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, đã trình bày công cuộc trợ giúp tái thiết Haiti. Nhiều diễn giả khác cũng lên tiếng. Lúc 11 giờ rưỡi, các tham dự viên sẽ được ĐTC tiếp kiến.

Ban chiều, có phần trình bày chứng từ của những người đang hoạt động để tái thiết Haiti. (SD 10-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA TỘI

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI ĐÃ CHỊU PHÉP RỬA TỘI

1) Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ

Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.

2) Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời

Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.

3) Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.

Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.

4) Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.

Từ xưa trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.

Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.

Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn bí tích Rửa Tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1) Bạn có dễ dàng nhận lỗi không?

2) Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa?

3) Ơn phép Rửa Tội là gì? Bạn đã sống ơn phép Rửa Tội chưa?

4) Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa?

5) Chúa Giêsu chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Này Là Con Ta Yêu Dấu

Này Là Con Ta Yêu Dấu

Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.

Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.

Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?

Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chúa.

Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.

Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.

Chúa chịu phép rửa

Chúa chịu phép rửa

Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.

Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.

Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.

Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.

Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.

Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.

Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.

Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố báo Charlie Hebdo

Đức Thánh Cha lên án vụ khủng bố báo Charlie Hebdo

PARIS. ĐTC nghiêm khắc lên án vụ khủng bố chống tuần báo Charlie Hebdo ở Paris, thủ đô Pháp hôm 7-1-2015 làm cho 12 người chết và 11 người bị thương, trong đó có 4 nạn nhân bị nặng.

Tối ngày 7-1, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết: ”ĐTC lên án một cách quyết liệt nhất đối với vụ khủng bố đáng kinh tớm làm cho thành phố Paris trở nên thê lương với con số nhiều nạn nhân, gieo rắc chết chóc, làm cho toàn thể xã hội Pháp kinh hoàng, gây xáo trộn sâu xa cho những người yêu chuộng hòa bình, vượt ra ngoài các biên giới của Pháp.

”ĐTC cầu nguyện và chia sẻ đau khổ của những người bị thương và gia đình những người qua đời, đồng thời ngài khuyên tất cả hãy chống lại bằng mọi phương thế sự lan tràn oán ghét và mọi hình thức bạo lực, thể lý và tinh thần, hủy hoại sự sống con người, vi phạm nhân phẩm giá, làm thương tổn tận gốc lễ thiện ích căn bản là sự sống chung hòa bình giữa mọi người và các dân tộc, dù có những khác biệt về quốc tịch, tôn giáo và văn hóa”.

Thông cáo của cha Lombardi cũng nói rằng: ”Dù do động lực nào đi nữa, bạo lực giết người luôn luôn là điều đáng kinh tởm, và không bao giờ có thể biện minh được, sự sống và phẩm giá của tất cả mọi người cần được bảo đảm và bảo vệ một cách quyết liệt, cần phải loại bỏ mọi sự xúi dục oán thù, và cổ võ sự tôn trọng người khác. ĐTC bày tỏ sự gần gũi, liên đới tinh thần và hỗ trợ tất cả những người, theo các trách nhiệm khác nhau, tiếp tục liên lỷ dấn thân cho hòa bình, công lý và công pháp, để chữa trị sâu xa những nguồn mạch và nguyên nhân gây ra oán thù, trong thời giảm đau thương và thê thảm hiện nay, tại Pháp cũng như mọi nơi khác trên thế giới bị căng thẳng và bạo lực”.

Trong thánh lễ lúc 7 giờ sáng ngày 8-1-2014, tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Marta, ĐTC đã cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân vụ khủng bố ở Paris. Vào đầu thánh lễ, ngài nói: ”Vụ khủng bố hôm qua tại Paris làm cho chúng ta nghĩ đến bao nhiêu sự tàn ác của con người, bao nhiêu thứ khủng bố riêng rẽ hay khủng bố của Nhà Nước. Con người có khả năng tàn ác như thế. Trong thánh lễ này chúng hãy cầu nguyện cho cac nạn nhân sự tàn ác này, Chúng ta cũng cầu cho kẻ tàn ác, xin Chúa hoán cải tâm hồn họ”.

Tại Paris, trong thông cáo công bố vài giờ sau vụ khủng bố, HĐGM Pháp bày tỏ sự xúc động và kinh hoàng trước vụ khủng bố này: ”Giáo Hội Công Giáo Pháp cũng nghĩ đến các gia đình và người thân của các nạn nhân đứng trước sự kinh hoàng và không thể hiểu nổi. Giáo Hội cũng chia buồn với ban quản nhiệm và các ký giả và nhân viên của báo Charlie Hebdo.”

Các GM Pháp khẳng định rằng ”Một sự khủng bố như vậy thật là khôn tả. Không gì có thể biện minh cho bạo lực như thế. Nó làm thương tổn đặc biệt là tự do ngôn luận là yếu tố cơ bản của xã hội chúng ta.. Xã hội này gồm những khác biệt đủ loại, và không ngừng phải làm việc để kiến tạo hòa bình và tình huynh đệ. Sự dã man trong vụ thảm sát này làm thương tổn cho tất cả chúng ta.. Nhưng cả trong tình trạng này, khi sự thịnh nộ của thể xâm chiếm chúng ta, chúng ta càng phải gia tăng tấp đôi sự chú ý đến tình huynh đệ trở nên mong manh và đến nền hòa bình ngày càng phải củng cố”.

Liên hiệp các Giáo Hội Tin Lành Pháp cũng lên tiếng mạnh mẽ lên án vụ tấn công: ”Nhân danh Tin Lành giáo tại Pháp, chúng tôi bày tỏ sự phẫn nộ và lên án hành động đáng kinh tởm, xúc phạm đến tâm hồn và lương tâm chúng ta”.

Đêm ngày 7-1-2015, các giới chức an ninh Pháp đã phổ biến hình hai anh em người Pháp gốc Algérie 33 và 34 tuổi, bị tố là thủ phạm vụ khủng bố này và đang hết sức truy tầm.

Tuần báo Charlie Hebdo đã nhiều lần bị những thành phần cực đoan chiếu cố sau những lần đăng tải những hí họa mà họ cho là xúc phạm đến ngôn sứ Mohammed của Hồi giáo. Chẳng hạn hồi năm 2011, tòa soạn báo này ở Paris đã bị ném bom xăng sau khi đăng hí họa ngôn sứ Mohammed. (SD 8-1-2015)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Cần phải biết lắng nghe, trọng kính và trợ giúp các bà mẹ nhiều hơn

Cần phải biết lắng nghe, trọng kính và trợ giúp các bà mẹ nhiều hơn

Cần phải biết lắng nghe, trọng kính và trợ giúp các bà mẹ nhiều hơn trong sứ mệnh trao ban sự sống và dưỡng dục con cái trong gia đình và ngoãi xã hội. Một xã hội không có các bà mẹ là một xã hội vô nhân, bởi vì các bà mẹ luôn luôn biết làm chứng cho cho sự dịu hiền, lòng tận tụy và sức mạnh luân lý, cả trong những lúc tệ hại nhất. Các bà mẹ rất thân mến, xin cám ơn, xin cám vì những gì các chị em là trong gia đình và vì những gì các chị em trao ban cho Giáo Hội và cho thế giới.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 8,000 tín hữu tham dự buổi tiếp kiến chung lần đầu tiên năm 2015 trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 7-1-2015.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta tiếp tục các bài giáo lý về Giáo Hội và sẽ suy tư về Giáo Hội là mẹ, Mẹ Thánh Giáo Hội chúng ta. Trong các ngày này phụng vụ Giáo Hội đặt để trước mắt chúng ta hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Chúa Giêsu. Ngày đầu năm là lễ Mẹ Thiên Chúa, theo sau là lễ Hiển Linh, kỷ niệm biến cố các Hiền Sĩ viếng thăm Chúa Cứu Thế. Thánh sử Mátthêu viết: “Vào nhà, họ trông thấy Con Trẻ với Maria Mẹ Người, họ phủ phục và thờ lậy Người” Mt 2,11). Đó là Mẹ sau khi đã sinh ra Người giới thiệu Người với thế giới. Mẹ ban Chúa Giêsu cho chúng ta, Mẹ chỉ Chúa Giêsu cho chúng ta, Mẹ làm cho chúng ta trông thấy Chúa Giêsu.

Tiếp tục bài giáo lý về gia đình Đức Thánh Cha nói:

Trong gia đình có người mẹ. Mỗi một người đều mắc nợ bà mẹ sự sống và hầu như luôn luôn mắc nợ bà rất nhiều trong cuộc đời tiếp theo, trong việc đào tạo nhân bản và tinh thần của mình. Tuy rất được tán tụng trên bình diện biểu tượng – biết bao nhiều bài thơ, biết bao nhiều điều hay đẹp nói về người mẹ -, nhưng bà mẹ ít được lắng nghe và ít được trợ giúp trong cuộc sống thường ngày, ít được kính nể trong vai trò trung tâm của bà trong xã hội. Trái lại, thường khi người ta lợi dụng sự sẵn sàng của các bà mẹ hy sinh chính mình cho con cái để “tiết kiệm” các chi phí xã hội.

Cũng xảy ra là trong cộng đoàn kitô bà mẹ không luôn luôn được chú ý đúng mức cũng như ít được lắng nghe. Thế nhưng trong trung tâm cuộc sống của Giáo Hội có Mẹ Chúa Giêsu. Có lẽ các bà mẹ, những người luôn luôn sẵn sàng đối với biết bao hy sinh cho con cái mình và không hiếm khi hy sinh cho những người khác nữa, cần phải được lắng nghe nhiều hơn. Cần phải hiểu biết nhiều hơn cuộc chiến đấu thường ngày của các bà để được hữu hiệu với công việc, và chú ý yêu thương trong gia đình. Cần phải hiểu biết nhiều hơn các bà khát vọng cái gì để diễn tả các hoa trái tốt đẹp nhất và đích thật nhất sự thoát ly của họ. Một bà mẹ có con luôn luôn có các vấn đề, luôn luôn có việc phải làm. Tôi nhớ trong nhà tôi chúng tôi có năm anh em, đứa thì làm cái này, đứa thì làm cái khác, và bà mẹ tội nghiệp đi từ đứa con này sang đứa con khác, nhưng bà sung sướng. Bà đã cho chúng tôi biết bao.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Các bà mẹ là thuốc giải độc mạnh nhất chống lại khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa ích kỷ. Cá nhân “individuo” có nghiã là không thể chia ra được. Trái lại các bà mẹ “tự chia mình ra”, bắt đầu từ khi họ tiếp nhận một đứa con để cho nó vào đời và làm cho nó lớn lên. Chính các bà mẹ thù ghét chiến tranh giết chết con của các bà. Biết bao nhiêu lần tôi đã nghĩ tới các bà mẹ, khi các bà nhận được thư: “Tôi xin nói cho bà biết rằng con bà đã ngã gục khi bảo vệ quê hương…” Các bà mẹ tội nghiệp! Một bà mẹ đau khổ biết bao. Chính các bà mẹ làm chứng cho vẻ đẹp của sự sống.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Arnulfo Romero đã nói rằng các bà mẹ sống một “cuộc tử đạo hiền mẫu”. Trong bài giảng đám táng một linh mục bị các lữ đoàn ám sát chết ngài làm vang vọng lên các lời của Công Đồng Chung Vaticăng II và nói: “Tất cả chúng ta phải sẵn sàng chết cho đức tin, cả khi nếu Chúa không ban cho chúng ta cái vinh dự này đi nữa… Trao ban sự sống không chỉ có nghĩa là bị giết; trao ban sự sống, có tinh thần tử đạo là cho đi trong bổn phận, trong thinh lặng, trong lời cầu nguyện, trong việc liêm chính chu toàn bổn phận; trong sự thinh lặng của cuộc sống thường ngày; cho đi cuộc sống từng chút một. Vâng, như một bà mẹ không sợ hãi, với sự đơn sơ của cuộc tử đạo hiền mẫu, thụ thai một người con trong cung lòng mình, cho con chào đời, cho con bú sữa, làm cho nó lớn lên và chăm nom nó với lòng trìu mến. Đó là trao ban sự sống. Đó là tử đạo”. Vâng, là mẹ không chỉ có nghĩa là cho một đứa con chào đời, nhưng cũng có nghĩa là một lựa chọn sự sống, lựa chọn trao ban sự sống. Một bà mẹ lựa chọn cái gì, đâu là sự lựa chọn của một bà mẹ? Lựa chọn cuộc sống của bà mẹ là lựa chọn trao ban sự sống. Và đó là điều cao cả, đó là điều xinh đẹp.

Đức Thánh Cha khẳng thêm định như sau:

Một xã hội không có các bà mẹ sẽ là một xã hội vô nhân, bởi vì các bà mẹ luôn luôn biết làm chứng cho sự hiền dịu, lòng tận tụy và sức mạnh luân lý, cả trong những lúc khó khăn nhất. Các bà mẹ thường thông truyền cả ý thức thực hành đạo sâu xa nữa: trong các lời kinh đầu tiên, trong các cử chỉ đầu tiên của lòng đạo đức mà một trẻ em học được, đã khắc ghi giá trị của niềm tin nơi sự sống của một con người. Đó là một sứ điệp mà các bà mẹ có đức tin biết truyền lại mà không giải thích nhiều: các lời giải thích sẽ đến sau, nhưng mầm giống đức tin ở trong các lúc đầu tiên rất qúy báu đó. Không có các bà mẹ, thì sẽ không chỉ có các tín hữu mới, mà đức tin cũng sẽ mất đi phần lớn hơi ấm đơn sơ và sâu xa của nó nữa. Và Giáo Hội là mẹ, là mẹ chúng ta với tất cả những điều này. Chúng ta không mồ côi, chúng ta có một bà mẹ. Đức Bà, mẹ Giáo Hội và là mẹ chúng ta. Chúng ta không mồ côi, chúng ta là con cái của Giáo Hội, chúng ta là con cái của Đức Bà và chúng ta là con của các bà mẹ chúng ta.

Các bà mẹ rất thân mến, xin cám ơn, xin cám ơn về những gì các chị em là trong gia đình, về những gì các chị em làm cho Giáo Hội và cho thế giới.

Còn mẹ, hỡi Giáo Hội yêu dấu, xin cám ơn, xin cám ơn là mẹ. Và Mẹ, hỡi Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, xin cám ơn vì đã cho chúng con trông thấy Chúa Giêsu. Và xin cám ơn tất cả các bà mẹ hiện diện nơi đây: chúng ta hãy chào các bà bằng một tràng pháo tay!

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương đến từ các nước bắc Mỹ và Âu châu, cũng như tín hữu đến từ các nước Indonesia, Australia, Mehicô, Argentina.

Ngài đặc biệt chào một phái đoàn các imam pháp dấn thân trong cuộc đối thoại kitô-hồi giáo, cũng như nhiều giới truyền thông Pháp, và cầu chúc tất cả can đảm tiếp tục dấn thân phục vụ hòa bình, tình huynh đệ và chân lý. Đức Thánh Cha cám ơn các ca đoàn hát tiếng Anh đã trình tấu nhiều bài ca giáng sinh. Ngài cũng chào phái đoàn những người Ba Lan sống sót trong trại tập trung Auschwitz được giải phóng cách đây 60 năm.

Có một số nghệ sĩ trẻ của một đoàn xiệc đã trình diễn giúp vui. Đức Thánh Cha đã cám ơn các nghệ sĩ và ca ngợi vẻ đẹp của nghệ thuật, cũng như các tài khéo của con người trong việc chung xây một thế giới nhân bản, huynh đệ, liên đới và tươi vui hơn, trong đó mỗi người đều có vai trò và thế đứng quan trọng cần thiết của mình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio